Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2020

Hàn Mặc Tử: Đời, Thơ và niềm tin Kitô giáo

Hàn Mặc Tử: Đời, Thơ và 
niềm tin Kitô giáo
Dòng thơ của Hàn Mặc Tử thì say sưa vô tận, bay từ trần thế đến thiên cung, bay từ một tạo vật bé nhỏ bệnh tật đến Chúa Trời  sáng láng và Chí Thánh, bay từ hữu hạn đến vô hạn, bay từ khi thiên địa mới “Ra đời” đến ngày chung thẩm… Qua nhiều năm tôi đã đọc, hát, nghe nhạc, thưởng thức hợp xướng, xem phim, diễn ca vũ… để cảm nhận thơ Hàn Mặc Tử, nhưng tôi cũng nhận mình bất lực trước một dòng thi văn đi ra «Ngoài vũ trụ» như thế! Tôi đã đọc ít nhiều tác giả viết về tiên sinh thi nhân, và tôi thiết nghĩ hầu như mỗi tác giả cũng chỉ nói lên mỗi cung bậc trong nguồn thơ và hồn thơ bao la vô tận nầy… tôi cũng đọc những trang Kinh Thánh, những lời kinh, có ảnh hưởng tới dòng thơ Đạo cách chung và niềm tin kitô-giáo của tiên sinh.
Nhân kỷ niệm 70 năm ngày mất của thi nhân (ngày 11.11.1940 - 2010), tôi xin thắp nén hương tưởng nhớ một người thơ tài hoa, Ra Đi khi còn quá trẻ, (28 tuổi), nhưng đã để lại cho trần thế những dòng thơ ướp đầy hương thơm; người viết đây xin mạo muội diễn tả chút đỉnh về Đời, nghệ thuật thơ và chất Đạo trong dòng thơ cầu nguyện của thi nhân, để tỏ lòng mộ mến thán phục. Thế nhưng, tôi cũng cảm thấy đã lạc vào cõi siêu linh, huyền bí, hư hư thực thực, một vũ trụ mênh mông, một hồn thơ siêu thoát đã bay thật, và bay thật xa, thi nhân bay đến với Nguồn Trăng, Nguồn Thơm, Nguồn Thơ, sống và hớp lấy Ngưồn “Thượng Thanh  Khí ”| ngập tràn trong ánh sáng nguyện cầu mà chính tác gỉả đã thảng thốt:
“Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang".                                          (Ave Maria)
Ước gì nén hương nầy cùng thắp lên, đồng rung cảm với bao nhiêu người ái mộ thi nhân trong dịp Kỷ niệm 70 năm qua đời (1940-2010), hầu vinh danh Người Thơ Nguyễn Trọng Trí - Hàn Mặc Tử trên thi đàn văn học Việt Nam và đã trở nên bất diệt, toả sáng niềm tin mà thi nhân đã sáng tạo từ hơi thở, huyết mạch, trong sự nghiệp đời và thơ.                                                                                            
CUỘC ĐỜI NHÀ THƠ
1- THỜI NIÊN THIẾU:
Hàn Mặc Tử sinh ra trong một gia đình công giáo xứ Lệ Mỹ, Quảng Bình vào ngày 22/9/1912. Thân sinh ông Vinh sơn Nguyễn Văn Toản và bà Maria Nguyễn Thị Duy vui mừng nghe tiếng khóc chào đời của người con thứ tư (Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí, sau nầy có thêm Tín và Hiếu). Ba hôm sau, ngày 25./9/1912 tiếng chuông nhà thờ họ đạo Tam Tòa ngân vang hòa với tiếng sóng biển Đồng Hới chào mừng em bé Phanxicô* chịu phép Thanh Tẩy (1). Người đỡ đầu là Phanxicô thầy Thông Hài. Giáo xứ Tam Tòa được thành lập từ năm 1886.
Thân phụ của Nguyễn Trọng Trí thuộc dòng họ Phạm, ông cố là Phạm Nhương, ông nội là Phạm Bồi, có liên quan quốc sự, chạy trốn vào Thừa Thiên, trú tại làng Thanh Tân, đổi thành họ Nguyễn. Thân mẫu thuộc dòng dõi nổi tiếng, bà là con thứ chín của cụ Ngự y Nguyễn Long dưới triều Vua Tự Đức (2). Dòng họ hai bên là những người tốt, ngoan đạo đã thể hiện khả năng phục vụ đất nước trong vai trò của những người công dân hữu ích cho gia đình, xã hội và giáo hội. Trong di sản chung của dòng họ, cậu bé Trí được giáo dục bởi cha mẹ theo niềm tin kitô-giáo, môi trường xứ đạo nề nếp, có tổ chức; Nguyễn Trọng Trí ngoan, sốt sắng, thông minh. Tuổi nhỏ em theo gia đình trên bước đường công vụ của thân phụ, hầu như đó là những vùng đất thiên nhiên chan hoà sóng biển, Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn (1921), Bồng Sơn (1922-1923)... Anh chị em trong gia đình có thói quen đi lễ từ sáng sớm. Chiều tối, màn đêm bao phủ không gian, gia đình quây quần đọc kinh, lần chuổi Mân Côi, trò chuyện. Đây là một điểm son trong các gia đình công giáo quan tâm đến đời sống đạo, nhờ đó các thành viên trong gia đình gắn bó, yêu thương gần gũi nhau và lớn lên trong đức tin. Tại Quy Nhơn, Cha Thiềng thấy cậu bé dỉnh ngộ, tinh khôi, chăm học giáo lý, Ngài muốn đỡ đầu để Nguyễn Trọng Trí đi tu... Nhưng thơ văn mới chính là nghiệp của Trí. Tuy nhiên,  đức thanh khiết công giáo là đoá hoa quý được chú bé Trọng Trí nâng niu, trân trọng, giữ gìn từ niên thiếu cho đến cuối đời, tư tưởng, lời nói luôn ánh lên sự chân thành, đơn sơ. Có thể ví Nguyễn Trọng Trí như đóa hoa kín đáo, từ tốn, sâu lắng và khiêm nhường,… Sau này, trong sự nghiệp thi ca, Hàn Mặc Tử đã để lại rất nhiều bài thơ thơm nức mùi đạo hạnh toát ra từ nội tâm sâu xa và cũng rất đơn thành trong dòng thơ của mình. (3)

Tháng 7/1926, bệnh viên Huế lặng lẽ mang đi vĩnh viễn người phụ thân quý mến. Biến cố đau buồn đó đóng khép đời hoa niên của Nguyễn Trọng Trí. Trên đôi vai gầy yếu của mẹ, với trái tim yêu thương, thân mẫu anh can đảm gánh lấy trách nhiệm gia đình, bà  giáo dục con cái lưu tâm đến việc học và tương lai của các con.
Niên khóa 1928-1930, bà gởi Nguyễn Trọng Trí ra Huế học trường Pellerin, một trường  thuộc dòng Lasan có uy tín ở kinh đô, Huế. Các sư huynh Thiện giáo là những bậc thầy có kỹ năng và kinh nghiệm trong việc giáo dục, đào tạo. Môn học giáo lý Công giáo là giờ bắt buộc hàng tuần theo nội quy trường. Cậu không thích học toán, mà chỉ thích môn văn. Nhưng chỉ được hơn một năm sau, cậu thiếu niên Nguyễn Trọng Trí phải trở lại Quy Nhơn với mẹ. Thời gian này, một biến cố in đậm nét suốt đời anh, trong một lần đi tắm biển Quy Nhơn anh suýt chết đuối, sau sự việc ấy, con người anh thay đổi nhiều. Theo Nguyễn Bá Tín, người em thuật lại thì: Đức Mẹ Maria đã ra tay nhân từ cứu vớt anh chăng! Biến cố ghi đậm nét suốt đời anh, và thay đổi con người anh, anh suýt chết đuối ở bãi biển Quy Nhơn.“ Anh Trí đuối sức bị ngất đi phải nằm ngửa cho sóng đẩy vào bờ. Trông anh sợ hãi khác thường, thần sắc ngơ ngác như không trông thấy gì nữa. Anh lẩm bẩm nghe như Đức Mẹ, Đức Mẹ... Tôi tưởng anh cầu nguyện. Trông anh khác lạ đi, nhìn anh tôi càng hoảng sợ... Từ ngày đó, anh không tắm biển nữa, sợ nước, ít hoạt động, nói năng nhỏ nhẹ như có ai nghe. Anh thu mình lại, sống nội tâm, trầm mặc xa vắng”… (4). Anh đã ghi lại những kỷ niệm này bằng những dòng thơ bất hủ, sửng sốt, và cũng rất nồng nàn tha thiết.
“Maria! linh hồn tôi ớn  lạnh.
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng...
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến”
(Avê Maria)
Phải chăng Nguyễn Trọng Trí «ÐÃ THOÁT HỒN NGOÀI XÁC»? Linh mục Trần Cao Tường qua trang Dũng Lạc,” Những huyền bí bên kia cõi chết qua hiện tượng Hàn Măc Tử”, tác giả tìm hiểu và đưa ra trường hợp của Jim: “Hàn Mặc Tử đã thấy gì hôm đó? Trong “Ánh Sáng Biến Ðổi” bác sĩ Morse thuật lại một truyện xảy ra của Jim cũng suýt chết đuối ở bờ biển California y như trường hợp Hàn Mặc Tử, mà ông gọi là “fear death” (chết vì quá sợ): “Khi thấy càng bị đẩy xa bờ hơn, tôi quá sợ hãi, và càng đạp mạnh hơn. Bỗng tôi thấy mình bay lên trên không khí nhìn xuống tôi đang bơi, giống như có hai cặp mắt cùng nối vào một óc... Rồi tôi được tràn ngập bởi một nguồn sáng, như mây bao phủ quanh tôi. Tôi thấy thích thú... Bỗng tôi trở lại thân xác tôi. Tôi nghĩ rằng tất cả cảm nghiệm này kéo dài khoảng một phút.” 
Ánh sáng trong trường hợp Hàn Mặc Tử ở bờ biển Qui Nhơn được biểu hiện là chính Ðức Maria, mà sau này được người em là Nguyễn Bá Tín đã ghi lại như trình bày ở trên, trong bài: Avê Maria, Thánh Nữ Ðồng Trinh Maria (5). 
2. THÀNH NHÂN
2.1. Nguyễn Trọng Trí thời niên thiếu theo Nguyễn Bá Tín ghi nhận về người anh của mình : có nhiều đam mê như bắn ná, quyền anh, bơi lội, đọc sách... Nhưng rồi anh đã giã từ chúng rất sớm và vĩnh viễn dừng lại nơi thi văn cho đến lúc người thơ anh hao tàn. Tài năng thơ của Nguyễn Trọng Trí được người anh cả Nguyễn Bá Nhân (hiệu là Mộng Châu) phát hiện từ rất sớm, hai anh em đã có dịp đối thơ với nhau rất tâm đắc. Khoảng 14-15 tuổi anh đã viết «Chơi giữa mùa trăng» đó là một tác phẩm văn xuôi về thiên nhiên tuyệt vời.
Những năm cả nước hướng về cụ Phan Bội Châu, nhà chí sĩ yêu tự do dân tộc, đang bị Pháp cho lưu trú ở Bến Ngự (Huế). Với “Mộng Du thi xã“, Cụ tổ chức nhưng cuộc thi họa thơ trên báo, và bài thơ «Thức khuya» của Phong Trần (bút hiệu của Nguyễn Trọng Trí) đã được Cụ khen ngợi, cũng như ước ao “Hồng Nam Nhạn Bắc“ có ngày gặp nhau, bắt tay cười lớn một tiếng cho hả lòng mong ước... Nguyễn Trọng Trí nổi tiếng vào thời kỳ đó (1930…). Thế nhưng, anh bị gạch tên khỏi danh sách những người đi Pháp du học, do anh đã ”chơi thân” với nhà chí sĩ họ Phan. 
Năm 1932, Nguyễn Trọng Trí làm thơ ký tại sở Đạc điền Quy Nhơn, anh thường lui tới hội quán và đọc rất nhiều sách. Anh quen và trở nên tâm giao với nhà thơ Quách Tấn, thỉnh thoảng lên Đà lạt chơi. Thi phẩm «Đà Lạt trăng mờ» được sáng tác trong giai đoạn nầy. Bài thơ đã được dệt thành nhạc nỗi tiếng bởi nhiều nghệ sĩ tài danh. Vào thời gian nầy, Anh cũng được mời làm giám khảo một cuộc thi thơ tại trường Quốc Học Quy Nhơn.

Năm 1934-1936, Anh vào Sài Gòn làm báo, làm thơ, cuộc đời đem đến cho anh nhiều thành công, tình yêu, bè bạn; nhưng đời không mĩm cười với anh bao nhiêu, cuộc sống của anh đơn nghèo và đơn giản, trong thời gian phiêu bạt làm báo tại Sài gòn. Khi anh nổi tiếng, có nhiều người yêu anh và thơ của anh. Thơ phong phú, tình đào hoa, cả hai đều đến với anh một lượt. Anh có nhiều người tình, mối tình nào cũng tha thiết diết da, nhưng hình như tình là để trao đổi thơ văn, chứ không đi đến cùng, khi anh bị bệnh (!) anh đau khổ vì bệnh phong nan y, bệnh nầy trước đây làm cho nhiều ngưòi hãi sợ, bị xã hội xa lánh… Người tình Mộng Cầm, người đã từng gắn bó với anh, sang ngang: «Nhớ thôi lòng những sầu bi, Lệ rơi vào rượu hàng mi lờ đờ», rồi anh cũng dần dần xa các mối tình khác vì nhiều lý do… như Hoàng Cúc, Mai Đình, Thương Thương,… Anh ước mơ người đẹp kín đáo, cổ điển: «kính nhi viễn chi» hay «thư trung hữu mỹ nữ». Mối tình đầu của anh với Hoàng Hoa, rất đẹp, rất nên thơ, nhưng đã không vượt qua được vì vấn đề «lễ giáo»
… Mà anh hay em trong tim đều rạn
Dầu chôn sâu hình ảnh một người mơ. (Đôi ta)
Khăn áo hôm nay tề chỉnh quá.
Muốn ôm hồn cúc ở trong sương. (Hồn Cúc)
Những năm làm báo tại Sài Gòn, sống tự do phóng khoáng, xa gia đình; bè bạn muốn lôi kéo anh vào lối sống dễ dãi ăn chơi nơi đô thị phồn hoa. Không ít câu thơ của anh mang tính nghệ thuật tả chân, thật tài tình: 
Vô tình để gió hôn lên má
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
Em sợ lang quân em biết được
Nghi ngờ đến cái tiết trinh em.
(Bẽn lẽn)
Những dòng thơ dè dặt, giữ khoảng cách với những gì trải ra trước mắt, nhiều câu thơ diễn tả sự giằng co nội tâm với những mối tình:  
Vườn chói lọi thì tình yêu phải ngợp
Tiết trinh còn, em phúc hậu hơn thơ
Tôi nín lặng âu là tôi mắc cỡ... (Dấu tích)
những người yêu đến với anh, với những cám dỗ mời gọi… Thế nhưng anh «không»  vào được, nhà thơ thật thà viết :
Hồn tôi mắc cỡ là vì
Không quen thưởng thức cái gì ngất ngây.
(Say nắng)
Hay: 
Tôi không muốn gặp người tôi yêu,
Có lẽ vì tôi mắc cỡ nhiều…   
(Tôi không muốn gặp)
Anh không theo kịp mối tình Mộng Cầm, người con gái mới, vì một phần khác anh «sợ phạm tội», vì con người anh, tư tưởng anh rất mẫn cảm trước các ân huệ của Chúa và sợ làm mất lòng Chúa... Trước đây 40 hay 50 năm, Việt Nam ta ở trong nền văn hóa Đông Phương, lễ giáo nghiêm khắc, kín đáo, e dè, vấn đề tính dục phái tính ít được bàn đến, ngay đến các nhà giáo dục, bậc phụ huynh cũng tìm cách tránh né, nam nữ giao thiệp với nhau vẫn giữ khoảng cách tế nhị “nam nữ thụ thụ bất thân”. Tuổi thanh niên sống xa gia đình, nhiều bè bạn, môi trường hoạt động tự do rộng rãi, «nếu anh không có một căn bản giáo dục vững chắc, cộng với sự nghiêng ngửa của chứng bệnh tâm thần, anh có thể trở thành kẻ đói khát tình dục mà hậu quả khó có thể đo lường được“.  Mối tình của anh với Mộng Cầm say đắm thiết tha, khi đã chia tay nhau thì thật khổ luỵ, anh Trí thất vọng, mặc cảm, cô đơn và tràn xót xa:  Thương nhớ về một tình yêu đổ vở, lời thơ đau khổ rơi nước mắt:         
"Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi?
Bao giờ tôi hết được yêu vì,
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tợ sỉ"         
(Những Giọt Lệ)
Ta lau nước mắt, mắt không ráo
Ta lấy tình nương rủa biệt ly     
(Tình thu)
Mặc dầu giữa anh và Mộng Cầm có tình yêu tha thiết, đã có những buổi hò hẹn khá lãng mạn, anh đi khứ hồi từ Sàigòn ra Phan Thiết để gặp Mộng Cầm… nhưng, sau này Mộng Cầm cũng xác nhận: “Chúng tôi rất mến nhau. Nhưng đó là mối tình thơ văn, còn xác thịt thì hoàn toàn không nghĩ tới, cha mẹ đã cho giao thiệp tự do, chúng tôi phải giữ gìn cho xứng đáng“. (6b)
Một trang thanh niên tài hoa, thơ văn dào dạt, tình yêu nồng thắm, cuộc sống phóng khoáng tự do, nhưng một đường ranh vô hình nào đó, một động lực vô hình nào đó đã giữ gìn ấp yêu vây bọc anh, để anh không rơi vào tình trạng sa đọa
… Hoàng Trọng Miên, trong một bài báo về sau đã thú nhận: «Có cám dỗ anh Trí vào nếp sống buông thả nhưng tâm hồn anh trinh trắng quá, ngay cả cái Saigòn ăn chơi tội lối nầy cũng không cám dỗ anh sa ngã được» (6b). Phải chăng, anh xứng đáng với cái tên rất đẹp, rất thơ mà Nguyễn Thụy Kha viết về anh qua tác phẩm “Hàn Mặc Tử, Thi sĩ Đồng Trinh» (Nhà xb Đà nẵng, 1993)  
2.3. Với bạn bè, anh cởi mở, thân mật, chan hoà chia sẻ những gì anh có, vật chất lẫn tinh thần. Anh nhận mình là nhà thơ nghèo, thanh bạch, đồ đệ Mặc Dịch. Hàn Mặc Tử là người có sức quy tụ điều hoà và thắt chặt tình bằng hữu giữa các anh em; anh sống chân thành, tuy anh đã sớm giã từ thế trần nầy nhưng vị trí anh không mờ nhạt trong tâm hồn các bạn. Có chút gì hoặc lương hằng tháng anh chia sẻ với bạn bè cách chan hòa, vô vị lợi. Nhóm bạn anh đã sống tình bạn đậm đà theo tinh thần Khổng Tử; «người quân tử nhờ văn chương học vấn mà hội họp bạn bè và nhờ bạn bè mà tiến lên đức nhân - Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phu nhân». Những tâm hồn thiện chí. những tài năng sáng tạo, bạn bè cảm thông  nhau «tri âm - tri kỷ», trung thành hoà nhập, thủy chung liên kết với nhau, giúp nhau tiến lên trên đường thi văn, sự nghiệp. Bây giờ, nhóm  thơ Bình Định hay nhóm «Tứ linh» trong họ đã lần lượt ra đi hết: (Hàn Mặc Tử - 1940, Chế Lan Viên - 1989, Quách Tấn - 1992, Yến Lan - 1998)…, nhưng hương thơm bè bạn giữa họ vẫn vây bọc lấy nhau, đến đỗi khi nhắc đến một người trong họ, ta lại liên tưởng đến mối tình quý hiếm bất diệt của nhóm thơ đó. Thế nhưng, khi anh biết  mình phát bệnh, anh đau khổ lẫn tránh bạn bè, sợ làm phiền, và mặc cảm,… chính vì vậy mà anh rất cô đơn. Anh cô đơn không chỉ vì bệnh và vì thiếu bạn (thơ), xa người thân, trong thời gian phải  trốn lánh chổ nầy sang chổ kia.
Sao trìu mến thân yêu đâu vắng cả
Trơ vơ buồn và không biết kêu ai?
Về sau, qua trao đổi thư từ, khi nhận được thư hay sự giúp đỡ của bạn thì anh rất vui, cái vui hồn nhiên, bộc lộ trong đơn sơ, chia sẻ buồn vui chân tình. Như khi phải nhận sự giúp đỡ của Quách Tấn, anh thấy khó xử, viết thư hỏi ý bạn là Trần Thanh Địch. Khi Quách Tấn gởi tiền để làm thuốc tể, anh cũng vui mừng tin cho bạn hay (7a). Bạn bè chiếm một chổ đứng rất quan trọng trong cuộc đời của anh. Anh cần bạn để tri kỷ và để trao gởi niềm bí ẩn. Anh sống không thể không có bạn! Thật vậy, tình bạn của anh được đáp trả… Sau khi Anh qua đời năm 1940, bạn bè anh đã viết những tâm tình xúc động! Chế Lan Viên không ngớt khẳng định: «Tử là một thiên tài. Tử mới chính thật là thiên tài…» (7b) Những cảm xúc, những lời khen tặng chân thành, như khóc người bạn quý thương, kho báu của mối tình bạn keo sơn trong nhóm họ.
3. BỆNH VÀ QUA ĐỜI:
3.1 Hàn Mặc Tử bị bệnh vào năm 1936, lúc còn quá trẻ, mới 24 xuân. Thời gian đầu chưa phát hiện là bệnh gì, gia đình, nhất là người mẹ đã hết sức tận tình chăm chút con, nghe đâu có thầy hay thuốc tốt, bà đều đem con đến, nhưng chỉ gặp tia hy vọng rất mỏng manh, anh buồn phiền, hoảng hốt, tinh thần chao đảo, tiều tuỵ, đau nhức, anh rên siết:
Tôi đã cấu đã cào nhai ngấu nghiến!
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên... 
(Hồn là ai?)
Do việc chạy chữa, anh phải di chuyển, lánh đí từ chỗ này sang chỗ khác (1937-1939), Tâm trạng anh biến đổi qua thơ văn, nửa mơ nửa thực, khi đau đớn, lúc như xuất thần, làm thơ hay đọc kinh, cô liêu trên bãi vắng, đơn độc trong thôn xóm quạnh hiu, hay tủi thầm trong canh khuya lúc cả nhà đã yên giấc, anh đã hoảng sợ, như có hình ảnh ma quái chết chóc bám sát anh:
Chao ôi! ghê quá! ôi ghê quá!
Cảm thấy, hồn tôi ớn lạnh rồi!
Càng về sau, mặc dầu đang ở trong biển sầu đắng đó, nhưng anh đã gặp lại được chiếc phao niềm tin, ánh sáng của vầng trăng dịu dàng anh vẫn say mê đang dìu anh êm êm lướt sóng, bình an và thanh thản, những cơn đau đã làm anh có cơ hội tiến sâu vào lãnh vực siêu thực mà chỉ mình anh mới cảm nhận được... Bài “Chơi trên trăng“ là con đường được mở ra từ “trong ánh sương mờ“ anh chếnh choáng đi tìm “con trăng lạc”. Hạnh phúc, sức khỏe, sự nghiệp không còn ở trong tầm tay với, nhưng thật sự anh đã bước một bước mạo hiểm... vào xứ tràn ngập gió mây mà “không trào nước mắt, không thảm thê buồn” vì anh “đã nhập hồn mình trong khúc hát để nhờ không khí đẩy lên trăng”.
3.2 Yêu mến Maria, Mẹ đồng trinh: Bài «Avê Maria - Thánh Nữ Đồng Trinh», bài tụng thi dài nhất trong dòng thơ của anh. Đức Maria đã vào đời anh như một vầng trăng tuyệt vời, là Nguồn trăng dịu dàng đã dìu anh đi trên giông bão cuộc đời anh. Chính anh muốn «Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm» để thơ anh tinh tuyền dâng Mẹ đồng trinh. Những người bạn nghe Hàn Mặc Tử ngâm lên bài Avê Maria thì hầu như thấy anh, ở một trạng thái đê mê, xuất thần.
Những năm cuối đời, nhất là lúc đã phát bệnh, đau đớn tột cùng, nhưng dần dần anh đón nhận bệnh hoạn, kiên trì chạy chữa, hy vọng rồi thất vọng, lành bệnh chỉ là mong manh… Anh đón nhận ý Chúa, lãnh lấy thập giá, cơn đau bệnh hoạn, thông phần vào ơn cứu rỗi đời mình trong kiên vững của niềm tin. Nguyễn Bá Tín đã ghi lại như sau: «Thấy anh thích nguyện ngắm, tôi trao cho anh tập sách nhỏ tựa đề: «Imitation de Jésus Christ của Linh mục Lamennais, anh vui mừng như bắt được của, Nhất là khi đọc câu: Dieu seul sait le temps et la manière là vous délivrer, anh hớn hở lạ thường. Anh nói:  Đúng rồi, chỉ có Chúa mới biết được lúc nào và bằng cách nào để giải thoát cho con. Từ đó, anh gia tâm cầu nguyện gắn bó tha thiết hơn». (8)
Tràng chuỗi Mân Côi luôn có bên mình, anh kín đáo để tay trong túi áo mà lần hạt, đọc kinh hay ngâm thơ, lần hạt mỗi ngày nhiều lần. Phải chăng, niềm hy vọng, nguồn trợ lực của anh chính là Đức Trinh Nữ Maria, tràng hạt Mân Côi trong túi áo, mân mê nơi bàn tay co quắp, nhắc nhở người bệnh là con của Mẹ Maria, dâng «chuỗi ngọc» để yêu mến Người, cảm tạ Người… bàn tay khô khẳng đau đớn ấy có nhiều lúc cũng đã không giữ được tràng chuổi!
Bài Avê Maria là bài thơ ưng ý nhất của anh, lời kinh Avê Maria chào kính Mẹ Việt Nam, do anh sáng tác để tỏ lòng ngưỡng mộ mến yêu Mẹ với chuổi hạt kinh lần, là chuổi ngọc vàng kinh, bằng Sao Mai chói rạng… Bài thơ dài nhất trong thi phẩm thơ của anh mở đầu: «Như Song lộc triều nguyên ơn phước cả», rất trang trọng, uy nghi, cho đến Mầu nhiệm trọng đại trong cuộc đời Mẹ: biến cố Nhập Thể - Ra đời rất trọng vọng: Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel, Khi Người xuống truyền Tin cho Thánh Nữ, và kết thúc bằng: Nguồn thiêng liêng yêu chuộng Mẹ Sầu Bi». Khi nói đến Mẹ Sầu Bi thì người kitô-giáo nghĩ ngay đến giờ phút Mẹ lặng đứng dưới chân Thánh Giá dâng Chúa Giêsu Con Mẹ làm của lễ chuộc tội thế nhân. Anh đã suy niệm cách sâu sắc, trong thầm lặng yêu mến cuộc đời của Mẹ Maria để có thể viết lên những tâm tình trong trắng, sáng láng «Bằng Tràng hạt bằng Sao Mai chiếu rạng» như thế!
Năm 1940, anh vào trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn, Bình Định), anh thâm tín cách sâu xa: “đều là vâng theo thánh ý cả”. Anh sống ở đây chỉ hơn hai tháng. Anh rất bình an, hạnh phúc, cảnh trời biển bao la tĩnh lặng, hợp với người thơ của anh. Mỗi ngày đọc kinh và chầu Mình Thánh Chúa vào buổi chiều, hạnh phúc lãnh nhận Bí tích Thánh Thể mỗi tuần vài lần, tâm hồn anh sốt sắng cảm động, anh đã viết những vần thơ sốt sắng:
Đây tất cả, hỡi ôi, Mình Thánh Chúa,
Của tế lễ là nguồn thương chan chứa
Đáng trọng thiêng và rất đáng mong ơn.
Ly tao rằng đàn ngọc cũng theo đờn
Bởi đạo hạnh rung muôn dây tình cảm.
(Say thơ)

Bình an trong ân sủng và niềm tin, anh vui vẻ sống chan hoà với những người đồng bệnh, biết ơn đối với những nữ tu săn sóc anh. Anh nhớ bạn bè và nhất là người mẹ đang đau khổ cùng đứa con yếu đuối bệnh hoạn nầy… Anh an tĩnh chuẩn bị hành trình về “Nước Cha cả có vô vàn châu báu”, anh gieo vào bạn bè ý tưởng siêu thoát rất thơ và cũng là chân lý, chết: “đó là ngưỡng cửa phải bước qua để đi vào cõi vĩnh hằng“. Như linh cảm mình không còn sống được bao lâu trong thung lũng sầu đau nầy nữa, trước khi chết anh đã viết cho mẹ dòng thư đứt ruột qua (Thủ bút) «A maman de Quy Nhơn. Viết mấy hàng chữ nầy để lạy từ tạ mẹ.  Con bất hiếu. Trí».(9)
Anh tin rằng anh sẽ về neo Bến Hằng Sống, cuộc hành trình tuy gần mà xa, xa mà gần gũi, anh xin những người xung quanh cầu nguyện; lạc quan tin tưởng phó dâng vào tình yêu Thiên Chúa. Bài “La Pureté de l'âme“, ca tụng những thiên thần trần thế, những nữ tu Dòng Phanxicô đang phục vụ trong bệnh viện phong, bài thơ ngập trong điệu nhạc và hương hoa, anh viết những tâm tình chân thành tự đáy lòng tràn ngập sự biết ơn và nhận ra được những ân huệ mà anh và những người đồng bệnh đón nhận mỗi ngày qua các «thiên thần hữu hình» thánh thiện đó. Niềm tri ân được bộc lộ, tràn lên trang giấy đã úa màu trong thể trạng bệnh tật, nơi ở là chốn cách ly với thế giới «người lành»… Lời tri ân trong bài viết ấy, anh biểu tỏ một nhân cách trưởng thành phong phú; đón nhận ơn trời, cuộc sống; nhìn thẳng đau khổ và chấp nhận cái chết với ánh sáng niềm tin Kitô giáo dọi soi. Chết chưa là tận cùng mà là khởi đầu vinh quang là cánh cửa mở vào sự sống thiên thu, vĩnh hằng. Đời, Đạo và Niềm tin trong người thơ Hàn Mặc Tử là một, hoà nhập thành thân thể máu huyết… Hơi thở của anh cũng là thơ văn, là lời cầu nguyện, là đức tin. Đức tin đã tạo nên thơ, chắp cánh cho nghệ thuật, tạo nên vẻ đẹp trong thơ anh. Anh lặng chìm vào Đạo như cá nhởn nhơ trong nước, tan biến như hạt muối hoà vào đại dương. Những ngày cuối  đời anh, anh phải bị kiết lỵ, thân thể tiều tụy, kiệt sức cho đến khi «hồn lìa xác». Ngày nay, các bác sĩ đưa ra nhận xét, bệnh nhân Nguyễn Trọng Trí có thể đã không chết vì bệnh phong (!). «Anh ấy bị nội tạng hư hỏng. Các «độc tố» mạnh… do các thầy lang băm đã giết anh «(Ces charlatans l’ ont tué). Sau này, có dịp đi thực tế tại khu điều trị bệnh phong Quy Hòa (1993), bác sĩ Phan Cao Toại, đang làm việc tại đó, cũng có ý kiến như trên: «HMT không chết vì bệnh phong».( 10)
 3.3 Qua đời: Ngày 11/11/1940 chuông nguyện thánh đường của khu điều trị bệnh phong Quy Hòa rơi từng giọt buồn đưa tiễn linh hồn anh. Anh được chôn cất giữa những người đồng bệnh. Cây thánh giá gỗ khiêm tốn phủ bóng lên ngôi mộ anh. Anh nằm đó như hạt lúa gieo vào lòng đất đợi ngày trổ sinh bông hạt. Thế là Phượng Hoàng - Hàn Mặc Tử đã bay, bay vào Mùa Xuân bất tận mà anh đã từng chiêm ngưỡng trong những phút xuất thần. 
Năm 1959, gia đình anh đã đến nghĩa trang bệnh viện phong Quy Hoà, lấy hài cốt, đưa anh lên Ghềnh Ráng, đặt mộ thi nhân trên cao đó, nhìn ra biển đông… trên mộ  thi nhân, hình ảnh Đức Mẹ ban ơn đưa tay che chở anh, ảnh thánh  Maria mà anh ước ao lúc còn sống (11). 
4. Sự nghiệp thơ của Hàn Mặc Tử:

Nhiều tên hiệu, bút danh: Minh Duệ Thị, Lệ Thanh, Phong Trần, cuối cùng là Hàn Mặc Tử.
Nhiều bài Thơ Đường luật - Lệ Thanh thi tập
- Chơi giữa mùa trăng
- 1930: Xuất bản tập thơ đầu tiên: Gái Quê
- 1937: Thơ Điên
- 1939: Xuân Như Ý
- 1940: Thượng Thanh Khí
- Cẩm châu duyên, hai kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần Tiên hội (sau nầy Đơn Phương - cũng là một bệnh nhân phong đã hoàn tất 2 tác phẩm đó rất thành công)
- Viết trên các báo: Phụ nữ Tân văn - Thực nghiệp Dân báo - Sài gòn - Công luận văn chương - Người Mới - Tân thời - Trong khuê phòng, với nhiều đề tài khác nhau…
- Nhiều bài giới thiệu thơ của các bạn trong nhóm Thơ Bình Định. 
Thơ và các bài viết của Hàn Mặc Tử luôn là những nguồn thơ sâu sắc, thắm đẳm tình quê, tình yêu, tình bạn, thơ đời, thơ đạo… được sáng tạo, bằng Máu và Hồn, Hương Thơm và Mật Đắng, Đời và Đạo, Đau khổ và Hạnh Phước, Trần ai và Siêu thoát…
Hàn Mặc Tử luôn là vấn đề được đặt ra cho những người muốn tìm hiểu, nghiên cứu về một dòng thơ lạ lấp lánh cái Đẹp như trăng sao tinh tú , cái Đẹp của Chân - Thiện - Mỹ đáng tìm kiếm và ước mơ.
Theo Thi sĩ Linh mục Trăng Thập Tự, tôi viết tặng thi nhân vần thơ mọn khi thi nhân đã được tôn vinh trong dòng thơ dân tộc, dịp 70 năm ngày Phanxicô Nguyễn Trọng Trí - Hàn Mặc Tử  đi  về miền có vô vàn châu báu mà thi nhân đã bao lần ngưỡng vọng.
Hàn Mặc Tử con trăng nằm yên nghĩ,
“Vầng dưong lên trăng theo gió hiển linh ”
Phượng Trì đài lung linh hình dáng Mẹ
Hồn thơ say nép áo Mẹ Đồng Trinh.
                                                    
Tài liệu tham khảo:
1. Sổ rửa tội của họ đạo Tam Tòa. Hồ sơ lưu của Gx Tam Tòa, Gp Đà nẵng.
2.3.4.5.6a Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử, Anh tôi, trang 24-26, 43. 47.58 .102. 114- 115, 118. 124. 44 -  xb 1994, Xí nghiệp Quận 5, Tân Thành, Tp HCM
6b. Châu Hãi Kỳ, Văn 1967, tập 2, trang 77.
7a. Trần Thanh Mại: Hàn Mặc Tử, trang 86 - 87,Nhà in TânViệt  in lần 3, 1957 
7b. Nguyễn Toàn Thắng, HMT và nhóm thơ Bình Định, tr. 10, NXB/GD, 2007
8. Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử trong riêng tư, trang 91, HNVXB, 1994 
9. Thế Phong, Hàn Mạc Tử - Nhà thơ siêu thoát, NXB Đồng Nai, 1998 
10. Nguyễn Bá Tín, HMT Anh tôi, trang 134
11. Nguyễn Bá Tín, sđd, tr. 171-172
12. Nguyễn Thị Tuyệt, Tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử, ĐHTH Huế, 1994
13. TS Tôn Thảo Miên, HMT Tác phẩm và lời bìmh, Nhà xb Văn học, 2007.
15/6/2012
Nguyễn Thị Tuyệt 
Theo https://hoaxuongrong.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...