Người của giang hồ 1
Bạn đọc thân mến!
Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu có bạn đọc nào đó đón nhận cuốn
sách này - không như mong muốn của tác giả - với một thái độ thờ ơ, thậm chí là
xa lánh. Cũng phải thôi, đa phần độc giả đều là những người lương thiện - như
tôi, như bạn - khó có thể bắt họ phải cảm thấy “say mê” khi mà suốt hàng trăm
trang sách, những khuôn mặt hiện ra đều là biểu tượng của cái ác, sự điên rồ,
liều lĩnh, những hành động được mô tả đều là tội lỗi, gắn liền với những chết
chóc, thù hằn và được thể hiện bằng những cuộc tranh giành, đâm chém, thanh trừng
lẫn nhau một cách tàn bạo. Tuy nhiên, đó là điều không thể tránh khỏi chứ hoàn
toàn không phải là mục đích của tác giả khi đặt bút viết cuốn sách này.
Loài người, trong đó có xã hội mà chúng ta đang sống, tiến dần
về phía tương lai văn minh và phát triển với niềm tin “nhân chi sơ tính bản thiện”
thì đồng thời loài người cũng phải oằn lưng gánh trĩu và luôn phập phù, cảnh
giác với dục vọng “nhân chi sơ tính bản ác”, cố nhiên, cũng nảy sinh trong một
bộ phận khác của đời sống xã hội. Cho dù chúng ta ghê sợ, xa lánh và luôn tìm
cách chống lại thì cũng phải thừa nhận: cái ác luôn tồn tại, loại trừ hay chối
bỏ nó hoàn toàn chỉ là một ước mơ đẹp đẽ nhưng hết sức ngây thơ. Để phấn đấu
cho điều đó, không còn cách nào khác, việc đầu tiên là phải nhận diện được cái
ác, hiểu về nó một cách tường tận và không ảo tưởng.
Thoạt kỳ thủy, hai tiếng “giang hồ” được dùng để định danh một
lớp người phiêu bạt, lấy việc hành hiệp trượng nghĩa, giúp kẻ yếu người cô
giành lại sự công bằng làm mục đích; lấy phô diễn tài năng, hơn thua cao thấp -
chủ yếu về sức mạnh võ nghệ - làm niềm vui... Với ý nghĩa đó, “giang hồ” được
nhìn nhận như một lối sống, một loại tính cách, đẹp và mã thượng. Tuy nhiên, cái
đẹp ấy chỉ còn tồn tại trong sách kiếm hiệp đa phần là hư cấu. Theo thời gian,
hai tiếng “giang hồ” đã biến chất, tha hóa hẳn. Đến nay, nó chỉ còn lại như một
khái niệm về tội lỗi và cái ác, “giang hồ” được hiểu như từ định danh về một thế
giới gồm toàn những kẻ sống ngoài vòng pháp luật, kết bè kết đảng và thủ lợi bằng
con đường phạm pháp.
Nhưng, việc phân tích các khái niệm không phải là trách nhiệm
của chúng tôi. Đó là công việc của các nhà xã hội học. Với cuốn sách này, chúng
tôi chỉ muốn khắc họa lại một cách chính xác những khuôn mặt cộm cán nhất của
giang hồ miền Nam trong thế kỷ XX. Để bạn đọc tiện theo dõi và nhận diện rõ nét
quá trình tha hóa của thế giới giang hồ, những khuôn mặt trong sách được sắp đặt
theo đúng trình tự thời gian mà họ sống. Bắt đầu từ Sơn Vương Trương Văn Thoại
từ những năm 1930, “người của giang hồ” dù sao vẫn còn giữ được những nét mã
thượng, mục đích giang hồ còn đôi chút hướng thượng và trọng nghĩa, ít nhiều vẫn
phảng phất đôi nét Từ Hải, Robin Hood - người của tự do. Trượt dài đến “thời
hai tay ba đao” của những năm 60-70, “giang hồ” đã hoàn toàn biến chất, trở
thành một thế giới ngự trị đầy rẫy những cái ác, ác từ suy nghĩ đến hành động,
với những Đại Cathay, Sơn Đảo, Lâm Chín ngón, Điền Khắc Kim, Năm Vĩnh v.v... Từ
xuất phát điểm là bạn của dân nghèo, giang hồ đã trở thành tai họa, nỗi ám ảnh
đầy đe dọa của lương dân. Yếu tố vụ lợi đã làm tha hóa toàn bộ bản chất của một
lớp người. Đến những Năm Cam, Hải “bánh”... cuối thế kỷ XX thì giang hồ đích thị
chỉ còn lại những bộ mặt quỷ dữ. Đó là tập hợp những tên tội phạm, những kẻ đâm
thuê chém mướn. Dù vậy, giới giang hồ vẫn có những đặc trưng riêng, luật lệ
riêng. Khi nói đến giang hồ là nói đến những tên tội phạm - điều đó đúng, nhưng
một tên cướp giật, một tên tội phạm móc túi, trộm vặt mà gọi là giang hồ thì chắc
chắn là sai.
Cho dù qua mỗi thời kỳ, giới giang hồ mang một đặc điểm hoàn
toàn khác nhau thì thế giới ấy vẫn chưa bao giờ biến mất hay đứt đoạn. Sơn Đảo
của thời hỗn loạn thập niên 60-70 từng gặp gỡ, bái phục và là một bản sao không
hoàn chỉnh của Sơn Vương - rất ngạo thế khinh đời thập niên 1930; Năm Cam, Hải
“bánh” hung thần cuối thế kỷ chỉ là một thứ “âm binh mất ma” học nghề
từ những dân chơi trước giải phóng như Đại Cathay, Sơn Đảo và từng cạnh tranh với
những đàn em của tên hung thần lề phố này như Huỳnh Tỳ, Lâm Chín ngón... Theo
nghĩa đó, cái ác là một khối u ác tính di căn trong đời sống xã hội.
Nếu đầy đủ hơn khi nói về thế giới giang hồ, lẽ ra cuốn sách
của chúng tôi phải thêm vào tối thiểu ba nhân vật nữa, đó là “cọp rừng Sác” Lê
Văn Viễn những năm 40-60; là “Vua hắc đạo” Tín Mã Nàm những năm 60-70 và Năm
Cam, trùm “xã hội đen” cuối thế kỷ.
Bảy Viễn không chỉ là một giang hồ nổi tiếng, ông ta còn là một
nhân vật khuấy nên một phần lịch sử, từng tham gia kháng chiến chống Pháp rồi
trở mặt đầu Tây, trở thành Thiếu tướng trong quân đội Liên hiệp Pháp, được Bảo
Đại giao trách nhiệm cai quản an ninh toàn bộ khu vực Sài Gòn - Gia Định. Đã có
không ít cuốn sách viết về nhân vật có tính cách phức tạp và cuộc đời sôi động,
đầy bi kịch này. Dưới ngòi bút của nhà văn Nguyên Hùng, Bảy Viễn đã hai lần trở
thành nhân vật trung tâm và là chất liệu để tác giả dựng nên hai cuốn sách dày
cộm là “Người Bình Xuyên” và “Bảy Viễn - Thủ lĩnh Bình Xuyên”. Nếu không gọi là
toàn bộ thì dưới ngòi bút chi tiết của nhà văn Nguyên Hùng, chân dung Lê Văn Viễn
cũng đã hiện ra quá đầy đủ. Có viết lại, tư liệu của chúng tôi cũng không thể
hơn, chỉ tổ mang tiếng “múa rìu qua mắt thợ”, trong khi xào nấu lại tư liệu lại
là điều mà lòng tự trọng của người cầm bút không cho phép.
Ngược lại, với Tín Mã Nàm, trở ngại mà chúng tôi vấp phải là
chưa thể thu thập đủ thông tin. Tên thật là Trần Hà Tư, đẳng cấp giang hồ là một
Thầu Dậu (đầu gà), nổi tiếng với biệt danh Tín Mã Nàm (con ngựa điên), nhân vật
này đã làm mưa làm gió suốt hai thập niên 60-70, thống lĩnh toàn bộ giới tội phạm
người Hoa khu vực Chợ Lớn. Có nhiều thông tin cho rằng Tín Mã Nàm chính là kẻ
giữ vai trò Hồng Trượng (tức cây gậy đỏ), kẻ đứng thứ hai, vai vế chỉ thua
Hoàng Long (Rồng vàng), nắm toàn quyền chỉ huy an ninh trong tổ chức tội phạm
Tam Hoàng Hội chi nhánh Sài Gòn - Chợ Lớn, quyền lực đen và mức độ tàn bạo của
tên giang hồ này lớn hơn rất nhiều so với tầm hình dung của một người lương thiện.
Thế nhưng dù đã gặp được một số người thân quen của hắn thì với đặc tính kín
đáo cố hữu của người Hoa, chúng tôi vẫn không thể thu thập được gì chính xác
hơn ngoài những câu chuyện truyền miệng đậm chất giai thoại, khó có thể tùy tiện
gọi đó là sự thật. Vì thế, dù rất tiếc, một chân dung đầy đủ về nhân vật Tín Mã
Nàm vẫn cứ là món nợ mà chúng tôi đành khất lại cùng bạn đọc.
Nhân vật thứ ba, Năm Cam, nếu xét về ảnh hưởng xấu thì thừa đủ
để có thể cho vào sách. Tư liệu về y lại càng không thiếu khi đã có hàng ngàn
trang báo phô bày trong suốt 2 năm đầu của thế kỷ XXI. Thế nhưng, trong mắt
chúng tôi, Năm Cam dù là một tên tội phạm sừng sỏ, dù đầy tội ác nhưng vẫn
không đáng được gọi là giang hồ. Điều duy nhất mà Năm Cam làm được, hơn đứt nhiều
tên tội phạm khác, là đã mua chuộc được một bộ phận thoái hóa trong bộ máy công
quyền ở nhiều cấp. Với thế mạnh này, từ một tên gá bạc nhãi ranh, Năm Cam đã
ngoi dần lên trên từng nấc thang của quyền lực tội ác. Thế nhưng, trước sau Năm
Cam vẫn bị giới giang hồ xem như một trùm xã hội đen sừng sỏ chứ không hề là một
giang hồ có số. Lý do đơn giản, trên con đường ngoi lên, Năm Cam thiếu hẳn ba
tiêu chuẩn: bản lĩnh cá nhân, cách chơi đúng luật (đen) và ân uy với đàn em...
Xét về cấu trúc, trong giang hồ chỉ có quan hệ đàn anh - đàn em (được phân ngôi
tùy theo đẳng cấp, trình độ, bản lĩnh chứ không theo tuổi tác), tuyệt nhiên
không có quan hệ chủ - tớ. Với tham vọng biến thành “vua”, Năm Cam đã biến tất
cả những kẻ dưới trướng thành đầy tớ khiến chúng chỉ sợ mà phục tùng chứ không
nể trọng. Vì thế, Năm Cam chỉ đáng được xem như một tên trùm tội phạm kiểu xã hội
đen mà không đáng được coi là “người của giang hồ”.
Ngoài ra, còn một loạt “tên tuổi lớn” khác của giang hồ mà
chúng tôi chưa có dịp đề cập, hầu hết đều xuất thân từ Trung Hoa đại lục. Họ là
những người có công lớn trong tiến trình hoằng duơng võ học có nguồn gốc Thiếu
Lâm vào Việt Nam. Đó là Lương Vũ Tế, tức Nguyên Tế Công Đại sư, ông tổ của Vịnh
Xuân quyền Việt Nam; là Trương Tòng Phú, hậu duệ đích tôn 16 đời của Thái cực
Võ Đang Trương Tam Phong, Chưởng môn phái Võ Đang tại Chợ Lớn; là Đoàn Tâm ảnh
vốn là một áp tiêu lừng danh trên đoạn đường từ núi Côn Luân (Trung Quốc) đến Hồng
Kông, sau qua Việt Nam “phong kiếm qui ẩn” trở thành Đại lão võ sư Đoàn Tâm ảnh,
Chưởng môn phái Thiếu Lâm Côn Luân (Thủ Đức); là Hạng Văn Giai, nguyên là thiếu
tướng, Quân đoàn phó Quân đoàn Vân Nam ly khai của Quốc dân Đảng sau biến cố
1.10.1949, theo nhiều người trước ông từng là Biệt đội trưởng Biệt đội ám sát của
Tưởng Giới Thạch, một trong những “tác giả kịch bản” của vụ ám sát Uông Tinh Vệ
tại Hà Nội nổi tiếng thập niên 1930...
Cuộc đời họ đầy sóng gió và bi kịch hẳn sẽ có sức hấp dẫn lớn
đối với bạn đọc. Song, ghép chung chân dung họ với chân dung những tên “giang hồ
tội phạm” tầm thường e là điều bất nhã và bất kính. Chúng tôi đành phải gác lại
và hẹn bạn đọc ở một cuốn sách khác viết riêng về họ, cuốn Giang hồ võ lâm Việt
Nam mà chúng tôi đang thai nghén.
Theo nhận xét của chúng tôi, từ trước đến nay đã có không ít
tác giả viết về giang hồ. Nhưng, do mục đích tiếp cận khác nhau nên các tác giả
này đều chưa phản ánh đúng chân dung, bản chất và số phận của những kẻ được coi
là “người của giang hồ” mà họ đề cập. Trước năm 1975 đã có hàng loạt nhà văn, đứng
đầu là nhà văn nổi tiếng Duyên Anh đã cho ra đời hàng loạt cuốn tiểu thuyết thuộc
loại “sách xúi con nít đập lộn”. Nhân vật chính của những cuốn sách này thường
là những tên bụi đời, du đãng cộm cán sống ngoài lề phố và bất chấp luật lệ. Vì
mục đích “vị nghệ thuật”, các nhà văn thế hệ này đã đẩy khoảng cách tâm lý đi
quá xa, huyền thoại hóa các nhân vật giang hồ, xem tội lỗi, các trận thư hùng của
chúng như những chiến tích. Chịu ảnh hưởng của văn học Phương Tây, kiểu Robin
Hood của A. Dumas hay “Thân phận con người” của A.Malraux, những tác giả này đã
quá say sưa đề cao chất anh hùng cá nhân của những tên du đãng mà quên mất bản
chất đích thực, chúng đích thị là những tên tội phạm. Trong số đó, cuốn Điệu ru
nước mắt của Duyên Anh tiêu biểu hơn cả, nhất là khi nó được chuyển thể thành
phim Vết thù trên lưng ngựa hoang với bản nhạc nền cùng tên nổi tiếng một thời.
Sau Duyên Anh, một loạt ký giả miền Nam trước giải phóng vẫn
mang nặng khuynh hướng huyền thoại hóa, tuy khai thác người thật, việc thật của
một lớp giang hồ như Đại Cathay, Lâm Chín ngón, Sơn Đảo... song chủ yếu cũng chỉ
khai thác kịch tính của những phi vụ, đẩy các hành động tội phạm của chúng
thành một hình thức đối lập, biến những tên tội phạm thành lớp “dân chơi” và
“đánh số” chúng theo chuẩn giang hồ chứ không theo những nấc thang đạo đức của
xã hội. Chính chủ nghĩa hiện sinh giai đoạn thoái trào du nhập vào miền Nam,
chính sự hỗn loạn của xã hội tiêu thụ sống gấp và chết gấp và ý thức phản kháng
thời loạn đã tạo nên khuynh hướng này. Bản chất giang hồ có bị (hay được) hiểu
sai thì cũng không có gì khó hiểu khi chính các ký giả - tác giả với nhân vật
giang hồ của họ đều là bạn bè, quen biết nhau và học đòi nhau. Giữa người nghệ
sĩ bế tắc và tên “dân chơi” đập phá ít nhiều cũng có một điểm chung, đó là ý thức
bứt phá khỏi các ràng buộc, các định chế của một thứ luật pháp mà họ không tôn
trọng; hoặc đơn giản hơn, một ham muốn tự định vị mình. Bằng cách đó, giang hồ
được vẽ nên như một thế giới hỗn loạn trong một xã hội hỗn loạn của một thời đại
cũng hỗn loạn nốt.
Sau năm 1975, suốt một thời gian dài, đề tài giang hồ, du
đãng... hầu như bị quên lãng hoàn toàn trong văn chương, sách vở. May ra, độc
giả chỉ còn biết đến các nhân vật của thế giới này trong những bài báo - một thể
loại mà tự thân nó, khoảng cách tâm lý đã bị kéo lại quá gần, gần đến mức thiển
cận. Nhân vật giang hồ được đề cập hầu như chỉ còn trong phạm vi những thông
tin sơ khai của phép cân đối giữa tội lỗi và hình phạt. Không số phận, không
tính cách, không được đặt trong phức hợp những bi kịch của cuộc sống, nhân vật
giang hồ bị đánh đồng triệt để với hình ảnh tội phạm mà không ai thắc mắc gì đến
điểm đặc thù của nó. Thậm chí đã có khi, trên mặt báo, người ta còn né tránh gọi
tên những từ định tính như giang hồ, mafia, vì e ngại cách gọi đó sẽ... bôi đen
xã hội.
Nói tóm lại, vì nhiều lý do khác nhau vẫn còn thiếu hẳn một
cái nhìn đầy đủ, khách quan về một thế giới, một tập hợp người đã hiển nhiên tồn
tại trong đời sống, nhất là đời sống ở các đô thị lớn. Vậy thì giang hồ là gì?
Lại một lần nữa, chúng tôi vẫn không muốn “lấn sân” phần việc
của các nhà xã hội học. Chỉ xin trả lời vắn tắt: giang hồ là một loại tội phạm
có tổ chức, chủ yếu hình thành qua việc xác định “lãnh địa” riêng để hoạt động
tội phạm - một hình thức sơ khai của kiểu tội phạm mafia. Nôm na, tất cả mọi
người sinh ra đều muốn vượt lên trên chính bản thân mình, luôn khao khát định vị
mình trong cuộc đời. Nếu được giáo dục, học hành đầy đủ ở trường học, người ta
sẽ trở thành những nhà chuyên môn có ích. Ngược lại, nếu “tốt nghiệp” trường đời,
nhiều khả năng người ta sẽ hóa... giang hồ. Như vậy, giang hồ là một thứ “tay
nghề cao”, những “nhà chuyên môn” của xã hội lề phố, đời sống lề phố. Nhìn ở một
góc độ khác, khát vọng sống, mơ ước vươn lên là những phẩm chất hình thành nên
khuynh hướng dấn thân trong mỗi cá nhân. Năng lực hành vi càng lớn, khát vọng dấn
thân càng lớn. Đây là một thứ năng lực nội tại, chỉ tăng hay giảm chứ không lệ
thuộc hoàn toàn vào tri thức được giáo dục. Khi khát vọng dấn thân tích trữ đủ
lượng và bùng nổ thì mẫu người anh hùng cá nhân xuất hiện. Nếu được định hướng
đúng, hướng thượng và hướng thiện, đủ chất tri thức, con người anh hùng cá nhân
sẽ thăng hoa, thời loạn có thể trở thành nhà cách mạng, thời bình có thể trở
thành khoa học gia, nghệ sĩ v.v... Dù không được, không muốn hay không có điều
kiện học hành thì trong những cuộc đời tận đáy xã hội, máu anh hùng cá nhân vẫn
cứ tồn tại. Được gắn với mục đích lệch lạc, tham vọng ngoi lên lệch lạc, tất yếu
nó sẽ biến con người thành một thứ hư vô chủ nghĩa, thiên hẳn về đập phá, chà đạp
lên các giá trị chuẩn mực về đạo đức, tinh thần và tác oai tác quái đối với đời
sống xã hội. ở mức độ nhẹ hay phạm vi ảnh hưởng hẹp, con người của chủ nghĩa hư
vô sẽ biến thành tầng lớp giang hồ, tìm cách thủ lợi bằng các hành vi chống lại
luật pháp. Nếu gặp thời loạn, được hà hơi tiếp sức bằng chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, bằng đức tin tôn giáo cực đoan, tất yếu chúng sẽ liên kết với nhau để trở
thành những tập đoàn giang hồ quốc tế - cha đẻ của chủ nghĩa khủng bố, một vấn
nạn đầy đe dọa nguy hiểm mang tính toàn cầu trong thế kỷ XXI.
Cần nói rõ như thế để thấy rằng, giang hồ là một tập hợp tội
phạm nguy hiểm, có tổ chức chứ không phải hỗn hợp những hành động tội phạm manh
động. Do đó, để tiêu diệt nó, không đơn giản chỉ là việc “chặt ngọn” với hình
phạt thật nặng cho những kẻ phạm tội. Ngược lại, cần quan tâm giải quyết vấn nạn
giang hồ ngay từ gốc, không để mầm mống tội phạm có điều kiện sinh sôi nảy nở rồi
sau đó mới áp dụng hình phạt.
Cốt lõi hình thành, nuôi sống đội ngũ giang hồ, theo chúng
tôi, là hai vấn đề có quan hệ hữu cơ: nạn cho vay lãi nặng và việc phân chia
lãnh địa để hoạt động phạm tội. Con người, cho dù là người nghèo thì cũng không
tránh khỏi những lúc phải đối diện với những biến cố như thiên tai, đau ốm, ma
chay... nghĩa là ngay tức thời cần phải có một khoản tiền lớn để giải quyết. Đối
với người dân lao động nghèo, đó là một vấn nạn. Tiền mặt: không có, nhà cửa vật
dụng thế chấp để vay ngân hàng: không có, tín chấp: không thể. Đó chính là cơ hội
tốt để các giác hút kinh khủng của đám cho vay lãi nặng thò ra. Bao nhiêu tiền
cũng có, tất nhiên là với lãi suất cắt cổ. Lãi mẹ đẻ lãi con, những vòi bạch tuộc
sẽ hút kiệt tất cả những gì người nghèo tích cóp và trói đời họ trong công nợ.
Không trả ư: đã có “luật giang hồ”! Nguồn lợi nhuận này là những con số khổng lồ,
đủ để nuôi sống cái gọi là giới giang hồ. Nó lớn đến mức việc tranh giành lãnh
địa nhằm bảo kê, cho vay lãi nặng thường biến thành những cuộc “chiến tranh lề
phố”. Dĩ nhiên, để chuẩn bị cho điều đó thì tất yếu, các băng đảng tội phạm phải
hình thành. Đó là lý do vì sao, giới giang hồ quần tụ nhiều ở các khu vực bến cảng,
bến tàu xe, các khu chợ đầu mối ở các đô thị lớn - những nơi tập trung đông đúc
tầng lớp vô sản, dân lao động nghèo, làm thuê là nghề nghiệp chính. Đó cũng là
lý do vì sao trong cuốn sách này xuất hiện thêm hai nhân vật Lý Long Thân (Đường
đời trong lòng tay) và Lâm Huê Hồ (Huyền thoại về một gánh ve chai). Cả hai
nhân vật này đều không đụng tay đến “dao thớt”, song với nghề cho vay nặng lãi,
họ đích thị là những “ông trùm” của giới giang hồ. Đặc biệt là nhân vật Lý Long
Thân, toàn bộ quá trình kinh doanh, làm giàu và ngoi lên đều quan hệ mật thiết
với hoạt động của các băng đảng tội phạm thuộc giới giang hồ, theo một cách thức
sặc mùi giang hồ.
Cuối cùng, để triệt để giải quyết vấn nạn giang hồ, chúng tôi
nghĩ ngoài việc nâng cao đời sống nhân dân, tăng cường giáo dục... và nhiều mặt
khác, cũng rất cần có một quỹ tín dụng cho người nghèo. Khi lâm vào bí bách,
người nghèo - với sự xác nhận của chính quyền địa phương - có thể được vay một
khoản nào đó, đủ để trang trải khó khăn đang vấp phải. Hãy tự tin rằng, người
nghèo, dù nghèo thì vẫn không thiếu lòng tự trọng, đã vay ắt sẽ trả.
Trong trường hợp xấu nhất, nhà nước có thể mất đi 10, 20, 100 triệu, thậm chí một tỉ đồng, nhưng chắc chắn xã hội sẽ bớt đi những danh sách tội phạm dài dằng dặc, khi mà vòi bạch tuộc hút máu dân nghèo của giới giang hồ đã mất chỗ bám. Lúc đó, đời sống của lương dân cũng sẽ bớt phập phù trước những đe dọa, khống chế của bọn tội phạm. ít nhất, chúng ta sẽ bớt đi được một phiên tòa như phiên tòa Năm Cam và đồng bọn với hơn 150 bị cáo mà một phần ba trong số đó là những tên giang hồ chuyên cho vay lãi nặng.
Trong trường hợp xấu nhất, nhà nước có thể mất đi 10, 20, 100 triệu, thậm chí một tỉ đồng, nhưng chắc chắn xã hội sẽ bớt đi những danh sách tội phạm dài dằng dặc, khi mà vòi bạch tuộc hút máu dân nghèo của giới giang hồ đã mất chỗ bám. Lúc đó, đời sống của lương dân cũng sẽ bớt phập phù trước những đe dọa, khống chế của bọn tội phạm. ít nhất, chúng ta sẽ bớt đi được một phiên tòa như phiên tòa Năm Cam và đồng bọn với hơn 150 bị cáo mà một phần ba trong số đó là những tên giang hồ chuyên cho vay lãi nặng.
Toàn bộ gốc và ngọn của vấn đề, những huyền thoại và bi kịch
số phận của “người trong giang hồ” chúng tôi muốn thể hiện qua cuốn sách này
thông qua một số chân dung giang hồ cộm cán nhất, những kẻ đã từng được nhiều
người biết đến với không ít giai thoại nửa thực nửa hư. Với tiêu chí đó, mục
đích văn chương bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Hay hay dở, thích hay không còn tùy
vào cách thẩm định của người đọc. Chúng tôi chỉ hy vọng, với những ai quan tâm
đến vấn đề giang hồ, cuốn sách sẽ là một nguồn tư liệu ban đầu, một cái nhìn
khách quan và gần gũi sự thật để bạn đọc có thể tham khảo.
Hầu hết nội dung chính của cuốn sách này đều đã được đăng tải
trên mục “Tư liệu nhiều kỳ” của Báo An ninh thế giới. Vào sách, tác giả chỉ dụng
công bổ sung tư liệu và thể hiện lại nó dưới dạng truyện để bạn đọc dễ theo dõi
chứ tuyệt đối không có ý định trau chuốt văn chương. Vì thế, nếu những câu chuyện
này có thể hấp dẫn được bạn đọc thì đó là do sự hấp dẫn được tạo bởi tự thân những
bi kịch số phận của các nhân vật chứ không hề do tác giả cố ý sắp đặt hay dụ dẫn.
Toàn bộ tư liệu được trình bày là kết quả thu gom, chắt lọc, kiểm chứng mà
chúng tôi tiến hành trong khoảng 10 năm. Những gì thể hiện trong trang sách
cũng chính là những gì đã diễn ra trong đời thực. Phần việc duy nhất mà chúng
tôi làm là xếp đặt lại cho câu chuyện diễn ra đúng theo trình tự vốn dĩ nó có.
Dù không muốn, tác giả cũng tự biết khiếm khuyết là điều khó
tránh.
Mong nhận được sự góp ý của độc giả.
Thành phố Hồ Chí Minh
tháng Mạnh Đông, năm Quý Mùi 2003
tháng Mạnh Đông, năm Quý Mùi 2003
Nguyễn Hồng Lam
1. Quái kiệt Sơn Vương
Với 34 năm ngồi tù, trong đó có 32 năm khổ sai ở Côn Đảo, có
lẽ Sơn Vương Trương Văn Thoại là người phải thụ án lâu nhất Việt Nam. Không chỉ
có thế, ông còn là một nhà văn được hâm mộ, một tên cướp khét tiếng trượng
nghĩa và hào hoa. Cách mạng tháng Tám thành công, ông trở thành Chủ tịch ủy ban
hành chính Côn Đảo. Nhưng do những tham vọng phiêu lưu, ông tự biến mình thành
lãnh chúa của cái gọi là “Đảo quốc Côn Lôn” để sau đó lại tiếp tục sống hàng chục
năm sau song sắt, cho đến tận ngày sức tàn lực kiệt. Có thể nói, cuộc đời Sơn
Vương là một lăng kính phản ánh khá trung thực và đậm nét về khí phách cang cường
trọng nghĩa, yêu tự do, ý chí quật cường hào sảng của người nông dân Nam Bộ.
Quan trọng hơn hết, ông là một nhân chứng sống của nhà tù Côn Đảo suốt hai thời
Pháp thuộc và Mỹ - ngụy.
1) Kiếp phong sương ăn quán ngủ đình
Trước khi đổ ra cửa Tiểu, dòng chảy của sông Soài Rạp đột
nhiên trở nên mạnh mẽ lạ thường. Từ nhiều đời, người dân làng Bình Nhị (Gò
Công) vẫn tự hào bảo nhau: chính dư ba của trận Rạch Gầm - Soài Mút đại phá giặc
Xiêm đã tiếp sức cho dòng sông tuôn ra biển lớn. Những câu chuyện truyền miệng
hào hùng ấy đã hun đúc thêm cho những người nông dân xứ này một khí phách kiên
cường, trượng nghĩa và trọng lẽ công bằng.
ở trong làng, điền chủ Trương Đình Cung Anh là một người danh
giá, được trọng vọng. Tuy giàu và có học thức nhưng lòng ông vẫn luôn hướng về
phía những người nông dân khốn khổ, luôn sẵn sàng giúp đỡ người nghèo và bênh vực
kẻ yếu. Khi đã lớn tuổi, ông làm thêm nghề bốc thuốc Nam giúp dân chúng quanh
vùng.
Năm 1909, người con trai thứ năm của vị điền chủ hào hiệp này
chào đời. Lần đầu tiên nhìn thấy mặt con, điền chủ Trương Đình Cung Anh đã đứng
lặng hồi lâu. Trán rộng, nhân trung sâu, mắt sâu, mũi khoằm, dáng dong dỏng, đứa
bé mang tướng mạo một Kim Thánh Thán, hẳn sau này sẽ chọc trời khuấy nước nhưng
có lẽ suốt đời lận đận. Ông đặt tên cho con là Trương Văn Thoại.
Ngày thôi nôi, trước vô số đồ chơi được bày trước mặt, cậu bé
đã vồ lấy và nắm rất chắc hai tay hai món: một quản bút, một thanh gươm. Nét mặt
vị điền chủ rạng lên nhưng ông vẫn không ngăn nổi một thoáng rùng mình lo lắng.
Đến tuổi cắp sách, Thoại tỏ ra thông minh, sức học hơn hẳn bạn
bè cùng lớp. Nhưng, chỉ học hết chương trình Cours Supérieur (lớp Nhất tiểu học,
khoảng lớp 5 hiện nay) đủ vốn tiếng Pháp để đọc sách Tây, cậu bé đã bỏ ngang,
chuyển sang luyện võ và học thêm chữ Hán.
Thời gian còn lại, Truơng Văn Thoại vùi đầu vào sách, đọc
toàn kiếm hiệp Tàu và tiểu thuyết Tây viết về những tên cướp nghĩa hiệp, từ Robin
Hood của A. Dumas đến Carmen của Merimée. Đặc biệt, Truơng Văn Thoại cực kỳ say
mê những cuốn sách của nhà văn bình dân Phú Đức với nhân vật Bách-xi-ma lái...
“Khúc Dồi” phóng như bay đuổi theo Hoàng Ngọc ẩn đang cưỡi trên... “Điếu Xì
Gà”. Những nhân vật nổi loạn trong sách vở và truyền thống hào sảng, bất khuất
của quê hương đã thắp dần lên trong lòng cậu bé một ước mơ cháy bỏng về lẽ công
bằng và con đường giúp dân bớt bị bóc lột, hà hiếp. Nhưng giữa khi nước mất,
ách đô hộ của thực dân Pháp đè nặng, Thoại chưa đủ sức nhìn thấy con đường
sáng, chỉ ngọn lửa tang bồng hồ thỉ trong lòng là ngày một cháy rực lên.
Cuối năm 1925, mới hơn 16 tuổi, Truơng Văn Thoại đã quyết chí
bỏ làng lao theo tiếng gọi giang hồ. Anh thanh niên giàu nghĩa khí đã bỏ ra 6
năm trời lăn lộn khắp các ngọn núi Thị Vải, núi ông Trịnh, núi Mây Tào vùng
Long Hải, Bà Rịa theo một đại lão sư mai danh ẩn tích học võ và học đạo. Năm
1931, vị Đại lão sư viên tịch, Thoại hạ sơn về Sài Gòn, sống lăn lóc cùng giới
thợ thuyền khốn khổ. Anh ở trọ trên căn gác gỗ rộng chừng 20m2 của tiệm may Nam
Chấn Hưng ở số 2 đường Lefebre (nay là đường Hồ Tùng Mậu, quận 1). Ông Tư
Chiêu, chủ tiệm Nam Chấn Hưng vốn là bạn bè của ông Trương Đình Cung Anh, cha
Thoại. Ngoài sách vở, tài sản của Thoại chỉ có thêm một chiếc bao kiểu lính thủy
bằng vải kaki. Ban ngày, trải bao bên lề đường, Thoại hành nghề bán sách. Đêm,
chắp thêm hai đoạn dây, bao kaki trở thành chiếc võng nóp cho kẻ giang hồ chợp
mắt qua đêm.
Những năm đầu thập kỷ 30, lề đường De la Some (Hàm Nghi) được
coi là nơi tập trung của đủ hạng người. Trên những tấm đệm bàng 7 tấc, một dãy
thầy bói sắp hàng, kính râm che mắt, bộ bài cáu bẩn xếp ngay ngắn trước mặt.
Bên cạnh đám thầy bói là các văn nhân, chủ báo, cũng bày “sản phẩm” của mình
trên những vuông chiếu trải cạnh lề đường. Trong số những người bán báo đó,
Trương Văn Thoại đặc biệt chú ý đến một người: Ông Nguyễn An Ninh, chủ bút tờ
La Cloche Fêlée (Tiếng chuông rè) kiêm thủ lĩnh đảng Thanh niên cao vọng, hơn
Thoại chẵn 10 tuổi. Cảm phục ý chí và sự nghiệp của Nguyễn An Ninh, Trương Văn
Thoại đã dần dần bước vào nghiệp cầm bút, trở thành một cộng sự đắc lực của tờ
La Cloche Fêlée và nhà cách mạng Nguyễn An Ninh. Theo chữ Hán, chữ “Thoại” được
ghép bởi ba chữ Sơn, Vương và Nhi. Bút danh Sơn Vương được Thoại khai sinh từ
đó. Ngoài ra, Thoại còn ký tên khác là Trương Vạn Năng, tự bộc lộ ý chí và tham
vọng của mình.
Chẳng bao lâu, tên tuổi Sơn Vương đã khá nổi trong nghề cầm
bút. Những bài báo của ông thổi vào công luận một dư âm lạ, đầy màu sắc bình
dân và nỗi cảm thông sâu sắc tầng lớp bần cùng.
Khoảng những năm 1932-1933, Sơn Vương Trương Văn Thoại - mới
23 tuổi - đã danh nổi như cồn ở khắp Sài Gòn - Chợ Lớn và vùng lục tỉnh, chủ yếu
nhờ những tác phẩm trung thiên tiểu thuyết đăng tải trên báo. Có thể xem Sơn
Vương như một người tiên phong có công trong việc cách tân nền tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại. Vẫn là tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình, song tác phẩm của Sơn Vương
đã có sự thay đổi tiến bộ lớn lao về mặt hình thức. Nhân vật tướng cướp nghĩa
hiệp cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo của Sơn Vương đã đoạn tuyệt hẳn với
thanh gươm lưng ngựa, thay vào đó là các trang công tử lái xe hơi như bay, bắn
súng lục bằng cả hai tay và ném tạc đạn ùng oàng. Đáng kể nhất là ba cuốn: Luật
rừng xanh, Chén cơm lạt, và Tướng cướp hào hoa.
Rất đông nhà văn, nhà báo thế hệ sau đều ít nhiều chịu ảnh hưởng
của Sơn Vương, cả về khí phách chống cường quyền, áp bức, ủng hộ dân nghèo lẫn
lối hành văn bình dân trong sáng và giản dị. Nhưng ít ai biết rằng, tất cả những
nhân vật tướng cướp nghĩa hiệp ấy đều chính là hiện thân của tác giả Sơn Vương.
Thay vì tìm tư liệu để viết, Sơn Vương đã tự... tạo ra tư liệu. Trong hơn hai
năm, từ 1931-1933, Sơn Vương đã đơn thương độc mã, gây ra hàng chục vụ cướp
kinh thiên động địa nhằm vào các phú hộ, địa chủ gian ác khắp các vùng từ Đồng
Nai đến Sài Gòn, Long An nhưng tung tích vẫn không hề bị lộ. Người ta chỉ thầm
ngưỡng mộ một Sơn Vương - nhà văn - cao gầy dong dỏng nói năng nhỏ nhẹ, thường
ngồi trọn buổi sáng bên lề đường với một bộ xá xẩu bằng lụa Tân Châu để bán
sách của chính mình.
Giữa năm 1933, Sơn Vương dời địa điểm bán sách sang lề đường
Charner (Nguyễn Huệ). Tại đó, ông gặp gỡ và kết nghĩa huynh đệ với một thanh
niên tên là Nguyễn Phương Thảo, người sau này nổi danh với cái tên Trung tướng
độc nhãn Nguyễn Bình - Tư lệnh các lực lượng quân sự Nam Bộ những năm đầu cuộc
kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp (1945-1954).
Nguyễn Phương Thảo thua Sơn Vương 6 tuổi, quê ở Yên Phú, Hưng
Yên. 17 tuổi, Thảo bỏ dở năm thứ hai trung học xuống Hải Phòng, đáp tàu Pélican
của hãng Messagering để “hành phương Nam” lập nghiệp. Vốn khâm phục chất hảo hớn
của người Nam Bộ, Thảo đã nhanh chóng làm quen và mê sách của Sơn Vương. Được một
người thợ cùng chỗ trọ giới thiệu, anh đã nhanh chóng tìm được tác giả các cuốn
truyện yêu thích. Sơn Vương cũng tỏ ra cảm kích trước ý chí giang hồ của người
bạn nhỏ tuổi, đồng thời cũng muốn làm quen với một tính cách Bắc nguyên gốc nên
tiếp Thảo khá nhiệt tình. Gặp Thảo, Sơn Vương khen:
- Người phương Bắc mến mộ trời Nam, hai mươi năm sau tất có
thêm một tay hảo hớn.
Luôn miệng tấm tắc “kỳ ngộ! kỳ ngộ!”, Sơn Vương bỏ dở buổi
bán sách kéo Nguyễn Phương Thảo sang một quán Chệt (quán ăn Tàu) ở đường
Colonel Grimaud (Phạm Ngũ Lão) để đãi một chầu hủ tiếu xí quách. Đó là lần đầu
tiên trong đời, anh thanh niên Nguyễn Phương Thảo biết đến vị cay của rượu.
Nhưng Thảo chỉ uống ba ly con, phần còn lại một mình Sơn Vương từ từ nốc cạn.
Mới vào Nam, việc làm chưa có, Nguyễn Phương Thảo ngỏ ý nhờ
Sơn Vương tìm giúp. Sau một hồi suy tính, Sơn Vương khuyên người bạn vong niên
sang Đa Kao mở tiệm giặt là phục vụ cho đám công chức, thầy thông, thầy ký. Để
có vốn cho Thảo mở tiệm, Sơn Vương quyết định đi... cướp, làm một vụ thật đậm...
Để xác định con mồi, Sơn Vương đã ôm chiếc bao lính thủy ra
góc đường De la Some, chỗ đối diện Nhà băng Đông Dương ngồi bán sách suốt nhiều
buổi. Cuối cùng thì một con mồi lớn cũng đã lọt vào tầm ngắm của Sơn Vương. Cứ
vào sáng thứ Sáu của tuần đầu tiên mỗi tháng, René Gaillard, Giám đốc hãng cao
su Mimot lại cùng một tài xế và một vệ sĩ phóng chiếc Peugeot đến Ngân hàng
Đông Dương để lĩnh bạc về phát lương cho công nhân, số tiền mỗi kỳ lên đến
50.000 đồng. Theo tính toán, Sơn Vương quyết định sẽ chặn xe cướp vali tiền khi
tên Giám đốc quay trở về. Ông quyết định rủ Nguyễn Phương Thảo đi theo để biểu
diễn cho xem, nhưng lại tuyệt đối lại không nói một câu với “cậu bé” về kế hoạch
đã định.
Đầu tháng 7 năm 1933, vụ cướp đã diễn ra đúng như kế hoạch.
Sơn Vương “dụ dỗ” được Năm Đường, tài xế của một chủ Tây tham gia vào cuộc. Lợi
dụng ông chủ và vợ con về Pháp nghỉ phép, Năm Đường đã “mượn” chiếc Clément
Bayard của chủ và thay biển số theo Sơn Vương đi cướp. Xe chở Sơn Vương, Năm Đường
và Nguyễn Phương Thảo chạy thẳng theo con đường đất đỏ dẫn về Tân Sơn Nhất (nay
là đường Cách Mạng Tháng Tám). Đến một chiếc cầu nhỏ ở Bà Quẹo, Năm Đường cho
xe quay lại, dừng ngay trên cầu, vờ hư xe lúi húi sửa.
15 phút sau, chiếc Peugeot của René Gaillard đã xuất hiện từ
xa, cuốn bụi đỏ bay theo mù trời. Đến nơi, thấy cầu bị kẹt, Gaillard tức tối nhảy
xuống la hét om sòm. Sơn Vương đầu đội nón nỉ, mang bộ complet trắng, nhàn nhã
như một công tử Bạc Liêu ôn tồn tiến lại, nói bằng tiếng Pháp:
- Xin lỗi ông, xe tôi bị panne, ông chờ cho chút xíu.
Đang bực, Gaillard quát:
- Muốn sửa, đẩy qua chỗ khác!
Quát chưa dứt câu, Gaillard đã trợn mắt, bởi Sơn Vương trả lời
rất xấc xược:
- Được thôi, phiền ông lại đẩy đi!
Nhưng hắn chưa kịp chửi thề, một họng súng đen ngòm đã xuất
hiện ngay trước mặt, kèm theo là tiếng Sơn Vương quát khẽ:
- Giơ tay lên!
Theo phản xạ, cả chủ lẫn tớ trong xe đều giơ tay quá đầu. Điềm
nhiên, Sơn Vương tiến lại bên chiếc Peugeot giật lấy cặp tiền vứt vào xe mình
cho Nguyễn Phương Thảo giữ. Ông còn tước luôn khẩu súng của tên vệ sĩ và quay lại
nói với Gaillard mấy câu nhã nhặn:
- Phiền ông Giám đốc cho mượn đỡ một kỳ lương, tôi đang có việc
cần xài.
Sơn Vương vừa nói, vừa vứt luôn khẩu súng trên tay vào xe của
Gaillard và nhanh chân tót lên chiếc Clement Bayard giục Năm Đường chạy thẳng.
Sau vài phút hoàn hồn, René Gaillard kịp nhìn lại, mới phát
hiện ra rằng khẩu súng mà Sơn Vương “kỷ niệm” chỉ là súng giả. Cáu tiết, hắn
quát tài xế phóng xe đuổi theo. Nhưng tốc độ của chiếc Peugeot cũ kỹ không thể
đua kịp tốc độ của chiếc Clément đời mới, máy rất mạnh. Đuổi đến Hòa Hưng thì địch
thủ đã biến mất tăm dạng, Gaillard đành tiu nghỉu quay xe trở lại. Cách đó
không xa lắm, Sơn Vương cũng xách cặp tiền kéo Nguyễn Phương Thảo đang há hốc
ngạc nhiên bước xuống, giục Năm Đường đưa xe về rửa và thay biển số. Sơn Vương
và Thảo bao nguyên một chiếc xe thổ mộ, giong thẳng về gác trọ phía Sài Gòn.
Vụ cướp táo tợn được đồn lan khắp Sài Gòn chỉ sau đúng một
ngày. Dân nghèo được một phen hả dạ, bởi kẻ bị trừng trị là một “thằng Tây”
khét tiếng tàn ác. Giới lục lâm Sài Gòn - Lục tỉnh cũng thầm khen tác giả vụ cướp
- dù chẳng biết là ai - bạo gan và chơi rất bảnh, khiến tên chủ Tây vừa mất tiền
vừa bẽ mặt. Nhưng với Sơn Vương, đó lại là tai họa và là vụ cướp cuối cùng
trong cuộc đời ngang dọc.
René Gaillard - kẻ bị hại, vốn cũng xuất thân từ một tên cướp
khét tiếng của đảo Corse và nước Pháp. Cùng với tên anh ruột là Charlles
Gaillard, hắn đã gây ra hàng chục vụ cướp của giết người. Bị kết án chung thân
khổ sai, hai anh em hắn đã tìm cách khoét vách ngục La Santé ở Paris và trốn
sang Tân Thế Giới, tiếp tục gây tội ác. Được ít lâu, anh em Gaillard lại bị tóm
cổ, thụ án khổ sai chung thân tại nhà ngục La Cayen - địa ngục trần gian của
Pháp tại Nam Mỹ. Ngồi tù chưa ấm chỗ, chúng lại vượt ngục trốn vào Hoa Kỳ. Tại
đó, René cùng anh tiến hành đánh cướp một xe chở bạc. Lần này, Charlles
Gaillard bị bắn chết ngay tại trận. Còn lại một mình với một đống tiền, René
Gaillard trốn sang Đông Dương, dùng số tiền ăn cướp được mua cổ phần của đồn điền
cao su Terreves Rouges và nghiễm nhiên trở thành Giám đốc hãng cao su Mimot.
Tuy đã giã từ nghề thảo khấu nhưng trong huyết quản Gaillard,
máu “đảo Corse” vẫn còn ngùn ngụt. Bị Sơn Vương cướp tiền và bỡn cợt, hắn không
chịu nổi. Gaillard tuyên bố: Thưởng 5000 bạc Đông Dương - một phần mười số tiền
bị cướp - cho bất cứ ai tìm ra tung tích thủ phạm. Lúc này, Bazin - tên mật
thám khét tiếng tàn ác sau này - đang là một cò tập sự ở bót Catinat. Y xua hết
mã tà, lính kín dưới quyền ra sức điều tra, lùng sục, quyết giật cho được món
tiền 5000 đồng mà Gaillard đã rêu rao.
Vốn thông minh, cáo già, lại rành tâm lý người Việt, Bazin rất
quan tâm đến những chi tiết tưởng như nhỏ nhặt. Y nhanh chóng nhận ra rằng, loại
xe hơi Clément Bayard, cả Sài Gòn chỉ có không hơn 10 chiếc. Do đó, y liên tục
gọi tài xế và chủ nhân của những chiếc xe hơi loại này lên làm “ăng kết”. Bị
tra hỏi quá nhiều lần, Năm Đường biết chắc sẽ bị lật tẩy nên hoảng sợ đã ra đầu
thú, nộp lại 10.000 đồng được chia sau vụ cướp đồng thời khai ra tên Sơn Vương.
Ngày 16 tháng 8 năm 1933, Sơn Vương bị bắt.
Nhận được điện thoại của cò Bazin, tên giang hồ đảo Corse
phóng xe tới bót Catinat ngay tức khắc. Được thưởng tiền, Bazin tỏ ra khá biết
điều. Y bảo Gaillard:
- Giao nó cho ông một buổi, muốn làm gì thì tùy thích.
Cởi trần, xách roi gân bò vào phòng tra tấn, nơi Sơn Vương
đang bị xích hai tay lên trần nhà, Gaillard nhìn đối thủ mảnh khảnh từ chân lên
tới đầu và bảo:
- Mày cướp của tao năm vạn, tao tính rẻ, cứ một ngàn đồng tao
lấy lại một roi. Mày tính chịu được mấy roi?
Không một chút sợ hãi, Sơn Vương cười và trả lời:
- Ông thích bao nhiêu cứ lấy bấy nhiêu. Bao nhiêu tôi cũng chịu,
chỉ sợ ông mệt.
Điên tiết, Gaillard xông vào quật liên tiếp lên người Sơn
Vương. Chỉ sau năm roi, chiếc áo lụa của Sơn Vương đã bị xé nát, rách tơi tả.
Nhưng Gaillard vẫn không ngừng tay. Sơn Vương oằn oại gồng người vận khí chịu
đòn nhưng không hề hé răng kêu rên nửa tiếng. Đến roi thứ 16, Gaillard đã quá mệt,
mồ hôi vã ra như tắm. Thấy mình mẩy Sơn Vương đã nát bét, máu tuôn ra như suối,
nhưng vẫn không nao núng, Gaillard bèn vứt roi, khen:
- Mày chịu đòn quá giỏi, tao thua. Số roi còn lại, tao cho
mày nợ.
Khạc ra một bụm máu, Sơn Vương cười mà miệng sưng vêu, méo xệch:
- Khỏi, ông cứ lấy cho đủ. Nếu thiếu, tôi sẽ đi cướp của những
thằng giàu như ông chứ chẳng cần phải vay nợ ai hết, ông nên đánh tiếp đi, kẻo
tiếc.
Đến đó, René Gaillard chỉ còn biết phục sát đất. Hắn đổi giọng:
- Ông đúng là gan dạ hơn dân đảo Corse. Tôi kính phục ông. Số
còn lại, coi như tôi xóa nợ cho ông hết.
Bỏ ra khỏi phòng, Gaillard nói với Bazin:
- Tao không kiện nữa, thả nó đi!
Bazin ngạc nhiên. Hắn bảo:
- Luật là luật, ông tha nhưng tôi không tha.
Không thuyết phục được Bazin, tên giang hồ đảo Corse tỏ ra
khá áy náy với Sơn Vương. Hắn lại quay trở vào. Đứng trước mặt Sơn Vương, hắn hứa:
- Để tỏ lòng kính trọng ông, ngày mở phiên tòa, tôi sẽ không
đến dự.
Và hắn đã giữ lời.
Một tháng sau, Sơn Vương bị Tòa tiểu hình kết án năm năm khổ
sai và bị đày ra Côn Đảo.
2) Ngày 16 tháng 8 - ngày định mệnh
Đến Côn Đảo, Sơn Vương bị tống vào banh II, buồng giam tù thường
án. Vụ cướp táo bạo của Sơn Vương khiến đám thường phạm nể phục, dù so với đa số
bạn tù, ông ít tuổi hơn nhiều. Lẫn giữa đám đầu trộm đuôi cướp, Sơn Vương nổi
trội hơn cả bởi là người có học, thuộc nhiều tích xưa chuyện cũ, lại giỏi tiếng
Pháp. Vì vậy, mỗi lần có việc cần đề đạt gì với bọn gác ngục, cả buồng giam đều
phải cậy đến Sơn Vương. Sau chưa đầy một tháng, Sơn Vương đã được coi như “sếp”
buồng giam. ở các buồng bên cạnh, nhiều chính trị phạm - cả tù Cộng sản lẫn tù
Quốc dân Đảng - cũng có nhiều người từng quen biết Sơn Vương trong thời gian viết
báo, in sách, đôi người còn tỏ ý ngưỡng mộ. Thấy ông có uy tín với bạn tù, lại
nói năng nhỏ nhẹ, cử chỉ đĩnh đạc, bọn gác ngục cũng tỏ ra vì nể.
Cuối năm 1933, giám thị Nguyễn Văn Liễn (Vệ Liễn) quyết định
tổ chức một cuộc thi chữ đẹp tại tù Côn Đảo. Kết quả, Sơn Vương giành giải nhất,
đẹp hơn cả chữ của các thư ký trên đảo cùng dự thi. Vệ Liễn bèn vận động chúa đảo
cho ông ra làm thư ký giúp việc tại Ty Ngân khố của tỉnh đảo Côn Lôn. Kể từ đó,
Sơn Vương không phải ngồi xà lim và làm khổ sai nữa. Ban ngày ông lo ghi chép
giấy tờ ở Ty Ngân khố, buổi tối dạy bé Nguyễn Thị Kim Hoa, 9 tuổi, con gái Vệ
Liễn học đến 9 giờ đêm. Sau đó, ông được cắp chiếu về ngủ cùng chỗ với các nhân
viên của Ty Ngân khố.
Lúc mới ra đảo, ngoài Nguyễn An Ninh, Sơn Vương tỏ ra ngưỡng
mộ các tù chính trị Quốc dân Đảng. Máu giang hồ của ông bị mê hoặc bởi gương
trung liệt của Nguyễn Thái Học, và một số chiến công của đảng này. Nhưng dù ở
tù, những người Quốc dân Đảng vẫn thẳng tay khủng bố những người bất đồng chính
kiến với họ trong đường lối đấu tranh cách mạng. Trước mắt Sơn Vương, Quốc dân
Đảng đã tiến hành một số vụ ám sát, khủng bố ngay tại Côn Đảo chủ yếu nhắm vào
tù Cộng sản. Trong khi đó, những người tù Cộng sản, dù rất căm giận vẫn không hề
tìm cách trả đũa. Ngược lại, họ vẫn đoàn kết, nhất trí, luôn tìm cách hòa giải
những mối bất đồng, cố hàn gắn mối đoàn kết giữa tù Cộng sản và tù Quốc dân Đảng.
Thần tượng cũ sụp đổ, lòng ngưỡng mộ của Sơn Vương dần dần dành hết cho số tù
là đảng viên Cộng sản. Lợi dụng công việc ở Ty Ngân khố, ông thường tìm cách
chuyển giấy, mực vào và giúp những người Cộng sản liên lạc với nhau.
Năm 1936, nền chính trị nước Pháp biến động mạnh. Nội các
Léon Blum và phong trào Mặt trận bình dân lên nắm chính quyền, tiến hành hàng
loạt cải cách dân chủ ở Đông Dương, trong đó có cả việc đặc xá tù chính trị.
Tháng 7 năm 1936, một số tù nhân ở Côn Đảo được phóng thích. Sơn Vương cũng được
xét trả về đất liền, tiếp tục thụ hình tại Hà Tiên.
Cạnh nhà tù ở Hà Tiên có một khu bungalow(*) dành cho các ông
Tây bà đầm nghỉ mát. Một hôm, tên Giám đốc bungalow người Pháp bị mất 200 đồng.
Nghi cho một anh bồi người Việt lấy cắp, hắn đã tự tay tra khảo anh dã man. Anh
bồi không nhận bị tên Giám đốc tàn ác đốt đèn cầy và nhỏ sáp nóng vào mũi. Anh
bồi chết, dân chúng kéo nhau biểu tình. Trong tù, Sơn Vương đã hô hào tù nhân đập
phá khám và la ó dữ dội để ủng hộ. Vì vậy, chủ tỉnh Hà Tiên đã quyết định đày
Sơn Vương ra đảo Phú Quốc.
Tội ác của thực dân Pháp đi đâu cũng gặp, tên Tây đoan (quan
thuế) kiêm quận trưởng Phú Quốc đã nhiều lần tác oai tác quái ức hiếp dân trên
đảo. Biết chuyện, Sơn Vương đã âm thầm thu nhập tài liệu và viết bài, bí mật gửi
về cho một số tờ báo ở Sài Gòn. Các báo cử người ra điều tra và đăng bài lên án
mạnh mẽ. Tên Tây Đoan khát máu bị đuổi đi nơi khác. Tháng 2 năm 1938, tên quận
trưởng mới thay đã đưa trả Sơn Vương về lại Hà Tiên. Ông bị giam giữ thêm 6
tháng, đến ngày 16 tháng 8 năm 1938, trùng ngày trùng tháng với ngày bị bắt,
Sơn Vương được thả.
Nhưng, hình như định mệnh đã trói chặt cuộc đời Sơn Vương với
ngày 16 tháng 8. Đúng một năm sau, ngày 16 tháng 8 năm 1939, Sơn Vương lại bị tống
vào tù. Lần này, ông bị bắt vì một lý do hết sức quái gở. Tại ghi-sê bán vé của
một rạp chiếu bóng ở Chợ Lớn, Sơn Vương bị một gã người Việt hung hăng đạp giày
đau điếng. Ông đẩy hắn ra, tên này lập tức nhảy vào đánh Sơn Vương. Cáu tiết,
ông xô mạnh, tên gây sự bật ngửa ra sau ngã chỏng gọng. Rất không may, kẻ gây sự
lại là... sếp mật thám của bót Polo (Chợ Lớn). Bẽ mặt, hắn móc ngay tu huýt cho
lên miệng thổi một hồi. Mã tà, lính kín lập tức bu lại, còng Sơn Vương dẫn về.
Xuất thân là một võ sĩ đấm boxe (quyền Anh) có hạng, tên phó
cò bót Polo cũng hung hăng không kém gì sếp chánh. Bất cứ ai mới bị bắt, hắn
cũng đòi phải... đấu tay đôi. Thông thường, cuộc đấu chỉ dừng lại khi kẻ mới
vào đã máu me bê bết và bất tỉnh nhân sự. Vì vậy, người ta gọi hắn bằng biệt
danh Cọp Lửa.
Thấy Sơn Vương mảnh khảnh nhưng có vẻ ngang tàng, Cọp Lửa hất
hàm hỏi cộc lốc:
- Biết võ không?
Sơn Vương cũng đáp cộc lốc:
- Chịu đòn được.
Cọp Lửa đòi đấu. Sơn Vương nhã nhặn từ chối:
- Đây là bót cò, đâu phải sàn boxe ở hội chợ? Nếu ông cò muốn,
tôi đứng cho ông đấm.
Tên cò tức lắm, xông vào ngay. Sơn Vương không đánh trả, chỉ
xuống tấn vận nội công chịu đòn. Đấm liên tục 10 phút, Sơn Vương vẫn không nhúc
nhích, Cọp Lửa đành ôm hai tay buốt nhức lỉnh sang chỗ khác.
Ra tòa, Sơn Vương bị kết tội du đãng, bị đưa đi giam giữ tại
căng Pursat (Campuchia). Nhờ giỏi ăn nói, Sơn Vương xin được một lưỡi cưa, cưa
còng và trốn qua Thái Lan. Không bao lâu, ông lại bị bắt khi tìm cách về lại
Sài Gòn. Lần này, ông bị kết án 10 năm tù vì tội vượt ngục, bị tống vào phòng
17 bót Catinat, nơi đặt máy chém. Đầu năm 1942, ông bị đày ra Côn Đảo lần thứ
hai.
Giai đoạn 1942-1946, quần đảo - nhà tù Côn Lôn xảy ra rất nhiều
biến động. Đặc biệt, quyền cai trị liên tục bị thay đổi. Tháng 9 năm 1942, phát
xít Nhật đã cho quân đổ bộ lên đảo lần đầu tiên, nhưng chúng chỉ ở lại ít hôm rồi
rút. Ba năm sau, ngày 6.2.1945, tàu chiến Nhật đã chĩa đại bác vào quần đảo, yểm
trợ cho một trung đội vũ trang đổ bộ lên, bất chấp sự phản đối của bọn Pháp
trên đảo.
Đám lính Nhật đổ bộ tiến hành ngay việc khống chế đài vô tuyến
điện và tịch thu toàn bộ radio của bọn Pháp, ra sức tìm cách tiếp xúc với tù
nhân, tiếp tế, cung cấp thông tin và truyền bá thuyết Đại Đông á cho đám chính
trị phạm thân Nhật. Không dám công khai ngăn cản lính Nhật, lính Pháp đã tìm
cách di chuyển nơi làm việc của đám tù thân Nhật, ngăn không cho những cuộc tiếp
xúc diễn ra. Bị chúng thẳng tay khủng bố, đánh đập dã man, những tù nhân thân
Nhật đã bóng gió bắn tin đe dọa bọn giám thị người Pháp, đồng thời ấm ức chờ
gió đổi chiều để có cơ hội trả thù.
Sáng ngày 9.3.1945, thêm hai tàu tuần duyên Nhật lừ lừ tiến
vào Côn Đảo. Mặc cho đám lính Pháp ngơ ngác, bọn Nhật đã ngang nhiên chất lên bờ
một số thiết bị, khí tài chiến tranh. Xong việc, hai chiếc tàu tuần duyên không
những không rút lui, lại còn kê tất cả nòng pháo hướng thẳng vào đất liền. Đánh
hơi thấy chuyện chẳng lành, đích thân Tyssery, giám đốc Nhà tù Côn Đảo đã đến
trại Nhật, yêu cầu được giải thích. Tên sĩ quan chỉ huy Nhật Bản ngang nhiên trả
lời:
- Chúng tôi đưa hàng lên để lắp đặt một trạm vô tuyến.
Đồng thời hắn ra lệnh:
- Mời ông Tyssery ở lại.
Thực chất bọn Nhật muốn giam lỏng Tyssery không cho quay về.
Ngay đêm đó, không tốn một phát đạn, Nhật đã tước hết toàn bộ vũ khí của lính
Pháp, chiếm giữ trại lính, dinh giám đốc, đài vô tuyến và toàn bộ vị trí phòng
thủ trên đảo. Bốn ngày sau, giám đốc Tyssery và viên đại úy chỉ huy lính Pháp ở
Côn Lôn được tàu chiến Nhật đưa về đất liền. Quyền cai quản nhà tù, Nhật giao
cho phó giám thị Hilaire đồng thời giữ nguyên bộ máy giám thị Pháp - Việt như
cũ.
Chỉ sau đó ít hôm, máy bay đồng minh đã tiến hành nhiều đợt
oanh kích Côn Đảo. Bom đạn Mỹ đã đánh sập hải đăng hòn Bảy Cạnh, Nhà đèn, Sở lưới
và một số cơ sở sản xuất trên đảo, giết chết hàng chục tù nhân đang lao động ở
các khu vực này. Một số tù nhân đã lợi dụng lúc tình hình nhốn nháo, thoát ra
khỏi vòng rào trại giam. Đám tù thân Nhật trong trại cũng bắt đầu trỗi lên phá
phách, gây yêu sách.
Đòi hỏi của chúng đã được bọn Nhật đáp ứng bằng một hành động
mị dân: trao quyền chúa đảo cho Lê Văn Trà - nguyên thư ký của
Tyssery, đồng thời tiến hành cái gọi là “lễ trao trả độc lập” và biến quần đảo
Côn Lôn (tiếng Pháp: Poulo Condore) thành cái gọi là “Quốc gia tự do Nông dân
huynh đệ quần đảo Côn Lôn (Etat libre agricole et fratemel d’ Archipel de Poulo
Condore)”. Trong buổi lễ, Lê Văn Trà đã không tiếc lời ca ngợi công lao của
quân đội Thiên Hoàng và Thống đốc Minoda. Sau đó, Trà đã công bố đạo dụ của
Chính phủ Trần Trọng Kim về việc các chính trị phạm kể từ ngày này được Chính
phủ Việt Nam trả lại tự do và được coi như mọi người khác trong nước. Nhưng thực
chất, chỉ có 150 tù thân Nhật là được đi lại tự do và được phóng thích sau hai
tuần. Những người khác, ngay sau buổi mít tinh đã bị xua trở lại, lại vào khám,
tiếp tục bị giam giữ như cũ.
Ngay sau khi thoát cũi sổ lồng, bọn tù thân Nhật đã đi ngay
vào cuộc trả thù những cai ngục Pháp - Việt. Chúng cũng thừa cơ hội khủng bố,
hành hạ một số tù nhân Cộng sản, tù thường phạm dám công khai phản đối chúng. Để
ủng hộ tù Cộng sản, Sơn Vương đã đứng ra vận động một số thường phạm, công khai
âm mưu của bọn tù thân Nhật, đồng thời vạch mặt tuyên bố nếu đám này có hành động
quá khích, họ sẽ đứng ra chống lại.
Giỏi ăn nói và có uy tín, Sơn Vương đã được khá đông thường
phạm có lương tri ủng hộ. Do đó, bọn tù thân Nhật cũng chùn tay, không dám đối
xử tàn ác với những bạn tù khác. Mũi nhọn khủng bố của chúng dồn hẳn sang hướng
đám cai ngục cũ. Một số gác ngục hung hãn hồi trước như Toustou, Lantali, đã bị
đánh trọng thương, phải vào nhà thương Côn Đảo điều trị. Sau này, được những
người Cộng sản kiên trì thuyết phục, không ít người trong số họ đã ngả sang chủ
trương liên minh giữa những người Cộng sản và các lực lượng dân chủ, tiến bộ chống
phát xít, bình tĩnh đối phó với các hành động khiêu khích của đám tù thân Nhật
đang được chính quyền bù nhìn dung túng.
Thấy uy tín của khối Đại Đông á đang bị rơi rụng dần, bọn Nhật
trên đảo và chính quyền Lê Văn Trà bèn tìm cách đối phó bằng cách thực hiện một
số cải cách dân chủ. 8 chiếc ghe bầu được gửi từ đất liền ra để rước đám tù
thân Nhật thuộc các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa giáo, Phật giáo về.
Trên đảo, Trà cho mở lại trường tiểu học và ra tờ báo “Tiếng nói tự do”. Sợ tù
Cộng sản sẽ biến tờ báo thành diễn đàn chống phát xít, Lê Văn Trà đã giao cho
Sơn Vương phụ trách. Sau khi nhận chức chủ bút, Sơn Vương đã được đi lại khá tự
do. Lấy lý do đảo đã được tự do, tù nhân cần và được quyền biết tin tức, Sơn
Vương đã thuyết phục được Lê Văn Trà cho tù nhân được sửa lại một chiếc radio hỏng.
Dù không muốn, song Lê Văn Trà cũng không thể phản đối.
Dưới sự chỉ huy của Tôn Đức Thắng - người lính thợ nổi tiếng
từng kéo cờ phản chiến trên biển Hắc Hải trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
- một tốp thợ tù đã sửa chữa xong chiếc radio, sau đó sửa luôn được một chiếc
canô hỏng. Qua sóng radio, tin cách mạng tháng Tám đã thành công, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập đã khiến cả đảo hồ hởi reo mừng. Bọn gác ngục
và bọn thân Nhật bắt đầu co vòi lại không dám lộng hành.
Tối ngày 16.9.1945, tàu Phú Quốc và 32 ghe bầu chở theo 10 tấn
gạo tiếp tế của Cách mạng đã cặp bến Cỏ ống. Rạng sáng hôm sau, cờ đỏ sao vàng
đã phất phới bay rực cầu tàu Côn Đảo. Tham tá Lê Văn Trà nộp con dấu của nhà tù
cho chính quyền Cách mạng.
Sau một tuần lễ sửa chữa, đoàn tàu, thuyền lại quay mũi ra
khơi. 1.800 chính trị phạm được giải thoát đưa về đất liền. Đến đầu tháng 12
năm 1945, ủy ban hành chính Nam Bộ lại gửi một đoàn ghe ra Côn Đảo rước tù do đồng
chí Văn Cừ làm trưởng đoàn. Ngày 11.12.1945, dưới sự chứng kiến của phái đoàn
Văn Cừ, Lê Văn Trà đã đứng ra tổ chức một cuộc bầu cử dân chủ trên đảo. 12 người
trong đó có sáu giám thị, sáu tù nhân đã được bầu vào bộ máy chính quyền mới.
Ngày 15 tháng 12, ủy ban hành chính mới của Côn Đảo chính thức được công bố,
Sơn Vương Trương Văn Thoại chính thức trở thành Chủ tịch ủy ban.
ở cương vị mới mẻ này, Sơn Vương tỏ ra là một vị chủ tịch
năng nổ và có khả năng lãnh đạo. Ngay sau khi nhậm chức, Sơn Vương đã sốt sắng
bắt tay ngay vào việc tổ chức lại sản xuất, từ thu hoạch lúa, đánh bắt hải sản
đến khai thác củi, đá, làm vệ sinh... Ông đã đề ra một số biện pháp khuyến
khích lao động như chia một phần thành quả cho người làm ra sản phẩm. Mặt khác,
việc lao động sản xuất dưới thời Sơn Vương lãnh đạo được coi như bắt buộc, cả
các thành viên ủy ban lẫn các công chức, giám thị cũ cũng phải trực tiếp tham
gia. Ông cũng tỏ ra kịp thời và chính xác khi xác định những việc cần làm cấp
bách, giao đúng người đúng việc, từ tổ chức một tổ y tế vào núi tìm thuốc trị bệnh
đến việc xuất toàn bộ vải vụn trong kho giao cho tổ phụ nữ may quần áo cộc cấp
tốc để phát cho một số tù nhân thiếu thốn.
Giai đoạn đầu, uy tín của Sơn Vương khá cao. Khi phái đoàn
Văn Cừ đón tù về đất liền, ông đã đồng ý ở lại, tiếp tục cùng chính quyền mới
khôi phục cuộc sống và trật tự của đảo, dù trong lòng rất nôn nao mong được trở
lại đất liền. Ngoài tinh thần trách nhiệm, việc đồng ý ở lại Côn Đảo của Sơn
Vương có một phần níu kéo của một lý do khác: tình yêu. Người tạo ra sức hút
mãnh liệt ấy là Lệ Hoa, tức Nguyễn Thị Kim Hoa, con gái của Vệ Liễn và là cô học
trò nhỏ tại đảo của Sơn Vương từ hơn 10 năm trước.
Khi Sơn Vương bị đày ra Côn Đảo lần thứ 2 (1942), cô bé học
trò 9 tuổi ngày xưa đã trở thành một thiếu nữ 18 tuổi, đẹp rực rỡ, được coi như
hoa khôi của Côn Đảo. Có học thức, thích thơ ca, đặc biệt là ngâm vịnh Kiều, Lệ
Hoa tỏ ra cảm phục tài năng của huyền thoại Sơn Vương. Lúc này Lệ Hoa cũng đang
là một cô giáo tiểu học trên đảo. Cô thường bí mật đem những thắc mắc trong
sách vở nhờ Sơn Vương giải thích giúp. Là người có chữ, từng đọc nhiều sách chữ
Hán, đối với Sơn Vương, Lệ Hoa hội đủ cả tám tiêu chuẩn của một mỹ nhân, với
“hoa diện” (mặt tươi như hoa), “nguyệt thần” (thần thái trong sáng như ánh
trăng), “điểu thanh ngôn” (tiếng nói trong trẻo như chim hót), “liễu thái”
(dáng dấp mềm mại như nhành liễu), “băng tuyết bì” (da trắng như tuyết), “ngọc
cốt” (tinh thần kiên định như viên ngọc), “thu thủy tư” (tâm hồn tĩnh lặng như
nước hồ thu) và “thi thư tiên” (có học thức, coi trọng chữ nghĩa). Choáng ngợp
trước nhan sắc của cô, Sơn Vương cũng tỏ ra rất hào hứng khi được đáp ứng các
thắc mắc. Tình thầy trò, chú cháu ngả dần thành tình yêu, dù Sơn Vương hơn Lệ
Hoa 13 tuổi. Nhưng vì cuộc đời vẫn phải náu thân sau song sắt, chí lớn còn lưu
nơi đảo vắng, Sơn Vương chỉ còn biết thổ lộ lòng mình qua mấy câu thơ nuối tiếc
mà ông bí mật nhờ lính gác gửi tận tay ý trung nhân:
Ước gì kéo được thời gian
Cho tôi trẻ lại, cho nàng già hơn
Khi phụ trách tờ Tiếng nói tự do, Sơn Vương lại sáng tác một
bài thơ dài có tựa Vịnh Hai Bà Trưng để thổ lộ lòng mình với Lệ Hoa. Sợ chưa đủ
cho người đẹp hiểu thấu tâm tình, ông lại bỏ ra cả ngày trời, dùng chiếc bút
máy hiệu Kaolo mang từ đất liền ra tỉ mẩn chép bài thơ dài hơn 400 chữ này lên
mặt sau của vỏ một bao diêm và gửi cho Lệ Hoa. Quả nhiên, bức thư tình đọc bằng...
kính lúp độc đáo ấy đã khiến trái tim cô hoa khôi chao đảo. Vài ngày sau, cô học
trò xưa đã trả lời thầy giáo cũ bằng hai hàng chữ nắn nót:
Sa trường chí nhượng tài trai
Phòng xuân trỗi gót dặm ngoài có em.
Tình cảm đã trở nên sâu đậm, nhưng vẫn đang là một người tù,
nên Sơn Vương đành nén lại, chờ đợi. Cuối cùng, ông cũng đã tìm được thời điểm.
Khi trở thành Chủ tịch ủy ban hành chính Côn Đảo, Sơn Vương lập tức chỉ định
ngay Lệ Hoa làm Hội trưởng Hội phụ nữ của đảo. Từ đây, người tù đã có thể công
khai trò chuyện với người yêu mà không sợ sự ngăn cấm của ông bố Vệ Liễn - người
gác ngục.
4) Đảo quốc Côn Lôn và những tham vọng phiêu lưu
Công bằng mà nói, trong thời gian nắm quyền lãnh đạo quần đảo
Côn Lôn, Sơn Vương đã làm được khá nhiều điều tốt đẹp, góp phần ổn định cuộc sống
và giữ gìn an ninh trật tự trên đảo. Nhưng đó chỉ là giai đoạn đầu, khi những
người Cộng sản còn có mặt. Ngay sau khi phái đoàn Văn Cừ trở về đất liền, không
còn ai kiềm giữ, bản chất lục lâm thảo khấu, anh hùng cá nhân trong con người
Sơn Vương mới thật sự bộc lộ.
Đầu tiên, Sơn Vương cho sửa sang lại phần mộ của nhà cách mạng
Nguyễn An Ninh và tổ chức một lễ tế khá rình rang. Trước bàn thờ mới lập, khói
hương nghi ngút, Sơn Vương tuyên bố:
- Từ nay, quần đảo Côn Lôn chính thức trở thành “Quốc gia
trung lập dân chúng quần đảo An Ninh” (Etat neutre des Insulaire de L’ Archipel
d’ An Ninh).
Đồng thời, ông tự xưng là... Quốc vương của “quốc gia” mới lập.
Không ít người trên đảo tỏ ý không phục, Sơn Vương tìm cách giải thích bằng
cách tung ra luận điệu:
- Tên tôi là Sơn Vương, có nghĩa là “Vương” của đảo Côn Sơn,
mệnh ấy do trời định.
Giải thích xong, Sơn Vương tuyên bố:
- Bất cứ ai chống lại mệnh trời, người đó sẽ bị trừng trị.
Chưa hết, dù các ban bệ trên đảo đều được thành lập bằng con
đường bầu cử, nhưng Sơn Vương vẫn cố tình biến nó thành một thứ triều đình. Mỗi
một buổi họp, Sơn Vương chễm chệ trên chiếc ghế bành kê ở thềm cao, bá quan văn
võ xếp hai hàng ngồi thấp phía dưới. Trước khi muốn báo cáo, mọi người đều phải
tiến ra giữa hai hàng người chắp tay trước mặt Sơn Vương và mở đầu bằng câu:
“Thưa thủ lãnh...!”.
Sau ngày 15.12.1945, không còn người tù chính trị nào ở lại,
cả đảo chỉ còn lại toàn thường phạm cũ, cho nên triều đình phường tuồng của Sơn
Vương không bị ai phản đối. Nhưng, đám lưu manh cũng nhân cơ hội đó ngóc đầu dậy,
hành hung sách nhiễu dân chúng trên đảo. Cảnh sát trưởng Nguyễn Thành út vốn xuất
thân là một tên du thủ du thực, bị kết án 10 năm khổ sai, đã nhiều lần ngang
nhiên vào nhà dân giở trò cướp bóc, trêu ghẹo phụ nữ. Biết chuyện, thay vì đưa
út ra kỷ luật công minh, Sơn Vương lại có cách xử sự hết sức quái chiêu và đẫm
chất giang hồ. Trước văn võ bá quan, ông thẳng tay giáng cho Nguyễn Thành út một
tát tai và ném ra lời thách thức:
- Tôi với anh giao đấu tay đôi. Nếu thắng, anh muốn làm gì mặc
sức. Nếu thua, tôi sẽ chặt một cánh tay để anh khỏi làm bậy.
Tự lượng sức không thắng nổi Sơn Vương, Nguyễn Thành út đã dập
đầu lạy như tế sao, xin Sơn Vương tha tội. Từ đó, nạn cướp bóc, sách nhiễu dân
chúng mới lắng xuống.
Trở thành “quốc vương” của quần đảo, Sơn Vương bắt đầu nghĩ đến
việc thực hiện giấc mơ của ông: cưới Lệ Hoa làm vợ. Ông đặt ra một
bài vè tự ca ngợi mình, bắt trẻ con trên đảo hát, coi đó như “Quốc ca Côn Lôn
quốc”. Trong đó có câu:
Lệ Hoa đệ nhất Côn Lôn quốc
Trương Vạn Năng tứ hải vô song...
Tình thâm của Sơn Vương, con gái người gác ngục không từ chối.
Nhưng Vệ Liễn, cha cô thì vẫn khăng khăng cự tuyệt, không chịu gả con gái cho
“tên tù kẻ cướp”. Thuyết phục mãi không được, Sơn Vương đành phải lập kế. Ông
cho hàng loạt đàn em thảo đơn tố cáo tội ác của giám thị Nguyễn Văn Liễn đối với
tù nhân của chế độ trước. Lá đơn tố cáo với hàng chục chữ ký được đệ trình lên
cho “quốc vương” yêu cầu minh xét. Nắm cớ, Sơn Vương sai Cảnh sát trưởng Nguyễn
Thành út bắt Vệ Liễn tống giam để “điều tra”.
Cha bị bắt, Lệ Hoa hoảng sợ, vào gặp Sơn Vương khóc lóc, năn
nỉ xin thay cha chuộc tội. Chỉ đợi đến đó, Sơn Vương liền sai một tay Hội đồng
dân biểu là Nguyễn Văn Đây (Hai Đây) vào khám gặp Vệ Liễn. Hai Đây vạch cho
viên cựu giám thị rõ:
- Ông chỉ còn một con đường, gả cô Lệ Hoa cho Sơn Vương, nếu
không sẽ chết. Nếu gả con gái, ông nghiễm nhiên đã là nhạc phụ của chúa đảo, tất
nhiên không ai dám đụng đến ông, mọi tội lỗi xưa coi như xóa sạch.
Vệ Liễn suy nghĩ hồi lâu, sau đó xin được gặp con gái và đem
toàn bộ thiệt hơn hỏi ý Lệ Hoa. Dù trong lòng cờ mở trống giong nhưng Lệ Hoa
cũng vờ tỏ ra miễn cưỡng khi gật đầu, không quên kèm theo lệ chảy hai hàng. Cô
muốn tỏ rõ một sự hy sinh đành nhận lời bán mình chuộc cha cho thật giống Thúy
Kiều, dù trong tim cô không còn mơ ước nào lớn hơn là được làm vợ Sơn Vương.
Ngày 28.2.1946, đám cưới của Sơn Vương - Lệ Hoa được tổ chức.
Lúc này, trên đảo còn lại 200 bao gạo, một phần ba trong đó đã mục nát. Sơn
Vương cho xuất một phần số gạo mục này ra xay bột làm bánh hỏi, bún, bánh bò rễ
tre, nấu rượu và cho bắt heo quay làm tiệc đãi khách. Để xứng đáng với địa vị một
quốc vương, ông sai người dọn dẹp, quét vôi trang trí lại ngôi nhà của chúa đảo
Hilaire để làm tổ ấm hạnh phúc đón dâu. Chiếc xe Jeep của chúa đảo cũng được
sơn lại và kết hoa để làm xe rước dâu. Xe hoa chở cô dâu chú rể chạy lòng vòng
khắp đảo suốt cả buổi sáng. Trẻ con trên đảo chạy theo la hét inh ỏi. Trên xe,
Sơn Vương liên tục vẫy tay chào đám “thần dân”. Đến tận sáng hôm sau, mọi người
vẫn tha hồ ăn uống và nhảy múa. Có lẽ, đây là đám cưới lớn nhất có một không
hai ở Côn Đảo.
Khi quyết định tổ chức đám cưới linh đình, Sơn Vương đã gặp
không ít lời dị nghị và phản đối. Đang say cả men tình lẫn men quyền lực, ông vẫn
bất chấp. Ngay sau hôm hôn lễ, có một người là ông già Quýt đã công khai đứng
ra chỉ trích Sơn Vương về hai tội: Thứ nhất, lạm dụng quyền hành để ép hôn Lệ
Hoa. Thứ hai, tổ chức đám cưới quá thừa mứa và lãng phí, trong khi lương thực,
thực phẩm trên đảo đã cạn kiệt. Đang ngây ngất, Sơn Vương đùng đùng nổi giận
sai thủ hạ giết chết ông lão. Ngày 26.3.1946, xác ông già Quýt được phát hiện.
Dân chúng trên đảo lập tức kéo nhau đến dinh chúa đảo, gào thét đòi truy tìm và
trừng trị kẻ thủ ác. Lúc này, Sơn Vương mới bắt đầu nao núng, đành phải hứa tổ
chức điều tra.
Do không được tiếp tế, Côn Đảo bắt đầu phải đối diện với nạn đói,
thiếu thuốc men, nhu yếu phẩm nghiêm trọng. Bí thế, Sơn Vương vội cử người về đất
liền xin viện trợ. Nhưng chờ mãi, đoàn sứ giả vẫn không quay trở lại. Túng quẫn,
đám lưu manh lại bắt đầu lộng hành, tha hồ đào tường khoét vách, bắt cóc tống
tiền không sao dẹp hết. Nhiều người dân trên đảo không chịu nổi đã liều lĩnh tự
đóng ghe, bè trốn về đất liền. Không quản nổi trật tự, Sơn Vương bèn ban lệnh:
ai tự ý bỏ trốn sẽ bị nhốt xà lim chín tháng. Vô ích. Số người bỏ trốn vẫn ngày
một tăng. Trong khi đó, radio lại phát ra toàn tin xấu: Pháp đã tái chiếm Nam Kỳ,
chiến tranh đã quay trở lại... Côn Đảo đã bị cô lập và viễn cảnh bị Pháp tái
chiếm đã không còn xa xôi nữa.
Trong tình cảnh rối ren đó, Lệ Hoa tỏ ra sáng suốt hơn cả. Cô
khuyên Sơn Vương: nên về đất liền tham gia kháng chiến hơn là ngồi bó tay chờ
Pháp đến nộp mình.
Sơn Vương đồng ý. Ông thảo công văn gửi Chủ tịch ủy ban kháng
chiến tỉnh Sóc Trăng Dương Kỳ Hiệp ngỏ ý muốn xin về kháng chiến, đồng thời nhờ
ông chủ tịch tạo điều kiện cho sứ giả của Sơn Vương gặp phái đoàn Văn Cừ để bàn
tính dọn đường về. Đoàn sứ giả gồm: Trần Phẩm - cựu tù nhân, mã tà 88 Đức và
hai thành viên khác (một nam, một nữ) trong ủy ban hành chính Côn Đảo. Vào đất
liền, hai tuần sau họ mới trở lại nhưng không bắt được liên lạc. Họ cho biết:
trong đất liền, chiến tranh đã lan rộng, quân Pháp đã chiếm được nhiều nơi.
Nóng lòng và hoang mang, Sơn Vương tính nước manh động đánh
bài... chuồn! Ngày 20.3.1946, ông cho hạ thủy một chiếc thuyền, dự định cùng Lệ
Hoa và một số người tin cẩn bỏ trốn. Nhưng do thuyền đóng vội, vừa xuống nước
đã bị sóng đẩy vào bờ đá và đánh vỡ tan nên dự định đã bất thành.
Biết không còn đường rút, ngày 25.3.1946, Sơn Vương đã tập
trung dân chúng để nghe ông đọc một bài diễn văn xin nhường quyền cai trị lại
cho những người Pháp trên đảo. Nhưng, những người Pháp có mặt đã không nhận.
Ông lại phái thêm 3 người về đất liền đi sứ, yêu cầu Pháp tiếp tế lương thực
cho Côn Lôn, đồng thời xin cho mình một bộ đồ, 1 súng lục, 1 nón nỉ và 1 xe đạp.
Giấc mơ “định bá đồ vương” trong tuyệt vọng đã teo lại thành vài món đồ vặt
vãnh, song Sơn Vương cũng không được toại nguyện. Thay vì trả lời, quân Pháp đã
tống giam 3 sứ giả của Sơn Vương vào bót Catinat và phái tàu chiến ra tái chiếm
Côn Đảo.
Ngày 8.4.1946, đại úy Gimbert chỉ huy ba chiến hạm chở 2 đại
đội lính hỗn hợp gồm cả Pháp, Âu - Phi và lính bản xứ tiến vào Côn Đảo theo đường
Bãi Nhà Thờ. Mờ sáng, nghe đại bác Pháp bắn lên bãi để dọn đường, Sơn Vương đã
dẫn toàn bộ “triều đình” chờ sẵn ở bậc thềm trụ sở để nghênh tiếp. Nhưng, ông
không còn đủ thời gian để đọc nốt bài diễn văn cuối cùng của đời mình. Theo lệnh
của Gimbert, Sơn Vương và toàn bộ tù thường phạm còn lại (gồm 400 người) đã bị
tống giam ngay tức khắc. Riêng Lệ Hoa và gia đình cô, Pháp vẫn cho tự do ở trên
đảo.
Khi ba chiến hạm Pháp vừa tiến vào Bãi Nhà Thờ, một tên Việt
gian là Đinh Công Thành đã bí mật lẻn ra Sở Muối cung cấp tin tức và dẫn đường
cho quân Pháp đổ bộ. Sơn Vương bị tống ngục, tên Thành mượn gió bẻ măng, đứng
ra tố cáo ông là phần tử nguy hiểm, cần phải canh gác cẩn thận. Vì vậy, Sơn
Vương bị quân tái chiếm đối xử hết sức tàn tệ, suýt nữa bị đem ra hành hình tại
chỗ. Nhờ có Lệ Hoa và giám thị Toustou đứng ra xin giúp, ông mới tránh được cái
chết đã kề gang tấc.
Vào tù, Sơn Vương lại gặp thêm một đại nạn. Bị ông tát tai sỉ
nhục dạo trước, tên lưu manh Nguyễn Thành út nung nấu chờ cơ hội trả thù. Hắn
đã không ngần ngại bịa ra chuyện Sơn Vương đang giữ bản đồ kho báu của Gia Long
giấu lại trên đảo khi chạy trốn quân Tây Sơn năm 1783. Tưởng thật, chúa đảo
Gimbert và tên cò Pellier đã tra tấn Sơn Vương hết sức dã man để bắt ông khai
nơi giấu bản đồ. Bị đánh đập quá đau, Sơn Vương đành nhận bừa là có kho báu và
vẽ lại một tấm bản đồ ma. Vì tội đó, ông lại bị thêm hàng chục trận đòn dã man
khác.
Năm 1947, Sơn Vương bị điệu về Sài Gòn để hầu tòa. Với hai tội
danh mới là cưỡng hôn Lệ Hoa và giết ông già Quýt, Sơn Vương phải lĩnh thêm một
án tù chung thân khổ sai. Sau đó, ông bị đưa ra lại Côn Đảo để thi hành án, trở
thành tù nhân mang thẻ số 313C, giam tại hầm số 8, khu biệt lập, lao 2. Vào tù,
ông viết thư cho vợ Vệ Liễn, yêu cầu bà thuyết phục chồng về Sài Gòn làm việc để
Lệ Hoa có cơ hội tái giá, và quên hẳn mình. 6 tháng sau, Sơn Vương nhận được
thư, một số nhu yếu phẩm và 2000 đồng do Lệ Hoa gửi người quen cầm vào. Sau đó,
chim trời cá nước, cả hai bặt tin nhau cho đến tận cuối đời.
Sáu năm sau, ngày 8.8.1953, trong một buổi được ra ngoài lao
động, Sơn Vương đã bất ngờ chạm trán với Nguyễn Thành út, kẻ đã vu oan giá họa
cho ông trong chuyện “kho vàng”. Lúc này, út đã được bọn gác ngục cho làm “cặp
rằng” để hành hạ tù nhân. Máu hận thù sôi lên đẩy Sơn Vương xông tới. Nắm chặt
cổ áo tên chó săn đã vu oan giá họa cho mình, Sơn Vương bảo:
- Mày là con chó không đáng sống. Nhưng nếu bây giờ tao giết
mày, người ta lại bảo là tao trả thù không quân tử. Thôi thì tao cho mày cơ hội
cuối cùng, mày với tao quyết đấu. Muốn chơi bằng thứ vũ khí gì, mày hãy chọn
đi.
Không còn đường trốn tránh, Sơn Vương vừa quay lưng, Nguyễn
Thành út đã vớ ngay một khúc cây, từ phía sau nhắm thẳng đầu ông bổ xuống. Cú
đánh lén không đạt mục đích. Chỉ một cú xoay người Sơn Vương đã tước được vũ
khí của tên lưu manh mạt hạng. Thuận tay, ông giáng cho hắn một gậy nằm quay
đơ. Vốn căm ghét tên “cặp rằng” tàn ác, các tù nhân khác đã không can thiệp để
mặc cho Sơn Vương đập nát thây Nguyễn Thành út. Vì tội mới, Sơn Vương lại phải
nhận thêm một án chung thân khổ sai nữa. Theo qui định, án chung thân hồi đó được
tính là 32 năm. Tổng cộng, đời Sơn Vương đã 4 lần nhận án gồm 1 lần 5 năm, 1 lần
10 năm và hai án chung thân (32 năm). Tính tổng cộng, ông phải nhận mức án những
79 năm tù.
Mãi cho đến năm 1968, sau đúng 34 năm ngồi tù (từ 1933), Sơn
Vương mới được ân xá. Trước đó, năm 1967, tờ Tin Sáng và một số tờ báo đối lập ở
Sài Gòn đã liên tục đăng bài điều tra về chế độ hà khắc, phát xít của nhà tù
Côn Đảo. Cũng trong năm này, liên minh Thiệu - Kỳ đã đắc cử Tổng thống và Phó Tổng
thống Việt Nam Cộng hòa. Để mị dân, Thiệu - Kỳ hứa sẽ tìm hiểu và cải thiện điều
kiện sinh hoạt ở Côn Đảo. Biết Sơn Vương ngày xưa từng là một nhân vật khá có
tiếng tăm, trong khi hiện tại gần 60 tuổi, đã sức tàn lực kiệt, không còn khả
năng gây nguy hại cho bộ máy quyền lực Việt Nam Cộng hòa, Thiệu - Kỳ quyết định
giải thoát cho Sơn Vương, hòng lấy lòng dân chúng. Ngày 18.11.1968, ông được
phóng thích. Thiệu - Kỳ đã điều hẳn một chiếc trực thăng quân đội bay ra đảo
đón ông về.
Trở lại đời thường, Sơn Vương được khá nhiều báo chí thời đó
săn đón. Thiên phóng sự Sơn Vương - người tù thế kỷ mà ông cho đăng feilleuton
trên một số báo chí chỉ khiến dư luận ồn ào được một thời gian ngắn. Chiến
tranh đang ngày một khốc liệt, người dân miền Nam còn nhiều chuyện đáng để quan
tâm hơn một số phận Sơn Vương.
Bị cuộc đời quên lãng, Sơn Vương lặng lẽ lui về sống ẩn dật ở
một ngôi nhà nhỏ trong con hẻm ngoằn ngoèo, nay là nhà số 137/52 Nguyễn Cư
Trinh, quận 1, Tp. Hồ Chí Minh. Tại đó, ông mưu sinh bằng nghề bốc thuốc Nam
gia truyền. Căn nhà nhỏ có gác gỗ này do bà Phạm Thị Hoa - người vợ gá nghĩa
lúc tuổi đã xế bóng - tậu cho ông. Năm 1978, Sơn Vương ly dị bà Hoa, tiếp tục
gá nghĩa với Nguyễn Thị Tám, một người đàn bà thua ông 30 tuổi.
Thỉnh thoảng, một vài người khách, thường là các nhà văn, nhà
nghiên cứu sử học, những người có quan tâm đến lịch sử nhà tù Côn Đảo có ghé đến
ngôi nhà nhỏ thăm hỏi Sơn Vương. Thời gian còn lại, ông sống trong cô độc,
không bạn bè, không gia đình và không cả hồi quang quá khứ. Mỗi lúc có khách,
ông già Sơn Vương ngày thường sống âm thầm, lặng lẽ lại tỏ ra hoạt bát hẳn.
Trong những lúc hồi tưởng lại thời quá vãng, Sơn Vương thường tỏ ý tiếc nuối bởi
thời trai trẻ dọc ngang không gặp được cách mạng, không đem được tài năng nhiệt
huyết cống hiến cho dân tộc. Ông thường ngửa mặt than:
- Vì máu anh hùng cá nhân, đời tôi vĩnh viễn chỉ còn lại là
huyền sử quá gần tội lỗi, không còn dịp để bước vào chính sử như sở nguyện.
Những lúc như vậy, Sơn Vương thường để khách ngồi lại một
mình bên bàn trà, chạy xuống bếp, xách lên một con dao yếm. Vén áo, phơi bụng
và vận công, Sơn Vương mạnh tay chém dao bình bịch vào bụng, mặc cho khách trợn
mắt, tái mặt vì kinh sợ và thầm phục. Sau đó, khẽ vuốt lại những đường lằn nổi
đỏ trên khoang bụng, tay giang hồ tóc bạc lại nở một nụ cười buồn và tự huyễn
hoặc mình, rằng:
- Bụng vẫn còn cứng!
Năm 1984, Sơn Vương trở lại quê nhà Gò Công và mất tại đó vào
năm 1987.
5) Và cha và con và...
Giữa tháng 8 năm 1999, hơn 12 năm sau ngày Sơn Vương mất, bằng
những tư liệu về ông thu thập trong nhiều năm, trên báo An ninh thế giới chúng
tôi đã cho đăng một loạt tư liệu nhiều kỳ có tựa là: Quái kiệt Sơn Vương và 32
năm ngồi tù khổ sai Côn Đảo. Chưa thật đầy đủ, song loạt bài cũng đã cung cấp
cho người đọc được những nét chính về một nhân vật giang hồ kỳ lạ và khá độc
đáo, một hình ảnh mang đậm cá tính phóng khoáng, kiên cường của người Nam Bộ những
thập niên đầu của thế kỷ XX. ít nhiều, loạt bài viết cũng có được khá đông đảo
bạn đọc đón nhận với thái độ quan tâm thú vị. Một số bạn đọc sau đó còn nhiệt
tình giúp chúng tôi tìm thêm tư liệu hình ảnh về nhân vật, hòng hoàn thiện thêm
bức chân dung độc đáo và khá lãng mạn của một tay giang hồ quái kiệt.
Một tháng sau ngày loạt bài ra số đầu tiên, tại một căn nhà
khang trang trên đường Tân Kỳ Tân Quý, quận Tân Bình, chúng tôi đã may mắn được
tiếp xúc và trò chuyện với một bạn đọc hết sức đặc biệt và bất ngờ. Đó là một
bà cụ chừng 70 tuổi, dáng vẻ khá lịch lãm, tự tin - phong cách thường gặp ở những
tao nhân mặc khách. Trên khuôn mặt của cụ, tuổi tác vẫn chưa xóa hết được dấu vết
của một người đàn bà có nhan sắc mặn mà, khi còn trẻ có thể được xem là mỏng
mày hay hạt. Rót nước mời chúng tôi, bà cụ tự giới thiệu về mình:
- Tôi là Trương Ngọc Nữ, con gái của nhà văn Sơn Vương Trương
Văn Thoại. Tôi vừa về từ Canada được đúng một ngày.
Lời giới thiệu khiến tôi giật mình. Quả thật, người đàn bà ngồi
trước mặt tôi giống Sơn Vương như đúc. Cũng khuôn mặt nhỏ, thanh tú, cũng sống
mũi cao, vầng trán rộng và đặc biệt là cái miệng với đôi môi luôn mím chặt...
So với ảnh Sơn Vương lúc về già, bà Nữ không khác chút nào. Không thể nghi ngờ,
song tôi hết sức phân vân, bởi trong quá trình tìm tư liệu về ông kéo dài suốt
nhiều năm, tôi chỉ biết chắc một điều là Sơn Vương có khá nhiều vợ nhưng chưa
bao giờ nghe ai nhắc đến chuyện tay lãng tử bạc đầu này có một người con. Mối
băn khoăn vừa thoáng hiện ra đã lập tức được xua tan bởi dòng hồi ức tuôn như
suối của bà Trương Ngọc Nữ...
Khoảng giữa năm 1930, khi vị Đại sư ẩn danh ở núi Ông Trịnh bắt
đầu lâm trọng bệnh thì việc học võ và học đạo của Sơn Vương bắt đầu bị gián đoạn.
Anh thường hay rời núi về Sài Gòn tìm thuốc cho thầy, sau đó tìm nơi ở trọ để
tĩnh tâm bắt đầu theo đòi món nợ văn chương. Chỗ trọ đầu tiên của gã lãng tử là
một xóm nhỏ ở xã Nhị Thành, huyện Hóc Môn. Tại đó, Sơn Vương đã trót phải lòng một
cô hàng xén. Buổi sáng, cứ đúng giờ Sơn Vương dậy chạy thể dục, luyện công thì
đầu xóm, cô thôn nữ cũng dậy sớm để dọn hàng. Thói quen giờ giấc đã xui họ gặp
gỡ, phải lòng nhau và lén lút ăn ở với nhau. Trót đa mang một kiếp giang hồ rày
đây mai đó, Sơn Vương không lưu lại lâu dài nơi xóm vắng. Ngày rời đi, Sơn
Vương không hề chia tay với người yêu, cũng chẳng có lấy một lời thề hẹn hay nhắn
nhủ. Thói mai quán chiều lều đã khiến Sơn Vương không hề biết rằng có một giọt
máu của anh đang hoài thai trong lòng cô thôn nữ. Khi cô hàng xén trở dạ sinh
được một bé gái kháu khỉnh thì Sơn Vương đã bặt tăm cá nước chim trời, không một
lần lai hồ cố thổ. Một mình Sơn Vương vô tình nhưng cô thôn nữ thì không. Dù gã
người tình không hề quay trở lại, cô vẫn lấy họ của anh để đặt cho con gái cái
tên Trương Ngọc Nữ.
Ngọc Nữ càng lớn càng xinh đẹp, giống cha như đúc, được ăn học
tử tế đàng hoàng. Sau này, qua lời mẹ kể, cô biết mình có một người cha phiêu bạt
từ lâu nhưng hiện ở phương nào thì cô chịu chết. Ngoại trừ cái tên Trương Văn
Thoại, cô không biết gì thêm về cha đẻ của mình.
Năm 17 tuổi, Ngọc Nữ bỏ nhà vào bưng theo kháng chiến. Nhờ có
học thức, cô nhanh chóng trở thành thư ký của ủy ban Hành chính kháng chiến Nam
Bộ, sau đó trở thành thư ký riêng của trung tướng độc nhãn Nguyễn Bình. Thời
gian đầu, cô gái trẻ gọi vị tướng bằng chú, không hay biết chú Bình chính là
người em kết nghĩa Nguyễn Phương Thảo thời trai trẻ của cha mình. Tướng Nguyễn
Bình cũng không mảy may nghĩ đến việc cô thư ký trẻ trung xinh đẹp cạnh mình lại
chính là giọt máu rơi của người anh kết nghĩa Sơn Vương. Thời kháng chiến, việc
nước ngập đầu, không phải lúc nào người ta cũng có thời gian để nhận ra một mối
duyên riêng tư kỳ ngộ, dù nó vẫn tồn tại ngay bên cạnh. Trong những lúc trò
chuyện hiếm hoi, cả hai chú cháu cũng chưa bao giờ nhắc đến Sơn Vương.
Có thể coi cô gái Trương Ngọc Nữ là một hình mẫu của típ sinh
viên học sinh Sài Gòn xếp bút nghiên theo kháng chiến, đến với cuộc đấu tranh của
cả dân tộc bằng cả bầu nhiệt huyết lẫn sự ngây thơ lãng mạn. Sự khắc nghiệt của
chiến tranh không hề làm giảm mà ngày một tăng sự kính phục hóa thành ngưỡng mộ
trong lòng cô đối với Nguyễn Bình - vị tướng oai hùng và cũng rất hào hoa. Vì
thế, trước những lời ngỏ ý gần xa của các anh Vệ quốc đoàn, cán bộ kháng chiến
cùng cơ quan hay những người vì công tác thường có dịp ghé ngang khu bộ, cô gái
trẻ vẫn không hề lay động. Tất cả tâm trí, tình cảm, cô dành hết để nghĩ về một
người, không ai khác chính là vị tướng lớn hơn cô 15 tuổi. Dĩ nhiên, tướng Nguyễn
Bình không khó gì mà không nhận ra tấm ân tình mà cô gái trẻ dành trọn cho ông.
Trong thâm tâm, vị tướng cũng hết mực cảm mến, thường tỏ ra đặc biệt quan tâm
chăm sóc cô nhân viên xinh đẹp. Không biết từ bao giờ, từ chú cháu, hai người
đã đổi sang gọi anh, em trìu mến. Nhưng tất cả chỉ dừng lại ở mức độ đó, bởi tướng
Nguyễn Bình lúc đó đã có gia đình.
Mối tình câm của cô học sinh thành thị bỏ nhà theo kháng chiến
đang vào hồi vô vọng thì Ngọc Nữ nhận được hung tin: tướng Nguyễn Bình hy sinh
khi trên đường ra Bắc công tác. Thương nhớ đã khiến lòng cô hóa đá. Từ đó, cô bỏ
ngoài tai tất cả mọi lời ong bướm của không biết bao nhiều chàng trai ngưỡng mộ,
chỉ khư khư giữ trong lòng mình một hình bóng Nguyễn Bình mà không hề thổ lộ
cùng ai. Thỉnh thoảng, để nguôi ngoai thương nhớ, cô lại len lén bày ra một trò
mê tín: cầu cơ. Cô tin rằng đó là cách duy nhất để cô có thể tự do được trò
chuyện, thổ lộ tâm tình với vị tướng đã khuất mà cô hằng yêu trộm nhớ thầm. Nhiều
năm trôi qua, gia tài quí nhất mà cô giữ khư khư - đến tận ngày nay - là cuốn sổ
dày chép lại hàng trăm bài thơ - “biên bản” những lần trò chuyện bằng cách cầu
cơ giữa cô với linh hồn đã khuất của tướng Nguyễn Bình. Không nói thì ai cũng
biết, trong những bài thơ ấy, cô cứ mãi là một Trương Ngọc Nữ vĩnh viễn 17 tuổi.
Năm 1964, khi tuổi thanh xuân đã sắp trôi qua hết, cô mới chịu
lập gia đình. Chồng sắp cưới của cô là một kỹ sư hàng không dân dụng làm việc tại
phi trường Tân Sơn Nhất. Ngày cưới sắp đến thì báo chí Sài Gòn đua nhau đăng
tin: Tội nhân chung thân cấm cố khổ sai Trương Văn Thoại, tức nhà văn kiêm tướng
cướp Sơn Vương lừng lẫy một thời sẽ được đưa về Sài Gòn để làm nhân chứng cho một
phiên tòa. Đến lúc này, người mẹ của Ngọc Nữ mới cho cô hay Sơn Vương chính là
cha đẻ của cô. Chưa kịp mừng vì biết tin cha còn sống, lại biết thêm rằng ông từng
là một nhà văn, Trương Ngọc Nữ đã cảm thấy choáng váng và xấu hổ khi phải nhìn
nhận mình có một người cha là tên cướp lừng danh. Nhưng tình máu mủ thiêng
liêng đã trở thành sự thôi thúc mãnh liệt và không thể cưỡng. Nhờ sự tháo vát của
người chồng chưa cưới, Ngọc Nữ đã xin vào được tận buồng giam để lần đầu tiên
được biết mặt cha. Tất cả chỉ hai lần gặp mặt, mỗi lần 30 phút. Nước mắt mừng tủi
của cuộc hạnh ngộ trùng phùng không san bằng hết được khoảng cách giữa hai cha
con. Trừ những người trong nhà, Ngọc Nữ không hề kể cho ai nghe về cuộc gặp gỡ.
Trong nhà tù, dù rất muốn, họ vẫn không hề gọi nhau bằng hai tiếng cha, con, chỉ
gọi nhau bằng chú, cháu. Sơn Vương xấu hổ không dám xưng cha bởi với con gái
ông không hề có ơn dưỡng dục. Ngọc Nữ thì cố chấp không chịu thừa nhận một tướng
cướp là cha.
Tình trạng dùng dằng này tiếp tục tái diễn khi Sơn Vương được
trả tự do vào năm 1968. Ra tù, Sơn Vương không về sống chung với vợ con mà tiếp
tục số phận ăn quán ngủ đình. Vợ cũ của ông, mẹ của Ngọc Nữ đã mất, giữa hai
cha con mối ràng buộc máu mủ cũng không làm mặn nồng hơn những tình cảm trước
ngày gặp mặt nhau. Đôi lúc, có viếng thăm hay vô tình gặp gỡ, hai cha con vẫn
cương quyết giữ cách xưng hô chú, cháu. Sơn Vương thỉnh thoảng cũng có viết cho
con gái mấy dòng thư, chủ yếu để giải thích chuyện này chuyện nọ hoặc bày tỏ sự
nuối tiếc với con gái. Cũng có khi ông gửi cho con gái một vài bức ảnh của mình
nhưng lời đề tặng ở mặt sau lại cố tình ghi chệch đi là “Tặng cháu Ngọc Nữ,
theo yêu cầu của cháu” hoặc một lý do gì đó tương tự, cố xóa đi mọi vết tích có
thể gúp nhận diện mối quan hệ cha con. Hầu như Ngọc Nữ chẳng bao giờ trả lời
thư ông. Nhưng không hiểu sao, tất cả mọi lá thư ấy cô đều cất giữ rất kỹ càng.
Có lẽ, dù có bộc lộ hay không thì tình cha con cũng là điều có thật và không thể
chối bỏ.
Sau năm 1975, bà Trương Ngọc Nữ theo chồng sang định cư tại
Toronto (Canada). Mối liên hệ giữa hai cha con xa cách dần dần. Thậm chí khi
Sơn Vương mất cũng phải nhiều tháng sau bà mới biết tin...
Tại Canada, gia đình bà Trương Ngọc Nữ sống tương đối bình lặng
nhưng thành đạt. ít nhiều một chút máu văn chương và nghiệp cầm bút của Sơn
Vương vẫn còn được lưu truyền trong những hậu duệ của ông đang sinh sôi nảy nở ở
xứ người. Một cô con gái bà Ngọc Nữ, tức cháu ngoại Sơn Vương hiện đang là chủ
bút của tờ Sài Gòn Toronto, một tờ báo tiếng Việt xuất bản tại Canada. Chính vì
mối quan tâm đối với lĩnh vực thông tin báo chí nên dù ở cách xa nửa vòng trái
đất, gia đình bà Ngọc Nữ vẫn thường xuyên tiếp xúc được với không ít sách báo từ
trong nước gửi sang. Nhờ đó, loạt bài viết của chúng tôi về quái kiệt Sơn Vương
đã có dịp khuấy động một chuỗi hồi ức buồn trong tâm hồn họ. Theo lời của bà
Trương Ngọc Nữ thì phải đến tận lúc đọc loạt bài viết của chúng tôi, bà mới hiểu
rõ được thân thế của người cha đã khuất. Lần đầu tiên bà nhận ra rằng không chỉ
là một tướng cướp mà danh xưng chỉ gợi lên một khái niệm tội lỗi hay một sự
băng hoại về mặt nhân cách, người cha Sơn Vương của bà còn là một tay hảo hán
thực thụ, coi thường và căm giận bạo lực áp bức, đầy lòng nhân ái với người
nghèo. Những vụ cướp kinh thiên động địa của ông không phải chỉ để mưu cầu cho
riêng bản thân một cuộc sống xa hoa mà hướng nhiều tới mục đích cứu giúp người
khốn khó và trừng trị những kẻ nợ máu, làm giàu trên sự bần cùng và xương máu của
nhân dân. Quan niệm, việc làm vị nghĩa của Sơn Vương có thể sai lầm về cách thức
song rất đáng được trân trọng. Cũng chính vì những việc làm ấy nên ông mới phải
giam thân hơn 30 năm trời phía sau song sắt nhà tù, cho nên mới không thể nuôi
dạy con cho tròn đạo làm cha, kể cũng không thể trách. Hơn thế nữa, với một người
cha như Sơn Vương, bà Ngọc Nữ tự thấy mình còn có thể tự hào, bởi người cha của
bà đã ít nhiều dự phần vào lịch sử, hay nói đúng hơn, đã trở thành nhân chứng của
một thời... Chưa hết, Sơn Vương còn là anh kết nghĩa của tướng Nguyễn Bình -
người đàn ông mà hình bóng đã khắc sâu vào đáy trái tim bà. Chỉ riêng điều đó
thôi, với bà Ngọc Nữ cũng đã là tất cả.
Đáng tiếc, hiểu ra thì đã muộn. Người cha mà trong đời bà
chưa một lần được gọi tiếng cha đã hóa người thiên cổ, tất cả còn lại chỉ là những
giọt nước mắt tiếc nuối.
Không chịu đựng được nỗi dày vò, ngay sau khi đọc xong loạt
bài trên báo, bà Ngọc Nữ đã vội bay ngay về Việt Nam để tìm gặp cho bằng được
chúng tôi. Qua một người cháu họ - chị Hạnh, nhân viên tín dụng của Ngân hàng
Vietcombank - bà Ngọc Nữ đã nhất quyết mời cho bằng được tác giả bài báo tới
nhà để bà có thể nói một tiếng cảm ơn, đồng thời để được chia sẻ niềm hạnh phúc
được thừa nhận có cha, cho dù hạnh phúc ấy đến với bà đã quá muộn màng.
Dĩ nhiên, là một người cầm bút, không ai có thể thờ ơ với số
phận nhân vật của mình. Tôi đã thật sự cảm thấy hạnh phúc khi được trao lại cho
bà Ngọc Nữ toàn bộ những hiểu biết, hình ảnh... về Sơn Vương mà tôi đã thu thập
được. Không ai xứng đáng giữ những kỉ niệm về một người cha hơn chính một người
con. Với tôi, được làm dấu gạch nối cho cuộc chuyển giao đầy ý nghĩa này thật sự
là một duyên hạnh ngộ vượt ngoài mong đợi của nghề cầm bút.
Bà Ngọc Nữ cũng không giấu được nỗi xúc động và những giọt nước
mắt lăn dài. Lần giở cuốn sổ tay ố vàng chép đầy cả trăm bài thơ, những lần trò
chuyện trong tâm tưởng với vong linh tướng Nguyễn Bình, bà khoe với
tôi cả một xấp hình ảnh, thư từ của Sơn Vương mà bà vẫn kẹp ở giữa, được cất giữ
cẩn thận suốt mấy chục năm qua. Giữa bề bộn những trang giấy cũ đã đổi màu ấy,
tôi nhìn thấy còn có những bản sao giấy chứng minh nhân dân, vài trang bản thảo,
một số hình ảnh giấy tờ của Sơn Vương, dăm ba trang báo mà ông là tác giả được
cắt rời, thậm chí còn có cả một bản sao tờ phán quyết ly hôn của ông với người
vợ thứ ba nữa. Bất cứ thứ gì có liên quan đến người cha, bà Ngọc Nữ đều cóp nhặt,
gìn giữ lại như những kỷ vật. Những trang giấy cũ kia với bà là cả một gia tài.
Run run lần giở từng mảnh nhỏ, bà khóc.
Theo hiểu biết của tôi, đến tận lúc chết, hiện hữu trên khuôn
mặt Sơn Vương vẫn là một ánh nhìn với bờ môi mím chặt đầy khinh bạc. Tin chắc rằng
giờ đây, dưới suối vàng, bờ môi ấy sẽ nhoẻn thêm một nụ cười thật hiền lành, thật
ấm áp - nụ cười của một người cha khi được nhận mặt con.
Vũng Tàu, tháng 9.1999
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 9.2003
2- LÝ LONG THÂN
Mãi đến sau này, khi đã là một “hoàng đế không ngai” ngự trị
cùng lúc trên nhiều “vương quốc” như dệt may, sắt thép, máy nông ngư cụ... Lý
Long Thân vẫn là một kẻ có lai lịch bí ẩn đối với mọi người. Ngay bạn bè thân
cũng chẳng biết gì về Lý, chỉ nhìn thấy ông ta như một mẫu người tha hương
thành đạt, giàu có và đầy quyền lực, có thể khuynh đảo cả một phần nền kinh tế
Việt Nam Cộng hòa. Hơn thế nữa, là một trùm mafia của miền Nam trước ngày giải
phóng...
1. Những cuộc “đảo chính từng phần” của gã làm thuê
Hồ sơ của cảnh sát ngụy lập nhiều lần về Lý cũng chỉ sơ sài một
vài thông tin cơ bản nhất. Theo đó, Lý Long Thân sinh ngày 27.8.1918, tại Amoy,
Phúc Kiến, Trung Quốc. Cha mẹ của Lý, ông Lý Ngọc và bà Trương Thị đều là những
nông dân nghèo khó. Đông con nhưng ít ruộng, chật vật lắm ông bà Lý Ngọc mới
nuôi nổi anh em Lý bằng cháo kê, xá bấu (củ cải muối)... Tuổi thơ luôn thèm chỉ
một bữa no đã đốt lên trong lòng Lý Long Thân khát vọng về một sự đổi đời.
Năm 1938, Lý Long Thân tròn 20 tuổi. Nghe lời bạn bè rủ rê,
anh quyết định bỏ xứ đi tha hương lập nghiệp. Thu hết can đảm, Lý nhờ mẹ dẫn đến
nhà người chú họ - một tay phú nông trong làng để vay mượn ít tiền làm lộ phí.
Thay vì móc hầu bao, người chú họ lại móc ruột móc gan mẹ con gã bằng những câu
sỉ nhục:
- Đồ thối thây, ngữ mày thì đi được đến đâu mà học đòi bỏ xứ?
Sức dài vai rộng thì làm gì mà phải đói. Về đi! Đừng bước vào đây mà bẩn nhà
tao. Nhìn thử xuống chân xem có đi nổi đến đâu không?
Mặt đỏ đến tận mang tai, máu chảy giần giật hoa cả mắt, nhưng
Lý vẫn bất giác đưa mắt nhìn xuống. Trong đôi giầy cỏ đã rách nát, những ngón
chân đen đúa, móng vàng ệch vì lội bùn đang thò ra ngọ nguậy.
Không thể chịu đựng nổi, Lý kéo mẹ trở về, đi mà như chạy, vấp
ngã, xiêu vẹo trên con đường mấp mô mù bụi...
Tối hôm đó, Lý thức trắng đêm. Dưới ánh trăng vằng vặc, gã
xoè rộng hai tay, ngó trân trân vào những đường rãnh chạy dọc ngang trên đó, đè
cả lên những vết chai sần thô ráp, tự hỏi không biết đời mình rồi sẽ đổ về đâu.
Về đâu thì mặc, nhưng dứt khoát gã phải ra đi. Đằng nào cũng
chết, làm trai gã không muốn đời mình chết rũ ở xó quê heo hắt này.
Không tiền, Lý và A Chảy - một người bạn cùng xứ - vừa đi vừa
làm thuê, đến giữa năm ấy, cả hai đã có mặt ở cảng Hải Phòng.
Nhưng Hải Phòng không phải là miền đất hứa cho những kẻ tha
hương. Mang tiếng là một hải cảng quan trọng, nhịp thở kinh tế của nó vẫn lèo
tèo, buôn bán không phát triển. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, nước
Pháp - vừa ra khỏi chiến tranh đế quốc chưa lâu - bị tàn phá nặng nề và trở nên
kiệt quệ. Vì vậy chính sách của Pháp đối với xứ Đông Dương thuộc địa là tận
thu. Than, thiếc, gạo, muối... và nhiều thứ hàng hoá, khoáng sản khác của xứ Việt
Nam nghèo nàn cứ nối nhau tuôn xuống Hải Phòng rồi chảy vào giữa những khoang
tàu thuỷ đang toang hoác miệng chờ; sau đó được chở về chính quốc mà không hề
có một thứ gì hồi âm hay gọi là trao đổi trở lại. Xứ Bắc Kỳ quá nghèo, cuộc sống
của người dân chỉ gồm những nhu cầu tối thiểu, đã bị cắt bỏ gần hết, thành thử
hàng nhập về cảng hầu như biệt bóng. Nhìn toàn cảnh, Hải Phòng giống như một trạm
tiếp hàng cho nước mẹ đại Pháp - khá tham lam và keo kiệt - hơn là thành phố cảng
- một cửa ngõ thông thương buôn bán. Nhà máy, công xưởng, rồi bến bãi hầu như
không được đầu tư gì mấy, phô ra giữa nắng mưa một vẻ còi cọc, tiều tụỵ. Giả sử
không có dòng người Trung Hoa cầu thực inh ỏi gọi tìm nhau trên bến; không có
đám du thủ du thực đánh chửi nhau ngoài cảng và không có những gã nhà quê ngờ
nghệch bị nẫng mất tay nải đang kêu khóc váng lên phía cầu tàu thì trông Hải
Phòng chẳng khác gì một công trường thủ công của châu Âu thế kỷ XVII, XVIII bị
bỏ quên cho đến tận bây giờ. Có điều, châu Âu thì Lý và A Chảy chưa
đến, chưa nghe bao giờ, kể cả trong mơ, thế kỷ XVII, XVIII họ cũng chưa từng sống,
cho nên những sự so sánh ấy cả hai đều mù tịt. Lý chỉ thấy cái hải cảng xa xôi ở
phương Nam cũng chẳng khá gì hơn xứ Amoy của cậu, nghĩa là cũng nghèo khó, lam
lũ, không một tí hứa hẹn gì sáng sủa hơn.
Khó khăn lắm hai kẻ tha hương mới lách qua được dòng người
chen chúc vội vã, loằng ngoằng những bu gà, rọ lợn, và vô số những bị, những
làn để vọt lên đến bờ. Và đứng nhìn nhau. Cái ngỡ ngàng của phút đầu tiên đặt
chân lên đất khách quê người không đủ mạnh để xua đi nét lo âu hằn lên trên
khuôn mặt họ. Ngó chiếc ống khói phía xa xa đang tuôn lên vòm trời đầy bụi những
cụm khói u ám và buồn bã, cả hai cùng khẽ thở dài. Rồi cuộc đời họ cũng như những
cụm khói kia thôi, tha hồ cho gió đẩy đưa, lang thang vô định, không biết bao
giờ mới được lai hồi cố thổ.
- Mày tính sao, Lý?
Nghe A Chảy hỏi Lý mới sực tỉnh. Gã gãi mái đầu bờm xờm:
- Tao cũng không biết. Nhưng mà về thì không được, hết tiền rồi.
Vừa nói, Lý vừa lần cạp quần. Đếm đi đếm lại bao nhiêu lần, số
tiền vẫn là 17 xu, chẳng hơn. Mặt A Chảy thượt ra. Lý cười:
- Kệ! Cứ lên phố rồi tính.
Nhưng A Chảy không muốn tính toán gì thêm. Quá chán nản với
bước kiếm tìm vô định, A Chảy quyết định ở lại phụ bán mì với một người quen
tình cờ gặp lại khi cả hai lang thang trên phố. Anh ta không muốn kéo dài thêm
những hy vọng hão huyền về miền đất hứa, chưa chắc đã có gì tốt đẹp hơn. Còn
Lý, nhìn phố cảng chật hẹp và đầy bụi, lại quá đông Hoa kiều tha phương, gã thở
dài, lắc đầu. Lại lén trốn xuống tàu, lại làm thuê, Lý lần mò vào được Sài Gòn.
Số phận bắt đầu mỉm cười với Lý Long Thân khi anh ta tìm được
bang hội Phúc Kiến ở Chợ Lớn. Cùng kiếp bỏ xứ ra đi, những người Hoa Phúc Kiến
đã chia sẻ và cưu mang Lý. Mắt to, sáng, trán rộng, mặt dài, ăn nói lễ phép dù
rất thẳng tính, Lý Long Thân lọt vào cặp mắt ưu ái của Bang trưởng Phúc Kiến.
Ông bèn bảo lãnh cho Lý được làm công trong hiệu kim hoàn Kim Thành nổi tiếng.
Lý tỏ ra rất chăm chỉ, cẩn thận và sáng dạ nên được cả chủ tiệm, người làm công
và khách hàng quí mến. Không ai biết, phía sau nụ cười cầu thân với tất cả mọi
người là một toan tính mưu mô, đầy thủ đoạn.
Khách đến hiệu vàng Kim Thành toàn là những ông Đốc, bà Tham,
những nhà buôn lớn, các tay được bạc... lắm tiền nhiều của, chi tiêu rất hào
phóng. Cười rất tươi, Lý Long Thân nhã nhặn cảm ơn và từ chối những món tiền
pour-boire lẻ tẻ, nhưng lại đưa ra những gợi ý hấp dẫn về mẫu mã nữ trang, lại
sốt sắng chỉ mối, giúp đổi tiền cho khách, để sau đó ăn chặn được một khoản khá
hơn nhiều.
Dần dà, Lý trở nên lọc lõi, trở thành một tay môi giới trong
việc mua bán vàng và đổi tiền. Nhờ đó, y giàu lên rất nhanh. Khi chủ tiệm Kim
Thành nhận ra điều đó thì đã muộn. Ông ta không thể đuổi việc Lý Long Thân vì
trong số vốn liếng của hiệu vàng đã có một phần là của Lý hùn, hơn nữa anh ta lại
là người nắm các đầu mối hàng quan trọng. Nghiễm nhiên, Lý Long Thân trở thành
một đại lý kiêm nhà môi giới của hiệu Kim Thành, ăn hoa hồng.
Vốn thông minh và nhạy bén, Lý nắm bắt kịp thời các thời điểm
lên xuống của giá vàng và nhanh chóng bung vốn của Kim Thành ra mua bán. Lời y
ăn, lỗ (rất ít khi lỗ) hiệu Kim Thành chịu. Sau năm năm, số vốn của Lý Long
Thân cứ không ngừng phình lên. Y trở thành một trong những người có phần hùn lớn
nhất của thương hiệu kim hoàn uy tín nhất Đông Dương, từ Sài Gòn - Hà Nội -
Viên Chăn đến Nam Vang, với nhãn hiệu in hình quả núi. Đó là cuộc “đảo chính” lần
thứ nhất của Lý Long Thân, đưa y từ thân phận một kẻ làm thuê lên hàng ông chủ
lớn.
Khi số vốn đã lên đến bạc triệu, Lý bỏ Kim Thành, đứng ra lập
Công ty môi giới địa ốc TONG YUAN. Sự quen biết rộng rãi và kinh nghiệm môi giới
lúc còn làm cho Kim Thành đã giúp Lý tiến rất nhanh trong nghề mới, thu về bạc
vạn mỗi tháng. Từ năm 1943, tiền kiếm được trong nghề môi giới, Lý đem hết vào
mua cổ phần của công ty SAVICO - Địa ốc Thương cuộc. Đến năm 1945, cuộc “đảo
chính từng phần lần hai” của Lý kết thúc với thắng lợi giòn giã. Với phần hùn
chiếm đa số trong vốn pháp định bốn triệu đồng của SAVICO, Lý được bầu làm giám
đốc công ty. Ngay lập tức, Lý cho mở rộng thêm mấy chữ “Xuất nhập khẩu” vào sau
chức năng “Địa ốc Thương cuộc” của SAVICO, nhằm triệt để khai thác các nguồn lợi
kinh tế đang tiềm ẩn trong mối quan hệ dân tộc giữa Hoa kiều Chợ Lớn với Đài
Loan, Hồng Kông và Đại Lục mà Lý Long Thân là một mắt xích.
Kinh doanh đúng hướng, nhanh nhạy và đầy ắp thủ đoạn, Lý Long
Thân giàu lên vùn vụt, trở thành một nhân vật quyền lực trong cộng đồng người
Hoa. Y cũng lột xác, vứt toẹt bộ mặt đạo đức siêng năng của một anh chàng làm
công ngày nào, phơi bày bản chất độc đoán, tàn nhẫn của một kẻ kinh doanh đầy
tham vọng và coi tiền trên hết.
Tháng 12.1947, một nhân viên SAVICO do sơ sót đã làm không
đúng ý Lý Long Thân. Nổi giận, Lý đã xông vào đánh người nhân viên này gãy tay.
Chưa hả giận, y còn đập cả vỏ chai rượu vào mặt anh ta, gây thương tích nặng. Kết
quả: anh nhân viên xấu số phải đi cấp cứu và tàn phế suốt đời. Còn Lý, ngày
30.12.1947 phải ra hầu Toà tiểu hình. Nhờ vung tiền lo lót, Lý Long Thân mới
thoát ngồi tù, nhưng bị phạt 500 quan về tội “vô ý gây thương tích”!
Có tiền, Lý Long Thân cũng bắt đầu nổi danh như một tay ăn
chơi khét tiếng. Cứ chiều thứ bảy, y lại diện comple trắng, nón nỉ Boosalino đội
lệch một bên leo lên một chiếc Peugeot Traction bên cạnh có ba vệ sĩ người Phúc
Kiến đi mô tô hộ tống đến nhà hàng Đại La Thiên, sòng bạc Đại Thế Giới ăn chơi
đập phá. Nhiều lần cao hứng, ngay trên sàn nhảy, y đã đứng lên tuyên bố “đãi rượu
tất cả mọi người”. Tại Đại Thế Giới, Lý Long Thân kết thân với nhiều nhân vật
có tên tuổi trong các bang hội Hoa kiều Chợ Lớn như Trương Duy Nhạc, cha con Điển
Nam, Nghiệp Sô... Cũng tại đây, Lý Long Thân dần dà làm quen với nhiều vị tai
to mặt lớn trong chính quyền, quân đội, trong đó có tướng Bình Xuyên đầu Tây Lê
Văn Viễn (Bảy Viễn) cùng hai tên quân sư Lại Hữu Sang và Lại Hữu Tài. Biết thực
lực Bảy Viễn còn mạnh, Lý ra sức chiều chuộng lấy lòng “cọp rừng Sác”. Cuối năm
1954, y đã ném ra cửa sổ một lúc 4 triệu đồng để tổ chức một buổi “nhất dạ đế
vương” khao Bảy Viễn và một số kẻ chức quyền khác. Tại nhà hàng Đại La Thiên,
Lý Long Thân còn độc quyền bao riêng một cô gái nhảy nổi tiếng là Lý Bing Bing
- người được coi là Hoa hậu Phúc Kiến của Chợ Lớn. Ngay trong đêm “nhất dạ đế
vương”, biết Bảy Viễn thích Bing Bing, Lý Long Thân đã ép cô gái phải ngã vào
tay Bảy Viễn. Không dám từ chối “ông trùm” đồng hương và ông “cọp rừng Sác”, cô
Hoa hậu đành phải vâng lời. Sáng hôm sau, Lý Long Thân gọi Lý Bing Bing đến,
không thèm nhìn mệnh giá, ký ngay một tờ ngân phiếu thưởng cho cô gái. Đám thuộc
hạ của cả Lý Long Thân lẫn Bảy Viễn đều trợn mắt vì cử chỉ coi tiền như rác
này. Họ biết, mệnh giá nhỏ nhất trong tập ngân phiếu mà Lý mang theo cũng lên đến
50.000 đồng.
Với “đòn độc” này, Lý đã nắm hoàn toàn Bảy Viễn, tô phết thêm
cho mình chút oai vệ quyền thế để cạnh tranh trên thương trường, được bảo chứng
bằng những họng súng của đám hàng quân Bình Xuyên đầy chất lục lâm thảo khấu.
2. Nâng uy tín trên thương trường nhờ dao súng
Số tiền “khổng lồ” mà Lý Long Thân ném ra chi cho Bảy Viễn và
thủ hạ thực ra không thấm vào đâu so với những nguồn lợi vô kể mà y thu được nhờ
uy thế của viên tướng Bình Xuyên vốn dĩ võ biền. Về đầu Tây được ít lâu, Bảy Viễn
được Pháp giao bảo vệ an ninh tuyến đường Sài Gòn - Vũng Tàu. Ngay lập tức, Lý
Long Thân vạch ra một chương trình đồ sộ nhằm khai thác kinh tế trình cho Bảy
Viễn: lập hãng xe đò Nghĩa Hiệp độc quyền vận tải tuyến Sài Gòn - Vũng Tàu; xây
dựng một loạt nhà hàng khách sạn ở thành phố biển... Thấy lợi, Bảy Viễn cũng
tham nhưng y ngần ngừ vì không có vốn. Nghe “cọp rừng Sác” giải bày, Lý Long
Thân mỉm cười, bảo:
- Khởi đầu bằng 500 lượng, Thiếu tướng thấy sao?
Bảy Viễn sáng mắt:
- Nếu vậy, tôi và anh coi như đã có hãng xe đò!
Lý tiếp tục vờn ông tướng võ biền óc ít:
- Phần nhà hàng khách sạn, bạn bè tôi ở nhà băng Việt Nam
Thương Tín sẽ đứng sau lưng Thiếu tướng.
Chút ngần ngừ của Bảy Viễn biến mất khi hai tên quân sư Tài,
Sang cũng góp lời vào. Nói là làm, Lý Long Thân sang ngay cho Bảy Viễn 500 lượng
vàng, nhưng dưới danh nghĩa của câu lạc bộ Thanh Sơn của người Hoa Phúc Kiến, đặt
trụ sở ở nhà hàng Đồng Khánh.
Khi đã thu thập đủ vốn, Bảy Viễn lại giao lại toàn bộ việc thầu
xây cất, mua sắm cho Lý Long Thân. Riêng trong “cú” thầu này, hai hãng TONG
YUAN và SAVICO đã thu về cho họ Lý bạc triệu.
Một nguồn lợi khổng lồ khác mà Lý thu được nhờ uy Bảy Viễn là
việc khai thác hai sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới. Trước đó, hai sòng bạc
này do một “xì thẩu” có máu mặt của người Hoa tên là Lâm Giống cai quản. Với
khoảng 300 tay đao dưới trướng, toàn loại đầu trâu mặt ngựa tuyển từ Ma Cao, Hồng
Công sang, Lâm Giống tha hồ làm mưa làm gió ở đất Chợ Lớn mà không một ai dám cạnh
tranh. Trong một buổi trà dư tửu hậu ở nhà hàng Kim Huê, Giống tuyên bố:
- Khắp Nam kỳ lục tỉnh, may ra chỉ có Bảy Viễn Bình Xuyên mới
đáng mặt được Giống này coi là bậc đàn anh.
Lý Long Thân biết Giống nói thật, vì dưới tay Bảy Viễn còn có
cả ngàn tay súng và viên tướng đầu Tây còn nắm toàn bộ lực lượng Cảnh sát Quốc
gia do Bảo Đại giao phó. Vậy là Lý đút tiền cho Moris Thiên - tay Phòng Nhì nằm
cạnh Bảy Viễn - nhờ tên này thuyết phục. Bảy Viễn nghe xong lắc đầu:
- Tiền đâu chịu nổi, riêng thuế đã đến 500 ngàn mỗi ngày cho
một nơi. Thằng Giống có cả đống xì thẩu Tàu hỗ trợ, tao đâu có ai!
Lúc này, tên cò mồi Moris Thiên mới tung bài tẩy:
- Ông Bảy thử hỏi ý kiến ông Lý xem sao?
Tất nhiên, Lý Long Thân nhận lời, với điều kiện y bỏ tiền đầu
tư, còn Bảy Viễn chịu lấy danh nghĩa Bình Xuyên ra đấu thầu.
Ngay sau đó, Moris Thiên được Bảy Viễn và Lý Long Thân sai
đóng vai thuyết khách đến nhà Lâm Giống. Moris Thiên ngỏ ý:
- Bình Xuyên có ý nhận đấu thầu đợt tới ở hai sòng bạc Kim
Chung và Đại Thế Giới, vừa tiện bảo vệ vừa có cơ sở kinh tài để nuôi quân, nay
sai tôi tới thưa lại cùng Lâm xếnh xáng!
Biết mình yếu thế, Lâm Giống đành lặng lẽ rút lui. Riêng từ
hai sòng bạc này, trừ thuế và chi phí, Bảy Viễn và Lý Long Thân cũng còn thu
lãi tới sáu bảy trăm ngàn mỗi ngày. Vì vậy, mối giao hảo Bảy Viễn và Lý Long
Thân ngày càng gắn bó.
Tuy vậy, tham vọng của Lý Long Thân trong việc lợi dụng Bảy
Viễn vẫn chưa dừng lại. Qua mặt Bảy Viễn, y lại ném tiền ra mua chuộc được Trần
Phước, một tay thân tín của tướng Bình Xuyên để cùng tên này buôn bán thuốc phiện.
Khi Bảy Viễn còn là một tay giang hồ trẻ tuổi chưa thành
danh, y là tài xế riêng kiêm cận vệ của ông chủ Trần Phước. Vào thời đó, Trần
Phước tỏ ra biệt đãi và thường khích lệ Bảy Viễn:
- Anh Bảy có tướng hổ, lưng gấu, thuộc hàng chọc trời khấy nước
chớ đâu phải hạng tầm thường làm tài xế kiếm cơm.
Sau này, khi công thành danh toại, Bảy Viễn tri ân, gọi Trần
Phước về cho làm quản lý hai sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới, nắm giữ tay
hòm chìa khoá. Lý Long Thân bỏ tiền ra, giao cho Trần Phước mua lại toàn bộ nguồn
thuốc phiện của Bảy Viễn với giá rất rẻ. Thuốc phiện từ các nơi được xe quân đội
chở về đại bản doanh của Bảy Viễn bên kia cầu chữ Y, sau đó Bảy Viễn lại cho xe
riêng chở đến cho Trần Phước cất giấu tại nhà y, số 43 đường Lacaze cạnh Đại Thế
Giới. Tại đó, Lý Long Thân kiểm hàng, giao tiền và giao hết số thuốc phiện này
cho Mã Tuyên, một đại gia ở Chợ Lớn, tay chân tin cẩn đồng thời là cơ sở kinh
tài của anh em Diệm - Nhu sau này, để Mã Tuyên cung cấp cho mạng lưới
nhà hàng, tiệm hút khắp Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn và các tỉnh phụ cận. Hàng
chuyển đi, Trần Phước sai các tên Ngô Kiều, Ngô Lâm, Bách Chúng, Bách Kiều...
những tên võ sĩ lừng danh từ Hồng Công sang áp tải, tất nhiên cũng bằng xe
riêng của “Thiếu tướng Lê Văn Viễn”! Riêng việc giao nhận hàng, họ Lý chỉ đến
kiểm tra, còn mọi việc đều do Mã Tuyên trực tiếp tiến hành cho nên Lý Long Thân
không để lại dấu vết.
Tốc độ làm giàu của Lý Long Thân trong giai đoạn này quả là
chóng mặt, khó ai bì kịp nhưng chủ yếu đều nhờ vào những “cú” làm ăn trong bóng
tối. Vì vậy, y nghĩ đến việc “rửa tiền”. Để làm việc đó, y lại tung tiền ra mua
chuộc đồng thời nhờ uy thế của Mã Quốc Tuyền - Bang trưởng Phúc Kiến, Điển Nam
- Chủ hãng đóng tàu Nam Hòa Hưng kiêm đại lý Hoa kiều tại Sài Gòn - Chợ Lớn và
Hồng Cảnh Tùng - Phó Tổng lãnh sự Đài Loan tại miền Nam Việt Nam ép Ban Giám đốc
Ngân hàng Việt Nam Thương Tín phải nhận Mã Tuyên vào làm chân “Hoa vụ kinh lý”
cho ngân hàng này ở Sài Gòn. Bên cạnh Mã Tuyên, Lý Long Thân đặt thêm một tay
túc hạ tin cẩn là Trang Tôn (tức Trang Trinh Nghi) để tiến hành các phi vụ ám
muội này. Được Mã Tuyên cấp giấy phép, Trang Tôn liên tục nhận tiền Đông Dương
của Lý Long Thân đổi ra tiền franc Pháp, từ tiền Pháp lại đổi ra franc Thụy Sĩ
rồi lại dùng franc Thụy Sĩ mua dollar Mỹ. Với loại ngoại tệ này, Lý đem bán lại
cho Hoa kiều Chợ Lớn để họ chuyển về Hồng Công, Trung Quốc mua hàng hoặc đầu
tư, trả lại cho Lý bằng dollar Hồng Công. Từ dollar Hồng Công, y lại giao cho
Trang Tôn đưa vào Ngân hàng Việt Nam Thương Tín đổi lấy tiền Việt. Cách buôn tiền
này không những giúp Lý Long Thân xóa dấu vết của các nguồn tài chính phi pháp
mà còn giúp y tăng nhanh số vốn ban đầu.
Những năm 1950, giới kinh doanh người Hoa ở Chợ Lớn luôn phập
phồng lo sợ sự thay đổi chính sách của chính quyền đối với người Hoa trên đất
Sài Gòn - Chợ Lớn. Họ rất ít đầu tư vào các lĩnh vực “ngâm vốn” như bất động sản,
kỹ nghệ... mà chủ yếu kiếm tiền trong lĩnh vực buôn bán, sau đó gửi
tiền về Hồng Công, Đài Loan để đầu tư. Vì vậy, buôn tiền là một nghề sinh lãi cực
lớn. Nghề này bị đặt ra ngoài vòng pháp luật nên ít kẻ dám làm. Nhờ thế lực
hùng mạnh đã nắm trong tay, Lý Long Thân đã độc quyền thao túng nghề kinh doanh
béo bở này. Không chỉ rửa tiền cho bản thân, y còn rửa tiền cho rất đông “xì thẩu”
Hoa kiều khác ăn hoa hồng tỷ lệ cao. Kết quả: tiền Việt mất giá, trong khi
dollar Mỹ và dollar Hồng Công lại tăng giá chóng mặt. Đến thời Diệm - Nhu,
chính Ngô Đình Nhu đã chỉ thị cho cơ quan mật vụ (Sở Nghiên cứu chính trị) của
Trần Kim Tuyến điều tra để phanh phui trừng trị những tên rửa tiền. Trang Tôn
và hàng loạt tên đàn em khác bị bắt, bị bỏ tù. Tên tuổi Lý Long Thân
cũng đầy chật trong các báo cáo của mật vụ ngụy quyền. Tuy nhiên, là một tên
cáo già, Lý Long Thân đã xoá hết mọi dấu vết có thể dẫn Cảnh sát Hoạt vụ đến hỏi
thăm ngay trong lúc tiến hành các phi vụ. Thêm vào đó, Mã Tuyên - đồng sự và là
đàn em tin cẩn nhiều ân oán với Lý Long Thân lại đang là cánh tay kinh tài của
Ngô Đình Nhu và Trần Lệ Xuân cho nên đã kịp thời cứu Lý Long Thân nhiều lần
ngay trong tình thế đường tơ kẽ tóc. Hồ sơ về Lý Long Thân tuy càng ngày càng
dày lên trong Nha Cảnh sát Sài Gòn, nhưng chỉ dừng lại ở mức độ chung chung, đại
loại: “Có nghi vấn nhưng thiểm nha chưa thâu thập được bằng chứng cụ thể nào về
các tin tức nói trên của đương sự”.
3. Ban ngày doanh nhân, ban đêm kẻ cướp
Ngoài quan hệ thâm giao với Bảy Viễn và Bình Xuyên, Lý Long
Thân còn có quan hệ mật thiết gắn liền cùng các phi vụ mờ ám với ba nhân vật
Hoa kiều tên tuổi khác, đó là Trương Duy Nhạc và cha con Điển Nam (tự ông Sơ),
Nghiệp Sô (tự ông Tích).
Trương Duy Nhạc là chủ tiệm sắt Đức Hiệp Hưng, nổi tiếng giàu
có và đầy uy lực. Y có phần hùn đáng kể trong công ty SAVICO của Lý Long Thân.
Cha của Trương từng là một Bang trưởng Phúc Kiến đầy quyền thế tại Sài Gòn. Những
ngày hàn vi, ngôi nhà số 37Bis, đường Ký Con của Nhạc cũng là nơi mở rộng cửa
cho Lý Long Thân vào tá túc. Khác với Lý Long Thân xuất thân nghèo hèn, họ
Trương đã liên tục mấy đời là dòng họ danh giá, có học thức và rất giàu có. Cha
con Trương Duy Nhạc đều giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh và rất thạo nghề buôn bán lớn.
Khi Lý Long Thân đã trở nên giàu có thì Trương Duy Nhạc cũng
nhờ uy của bố giành được vị trí Phó lý sự trưởng bang Phúc Kiến tại Sài Gòn. Đến
đây, hai kẻ đầy mưu mô lại càng bắt tay nhau chặt hơn để cùng loại các đối thủ
Hoa kiều khác ra khỏi các mối làm ăn, tranh giành lợi nhuận.
Giữa năm 1955, trước khi rút toàn bộ quân đội về nước chấm dứt
vĩnh viễn sự dính líu quân sự ở Việt Nam, Pháp thông báo cho thanh lý các vật dụng
nhà binh còn lại với giá rất rẻ. Hoa kiều ở mọi ngành kinh doanh đều đổ xô vào
tham gia cuộc đấu giá này. Thấy lợi lớn, Nhạc và Thân cùng nhảy vào. Trương Duy
Nhạc nhờ uy bố, Lý Long Thân mượn oai cha con Điển Nam, Nghiệp Sô (bang Quảng
Đông) huy động một nguồn vốn rất lớn, tuyên bố sẽ “thầu toàn bộ số vật dụng nhà
binh thặng dư” nói trên, bằng cách đi cửa sau không qua đấu giá công khai. Thấy
mất phần, các doanh gia tên tuổi người Hoa phản ứng. Lý Long Thân lại tuyên bố:
Mỗi lần đi định giá một lô hàng, Nhạc và Thân lại vứt xe
Peugeot ở nhà, leo lên xe cách-cách (xe cam nhông ngắn đuôi) của Bình Xuyên có
đầy lính vũ trang và đích thân anh em Tài, Sang ngồi cạnh phóng đến. ở vòng
ngoài, cha con Trương Duy Nhạc cũng lịch sự chống ba-toong liên tục “đi thăm hỏi”
các vị bang trưởng các bang người Hoa ở Chợ Lớn, ngỏ ý “lấy làm tiếc vì sự bất
đồng của anh em” trong vụ “mối hàng cỏn con không đáng là bao” này. Dù rất hậm
hực nhưng biết quyền thế của gia đình Trương Duy Nhạc quá mạnh, lại sợ dây dưa
với Bình Xuyên nên bang trưởng các bang đều nuốt hận, ra lệnh ngầm cho người của
phe mình rút lui khỏi các cuộc đấu giá. Kết quả, Nhạc và Thân độc chiếm quyền
khai thác nguồn hàng, thu lãi ròng hơn 5 triệu bạc. Tuy nhiên Lý Long Thân lại
khôn khéo lui vào sau, để quyền công khai đấu thầu cho một mình Nhạc. Vì vậy,
bao nhiêu oán hận, giới thương nhân Hoa kiều đều trút lên đầu Trương Duy Nhạc
và đám Bình Xuyên mà không để ý gì tới Lý Long Thân. Có kẻ còn thề sẽ có ngày
“trả thù”.
Ít lâu sau, do chủ quan, cậy thế, Trương Duy Nhạc đã phạm sai
lầm khi áp phe một lô mủ cao su trị giá 8 triệu đồng mà không thèm lo đủ giấy tờ.
Tức khắc, một thương gia tên là Trịnh Công Quý, cũng hoạt động trong ngành kinh
doanh nguyên liệu cao su, đứng ra tố cáo Nhạc sang đoạt bất hợp pháp lô hàng
này. Chứng cớ rành rành, Nhạc bị tống giam vào Chí Hòa. Lúc này Bình Xuyên cũng
bị anh em Diệm - Nhu tận diệt. Thừa cơ, đám Hoa kiều thi nhau gởi đơn tố cáo Nhạc
có quan hệ mờ ám với Bình Xuyên. Sợ liên lụy đến thân, Lý Long Thân vội vã bung
tiền ra thu xếp với các bang Hoa kiều, lo lót với cảnh sát đồng thời cầu cứu
Ngân hàng Việt Nam Thương Tín đứng ra bảo lãnh cho Nhạc. Cha của Nhạc cũng cầu
cứu lãnh sự quán Đài Loan gây sức ép với chính quyền Diệm. Nhờ vậy Trương Duy
Nhạc mới thoát khỏi hầu toà, vụ việc bị ỉm đi vì “không đủ chứng cớ”.
Mối quan hệ của Lý Long Thân với cha con Điển Nam, Nghiệp Sô
cũng khăng khít không kém. Điển Nam cũng là một tay cự phách có quyền lực ngầm
cực mạnh trong bang Triều Châu, dưới trướng có gần 3000 người. Chính cha con Điển
Nam, Nghiệp Sô đã cùng Lý Long Thân và anh em Lại Hữu Sang, Lại Hữu Tài vận động
Bảy Viễn gây áp lực hậu thuẫn để đưa Mã Quốc Tuyền lên làm Bang trưởng Triều
Châu, nhằm dễ bề thao túng cộng đồng Hoa kiều, đặc biệt với giới thương nhân
trong các vụ làm ăn sau này. Điển Nam còn là một trong những người Hoa ở Chợ Lớn
có dính líu nhiều mặt với Quốc dân Đảng ở Đài Loan và ở Đại lục. Y là kẻ phụ
trách các hoạt động bí mật đem học sinh Hoa kiều về Đại lục bất hợp pháp, đồng
thời là một đại lý chuyển ngân cho Hoa kiều đi Hồng Công, Singapore, Đài
Loan... trong đường dây buôn tiền của Lý Long Thân. Nghiệp Sô (tự ông Tích),
con của Điển Nam giữ chức Phó lý sự trưởng Phòng thương mại Hoa kiều. Do đó, y
đã thu xếp để nhận Lý Long Thân vào chức vụ Lý sự vụ của bộ phận này, tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho Lý Long Thân hoạt động rửa tiền và chuyển ngân phi pháp.
Vốn dĩ, giới làm ăn Hoa kiều rất tin vào tướng số. Dưới mắt họ,
Lý Long Thân có chân mạng đế vương ắt hẳn sau này sẽ là một kẻ có tài kinh bang
tế thế có thể lợi dụng được. Vì vậy, cha con Điển Nam, Nghiệp Sô cũng như khá
đông tay có máu mặt khác của người Hoa đều không tiếc công của giúp đỡ Lý, đưa
y leo dần lên từng nấc thang kinh tế và quyền lực trong bóng tối. Lý Long Thân
biết rất rõ mục đích đó của những người đồng hương. Y cũng chờ cơ hội để có thể
đáp lễ.
Thời cơ đến với Lý khi cha con Điển Nam, Nghiệp Sô mưu toan
chiếm trọn khu đất Tân Địa Lộ đường Armand Roussau (Nguyễn Chí Thanh) để chuẩn
bị xây nhà xưởng. Khu đất này có khá đông bà con lao động người Hoa sinh sống.
Họ không chịu dời đi dù Điển Nam, Nghiệp Sô tìm mọi cách mua chuộc và dụ dỗ.
Tháng 1.1955, cha con Điển Nam sai tay chân đến phá phách, đốt nhà để khủng bố
tinh thần nhằm đuổi dân khỏi khu vực này. Không may cho đám côn đồ, trong khu
lao động Tân Địa Lộ còn có cả hai anh em Chu Chí Kinh, Chu Chí Vịnh sinh sống.
Cả hai đều là những tay giang hồ hảo hán thời hiện đại, rất giỏi võ và luôn sẵn
sàng “dọc đàng thấy chuyện bất bằng chẳng tha”. Khi đám côn đồ định ra tay thủ
ác, anh em họ Chu đã kịp thời có mặt đánh cho cả bọn chạy tan tác. Cha con Điển
Nam tức lắm nhưng dưới trướng không có kẻ nào dám công khai đương đầu với anh
em họ Chu. Việc đuổi dân chiếm đất càng khó khăn hơn khi bà con lao động tin tưởng,
vừa đùm bọc bảo vệ, vừa nghe lời anh em họ Chu phát đơn kiện cha con Điển Nam,
Nghiệp Sô. Chu Chí Kinh còn cùng với em đi khắp vùng Chợ Lớn gặp nhiều vị có thế
lực và trọng công bằng của các bang hội Hoa Kiều khác nhờ giúp đỡ để chống lại
âm mưu cướp đất. Không ít người vốn ghét các trò bất nghĩa của cha con Điển Nam
nên đã nhận lời.
Đúng lúc cha con Điển Nam tưởng phải từ bỏ âm mưu thì Lý Long
Thân mời họ đến. Tại văn phòng công ty SAVICO, Lý vạch cho “đối tác” thấy rõ:
chỉ có tiêu diệt anh em họ Chu thì mới mong cướp được đất. Lý bảo:
- Việc đó, tôi xin giúp.
Điển Nam hứa:
- Một phần năm khu đất đó sẽ thuộc về ông Lý.
Lý Long Thân từ chối:
- Tôi sẽ còn nhờ Điển tiên sinh nhiều dịp, còn chỗ đất kia,
Điển tiên sinh cứ giữ lại cho thêm rộng chỗ.
Nghe lời Lý Long Thân, cha con Điển Nam chấp nhận đưa vụ đất
đai ra toà, và bỏ tiền ra lo lót.
Trong khi đó, Lý Long Thân lại mở tiệc chiêu đãi Lê Binh
Nghĩa, trưởng Công an xung phong của Bình Xuyên. Tiệc đến cao trào, hai ả xẩm
xinh đẹp được Lý gọi ra, một ả nâng chiếc khay có đặt một phong bì dày cộp trao
cho Nghĩa, ả kia tiêm thuốc phiện đưa mời tận miệng. Lúc này, Lý Long Thân mới
ngỏ lời nhờ vả. Đang ngây ngất vì rượu, vì gái, tiền và khói thuốc phiện, Lê
Binh Nghĩa chắp tay:
- Việc của Lý tiên sinh là việc của ông Bảy, việc của ông Bảy
thì có chết, tôi cũng không thể chối từ.
Tháng 2.1955, anh em Chu Chí Kinh, Chu Chí Vịnh từ Chợ Lớn
đón xe lên Sài Gòn định gặp ông Lương Tế Phi, Phó lý sự trưởng bang Quảng Đông
mượn 10.000 đồng để đóng tiền hầu kiện. Khi xe đến dưới chân cầu chữ Y, một
toán công an tự xưng là Công an xung phong chặn xe lại, lôi anh em Chu xuống
đưa đi. Sau đó, họ không bao giờ xuất hiện nữa. Như rắn mất đầu, số bà con lao
động người Hoa đành rời khỏi lô đất Tân Địa Lộ để tránh bị bọn côn đồ cướp phá.
Một số người có làm đơn trình bày vụ mất tích của Chu Chí Kinh, Chu Chí Vịnh
nhưng không được trả lời. Lý do: họ bảo anh em họ Chu bị bắt cóc thủ tiêu nhưng
không có ai đứng ra làm nhân chứng!
4. Làm vua không được, làm giặc không xong...
Thâu tóm xong quyền lực chính trị ở miền Nam, Diệm - Nhu bắt
đầu quay sang tấn công tiêu diệt quân đội của các giáo phái. Đầu tháng
12.1954, Bảy Viễn nhận được thư của Diệm “mời” vào dinh Độc Lập để “thảo luận một
số vấn đề quan trọng của quốc gia”. Biết rõ mưu đồ của Diệm - Nhu, Bảy Viễn viện
đủ cớ thoái thác không vào. Dỗ ngọt không xong, cuối tháng 12.1954, Diệm nhờ tướng
Mỹ O’ Daniel “ném” tối hậu thư cho Bình Xuyên: “Nếu Thiếu tướng không chịu về với
quốc gia thì chỉ sau một tuần, quân chính phủ sẽ giải quyết xong vấn đề Bình
Xuyên”.
Bị đe dọa, Bảy Viễn nổi khùng văng tục và tuyên bố:
- Bình Xuyên có chiến lược riêng, thích ứng với thiên thời, địa
lợi vùng sông nước Nam Bộ, chẳng việc gì phải sợ.
Thấy Bảy Viễn ngoan cố, đầu năm 1955, Diệm ra lệnh đóng cửa
hai sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới, nhằm cắt đứt hầu bao nuôi quân của Bình
Xuyên. Bảy Viễn quay sang cầu cứu tướng Pháp Paul Ely, nhưng nước Pháp đang sa
lầy ở Algerie nên cũng đành làm ngơ cho Diệm thanh toán giáo phái. Không chịu
khoanh tay chờ trói, Bảy Viễn lại cho gọi Lý Long Thân bàn bạc kế hoạch: đẩy mạnh
phát hành đồng “Phật lăng Bình Xuyên” giao cho Lý Long Thân đổi ra dollar Mỹ hoặc
franc Pháp, lấy số ngoại tệ đó mua súng đạn, khí tài và tuyển quân cảm tử để lập
các đội khủng bố đối phó với anh em Diệm - Nhu.
Nghe đề nghị, Lý toát mồ hôi hột. Rửa tiền cho Bình Xuyên thì
Lý có thể làm được, vì y có mạng lưới chuyển ngân dày đặc, còn các yêu cầu sau,
Lý biết dây vào là cầm chắc mang tội chống chính phủ quốc gia, không chết vì ăn
đạn cũng khó thoát khỏi tù đầy. Thấy Lý hoảng sợ, anh em Tài, Sang chơi bài ngửa:
- Diệm - Nhu diệt xong Bình Xuyên chắc ông Lý cũng khó thoát
khỏi tội chết vì hồ sơ họ đầy ra đó. Còn nếu Bình Xuyên đủ lương thảo, súng đạn
cầm cự, mai mốt Quốc trưởng (Bảo Đại) về, ông Lý sẽ là bậc công thần, muốn tự
do kinh doanh, Diệm - Nhu cũng không ép nổi. Ông Lý tính sao?
Đã cưỡi lên lưng cọp, muốn xuống cũng không xong, Lý Long
Thân đành nhắm mắt gật đầu.
Phải thừa nhận rằng Lý là tay cực kỳ tháo vát. Chỉ sau ít
ngày, số tiền “Phật Lăng Bình Xuyên” vừa phát hành, Lý đã tiêu thụ sạch. Có ngoại
tệ, Lý cùng Vương Nha Sinh, kẻ phụ trách tuyển quân của Bình Xuyên đi khắp nơi
chiêu binh mãi mã. Lý đưa ra mồi nhử: bất cứ người nào tham gia cảm tử quân của
Bình Xuyên cũng sẽ được lãnh trước 10.000 đồng và sau đó người nào làm việc đắc
lực sẽ có thưởng khác nữa. Thấy có tiền, khá nhiều tên du thủ du thực ở quận 6,
quận 8 và vùng Chợ Lớn ào ào xin đăng ký đầu quân. Nhưng cứ cầm tiền xong,
chúng lại tìm cách bỏ trốn.
Để trang bị cho đám này, Lý Long Thân lại nhờ mối giao hảo của
một số thương nhân Hoa kiều móc nối với phòng nhì Pháp xin mua lại với giá thật
rẻ một số súng đạn của quân Pháp ở Việt Nam chưa bị thanh lý hết! Sau đó, y “hợp
đồng” với cha con Điển Nam, Nghiệp Sô để hai tên này cho tàu của hãng Nam Hòa
Hưng chuyên chở vũ khí, lương thực tiếp tế cho quân Bình Xuyên. Giữa tháng
3.1955, Lý hồ hởi báo với Bảy Viễn:
- Vào cuối tháng này, Thiếu tướng sẽ có thêm 100 khẩu tiểu
liên Thompson, M3, M1 và Garrand, 4 khẩu cối 60 ly và khoảng 10.000 viên đạn
các loại.
Nhưng, mọi tính toán và hành động của Lý đều không lọt qua được
con mắt nghề nghiệp lọc lõi của Lý Kai, chuyên viên á Châu thuộc Phủ Thủ tướng
Việt Nam Cộng hoà, thực chất là một mật vụ tin cẩn của Ngô Đình Nhu. Là một Hoa
kiều, Lý Kai cũng có nhiều mối quan hệ khăng khít với cộng đồng người Hoa ở Chợ
Lớn, đặc biệt là với số người Hoa Quốc dân Đảng Đài Loan. Trong số đó, không ít
kẻ từng bị Lý Long Thân chèn ép trên thương trường nên luôn tìm cách dò xét mọi
hành động của Lý để chờ dịp hạ địch thủ. Thông qua những người Hoa này, Lý Kai
đã có đủ tài liệu để khép Lý Long Thân vào tội “hoạt động phiến loạn chống
chính phủ”.
Đánh hơi thấy nguy hiểm, Lý Long Thân vội vã cầu cứu Bình Xuyên.
Đang cần Lý Long Thân để lo vụ mua súng đạn, Bảy Viễn liền ra lệnh cho đội cảm
tử của Vương Nha Sinh bắt cóc Lý Kai. Tuy vậy, Lý Long Thân vẫn chưa được yên.
Khá đông nhân vật quyền thế trong các bang hội Hoa kiều đều khẳng định: Việc Lý
Kai bị bắt cóc có tay Lý Long Thân nhúng vào. Họ dọa tẩy chay và có biện pháp
trừng phạt nếu Lý Long Thân không có biện pháp giải cứu cho Lý Kai. Không thể
chạy sang yêu cầu Bình Xuyên thả Lý Kai vì như vậy có khác gì thừa nhận mối
giao hảo với “quân phiến loạn”, Lý Long Thân bèn tính một “đòn gió”: y cùng Ngô
Đắc - một Hoa thương tên tuổi của bang Triều Châu chạy khắp các nơi có thế lực,
gõ cửa cả nhà của trùm mật vụ Mai Hữu Xuân yêu cầu có biện pháp giải thoát cho
nạn nhân của... chính mình.
Mọi chuyện đang rối như mớ bòng bong thì đêm 29.3.1955, Bình
Xuyên bất ngờ nã pháo vào dinh Độc Lập, chủ động tấn công quân chính phủ trước.
Chỉ chờ có vậy, Ngô Đình Diệm cho mở ngay chiến dịch Hoàng Diệu “phản công lại”,
giao cho Dương Văn Minh - mới được đặc cách lên đại tá - chỉ huy. Suốt năm ngày
năm đêm, giao tranh đã xảy ra ác liệt trên dọc tuyến đường Bến Chương Dương,
Hàm Tử từ cầu Nhị Thiên Đường, cầu chữ Y và kéo dài xuống tận cầu Tân Thuận.
Càng đánh nhau, quân Bình Xuyên càng yếu thế. Bảy Viễn vội thu quân về rừng
Sác, lấy miền rừng ngập mặn làm căn cứ để “cầm cự chờ Quốc trưởng Bảo Đại về
phán xử”.
Những ngày đó, Lý Long Thân hoang mang cực độ. Y vội vã gom
góp tư trang tiền bạc, đóng cửa các văn phòng nhà xưởng nằm yên, vừa run vừa
nghe ngóng. Cuối cùng, không thắng nổi sợ hãi, ngày 14.5.1955, Lý Long Thân
tính bài chuồn, lấy vé định bay sang Hồng Công chạy trốn. Nhưng máy bay chưa cất
cánh, Lý Long Thân đã bị Cảnh sát Hoạt vụ còng tay lôi xuống.
Rất may cho Lý, y là kẻ đứng tên hùn vốn trong khá nhiều đường
dây kinh tế của người Hoa. Nếu để y bị Diệm trừng trị, các cơ sở kinh tế ấy
cũng bị vạ lây, bị cảnh sát tịch biên hoặc đóng cửa. Vì vậy cha con Điển Nam,
Nghiệp Sô, bang trưởng Triều Châu Mã Quốc Tuyền... vội vã đổ tiền ra để chạy tội
cho Lý Long Thân. Ngay cả quyền Tổng lãnh sự Đài Loan Trầm Tố Tâm cũng đứng ra
bảo lãnh và gây sức ép để Diệm tha Lý. Vì vậy, Lý mới được tại ngoại điều tra.
Suốt bốn tháng trời, Lý Long Thân đã đổ tiền như núi để bịt kín tất cả các mối
rò rỉ thông tin có thể đưa y ra toà. Đến tháng 9.1955, Lý mới thở phào: Bảy Viễn
và hai tên Lại Hữu Sang, Lai Hữu Tài đã được Pháp giải thoát đưa sang Paris lưu
vong. Đầu mối quan trọng nhất để buộc tội y đã bị chặt đứt, Lý Long Thân được
đình chỉ điều tra. Vừa thoát chết, đầu óc nhanh nhạy của Lý đã nhìn thấy cơ hội
làm ăn lớn. Trước mắt Lý, con đường dẫn đến ngôi “vua” đã bắt đầu rộng mở.
5. Ông vua hai ngai
Trong kinh doanh, Lý Long Thân là một kẻ rất nhanh nhạy với
thời cuộc, thông minh, táo bạo và cực kỳ thành đạt. Để loại trừ thế độc quyền
kinh doanh, lũng đoạn thương nghiệp của giới kinh doanh Hoa kiều, Diệm - Nhu đã
ra sắc luật cấm người Hoa kinh doanh một số mặt hàng và không được tham gia vào
một số ngành nghề khác, trong đó có vải sợi, sắt thép, máy móc v.v... Không
chút đắn đo, Lý Long Thân bèn xin đổi từ quốc tịch Hoa sang quốc tịch Việt, nhằm
né tránh sắc luật bất lợi này. Tiếp theo, tháng 3.1959, Lý lại ký quỹ một số tiền
rất lớn vào Ngân hàng Việt Nam Thương Tín để được ngân hàng này tiếp nhận vào
chức vụ Hoa vụ kinh lý - chuyên trách điều tra tài sản và thu hút vốn của cộng
đồng Hoa kiều. Nhờ vậy, Lý có điều kiện thu hút vốn mạnh mẽ, cho ra đời hai
công ty VINATEXCO (Việt Nam vải sợi công ty) và VINATEFINCO (Việt Nam vải sợi
hoàn tất công ty) vừa sản xuất vừa kinh doanh xuất nhập khẩu, thao túng toàn bộ
thị trường vải miền Nam Việt Nam. Riêng tại kho nhiên liệu của Lý ở gần ngã tư
Bảy Hiền, hoá chất phục vụ cho ngành dệt nhuộm cũng luôn sẵn sàng cung cấp cho
sản xuất trong vòng ba năm liên tục chưa hết. Nghiễm nhiên Lý trở thành một
“hoàng đế” ngự trên “vương quốc” may mặc và vải sợi.
Chiến tranh ngày càng lan rộng, vũ khí, khí tài quân sự do Mỹ
đổ vào miền Nam cho ngụy quân ngụy quyền ngày càng nhiều. Theo thời cuộc, một
phần lớn những trang bị này bị loại bỏ trở thành phế liệu. Đánh hơi thấy nguồn
nguyên liệu dồi dào, Lý Long Thân lại đứng ra thành lập nhà máy cán sắt VISACA,
độc quyền tận thu nguồn nguyên liệu sắt từ các chiến trường. Với giá thu mua cực
rẻ, Lý Long Thân đã có một nguồn nguyên liệu cực tốt và dồi dào để biến thành
những sản phẩm xuất khẩu giá trị. Ngay cả thị trường Nhật Bản, Đại Hàn cũng rất
chuộng loại thép thành phẩm do VISACA sản xuất cho nên công ty của Lý phát triển
vùn vụt. Đến năm 1974, vốn của VISACA đã lên tới con số sáu trăm triệu đồng.
Tuy nghiên, nguồn lợi thu được từ chiến tranh là miếng mồi quá lớn nên lắm kẻ
có tiền, có quyền thi nhau nhảy vào xâu xé. Vì vậy, trong lĩnh vực sắt thép, phế
liệu, dù cực giàu, Lý vẫn chưa thể làm một ông vua tận chiếm mọi quyền hành.
Để mị dân, tránh tiếng biến miền Nam thành thị trường tiêu thụ
hàng ế thừa của Mỹ, ngụy quyền Sài Gòn liên tục đưa ra các khẩu hiệu như “chấn
hưng kinh tế”, “bình định và phát triển nông thôn”, “cách mạng
trong sản xuất lúa gạo”, “thay sức người bằng sức máy”... Với chiêu
bài “ủng hộ chủ trương của chính phủ”, Lý Long Thân liên tiếp cho ra đời thêm
hàng chục công ty lớn, nhỏ nhằm nhập khẩu ồ ạt các loại máy móc nông ngư cụ,
hàng tiêu dùng cung cấp cho thị trường. Với những khoản tiền đút lót hậu hĩnh,
với nguồn tài chính hậu thuẫn cực mạnh từ Ngân hàng Việt Nam Thương Tín, Lý vừa
trốn được nhiều khoản thuế lớn, vừa nhanh chóng và khéo léo lọt qua được các
rào cản lỏng lẻo của luật pháp để làm giàu. Chỉ riêng một phi vụ nhập máy móc về
“phục vụ sản xuất”, Lý đã cùng Nghiệp Sô - Giám đốc điều hành VINATEXCO cấu kết
với Huỳnh Văn Lang - Viện trưởng Viện Hối đoái tìm cách trốn thuế khoản tiền
lên đến 40 triệu đồng. Lý nhanh chóng trở thành một “vua nông ngư cụ” với 19
kho hàng và hàng chục nhà xưởng rải khắp Sài Gòn - Chợ Lớn. Bất cứ lúc nào, dãy
kho nông ngư cụ của Lý ở Phú Thọ Hoà cũng có sẵn hàng trăm chiếc máy cày hiệu
Kohler, Kubota vừa nhập cảng từ Nhật Bản. Tại đường Mạc Vân bên kia cầu Sài
Gòn, các loại hàng tiêu dùng, phụ tùng xe máy của Lý chất kín trong năm dãy nhà
kho đồ sộ. Ngay tại trung tâm thành phố Sài Gòn, tại đường Tôn Thất Đạm, cơ
ngơi của Lý cũng chiếm ba dãy nhà là văn phòng của ba công ty lớn: Trường Phát,
Quốc Tế Thương Cuộc và Đông Nam á, với giá trị hàng hoá của mỗi công ty từ 300
- 600 triệu đồng cho bất cứ thời điểm nào, đó là chưa kể những hàng hóa là phần
hùn của Lý trong khá nhiều công ty khác, trị giá số hàng lớn này ở mỗi nơi cũng
lên đến vài trăm triệu.
Để “cai trị” được một tài sản đồ sộ với nhiều ngành nghề khác
nhau, tất nhiên một mình Lý Long Thân không thể nào lo xuể. Là người khôn khéo,
giỏi nhìn xa trông rộng, Lý Long Thân luôn biết cách tạo ra những liên minh quyền
lực chằng chịt và dày đặc nhưng mọi mối đều buộc vào một sợi dây nằm trong tay
Lý. ở hai công ty lớn của ngành dệt may thì Lý giữ chức Chủ tịch VINATEFINCO,
Phó chủ tịch ở VINATEXCO trong khi một “cánh hẩu” khác là Trương Duy Nhạc làm
phó ở công ty thứ nhất và làm chủ tịch ở công ty thứ hai. Riêng chức vụ Giám đốc
điều hành VINATEXCO, Lý giao cho Nghiệp Sô - một kẻ thâm giao thừa kinh nghiệm
lưu manh nắm giữ.
Khác với truyền thống kinh doanh của người Hoa, thường đưa
con em hoặc thân nhân vào nắm giữ các vị trí then chốt của guồng máy làm ăn, Lý
Long Thân không làm như vậy. Y từng tuyên bố: “Kẻ nào biết rõ về ta, kẻ ấy thắng
ta một nửa”. Do vậy, Lý chủ trương chỉ tuyển các tay chân tin cẩn ở ngoài dòng
tộc. Những kẻ này đều quen biết Lý thông qua các phi vụ làm ăn và đều là những
tay sừng sỏ. Trong số đó có Châu Trần Tọa, một đồng hương Phúc Kiến hơn Lý năm
tuổi. Châu là một thành viên Quốc dân Đảng vào loại “gộc” của Đài Loan, được Diệm
cho phép hoạt động trong chi bộ Quốc dân Đảng của Trần Y Lịnh, bí thư cơ quan Đại
sứ quán Trung Hoa Dân Quốc tại Sài Gòn. Tọa từng bốn lần sang Đài Loan mừng thọ
Tưởng Giới Thạch với tư cách khách mời; từng làm Bang trưởng Phúc Kiến tại Chợ
Lớn; từng vượt biên sang Nam Vang tham gia bàn bạc chủ trương với Phái đoàn
kinh tế Việt Nam do Quốc dân Đảng tổ chức năm 1958. Nhìn thấy “thiên tài” của
Châu Trần Tọa đối với các hoạt động trong bóng tối, Lý Long Thân đã không tiếc
tiền của để kéo Châu về dưới trướng. Sau vụ đảo chính Diệm - Nhu (11.1963), Mã
Tuyên bị hất khỏi chức vụ Mại bản (compradore) của Ngân hàng Việt Nam Thương
Tín, Lý đã xuất 2,5 triệu đồng của VINATEXCO để ký quỹ và vận động công ty Tứ Hải
Nguyên xuất thêm 10 triệu đồng bảo lãnh cho Châu Trần Tọa trám vào chức vụ này.
Có được Châu Trần Tọa, Lý Long Thân càng tha hồ phù phép để buôn tiền và hợp thức
hoá các nguồn tài chính đen để đã giàu càng tiếp tục giàu thêm.
ở mỗi công ty, nhà máy, cửa hàng, ngoài các ban bệ bình thường,
Lý Long Thân đều đặt thêm các tai mắt tin cẩn giám sát công việc kinh doanh và
tổ chức các chiến dịch, phi vụ trong bóng tối. Thực tế, mọi quyền điều khiển hoạt
động kinh doanh, ngân quỹ đều do những kẻ ẩn danh này nắm giữ và báo cáo trực
tiếp với Lý Long Thân. Trong khi đó, Lý tuyệt đối không cho con cái tham gia
vào việc làm ăn. Hai người con trai lớn là Lee Poon Leung và Lee Sok Wah được
Lý gửi vào Đại học Kowloon (Hồng Công) ăn học vì “thời thế đổi thay, không học
không làm vua được mãi”.
Một trong những lý do khiến Lý Long Thân chỉ quan hệ làm ăn với
người ngoài dòng tộc là để khi cần thiết, vì quyền lợi y có thể “bán đứng” kẻ
chung lưng đấu cật mà không hề thương tiếc. Ngày 1.11.1963, anh em Diệm - Nhu bị
đảo chính. Trước khi bị bắt, Diệm - Nhu có trốn ở nhà Mã Tuyên ở Chợ Lớn. Anh
em Diệm - Nhu bị thanh toán xong, Mã Tuyên cũng bị phe đảo chính truy nã gắt
gao, phải trốn chui trốn nhủi. Ngày 6.11, Mã Tuyên trốn được tới nhà Lý Long
Thân. Là cánh tay kinh tài của anh em Diệm chắc chắn Mã Tuyên sẽ không còn cơ hội
thoát hiểm để tiếp tục làm ăn, cho nên sẽ chẳng còn tác dụng gì với Lý Long
Thân. Lựa lời ngọt nhạt, Lý phân tích thiệt hơn và khuyên Mã Tuyên trốn sang
Nam Vang. 8 giờ tối, rời khỏi nhà Lý chưa được 300 mét, Mã Tuyên đã bị Cảnh sát
chờ sẵn bắt đi. Để tránh tiếng phản bạn và những ánh mắt nghi ngờ từ cộng đồng
người Hoa đổ về mình, ngày 26.11.1963, Lý Long Thân làm đơn gởi Đô trưởng Sài
Gòn xin bảo lãnh cho Mã Tuyên ra Bệnh viện Grall (nay là Bệnh viện Nhi đồng II)
chữa bệnh. Không ai biết Lý chạy chọt thế nào nhưng sau đó, đơn của Lý được chấp
thuận. Tại bệnh viện Grall, cuộc thăm hỏi của Lý với Mã Tuyên chỉ diễn ra trong
vòng vài phút. Mã Tuyên từ chối không thèm nhìn mặt Lý.
Vụ việc trên cùng với khá nhiều hành vi ám muội khác của Lý bất
ngờ bị tuần báo Hành động lôi tuột ra ánh sáng vào tháng 3.1964 trong suốt ba kỳ
báo. Uy tín, nhân cách của một “ông vua” bị báo chí quật cho tơi tả. Cáu tiết
Lý Long Thân đâm đơn kiện tờ Hành động ra Toà tiểu hình. Vụ kiện kéo dài gần
năm tháng. Cuối cùng “tờ báo cỏn con” không chịu nổi sức ép từ hàng núi tiền do
Lý ném ra, đành chịu thất kiện. Lý đưa ra điều kiện: hoặc đính chính hoặc phải
“bồi thường danh dự” bằng một số tiền khổng lồ. Để tránh “cái chết” chắc chắn sẽ
xảy ra, ngày 26.8.1964, tờ Hành động đành phải đăng bài đính chính.
Công việc kinh doanh càng phát triển, Lý Long Thân càng thường
xuyên phải xuất ngoại để mở rộng quan hệ. Mỗi lần xin đi, Lý lại một lần bị điều
tra vì trong quá khứ, y có quá nhiều mối quan hệ mờ ám. Một lần nữa, Lý lại
vung tiền mua khắp bộ máy ngụy quân ngụy quyền, từ Cảnh sát quận đến Tòa áo đỏ
(tòa thượng thẩm). Đồng tiền của Lý phát huy tác dụng khá triệt để: Ngày
13.12.1966, Chư Ngọc Liễn - Phụ tá Tổng ủy viên An ninh đã ký giấy chấp nhận
cho Lý Long Thân “bạch hoá hồ sơ”. Kể từ đó, “đương sự Lý Long Thân” trở thành
một người “sạch sẽ”, không bị điều tra lôi thôi tốn thì giờ khi đứng đơn xin đi
đâu hay làm bất cứ việc gì. Nhưng Lý vẫn chưa thoả mãn. Y lại tiếp tục vung tiền
mua chuộc hai viên đại tá ngụy là Trần Văn Lâm - Tổng giám đốc Việt tấn xã và Tạ
Văn Đức - sĩ quan Tổng cục tiếp vận Bộ tổng tham mưu để hai viên đại tá này ký
giấy “bảo đảm cho bạn tôi, cam đoan chịu mọi trách nhiệm nếu đương sự có hành vi
sai trái hoặc vi phạm luật pháp...”. Với sự bảo lãnh của hai viên sĩ quan cao cấp
này, Lý Long Thân trở thành một “công dân lương thiện và đáng kính của xã hội”.
6. Nhà tư bản cá mập
Càng giàu có, Lý Long Thân càng ra sức bóc lột công nhân. Thỉnh
thoảng để chiều lòng ngụy quân ngụy quyền đang tìm mọi cách bắt lính, Lý lại vô
cớ tuyên bố sa thải một số nam công nhân để đẩy họ vào lính. Theo thống kê,
trong ba năm 1962 - 1964, vật giá ở Sài Gòn tăng 48%. Cũng trong ba năm đó,
công nhân ngành dệt may của Lý phải tăng năng suất lao động lên gần gấp đôi.
Công nhân dệt từ chỗ đứng 25 - 30 máy/ người phải tăng lên đứng 50 máy/ người.
Chưa hết, khẩu phần ăn của họ còn liên tục bị cắt xén, phòng nghỉ xuống cấp
không được tu bổ, điều kiện vệ sinh rất kém. Vậy nhưng suốt ba năm, Lý không hề
tăng lương cho công nhân. Vì vậy, ở hai công ty VINATEXCO và VINATEFINCO, đình
công đã liên tục xảy ra. Để phá các cuộc đình công, Lý đã sử dụng tên Tô Tấn
Phiếu - một chuyên gia phá hoại nội bộ công nhân của Quốc dân Đảng do Châu Trần
Tọa tiến cử. Trong khi mức lương giám đốc công ty chỉ 4 - 5.000 đồng/ tháng, Lý
đã trả cho Tô Tấn Phiếu tới 8.000, rồi 10.000, sau lên 15.000 đồng/ tháng.
Mỗi lần có nguy cơ nổ ra đình công tại các nhà máy công xưởng
của Lý, Tô Tấn Phiếu lại cùng đám cò mồi đàn em tìm cách phát hiện chủ trương đấu
tranh, nhận diện người cầm đầu và ban lãnh đạo báo cáo cho Lý. Trong các cuộc
đình công, đám cò mồi cố tình gây ẩu đả, đập phá để Lý Long Thân có lý do trừng
phạt công nhân, phá rã đấu tranh. Lý thường vu cho những người lãnh đạo là “Cộng
sản nằm vùng”, tạo bằng chứng giả để đưa cảnh sát đến xưởng đàn áp bắt bớ.
Nổi tiếng nhất là cuộc đình công đòi tăng lương, chống chủ đuổi
công nhân cho ngụy quân chiếm nhà xưởng xảy ra đồng lúc ở cả VINATEXCO và
VINATEFINCO, nổ ra ngày 29.12.1963. Theo đúng bài bản, Lý cố tình tránh mặt, chỉ
đạo cho giám đốc các xưởng sản suất không nhận thỉnh nguyện thư vì “không đủ thẩm
quyền”. Sau bốn ngày đấu tranh, công nhân đã tập hợp được hơn 1000 người đồng
thời tranh thủ được sự ủng hộ khá đông thợ thuyền các giới. Họ bắt giữ Triệu
Diêu Đông - Cố vấn kỹ thuật của VINATEXCO và hai xưởng trưởng là Triệu Thọ Mậu
và Trang Đinh làm con tin. Bàn ghế, kiện sợi, thùng phi được công nhân ném ra
làm chướng ngại vật để chống lại sự đàn áp của cảnh sát do Lý Long Thân mời đến.
Đến lúc nay, Lý mới hoảng sợ, hứa sẽ tăng lương nhưng chỉ tăng 4%. Công nhân
không nhượng bộ. Ngày 8.1.1964, thêm hơn 1000 thợ của các công ty khác tiếp tục
kéo đến ủng hộ và tiếp tế cho công nhân hai công ty đang đấu tranh. Hoảng sợ,
Lý Long Thân liền viết đơn đề nghị chính quyền ngụy “dập tắt cuộc bạo loạn do Cộng
sản xúi giục và lãnh đạo”.
Ngày 17.1, một đại đội Cảnh sát dã chiến và một tiểu đoàn
Quân cảnh trang bị súng ống, hơi cay, dùi cui xông vào VINATEXCO và VINATEFINCO
đánh đập công nhân dã man, bắt đi hơn mười người. Liên tiếp những ngày sau, hai
nhà máy đều bị cảnh sát bao vây, bắt thêm một số người nữa. Đến 21.1.1964,
Lương Đệ, Tăng Bôi và toàn bộ đại diện công nhân đều bị bắt, các nhóm đấu tranh
bị cô lập và tan rã trong khi Lý Long Thân vẫn không đáp ứng các yêu sách của họ...
Không chỉ tàn nhẫn với công nhân, Lý Long Thân còn nổi tiếng
tàn bạo trong các cuộc cạnh tranh với những nhà doanh nghiệp khác. Ngày
12.5.1974, văn phòng công ty Đại Nam của Lý Long Thân nhận được điện của cơ sở ở
nước ngoài báo tin: lúc 6 giờ sáng cùng ngày, tàu Viễn Đông đã rời cảng
Stockholm (Thụy Điển) chở về Sài Gòn cho công ty X. 6000 tấn giấy gồm 4000 tấn
giấy vở học sinh và 2000 tấn giấy in báo, đồng thời cũng cho biết luôn giá giấy
trên thị trường thế giới. Đọc xong bức điện, Lý Long Thân nhanh chóng tính nhẩm
ngay ra số lãi sẽ thu được, dù tàu giấy trên... không phải của y, và giấy cũng
chưa bao giờ là ngành kinh doanh “mặn mòi” với Lý.
Tức khắc, Lý quyết định nẫng tay trên món lợi. Y ra lệnh cho
tất cả các cửa hàng dưới quyền mình hạ giá giấy 10%, riêng khu vực quanh Sài
Gòn hạ tới 20%. Vài ngày trước khi tàu Viễn Đông cập bến, Lý lại ra lệnh hạ giá
thêm 20% nữa, riêng khu vực cảng hạ tới 30% đồng thời đăng quảng cáo rầm rộ sẽ
có hai tàu giấy từ Thụy Điển sắp về Sài Gòn với giấy tốt, giá rẻ. Thông tin của
Lý quá ồn ào, giá bán giấy hạ quá đột ngột khiến tất cả các nhà in, các tờ báo,
các nhà kinh doanh giấy đều lo ngại không dám tích trữ giấy, cũng không dám mua
vào vì sợ không tiêu thụ được. Đích thân chủ công ty X. đi chào mời mua giấy
nhưng đến đâu, ông ta cũng chỉ nhận được những cái lắc đầu. Dã man hơn, Lý Long
Thân còn chở giấy ra tận cầu cảng, phát không cho những người bán quà bánh,
hàng rong mỗi người vài ba thếp trắng tinh. Tàu Viễn Đông về cảng Sài Gòn, ông
chủ hãng X. ra đón thấy giấy trắng gói hàng vứt vung vãi xung quanh, ông ta quá
sức ngạc nhiên. Hỏi, ông ta được những người bán hàng trả lời:
- Giấy rẻ như cho, không gói quà thì để làm gì?
Tàu Viễn Đông về nằm khan tại cảng suốt mấy ngày vẫn không
tìm ra người mua giấy, ông chủ hãng X. ruột gan như muốn lộn tùng phèo. Đã vậy,
hè đã đến, các cơ sở tiêu thụ lẻ cũng chẳng quan tâm mấy đến giấy vở vì không
biết bán cho ai. Đúng lúc đó, người của công ty Đại Nam đến đặt vấn đề mua trọn
số giấy của tàu Viễn Đông, dĩ nhiên là theo biểu giá đã hạ 50%. Lỗ nặng nhưng
không bán không xong vì giấy ngoài thị trường càng ngày càng hạ giá, lại thêm
tiền neo đậu bến bãi của tàu Viễn Đông càng ngày càng nhiều thêm, nhà tư sản
ngành giấy đành phải gật đầu. Đã thua đơn lại thêm thiệt kép, ông ta còn phải
chở giấy đến tận kho của Đại Nam mà không được tính thêm một xu tiền cước. Vậy
là 6000 tấn giấy nhanh chóng chui vào kho của Lý Long Thân với giá còn rẻ hơn
giá gốc, lại không tốn đồng chuyên chở nào. Chỉ dăm ba ngày sau, giá giấy lại dần
dần nhích lên. Một số báo chí nhanh nhẩu khám phá ra rằng vụ “hai tàu giấy đang
về Sài Gòn” chỉ là tin “bố láo”, lại càng khiến giấy tăng giá, đúng như bài bản
mà Lý đã vạch.
Khi hiểu ra toàn bộ cơn sốt tăng, giảm điên khùng giá giấy
nói trên đều là trò phù thuỷ của “Vua” Lý Long Thân, nhà tư sản ngành giấy kia
chỉ còn biết nước mắt lưng tròng và ngửa mặt than trời. Vụ “chó ăn xương chó”
này - như cách gọi của báo chí Sài Gòn thời đó - càng khiến tên tuổi Lý Long
Thân lừng lẫy, chứng tỏ quyền lực lũng đoạn kinh tế ghê gớm của y là không đối
thủ.
Nhưng, mọi thủ đoạn đều không giúp Lý Long Thân tồn tại được
vĩnh viễn. Những binh đoàn quân giải phóng đã tiến thẳng vào Sài Gòn trưa ngày
30.4.1975, quét sạch toàn bộ bộ máy ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn, quét luôn cả
mọi tham vọng và thủ đoạn làm giàu bất lương của ông vua không ngai Lý Long
Thân.
Biết không còn đất sống cho những thủ đoạn lọc lừa, ngay sau
giải phóng, Lý đã cùng sáu người khác mua thuyền vượt biên và bị bắt tại Bến
Tre. Và chính lúc đó, mọi quyền hành, mọi thế lực hống hách đều biến mất, Lý trở
lại đúng với bản chất một kẻ trọc phú - giàu tiền của nhưng nghèo sĩ khí. Trước
khi cánh cửa buồng tạm giam khép lại, Lý đã nước mắt nước mũi chảy dài và gào
toáng lên:
- Cho tôi ra, cán bộ ơi, cho tôi ra. Tiền của tôi còn nhiều lắm!
Cũng như nhiều nhà tư sản mại bản khác, sau đợt cải tạo công
thương nghiệp, Lý Long Thân đã ra nước ngoài định cư, sống nốt quãng đời còn lại.
Hình như ở một góc nào đó trên đất Mỹ xa xôi, ông già Lý Long Thân, đã lẫn đi
nhiều, vẫn xòe đôi tay nhìn đường đời đan chằng chịt dọc ngang trên đó và lẩm bẩm:
- Qua mất rồi... Hết tất cả rồi!
Sài Gòn, trong những ngày chờ World Cup
Cuối tháng 5.1998
3- LÂM HUÊ HỒ
Đầu húi cua, khuôn mặt gầy và khắc khổ luôn chau lại như kẻ
đang lo chạy gạo từng bữa, trông tướng mạo Lâm Huê Hồ chẳng khác nào một anh đạp
xích lô đông con vất vả. Bà Huỳnh Hương - vợ Lâm - trông bề ngoài cũng chẳng
sang trọng gì hơn. Nhưng bất chấp những nét bần tướng mà số phận áp đặt, Lâm
Huê Hồ vẫn là một tỉ phú lừng danh khắp Sài Gòn - Chợ Lớn trước ngày giải
phóng, một vua ngân hàng, vua của các vua, trùm chủ nợ của các tỉ phú khét tiếng
khác. Độc đáo hơn, được tôn xưng là “vua ngân hàng” nhưng Lâm chưa bao giờ nắm
trong tay một ngân hàng nào cả.
Thực ra, nếu có ai nhìn tấm áo sờn bạc, dáng điệu lam lũ của
vợ chồng Lâm để đánh đồng họ với những tay ve chai đồng nát thì cũng chưa hẳn
đã là sai lầm, bởi đó đích thực là khúc dạo đầu cơ cực của cuộc đời Lâm.
Sinh năm 1923, tại thị trấn Chin Can, tỉnh Phúc Kiến, Trung
Quốc, hơn 20 năm sau sang sinh sống tại Chợ Lớn, Lâm Huê Hồ cũng chỉ có hai bàn
tay trắng. Cái nghèo đẩy bạt Lâm Huê Hồ ra khỏi quê hương. Đến khi lấy vợ, Lâm
Huê Hồ thậm chí cũng không biết cha mẹ đẻ - ông Lâm Sa và bà Pho Thị ở Trung
Hoa lục địa còn sống hay đã chết để báo tin. Huỳnh Hương còn khổ hơn, mồ côi cả
cha lẫn mẹ.
Lập luận của Lâm Huê Hồ khi đến với nghề ve chai đồng nát quả
là đơn giản:
- Bán bất cứ thứ gì người ta muốn mua, và mua bất cứ thứ gì
người ta muốn bán.
Cần mẫn, tằn tiện, sau vài ba năm Lâm đã có một số vốn nho nhỏ.
Anh ta quyết định chuyển sang mở tiệm tạp hóa. Chủ trương mới của Lâm là buôn một
triệu tiền gạo để có một triệu mốt thì khó nhưng mua chai dầu một đồng đem bán
hai đồng thì dễ. Hơn thế nữa, hàng tạp hóa quay đồng vốn nhanh và chẳng bao giờ
sợ tồn ế hay bị lỗ. Tiền lời từ tiệm này, Lâm gom góp lại mở thêm tiệm khác để
tận thu khách hàng. Đến khoảng năm 1958, Lâm Huê Hồ đã có trong tay một mạng lưới
tạp hóa phủ khắp Chợ Lớn. Nhưng vốn kín kẽ, không bao giờ Lâm tiết lộ với ai
con số cụ thể mà mình đang nắm.
Khi cuộc sống đã khá phong lưu, Lâm vẫn tiếp tục làm một người
mua phế liệu, có điều làm chủ thầu chứ không còn làm vai gánh. Tất cả những thứ
vứt đi, Lâm đều mua tất. Anh ta nuôi một đội quân chuyên phân loại, sàng lọc và
tân trang phế liệu. Không ít món đồ bỏ, sau khi tân trang Lâm đã bán lại được với
tỉ lệ một vốn bốn... chục lời.
Cú làm ăn lớn đầu tiên của Lâm diễn ra vào tháng 7.1956. Tình
cờ, Lâm quen biết Ba Phát, một thợ sửa xe đạp ở Thủ Thiêm và được người này dẫn
mối đến trung úy Nguyễn Thúc Phụng - Chỉ huy trưởng Hải đoàn 24 (Hải quân) đóng
tại Cát Lái. Hải đoàn 24 có một số quân dụng khá lớn đang định thanh lý. Ban đầu,
nhìn dáng dấp cò con của Lâm, Phụng ngần ngừ. Với một phong bì khá dày chìa ra
đúng lúc, Lâm đã khiến viên trung úy tươi nét mặt, đồng ý bán cho Lâm 30 tấn sắt,
300 kg nhôm và 50 kg đồng phế liệu với giá 40.000 đồng tương đương với giá một
chiếc xe hơi loại tốt, giao tiền tận tay ngay lúc nhận hàng. Lâm thuê ba xe tải
loại 6 tấn đến chở về kho. Kết quả của chuyến làm ăn: lỗ chổng vó! Chạy đến Thủ
Đức, đoàn xe bị nhân viên Nha Quan thuế chặn lại và tịch thu toàn bộ vì không
có giấy tờ hợp lệ. Sau hơn 10 ngày bị Bộ Quốc phòng ngụy điều tra, Lâm đành chịu
mất thêm 100.000 đồng đóng phạt mới tránh được ngồi tù.
Tuy lỗ nặng nhưng Lâm Huê Hồ không nản lòng. Trong đầu óc
nhanh nhạy của Lâm, một hướng làm ăn mới rất béo bở đã mở ra. Giao hết công việc
điều hành kinh doanh tạp hóa cho vợ, Lâm Huê Hồ bỏ ra gần ba tháng trời ròng rã
đi điều tra chi tiết mọi ngõ ngách của nghề thầu phế liệu quân đội, làm quen,
đãi đằng khắp các mối quan chức từ nhân viên quan thuế đến sĩ quan các đơn vị đồn
trú có nguồn hàng. Để qua được khâu giấy tờ, Lâm quyết định rủ thêm một vài dân
biểu, tướng tá hoặc quan chức các nha, ty hùn hạp. “Tiền bạc, ngộ lo tất” - Lời
hứa của Lâm nhanh chóng nhận lại sự đồng ý cộng tác mà anh ta đang chờ đợi.
Tuy vậy, suốt 4 năm liền sau đó, Lâm Huê Hồ vẫn không vội vã.
Anh ta chỉ thu mua phế liệu dân dụng, còn phế liệu quân dụng Lâm tự biết rằng
chưa đến lúc. Cẩn thận, nhưng Lâm Huê Hồ vẫn bị thêm hai lần ra tòa
đóng phạt nữa, vì tội gian thuế và nhập hàng trái phép. Cũng không đáng là bao,
vì lúc này tài khoản của Lâm tại ngân hàng BFC đã lên đến hai triệu đồng, đó là
chưa kể hai ngôi nhà ở đường Trần Thanh Cần và Trần Chánh Chiếu cùng với một số
xe hơi, xe tải khác trị giá hơn 2 triệu đồng nữa. Lẽ tất nhiên, tên tuổi Lâm
Huê Hồ được xếp vào hàng triệu phú.
Tháng 8.1961, Hãng tàu kéo SATAV đăng báo thanh lý tàu Algol
vì đã quá hạn sử dụng. Lúc này, tiềm lực của Lâm Huê Hồ đã khá mạnh, ông ta quyết
định dự thầu và trúng thầu. Nhưng dự định đưa tàu Algol về cảng Ba Son sửa chữa
tân trang của Lâm Huê Hồ không thực hiện được. Sau khi điều tra về Lâm, Nha An
ninh quân đội ngụy đã làm công văn gửi các nha, ty khác đề nghị bãi bỏ quyền
trúng thầu của Lâm, vì lo ngại ông ta sẽ tiếp tục phạm pháp. Công văn do đại tá
Đỗ Mậu, Giám đốc Nha An ninh quân đội ký ngày 29.8.1961, có đoạn: “Nha tôi e rằng
nếu đứng chủ một chiếc tàu, y có thể sẽ tái phạm và sẽ buôn hàng quốc cấm trong
tương lai”.
Không cam chịu từ bỏ món lợi béo bở, Lâm Huê Hồ một mặt tìm
người đứng tên khác để tái thầu, một mặt tìm cách tẩy trắng các tiền sự trong hồ
sơ cá nhân. Cho rằng lót tay 100.000 đồng để được giảm giá bán một triệu đồng
thì ngu mới không làm, Lâm đã không tiếc tiền đổ ra lo lót. Cuối cùng, chủ thầu
Algol không chỉ mang tên mình Lâm mà còn có nhiều sĩ quan cấp tá, nhà buôn khác
cũng đứng chung, với mục đích mua tàu để khai thác phế liệu. Mặt khác, hồ sơ về
Lâm cũng dễ coi hơn, vì “tuy từng vi phạm tội gian lận thuế thương vụ và Quốc
phòng nhưng đương sự đã điều đình với Nha Thuế vụ và Quan thuế đóng phạt đầy đủ”.
Do đó, việc Lâm mua tàu làm phế liệu đã được chứng nhận là “không trở ngại về
phương diện chính trị”. Cuối cùng, con tàu nằm gọn trong tay Lâm, tuy phần lãi
có ít hơn vì phải chia năm xẻ bảy. Thừa thắng xông lên, Lâm Huê Hồ mua luôn một
hơi sáu chiếc tàu, cũng của hãng SATAV. Tất nhiên, Lâm chẳng dại gì đem phá
chúng ra lấy sắt vụn. Đó chỉ là lý do để được hưởng giá mua ưu đãi. Sau đó Lâm
đã huy động vốn, biến 6 con tàu này thành tàu thủy chở hàng. Sợ rằng nếu tự
mình khai thác các con tàu thì khó tránh khỏi tội gian lận thương mại, Lâm đem
bán chúng ngay với giá khá dễ chịu, nhưng số tiền thu lại vẫn rất khổng lồ. Các
vụ mua bán ấy đều né, không sử dụng cái tên Lâm Huê Hồ.
Với số lưng vốn đã đến bạc tỉ, Lâm tiếp tục vươn tay sang thầu
phế liệu cho ngành hỏa xa. Gần như toàn bộ đầu máy, toa xe, đường ray và tà vẹt
chế tạo từ thời Pháp được thanh lý đều lọt vào tay Lâm. Có lúc, ông ta mua
nguyên cả đoàn tàu với giá phế liệu. Nhờ “lại quả” rất hậu hĩnh, Lâm được khá
đông nhân viên, quan chức ngành hỏa xa tiếp tay làm ăn trong nhiều năm liên tục.
Để có sắt vụn bán cho Lâm hưởng hoa hồng, nhiều đoạn đường sắt còn tốt, nhiều
toa xe chưa đến tuổi thanh lý đã bị đám quan chức hỏa xa phao lên bị Việt cộng
đặt mìn, bị du kích phá hỏng, cần thay thế và gọi Lâm Huê Hồ cho xe tải tới chở.
Khoảng năm 1963-1964, số lượng vụ việc Việt cộng đặt mìn phá
ngành hỏa xa đột ngột tăng vọt khiến An ninh Quân đội ngụy đâm nghi, phải mở cuộc
điều tra. Trong khi đó, cùng với nhà thầu Du Khê, ngày 22.12.1964, Lâm Huê Hồ lại
trúng thầu toàn bộ phế liệu ngành này. Do vậy, đầu năm 1965, cả hai bị kiểm tra
kho bãi phế liệu và điều tra. Rất khôn ngoan, phế liệu mua đến đâu, Lâm bán lại
ngay cho các hãng chế biến sắt thép của Lý Long Thân, Hoàng Kim Quy đến đó nên
chẳng có dấu vết gì lưu lại để kết tội ông ta. Riêng Du Khê chậm chạp hơn, cả
năm 1965 phải liên tục vác chiếu hầu tòa.
Cũng với thủ đoạn như vậy, Lâm Huê Hồ tiếp tục thầu phế liệu
cho ngành quân đội, trong đó đồng là loại phế liệu được Lâm quan tâm nhất vì có
giá cao hơn cả. Hỗ trợ cho Lâm tích cực nhất để trúng các mối thầu là Vĩnh Lộc
- một tướng trẻ đang lên.
Khi Vĩnh Lộc được bổ lên làm Tư lệnh vùng II chiến thuật trấn
giữ miền Cao nguyên, tin tức về chiến sự vùng này bỗng nhiên tăng vọt. Pháo
binh ngụy ở các căn cứ Đắc Tô, Tân Cảnh, thị xã Kontum được lệnh nã đạn liên hồi
kỳ trận vào các tọa độ “nghi có địch quân xuất hiện” ngày một nhiều để “ngăn chặn
tầm xa”. Địch quân tổn thất ít hay nhiều e khó thống kê, nhưng số lượng xe tải
do Lâm Huê Hồ gửi lên chở vỏ đạn về Sài Gòn thì tăng lên thấy rõ. Tuy nhiên,
chuyện xảy ra ở các vùng chiến sự ác liệt quá xa tầm với của cảnh sát và quan
thuế nên Lâm Huê Hồ hoàn toàn vô sự, tha hồ đẩy nhanh tốc độ làm giàu lên chóng
mặt, mau chóng trở thành một đại tỉ phú khét tiếng của Sài Gòn - Chợ Lớn.
Dù vậy, ngành kinh doanh sắt thép, phế liệu, đặc biệt là phế
liệu quân đội, Lâm Huê Hồ vẫn chưa chiếm cứ được ngai vàng để độc quyền khai
thác. Nguồn lợi của ngành này quá lớn nên rất nhiều kẻ có máu mặt, trong đó có
cả vua vải sợi Lý Long Thân, vua kẽm gai kiêm thượng nghị sĩ Hoàng Kim Quy...
cũng xắn tay áo nhảy vào chia phần. Không ít lần, mối hàng của Lâm Huê Hồ đã bị
ông nghị Hoàng Kim Quy mượn tay chính quyền và quân đội nẫng mất. Biết mình yếu
thế, Lâm Huê Hồ đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Cao thủ hơn, để “dĩ hòa vi quý”, Lâm
còn sẵn sàng đứng ra làm nhà cung cấp nguyên liệu sắt cho hãng dây thép gai của
Hoàng Kim Quy. Sự nhún mình của Lâm đã khiến đôi bên cùng có lợi, tránh được một
cuộc chiến khốc liệt suýt xảy ra giữa hai ông vua trên cùng “vương quốc” phế liệu.
Gần như một thứ tập quán, giới làm ăn Hoa Kiều rất ngại dây
dưa với chính quyền, cảnh sát. Những tài xì thẩu làm ăn lớn, có máu mặt cũng ít
khi mở trương mục hay vay tiền của các ngân hàng tại Việt Nam. Lý do: tài khoản
của họ tại ngân hàng dễ bị phong tỏa khi việc kinh doanh có vấn đề trục trặc.
Vay tiền ngân hàng lại phải khai báo tài sản, trình luận chứng kinh doanh... vốn
là điều tối kỵ, lỡ có thua lỗ, tài sản dễ bị tịch biên như chơi. Vì vậy, họ chỉ
chủ yếu vay mượn qua lại trong cộng đồng, lãi suất dễ chịu hơn, lại đỡ khâu giấy
tờ phiền phức. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng có thể tìm ra người có tiền
cho vay, còn khi có tiền nhàn rỗi họ cũng chưa chắc đã dám cho vay vì sợ khó
đòi. Phát hiện ra điều đó, trong tay lại đang có bạc tỉ, Lâm Huê Hồ quyết định
nhảy vào ngành kinh doanh tín dụng, nhưng không mở ngân hàng.
Chính sự nhún nhường trong các vụ áp phe lớn nhỏ trước đây đã
tạo cho Lâm uy tín cần thiết để kinh doanh tín dụng. Khi vay tiền của ai, Lâm
thường đáo nợ rất đúng hẹn. Ngoài tiền lãi thỏa thuận, Lâm còn giữ mối bằng những
khoản lại quả khá hậu hĩnh. Ngược lại, khi có người nhờ vả, Lâm cũng luôn sẵn
sàng giúp đỡ mà không đòi hỏi hay đặt điều kiện gì quá đáng. Vì vậy, cả người cần
vay tiền lẫn người có tiền dư đều thích tìm đến Lâm. Tại trụ sở của ngân hàng
không đăng ký đặt tại 70 Trần Chánh Chiếu và 12 Trần Thanh Cần của Lâm, khách
ra vào nườm nượp mỗi ngày. Thủ tục vay rất đơn giản. Khách chỉ cần ký xác nhận
vào một cuốn sổ ghi nợ do các thư ký của Lâm đưa tới và cam đoan ngày trả là
xong, có thể đếm tiền ra về. Hầu hết cộng đồng người Hoa, từ tiểu thương buôn
bán nhỏ cần dăm chục ngàn đồng đến các đại gia cần vài trăm triệu cho một cú áp
phe nóng khi tìm đến Lâm bao giờ họ cũng được đáp ứng đầy đủ. Tất nhiên, lãi suất
của Lâm luôn thấp hơn lãi vay ngân hàng và tùy đối tượng. Người buôn bán cỏn
con, vay ít, Lâm lấy lãi suất thấp, có khi giúp không lãi. Ngược lại, ai cần giật
nóng, số lượng lớn, lãi cũng lớn, lên đến 2 - 3% mỗi tháng. Nhưng muốn vay của
Lâm dứt khoát phải là những người quen biết của ông ta, nếu không phải có sự giới
thiệu bảo lãnh của một người quen biết có máu mặt nào đó. Kể cả các vua như Lý
Long Thân, La Thành Nghệ, Trần Thành, Mã Hỷ cũng đều từng là con nợ của Lâm. Tất
nhiên, với những người uy tín như Trần Thành - Bang trưởng Chợ Lớn thì lãi suất
chỉ tượng trưng độ 1 - 2%, thậm chí có lúc Lâm không lấy lãi. Chính nhờ sự biết
điều như vậy nên dù điều kiện dễ dãi, Lâm cũng không bao giờ bị trốn nợ. Chính
các con nợ sẽ đi đòi nợ giúp, dù Lâm không nhờ. Khách lỡ thua lỗ hoặc chưa có
tiền, họ chỉ việc nhờ một ông bang trưởng nào đó nói với Lâm một câu, sau đó
thêm một chữ ký xác nhận tiếp tục vay là đủ, chẳng bao giờ sợ bị xiết nợ hay phải
cầm cố cho Lâm cả. Khách đông, lượng tiền mặt của Lâm ở mỗi trụ sở không lúc
nào hụt dưới con số 200 triệu.
Để có tiền cho vay, ngoài số vốn có sẵn, Lâm còn được sự hỗ
trợ tích cực của Mã Tuyên và Trang Trinh Nghi (Trang Tôn) hai vua rửa tiền của
Ngân hàng Việt Nam Thương Tín trong việc huy động vốn nhàn rỗi. Thay nhau làm mại
bản và hoa vụ kinh lý cho ngân hàng này, Mã và Trang là người chịu trách nhiệm
điều tra tài sản, gọi vốn từ cộng đồng Hoa kiều cho Việt Nam Thương Tín nên họ
nắm rất chắc danh sách và khả năng của những doanh nhân người Hoa có tiền dư
nhưng không muốn gửi ngân hàng. Bằng nhiều con đường, tất cả số tiền đó đều chảy
vào quỹ tín dụng của Lâm Huê Hồ, được Lâm phát tán cho vay lấy lãi. Lâm trở
thành một ông vua thực sự, điều tiết gần như toàn bộ thị trường tiền tệ của người
Hoa Chợ Lớn - Sài Gòn. Vậy là người Hoa vay của người Hoa, Lâm Huê Hồ hưởng
lãi. Có người tháng trước cho Lâm vay, tháng sau cần tiền lại tìm đến
Lâm ký nợ. Lâm vẫn tươi cười, luôn nhã nhặn, nụ cười vẫn khắc khổ và
lam lũ, sẵn sàng chiều hết mọi yêu cầu của khách. Không ít người đã tự vay tiền
của chính mình, bằng cách ném tiền vào túi phải của Lâm và móc nó ra từ túi
trái. Tất nhiên, có một ít “bạc lẻ” đã được rải ra, lót thành con đường tín dụng
giữa hai túi áo của họ Lâm.
Dù là chủ nợ của hầu hết các vua, song Lâm vẫn ít giao du
hình thức, ít dính líu đến các cuộc tiếp tân tranh cãi chính trị hay thời thế.
Nguyên tắc bảo mật cho khách hàng do Lâm đề ra đồng thời cũng bảo mật luôn cho
chính tài sản của ông ta. Cũng chính vì dính líu công nợ chằng chịt với nhiều
thế lực tai to mặt lớn nên quỹ tín dụng của Lâm tuyệt đối an toàn. Không một đại
gia nào dám nghĩ đến việc hạ bệ Lâm Huê Hồ vì ngại phải đụng chạm đến các ông
bang trưởng, nghị sĩ, các vua đủ mọi ngành nghề. Tài sản của Lâm cứ thế không
ngừng phình lên. Những năm 1970, quyền lực của Lâm được khắp Sài Gòn - Chợ Lớn
nể vì qua câu so sánh: “Trần Thành, Lý Long Thân có tiếng, Lâm Huê Hồ có miếng”.
Cuối cùng, chỉ có Lâm Huê Hồ mới hạ bệ được Lâm Huê Hồ.
Sau năm 1975, các vua không ngai vội vã tẩu tán tài sản và vượt
biên. Toàn bộ tiền bạc, tài sản đều bị họ bán tống bán tháo để mua vàng. Lâm
cũng thế, nhưng không chỉ mua vàng cho riêng mình, Lâm còn tổ chức và đứng đầu
một đường dây đại qui mô nhận tiền mua vàng và chuyển sang nước ngoài giúp các
đại gia, tỉ phú khác. Lâm phụ trách khâu huy động nguồn tiền, Mã Tuyên mua
vàng, Trần Thanh Hà và Trang Trinh Nghi lo việc chuyển vàng lậu sang Hồng Kông.
Hoạt động ráo riết của họ khiến giá vàng ở miền Nam tăng với tốc độ chóng mặt,
tạo nên cả một quốc nạn chảy máu vàng trầm trọng. Khi đánh hơi được những hoạt
động phi pháp ấy sẽ bị bại lộ và trừng trị, Lâm Huê Hồ cùng đồng bọn quyết định
đóng thuyền vượt biên. Nhưng cơ quan An ninh cách mạng đã nhanh hơn họ. Ngày
10.9.1975, khi Lâm và đồng bọn đang tập trung tại nhà ông ta ở đường Trần Thanh
Cần chuẩn bị xuống tàu thì công an ập vào. Khám nhà, công an thu được hơn 400
lượng vàng giấu trong giẻ rách nhét trên xà nhà và các khuôn gạch thông gió.
Lâm cùng toàn bộ bảy kẻ đồng phạm, trong đó có Mã Tuyên, Trần Thanh Hà, Trang
Trinh Nghi, Đào Tắc Kinh (vua xăng dầu)... bị bắt. Tiếp tục khám kho của Lâm tại
190 Nguyễn Biểu và 203 Dương Công Trừng, công an tiếp tục thu được mỗi nơi hàng
trăm gói giẻ rách quấn vàng bên trong.
Huyền thoại về “vua ngân hàng không có ngân hàng” sụp đổ và kết
thúc.
Tháng 6.1998
4- ĐẠI CATHAY
Kẻ cầm tinh con giáp thứ 13
Được coi là mất tích từ 30 năm trước nhưng tên tuổi của Đại
Cathay vẫn được lưu truyền và vì nể trong giới giang hồ. Hàng loạt huyền thoại
đã được thêu dệt, biến Đại Cathay thành một ông trùm đầy quyền lực, một “vua
không ngai” của thế giới tội phạm thời Mỹ - ngụy. Thực chất chiến tích lẫy lừng
của hắn chỉ là những cuộc loạn đả, đâm chém nhau dã man của một kẻ coi thường
luật pháp. Người hứng chịu đau khổ, không ai khác hơn, chính là những lương dân
vô tội. Bài viết này không nhằm mục đích khai thác những chi tiết bạo lực đó,
chỉ muốn giúp bạn đọc thấy rõ bản chất tội lỗi của kẻ đứng đầu cái gọi là “Tứ đại
giang hồ” (gồm Đại Cathay, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế) từng đua
nhau tác oai tác quái một thời.
1. Lai lịch một ông trùm
Ngay cả đám giang hồ cộm cán, đám đàn em tin cẩn cũng không
ai biết hắn con ai, tên thật là gì. Chính Đại Cathay cũng... không biết tên thật
của mình nốt. Hơn chục lần bị điệu về bót cảnh sát, Đại tự khai cho mình hơn chục
lai lịch khác nhau. Theo đó, cha của hắn lúc là Lê Văn Cự, lúc lại là Trần Văn
Trự... Mẹ của Đại Cathay cũng khá... nhiều tên, lúc là Hương, lúc là Duyên, sống
hay chết thì “có trời mà biết”. Nói tóm lại, như Đại Cathay thường tự nhận, gã
là một thằng... con trời có lẽ xuôi tai hơn cả.
Kỳ thực, Đại tuổi Thìn, sinh năm 1940. Theo tìm hiểu của
chúng tôi, mẹ của Đại tên gì không rõ, chỉ biết người xung quanh thường gọi là
bà Sáu. Còn cha Đại thì chính tên là Lê Văn Cự, vốn cũng là một tay giang hồ hảo
hớn ở khu vực chợ Cầu Muối. Sau năm 1945, Hai Cự tham gia kháng chiến, trở
thành lính của “Mười ban tự vệ công tác thành”, sau đó bỏ vào chiến khu rừng
Sác đầu quân vào bộ đội Bình Xuyên của thủ lĩnh Ba Dương (tức Dương Văn Dương).
Đại sinh ra giống cha như đúc nhưng tuổi thơ rất ít được gần cha. Thuở nhỏ, gã
sống với cha mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội (nay là Đoàn Văn Bơ, quận 4).
Cả cha lẫn mẹ của hắn đều nghèo, làm nghề chẻ củi thuê cho một vựa củi nằm bên
kia Cầu Mống, cạnh chợ Cũ, quận 1. Đại thường xuyên trốn học chạy sang chơi với
đám trẻ con bụi đời cạnh vựa củi. Hiền lành, ít nói dù khuôn mặt rất ngầu, tính
phóng khoáng, rất “lì đòn”, những đức tính được “thừa kế” đầy đủ từ cha đã giúp
Đại nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh mến mộ. Mới 10 tuổi, gã đã thường xuyên
luồn lách vào các chợ, sạp hàng xung quanh, ăn trộm dưa, chuối về chia cho
chúng bạn.
Cuối năm 1946, ông Hai Cự bị địch bắt trong một lần về công
tác nội thành, bị đày ra Côn Đảo và ít lâu sau thì chết. Cha mất, mẹ lấy chồng
khác. Bố dượng Đại là một tay máu me cờ bạc lại nghiện thuốc phiện nặng nên gia
sản dần dần biến hết. Cáu bẳn vì sinh kế, ông dượng thường nọc đứa con riêng của
vợ ra hành hạ để hả cơn bực tức. Không chịu nổi, Đại bỏ học hẳn, sang vườn hoa
Cầu Mống đánh giày, bán báo tự nuôi thân. Khu vực làm ăn của Đại là xung quanh
ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) - Nguyễn Công Trứ. Tại đó có một rạp
chiếu bóng mang bảng hiệu Cathay. Không ngày nào trước cửa rạp hát không xảy ra
những vụ đánh lộn giành khách giữa đám trẻ bụi đời. Lì lợm và liều lĩnh, Đại cứ
lăn xả vào đối thủ liên tục tấn công, dù kẻ đó có cao hơn nửa cái đầu cũng mặc.
Trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng, dù tay chân, mặt mũi đầy vết rách
bầm. Nghiễm nhiên, hắn trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực trong
khu vực. Cũng nghiễm nhiên, gã được quyền ráp thêm “tên đất” vào sau tên cúng
cơm để trở thành Đại Cathay, “đại ca” đường Nguyễn Công Trứ. Đó là năm 1954,
lúc Đại mới 14 tuổi.
Trở thành “anh chị”, Đại được quyền sống mà không mó tay vào
bất cứ việc gì. Hắn vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao cho đàn em “đi
làm” mang tiền về nộp. Mỗi buổi sáng, hàng chục thiếu niên Ba Binh, Ba Tướng,
Ba Gà (hỗn danh để gọi đám trẻ du đãng chưa có tên tuổi. Ba Binh: kẻ quân sư,
chuyên bày mưu tính kế; Ba Tướng: kẻ thực hiện, thường là những tên trực tiếp
đi đánh nhau với các băng nhóm khác; Ba Gà: những tên “thuyết khách”, chuyên đi
ngoại giao, thương lượng...) cả trai lẫn gái tụ tập quanh Đại Cathay nhận công
việc và địa bàn do hắn cắt cử, sau đó túa đi, chiều lại đem tiền về cho Đại. Được
cái, hắn rất hào phóng, Đại Cathay chia hết tiền cho đàn em, chỉ giữ lại cho
mình một khoản nhỏ, đủ cà phê, thuốc lá cho ngày kế tiếp. Những đàn em không
may bị ế báo, bị mưa ướt thuốc, kẹo phải đền tiền, Đại Cathay cũng không chửi bới,
đánh đập như những tên “chăn chíp” tham lam khác mà còn lấy của đứa “trúng
mánh” cho thêm. Vì vậy, đàn em rất khoái và chịu nghe lời “anh Đại”. Tình trạng
đánh lộn, tranh giành khách trong khu vực của Đại Cathay được dẹp yên.
Nằm ngay cạnh khu vực của Đại Cathay là bót Cảnh sát quận Nhì
- thường gọi là bót Dân Sinh - nổi tiếng dữ dằn. Rất nhiều lần, sau khi dẫn đàn
em đi chinh phạt các khu vực khác hoặc đánh dằn mặt người của các băng nhóm đến
giành lãnh địa, Đại Cathay đã bị các ông cò bót quận Nhì xách tai lôi về bót.
Hăm dọa, tát tai, đá đít đủ kiểu, thằng nhóc vẫn trơ trơ không chịu khai tên tuổi
những đàn em tham gia ẩu đả, đám mã tà, phú-lít lại đành thả Đại về. Hết thuốc,
các ông cò nảy ra đòn độc để trị Đại Cathay, bắt đàn em của Đại đứng xem. Chúng
bắt thằng nhóc quỳ giữa sàn nhà, hai ông cò hai bên xốc ngược tay Đại lên, cạy
mồm thả vào một con gián sống. Con vật lập tức chui tọt vào cổ họng lao thẳng
xuống dạ dày. Ngứa ngáy, kinh tởm và nhột không chịu được, Đại Cathay ói ra mật
xanh, mật vàng. Đám Ba Binh, Ba Tướng xung quanh xanh lè mắt, có đứa hét lên ngất
xỉu và đái ra quần. Đại Cathay, sau một hồi nôn thốc nôn tháo, bắt đầu trấn
tĩnh, lại tiếp tục câm như hến, tuyệt đối không khai. Không còn cách nào khác,
các thầy cảnh sát đành tống Đại Cathay vào trại tế bần hoặc Trại giáo
hóa thiếu nhi phạm pháp ở Thủ Đức.
Ở miền Nam trước giải phóng, có bốn nơi được coi là “lò đào tạo
du đãng”. Nơi thứ nhất là Trại nuôi dạy trẻ mồ côi, cơ nhỡ nằm tại địa điểm nhà
hát Hòa Bình hiện nay. Do nằm gần “Việt Nam Quốc Tự” nên sau này, nó được dân
giang hồ gọi luôn là Trại “Việt Nam Quốc Tự”. Những đứa trẻ vào đây được cho ăn
học, nhưng lại không được quản lý chặt nên những đứa hiếu động tha hồ ra vào,
trốn đi trốn lại. Nơi thứ hai, Làng cô nhi Thủ Đức, điều kiện sống khá hơn
nhưng vẫn rất lỏng lẻo, tha hồ cho đám tiểu yêu phá phách. Những tên nhóc bất
trị nhất, hai trại trên đều không chứa nổi thường bị cảnh sát lùa vào Trại giáo
hóa Thủ Đức. Thực chất, đây chỉ là nơi nuôi báo cô đám du thủ du thực, chờ
chúng đủ tuổi là đẩy vào quân đội. Nơi thứ tư, Trại tế bần nằm bên kia cầu Trịnh
Minh Thế (nay là cầu Tân Thuận), là một Trạm trung chuyển giam giữ những tên
lưu manh sắp hết tuổi vị thành niên. Sau nửa tháng bị giam, nếu có người nhà bảo
lãnh, đóng phạt, tên tiểu yêu sẽ được cho ra. Nếu không chúng sẽ bị nhốt lại,
chờ đủ tuổi là tống vào đội quân “cưỡng bức phục vụ” tức lao công phục vụ chiến
trường. Kẻ nào bị liệt vào hạng này coi như cầm chắc cái chết. Ngoài mặt trận,
việc của họ là đi trước phát cây, mở đường, đào công sự, trong khi chân không
giày dép, hai người chung một sợi dây xích chân, muốn chạy cũng không được, mặc
kệ mưa đạn vãi cả trước mặt lẫn sau lưng. Biết trước số phận “bia thịt” của
mình nên đám du đãng vào trại tế bần chưa ấm chỗ đã tìm cách trốn. Lọt ra khỏi
võng rào các trại, đám nhóc lại lần về với các băng nhóm du đãng, bụi đời.
Thực ra, các trại nói trên đều được mở ra với mục đích tốt đẹp
là nuôi dưỡng, chăm sóc và dạy dỗ số trẻ em mồ côi, cơ nhỡ. Điều kiện cơ sở vật
chất tuy còn thiếu thốn nhưng các trại cũng thật sự trở thành những mái ấm từ
thiện cho những đứa trẻ bất hạnh lớn lên. Không ít người trong số họ đã ăn học
thành tài, trở thành kỹ sư, bác sĩ, những công dân lương thiện. Nhưng đối với
những tên nhóc tì vô tổ chức, các trại vì quá đông, không đủ sức kiềm giữ, quản
lý nên chúng thường xuyên tìm cách trốn, vì không chịu tuân theo kỷ luật và điều
kiện sống còn thiếu thốn. Hầu hết đám giang hồ Sài Gòn nổi tiếng sau này đều đã
từng qua đủ các trại nói trên. Thuộc hàng vào ra như cơm bữa, Đại Cathay được
liệt vào loại “tù con rạ”, để phân biệt với đám “tù con so” mới nhập trại lần đầu.
ở các trại, Đại Cathay đã làm quen với những Của Gia Định, Lâm Chín ngón, Hắc
Quảy chảy, Hòa áo thun... những chiến hữu đắc lực sau này trên chốn giang hồ.
Mỗi lần vào trại rồi trốn ra, Đại Cathay càng liều lĩnh hơn,
kinh nghiệm hơn, càng “tích cực” lao đầu vào những trận thư hùng - vốn là thứ
năng khiếu nổi trội hơn cả ở hắn.
Năm 1955, Đại Cathay chuyển sang sinh sống ở khu vực Hãng
phân Khánh Hội cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos. Đám trẻ con khu vực này tiếp đón Đại
Cathay khá nồng nhiệt bằng những trận hỗn chiến. Một lần nữa, sự lì đòn của Đại
lại giành phần thắng. Toàn bộ nhóc tì khu vực Khánh Hội, quanh cầu Ông Lãnh, gồm
toàn dân bến tàu, vựa cá, vựa rau cải - vốn có hạng trong nghề dao búa - đều bị
Đại Cathay thu phục qui về dưới trướng. Dù giang sơn đã rộng, binh tướng đã nhiều
nhưng Đại Cathay vẫn luôn giữ một nét mặt buồn buồn. Bỏ học từ bé, chữ nghĩa
trong đầu Đại đã bị gió bụi lề đường thổi bay hết cả. Người thân còn lại duy nhất
bên Đại là Phong khùng, vừa là đứa đàn em, vừa là ruột rà cùng mẹ khác cha. Đại
hình như là Lê Văn Đại, còn thằng Phong, tên nó có phải là Trần Thanh Phong
không, Đại cũng không dám chắc.
Khi Đại Cathay còn là một cậu bé đánh giày thì toàn bộ khu vực
Cầu Mống - Dân Sinh - Cầu Ông Lãnh mà dân giang hồ gọi là khu Da Heo, đều do một
tay giang hồ nổi tiếng là Tám Lâu cai quản. ở trần, quần dài vắt vai, đi đứng
nói năng khụng khiệng, nét mặt luôn đằng đằng sát khí, Tám Lâu bị bà con khu Da
Heo coi như một hung thần. Nghề chính là đạp xích lô, nhưng thực chất Tám Lâu
là kẻ nhận quyền bảo kê thu thuế toàn bộ khu Da Heo, dưới trướng có hàng chục
đàn em. Dưới nệm xích lô, Tám Lâu luôn thủ sẵn “hàng mã” (mã tấu), sẵn sàng
vung ra bất cứ lúc nào, với bất cứ ai.
Nhiều lần chứng kiến thằng nhóc đánh giày dẫn quân đập lộn,
Tám Lâu đâm “chịu” Đại Cathay. Thỉnh thoảng ngồi nhậu thấy Đại đi qua, Tám Lâu
lại ngoắc vào kê ghế cho ngồi cạnh “mần hơi cho ấm bụng”. Qua những lần nhậu ké
đó, Đại Cathay được Tám Lâu giới thiệu như một tay tuổi trẻ tài cao đầy hứa hẹn
với đám giang hồ đàn anh: Ba Hội, Cảnh Tượng... Tám Lâu cũng thường đưa Đại đến
các khu Lò Heo (cũ), Chánh Hưng, hẻm Hai mươi thước để làm quen với các tay anh
chị khu vực khác. Nể tình, Đại Cathay cũng hay ghé đến hẻm 110 Nguyễn Công Trứ
để thăm hỏi Tám Lâu.
Tuy hung tợn, dữ dằn nhưng Tám Lâu vẫn phải thúc thủ trước uy
thế của anh em Bé Bún, một trùm giang hồ quận 4, khu vực cạnh Hãng phân nơi Đại
Cathay trú ngụ. Cậy đông quân lắm mã (tấu), đám này thường kéo rốc qua Cầu Ông
Lãnh, tràn vào “thu thuế” giựt bà con tiểu thương chợ vựa Cầu Muối, Tám Lâu
không cản nổi.
Một ngày cuối năm 1957, tình cờ nghe đàn anh thở ngắn than
dài, nộ khí xung thiên, Đại Cathay đề xuất:
- Anh Tám để đó em lo. Phải cho Bé Bún nằm viện, đám này mới
ngán!
Tám Lâu gạt phắt:
- Con nít biết gì? Tao còn thua nó, mày là cái
đinh gỉ!
đinh gỉ!
Tự ái, Đại Cathay bỏ về. Lúc này, đám Ba Binh, Ba Tướng của Đại
cũng đã lớn, toàn thanh niên 17, 18 tuổi, lại lăn lộn lề đường nhiều nên cũng
khá dày dạn. Nghe lời Đại Cathay, đám này vác dao qua Bến Vân Đồn “chém bậy”
vài tay em của Bé Bún để khiêu khích. Điên tiết, Bé Bún hô toàn bộ em út tấn
công sang khu Da Heo hỏi tội Tám Lâu. Quân Bé Bún quá đông, khiến Tám Lâu và
đám đàn em hoảng hốt, định bỏ chạy. Nhưng vừa qua khỏi Cầu Ông Lãnh, băng Bé
Bún đã ôm đầu máu chạy ngược trở lại, kêu la vang trời. Không nói trước với đàn
anh nửa câu, Đại Cathay đã âm thầm cho đàn em của mình “trải đệm”, bất ngờ “luộc”
băng Bé Bún. Dưới sự chỉ huy của Đại Cathay, đám giang hồ tân binh tả xung hữu
đột lăn xả vào chém quân Bé Bún, xộc thẳng sang cả bên kia cầu. Nói là làm, Đại
Cathay đã xỉa cho Bé Bún mấy nhát sau đó phải nằm viện thật, không dám bén mảng
sang giành mối ở khu Da Heo nữa.
Sau trận hỗn chiến, Tám Lâu đâm ớn “tài ba” của Đại Cathay. Một
mặt, Tám Lâu tuyên bố trong khu Da Heo, Đại Cathay có toàn quyền xử sự, mặt
khác y lại lo ngay ngáy bị Đại Cathay lấy làm đối thủ. Biết ý, Đại tuyên bố
không giành đất, khu Da Heo vẫn của Tám Lâu. Phần Đại, gã chỉ thu thuế các sòng
bài, ổ đề, tiệm hút trong khu vực. Tiếp đó, Đại vươn tay bảo kê tất cả các
ngành nghề kinh doanh lậu bao gồm xưởng nấu xà phòng, lò mổ heo, lò rượu...
trong khu. Có tiền, có quyền, Đại dần dần đã khiến các tay anh chị khác phải dạt
ra. Đại Cathay tha hồ ăn chơi và làm mưa làm gió.
Đầu những năm 1960, thuyết hiện sinh và phong trào hippie bắt
đầu thâm nhập vào miền Nam. Các cậu ấm cô chiêu con nhà giàu tuy được ăn học
đàng hoàng nhưng cũng học đòi nhau, thường xuyên có mặt ở các nhà hàng, vũ trường,
tiệm hút với đủ kiểu quần áo, tóc tai dị hợm. Đại Cathay tuy ít học nhưng cũng
không hề kém cạnh các bậc trí... giả trong khoản ăn chơi. Nhẵn mặt ở các nơi đốt
tiền nổi tiếng của quận 1, quận 3, Đại Cathay và đám đàn em bắt đầu quen biết với
một đám sinh viên, kỹ sư, bác sĩ con nhà gia thế, trong đó có anh em Dzách Bửu,
Dzì Bửu, Hùng Đầu bò, Hoàng Sayonara (tay này móc classic bản Sayonara rất “não
nùng”)... và nhiều văn sĩ, nghệ sĩ khác. Đám nghệ sĩ, trí thức cũng nể Đại
Cathay chịu chơi và khoái vẻ ngang tàng, bụi bặm của gã - trông bụi đời, hippi
hơn cả. Chính Hoàng Sayonara sau đó đã trở thành quân sư hoạch định chiến lược
làm ăn và chinh phạt cho Đại. Nghe lời các quân sư, Đại Cathay đứng ra cùng với
Bảy Si, bà Bảy Trà đá mở sòng bài lấy xâu ở khu vực Cầu Muối.
Ban đầu, Đại Cathay không thích mở sòng bài vì dân giàu có đã
có các sòng Đại Thế Giới, Kim Chung... mở nữa e không cạnh tranh nổi, Hoàng
Sayonara vẽ:
- Không chỉ giàu mới máu me đen đỏ. Các sòng lớn như Kim
Chung, Đại Thế Giới toàn dân quý tộc, chức sắc, dân giang hồ, người buôn bán ngại
vô. Ta mở sòng vừa vừa kéo khách từ đám này.
Đại Cathay đồng ý. ở chợ Cầu Muối trước đó Bảy Si (anh vợ Năm
Cam - ông trùm sòng bạc sau này) đã có sòng bài sẵn, nhưng khi nghe Đại Cathay
đề nghị hùn hạp, Bảy Si cũng không thể chối từ. Thừa thắng, Đại nống ra cả lĩnh
vực làm huyện đề 40 con chung với Hỏi, trùm khu Cây Da Xà. Hắn mua của Hùng Đầu
bò một chiếc Traction - 15, chiều chiều cho đàn em lái đi khắp các ngả đường vứt
lên từng xấp “phơi” đề cùng với hàng cọc tiền chở về. Quyền lực được tiền bạc hậu
thuẫn khiến Đại Cathay càng thêm uy thế. Đến năm 1962, 1963, Đại Cathay đã trở
thành một ông trùm khét tiếng. Gần như hầu hết nhà hàng, khách sạn, động mại
dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2 đều chịu sự bảo kê của Đại.
Các vũ trường nổi tiếng như Olympic, Queen Bee, Barcara, Paramouth đều coi hắn
như ông chủ đích thực, Đại Cathay và đàn em tha hồ ăn chơi nhảy múa mà không một
nơi nào dám viết hóa đơn, thậm chí còn lấy làm vinh hạnh vì được đàn anh chiếu
cố.
Nhưng nguồn lợi lớn hơn cả mà Đại Cathay thu được lại không
phải là từ tiền thuế bảo kê. Chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn là những kẻ
tình nguyện đóng góp đều đặn để Đại nuôi quân, đồng thời để nhờ vả Đại làm hậu
thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác. Cả anh
em tỉ phú Hoàng Kim Qui (vua kẽm gai), Xí Ngàn mặt rỗ (vua thuốc Bắc), La Thành
Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các ngành nghề khác của người Tàu là những
người đều đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ uy thế của các “vua”, Đại Cathay cũng
làm quen, “chơi chịu” được với khá đông nhân vật quyền thế và tên tuổi khác.
Chỉ năm năm sau ngày khởi sự ở khu Da Heo, Đại Cathay đã trở
thành một ông trùm không đối thủ, được toàn giới giang hồ kiêng dè, sợ hãi.
Nhưng vẫn còn ba ông trùm “lừng lẫy” khác không ưa gì Đại Cathay, đó là Huỳnh Tỳ,
ông trùm khu Lê Lai, Ngô Văn Cái và Ba Thế. Cho rằng Đại “chơi kèo trên”, giành
mối, giành đất, Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định “hội đồng” diệt Đại. Hai tên
giang hồ họp nhau tại vũ trường Aristo (sau này là khách sạn Lê Lai, cạnh khách
sạn New World) cùng một giang hồ gộc là Thế Aristo - chủ vũ trường - có thêm
Hùng phốc và Luân - hai giang hồ cộm cán khác hỗ trợ, mời Đại Cathay đến “bàn
công việc”. Không chút nghi ngờ, Đại Cathay đã bất ngờ bị Thế Aristo đá lộn cổ
trở xuống. Bốn kẻ phục kích cũng nhất tề rút dao xông vào chém. Đại Cathay vừa
đỡ đòn vừa tìm đường thoát thân, chạy được ra ngoài, mình mẩy đầy thương tích
nhưng may không chết. Những vết thương chưa kịp kéo da non, Đại đã đơn thương độc
mã giắt dao đi tìm từng tên một trị tội. Cả năm tên đều lần lượt bị Đại Cathay
chém trọng thương. Cuối cùng, Tám Lâu phải nhờ Cảnh Tượng, Ba Hội và một số tay
đàn anh khác xin lỗi giúp cho năm tên, Đại Cathay mới nguôi giận, đồng ý “hòa
giải”. Danh xưng “Tứ đại giang hồ” bắt nguồn từ đó, gồm tên Đại Cathay - kẻ
không đối thủ - đứng đầu và ba tên đối thủ của... “không đối thủ” xếp nối theo
sau. Thực ra, xếp thứ tự trong “Tứ đại giang hồ” là Ba Thế, một “chiến hữu” rất
thân với Đại Cathay chứ không phải là Thế Aristo - kẻ đã từng dự mưu chém Đại.
Chi tiết này, ngay trong giới giang hồ cũng nhiều tên nhầm lẫn, vô tình đánh đồng
Ba Thế với Thế Aristo, khiến cho huyền thoại về “Tứ đại giang hồ” càng thêm gay
cấn, ly kỳ.
2. Đế quốc Đại Cathay
Lẽ ra, với những thành tích bất hảo chồng chất lên nhau, Đại
Cathay đã ngồi tù mọt gông từ những năm trước đó. Nhưng xã hội miền Nam đầy nhiễu
nhương với bộ máy quan chức được mua bán bằng tiền đã tỏ ra bất lực không trị nổi
Đại Cathay và đám du đãng, để mặc kệ cho chúng làm mưa làm gió. Vào thời đó, chức
quận trưởng quận 1 trị giá 30 triệu đồng, trong khi lương lính chỉ hơn 300 đồng
cho nên những kẻ đương chức chỉ tìm cách vơ vét, làm giàu để bù lại số tiền đã
bỏ ra mua lon tước. Cò Ly, quận trưởng quận 1 còn cố tình dung túng
cho Đại Cathay mở sòng bài, hoạt động bảo kê thu thuế. Bù lại, hằng tháng, Đại
đều có những khoản riêng béo bở tuồn vào cửa sau cho vợ ông cò. Mỗi chiều thứ bảy,
cò Ly và Đại Cathay lại sánh vai nhau bước vào các vũ trường nhà hàng sang trọng
ăn chơi, đập phá thâu đêm. Đương nhiên, lương quận trưởng một năm cũng không đủ
chi cho một lần nhất dạ đế vương nên ông cò chẳng bao giờ phải nghĩ đến chuyện
móc hầu bao.
Có tiền, có quyền, có thế, Đại Cathay quyết định bành trướng
xuống Chợ Lớn, lãnh địa của Tín Mã Nàm, ông trùm giới Hắc Đạo người Hoa, xưa
nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm.
So với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc Đạo của Tín Mã
Nàm có tổ chức chặt chẽ và hùng hậu hơn nhiều. Dưới thời Diệm - Nhu, toàn bộ hoạt
động kinh tài của các bang hội Hoa kiều Chợ Lớn đều có cổ phần của giới Hắc Đạo.
Toàn bộ nhà hàng, sòng bạc, tiệm hút... đều do giới này quản lý hoặc hùn hạp.
Tuy nhiên, sau đảo chính tháng 11.1963, do tham lam, chính Tín Mã Nàm đã khiến
giới Hắc Đạo suy yếu. Bắt tay với khá nhiều tướng lĩnh, chính khách thuộc phe đảo
chính, “Con ngựa điên” đã bán đứng một số cơ sở kinh tài của các bang hội cho
chính quyền mới, tố họ là “cơ sở kinh tài của Diệm - Nhu”. Mặt khác, Tín Mã Nàm
cũng tố cáo và giao nộp cho cảnh sát một loạt tay giang hồ Hoa kiều không ăn
cánh với y như Hỏi Phoòng Kin, Sú Hồng, Cọp Chảy, Quầy Thầu Hao, Hắc Quẩy Chảy...
nhằm củng cố địa vị “Vua Hắc Đạo” của mình. Vì vậy, Tín Mã Nàm được trung tá Lê
Ngọc Trụ - Trưởng ty cảnh sát quận 5 trọng dụng và ưu đãi, trong khi bị nhiều
đàn em oán giận và tìm cách trả đũa.
Trong những kẻ oán Tín Mã Nàm có tay tài pán tên Chó, người
giúp việc cho Tín Mã Nàm quản lý ngành kinh doanh cờ bạc. Biết được sự chia rẽ
đó, Đại Cathay đã sai đàn em dụ hàng tên này. Chó đã bán đứng Tín Mã Nàm, kéo một
lượng lớn con bạc nặng ký từ các sòng Đại Thế Giới, Hào Huê... về Cầu Muối cho
sòng của Đực Bà Tiều và Bảy Si thuộc quyền Đại Cathay, đồng thời bỏ luôn khu Chợ
Lớn về theo Đại Cathay mở mang sòng bạc ở khu Sài Gòn. Biết chuyện, Tín Mã Nàm
hạ lệnh cho giới Hắc Đạo:
- Chém bất cứ tên đàn em nào của Đại Cathay bén mảng xuống Chợ
Lớn.
Chỉ chờ có thế, suốt 12 tháng trời, Đại Cathay đã liên tục đổ
quân tập kích xuống các điểm làm ăn của Tín Mã Nàm ở vùng Chợ Lớn, chém phứa
vào bất cứ ai rồi tức tốc bỏ chạy. Người bị chém thường là dân lành, khách
chơi, chính vì vậy mà họ đâm sợ các điểm ăn chơi giải trí của Hắc Đạo, không
dám lui tới nữa. Vắng khách, thu nhập thấp, đám cô hồn bảo kê của Tín Mã Nàm
đành túa ra làm ăn lẻ để gỡ gạc, bất chấp kỷ luật của ông trùm. Nhưng cứ tên Hắc
Đạo nào lọt xuống khu Sài Gòn là tên đó bị đàn em của Đại Cathay chặn đánh. Đầu
năm 1964, biết phe Hắc Đạo đã hết phong độ, Đại Cathay quyết định đánh trận cuối,
Đại dẫn theo 9 tên đàn em “chiến đấu” nhất, trong đó có Ba Thế và Lâm chín ngón
đi trên 5 xe Goebel bất thình lình tấn công vào quán cà phê ngay trước rạp Hào
Huê đối diện với Đại Thế Giới. Đây là điểm tụ tập của các tay đàn em Tín Mã Nàm
vào hai buổi sáng chiều.
Cuộc tập kích thất bại, hai bên đều thiệt hại nặng nề. Nhưng
máu liều của Đại Cathay càng được giới giang hồ truyền tụng và vì nể. Tín Mã
Nàm cũng lo lắng: nếu cứ để cho Đại Cathay tập kích mãi như vậy, giới Hắc Đạo
chỉ còn nước dẹp hết sòng bài, tiệm hút vì không còn ai dám bén mảng. “Con ngựa
điên” phải kìm cơn điên, cử người đến mời Đại Cathay lên nhà hàng Đồng Khánh điều
đình. Đàn em cố khuyên Đại đừng vào hang cọp, e bị “trải đệm” nhưng Đại Cathay
nổi máu yêng hùng, vẫn quyết định nhận lời. Để tài xế ngoài cửa, Đại một mình
tay không lên nhà hàng hội kiến với Tín Mã Nàm. Cử chỉ ngang tàng này khiến Tín
Mã Nàm thầm phục. Hắn nhượng bộ, đồng ý giao toàn bộ khu vực từ chợ Nancy về
Sài Gòn cho Đại Cathay toàn quyền. Phần quận 5, Chợ Lớn, đàn em của Đại được
phép hoạt động, với điều kiện không lấn vào những khu vực đã có sẵn người của Hắc
Đạo. Riêng các khu vực chợ Sắt, chợ Tân Thành, hẻm “dzách bạc hồ hãn” (hẻm
100), Đại Cathay và đàn em tuyệt đối không được xâm phạm, vì đó là giang sơn
riêng của Tín Mã Nàm, nơi vợ bé của y sinh sống.
Trong chiến dịch bài trừ du đãng của cảnh sát ngụy năm 1966,
cái tên Lê Văn Đại, tức Đại Cathay được liệt vào hàng “gian nhân hiệp đảng” đặc
biệt nguy hiểm. Bản phúc trình ngày 15.6.1966 gửi Phó cảnh sát trưởng Trần Văn
On có ghi rõ: “Tên Đại Cathay đã sống không nghề nghiệp từ năm 19 tuổi. Y đã kết
hợp cùng một số thanh niên cùng tình trạng tổ chức những vụ chém lộn khắp vùng
Sài Gòn - Chợ Lớn. Y đã hai lần tổ chức chém người tại khu Dân Sinh và Chợ Lớn.
Ngoài ra, y cũng bị chém một lần tại đường Lê Lai. Đặc biệt, số người bị đánh
chém cũng như đã chém y đều thuộc thành phần lưu manh du đãng...”. Vì vậy, dù
không thu được chứng cứ cụ thể, Đại Cathay vẫn bị điệu ra tòa tiểu hình với tội
danh du đãng đặc biệt và bị tống giam 45 ngày vào phòng 24 E, khu ED, trại Chí
Hòa.
Khu ED gồm 2 dãy E và D. Dãy E gồm toàn loại anh chị lưu
manh, tù hình sự nổi tiếng hung hãn. Dãy D là nơi giam giữ chính trị phạm, bộ đội
giải phóng bị bắt... Mục đích của bọn cảnh sát ngụy khi đem giam chung chính trị
phạm với đám lưu manh côn đồ là muốn mượn tay bọn đầu trâu mặt ngựa để đàn áp,
bức bách tù chính trị. Chúng chọn trong đám lưu manh một số tên hung hãn nhất
cho làm tự quản, được quyền giữ chìa khóa phòng giam, chìa khóa hành lang, tùy
ý cho tù ra, vô phòng. Cả hai dãy E và D chỉ có một hồ nước lớn, đặt dưới dãy
E. Khi đến giờ anh em tù chính trị, ngoài giặt giũ, lấy nước, đám tự quản thường
khóa các cửa phòng dãy E lại, đề phòng đám lưu manh tràn sang khiêu khích đánh
đập tù chính trị. Ngoài những tên tự quản, không một tù thường phạm nào được
phép lai vãng vào giờ nghỉ.
5 giờ chiều ngày 25.8.1966, Đại Cathay đi hầu tòa về. Thay vì
về phòng ngồi, hắn nói với Của Gia Định và Ngọc Heo, hai tên tự quản đang ngồi
ôm đàn nghêu ngao hát:
- Trời nóng quá, tao tắm một phát.
Sợ đàn anh, hai tên tự quản vội vã lấy xà phòng cho Đại
Cathay. Hung hăng, ngổ ngáo, Đại vục luôn cả đầu đầy xà phòng vào xô nước đang
hứng của một bác chính trị phạm. Người tù chính trị nhỏ nhẹ trách:
- Nước ít, chú làm vậy coi đặng sao?
Vốn tính côn đồ, Đại tưởng ai cũng sợ mình. Hắn giang tay tát
thẳng vào mặt người chính trị phạm và gầm lên:
- Mày biết tao là ai không mà dám cự nự?
Vài ba người tù chính trị khác đứng cạnh đó, dằn lòng không
được, xông vào xô Đại Cathay ra. Tay anh chị cộm cán bộc lộ bản chất côn đồ, vừa
đấm đá lung tung, vừa la toáng lên:
- Tụi nó đánh tao!
Từ trên lầu, Của Gia Định và Ngọc Heo nhảy vào trợ chiến,
xông vào đánh những chính trị phạm này. Không nhịn được nữa, gần 100 chính trị
phạm từ lầu 3D kéo ào xuống, nện nhừ tử ba tên du đãng. Mấy trăm tên du đãng bị
nhốt trong dãy E náo động, la hét inh ỏi. Không may cho chúng, chìa khóa các
phòng đều đang nằm trong người Ngọc Heo nên đành chịu chết, chỉ đứng sau song sắt
buồng giam nện thình thình và la ó vang trời.
Ban đầu nghe ồn, tưởng thường phạm đánh chính trị phạm, bọn
cai ngục vờ giả điếc, lúc này mới vội vã chạy xuống đưa ba tên du đãng đi cấp cứu.
Mặt khác, chúng mở cửa phòng để cho hàng trăm tên thường phạm hung hãn vác hung
khí ùa xuống xông vào đánh tù chính trị. Quân ít nhưng đoàn kết, anh em tù
chính trị vừa đỡ đòn vừa dìu nhau rút về phòng, khóa chặt cửa cố thủ. Mảnh lu
nước, gạch vỡ được cạy lên ném ra, anh em tù chính trị đã khiến không tên du
đãng nào lọt vào được dù trong tay chúng có nào cán chổi sắt, gỗ thanh, nào dao...
Tình trạng hỗn loạn kéo dài đến tận đêm. Không những không
can thiệp, bọn cai ngục còn cố tình tiếp tay và xúi giục bọn côn đồ. Chúng mở
toang cửa dãy D cho bọn côn đồ mặc sức tung hoành, đập phá. 9 giờ tối, bọn giám
thị phao lên: Đại Cathay, Của Gia Định, Ngọc Heo đã chết ở bệnh viện. Lập tức,
toàn khám Chí Hòa náo động. Bọn lưu manh gom hết đèn cầy thắp sáng đêm hò hét
vang trời đòi trả thù. Không nao núng, gần 100 chính trị phạm vẫn đoàn kết bao
bọc nhau, cố thủ và đẩy lùi toàn bộ các cuộc tấn công hung hăng của gần 800 tù
thường phạm. Đến sáng, khu ED phơi ngổn ngang dưới nắng một cảnh tượng như bãi
chiến trường với gạch ngói, mảnh lu, vải rách và khá đông người bị thương của cả
hai bên. Lúc này, bọn giám thị mới hoảng hốt, sợ tù hai bên sẽ phá banh khám.
Chúng gọi cảnh sát dã chiến vào ốp đám thường phạm vào phòng. Bị kích động,
đang say máu, đám thường phạm xông vào đánh luôn cả cảnh sát dã chiến. Hoảng hồn,
những tên cai ngục phải cho xe lên bệnh viện chở 3 tên du đãng bị thương về.
Khi Đại Cathay, Của Gia Định, Ngọc Heo đầu, tay quấn băng trắng nhăn nhở cười
và bước vào, cuộc náo loạn mới chấm dứt. Kỳ thực anh em chính trị phạm chỉ bức
xúc vì bị hành hạ nên đánh cảnh cáo chứ không vì thù hằn, không ra đòn nặng.
Chính Đại Cathay sau đó cũng phải thừa nhận với đám giang hồ:
- Tụi mình bậy quá. Mấy ổng mà không nương tay, cũng chơi ác
như mình thì ba thằng tao tiêu lâu rồi!
4. Du đãng đụng... nhà văn
Học đòi làm sang, Đại Cathay, Phong khùng, Lâm Chín ngón ưa rủ
nhau đến “nằm bẹp” bên bàn đèn của tiệm hút Đông Kinh, đường Ngô Tùng Châu, quận
1 (nay là đường Tôn Thất Tùng). Tại đó, Đại làm quen và chơi thân một số dân
văn nghệ như Tâm, con trai bà Bút Trà - chủ bút tờ Sài Gòn mới, Duyên Anh (tên
thật là Vũ Mộng Long - chủ bút tờ Tuổi Ngọc) và Văn Quang - nhà văn kiêm đại úy
tâm lý chiến - những dân chơi tìm “yên sĩ phi lý thuần” (từ lóng, đọc trại chữ
in inspiration - cảm hứng) thường trực tại tiệm hút này.
Duyên Anh là một nhà văn khá nổi tiếng chuyên viết sách “xúi
con nít đập lộn”. Sau nhiều lần “nằm bẹp” (tai) nghe Đại Cathay kể về cuộc đời
du đãng của mình, Duyên Anh nổi hứng làm thơ tặng và đọc cho Đại Cathay nghe,
trong đó có đoạn:
Mái tóc nâu vương niềm đau thương
Quần Blue Jean chung thủy bạc thời gian
Bastos xanh gắn chặt ngón tay vàng
Mái tóc bồng rối loạn nét hồn hoang
... Hè đại lộ Paso dồn dập overnight
Lê gót giày nghiến trầy lưng phố xá...
Thấy nhà văn này có vẻ “khoái giang hồ”, tả mình khá đúng, Đại
Cathay ra chiều... cảm động. Để “lấy le”, tỏ ra ta đây “biết chơi”, Đại Cathay
thường nèo kéo, rủ rê, bao Duyên Anh ăn nhậu, hút sách trước mặt đàn em tỏ vẻ
ta đây hào phóng và biết quí trọng những người “làm nghệ thuật”. Duyên Anh tán
dương Đại Cathay:
- Anh mã thượng như một nhân vật bước ra từ trang sách của
Francoise Sagan.
Đại Cathay nở phồng cánh mũi, dù chẳng hiểu mô tê gì cả. Lúc
về, Đại Cathay quay sang hỏi Lâm Chín ngón:
- Sagan là... ông nào vậy?
Biết đàn anh “bé cái lầm” Lâm Chín ngón vẫn không dám cười, cố
tìm cách giải thích cho Đại Cathay hiểu, rằng không phải là “ông” mà là bà Sagan
(!) - nhà văn ưa viết về đề tài bụi đời của Pháp, từng đoạt giải Nobel văn học.
Nghe xong, Đại Cathay lấp liếm:
- Ông hay bà gì cũng xong, miễn chịu chơi là được. Phải có bả
ở đây, tao kêu bà đi nhảy đầm. Viết được về giang hồ, muốn giải gì tao cũng chiều!
Tất nhiên, bà Sagan thì chẳng muốn nhưng Duyên Anh thì có.
Sau một thời gian nằm hút chung với Đại Cathay, nhà văn khoái chuyện đập lộn
này đã cho ra đời tiểu thuyết “Điệu ru nước mắt” với nhân vật chính lấy từ
nguyên mẫu con người và tên Đại. Đọc xong cuốn sách, Đại Cathay bỗng dưng nổi
cáu, hắn gầm lên:
- Thằng cha nhà văn này cà chớn, muốn chơi xỏ tao, viết bậy
viết bạ. Tao làm đếch gì mà phải lụy đàn bà đến nỗi chết khô cả xác.
Mặc cho đám quân sư có học tốn công giải thích, rằng nhà văn
họ có quyền hư cấu, Đại Cathay vẫn hằm hằm ra lệnh cho đàn em tìm Duyên Anh để
“luộc”. Mối bang giao không ngờ kết thúc quá bi đát, Duyên Anh sợ vã mồ hôi vội
cao chạy xa bay, giông tuốt lên Đà Lạt trốn hơn nửa năm liền. Rất may cho ông
ta, cuối năm 1966, Đại Cathay bị cảnh sát tống ra đảo Phú Quốc và mất tích tại
đó. Lệnh của hắn đương nhiên bị bãi bỏ. Lúc này, Duyên Anh mới dám quay trở lại
Sài Gòn.
Không chỉ Duyên Anh, không ít nhà văn, nhà báo của chế độ cũ
sau này cũng cố tình bới móc tìm hiểu cuộc đời, tính cách của Đại Cathay và thổi
phồng lên, biến nó thành huyền thoại về một tên du đãng nghĩa hiệp và hào
phóng, với những cuộc tình hết sức lâm ly bi ai. Bộ phim và bài hát cùng tên “Vết
thù trên lưng ngựa hoang” khá nổi thập niên 1970 là một ví dụ điển hình.
Thực tế, sự "hào phóng", "chịu chơi",
"nghĩa hiệp", chỉ là thứ trang sức lòe loẹt mà Đại Cathay cố khoác
lên, đánh bóng cho mình. Tại khu Da Heo, Đại thường tỏ ra hào phóng với người
nghèo, hay móc tiền quăng cho đám trẻ con đánh giày, bán báo để lấy tiếng. Bù lại,
hắn đã dựng nên cả một hệ thống bảo kê, trấn lột đòi “thuế” của rất nhiều hàng
quán khắp vùng quận Nhất, quận Nhì, quận Ba Sài Gòn; đã chỉ huy đàn em gây ra
hàng chục, cả trăm vụ loạn đả, phá phách đánh chém nhau vô tội vạ mà hậu quả
thường chỉ trút lên đầu những người dân thấp cổ, bé họng không hề có thù oán gì
với hắn. Và, số tiền “từ thiện” mà Đại Cathay ném cho những đứa trẻ bụi đời
trong những cơn cao hứng xem ra chỉ là hạt cát so với hàng núi tiền mà hắn đã
quăng ra cùng đàn em hút xách, ăn nhậu, đập phá và bao gái trong những đêm nhất
dạ đế vương thác loạn.
5. Giang hồ không có vua
Mỗi lần ra đường, Đại Cathay và băng du đãng lại một phen khiến
người đi đường khiếp vía. Như một gã con trời thứ thiệt, Đại Cathay chễm chệ
trên băng trước chiếc Mustang mui trần do Năm Công lái, có cả chục tên đàn em
phóng xe máy theo sau hộ tống. Xe chạy xả ga, hú còi vô tội vạ khiến mọi người
hốt hoảng chạy giạt sang hai bên đường, trong khi đám lưu manh tha hồ vỗ tay cười
hô hố. Có lúc cao hứng, Đại Cathay còn thượng cả hai chân ra trước kính xe hoặc
thò ra bên cửa hông gõ thùng xe loạn xạ...
Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại Cathay khiến những
kẻ tai to mặt lớn và cảnh sát ngụy hết sức tức tối, nhiều lần tống cổ Đại vào
khám. Nhưng bắt cóc bỏ đĩa, chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng để giam giữ hắn
lâu, đành phải thả. Dùng luật không xong, nhiều quan chức ngụy tìm cách mua chuộc
hắn.
Biết Đại Cathay đang tuổi quân dịch, viên tướng cao bồi Nguyễn
Cao Kỳ - có lẽ do muốn chơi trội - bèn cho gọi tên du đãng đến. Kỳ phủ dụ:
- Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là luật, anh không
thể trốn mãi được đâu. Về làm vệ sĩ cho tôi, anh vừa khỏi đăng lính, lại vẫn có
quyền hành, muốn đi đâu làm gì mặc sức mà khỏi bị ai thù oán. Anh cứ suy nghĩ
cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được.
Tên du đãng ít học đời nào chịu suy nghĩ những ba ngày. Kỳ
chưa dứt Đại Cathay đã trả lời luôn:
- Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình chiếu cố. Phiền nỗi
tôi đi đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ tống, giờ tôi lại làm gạc-đờ-co cho người
khác, không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp?
Tướng râu kẽm bầm mặt nhưng vẫn ngọt nhạt:
- Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực của quốc gia,
danh giá đâu kém cạnh gì ai? Là quí anh tôi mới bảo thế, chứ nếu cần vệ sĩ tôi
đâu thiếu người giỏi.
Đại Cathay vẫn ngổ ngáo:
- Dạ, xin lỗi, tôi không hầu thiếu tướng được...
Sau Nguyễn Cao Kỳ đến lượt tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan,
giám đốc Nha cảnh sát Đô thành. Tuyên bố “Đặt giang hồ ra ngoài vòng pháp luật”,
tuớng Sáu Lèo cho mở “Trung tâm bài trừ du đãng” đặt ở bên kia cầu Bình Triệu
(quận 9) và lập “Biệt đội hình cảnh” nhằm tiêu diệt giang hồ do đại úy Trần Kim
Chi làm đội trưởng. Theo lệnh Sáu Lèo, “Biệt đội hình cảnh” được bắn bỏ bất cứ
tên giang hồ nào trên đường phố nếu chúng gây án và chống lại cảnh sát. Sau một
thời gian hoạt động, “Biệt đội hình cảnh” vẫn chỉ tóm được một số tên du đãng
“tép riu”, tướng Sáu Lèo bèn quay sang tìm cách mua chuộc Đại Cathay hòng “dĩ độc
trị độc”. Đích thân Mã Sâm Nhơn, phụ tá của tướng Sáu Lèo đến gặp, đưa giấy mời
của “ngài” chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan cho Đại Cathay. Cùng một đàn em, Đại
Cathay có mặt y hẹn. Nguyễn Ngọc Loan ra giá:
- Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ đại úy Phó ty cảnh sát quận 7.
Anh được toàn quyền hành động, nhưng phải giúp tôi tiêu diệt hết đám lưu manh
du đãng.
Đại Cathay từ chối:
- Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du
đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại danh
liệt.
Nguyễn Ngọc Loan hạ giá:
- Anh không muốn nhận, tôi không ép, nhưng anh phải giải tán
băng nhóm, không được lộng hành.
Đại Cathay đồng ý với điều kiện để cho y và đàn em toàn quyền
làm ăn và cai quản khu cảng Sài Gòn, Khánh Hội, khu vực chợ vựa Cầu Muối, và
hai bên bờ Kinh Tẻ. Thấy tên giang hồ cứng đầu, Nguyễn Ngọc Loan nổi đóa:
- Tôi lệnh cho anh giải tán hết, nếu không giang hồ, du đãng
sẽ không còn đất sống!
Đại Cathay trả lời:
- Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh cho các băng khác
được?
Cuộc mặc cả kết thúc. Tiếng tăm Đại Cathay nổi như cồn trong
giới giang hồ vì “dám vuốt râu kẽm” tướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối chức tước của
Nguyễn Ngọc Loan ban cho. Đại Cathay càng vênh váo hơn. Nhưng, chính bằng sự nổi
tiếng ấy, Đại Cathay đã tự ký cho mình bản án tử hình.
Quá ngạo mạn, lại đang là giai đoạn cực thịnh của băng
Cathay, Đại vẫn không hề biết điều đó, tiếp tục lộng hành. Không chỉ ngổ ngáo với
tướng Sáu Lèo trong công việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức
viên tướng này trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu tâm gì đến sức nặng của
cái lon chuẩn tướng và trọng trách “Chief” ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc Loan
đang nắm giữ.
Vào thời điểm đó, Sài Gòn ngập trong không khí sống gấp và hưởng
thụ, không cần biết đến tương lai. Một trong những mốt thời thượng của
các nhà buôn giàu có, các sĩ quan cộng hòa hào hoa, các công tử con nhà gia thế
là công khai có nhân tình nhân ngãi hoặc cặp bồ với cave, nghệ sĩ trẻ đẹp. Đường
đường là một vị tướng, Nguyễn Ngọc Loan đâu thèm để mắt tới các cô cave, ca sĩ
phòng trà bình thường. Người ta thấy “ông tướng độc nhỡn” thường xuyên có mặt tại
vũ trường Olympic trên đường Lê Lợi vào mỗi tối thứ 7. Tại đó, Nguyễn Ngọc Loan
là chủ nhân của một vưu vật: ca sĩ Phương Dung nổi tiếng xinh đẹp và quý phái,
người được mệnh danh là “con nhạn trắng Gò Công”, lấy vũ trường này làm đất biểu
diễn. Mỗi lần đến thăm tình nhân, viên tướng xách theo cả chục tên vệ sĩ thuộc
hàng thiện xạ, cũng nổi tiếng ngổ ngáo và chịu chơi, phóng xe Jeep bạt mạng với
những đường cua cong lề bạt phố, đạp phanh cháy cả mặt đường.
Olympic cũng là chốn mà băng Đại Cathay thường xuyên lui tới.
Hơn thế nữa, Thủy Tàu - tài pán vũ trường Olympic còn là một “mối” rất khoái Đại
Cathay. Khác với viên tướng và đám lâu la bụi bặm, Đại Cathay thường
lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hòa không khí, choáng lộn và êm ru nhẹ
nhàng bơi đến cửa vũ trường. Loại xe đó, cả Sài Gòn chỉ có dăm ba chiếc.
So với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại và băng Cathay
luôn sẵn sàng “xài lớn”, rút tiền chẳng bao giờ đếm, người ngợm cũng “kẻng”
hơn, dĩ nhiên là được các em cave ở đây săn đón nồng nhiệt hơn nhiều.
Bị “gác kèo”, đám vệ sĩ tức lắm, nhiều lần hậm hực, nhưng Đại Cathay và đám đàn
em vẫn phớt ănglê, coi như “chuyện tép”.
Một tối, Đại và khoảng chục đàn em, trong đó có Lâm Chín ngón
và Lành Cầu Muối - một tay cảnh sát ăn “rơ” với giang hồ kéo đến Olympic từ khá
sớm. Thấy các đàn anh, đám cave ríu rít túa ra vây lấy bá cổ níu tay, chí chóe
cả gian bar trên lầu 2. Cả đám “vui vẻ” mới chừng nửa tiếng, cánh cửa lại xịch
mở. Đám vệ sĩ của Sáu Lèo - không có chủ tướng đi cùng - xộc vào, cũng cỡ chục
tên. Ngồi chờ cả 15 phút, đám vệ sĩ vẫn không thấy cô cave nào đến săn sóc.
Trong khi đó, ở mấy bàn bên vẫn liên tục vọng sang tiếng cấu véo giỡn hớt rúc
rích của băng Cathay với đám cave như thể trêu ngươi. Nổi cáu, cả đám vệ sĩ đưa
mắt nhìn nhau và đứng bật dậy. Thiếu úy Hải, một tay nổi tiếng thiện xạ tiến
sang, đứng đối diện với Hải Súng của băng Cathay, hất hàm:
- Vui vẻ quá, hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên này ngồi không,
coi sao đặng?
Vẫn không buông vai cô “đào nhí”, Hải Súng hất mặt:
Viên thiếu úy gườm gườm, đưa tay vào bụng đặt lên báng súng:
- Đừng chơi quê tụi này chớ!
- Thì đã sao? - Hải Súng hếch mặt lên. Lúc này băng Cathay và
đám cave cũng đã ngưng đùa giỡn, ngẩng lên thủ thế. Được khích lệ, Hải Súng tiếp:
- Thịt người tanh không ăn được, đừng dọa nhau, tụi này không thích!
Bị khiêu khích, mắt thiếu úy Hải vằn lên. Hắn xấn xổ chụp lấy
tay cô đào nhí kéo về phía mình, tuyên bố:
- Không thích cũng bắt!
Sợ hãi, cô cave thét lên. Không nói không rằng, Hải Súng vớ
ngay chai Black and White trên bàn giáng thẳng xuống đầu đối thủ. Phản xạ
nhanh, thiếu úy Hải vội buông cô cave nhảy vọt sang một bên và móc súng. Hai
băng xông vào nhau. Bàn ghế ly tách bay tứ tán. Đột nhiên, Đại Cathay hét lên:
- Tụi nó chơi súng, rút, tụi bay.
Pằng! Pằng! Pằng! ầm!
Đại chưa dứt câu, dàn đèn pha lê đã rơi ụp xuống sàn, vỡ tung
tóe, đồng thời một viên đạn cũng nhằm đầu gối Đại găm tới, xô y gục xuống. Hải
Súng vội xô tới xốc Đại lên bỏ chạy. Trong băng chỉ có Hải và Lâm Chín ngón giắt
súng theo. Cả hai cũng vội móc ra bắn loạn xạ. Lâm Chín ngón gào lên:
- Anh em rút đi, để tôi lo!
Lúc này, đám cave, bồi bàn đã hoảng hồn bỏ chạy hết. Thủy Tàu
khá nhanh trí, vội chạy bổ vào trong sập cầu dao điện. Bóng tối chụp lấy vũ trường
đã hỗ trợ cho băng Cathay bỏ chạy. Bị thương, Đại Cathay khó khăn lắm mới được
Hải Súng và Ngân Pôcôn dìu được xuống lầu và kéo thẳng ra đường. Lúc này, Lành
Cầu Muối cũng vừa vặn trờ chiếc Mustang tới, hốt cả bọn lên xe chạy thẳng. Lâm
Chín ngón chạy sau cùng. Sau khi nhả hết đạn, y cũng vội đu cửa sổ phóng xuống
đường Tạ Thu Thâu cắm đầu chạy luôn một mạch. Sau lưng, đám vệ sĩ Sáu Lèo vẫn
nã đạn theo chíu chíu.
Không thu phục được Đại Cathay, tướng Sáu Lèo đã ra lệnh cho
“Biệt đội hình cảnh” bắt, bỏ tù hàng loạt đàn em nhằm cô lập hắn. Núng thế, Đại
Cathay đành tìm cách hoãn binh. Một buổi tối, hắn mua nguyên nhà hàng Paramouth
mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc. Khi rượu đã chếnh choáng, Đại Cathay mới
ngỏ ý:
- Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị bắt, chúng
tôi sẽ không quên ơn anh...
Viên đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng thuộc loại ngang
tàng không kém gì Đại Cathay, từ chối thẳng thừng:
- Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến đây là
để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu.
Nếu là trước đó mười hôm, máu côn đồ của Đại
Cathay sẽ nổi lên ngay. Nhưng đang yếu thế nên Đại vẫn nhũn nhặn:
- Ồ, không, không! Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi, còn
hôm nay mời đại úy đến là để anh em vui vẻ. Mời đại úy cứ tự nhiên, đêm nay
toàn bộ nhà hàng này là chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận tâm làm gì.
Viên đại úy không vui vẻ được lâu, cũng chẳng còn thời gian để
bận tâm lâu hơn nơi cõi thế. Sau buổi tiệc chỉ nửa tháng, một chiếc xe “be” chở
gỗ không rõ xuất xứ đã “bò” ngang qua chiếc xe hơi CV2 của Trần Kim Chi khi
viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ. Đại úy Chi và viên lái xe chết tại
chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất tăm, “không nhận dạng được biển số”. Giới
giang hồ đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát hại Trần Kim Chi để trả đũa.
6. Trại “Cửu Sừng” và vụ mất tích bí ẩn
Cái chết của đại úy Trần Kim Chi đã đánh dấu chấm than cuối
cùng cho cuộc đời du đãng của Đại Cathay. Tháng 8.1966, với tội danh “Du đãng đặc
biệt”, Đại Cathay lại bị tóm cổ. Cùng với một loạt du đãng khác, ngày
28.11.1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ tại đảo
Phú Quốc.
Gọi là “Trung tâm hướng nghiệp” nhưng chính xác, đây là nơi
lưu đày những tên lưu manh ngoại hạng dày thành tích bất hảo nhưng không có chứng
cớ để bắt quả tang, do chính Nguyễn Ngọc Loan đề nghị thành lập nhằm “bài trừ
du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp”. Nó chính là một dấu ấn chứng
tỏ sự bất lực của luật pháp ngụy quyền.
Trại là những dãy nhà dã chiến thấp lè tè nằm trong vòng rào
kẽm gai bịt bùng đặt cạnh sân bay Phú Quốc ngay tại thị trấn Dương Đông. Gọi
“hướng nghiệp” cho oai, kỳ thực đám tù suốt ngày chỉ ngồi ngáp vặt, đánh mạt
chược mà không hẹn ngày về chứ chẳng có việc gì để làm. Một hôm, đang đánh mạt
chược, Đại Cathay bảo:
- Gọi “hướng nghiệp” nghe chán thấy mẹ, tụi mình đặt lại tên
cho nó đi.
Cả bọn đồng ý. Bác sĩ Nghiệp, một tên du đãng có học đề xuất:
- Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt tên đó.
Đại Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là “Trung tâm hướng
nghiệp Phú Quốc” nghiễm nhiên trở thành “Trại Cửu Sừng”.
Không giống như dự định của tướng Sáu Lèo và cảnh sát ngụy,
Trại “Cửu Sừng” chẳng những không “hướng” được chút “nghiệp” nào cho đám đầu
trâu mặt ngựa mà ngược lại hoàn toàn. Toàn bộ đám du đãng bị bắt vào đây như Đại
Cathay, Hải Súng, Hòa áo thun, Lâm Chín ngón, Bảy Si, Hỏi Phoòng
Kin, Thanh tưa, Quẩy Thầu Hao... sau này đều là những tên giang hồ cộm cán nhất
của Sài Gòn - Chợ Lớn, càng ngày càng hung hãn hơn. “Trại Cửu Sừng” như một con
dấu chất lượng để đánh giá giang hồ. Tên nào từng ngồi ở “Trại Cửu Sừng” sau
này đều trở thành đàn anh, được quyền ăn trên ngồi trốc trên chốn giang hồ.
Ngoài những huyền thoại về nghề đâm chém, Đại Cathay còn nổi
tiếng nhờ khoản bồ bịch. Khi mới nổi danh, Đại cưới một cave nổi tiếng của vũ
trường La Sarel tên là Thúy, được một đứa con gái. Sau Thúy, Đại lấy Hằng,
cashier (thu ngân) của một vũ trường nổi tiếng khác ở Đà Lạt. Được ít lâu, Đại
Cathay lại cặp kè với Lệ Hải, một nữ quái kiệt trong giới giang hồ.
Đám dân chơi có thời đồn ầm ĩ lên rằng, Lệ Hải si mê Đại
Cathay đến nỗi một ngày chi cho “ông anh” hàng chục lượng vàng để ăn chơi đập
phá, nhằm độc chiếm trái tim của tên du đãng ngoại hạng. Thực tế không phải như
vậy. Lệ Hải là một cô gái khá ngổ ngáo, một đàn em của Đại Cathay trong nghề bảo
kê đâm chém. Quan hệ của Đại Cathay với Lệ Hải chỉ là đàn anh, đàn em, hoàn
toàn không có chuyện bồ bịch. Chuyện Lệ Hải chi cho Đại một ngày hàng chục lượng
vàng lại càng không có nốt! Nguyên nhân của lời đồn chỉ là do một lần, đang nằm
ở tiệm hút Đông Kinh, Đại Cathay ngẫu hứng muốn khoản đãi đám dân chơi một chuyến
du hí Đà Lạt. Không mang tiền theo, Đại sai đàn em chạy đi kiếm Lệ Hải, nhà ở gần
đó để mượn đỡ. Lệ Hải có mặt ngay tức khắc và đưa cho Đại Cathay mấy chục lượng
vàng như yêu cầu. Tất nhiên, được phục vụ đàn anh với Lệ Hải đã là điều diễm
phúc, cho nên công đoạn làm giấy ghi nợ hoàn toàn không xảy ra. Vậy là thành lời
đồn đại.
Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của Đại
Cathay là cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng
Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), đối diện với vũ trường Olympic. Tân, anh
trai cô Nhân là một bạn bàn đèn với Đại Cathay ở tiệm hút Đông Kinh. Sau nhiều
lần cùng “nằm bẹp” tâm sự, Tân mời Đại Cathay về nhà chơi. Thấy Đại Cathay khen
em gái mình đẹp, tỏ ra khá “mết”, Tân tuyên bố sẵn sàng gả em gái cho bạn. Cô
Nhân thuộc loại tiểu thư con nhà giàu, cũng tỏ ra khoái phong cách giang hồ ngổ
ngáo của Đại Cathay nên gật đầu. Vậy là nên vợ thành chồng. Đại và Nhân có với
nhau một đứa con gái, nhưng rất ít khi Đại sống với vợ con. Lấy câu “bốn bể là
nhà”, Đại Cathay suốt ngày lăn lộn ở các vũ trường, tiệm hút và mải mê đâm chém
nhau ngoài đường, chẳng mấy đoái hoài tới vợ con. Là một dân chơi thứ thiệt,
Nhân cũng mặc kệ, chẳng hề lấy thế làm buồn.
Đại và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân ở lại Sài
Gòn, biết chắc rằng loại tù không án như chồng mình e khó có ngày về. Cô cùng
anh trai vung tiền ra tìm cách cứu Đại Cathay.
Đầu tháng 1.1967, Nhân có mặt trong đoàn thân nhân ra thăm
nuôi đám du đãng bị nhốt ở Trại “Cửu Sừng”. Gặp Đại Cathay cô báo
cho chồng biết, đã lo cho xong việc tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Đám lính
gác sẽ làm ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy
chờ sẵn sẽ đưa đám tù ra khơi, có tàu hải quân do Nhân bố trí sẵn rước về đất
liền. Để mua chuộc đám lính gác, Nhân đưa cho Đại Cathay một chiếc áo bluson và
dặn dò kỹ lưỡng. Nhìn bề ngoài, nó chỉ là một chiếc áo lạnh rẻ tiền, sau lưng
có một con rồng ấp quanh bản đồ Việt Nam thêu hai màu, nửa miền Bắc màu đỏ, nửa
miền Nam màu vàng. Loại áo này bán nhan nhản dọc các tiệm đường Lê Thánh Tôn,
trong chợ Dân Sinh... chủ yếu để đám lính Mỹ sắp hồi hương mua về làm kỷ niệm.
Khi chuyển áo cho Đại Cathay, tên lính canh của trại hướng
nghiệp Phú Quốc thấy nó nặng hàng ký nên đâm nghi ngờ. Lần theo lưng áo hắn sờ
thấy giữa hai lần vải có hàng chục miếng kim loại mỏng được khâu đầy trong đó.
Đoán là vàng, tên lính canh định lôi ra khám xét. Lập tức cái liếc xéo của tên
sĩ quan đứng cạnh đã ngăn hắn lại. Tên lính đành trả lại áo cho Đại Cathay mang
về phòng.
Theo lời đồn đại của giới giang hồ thì khi về phòng, Đại
Cathay đã xé chiếc áo lấy ra đúng 62 lá vàng loại 1 lượng khâu trong đó. Với số
vàng này, Đại đã mua chuộc đám cai ngục để chúng bố trí cho lính gác làm ngơ
khi Đại bỏ trốn.
Đi theo Đại Cathay có khoảng một chục đàn em trong đó có Xì
kíp, Lắm Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hải Súng và Lâm Chín ngón... Đến phút
cuối, Đại Cathay nghe theo lời Hải Súng tham mưu, quyết định để Lâm Chín ngón -
gã đệ tử thân nhất - ở lại. Đại nói với cả đám:
- Thằng Lâm lóc chóc, dễ làm bể chuyện lắm. Vả lại, chuyến đi
này lành ít dữ nhiều, nó còn trẻ, tội lắm. Chi bằng để nó lại, mình thoát rồi
lo cho nó về sau an toàn hơn.
Trước giờ khởi sự, Đại Cathay gọi Lâm Chín ngón đến và bảo:
- Mày phải bỏ xì ke đi, hại lắm. Tao chích cho mày một lần cuối
cùng, sau đó là phải chừa hẳn, nếu không đừng trách.
Đại đã tự tay chích cho Lâm một mũi gấp đôi đô bình thường do
chính tay Hải Súng pha chế, có độn thêm một ít tân dược để tăng nồng độ. Phê
thuốc, Lâm Chín ngón quay ra ngủ say như chết. 12 giờ đêm ngày 7.1.1967, Đại
Cathay dẫn đàn em đào thoát ra ngoài.
Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia làm
hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh. Tốp thứ hai, có Đại
Cathay và Hải Súng chạy theo hướng bờ biển. Bất ngờ, khi cả hai tốp vừa vọt ra
khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Đạn vãi như mưa, hỏa châu bắn sáng
trời. Tốp thứ nhất, gồm Xì kíp, Hùng Mỏ chuột... bị tóm cổ lại ngay. Đại Cathay
và Hải Súng (tức Võ Văn Hải) vội đổi kế hoạch, chạy lên phía Bắc đảo, lần vào
khu núi Tượng, nơi có Quân giải phóng hoạt động. Đến đây, không ai còn tận mắt
gặp lại Đại Cathay và Hải Súng. Và hàng loạt giai thoại giải thích sự mất tích
của hai tên du đãng đầu sỏ bắt đầu xuất hiện.
Giai thoại thứ nhất kể rằng: Đại Cathay đã trốn thoát khỏi đảo,
cùng Hải Súng bơi ra tàu Hải quân chờ sẵn. Tàu về đến Cà Mau, bị Quân giải
phóng tấn công khi đang tấp vào bãi bí mật. Sau trận đụng độ, Đại Cathay bị
Cách mạng bắt sống. Được cảm hóa, anh ta trở thành một Giải phóng quân. Tết Mậu
Thân năm 1968, Đại dẫn đầu một tiểu đội Quân giải phóng tấn công vào nội đô Sài
Gòn từ hướng Tây và bị bắn ngã trước trại lính dù Hoàng Hoa Thám, gần Ngã tư Bảy
Hiền. Một vài tờ báo chuyên săn tin giật gân ở Sài Gòn hồi đó còn chua thêm:
“Tìm thấy trong tử thi một hộp quẹt Zippo khắc tên Trần Đại (Đại chuyên dùng loại
quẹt Zippo trang bị cho lính Mỹ), một cuốn nhật ký mang tên Đại Cathay, trong
đó anh ta kể lại đầy đủ chi tiết về đời du đãng của mình và tự nhận mình là
nhân vật chính trong cuốn “Điệu ru nước mắt” của Duyên Anh từng nổi tiếng một
thời.”
Tuy nhiên, những chi tiết mà báo chí nêu trên không hề được bất
kỳ ai kể cả phía Cách mạng lẫn phía ngụy quân đứng ra xác nhận.
Giai thoại thứ hai nói rằng Đại Cathay đã trốn sang Thái Lan,
sống mai danh ẩn tích ở Băng Cốc, đoạn tuyệt hoàn toàn với quá khứ.
Giai thoại thứ ba do Hòa áo thun - cùng ngồi Trại “Cửu Sừng”
với Đại Cathay kể lại, có vẻ hợp lý hơn cả. Sau chuyến vượt trại của Đại Cathay
ít lâu, Hòa áo thun cũng tìm cách trốn trại khi được ra ngoài lao động. Trong
thời gian lẩn trốn ở núi Tượng, Hòa áo thun đã bắt gặp hai ngôi mộ còn khá mới
có bia mộ đẽo bằng gỗ mang tên Lê Văn Đại và Võ Văn Hải. Theo lời Hòa, hắn đã hỏi
và được một số người ở núi Tượng cho biết: Đại Cathay và Hải Súng vì đói đã
xông vào cướp bóc một số nhà xung quanh núi. Vì vậy, chúng bị du kích đang hoạt
động ở đây bắn chết.
Chi tiết này được đại đa số giang hồ đã rửa tay gác kiếm xác
nhận. Một số còn khẳng định rằng hai ngôi mộ mang tên Đại và Hải là có thật, họ
đã từng đến thăm khi có dịp ghé ra Phú Quốc sau ngày giải phóng. Tuy nhiên, hồ
sơ về cái chết của hai tên du đãng mà chúng tôi có được lại mang một nguyên
nhân khác hẳn.
Biết không trị nổi Đại Cathay, lại nhiều lần bị tên du đãng
làm bẽ mặt, chuẩn tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan rất hận, tìm cách loại trừ
vĩnh viễn Đại Cathay. Khi biết cô Nhân - vợ Đại - đang tìm cách lo lót tổ chức
cho Đại Cathay vượt ngục... Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực
hiện kế hoạch. Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng
nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám tép riu, còn Đại
và Hải, chúng cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng. Sau đó, Loan cho một tiểu đội
biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra
truy kích Đại và Hải, bắn hạ chúng. Khi đi, toán biệt kích dù phải thay quần áo
bà ba, đội mũ tai bèo, mang dép râu và sử dụng súng AK.47, giả trang làm Quân
giải phóng để đổ vấy cho việc giết Đại Cathay và Hải Súng cho phía Cách mạng.
Diệt xong, toán biệt kích dù phải đắp mộ, đề bia tử tế để dễ bề nhận diện và
gây dư luận. Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng huênh hoang khoe với
nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay y đã nổ
súng hạ gục Đại Cathay. Khá nhiều người cũng biết rõ ngọn nguồn vụ việc, song
trước khi ngụy quyền sụp đổ, không một tờ báo nào dám viết về âm mưu hại địch
thủ của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vì vậy, lời đồn đại, đoán non đoán già vẫn cứ
loang ra mãi, đắp thêm chất huyền thoại vào cuộc đời và cái chết của Đại Cathay
- tên du đãng ngoại hạng.
Tháng 8.1998
5- LÂM CHÍN NGÓN
Thời gian gần đây, báo chí đã không ít lần cảnh báo về cơn sốt
tệ nạn vũ trường, ma túy, đặc biệt là thuốc lắc... Tự gắn cho mình cái “mác”
“dân chơi sành điệu”, một bộ phận thanh thiếu niên đang hằng đêm ngụp lặn trong
những cơn say bất tận của rượu, gái và ma túy, hoàn toàn không đếm xỉa đến một
nguy cơ, rằng họ đang bước những bước đầu tiên trên con đường dẫn đến tội lỗi
và sự tự hủy hoại bản thân. Trước sự lo lắng của dư luận, công luận và toàn xã
hội, nhiều con “thiêu thân” đã nhún vai bất cần:
- Dân chơi mà! Đã bước chân vào giang hồ là chấp nhận hết,
ngày mai ra sao rồi hẵng hay!
Đáng thương cho những cái đầu sa đọa, con đường của các “dân
chơi” làm gì còn dài đến “ngày mai”, cũng làm gì có cái được gọi một cách mỹ miều
là “giới giang hồ”. Khi ma túy tràn lan và luật pháp tỏ ra bất lực thì quyền lực
chỉ đồng nghĩa với bạo lực và tội ác. Thực chất bức tranh “dân chơi” ngày nay
chỉ là phiên bản của bức tranh Sài Gòn giai đoạn 1968-1975, giai đoạn lắm “dân chơi”,
nhiều “giang hồ” nhất, ma túy dễ mua và tội ác dễ gặp nhất. Có khác chăng thì
đó chỉ là một sự thay đổi nhỏ trong âm nhạc. Ngày nay, dưới ánh đèn màu của các
bar rượu, sàn nhảy - đã trở nên loạn sắc và chói gắt hơn - điệu Pasodobles cuồng
nhiệt đã được thay thế bằng những Hard Rock, Metal Rock chói lỏi, giậm giật hoặc
những Rap điên khùng, rất nghèo chất nhạc nhưng kích động hơn bội phần.
Không tham vọng trình bày hết, bài viết này chỉ dừng lại ở một
vài khuôn mặt “cộm cán” nhất trong làng “dân chơi” thời kỳ đó. Không nhằm mục
đích mô tả tội ác, người viết chỉ mong vẽ lại một “ngày mai” đầy đen tối và tất
yếu - đoạn cuối con đường của các “dân chơi”. Câu chuyện bắt đầu từ một dân
chơi có số của giới giang hồ Sài Gòn trước 1975 còn may mắn sống sót đến hôm
nay trong cảnh thân tàn ma dại sau hơn 20 năm trả giá trong tù tội. Anh ta tên
là Lê Ngọc Lâm, nổi tiếng trên giang hồ với biệt danh Lâm Chín ngón.
1. Mọi con đường đều dẫn đến... nhà tù
Lê Ngọc Lâm sinh năm 1945, tại Hà Tây, trong một gia đình
Thiên Chúa giáo rất ngoan đạo. Năm 1954, dòng thác di cư đã cuốn gia đình Lâm
vào Sài Gòn. Ba năm sau, những biến cố thời cuộc đã khiến gia đình tan nát, rứt
cậu học trò 12 tuổi Lê Ngọc Lâm ra khỏi vòng tay chăm sóc của người thân, ném cậu
vào làng cô nhi Thủ Đức. Những đứa trẻ ở làng cô nhi được nuôi ăn học khá chu
đáo nhưng không được cho tiền tiêu vặt. Để “kiếm thêm”, Lâm và những đứa trẻ hiếu
động khác đã nhào ra lề phố nhập vào đám quân bụi đời, bán báo... Làng cô nhi dạy
cho Lâm biết chữ - gã đã hoàn tất chương trình tú tài - và lề phố dạy cho Lâm
biết... đập lộn để giành mối, để cạnh tranh. Những trận đụng độ xảy ra như cơm
bữa đã biến Lâm từ một cậu bé sùng đạo, hiền lành thành một kẻ ngang tàng, bất
chấp và rất lì đòn.
Năm 1963, Lâm thi hỏng tú tài I và bị bắt quân dịch. Không chịu
nổi cuộc sống quân trường khắc nghiệt, buồn tẻ và vô vọng, gã trốn về Sài Gòn sống
lang thang, sau đó nhập vào đám tiểu yêu mới ngoi lên ở khu Da Heo đường Nguyễn
Công Trứ, quận 1, do Đại Cathay cầm đầu. Vốn liều lĩnh và to khỏe, Lâm Chín
ngón nhanh chóng trở thành một trợ thủ đắc lực của Đại Cathay trong các trận
thư hùng nhằm tranh giành lãnh địa.
Đầu năm 1964, Đại Cathay liều lĩnh kéo quân tập kích vào khu
vực rạp Hào Huê, quận 5 - “giang sơn” của giới Hắc Đạo người Hoa do Tín Mã Nàm
làm thủ lĩnh. Không may cho băng Cathay, quá say máu nên bị giới Hắc Đạo dụ chạy
sâu vào trong các con hẻm, sau đó hạ cửa sắt bít đường rút đầu các hẻm lại và
túa ra phản công. Phe Đại Cathay chỉ có 10 người, không chống nổi hàng chục tên
Hắc Đạo với dao búa hung hãn nên tên nào cũng thương tích đầy mình. Trong lúc
nguy cấp, Lâm Chín ngón đã liều chết xông ra chém đứt dây xích cột cửa, mở đường
máu cho Đại Cathay và cả bọn chạy tháo thân. Trong lúc tả xung hữu đột, ngón
cái tay phải của Lâm đã bị đối phương chém đứt lìa. Biệt danh Lâm Chín ngón bắt
đầu từ đó, do chính Đại Cathay đặt.
Sau trận này, Lâm Chín ngón còn cứu Đại Cathay thoát chết một
lần nữa. Khoảng giữa năm 1966, vì tranh giành gái tại nhà hàng Olympic, băng
Cathay đã bị đám vệ sĩ của tướng cảnh sát Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan dùng súng “dạy
cho biết thế nào là lễ độ”. Khi Đại Cathay ăn đạn vỡ đầu gối, Lâm Chín ngón đã
một mình một súng bắn chận hậu cho Ngân Pôcôn và Lành Cầu Muối dìu Đại Cathay
ra khỏi vùng tử địa. Hết đạn, Lâm vứt súng, đu cửa sổ phóng xuống đường Tạ Thu
Thâu chạy trối chết. May cho Lâm, khi trận đọ súng nổ ra, tài pán của vũ trường
là Thủy Tàu đã nhanh trí cắt cầu dao điện. Bóng tối ụp xuống đã giúp Lâm Chín
ngón thoát thân an toàn.
Cuối năm đó, Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc Nha Cảnh
sát Đô thành mở chiến dịch bài trừ du đãng. Cùng với Đại Cathay và nhiều tên
khác trong băng, Lâm Chín ngón bị bắt. Ngày 28.11.1966, cả bọn bị lùa lên máy
bay C47 đày ra Trung tâm cải huấn tại thị trấn Dương Đông thuộc đảo Phú Quốc,
nơi được giới tội phạm gọi bằng cái tên nôm na là Trại Cửu Sừng (một quân trong
bộ bài mạt chược). Chỉ hơn hai tháng, Đại tổ chức vượt ngục. Không muốn cho Lâm
theo, Đại Cathay đã gọi Lâm Chín ngón tới, bắt gã thề bỏ ma túy, đồng thời tự
tay chích cho Lâm Chín ngón “một lần cuối cùng”. Đã có chủ ý trước nên Đại
Cathay đã chích cho đàn em một liều gấp đôi đô bình thường khiến Lâm say ngủ
như chết và bị bỏ lại trại. Trong thâm tâm, Đại Cathay thừa biết chuyến vượt ngục
lành ít dữ nhiều, Lâm Chín ngón lại đã hai lần cứu y thoát chết nên Đại cảm
kích không muốn cho Lâm mạo hiểm. Mặt khác, Đại có ý phòng xa, y biết Lâm là
tên du đãng có học nên muốn mở ngõ cho đàn em một con đường sống để còn có cơ hội
trở lại tiếp quản “giang sơn” của mình ở Sài Gòn. Dự đoán của Đại Cathay khá
chính xác. Sau chuyến vượt thoát, Đại Cathay và gần một chục tên đàn em đã bị
Nguyễn Ngọc Loan gửi lính ra đảo truy đuổi và hạ sát. Còn Lâm Chín ngón, thuộc
loại “tù không án”, chỉ phải ngồi tù thêm nửa năm, sau đó được thả về đất liền.
Đại Cathay đã mất tích, băng nhóm cũng không còn, Lâm Chín
ngón không đủ sức xưng hùng, xưng bá để thu thuế, lấy xâu như trước nữa. Để có
tiền tiếp tục ăn chơi trác táng, Lâm chuyển sang nghề “ăn bay” (cướp bằng xe
máy) và nhanh chóng trở thành một “quái bay” lì lợm thượng thừa. Sử dụng xe
Honda 67 - loại xe tốt nhất thời bấy giờ - Lâm Chín ngón đã gây ra hàng chục vụ
cướp của những người vừa lĩnh tiền từ ngân hàng ra. Đi đêm lắm có ngày gặp ma,
trong một vụ “ăn bay” cuối năm 1970, Lâm đã bị cảnh sát ngụy bắt tại trận và bị
tống vào trại giam Chí Hòa. Tại đó, Lâm đã được “hội ngộ” với hầu hết những
“tay chơi cộm cán” nhất của Sài Gòn trong đó có Cương Võ sĩ (em ruột trùm bạch
phiến Sơn Đảo), Chương khùng, Đức Không quân, Tuấn đả, Y Càlết v.v...
Vào thời gian đó, bộ máy cảnh sát, nhà tù của chế độ Việt Nam
Cộng hòa gần như bó tay trước nạn lộng hành của đám lưu manh du đãng hung hãn
được hỗ trợ bởi ma túy bán đầy rẫy và rẻ như bèo. Vì thế, khối bêtông hình bát
giác của trại giam Chí Hòa chỉ là nỗi ám ảnh ghê rợn đối với những tên lưu manh
hạng “tép riu” và tứ cố vô thân, không băng không nhóm. Còn với Lâm Chín ngón
và những tên tội phạm sừng sỏ, cảnh sống trong tù và ngoài đời hầu như chẳng
khác gì nhau, ngoài chuyện bước chân bị giới hạn trong mấy vòng tường trại. Cửa
sắt hành lang các dãy nhà giam không bao giờ khóa, chúng tha hồ đi lại khắp nơi
trong trại, tha hồ sục vào các buồng giam để “thăm hỏi”, bài bạc và đập lộn với
nhau tranh giành ngôi vị. Giám thị, cai tù biết cũng làm ngơ. ở ngoài, đàn em,
băng đảng của đám du đãng còn đầy rẫy. Chúng sẽ không ngần ngại bắt cóc con
cái, ném lựu đạn vào nhà họ để trả thù, nếu trong tù, đám đàn anh bị đối xử nặng
tay. Mặc khác, làm ngơ cho bọn tội phạm còn là cách để các “nhân viên công lực
quốc gia” kiếm thêm tí chút. Tuy là nhà tù nhưng trong trại Chí Hòa gần như
không thiếu thứ gì. Muốn ăn ngon, những tên tù hình sự cứ việc xin phép “đàn
anh” ra căngtin ở cạnh hồ nước là có tất, miễn là có tiền. Muốn chơi ngông, nhiều
tên còn đặt tiền trước cho “nhà hàng”, hôm sau những sơn hào hải vị như yến
xào, hải sâm, vi cá, bào ngư... sẽ được đưa vào tận nhà tù phục vụ, bảo đảm vẫn
còn nóng sốt.
Trong sân trại Chí Hòa có một chiếc xe tải hư bỏ trống được
đám tù che chắn lại biến nó thành nơi “hành lạc” có đủ nệm trải drap, quạt máy
và có đàn em canh gác. Chỉ việc giúi vào tay cai tù một xấp tiền là họ sẽ quay
mặt đi, sau đó điện thoại cho các “động” quen, tối thứ bảy, chủ nhật hằng tuần
sẽ có vài ba cô gái má phấn môi son được điều vào trại, “phục kích” sẵn trong
chiếc xe tải chờ tiếp các “đàn anh” rửng mỡ.
Để “kiếm thêm” bù vào số lương công chức còm cõi, đám cai tù
- vừa hèn nhát vừa tham lam - đã tiếp tay cho đám tù hình sự trong mọi hình thức.
Thậm chí, chúng còn bán cả cái gọi là “giấy đi phép”. Một ngày phải trả 120.000
đồng, cả ngày lẫn đêm 240.000 đồng. Chỉ có những tên tù thuộc hàng “đại ca” mới
được quyền “đi phép”. Sau khi nộp đủ tiền, chúng sẽ được xe jeep của cai tù chở
ra ngoài, đến địa chỉ chúng yêu cầu và thả xuống. Hết giờ, chiếc xe jeep ấy sẽ
quay lại chỗ cũ đón “đàn anh” vừa hết phép quay lại nhà tù. Có tên đã từng liên
lạc trước với đàn em bên ngoài, để chúng chuẩn bị xe cộ, sau đó mua một giấy
phép 12 tiếng, lọt ra ngoài, tiến hành một vụ “ăn bay” trót lọt xong lại vào tù
nằm “dưỡng sức” và hưởng “chiến lợi phẩm”. Bên ngoài, cảnh sát có tài thánh
cũng không hề nghĩ đến chuyện thủ phạm của vụ cướp lại là một tên lưu manh đang
nằm khểnh trong tù. Tất nhiên, sau những chuyến “ăn hàng” ngoạn mục ấy, đám
“anh chị” chẳng bao giờ quên dúi thêm cho các “bác” cai tù ăn rơ năm chục, một
trăm ngàn, gọi là tiền “mua nước hoa cho bà xã”. Món lợi quá lớn, càng về cuối
giai đoạn năm 1972, những vụ “bán giấy phép” càng diễn ra dày đặc. Mãi đến lúc
Biệt đội hình cảnh ngụy bắn hạ được một vài tên tù “đi phép” ngay trên xa lộ Đại
Hàn khi chúng đang “ăn hàng” PX (hàng quân tiếp vụ do Mỹ viện trợ), chuyện “bán
giấy phép” mới bị đổ bể và chấm dứt.
Tuy nhiên, việc mua “giấy phép” để đi cướp chỉ là chuyện cho
vui nhằm đỡ ngứa nghề, còn kỳ thực nguồn lợi chính của các “đại ca” trong trại
“bát giác” lại là buôn ma túy. Vào lúc cao điểm, trại Chí Hòa có khoảng 2.000
tên tù hình sự thì cũng gần như có ngần ấy con nghiện. Hầu như tên tù nào cũng
là một dân “ken” (nghiện côcain), dân “ke” (chích thuốc phiện nước) hoặc khoái
“ném lựu đạn” (nuốt thuốc phiện sống vo viên). Vì vậy bán thuốc phiện, ma túy
trong tù đem lại cho các “ông trùm” một nguồn lợi cực lớn, có khi lên đến bốn
năm trăm ngàn đồng một ngày (khoảng 20-25 lượng vàng). Nguồn lợi quá khổng lồ
khiến chúng không ngần ngại vây bè kết cánh để hùng cứ quyền bán ma túy ở các
buồng giam và tranh giành lãnh địa hoặc hạ bệ nhau, nhằm ngoi lên làm “ông
trùm” để độc quyền thu lợi. Do đó, chiến tranh trong tù vẫn nổ ra thường xuyên.
Bản chất tội ác của cái danh xưng mỹ miều “giới giang hồ” được thể hiện ngay
trong phương châm xử thế, được những tên tội phạm chích máu ngón tay viết lên
cánh cửa, bức tường của các buồng giam: “Nhân đạo là tự sát, gian ác mới huy
hoàng”. Tuy hành lang các dãy buồng giam luôn mở toang hoác nhưng những tên “âm
binh mất ma”, “tép riu” ở dãy AB đố bao giờ dám bén mảng xuống dãy BC nằm kế
bên, bọn ở dãy DE cũng đừng bao giờ mò xuống khu FG mà mang họa. Là “đàn anh”,
như Lâm Chín ngón ở dãy FG chẳng hạn, có thể tha hồ đi lại giữa các dãy, nhưng
mỗi lần di chuyển gã và các tên đàn anh khác đều phải có vài ba “vệ sĩ” tháp
tùng, nếu không ăn dao là cái chắc. Mỗi khi lâm trận, những tên du đãng có số
này đều hai tay nắm chắc hai con dao. Con thứ ba giắt ngang bụng, phòng khi dao
trên tay bị đánh rơi hay bị đối phương tước mất. Hỗn danh “thời hai tay ba đao”
bắt nguồn từ đó - để chỉ giai đoạn 1970-1974 trong trại Chí Hòa.
Là cánh tay phải của Đại Cathay, lại từng ngồi trại Cửu Sừng ở
Phú Quốc, khi bị chuyển sang quân lao Gia Định y lại dám đâm trầy mặt và hạ bệ
“tướng cướp cô đơn” Điền Khắc Kim để giành địa vị ông trùm, sau đó lại cầm đầu
đám tù phạm ở đây vượt ngục, Lâm Chín ngón trở thành một “cao thủ”, được độc
quyền bán thuốc phiện ở khu FG, đồng thời trở thành “đại lý” cung cấp “hàng
đen” (thuốc phiện) cho toàn trại Chí Hòa. Quyền khai thác “hàng trắng” trong
dãy này thuộc về Chương khùng, một tên giang hồ có số khác, kẻ đã từng dẫn đầu
hàng chục tội phạm người Việt xông vào khu AB cướp thùng đựng tiền của đám tù
nhân người Hoa gốc Hồng Công, Ma Cao, Singapore, Đài Loan... và bị chém trọng
thương. Đúng định kỳ, “hàng đen” từ bên ngoài được đàn em đóng thành bánh dẹp,
chất vào trong thùng gỗ hai đáy đựng đồ thăm nuôi gửi cho Lâm. Cai tù biết
nhưng làm ngơ để được chia phần (30% lợi nhuận). Vào tù, Lâm bửa ngăn đáy ra, lấy
thuốc phiện cắt thành miếng nhỏ phân phối cho các buồng giam thu lãi.
Là một ông trùm kiêm đại lý độc quyền thuốc phiện, tiền lãi
mà Lâm thu được hàng ngày rất khổng lồ. Do vậy, y trở thành con mồi “bự” khiến
hàng chục “đại ca” khác dòm ngó thèm thuồng và rắp ranh hạ bệ, dù ngoài mặt vẫn
thơn thớt nói cười chuyện “tình nghĩa giang hồ”.
Tai họa đến với Lâm bắt đầu từ một ông trùm cùng ngành nhưng
khác món chung dãy FG. Đó là Chương khùng - kẻ được phân độc quyền “hàng trắng”.
Không thể chịu đựng nổi nạn lộng hành của đám giang hồ, cuối
năm 1972, ngụy quyền Sài Gòn đã gom hết tất cả những tên đầu sỏ đang tác oai
tác quái trên khắp các nhà tù miền Nam, từ Quân lao Nha Trang, Trại giam Qui
Nhơn, quân lao Gia Định... về trại Chí Hòa để thanh lọc. Sau đợt này, những tên
thường phạm đã thành án từ 5 năm đến chung thân, nếu không dính líu đến một vụ
án, một tội danh nào khác sẽ được lùa xuống Tân Cảng, từ đó sẽ được tàu Hải
Quân chở ra Côn Đảo để đi đày. Bọn giang hồ tìm đủ mọi cách để tránh đi đày. Thậm
chí như ở Quân lao Nha Trang, tên tướng cướp Năm Vĩnh - kẻ được mệnh danh là
“hùm xám miền Trung” đã không ngần ngại tra tấn một bạn tù cho đến chết để được
ở lại đất liền chờ ra tòa với tội danh mới là cố sát, tránh bị đưa ra đảo. Tại trại
Chí Hòa, đám tù phạm - con nghiện càng ngày càng trở nên hung hãn hơn. Nhiều
tên tép riu cũng ngoi lên thách thức đàn anh nhằm tiếm quyền để có điều kiện sống
gấp và chết... khẩn cấp. Nhiều tên đàn anh bị đàn em lờn mặt đã không chịu nổi,
xuống đòn trừng trị rất nặng tay, khiến trại giam ngày càng trở nên hỗn loạn
hơn bao giờ hết.
Trong số những đàn anh đang mất dần thanh thế có Chương khùng
- trùm cocain của dãy FG. Sau hiệp định Paris (ký ngày 27.1.1973), lính Mỹ nối
đuôi nhau xếp hàng lên máy bay về nước hết. Theo chân các chú lính Hoa Kỳ, “hàng
trắng” (cocain, heroin) cũng vắng dần trên đất miền Nam. Hàng hiếm nên giá rất
đắt, dân chơi “hàng trắng” lục tục rủ nhau quay về với mặt hàng truyền thống là
thuốc phiện. Đám con nghiện ở dãy FG, nhà tù Chí Hòa cũng bị cuốn theo trào lưu
ở ngoài đời, đâm ra “khoái” thuốc phiện hơn thích ma túy, đâm đầu sang làm
khách hàng của Lâm Chín ngón hết, khiến thu nhập của Chương khùng tụt xuống thảm
hại. Đàn anh đã nghèo thì đàn em cũng không thèm ngó, quân tướng rụng dần đi.
Chương tức tối chửi bới om sòm, dọa “cho biết tay” những kẻ bỏ mình phò Lâm
Chín ngón. Nghe Chương khùng chửi bới, một tên ngang cơ khác là Năm Lương đổ
thêm dầu vô lửa:
- Mày chỉ giỏi võ mồm. Thừa biết thằng nào hạ bệ rồi, mày có
giỏi thử đụng đến nó coi?
Một tên khác khích thêm:
- Cũng là đàn anh mà thằng thì chiều nào cũng đếm bạc trăm gửi
nhà băng, thằng suốt ngày chỉ lo chửi bậy!
Bị kích, Chương khùng nổi cơn khùng. Hắn lấy bộ đồ võ vận vào
người rồi thả vô họng ba viên renoval để thêm dũng khí, hằm hằm tuyên bố:
- Tao sẽ tìm thằng Lâm Chín ngón nói chuyện phải quấy.
Đang chơi bóng chuyền ở sân trại, nghe đàn em cấp báo, Lâm
Chín ngón bỏ ngay để đợi. Gặp nhau, Lâm Chín ngón hỏi trước:
- Chương! Nghe nói mày đòi dẹp không cho tao bán thuốc trong
khu FG nữa, phải vậy không?
Chương khùng hùng hổ:
- Đúng, tao bảo dẹp. Mày bảnh thì chơi lại tao coi?
Đang uống nước, sẵn ly cầm trong tay, Lâm Chín ngón không nói
không rằng ném ngay cái ly uống dở vào mặt Chương khùng và nhào tới. Quá bất ngờ
vì không nghĩ đến chuyện Lâm phản ứng quá mạnh, lại thấy đàn em của Lâm kéo tới
khá đông, Chương khùng hoảng quá vội né người tránh bị ly nước đập vô mặt rồi...
bỏ chạy, mặt mũi hầm hầm.
Lúc này nhiều tên đàn anh trong đó có Cương Võ sĩ đang tụ tập
nhau trong dãy BC. Cương võ sĩ, tức Vũ Đình Cương vốn là một võ sĩ quyền Anh có
đẳng cấp, từng nhiều lần thượng đài khắp miền Trung, miền Nam và Campuchia, nếu
đấu tay đôi sòng phẳng, cỡ Lâm Chín ngón cũng hoàn toàn không phải là đối thủ.
Năm 1970, Cương bị bắt vì tội buôn ma túy. Là một “cao thủ”, lại là em ruột của
Sơn Đảo, tức Vũ Đình Khánh, trùm ma túy ở Sài Gòn thời bấy giờ nên uy thế của
Cương rất lớn được đám giang hồ phong làm “đại ca của các đại ca”, toàn quyền cắt
đặt, sai phái toàn bộ giang hồ trong trại Chí Hòa. Khi các băng nhóm trong trại
có xích mích, chỉ cần Cương đứng ra nói một lời là tất cả đều răm rắp tuân
theo, đố tên nào dám cãi. Tuy nhiên, Cương ít chường mặt, cho nên y mới được
gán cho biệt danh “Hiệp sĩ trong bóng tối”.
Thấy Chương khùng vừa chạy qua vừa khóc, Cương bèn ngăn lại hỏi
chuyện. Không lẽ lại thú nhận rằng mình không dám chơi tay đôi với Lâm Chín
ngón, Chương khùng bèn vừa khóc vừa “tố láo”:
- Thằng Lâm ỷ đông, nó kéo đàn em đến đòi xử tôi, cấm không
cho tôi bán ma túy nữa!
Nghe đến đó, máu yêng hùng nổi lên, Cương Võ sĩ chửi thề:
- Mẹ nó! ở đây tao là đàn anh hay thằng Lâm là đàn anh? Nó muốn
qua mặt tao xử anh em, để tao cho nó một bài học.
Nói rồi, Cương bèn dẫn một tốp nửa tá anh chị gồm Tuấn đả,
Năm Lương, Khương Đại, Lễ, Hải Méo... sang khu FG để “hỏi tội thằng Lâm”. Thấy
cả bọn kéo sang, một số “dân chơi” khác trong dãy lầu 3F bèn kéo ra cản lại,
khuyên Cương “bình tĩnh, chuyện đâu có đó”. Tỏ mặt đàn anh, Cương Võ sĩ gạt đám
lâu la qua một bên:
- Mấy em không hiểu chuyện, tránh sang một bên cho qua xử đàn
em.
Phần Lâm Chín ngón, dù đã đuổi được Chương khùng nhưng cơn giận
bừng bừng vẫn chưa tan. Lúc Lâm đang đấm thình thình vào tường buồng giam 3F4,
dọa “luộc thằng Chương” thì một tên đàn em chạy vào cấp báo:
- Anh Lâm cẩn thận. Anh Cương đang dẫn người qua tìm anh đó.
Vừa nói, tên này vừa dúi vào tay Lâm mấy con dao lá lúa, dặn:
- Anh cầm theo để phòng thân.
Lâm bảo:
- Một dao đủ rồi.
Và hắn lập tức chạy ra nghênh tiếp. Khi hai bên đã đứng đối
diện nhau, Cương Võ sĩ dừng lại, hỏi:
- Lâm! ở đây mày với tao ai là đàn anh(?).
Lâm chưa kịp trả lời đã bị Cương tung ngay một cú thôi sơn
vào mặt. Khá nhanh, Lâm né đầu tránh được. Cú đấm quá mạnh nhưng không trúng mục
tiêu khiến Cương Võ sĩ hụt đà chúi thấp đầu về phía trước. Trong giang hồ, bị một
cái tát xem như không còn ngoi đầu lên được, huống hồ ăn nguyên cú đấm. Máu bốc
lên, lợi dụng lúc Cương Võ sĩ mất đà, Lâm Chín ngón nắm ngay cổ áo địch thủ lật
lên và quơ tay ra sau lưng rút dao... Tất cả diễn ra quá nhanh nên không ai kịp
can. Cương chỉ kịp hự lên một tiếng rồi ôm ngực đổ vật ra sàn khi Lâm vừa buông
tay. Nghe ai đó kêu lên “Anh Lâm, đừng đâm nữa”, Lâm mới sực tỉnh, vội buông
dao đánh cạch xuống sàn. Nhát dao đâm trúng tim, Cương Võ sĩ chết ngay tại chỗ.
Lâm Chín ngón mặt tái mét, vội thanh minh trước khi bị dẫn đi:
- Tôi không cố ý, tại anh Cương... Thôi, anh em thắp cho ảnh
mấy nén nhang giùm tôi.
Rõ ràng Cương Võ sĩ không chết vì kém võ nghệ, cũng không chết
vì nhà tù. Y chết vì... sĩ diện hão muốn vỗ ngực xưng tên. Âu đó cũng là kết cục
bi thảm chung trên chốn giang hồ.
Giống như tên em ruột, Vũ Đình Khánh - tức Sơn Đảo cũng xuất
thân là một võ sĩ có hạng, thuộc võ đường Hổ Bạch An - Tân Bình. Hầu hết võ sư
và võ sinh của võ đường này đều xuất thân hoặc gia nhập lính dù - lực lượng con
cưng của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Nhà Sơn ở gần chợ Ông Tạ, chuyên làm giò
chả. Khi lớn lên, Sơn rủ rê và chỉ đạo những đứa em ruột là Cương Võ sĩ, Hoàng
bệu, Tiềm, bán ma túy, phất lên khá nhanh. Y bèn bỏ tiền ra bảo trợ cho lò võ Hổ
Bạch An, đồng thời xây dựng luôn một phòng tập cho đám chiến hữu ngay trong trại
lính dù Hoàng Hoa Thám. Cử chỉ hào phóng này đã được đám sĩ quan binh lính thuộc
binh chủng dù đáp lại bằng cách sẵn sàng hậu thuẫn cho Vũ Đình Khánh trong các
cuộc làm ăn trong bóng tối. Trong số những kẻ “đỡ lưng” cho Khánh có trung tá
Lê Quang Lương, trung tá Be (Ban 2 dù), thiếu tá Đường (Sư đoàn 3 dù), trung úy
Nguyên con đỡ đầu của tướng Cao Văn Viên... Được hậu thuẫn mạnh, chẳng bao lâu
Vũ Đình Khánh đã trở thành kẻ cung cấp ma túy cho một khu vực rộng lớn dọc hai
trục đường chính là Trương Minh Giản (nay là Lê Văn Sĩ) và Lê Văn Duyệt (nay là
Cách Mạng Tháng Tám). Ngoài ra, trên hai trục đường đó còn có cả chục tiệm hút,
sòng bài thuộc quyền quản lý của Fami (gia đình) Vũ Đình Khánh.
Năm 1965, Vũ Đình Khánh bị bắt lĩnh án 5 năm tù, bị đày ra
Côn Đảo. Bắt chước tay nhà văn giang hồ đầu thế kỷ Trương Văn Thoại, khi ngồi
tù Côn Đảo đã tự giải thích bút danh Sơn Vương của mình có nghĩa là “vua của đảo
Côn Sơn”, Vũ Đình Khánh cũng nhân cơ hội này tự gọi mình là Sơn Đảo và tự nhận
“học trò ruột” của Sơn Vương. Với “chiến tích” nửa thực, nửa bịa mang về từ Côn
Sơn, thế lực của Sơn Đảo càng ngày càng mạnh lên trong làng giang hồ Sài Gòn.
Nghe tin em ruột bị giết trong tù, Sơn Đảo lồng lộn lên. Y
càng tức hơn, khi từ Chí Hòa, dân chơi đồn thổi ra:
- Cương Võ sĩ không chết vì nhà tù, cũng không chết vì Lâm
Chín ngón mà chết vì bệnh... sĩ.
Không chịu nổi, Sơn Đảo tìm vào tận Chí Hòa tuyên bố:
- Sẽ lấy mạng thằng Lâm bằng bất cứ giá nào.
Quá giận, Sơn Đảo không thèm đếm xỉa gì đến những lời thanh
minh xin lỗi của tay đàn em trót dại. Xem như mạng sống đã bị mua đứt, Lâm Chín
ngón hết sức lo lắng, tìm cách phòng thủ.
Khổ nỗi, Sơn Đảo có muốn cũng không thể bỏ mặc “fa-mi” buôn lậu
ma túy đang ăn nên làm ra, tự mình gây án để vào tù kiếm địch thủ trả thù. Gửi
sát thủ từ bên ngoài vào cũng không ổn,vì muốn tiếp cận tìm cơ hội giết được
Lâm Chín ngón, sát thủ phải ngồi tù chung buồng với Lâm, nghĩa là phải chịu án
dài, án nặng nên chẳng tên nào chịu nhận. Cuối cùng, Sơn đành phải tính cách nhờ
một tay chơi nào đó trong trại Chí Hòa khử Lâm Chín ngón.
Kẻ được chọn đầu tiên là Tuấn đả, quê ở xã Hộ Hải, quận Ninh
Hải, Ninh Thuận. Khi bị bắt giam tại quân lao Nha Trang, Tuấn đả là kẻ từng đâm
lòi ruột Sơn Trắng - xếp sòng quân lao này để tiếm quyền. Máu liều, Tuấn đả có
thừa, nhưng y nhỏ con, khó chơi tay đôi mà thắng được Lâm Chín ngón. Sơn Đảo chỉ
có nước tuồn “chó lửa” từ ngoài vào tù để Tuấn đả hạ Lâm. Nhưng, hai lần khẩu
súng được ngụy trang gửi vào, Tuấn đả đều trả lại không nhận. Khi từ quân lao
Nha Trang chuyển vào trại Chí Hòa, Tuấn đả đã từng bị toàn thể đám đàn anh ở
đây cô lập và suýt đánh đòn hội đồng bởi e ngại “truyền thống” lật đổ của y.
Lúc đó, chính Lâm Chín ngón đã chủ động đứng ra bảo lãnh. Cảm kích, Tuấn đả đã
từ chối “hợp đồng” mà Sơn Đảo nhờ, kèm lời giải thích:
- Anh Đại (Đại Cathay) gọi nó là Lâm điên, tao là Tuấn khùng.
Hổng lẽ thằng khùng đi bắn thằng điên(?!).
Mất gần cả năm trời, Sơn Đảo mới tìm được người thay Tuấn đả.
Gã này tên là Nguyễn Văn Hoàng, tự Hoàng Đầu lâu (theo hình xăm trên bả vai).
Nói về võ nghệ, cả trại Chí Hòa không ai sánh kịp Hoàng Đầu lâu. Hoàng mang đai
đen tứ đẳng Taekwondo, đã từng hạ hàng chục cao thủ cả Việt lẫn Miên trên sàn đấu.
Đầu tiên, biết vợ con Hoàng đang sống khó khăn trong thời
gian chồng ở tù, Sơn Đảo bèn bỏ tiền mua một căn nhà mặt phố nhỏ đem tặng, sau
đó lại sang một sạp vải ở chợ cho vợ Hoàng đứng bán, làm kế sinh nhai. Đồng tiền
đi trước là đồng tiền khôn, Hoàng Đầu lâu tối mắt gật đầu bán mình cho Sơn Đảo.
Khổ nỗi, trong giới giang hồ, Hoàng chỉ thuộc hàng chiếu dưới,
án tù cũng nhẹ, không thể ngồi cùng mâm với Lâm Chín ngón để có cơ hội tiếp cận
và hạ sát địch thủ. Để tạo cơ hội cho Hoàng, Sơn Đảo đã tốn công vạch ra một kế
hoạch chi tiết nhằm giúp Hoàng Đầu lâu tăng án, “được” ngồi biệt giam đồng thời
nâng uy tín trong làng dân chơi chứ không vì tăng án mà gây thù hằn, xích mích
với một kẻ nào khác.
Trong trại Chí Hòa có một cai ngục là trung sĩ Cách, cháu ruột
gọi phó giám thị trại bằng cậu. ỷ thế, tên này rất “bố láo”, luôn tìm cách ăn
chặn, phá phách đồ thăm nuôi của tù nhân. Đám tù rất ghét nhưng không tên nào
dám ra tay. Một hôm, sau khi nghe các “đàn anh” ta thán, Hoàng Đầu lâu xung
phong:
- Để em mần thịt nó cho!
Kỳ thăm nuôi đến. Khi trung sĩ Cách đang săm soi hũ thịt rim,
bẻ đôi từng cái bánh để khám xét thì một tên tù tự giác đến rót vào tai hắn:
- Trung sĩ, có người muốn gặp riêng trung sĩ.
Cách hống hách quát:
- Thằng nào muốn thì ra đây mà gặp! Bộ nó là ông nội tao hay
sao mà gọi là tao phải ra?
Tên cò mồi đệm thêm:
- Có chuyện làm ăn, cần gặp riêng trung sĩ.
Tưởng sắp được hối lộ, trung sĩ Cách bỏ ngay việc khám xét
theo tên cò mồi đi vào phía trong. Cánh cửa vừa đóng lại, Hoàng Đầu lâu bước ra
ngay. Hôm đó, y giắt một thanh “hàng” (mã tấu) sau lưng, mặc một chiếc áo jean
rộng thùng thình che kín. Thấy mặt Hoàng đằng đằng sát khí, trung sĩ Cách hoảng
quá vội vã ngoắt người định tháo lui. Nhanh như chớp, Hoàng Đầu lâu chặn ngay cửa
ra vào và rút mã tấu nhằm mặt trung sĩ Cách vớt ngược lên. Lát chém quá chính
xác, lỗ mũi của tên trung sĩ bị lưỡi dao bén ngót cắt bay. Máu xối ra, trung sĩ
Cách ôm mặt quằn quại...
Với “chiến tích” này, Hoàng Đầu lâu nghiễm nhiên trở thành
“dân chơi thứ thiệt”, được giang hồ kiêng nể. Trong khi đó, tội nặng thêm, y bị
tống xuống khu biệt giam. ở ngoài, Sơn Đảo lại bung tiền lo lót với giám thị,
cai tù. Kết quả là hai tháng sau, Hoàng Đầu lâu đã ôm giỏ đồ của mình chuyển
sang ở cùng một buồng giam với Lâm Chín ngón.
Ngoài Lâm Chín ngón, trong buồng giam còn có một chú bé 15 tuổi
tên là Phạm Văn Lý, thường gọi là Lý lắc được Lâm xin cho ở cùng phòng để phục
dịch trà nước và đấm bóp cho “đàn anh” trước giờ đi ngủ. Chỉ sau hôm ở cùng
phòng ít lâu, Hoàng Đầu lâu đã khiến Lý lắc sợ chết khiếp. Suốt
ngày, Hoàng cởi trần trùng trục phô chiếc đầu lâu nhe nanh, hết gồng đến tấn lại
đấm bình bịch vào tường, rồi sau đó là đá loạn xạ ngầu các kiểu, như thể đang tập
dượt chuẩn bị thi Olympic. Bị khủng bố tinh thần, Lý lắc thất kinh,
hỏi Lâm Chín ngón:
- Bộ anh Hoàng sắp giết ai sao?
Lâm không trả lời. Kinh nghiệm sống và những lời thì thào to
nhỏ trong đám giang hồ đã giúp Lâm thừa biết Hoàng sắp giết ai. Muốn tránh cũng
không thể, Lâm thở dài và âm thầm chuẩn bị.
Bắn tin ra ngoài, Lâm nhờ đàn em kiếm một chiếc quai đeo ba
lô hình chữ X bằng inox, bẻ ra, ấn vào trái bí đỏ chuyển vào tù cho Lâm. Chờ lúc
Hoàng Đầu lâu ra khỏi phòng, Lâm đập vỡ trái bí, lấy thanh inox ra, mài mỏng xuống
sàn xi măng thành một lưỡi dao nhọn hoắt và sắc như dao cạo. Sau đó, Lâm nhờ một
người có vai vế là tướng Lam Sơn, nguyên giám đốc Trung tâm huấn luyện tân binh
Thủ Đức, vì tội bắn chết người quản gia nên phải ngồi Chí Hòa mua cho mình một
chai rượu Remy Martin. Trong tù, được đàn anh chiếu cố, lại có rượu Tây uống,
còn gì bằng, Hoàng Đầu lâu được Lâm mời cứ thế nốc rượu tì tì. Đã có chủ ý, Lâm
chỉ nhấm nháp đôi chút, chủ yếu rót tràn cho Hoàng. Nửa đêm, chai rượu cạn đáy,
Hoàng Đầu lâu say mèm lăn ra ngáy pho pho. Lâm Chín ngón bèn bảo đệ tử Lý lắc:
- Mày nấu cho anh nồi nước, tắm cái cho mát.
Khi nước sôi sùng sục, Lâm bê nguyên cả nồi đổ ụp xuống mặt
Hoàng Đầu lâu. Hoàng thét lên chói lỏi, quằn quại, muốn đứng dậy bỏ chạy nhưng
không thấy đường, tay chân quơ loạn xạ. Rút dao đã chuẩn bị sẵn, Lâm Chín ngón
đâm liên hồi vào người Hoàng Đầu lâu. Lưỡi dao mỏng dính nên máu chỉ ra rịn rịn.
Hoàng Đầu lâu van xin:
- Anh tha cho em, em có làm gì anh đâu?
- Nếu để mày “làm gì” thì giờ tao đâu còn có thể đứng đây!
Giãy giụa một lúc, Hoàng Đầu lâu chợt cong người lên, ngáp
ngáp mấy cái rồi chết thẳng cẳng. Đến lúc đó, Lâm mới ngừng tay. Tất cả 37
nhát. Lý lắc kinh hoàng đứng nép vào góc tường bưng mặt so vai nhưng không dám
khóc.
Cuộc giằng co xảy ra khá nhanh, khá bất ngờ. Hoàng Đầu lâu hầu
như không kịp phản ứng nên tiếng động gây ra không lớn. Khi Lâm đập ầm ầm vào cửa
sắt báo mình đã giết người, viên cai ngục đang ngủ gà ngủ gật vẫn không tin. Đến
khi chạy vào, nhìn xác Hoàng hoen máu nằm thẳng đơ trên nền gạch, ông ta mới thất
kinh hỏi Lâm Chín ngón:
- Sao mày lại giết nó?
Vứt dao, Lâm đứng thừ người:
- Tôi không đâm nó, nó cũng giết tôi!
Lâm nói đúng, chốn giang hồ nếu không chết vì cái ác thì cũng
phải tự mình nhúng tay vào cái ác, hoàn toàn không có đường thứ ba để chọn lựa.
Lâm Chín ngón lại bị tống vào biệt giam. ở ngoài, Sơn Đảo vẫn
lồng lộn tìm cách tiếp tục giết Lâm. Nhưng chưa kịp nghĩ ra cách, chính Sơn Đảo
lại bị giết chết. Cũng như em ruột là Cương võ sĩ, Sơn Đảo cũng bị hạ vì sĩ diện
và bỏ mạng bởi một kẻ thuộc hàng đàn em: Phạm Bá Y, tức Y Càlết!
Bị thọt một chân, lại có bệnh kinh phong, mỗi lần lên cơn là
toàn thân co giật liên hồi, Phạm Bá Y được giang hồ gán cho biệt danh “Y Càlết”.
Sau nhiều năm ở tù, hắn ngoi lên được địa vị trùm ma túy của dãy AH thuộc trại
Chí Hòa. Năm 1972, Y ra tù bắt đầu dựng lại cơ đồ. Lúc này, Sơn Đảo đang ở giai
đoạn cực thịnh. Biết mình chỉ thuộc hàng đàn em của Sơn Đảo, Y Càlết không dám
nhảy vào địa hạt “hàng trắng” mà Sơn Đảo đang nắm độc quyền, chỉ dám chỉ đạo
đàn em buôn bán thuốc phiện, “giang sơn” không rộng hơn khu vực hẻm Cháo Lòng,
Xóm Đạo cạnh Bệnh viện Từ Dũ nơi Y cư trú.
Nhưng chỉ ít lâu, Mỹ rút, đám “dân chơi” đột nhiên bỏ “hàng
trắng” quay lại với “hàng đen” đã tạo cơ hội cho Y Càlết phất lên rất nhanh, cả
về tiền bạc lẫn thế lực. Chưa dám mạo hiểm mở rộng đất kinh doanh ra hướng Tân
Bình nhưng Y đã liều lĩnh bắt tay với hai tên dưới trướng của Sơn Đảo là Châu Gối
và Hồng Toét thâu tóm dần dần quyền cung cấp “hàng đen”. Y Càlết lên nhanh như
diều gặp gió. Trong khi đó, Sơn Đảo sau cái chết của em tính tình ngày càng
hung bạo hơn. Quyền lực càng cao, thái độ của hắn càng hống hách càng mục hạ vô
nhân. Mỗi lần không vừa ý, hắn thường không tiếc tay đánh đập, chửi mắng đàn
em. Không chịu được sự ngược đãi vô lý, nhiều giang hồ đã rục rịch bỏ Sơn Đảo
chạy về dưới trướng Y Càlết.
Quyền lực bị xâm phạm, Sơn Đảo điên hết cả ruột, bắt đầu tìm
cớ diệt Y càlết. Trong giới giang hồ, việc “đảo chính”, hạ bệ lẫn nhau xẩy ra
như cơm bữa. Nhưng muốn diệt nhau thì phải có cớ, nếu không giang hồ không phục,
có diệt được đối thủ cũng không thể đạt được mục đích. Vì vậy, dù điên đến mấy,
Sơn Đảo vẫn phải kiên nhẫn chờ thời. Lần này, giọt nước làm tràn ly là một cô
vũ nữ xinh đẹp.
Ở Sài Gòn trước 1975, vũ trường Barcarat nổi tiếng nhờ màn vũ
thoát y. Hằng đêm, đến đoạn cao trào một cô gái bốc lửa sẽ bước lên sàn pist nhảy
múa cuồng loạn theo điệu nhạc. Lần lượt theo từng bước nhảy, từng mảnh xiêm y
trên mình cô gái sẽ rơi ra. Khi trên mình cô chỉ còn độc một chiếc “lá nho” che
chỗ kín, đám thực khách sẽ bốc thăm... Kẻ “may mắn” được bịt mắt sẽ lên sân khấu
cùng nhảy với cô, trong khi nhảy, nếu khách dùng... răng gỡ được chiếc “lá
nho”, cô vũ nữ sẽ thuộc về gã trong đêm thác loạn. Nhân vật chính của những đêm
điên loạn ấy là Trang, cô gái có thân hình bốc lửa. Biệt danh Trang Barcarat ra
đời từ đó. Khi đã nổi danh, Trang Barcarat bỏ nghề vũ nữ trở thành một người
chuyên tổ chức các buổi party cho các nhân vật tai to mặt lớn trong quân đội.
Nhờ đó, Trang thường xuyên được một vài ông lớn ủng hộ và che chở hết mình. Từ
Trang Barcarat, cô được giới ăn chơi phong lên thành Trang Bà Bà - tên nhân vật
tú bà trong tiểu thuyết Kim Bình Mai - cuốn “đệ nhất dâm thư” của đời Thanh
(Trung Quốc).
Xem ra chưa chắc ăn, để công việc làm ăn tránh được sự sách
nhiễu của những tên đầu bò, đầu bướu, Trang Barcarat còn chủ động cặp bồ với một
số tay anh chị đang lên. Thời gian đầu Trang cặp bồ với Lộc điên, một tên cướp
khét tiếng lì lợm và hung bạo. Lộc điên từng nổi danh giang hồ vì biệt tài trốn
tù, vượt ngục kèm câu tuyên bố ngạo ngược trước tòa:
- Tòa xử thì tòa ở, Lộc tôi không rảnh đâu mà ngồi tù!
Lộc điên bị bắt lãnh án chung thân đúng vào hồi cực thịnh của
Sơn Đảo và fami của hắn, Trang lập tức quên ngay gã tình nhân vừa sa cơ thất thế,
tự nguyện ngã vào vòng tay Sơn Đảo. Khi Y Càlết đã trở nên hùng mạnh, cô quay
sang bá vai bá cổ ve vuốt tên anh chị mới nổi này.
Một hôm, Sơn Đảo đến thăm Trang Bà Bà, đúng vào lúc Trang và
Y Càlết đang ngồi với nhau trong phòng khách. Thấy Sơn vào, Y Càlết chỉ khẽ gật
đầu chào mà không thèm đứng lên, thái độ tự tin như một chủ nhân ông thực thụ
đang ngồi tại phòng khách nhà mình. Bẽ mặt, đồng thời cũng muốn thị oai trước mặt
tình nhân, Sơn Đảo hất hàm:
- Ai cho mầy ở đây?
Câu hỏi trịch thượng của Sơn khiến Y Càlết đâm ra lúng túng.
Cho dù việc “đảo chính” chỉ còn là ngày một ngày hai nhưng vì chưa đến lúc cho
nên ngoài mặt Y Càlết vẫn phải xếp mình dưới cơ Sơn Đảo. Tật nói lắp của hắn bắt
đầu lòi ra:
- Dạ... thì tôi đến... chơi... thăm Trang...
Thấy đối thủ mặt đã đổ chàm, gã đàn anh càng lấn tới. Thẳng
tay giáng cho Y Càlết một tát tai, Sơn Đảo gầm lên:
- Không chơi bời thăm viếng gì ráo trọi, nếu không đừng
trách.
Không đề phòng, Y Càlết lĩnh nguyên năm dấu ngón tay trên mặt.
Mắt vằn lên, nhưng biết mình không phải là đối thủ tay đôi của Sơn Đảo, hắn
không dám đánh lại, chỉ lắp bắp:
- Tôi... làm gì... mà... mà... anh... đánh tôi?
Thắng được người mặt đỏ như vang, Sơn Đảo hất mặt:
- Ưng đánh là tao đánh. Thấy mặt mày tao ghét quá nên đập cho
mầy chừa. Có sao không?
- Anh là... đàn anh... mà chơi... chơi vậy... là không ngon.
Tôi... tôi... nói thiệt... anh đừng... ỷ... ỷ... lớn.
Vừa nói Y Càlết vừa lùi dần ra cửa. Sơn Đảo đắc thắng:
- Đã biết tao là đàn anh thì cút mẹ mày đi. Đứng sớ rớ thấy
ghét, tao lại táng thêm vài cái bây giờ.
Bị hạ nhục, Y Càlết lên cơn giật kinh phong ngay tại chỗ và vội
vàng lủi ngay như chó ăn vụng bột.
Hả hê vì trừng trị được kẻ rắp ranh “lấy số” mình, đi đâu Sơn
Đảo cũng đem chuyện bạt tai Y Càlết ra khoe, tất nhiên không quên thêm mắm dặm
muối cho thêm phần hấp dẫn. Chẳng bao lâu, thông tin về vụ đụng độ đã lan khắp
giang hồ Sài Gòn. Tin chắc Y Càlết đang nung nấu dự định trả thù, một số dân
chơi rục rịch kiếm Y ngỏ ý sẵn lòng hiệp sức để luộc Sơn Đảo. Lần nào, với ai,
Y Càlết cũng tìm cớ thoái thác:
- Chỉ là chuyện hiểu lầm, nhỏ thôi mà. Bỏ đi, ảnh là đàn anh,
tao chơi ảnh làm sao được?
Để Sơn Đảo khỏi nghi ngờ, Y Càlết ngoài mặt tỏ ra nhẫn nhục
chịu đựng nhưng bên trong, y lại ngầm sai tên em ruột có cái tên khá ngộ nghĩnh
là Xã Xệ (tên thật là Phạm Bá Tiến), một tên giang hồ khá đẹp trai mới 17 tuổi
điều tra đường đi nước bước, thói quen giờ giấc của Sơn Đảo để trả thù. Mang nhục
mà không rửa, đố còn có thể ngẩng mặt lên nổi trên chốn giang hồ, Y Càlết chẳng
bao giờ quên điều đó.
Trận trả thù diễn ra vào đầu năm 1975. 11 giờ đêm, Sơn Đảo và
gã đàn em tên là Ba Tiến cùng một đám sĩ quan dù rời vũ trường Crystal trong trạng
thái chếnh choáng. Vừa trèo lên chiếc môtô 125 phân khối định lao theo đám sĩ
quan dù đã phóng đi trên mấy chiếc xe Jeep, Sơn Đảo phát hiện ra cả hai bánh xe
đều xẹp lép. Cắm cảu, y lệnh cho Ba Tiến - tên đàn em đi chung làm gạc-đờ-co -
dắt xe ra dưới ánh đèn cao áp xem thử. Đúng lúc đó, một Honda 67 do Tiến Mụn cầm
lái chở Xã Xệ trờ tới. Vừa áp sát, khẩu Colt 45 trong tay Xã Xệ đã xả
nguyên băng đạn vào lưng Sơn Đảo hất y úp mặt xuống đường. Chiếc Honda 67 phóng
vút đi. Ba Tiến chưa kịp phản ứng đã vội đứng im. Từ yên sau một chiếc xe Honda
67 khác vừa phóng đến, Y Càlết tay súng lăm lăm nhảy xuống, vừa khống chế Ba Tiến
vừa kiểm tra kết quả cuộc hành quyết. Khi tin chắc mạng sống của Sơn Đảo - tên
giang hồ cộm cán nhất thời ấy - đã chấm dứt vĩnh viễn, Y mới trèo lên xe do tên
Chánh cầm lái phóng vụt đi.
Sau đó, một đám tang rình rang, kinh dị, sặc mùi xã hội đen
đã diễn ra. Hàng chục xe Jeep chở đầy lính dù với súng tuốt lê trần đã hộ tống
xe chở quan tài Sơn Đảo chạy lòng vòng khắp khu trung tâm Sài Gòn. Khi chạy đến
khu vực Xóm Đạo của anh em Y Càlết, bọn lính dù chĩa súng lên trời bắn rền hàng
chục loạt, thề sẽ lấy máu Y Càlết, Xã Xệ... để trả thù.
Nhưng chúng chưa kịp tìm ra được tung tích anh em Y Càlết, miền
Nam đã hoàn toàn giải phóng. Những cuộc tranh giành đẫm máu và thời kỳ tác oai
tác quái của giới tội phạm đã bị chính quyền cách mạng chặn đứng.
3. Nghiệp chướng của một ông trùm
Quay lại với nhân vật Lâm Chín ngón.
Sau 1975, với những tội lỗi đã gây ra, Lâm Chín ngón đã phải
sống một thời gian dài trong nhà tù của chế độ mới, chuyển qua nhiều trại giam
từ Chí Hòa, đi Côn Đảo, về trại cải tạo Cà Mau (1977), sang Trại Z30D Hàm Tân,
Bình Thuận (1982), lại chuyển qua trại Phú Sơn, Phú Khánh. Năm 1988, sau hơn 20
năm trả giá trong tù tội, Lâm được trả tự do, trở về thành phố Hồ Chí Minh, làm
đủ nghề để kiếm sống. Năm 1993, Lâm cưới vợ và sinh con. Cùng với vợ, Lâm mở một
quán thịt chó bình dân ở số 297, đường 3-2, quận 10, lo chí thú làm ăn, mong muốn
đoạn tuyệt hẳn với giới giang hồ.
Nhưng, nghiệp chướng đã trót đeo đẳng chưa chịu buông tha cho
Lâm rửa tay gác kiếm, an phận với cuộc hoàn lương. Một ngày cuối năm 1994, có 3
tên giang hồ mới nổi là Trúc lùn, Khải nheo, Tùng nhĩ vào quán thịt chó của Lâm
ăn nhậu. Cả ba đều hành nghề bốc vác tại bãi xe Kỳ Hòa cạnh quán nên Lâm biết
tên biết mặt. Rượu vào, lời ra, Trúc lùn đã kể lại cho Lâm nghe một “hợp đồng
giang hồ” mà chúng vừa thực hiện.
Vợ chồng Minh Samasa - Phụng trắng ở Vũng Tàu muốn độc quyền
bảo kê các cảng cá Vũng Tàu, Long Hải và Phước Tĩnh để thu lời. Chúng đã nhờ vợ
chồng Đức Năm Nghệ - Sương L’Amour, trùm “sát thủ” khu vực cầu Tân Thuận, thành
phố Hồ Chí Minh giúp sức để đuổi các đối thủ cạnh tranh khác trong giang hồ ở
các cảng này đi với giá hàng chục triệu đồng. Nhận lời, Đức Năm Nghệ - Sương
L’Amour đã điều khoảng 50 tên đàn em, trong đó có Trúc lùn, Khải nheo, Tùng
nhĩ, vác mã tấu xuống Vũng Tàu, tràn vào địa bàn của các tên Phước Đầu lâu, Hải
lộ. Sau trận hỗn chiến, chúng bắt được tên Thiềng, một đàn em trong băng của đối
phương, chặt đứt ngón tay của tên này gói vào khăn tay đem về nộp cho vợ chồng
Minh Samasa. Giữ lời, Minh Samasa đã thanh toán “hợp đồng” đầy đủ. Có tiền, đêm
đó Trúc lùn và một số tên ở lại Vũng Tàu phá phách. Bị cản không cho dắt gái
vào phòng, chúng đã bao vây đánh bảo vệ khách sạn, bị công an tạm giam và tịch
thu xe máy...
Nghe chuyện, Lâm Chín ngón thở dài khuyên đám tiểu yêu hãy từ
bỏ con đường tội lỗi, nhưng lại nhận lời xuống Vũng Tàu đòi Minh Samasa phải
tìm cách lấy lại xe máy cho đám đàn em.
Ngày 26 Tết năm 1994, Lâm cùng ba tên xuống Vũng Tàu. Là một
giang hồ mới nổi, biết khách là một giang hồ cộm cán, một đàn anh có máu mặt,
Minh Samasa đã tiếp đón Lâm Chín ngón khá niềm nở. Minh hứa:
- Nếu không xin lại được xe, tôi sẽ mua xe mới trả cho anh
em. Anh Lâm đã có lời, tôi đâu dám không làm.
Tiếp đó, Minh Samasa, Dũng Ba lém đã tổ chức nhiều chuyến ăn
chơi, du hí mời mọc đãi đằng đồng thời “mời anh Lâm xuống Vũng Tàu hợp tác làm
ăn”.
Thấy nguồn lợi quá lớn, đám Dũng Ba lém, Minh Samasa tên nào
cũng giàu sụ, lại quá tha thiết trọng vọng mình, Lâm Chín ngón đồng ý. Ở Vũng
Tàu, sự có mặt của Lâm Chín ngón đã khiến các băng nhóm lưu manh khác khiếp
vía, dạt ra hết, tạo điều kiện cho Minh Samasa và Dũng Ba lém tha hồ độc chiếm
cảng cá, tha hồ nâng hạ giá, bán mua tùy ý để làm giàu. Đổi lại, Lâm Chín ngón
chỉ việc chường mặt ra cảng cá nhưng không phải mó tay vào bất cứ việc gì, mọi
chi phí ăn uống chơi bời đều được “bao cấp”, kèm số lương 5 triệu đồng một
tháng. Minh Samasa, Dũng Ba lém còn sắm cả xe máy cho Lâm để “đàn anh tiện đi lại
làm việc”.
Thấy đất Vũng Tàu làm giàu quá dễ, Lâm Chín ngón nảy ra ý đồ
làm ăn riêng, quyết không để đám tài phiệt cảng cá “lợi dụng tên tuổi mình
mãi”. Tháng 4-1995, trong một buổi nhậu tại nhà hàng Thùy Dương (Vũng Tàu), Lâm
tuyên bố dự định “ra riêng” với đồng bọn. Nếu ý đồ của Lâm được thực hiện, đám
Minh Samasa, Dũng Ba lém xem như sẽ tự rước phải một đối thủ giang hồ quá mạnh.
Chúng tức tốc gọi vợ chồng Đức Năm Nghệ - Sương L’Amour xuống Vũng Tàu, gây áp
lực để đuổi Lâm Chín ngón.
Tuy “có số có má” nhưng cô thân cô thế, Lâm Chín ngón không
đương đầu nổi với liên minh giang hồ - tài phiệt giữa Đức Năm Nghệ - Sương
L’Amour với Dũng Ba lém, Minh Samasa. Sau vài tháng “chiến tranh”, Lâm Chín
ngón đành ngậm ngùi chạy trối chết khỏi Vũng Tàu để giữ mạng sống và “giữ tiếng
trên giang hồ”.
Hai năm sau, Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã ra quân xóa sổ
nạn bảo kê lộng hành trên các cảng cá. Minh Samasa và nhiều tên trong đám tài
phiệt cùng nhau vào tù trả giá cho những tội lỗi mà chúng đã gây ra. ở ngoài,
thấy địch thủ đã yếu hẳn, Lâm Chín ngón lại rắp ranh quay lại độc chiếm cảng cá
Vũng Tàu.
Nhưng, vợ chồng Đức Năm Nghệ, Sương L’Amout vẫn chưa bị pháp
luật sờ gáy. Được đám tài phiệt cảng cá đánh động và cầu cứu, Đức Năm Nghệ bắn
tin:
- Nếu Lâm Chín ngón mò xuống Vũng Tàu, mạng sống của y và gia
đình sẽ không được bảo đảm!
Thấy trước không chơi lại “đám dữ” mới “sủi tăm” nhưng đầy
hung hãn và không hề biết nể nang, Lâm Chín ngón đành tạm bằng lòng với vị trí
ông chủ quán thịt chó. Lâm không hề hé môi với bất kỳ ai về chuyện còn định
quay lại nắm cảng cá hay không.
Mọi chuyện tưởng chừng đã yên, bất ngờ tai vạ bỗng chụp lên đầu
Lâm Chín ngón. Khoảng 8 giờ tối ngày 14.7.1999, Lâm chở vợ và đứa con trai 6 tuổi
đi ăn tối tại quán Lồi ở cư xá Bắc Hải, quận 10. Khi anh ta vừa dựng xe cho vợ
con bước xuống thì bất ngờ, một tên thanh niên không rõ mặt nhảy xổ ra tạt thẳng
vào mặt Lâm một ca đầy acid sunfuric đậm đặc sau đó vứt chiếc ca nhựa, tót ngay
lên yên sau một xe máy chờ sẵn bên kia đường chạy mất. Hét lên một tiếng, Lâm ngã
xuống mặt đường quằn quại.
Trận đòn thù không rõ lai lịch quá hiểm ác. Tay giang hồ một
thời tác oai tác quái bị cháy và biến dạng toàn bộ khuôn mặt, hai tai rụng, mũi
rụng, cằm chảy ra dính chặt vào ngực. Hai mí mắt cũng chảy ra dính vào nhau, bịt
kín con mắt. Sau nhiều tháng chạy chữa với nhiều lần phẫu thuật, lột toàn bộ da
mông, da đùi đắp lên mặt, Lâm Chín ngón mới tạm hồi phục nhưng khuôn mặt vẫn bị
biến dạng khủng khiếp. Hai mắt Lâm gần như lòa hẳn. Nhiều lần phẫu thuật, các
bác sĩ bệnh viện Chợ Rẫy mới tạm mở được cho Lâm hai hốc mắt nhỏ xíu. Mỗi lần lấy
ngón tay ấn lên từ hai hố mắt đã lòa, những giọt nước đục như nước gạo lại ứa
ra.
Dù vậy, Lâm Chín ngón vẫn không cho vợ con, gia đình thưa,
báo công an. Chúng tôi đã nhiền lần gặng hỏi, Lâm Chín ngón vẫn lắc đầu quầy quậy,
không hé một lời về việc ai đã xuống tay hạ gục mình, cũng một mực không cho biết
anh ta có nghi hay không nghi ai là thủ phạm, dù theo suy đoán của chúng tôi,
có vẻ như Lâm biết rất rõ kẻ đã ra lệnh xuống tay. Trước sau, Lâm chỉ một mực
cho rằng, tai vạ hôm nay chính là nghiệp chướng mà anh ta đã vay thì phải trả.
Thậm chí, anh ta cho rằng kẻ hại mình còn “nhân đạo”, không hề đụng đến vợ con
Lâm, để cho họ rời khỏi xe một khoảng rồi mới ra tay nên chỉ mỗi một mình Lâm bị
hại.
Thật ra, Lâm Chín ngón biết rất rõ ai là kẻ đã tổ chức tạt
acid hủy hoại anh ta nhưng vì lo sợ và vì thiếu chứng cớ nên Lâm không dám đứng
ra tố cáo, chỉ cắn răng chịu đựng. Ngày 12.12.2001, Năm Cam bị tóm cổ. Hai ngày
sau, khi thông tin về vụ bắt giữ Năm Cam đã được khẳng định rộng rãi trên báo
chí, Lâm Chín ngón đã lập tức tìm đến cơ quan công an và một số tờ báo để tố
cáo: chính Năm Cam là kẻ chủ mưu vụ tạt acid. Đến lúc đó, toàn bộ sự thật mới
được phơi bày.
Năm 1988, Lâm Chín ngón được trả tự do sau hơn 20 năm bị trói
buộc trong vòng lao lý. Biết Lâm là kẻ nhiều lần vào tù ra tội, chiến tích, uy
tín giang hồ khá lẫy lừng, Năm Cam đã tìm tới tận nhà thăm hỏi, cho tiền, mục
đích là để lấy lòng và dựa dẫm, lợi dụng uy thế của Lâm để dằn mặt các băng nhóm,
đồng thời để tránh rước thêm một địch thủ thuộc loại dữ dằn.
Tiếp đó, Lâm lấy vợ, sinh con, cuộc sống không mấy dư dả. Để
mua chuộc Lâm, Năm Cam đã ra lệnh cho Mười Đen, một tay dưới trướng hiện đang
có một cửa hàng điện tử trên đường Huỳnh Thúc Kháng, quận 1, phải nhường cho
Lâm một phần hùn trị giá hai lượng vàng tại cửa hàng này. Gọi là hùn, kỳ thực
Lâm Chín ngón không phải góp vốn lấy một xu, nhưng hàng tháng Mười đen vẫn phải
chia lời cho Lâm đúng theo tỉ lệ của người có hai lượng vàng góp vốn. Trên danh
nghĩa, Năm Cam là người chịu trách nhiệm góp vốn cho phần hùn này để giúp Lâm.
Nhưng, với “anh Năm” thì “bố bảo” Mười đen cũng không dám từ chối hay đòi hỏi
phần góp.
Được vài tháng, Lâm Chín ngón nảy máu tham, không xì tiền ra
nhưng vẫn đòi hỏi Mười đen phải... nâng tỉ lệ phần hùn cho anh ta. Đòi hỏi quá
quắt của Lâm Chín ngón đã khiến mâu thuẫn nảy sinh. Năm Cam phải đứng ra can
thiệp, bắt Mười đen phải... trả lại cho Lâm Chín ngón hai lượng vàng đã “góp vốn”.
Cầm số vàng này, Lâm Chín ngón về quận 10 mua bán thuốc Tây, kỳ thực là bảo kê
khu chợ tân dược đường Lý Thường Kiệt.
Trong khi đó, Năm Cam lại tiếp tục hùn vốn với Muời đen, Tư
râu và Chín Cam - một cán bộ thoái hóa, biến chất - thuê mặt bằng tại số 49 Huỳnh
Thúc Kháng, mở lại một cửa hàng điện tử khác. Cửa hàng này làm ăn khá phát đạt,
lại khiến máu sân si của Lâm Chín ngón nổi lên. Lâm lại mò đến, bảo Mười đen:
- Tao muốn hùn vốn vô tiệm này, mày tính sao thì tính!
Không cam chịu thiệt hai lần, Mười đen nổi đóa:
- Anh đừng quá quắt. Chỗ tôi làm ăn, đâu phải cái chợ đâu mà
hễ anh nói vô là vô, ra thì ra?
Bị từ chối, Lâm Chín ngón nổi khùng đập vỡ bảng hiệu của Mười
đen. Điên tiết, Nghĩa, con trai Mười đen vác dao xông ra, định ăn thua đủ với
“thằng già bố láo”. Nghe tin, Năm Cam vội vã lao tới dàn hoà, tránh xảy ra một
cuộc đối đầu toé lửa với tay anh chị hết thời nhưng còn số má.
Sự xuất hiện của Năm Cam đã lên dây cót tinh thần cho Mười
đen. Tay này không kiêng dè gì nữa, chỉ mặt Lâm Chín ngón cảnh cáo:
- Tiệm này là của anh Năm, muốn hùn hạp gì thì anh cứ nói với
ảnh. Anh Năm đồng ý thì cho anh hùn, không đồng ý thì anh biến, đừng đến đây
gây sự nữa.
Bị từ chối và dằn mặt, Lâm Chín ngón nổi điên. Nhưng nhắm
đánh nhau với cả đám không lại. Lâm chỉ còn nước réo Năm Cam chửi đổng cho bõ
ghét:
- Năm Cam là cái chó gì. Nó là thằng cờ bạc, tù tội, oai đếch
gì mà tụi mày tôn sùng, dựa hơi. Coi chừng, cà chớn thì có ngày tao đập tiệm,
Năm, Bảy gì có ngon ra mà chơi.
Bị xúc phạm, nhưng là con cáo già, Năm Cam không phản ứng lại
nửa câu, chỉ găm mối hận Lâm Chín ngón lại trong lòng.
Nghề bảo kê, buôn bán thuốc Tây ở chợ Trời quận 10 bùng phát
được ít lâu thì xẹp, Lâm Chín ngón nghe lời rủ rê, mời mọc của đám Minh Samasa
- Dũng Ba lém xuống Vũng Tàu bảo kê các cảng cá. Trong số các đầu nậu bị Lâm
Chín ngón, Minh Samasa dằn mặt tranh mua ép bán có Ba Thế, tức Nguyễn Hữu Thế
Trạch, chủ vựa cá chợ Cầu Ông Lãnh, quận 1, xuất thân là một kiện tướng bơi lội.
Trạch chuyên mua cá từ nguồn của các tàu Kiên Giang. Dưới áp lực của đám xã hội
đen do Lâm Chín ngón chỉ huy, Trạch liên tục phải đóng “hụi chết”, mỗi chuyến
tàu phải mất năm đến bay triệu, thậm chí ba mươi triệu mới đưa được xe đông lạnh
ra khỏi cảng. Đã vậy, lắm lúc Lâm Chín ngón, theo yêu cầu của Dũng Ba lém, Minh
Samasa còn tự ý nâng giá mua, khiến nhiều chuyến Trạch thiệt hại nặng, có khi tới
hai, ba ngàn đồng một kilôgam cá. Để thoát khỏi tình trạng này, Trạch
đã bàn bạc với mẹ vợ là bà Nguyễn Thị Mai tìm cách thương lượng với Lâm Chín
ngón để điều đình. Biết Lâm Chín ngón có nhà ở quận 10, là một giang hồ thứ dữ
của đất Sài Gòn, mẹ con Nguyễn Hữu Thế Trạch đã đem lễ đến nhờ Năm Cam nói chuyện
với Lâm Chín ngón giúp và được “ông trùm” nể mặt nhận lời.
“Tiên lễ hậu binh”, một mặt kích động, chia rẽ Lâm Chín ngón
với đám Minh Samasa - Dũng Ba lém, lại xúi giục vợ chồng sát thủ Đức Năm Nghệ -
Sương L’Amour xuống Vũng Tàu gây sự với Lâm Chín ngón, mặt khác Năm Cam lại
xách rượu tìm đến nhà Lâm Chín ngón tại quận 10 để nói chuyện thiệt hơn. Vào
nhà, Năm Cam bảo Lâm Chín ngón:
- Nguồn cá của thằng Ba Thế là nguồn cung cấp cho
vựa Cầu Ông Lãnh. Ở đó, anh em giang hồ đông lắm. Anh ép thằng Trạch tức là đá
bể nồi cơm của anh em, lỡ lớn chuyện ra thì phiền lắm đó.
Cả hai đều xuất thân từ khu Cầu Ông Lãnh (Chợ Cầu Muối), Lâm
Chín ngón là đàn em cật ruột của Đại Cathay, xếp sòng từ thuở xa xưa của nguyên
khu chợ vựa, trong khi Năm Cam là em rể Bảy Si, ông trùm sòng bạc khu Da Heo, từng
hùn hạp nhận Đại Cathay làm bảo kê, cho nên Lâm Chín ngón biết Năm Cam nói thật.
Một mình đối đầu với toàn bộ giang hồ chợ Cầu Muối là điều hoàn toàn dại dột
không nên. Dù không ưa Năm Cam, nhưng thấy “ông trùm” đã nhún mình xuống nước
tìm đến tận nhà nên Lâm Chín ngón cũng tỏ ra nể mặt. Lâm nói với Năm Cam:
- Thôi được, chuyện đó Năm để tôi bàn với chú Trạch sau.
Một tuần sau cuộc nói chuyện
này, một cuộc nhậu tưng bừng đã được tổ chức tại nhà hàng Thùy Dương ở Vũng
Tàu. Chủ tiệc là Nguyễn Hữu Thế Trạch và bà Mai, người mời là Lâm Chín Ngón,
trong khi khách là đầy đủ bộ sậu giang hồ của thành phố cảng, có thêm cả cặp vợ
chồng sát thủ Đức Năm Nghệ - Sương L’Amour từ thành phố Hồ Chí Minh xuống. Vào
tiệc, Lâm Chín ngón chuyển lại cho giang hồ đất cảng nguyên văn lời cảnh báo của
Năm Cam:
- Cá của Ba Thế là nguồn cung cấp cho chợ Cầu Muối. Ở đó có
nhiều giang hồ sống lắm...
Dĩ nhiên đã là yêu cầu của Năm Cam thì đám giang hồ Vũng Tàu
không thể làm ngơ. Chúng chấp nhận buông tha, giải phóng nguồn hàng cho Nguyễn
Hữu Thế Trạch.
Chỉ sau đó vài tháng, thân cô thế lụi, Lâm Chín ngón đã bị
đám giang hồ mới đánh bật khỏi Vũng Tàu khi có ý định tách khỏi Minh Samasa -
Dũng Ba lém để ra riêng. Chạy trối chết vì chơi không lại, Lâm Chín ngón lại
đâm ra hậm hực, nghi có bàn tay Năm Cam thò vào trong chuyện Lâm bị truất ngôi.
Về thành phố Hồ Chí Minh, đi đâu Lâm cũng rêu rao thoá mạ, công khai chửi bới,
coi thường uy thế của Năm Cam.
Có lần, vào năm 1998, Lâm chủ động mời Năm Cam đến một nhà
hàng trên đường Trần Hưng Đạo, quận 5. Khi thấy Năm Cam bước vào, những tên thuộc
hàng đàn em của Lâm Chín ngón đang ngồi trong bàn đều nhất loạt đứng lên chào
và cầm ly đến gặp “anh Năm” mời mọc, quên khuấy mất “chủ nhân ông” của cuộc ăn
nhậu là Lâm Chín Ngón. Không nhịn được, Lâm Chín ngón gầm lên:
- Thằng Năm Cam là cái đếch gì mà tụi bay phải bợ đỡ. Tao coi
nó là cái đinh. Đ.M, thằng nào quị luỵ Năm Cam thì đừng coi tao là đàn anh nữa!
Vô cớ bị Lâm Chín ngón chửi bới, hạ nhục, mặt Năm Cam tái dại
đi. Nhưng, cái đầu cáo già vẫn lạnh, Năm Cam đứng lên:
- Anh Lâm say rồi! Tôi cũng hơi mệt, thôi anh em ngồi chơi,
tôi về trước.
Nói xong Năm Cam bỏ về ngay. Máu yêng hùng lấp mất trí khôn,
Lâm Chín ngón không hề biết rằng bằng những lời nhục mạ Năm Cam, anh ta đã tự
biến mình thành cái gai cần nhổ trong mắt tay gá bạc ốm yếu ho hen nhưng đầy
quyền lực, máu lạnh và đầy nham hiểm.
Ngoài mặt vẫn thơn thớt nói cười, nhưng trong bụng, Năm Cam
đã bầm gan tím ruột, bắt đầu tìm kế trừng trị Lâm Chín ngón.
Thế nhưng, làm được điều đó không dễ. Lâu la dưới trướng, Năm
Cam không thiếu. Đám Cu Nhứt, Bình Kiểm, Nghĩa Mười đen... đều thuộc loại dữ dằn
và sẵn sàng “phục vụ anh Năm”. Lâm Chín ngón tuy to khoẻ nhưng dù sao cũng chỉ
là “hổ dữ về già”, chơi tay đôi chưa chắc những thằng sát thủ mới nổi phải
kiêng dè. Ngặt một nỗi, Lâm Chín ngón dù sao cũng đã có thời lừng lẫy,
thuộc hàng đàn anh có số, đám sát thủ mới nổi ít nhiều cũng nể mặt, chưa chắc
đã chịu động thủ. Bề hội đồng, trải đệm cũng không ăn thua, vì nếu có diệt được
một Lâm Chín ngón, Năm Cam cũng mang tiếng đắc thời hiếp kẻ thất thời, không
khéo lại chọc giận hàng loạt “sói già” khác để chúng quay lại “bề hội đồng” thì
khó ăn khó nói và cũng khó đỡ.
Suy đi tính lại, Năm Cam quyết định chơi trò “ném đá giấu
tay”. Kẻ được ủy thác thực hiện là Vũ Hoàng Dung, tức Dung “Hà”, quái nữ đất cảng
Hải Phòng. ít nhiều, Dung Hà cũng đã nhiều lần được Năm Cam cưu mang, giúp đỡ
tiền bạc trong những ngày hàn vi, vừa ra tù, công ty cờ bạc Kiến An (Hải Phòng)
đã vỡ, thằng bồ Hùng cốm đã bị bắn và đàn anh, đàn em thì tan tác mỗi đứa một
phương. Sử dụng Dung Hà, Năm Cam đắc lợi nhiều mặt. Thứ nhất, giang hồ Bắc là
những sát thủ máu lạnh, dám chơi tới cùng và sẵn sàng xài “hàng nóng” (súng). Về
mặt này, Dung Hà vốn đã khét tiếng. Trước khi vào tù, chính y thị là kẻ đứng ra
tổ chức một cuộc tấn công qui mô, kéo rốc hàng chục sát thủ từ Hải Phòng đổ bộ
lên Hà Nội chém tơi tả một loạt đàn em của cả Phúc Bồ lẫn Khánh Trắng, đúng vào
giai đoạn cực thịnh của hai trùm này. Thứ hai, vì là giang hồ Bắc nên Dung Hà
cóc thèm biết đến tiếng tăm của Lâm Chín ngón, bảo chơi là chơi sát ván. Lỡ có
đổ bể, đàn em của y thị sẵn sàng cao chạy xa bay, Lâm Chín ngón khó mà lần ra
manh mối để trả thù.
Tính toán đâu vào đó xong xuôi, ngày 11.7.1999, Năm Cam cho gọi
Dung Hà đến nhà riêng. Nghe Năm Cam gọi, Dung Hà đã sai một tên đàn em là Quân
“béo”, tức Nguyễn Duy Quân chở mình đến ngay. Tại nhà riêng số 107/38 Trương Định,
quận 3, Năm Cam kể cho Dung Hà nghe chi tiết toàn bộ những mâu thuẫn giữa ông
trùm với Lâm Chín ngón và đưa ra đề nghị:
- Cô xỉa cho nó vài dao, làm sao cho nó thân bại danh liệt
không ngồi dậy nổi nữa.
Dung Hà cười lạt:
- Muốn dằn mặt, cần gì làm vậy. Để em cho nó một ca acid, khủng
khiếp hơn nhiều. Mình diệt một thằng nhưng cả trăm đứa khác phải ớn, đó mới là
thượng sách.
Năm Cam đồng ý. Y gọi ngay đứa cháu là Nguyễn Văn Thọ (Thọ Đại
úy) đến, bắt Thọ đi mua acid về cho Dung Hà thử và đưa đường cho Quân béo, Dung
Hà lên quận 10 để nhận mặt Lâm Chín ngón. Lần thứ nhất, acid Thọ mua về bị nữ
quái chê loãng. Thọ lại phải chạy thêm lần nữa, đem về một can acid đậm đặc,
Dung Hà mới đồng ý, sai Quân béo đem về nhà ở đường Bùi Thị Xuân cất.
Ba ngày sau, đêm 14.7.1999, Lâm Chín ngón vĩnh viễn trở thành
người tàn phế.
Hơn một năm sau, 0 giờ 25 phút ngày 2.10.2000, đến lượt Dung
Hà bị bắn chết trong khi thủ phạm vụ tạt acid Lâm Chín ngón vẫn chưa bị phát
giác.
Không ai khác, bật đèn xanh hạ thủ Vũ Hoàng Dung lại vẫn
chính là Năm Cam. Trò ném đá giấu tay, Năm Cam thực hiện khá hoàn hảo. Tất cả
chỉ bị phanh phui vào hơn một năm sau nữa, khi Năm Cam và hàng chục con, cháu,
rể, đàn em lần lượt dắt nhau vào trại giam.
Sau tai nạn, Lâm Chín ngón trở thành một con người khác hẳn:
không nói, không cười, suốt nhiều năm qua chỉ ở lì trong một căn nhà nhỏ mà
ngoài vợ con, Lâm không hề cho ai biết địa chỉ (trừ tôi - người viết bài này).
Khi chúng tôi đến thăm, anh ta chỉ một mực bảo rằng, cuộc đời Lâm Chín ngón coi
như đã hết, chỉ “nhờ ơn trên phù hộ cho vợ con được lành lặn và yên ổn”. Kể từ
nay, Lâm Chín ngón không còn tồn tại nữa, đúng hơn, trên giang hồ không còn hiện
hữu cái tên Lâm Chín ngón. Lâm không hề có ý định sẽ trả thù theo kiểu ân oán
giang hồ.
Tôi biết, lần này Lâm Chín ngón nói thật, bởi có muốn khác
đi, anh ta cũng không còn đủ sức. Con đường giang hồ là thế, một con đường trải
đầy tội ác, bước vào thì dễ nhưng không hề có đường ra. Tiếc thay, Lâm Chín
ngón chỉ nhận ra điều đó khi đã quá muộn, đã trở thành một kẻ tàn phế mù lòa.
Trong khi đó, hiện vẫn còn không ít kẻ - đặc biệt là trong giới thanh thiếu
niên vẫn đang tấp tểnh làm dân chơi, đang lăm le nhảy vào cuộc sống giang hồ đầy
tội ác. Với bài viết này, chúng tôi muốn vẽ lại bộ mặt thật ghê tởm của thế giới
tàn bạo và đầy tội ác đó, một thế giới đang có nguy cơ phình ra theo sự mọc lên
như nấm của quán bar, vũ trường, rượu, gái và ma túy. Hy vọng những kẻ đang rắp
ranh ấy, khi đọc bài viết này sẽ tự rút được cho mình bài học quí, để tránh xa
con đường từ dân chơi đến giang hồ, con đường đầy tội ác cần phải ngăn chặn và
loại trừ.
6- HÙM XÁM MIỀN TRUNG
Sau Đại Cathay, Tín Mã Nàm, cùng thời với những Sơn Đảo, Lâm
Chín ngón, Điền Khắc Kim... ở Sài Gòn, mảnh đất miền Trung và Cao
Nguyên cũng xuất hiện một loạt tên tuổi đen trong làng dao búa. Nổi bật trong số
đó là tên cướp Năm Vĩnh, kẻ được giới giang hồ mệnh danh là “hùm xám miền
Trung”. Với những người lương thiện đang sống một cuộc sống an bình, cái danh
xưng mỹ miều ấy vô nghĩa và vô cảm. Nhưng, đối với người dân lao động nhiều địa
phương khoảng những năm đầu thập niên 70, danh xưng ấy đích thị là một nỗi ám ảnh
kinh hoàng. Với “xã hội đen”, Năm Vĩnh còn nổi tiếng ở một khía cạnh khác: Hắn
chính là kẻ tạo tiền lệ cho vòng xoay tội lỗi sau này sẽ thành một phong trào:
đăng lính để trốn tù tội, sau đó trốn lính để làm du đãng, đồng thời sử dụng uy
lực của “quân đội Việt Nam Cộng hòa” để tác oai tác quái và ăn cướp. Bằng cách
đó, Năm Vĩnh và những tên giang hồ mặc áo lính đã biến sư đoàn 23 ngụy thành
“sư đoàn du đãng”, Vùng II chiến thuật thành “vùng của giang hồ”.
Không giống như những tên du đãng cộm cán khác thường xuất
thân đá cá lăn dưa, trường học đầu đời là lề phố hoặc cô nhi viện,
Năm Vĩnh có một tuổi thơ khá êm đềm. Vĩnh sinh năm 1947 tại Quảng
Ngãi, đựơc ăn học đến nơi đến chốn, từng mài đũng quần trên ghế trường Trung học
Bồ Đề, Quảng Ngãi - một ngôi trường nổi tiếng, đào tạo không ít nhân tài cho rẻo
đất miền Trung.
Học không tệ nhưng tính tình hiếu động, có phần hung bạo, tên
học trò cà chớn này đã không ngần ngại bẻ vế thứ nhất của câu cách ngôn “Tiên học
lễ, hậu học văn” thành “tiên học... võ”. Sống đúng như câu cách ngôn
của riêng mình, Vĩnh thường xuyên trốn lớp để tìm thầy học võ. Vĩnh
học qua rất nhiều lò. ở lò nào, hắn cũng bị đuổi vì thường xuyên đòi thách đấu
với các sư huynh để phân chia cao thấp. Tuy thế, đến 18 tuổi, trình độ võ thuật
của tên học trò Năm Vĩnh cũng đã khá thượng thừa. Để khẳng định trình độ, thay
vì thượng đài, Vĩnh chọn cách “dân dã” hơn: gây sự đánh nhau, một mình đánh
đôi, đánh ba ngay trên đường phố, sân trường. Lần nào hắn cũng toàn thắng,
trong khi nạn nhân của hắn toàn là... bạn học. Vì thế ông Dương Ngô Thống (thường
gọi là ông Dương), thầy giáo chủ nhiệm lớp hắn ở trường Bồ Đề đã nổi giận táng
cho Vĩnh một bạt tai và gọi giám thị đuổi tên học trò bất trị ra khỏi lớp. Ông
giáo mô phạm tuyên bố:
- Dạy dỗ anh chỉ tốn công, loại như anh sau này chỉ có thể
làm kẻ cướp!
Ngớ người ra một lúc, Năm Vĩnh chợt cảm thấy ông thầy mình
nói... chí phải. Không muốn kéo dài sự lo lắng của thầy và bạn, hắn bỏ học. Chẳng
bao lâu, thị xã Quảng Ngãi bé nhỏ lại có thêm một hung thần. Sự liều lĩnh, hung
bạo và đẳng cấp võ nghệ của Năm Vĩnh đã khiến đám du thủ du thực tỉnh lẻ bạt
vía, đành chắp tay qui phục, suy tôn Vĩnh làm đại ca.
Cuối những năm 1960, theo chân của 500.000 lính Mỹ, chiến
tranh tràn khắp, cả miền Nam là một bãi chiến trường. Sự tuyệt vọng của tâm hồn
người dân trong hỗn mang cuộc chiến chính là mảnh đất màu mỡ cho các loại tư tưởng
triết học du nhập và bén rễ. Sinh viên học sinh miền Nam bơi giữa vô
số dòng chảy tư tưởng từ phương Tây ồ ạt tuôn vào Việt Nam. Hiền lành như Kali
Gibran, Kan, hoài nghi, đập phá như Nietzsche, chán chường như Camus, hiện sinh
như J.Sartre... loại nào cũng có. Sinh viên, học sinh, tầng lớp năng động nhưng
tâm hồn sớm tổn thương vì cuộc chiến nhất, dễ trở nên bi quan tuyệt vọng, nhanh
chóng vồ vập với chủ nghĩa hiện sinh và suy tôn những F.Nietszche, J.Paul
Sartre làm ông tổ tinh thần. Hậu quả của nó là những kẻ đua đòi, thích ăn chơi
đập phá, “ghét Mỹ nhưng thích bắt chước Mỹ”, đã chìm hẳn giữa dòng xoáy của
phong trào hippie với tóc để dài, ăn mặc chim cò, nốc rượu và nhảy disco giậm dựt.
Loại có học hơn mơ mòng biến mình thành người hùng với trước tác của Sartre kè
kè bên nách; một bộ phận trong số họ - tích cực hơn - dù chưa thật sự ý thức đầy
đủ về chủ nghĩa cộng sản, về kháng chiến cũng không ngần ngại xé áo thư sinh
lên rừng, quyết sống tận cùng theo chủ nghĩa dấn thân...
Không mấy chuyên chú cùng sách vở, nhưng tâm hồn nổi loạn của
Năm Vĩnh cũng ít nhiều bị ảnh hưởng của học thuyết hiện sinh và chủ nghĩa dấn
thân. Ước mơ của Năm Vĩnh là một sự pha trộn lệch lạc giữa sở thích thụ hưởng,
ăn chơi và hình ảnh người hùng đơn độc, lấy nguyên mẫu từ hình ảnh gã sát thủ
ba Tàu trong “Thân phận con người” của André Malraux - cuốn sách gần như duy nhất
được Năm Vĩnh đọc trọn từ đầu đến cuối. Rất nhanh, gã cảm thấy thị xã Quảng
Ngãi nhỏ bé luôn co rúm mình vì lo sợ bom pháo cả hai bên trở nên ngột ngạt và
tù túng không chịu nổi. Đầu năm 1970, Vĩnh quyết định dấn thân, hành phương Nam
theo tiếng gọi giang hồ.
Mảnh đất đầu tiên tên “hắc đạo” trẻ tuổi chọn lựa để lấy số lấy
má là thị trấn Mỹ Ca nằm bên quốc lộ 1, cạnh Quân cảng Cam Ranh - căn cứ quân sự
khổng lồ lúc nhúc lính Mỹ và các sắc lính đồng minh. ở đâu có các chú lính mắt
xanh mũi lõ, ở đó các loại tệ nạn cứ tha hồ mọc như nấm. ở cây số 9 Mỹ Ca, văn
hóa lùi về thời tiền sử, nhường chỗ cho văn minh hưởng thụ, sống gấp trước khi
chết gấp, sặc mùi lính tráng thời chiến. Với một cây dao chặt đá cây lưỡi răng
cưa lởm chởm nặng trịch, Năm Vĩnh nhanh chóng đánh bạt bọn ma cô, đầu gấu xứ
này, giành quyền bảo kê thu thuế giựt các phòng trà, tiệm nhảy, nhà thổ của
toàn bộ khu vực phục vụ các sắc lính trên toàn thị trấn. Tiền bạc bất lương thu
vào như nước biến Vĩnh thành “vua con” của vùng quân cảng. Ngạo mạn và sa đà,
Năm Vĩnh còn ngang nhiên chống lại cả cảnh sát bài trừ du đãng, cuối cùng “lỡ
tay” chém chết một trung úy quân cảnh ngụy. Do đó, hắn bị tầm nã ráo riết ngay
khi tên tuổi mới lừng lên trên chốn giang hồ.
Để tránh rơi vào vòng lao lý với một cái án cầm chắc sẽ rất nặng,
Năm Vĩnh chọn cho mình giải pháp duy nhất: đăng lính. Với kế hoạch Việt Nam hóa
chiến tranh, người Mỹ bắt đầu rút dần quân đội về nước, để lại cho quân đội Việt
Nam Cộng hòa một lỗ hổng lớn, đầu tiên là về mặt tinh thần. Sự tấn công mạnh mẽ
của quân giải phóng trên khắp các chiến trường đã khiến cho quân số của ngụy
quân, đang rệu rã tinh thần, hao hụt liên tục. Để bù đắp, ngụy quân ráo riết bắt
lính. Bất cứ một thanh niên lành lặn tuổi từ 18 đến 37 nào cũng có thể nộp đơn
xin vào quân ngũ ngay mà không hề bị xét hỏi lôi thôi. Đặc biệt, đăng lính vào
khoảng từ ngày mồng 10 - 20 hàng tháng thì càng chắc chắn được các nhân viên
tuyển quân dịch gật đầu ngay. Lý do đơn giản: 10 hoặc 20 ngày lương
đầu tháng của chú tân binh sẽ nghiêm nhiên chảy vào túi các “thầy” tuyển quân dịch,
đó là chưa kể thêm khoản định mức 400đ/tân binh được quân đội cho hưởng, thành
thử việc thẩm tra, thẩm vấn dại gì phải làm căng!
Lúc này, quân chủ lực của vùng II chiến thuật ngụy (gồm
khu vực miền Trung và Tây Nguyên) là sư đoàn 23 bộ binh với các đơn vị: Trung
đoàn 44 đóng ở Sông Mao (Bình Thuận), trung đoàn 53 ở Bảo
Lộc và trung đoàn 45 đóng ở Buôn Ma Thuột. Trong số đó, Trung đoàn 44 là đơn vị
thiện chiến nhất, anh cả của sư 23. Nguyên thủy, nó là sư đoàn Nùng khét tiếng
tàn bạo và thiện chiến đóng ở Quảng Ninh, thời còn thuộc quân đội Liên hiệp
Pháp, do Đại tá Voòng A Sáng chỉ huy. Những tên lính Nùng này giỏi trận mạc bao
nhiêu thì cũng rừng rú, hoang dã và bất trị bất nhiêu. Ngoài chỉ huy trực tiếp,
những tên lính Nùng tuyệt đối không thần phục và nghe lệnh bất kỳ ai khác. Thậm
chí khi nổi nóng, chúng (có thể) còn dám cắt tai cả Tổng thống! Lo sợ đám kiêu
binh làm loạn, Ngô Đình Diệm đã chia nhỏ quân số Sư đoàn 5 (tên gọi của Sư đoàn
Nùng thời Đệ nhất Cộng hòa), lấy từng bộ phận của chúng để hình thành nên các lực
lượng mới như Lực lượng liên binh phòng vệ phủ Tổng thống, Liên đoàn Biệt động
quân, Lữ đoàn dù... sau đó tuyển tân binh cho đủ quân số, lập lại Sư đoàn 5,
giao cho Nguyễn Văn Thiệu - đang mang lon Đại tá - làm sư trưởng,
đưa chúng lên tận Đà Lạt trú quân để đề phòng hậu họa. Sau nhiều thăng trầm dâu
bể, một phần của Sư đoàn Nùng xưa kia lại tiếp tục tuyển quân, trở thành Trung
đoàn 44 thuộc sư 23 bộ binh ngụy.
Năm 1970, dù là tên tội đồ đang bị truy nã, máu yêng hùng của
Năm Vĩnh vẫn chưa tan. Với tờ khai mang tên giả là Nguyễn Văn Biên, quê ở Phú
Yên, hắn quyết định chọn trung đoàn 44 nổi tiếng “đầu gấu” để tòng
quân. Lúc này, Trung đoàn 44 đang thuộc quyền chỉ huy của Trung tá Lầu Cắm Bảo
tức Lưu Kim Bảo - một đệ tử của Voòng A Sáng chỉ huy. Nhưng, chỉ chưa đầy một
năm sau, khi “Chiến dịch Lam Sơn 719” đánh Hạ Lào của quân đội ngụy vừa mở màn
thì gã người hùng đã tái mặt... đào ngũ ngay.
Đối với quân đội Việt Nam Cộng hòa, chiến dịch Lam Sơn 719 thật
sự là một thảm kịch. Sau hai năm theo đuổi chương trình Việt Nam hóa chiến
tranh, quân đội Việt Nam Cộng hòa cần có một chiến dịch qui mô để thử nghiệm thực
lực của mình. Dưới sự hối thúc của người Mỹ, Nguyễn Văn Thiệu đã đồng ý tiến
hành một chiến dịch “tìm và diệt” tấn công vào Tchepone, một tỉnh nằm ở Đông
Lào. Mục đích của cuộc hành quân qui mô này là tấn công vào các căn cứ tiếp tế
của miền Bắc trên đất Lào và tiêu diệt các đơn vị quân đồn trú chủ lực, nhằm cắt
đứt tuyến tiếp tế đường mòn Hồ Chí Minh, ngăn chặn từ xa một cách triệt để sự
tiến quân về Nam của bộ đội miền Bắc. Kịch bản chiến tranh và bản đồ chiến lệ
do người Mỹ đưa ra, nhưng Nguyễn Văn Thiệu - kẻ thực hiện, vẫn gắn vào nó đầy
những tham vọng. Thiệu muốn thông qua cuộc hành quân, bà đỡ Mỹ sẽ thấy rằng
quân đội Việt Nam Cộng hòa đã thật sự trưởng thành, có thể đủ sức giành thắng lợi
trong những chiến dịch tấn công quy mô, điều mà từ trước đến giờ hầu như vẫn do
các lực lượng quân đội Mỹ đảm nhiệm. Đó cũng là nước cờ tuyệt nhất để Thiệu có
thể bảo đảm phần thắng cho mình trong cuộc chạy đua giành ghế tổng thống sẽ diễn
ra trong năm 1971.
Để tìm kiếm một chiến thắng trọn vẹn, tháng 3.1971 Nguyễn Văn
Thiệu đã cắt 2 sư đoàn thiện chiến nhất gồm một sư thủy quân lục chiến và một
sư bộ binh giao cho tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ huy để ném vào canh bạc. Từ các
căn cứ tập kết tại Kon Tum, 25.000 binh sĩ ngụy đã được trực thăng Mỹ chở sang
Lào và bất ngờ ném xuống các tọa độ đã định trước thuộc tỉnh Tchepone. Không
may cho Thiệu, chiến sự đã diễn ra hoàn toàn không giống như kịch bản. Những đợt
tấn công ồ ạt của quân đội Việt Nam Cộng hòa đã vấp phải một sự chống trả quyết
liệt, dũng mãnh, được chuẩn bị chu đáo của “Cộng sản Bắc Việt”. Chỉ sau 4 ngày
giao tranh, 3.000 binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đã nhanh chóng bị loại khỏi cuộc
chiến. ảo vọng “tốc thắng” của các chú lính Việt Nam Cộng hòa sụp đổ hoàn toàn
khi lần đầu tiên, những chiếc xe tăng T54 của bộ đội chủ lực miền Bắc xuất hiện,
áp đảo hoàn toàn tinh thần chiến đấu của đối phương. Đòn phủ đầu trở thành thất
bại thảm hại đã khiến viên Tư lệnh chiến dịch Hoàng Xuân Lãm không dám liều
lĩnh, sợ bị sa lầy như một Điện Biên Phủ thứ hai trên đất Tchepone, các đơn vị
tiền đồn trên đất Lào sẽ bị bao vây không thể chống giữ, cũng không có khả năng
tiếp viện kịp thời. Cay đắng, Thiệu đành chấp nhận thay đổi chiến thuật, như
Lãm đề xuất, chỉ đánh Tchepone rồi rút ngay, không đề cập tới chuyện giữ.
Thảm kịch thật sự xảy ra ngay trên đường rút lui, con số binh
sĩ chết và thương vong tăng quá nhanh, nhanh đến mức không đủ trực thăng để sơ
tán họ về tuyến sau. Đã thế, “sự quan liêu tai hại của Lầu Năm Góc” - như lời
chỉ trích của Thiệu sau đó - đã khiến cho sự chỉ đạo và yểm trợ (bằng pháo binh
và không quân) của Mỹ diễn ra không đầy đủ. Hậu quả là một cuộc hành quân đại bại
đã chấm dứt sau 44 ngày, tước mất của Thiệu hơn 8.000 lính, buộc số còn lại phải
giày xéo lên nhau mà chạy, mong toàn mạng thoát khỏi “tử địa” Tchepone.
Thất bại thảm hại của chiến dịch Lam Sơn 719 đã phá nát phần
nhuệ khí của cả quân đội Việt Nam Cộng hòa lẫn máu yêng hùng của Năm Vĩnh. Những
trận đụng độ đầu tiên, nhìn thấy xác bạn đồng ngũ được trực thăng bốc về tuyến
sau nhiều la liệt, tên du đãng sợ mất mật đành chọn giải pháp mang trên lưng
thêm một lệnh truy nã về tội đào ngũ nữa để mong được bảo toàn mạng sống.
Sau hai tháng trời sống chui rúc cạnh sân bay Nha Trang nhờ
vào sự bao bọc của đám ma cô, du đãng thành phố biển, Năm Vĩnh nhận ra rằng
không thể xưng hùng xưng bá bằng con đường đơn thương độc mã, chỉ cậy vào võ
nghệ và sự liều lĩnh. Hắn cũng nhận ra rằng, khác với vùng Mỹ Ca nhỏ bé, ở một
thành phố đủ lớn, đủ ô hợp như Nha Trang thì chẳng ma nào thèm chú ý đến mình,
nghĩa là khó bị luật pháp sờ gáy hơn. Yên tâm với những gì vừa nhìn thấy, hắn lại
tự khai tên là Nguyễn Văn Vĩnh - một cái tên rất học giả - và chọn trung đoàn
53 để quay lại làm lính. Tại quân trường Dục Mỹ (Ninh Hòa, Khánh Hòa), Năm Vĩnh
nhanh chóng kết giao với Năm Cao, trùm mặt rô ở Nha Trang, cũng vào lính để trốn
truy nã. Không biết bàn bạc kiểu gì, nhưng 3 tháng quân trường vừa hoàn tất,
hai thằng Năm lại đào ngũ. Chỉ ít lâu sau, du đãng Nha Trang đã có một “nội các
tam đầu chế” giữ vị trí ông trùm, thường được giang hồ gọi xách qué là “băng ba
năm mười lăm” gồm Năm Vĩnh, Năm Cao và Năm Càri, đóng đại bản doanh tại một căn
lầu ở cư xá Sân Bay do Năm Cao mua tặng.
Sau hơn một năm hùng cứ thành phố biển, tên tuổi nổi cộm như
những hung thần, băng “ba năm mười lăm” tan rã. Đúng hồi đang ăn nên làm ra,
băng “ba năm mười lăm” đột nhiên có khách đến thăm: một thằng “ngó qua là biết
cô hồn”, tóc dài trùm gáy, người đen đúa, áo thun đen phủ cẩu thả trên chiếc quần
rằn ri nâu của lính Biệt động quân. Gã xưng tên là Hiệp ruồi, tức Hiệp Súng
sáu, một tên anh chị đứng bến có cỡ của bến xe An Đông (Chợ Lớn), nhưng lại giấu
biệt cái quá khứ bị “lốc ổ”, phải bỏ của chạy lấy người, mò ra Nha Trang tìm đất
sống.
Hôm đó, Năm Vĩnh không có mặt, tại căn phòng ở cư xá sân bay
chỉ có Năm Cao và Năm Càri tiếp Hiệp ruồi. Chào hỏi, xưng danh với nhau đúng lễ
giang hồ, xong Năm Cao mới hỏi Hiệp ruồi:
- Bạn ghé thăm anh em chúng tôi chắc không phải để nói dóc
chơi. Có gì, bạn cứ nói thẳng.
Hiệp ruồi không giấu giếm bản chất cô hồn:
- Ai rảnh đâu mà khi không mò ra đây nói chuyện chơi. Là tôi
nghe anh em đang sống khỏe nên muốn tới hùn vốn làm ăn. Có vậy thôi!
Câu trả lời xấc xược của Hiệp ruồi khiến hai thằng Năm bất
giác chột dạ đưa mắt nhìn nhau. Sau vài phút im lặng, Năm Càri đằng hắng:
- Chỗ giang hồ, bạn đã có lời, tụi này đâu có chối. Nhưng xin
hỏi thẳng: bạn định góp vốn bằng gì?
- Tiền không, vàng không - khách bắt đầu giở giọng chối tai -
thằng Hiệp này xưa nay chỉ có nắm đấm và con dao coi như là vốn. Chịu nhận hùn
hay không, anh em cứ nói đại đi một tiếng, khỏi lằng nhằng!
- Mày nói cái gì?
Hộc lên một tiếng, Năm Càri nhổm người vọt dậy, định lao ngay
vào Hiệp ruồi. Nhưng Năm Cao khá nhanh tay, vội chụp lấy vai hắn giật lại, khiến
Năm Càri gần như bổ chửng xuống ghế. Nếu là ở ngoài đường, chắc chắn Năm Cao sẽ
không cản đồng bọn mà sẽ làm ngay cái việc là nhảy bổ vào Hiệp ruồi băm kẻ
khiêu khích ra trăm mảnh. Ngặt một nỗi đang ở ngay tại nhà, hắn không dại gì
“đem máu tưới vườn nhà”, vừa mất tiếng giang hồ, vừa rước thêm rắc rối với cảnh
sát. Chờ một chút cho máu nóng trên mặt tan bớt, Năm Cao mới ngọt nhạt:
- Tứ hải giai huynh đệ, bạn đã định hùn, tụi này hết sức hoan
nghinh. Chuyện làm ăn tính sau đi, giờ anh em mình nhậu cái chơi, coi như tiệc
sơ giao vậy.
Thấy địch thủ nhún mình, Hiệp ruồi không nghi ngờ gì cả, gật
đầu ngay. Cuộc nhậu kéo dài đến quá nửa đêm, đầy những chuyện gái trai đĩ bợm
nhưng tuyệt nhiên không ai đề cập đến chuyện làm ăn hùn hạp. Tiệc tàn, chủ và
khách đều say bí tỉ, ngủ lăn như chết. Còn mỗi Năm Cao là tỉnh. Vào khoảng 9 giờ
đêm, viện cớ nhức đầu, muốn “đi tắm cái cho giã rượu”, Năm Cao lỉnh đi đâu mất.
Sáng hôm sau, không ai trên đời còn nhìn thấy Hiệp ruồi đâu nữa.
Nhưng cũng trong sáng hôm ấy, cảnh sát đã tìm thấy trên bờ biển dưới chân núi một
chiếc bao bố đẫm máu, bên trong có một xác chết bị cắt ra nhiều khúc. Hồ sơ cảnh
sát ghi nhận: trước khi bị phanh thây, nạn nhân say rượu đã bị đâm nhiều nhát bằng
lưỡi lê cho đến chết. Những vết máu còn tươi, chứng tỏ nạn nhân mới bị giết vào
khoảng 2 - 3 giờ sáng. Quay trở về, nghe chuyện, Năm Vĩnh chỉ còn biết la trời.
Sau khi tổ chức “luộc” Hiệp ruồi tức Hiệp Súng sáu, Năm Cao
trở nên ngạo mạn và coi thường các băng du đãng khác. Một lần, hắn đã ngang
nhiên xé sòng bầu cua tôm cá của một đám du đãng mũ nồi nâu (Biệt động quân).
Điên tiết, Năm Cao vừa quay lưng, một tên Biệt động quân đã rót vào lưng hắn trọn
vẹn một băng M.16. Mất thổ địa, lại bị hàng loạt tên du đãng khác vừa từ mặt trận
trở về dọa “làm thịt”, Năm Vĩnh và Năm Cao lại vội bỏ Nha Trang lên Cao Nguyên
tìm nơi ẩn nấp. Cái “hang” mà chúng chọn là Liên đoàn 21 Biệt động
quân.
Trở lại quân đội với trang phục rằn ri nâu, mũ nồi nâu, vị
trí của Năm Vĩnh và đồng bọn đã thay đổi hẳn. Lính tráng toàn Cao nguyên không
tên nào không từng nghe qua danh xưng “đại ca Năm Vĩnh”, “hùm xám miền Trung”.
Vì thế, chỉ huy các đơn vị của Vĩnh - hắn thuyên chuyển đơn vị liên tục -
cũng vị nể, chẳng bao giờ bắt Vĩnh và đàn em của hắn phải ra trận. Bù lại, phần
ăn nhậu, hút xách của các “thầy, các “chú” tự nguyện chung chi đủ, cộng thêm
khoản lương lính của chúng “chẳng đáng là bao”, đến tháng các sĩ quan cứ việc
giở sổ lương mà lấy. Dĩ nhiên Năm Vĩnh nổi tiếng đến thế thì tung tích hắn
không cần tìm cũng thấy, quân cảnh ngụy không khó gì mà không tìm ra để tóm cổ
tên tội đồ từng giết người và đào ngũ như cơm bữa này. Nhưng mỗi lần có công
văn tầm nã, sĩ quan các đơn vị lại sẵn sàng báo cáo láo là “không hề có tên
đương sự trong danh sách”, lờ đi, tiếp tục che chở cho Năm Vĩnh để ăn của đút bằng
cách chuyển hắn sang một bộ phận khác! Cảnh sát cũng chẳng dại gì mò lên tận tiền
đồn để truy nã một thằng đầu trâu mặt ngựa, lơ mơ ăn đạn của cả hai bên chưa biết
chừng. Thậm chí, một tiểu đoàn trưởng nổi tiếng, đại úy Tôn Thất Trực, bạn học
của tướng Lê Minh Đảo, còn xúi Năm Vĩnh:
- Mỗi tháng mày nên về Nha Trang chơi bời ít bữa cho nó... khỏe,
nhớ rủ tao đi với!
Lợi dụng thế tự do, tên du đãng mặc áo lính dồn hết thì giờ để
tổ chức hai việc: bán ma túy và mở sòng bài phục vụ cho những tên lính Vùng II
sầu đời vừa trở về sau các cuộc hành quân. Sau Vùng I (từ Đà Nẵng đến Quảng Trị),
Vùng II chiến thuật, đặc biệt là khu vực Cao Nguyên là chiến trường thường
xuyên xảy ra đụng độ, lính tráng thường xuyên bị ném vào các chiến dịch qui mô.
Để quên cái chết luôn cặp kè bên nách, lính tráng vùng chiến thuật này đều bạt
mạng, hết sức vô kỷ luật và nhanh chóng ngã vào vòng tay đê mê của ma túy. Nghề
bán thuốc phiện nhanh chóng giúp Năm Vĩnh giàu nứt đố đổ vách. Có tiền, Vĩnh
vãi ra mua chuộc đàn em trong các sắc lính không hề tiếc. Dĩ nhiên, ai trả
lương cao, người đó được quyền sai bảo. Những tên du đãng mặc áo lính nhanh
chóng trở nên ngoan ngoãn nghe lời Năm Vĩnh hơn nghe lệnh chỉ huy - những kẻ chỉ
có thể cho chúng chưa đầy một phần mười số lương “anh Năm” quăng ra, lại còn
hay cố tình bớt xén.
Giống như cây số 9 Mỹ Ca, khu vực ngã ba Diệp Kính dưới chân
căn cứ Hàm Rồng những năm 1970-1972 cũng là địa điểm tập trung ăn chơi của các
sắc lính đóng cạnh thị xã Pleiku. ở đó có một rạp chiếu phim, một dãy quán xá
và hơn chục nhà thổ, lúc nào cũng đầy nhóc những tên lính người Việt giày trận
đứt tung dây, áo quần đầy bụi đất đỏ, kéo lê những khẩu AR15, M16. Thay vì nói
chuyện, chúng văng tục. Thay vì vỗ tay tán thưởng giọng ca, chúng chĩa nòng
súng lên trời và quạt nguyên băng... ở đó, lính tráng tên nào cũng rượu bia say
bí tỉ mà không cần phải đụng đến ly... Ngoài những bộ quân phục, không một người
dân nào dám bén mảng đến khu ngã ba Diệp Kính vào buổi tối nếu họ không thuộc một
trong hai loại: ma cô hoặc gái điếm phục vụ tại các quán xá.
Dù hung tợn, các sắc lính ở đây vẫn cứ phải dè chừng một cái
tên: Năm Vĩnh - “Hùm xám miền Trung”. Băng của hắn thuộc loại “đụng là chạm, chạm
là nổ”. Vào quán, ăn nhậu xong, thay vì trả tiền, hắn ngoắt chủ quán tới và đưa
cho họ một cái ly cối, trong ly là... một quả lựu đạn đã rút chốt, loại “chấm đỏ”
M26 hoặc M67, rút chốt ném là nổ ngay. Sau cái ám hiệu ấy, cả đám cứ việc bỏ đi
ung dung, không một chủ quán nào dám hó hé nửa tiếng. Lần sau, thấy mặt hắn
quay lại là chủ quán hiểu liền, vội xòe ra mấy chục ngàn để “anh Năm tiêu vặt”,
may ra mới được yên thân.
Đa phần lính tráng Vùng II đều xuất thân từ các tỉnh miền
Trung. Đời lính buồn và... mau chết, những tên lính cứ bưng luôn câu ngạn ngữ gốc
ruộng “muốn dỡ chuồng heo thì phải dám seo cột nhà” vào quân ngũ làm lẽ sống. Rảnh
rỗi, rượu còn có người chê chứ bài bạc sát phạt nhau thì tên lính nào cũng
“máu”. Một chiều mùa Đông năm 1972, khi sòng bạc ở ngã ba Diệp Kính đang đến hồi
cao trào thì cửa phòng bị đạp tung. Trên ngưỡng cửa xuất hiện hai bộ đồ rằn ri,
áo bỏ ngoài quần, tóc râu tua tủa và nét mặt rất cô hồn. Giật phắt chốt quả M26
ném keng xuống sàn, một tên tuyên bố:
- Bỏ hết tiền, đồng hồ, tư trang xuống bàn!
Dù cùng là lính tráng, nhưng trái lựu đạn cũng đủ chặn mọi
bàn tay manh động, những tên lính đành ngưng cuộc sát phạt, líu ríu nghe lệnh
gã cô hồn. Khi mọi cái túi đã được lộn trái, tên kẻ cướp điềm nhiên hô “biến!”,
đồng thời thả trái lựu đạn xuống mặt bàn và hốt tiền, vàng vào ba lô lộn. Lựu đạn
phun khói xì xì khiến đám con bạc xéo nhau chạy trối chết. Hốt đầy ba lô, ngẩng
lên sòng bạc đã vắng ngắt, thằng cô hồn ung dung bước ra cửa gọi tên bạn đang
lăm lăm súng đứng cạnh:
- Dọt mày!
Đúng lúc đó, gáy bỗng dưng lạnh buốt khiến hắn phải ngoái đầu
lại. Dưới bóng điện mờ mờ, trên một tấm phản kê tít trong góc phòng có một tên
biệt động quân đang chống tay trái nằm nghển cổ duỗi dài thân nhìn xoáy vào mặt
hắn. Một tấm áo palto lính trải rộng che nửa thân trên và cánh tay phải của kẻ
đang nằm. Quá đỗi ngạc nhiên, tên kẻ cướp bước lại gần hỏi:
- Mày là bảo kê sòng này?
Tên kia không thèm ngồi dậy, trả lời nhát gừng:
- Nhìn là biết, hỏi chi?
Thằng kẻ cướp ngạc nhiên lắm:
- Lựu đạn phun khói ì xèo sao mày không bỏ chạy. Bộ không sợ
chết hả?
Câu trả lời của thằng kia còn cô hồn và lọc lõi hơn:
- Ngu như bò! Lựu đạn mà nổ, mày đứng gần chết trước chứ
không phải tao. Nó không nổ mày mới đứng đó được chứ nổ thì trời xúi, ông già
mày cũng không dám, đừng nói chi mày. Trò con nít của tụi bay cũng đòi hù ông nội
bay sao?
Túi vàng, tiền trên vai trở nên nặng như đá tảng, tên cướp cạn
chửi thề:
- Mày ngon, mày tin là tụi tao sắp giết mày không?
Thằng kia nhếch mép:
- Tin cái mốc, trước đó tao đã bắn nát sọ mày rồi!
Vừa nói, hắn vừa hất chiếc áo paltô để lộ một khẩu colt “đui”
đang ghếch nòng trên tay phải... Mặt xanh như đít nhái, tên cướp cạn líu ríu thả
túi hàng xuống đất:
- Đại ca cho em biết quý danh?
Thằng kia hất mặt:
- Năm Vĩnh. Bộ mày thối tai hay sao mà không nghe?
Ngôi thứ được đổi ngay sau đó. Hai tên lính chắp tay lạy như
tế sao:
- Anh Năm tha tội. Tụi em mới hành quân trên Plei-cần về.
Đang nhậu mà vã quá, không đủ tiền trả nên mới liều mạng.
Năm Vĩnh gạt đi:
- Đây là đất của tao, không thằng nào được phá đám. Để tiền,
vàng lại hết. Còn ăn nhậu, chơi bời tối nay, ngày mai, tụi bây có bi nhiêu thằng,
tao lo tất!
Kiểu hành xử vừa lì lợm, bạt mạng, vừa tỏ ra đàn anh kèm theo
tiền bạc tuôn ra bao bè như suối đã giúp Năm Vĩnh lấy lòng, thần phục được
không ít tên đầu trâu mặt ngựa trong các sắc lính miền Trung và Cao Nguyên. Giống
như Vĩnh, tất cả những tên này đều mang hai, ba án truy nã nên đứa nào cũng
hung hãn, sẵn sàng lao vào chỗ chết, miễn có tiền. Một lần, đang nằm ở một
trong những hang ổ của du đãng gốc lính tại suối Đốc Học, ngoại ô Buôn Ma Thuột,
Năm Vĩnh nhận được hung tin: một số đàn em của y bị quân cảnh túm cổ vì một lý
do hết sức vô duyên. Số là vừa trở về sau một cuộc hành quân sát biên giới
Moldulkiri, thuộc địa phận Đak Song, Đak Lak, Năm Càri, Mầm Điên và một số tên
khác thuộc lực lượng Biệt động quân đã xả xui, tổ chức nhậu với Thắng, tay anh
chị bên Chiến đoàn Lôi Hổ. Cuộc nhậu được bày ra hoang dã ngay tại gốc đa Cây số
5, bên rìa thị xã Buôn Mê. Thấy lính tráng tác phong bê tha, lôi thôi lếch thếch,
một toán quân cảnh đi qua đã tạt vào yêu cầu đám này bỏ áo vào quần, gom ống quần
vào giày và buộc dây đàng hoàng để giữ tác phong quân kỷ. Câu trả lời là một tiếng
lựu đạn nổ “đoành”, rơi ra từ tay Thắng “Lôi Hổ”, lúc này đang say lử đử. Thế
là không nói gì thêm, toán quân cảnh xông vào tước vũ khí, còng tay luôn cả bọn.
Nhận tin, Năm Vĩnh tức khắc gặp viên trung úy đồn trưởng, bảo:
- Sáng mai, tụi Năm Càri không về thì cứ thấy thằng quân cảnh
nào trên đường, coi như thằng đó đổ ruột.
Bỏ về, Vĩnh sai đàn em đi báo tin cho đám tay chân trong các
đơn vị đồn trú lân cận để chuẩn bị. Quả nhiên, 4 giờ sáng hôm sau, đang ngủ vùi
sau cơn say, Năm Vĩnh đã bất ngờ bị quân cảnh ập vào còng tay đưa đi. 7 giờ
sáng, đồn quân cảnh bị nhiều loại quần áo rằn ri vây chặt, có cả đại liên M60
tham gia “cuộc chiến tranh”. 7 giờ 15 phút, một trái M79 nổ tung ngay giữa cột
cờ trong sân đoàn quân cảnh. Không còn cách nào khác, viên trung úy đành phải
thả Năm Vĩnh và đến 16 giờ thì Năm Càri, Mầm Điên, Thắng “Lôi Hổ” cũng vừa cười,
vừa tự do kéo nhau ra khỏi trại!
Tuy tha hồ huyênh hoang, khoác lác nhưng sau vụ đó, Năm Vĩnh
cũng biết là sự lộng hành của y đã vượt quá giới hạn. Bỏ cuộc hành quân của đơn
vị, hắn chuồn lên suối Đốc Học nằm khan, sau đó dông tuốt về Nha Trang sống phè
phỡn bằng nghề tuồn thuốc phiện vào quân lao Khánh Hòa bán cho đám quân phạm
đang “nằm ấp”. Cuối năm 1973, bị lùng sục, hắn lại “lỡ tay”, một lần nữa giết
chết một tay quân cảnh và bị tóm cổ.
Vác theo một balô vàng - chiến tích còn lại của mấy năm ngang
dọc - Năm Vĩnh được dẫn vào quân lao Khánh Hòa làm bạn với những gương mặt mốc
cộm cán của Vùng II chiến thuật như Phi Vân, Sơn Trắng, Tuấn Đả, Lực búa, Cù
Đinh... những kẻ trước đó không lâu còn lá “khách hàng truyền thống” trong nghề
buôn thuốc phiện của Vĩnh. Trong tù, cảnh gây bè, kết đảng đâm chém thanh toán
nhau lại tiếp diễn, cuối cùng Năm Vĩnh được thừa nhận là một “đại ca trong các
đại ca” của cái quân lao khét tiếng vô kỷ luật và lắm đầu trâu mặt ngựa này.
Sau Tết nguyên đán năm 1975, quân lao Khánh Hòa nhận thêm một
tù nhân dáng dấp mô phạm, bị tống giam vì tội “tình nghi Việt cộng”. Đó chính
là ông Dương Ngô Thống, thầy giáo dạy trường Bồ Đề, Quảng Ngãi, năm nào. Chuyển
lên dạy học ở Đà Lạt, thầy giáo Dương bị hàm oan. Nguyên trung úy Tình - một sĩ
quan Phượng Hoàng - say mê cô hoa khôi phố núi Xuân Lan nên đã hỏi cưới và có
con với cô gái này, trong khi y đã có vợ có con. Sợ bị loại ngũ vì tội có vợ
bé, Tình đã ép Xuân Lan phải bỏ con. Là bạn của bà Phụng, cô ruột Xuân Lan, ông
Dương động lòng đã nhận lời giúp bà Phụng, cùng vợ mình đem đứa bé trốn đi,
tránh cho nó bị cảnh cha ruột hắt hủi. Để trả đũa, trung úy Tình đã vu vạ và dẫn
cảnh sát đến bắt ông vào mùng 8 Tết. Nhờ quen biết với thiếu tá Nguyễn Văn Hiển,
quản đốc quân lao Khánh Hòa, Tình đã tìm cách tống được ông Dương vào địa ngục
này cho bõ tức. Để dằn mặt người tù mới, theo yêu cầu của tên trung úy bất
lương, thiếu tá Hiển đã đẩy ông giáo vào chung buồng giam với tên hùm xám Năm
Vĩnh, dự định mượn tay tên hung thần để hành hạ người tù.
Đã từng nghe tiếng tên hung thần, ông Dương co rúm mình và
suýt ngất xỉu khi những tên tù tàn bạo dựng ông ngồi thẳng lưng, bắt phải chứng
kiến từ đầu chí cuối cảnh Năm Vĩnh và một tên đàn em cởi trần trùng trục tra tấn
cho đến chết một quân phạm chung buồng. Xong việc, Năm Vĩnh đến trước mặt ông
cúi người lễ phép:
- Thầy nhớ con không? Con là Năm Vĩnh, thằng học trò bị thầy
tát tai gọi là đồ kẻ cướp ở Bồ Đề đây mà!
Suýt nữa, ông thầy giáo đã ngất xỉu vì tin chắc trận đòn thù
sẽ sắp được tên học trò xưa trút xuống đầu mình. Quá sợ hãi, ông lắp bắp:
- Anh... thông cảm, khi xưa tôi chỉ...
Năm Vĩnh cắt ngang:
- Dạ không, không. Con cảm ơn thầy vì lời thầy quá đúng. Đời
con chẳng có thể làm được trò trống gì hơn ngoài một thằng tướng cướp.
Như một cảnh phim quái gở điên rồ, hùm xám miền Trung thét
đàn em kê nệm, trải drap và đón ông thầy mình lên “chiếu trên” nằm nghỉ, cơm
bưng nước rót hầu hạ đến tận chỗ nằm. Khi đã trấn tĩnh, ông Dương mới dám hỏi
Vĩnh:
- Anh là người còn biết giữ chút lễ nghĩa, sao hôm trước vô cớ
lại đánh người ta đến chết?
Triết lý tàn bạo của lối sống giang hồ được gã học trò quỷ dữ
trả lời sau một giọng cười buồn:
- Con đã giết hai người, chẳng bao lâu sẽ bị đày ra Côn Đảo
lãnh án chung thân cấm cố. Ra đó coi như là chết, con phải “mua vé” bằng án mới
để tiếp tục bị điều tra, còn có cơ hội được ở lại đất liền. Giang hồ hiểm ác,
người này sống thì kẻ kia phải chết, tại số thằng đó... xui thầy ạ!
Nhưng, Năm Vĩnh đã không còn cơ hội để sống tiếp với cái triết
lý thú vật của đám giang hồ. Gần giữa tháng 3.1975, xe tăng quân Giải phóng ầm ầm
tiến vào làm chủ Nha Trang. Lợi dụng thời cơ, đám quân phạm đã bạo động giết
lính canh, phá quân lao trốn chạy. Bị Năm Vĩnh ép, ông Dương phải theo chân những
tên tù sổng khám chạy về hướng Phan Rang. Nhưng, cầu Du Long đã sập, những tên
lính mặc áo tù lại lôi ông chạy ngược trở lại quân cảng Cam Ranh. Trên đường
đi, ông giáo mô phạm đã đau đớn và bất lực chứng kiến cảnh tên học trò khốn nạn
và đám đàn em của hắn mặc sức cướp, hành hạ những người chạy loạn khốn khổ mà
không cách nào ngăn lại được.
Đến Cam Ranh, Vĩnh và đám đàn em lại dùng súng, lựu đạn uy hiếp
và cướp được một chiếc tàu, kè theo ông Dương tiến thẳng ra khơi. Trên tàu,
chúng lại tiếp tục giết người cướp của, dồn vàng, đôla vào 2 balô chặt cứng.
Trên tàu toàn kẻ cướp nên tàu bị từ chối không cho cặp cảng Vũng Tàu. Năm Vĩnh
lại ra lệnh đưa tàu ra khơi. Đến đảo Phú Quốc, hắn sai đàn em kết ván và dây thừng
thành một chiếc thang dây bảo ông Dương:
- Trong kia là thị trấn Dương Đông, thầy vào đó chắc sẽ có
cách về được đất liền, tìm vợ con. Còn tụi con, tội lỗi quá dày, không dám theo
thầy cùng về được.
Từ chối số tiền, vàng Vĩnh cho, ông Dương đu theo thang dây
nhảy xuống nước bơi vào bờ. Đến chiều, ông bất ngờ gặp lại gã học trò trên đảo.
Quá lộng hành, đám cướp làm loạn đã bị dàn quân cảnh đảo Phú Quốc khống chế, và
tóm cổ đưa vào thị trấn Dương Đông, trong đó có cả ông trùm Năm Vĩnh. Phiên tòa
được tổ chức ngay và chỉ kéo dài dăm phút với án tử hình dành cho cả đám. Trước
lúc xuống tàu về lại đất liền, ông Dương đã tận mắt chứng kiến cảnh Năm Vĩnh bị
bắn ngay sau khi kết thúc phiên tòa. Hắn được chôn lại dưới chân núi Tượng ở thị
trấn Dương Đông. Không mộ chí, nấm mồ bị cỏ quên dần dần vùi lấp. Âu đó cũng là
đoạn kết tất yếu của con đường giang hồ, con đường tội ác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét