Rỡ mình lạ vẻ cân đai,
Hai câu thơ tả vẻ đẹp, vẻ oai nghi của Từ Hải ngày gặp
lại Kiều.
Đọc câu thơ, người đọc không khỏi băn khoăn bởi “hàm én” thì
rõ rồi, đúng là để tả tướng mạo khách anh hùng, riêng chữ “mày ngài” thì
lạ quá! Ba lần chữ “mày ngài” xuất hiện trong Truyện Kiều thì hai lần để tả Từ
Hải và một lần… để chỉ gái buôn hương.
Một từ sao lại dùng tả tướng mạo hai đối tượng khác biệt nhau
rất xa? Một là vẻ oai nghi của võ tướng; hai lại dùng chỉ kỹ nữ.
Chỗ khúc mắc xin lý giải như sau:
Điều có thể khẳng định là chữ “mày ngài” Nguyễn Du
dùng tuy có nguồn gốc từ chữ Hán nhưng không phải từ một chữ mà 2 chữ khác
nhau.
A/ "MÀY NGÀI" DÙNG TẢ DUNG MẠO TỪ HẢI:
“… Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”
và:
“… Rỡ mình lạ vẻ cân đai,
Hãy còn hàm én mày ngài như xưa”
1/ “Mày ngài” trong hai đoạn thơ trên xuất phát từ ngọa tàm mi.
“Ngọa tàm mi” là lông mày hình con tằm
ngủ?
Nếu chỉ xem nghĩa của từ hợp thành thì ngọa tàm là
con sâu tằm nằm (tàm蠶: con sâu tằm); ngọa tàm mi nghĩa là lông mày giống
hình như con sâu tằm ngủ (1). Gần trăm năm nay, nhiều nhà nghiên cứu Truyện Kiều
như Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Phạm Kim Chi, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn
Thạch Giang, Nguyễn Huệ Chi… cũng đã từng giải thích chữ “mày ngài” theo
lối định danh này; riêng An Chi trên chuyên mục Chuyện Đông chuyện Tây, tạp
chí Kiến thức Ngày nay số 117 và 565 thì ngược lại, đã phủ nhận các
lý giải trên như sau:
“Ngọa tàm mi tuyệt đối không có nghĩa là “lông mày con tằm nằm”.
Sở dĩ các nhà chú giải của ta cứ ngỡ và giảng như thế là vì họ chưa tìm hiểu
cái cấu trúc đang xét cho đến tận ngọn nguồn. Lời dẫn của Phạm Kim Chi (“Diện
như mãn nguyệt mi nhược ngoạ tàm”), ghi là lấy ở Tướng thư, thì chẳng qua chỉ
là chép lại lời dịch câu “khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” sang tiếng Hán
trong bản Kiều Oánh Mậu 1902 chứ chẳng phải của sách “tướng thư tướng tịch” nào
cả. Đến như hai tiếng tàm my (mày tằm), mà Nguyễn Thạch Giang đưa ra trong Truyện
Kiều (chú thích và khảo đính) năm 1973, chẳng qua chỉ là một sự dịch ngược tuỳ
tiện. Dĩ nhiên là ai kia có thể gặp may mà thấy được hai chữ tàm mi ở một chỗ
nào đó, nhưng đây chỉ là một từ tổ tự do nên chỉ thuộc về lời nói chứ đâu có phải
là một đơn vị cố định của ngôn ngữ.”
An Chi viết như trên quả là vì Truyện Thúy Kiều của
Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim (1925) có giải thích “Khuôn trăng đầy đặn nét
ngài nở nang” là xuất phát từ câu văn trong sách Tướng thư: “Diện như mãn nguyệt
mi nhược ngọa tàm 面 如 滿 月 眉 若 臥 蠶: mặt như mặt trăng tròn mà lông mi
như con tằm nằm ngang. Đây nói cái tướng phúc hậu của cô Vân”.
Giải thích trên của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim cũng như của nhiều
nhà nghiên cứu Truyện Kiều về sau như Đào Duy Anh, Phạm Kim Chi, Nguyễn Thạch
Giang, Nguyễn Huệ Chi… đã căn cứ vào câu văn trong sách xem tướng của Trung Hoa
mà khẳng định nét ngài - mày ngài là xuất phát từ chữ ngọa tàm mi và đây là kiểu lông mi hình con tằm nằm.
Khi phủ định giải thích này, học giả An Chi đã có phần cực
đoan khi cho rằng… “Diện như mãn nguyệt mi nhược ngọa tàm”, ghi là lấy ở Tướng
thư, thì chẳng qua chỉ là chép lại lời dịch câu “khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở
nang” sang tiếng Hán trong bản Kiều Oánh Mậu 1902 chứ chẳng phải của sách
“tướng thư tướng tịch” nào cả.
Thật sự, ở Trung Quốc có nhiều sách tướng bàn đến các kiểu
lông mày, trong đó có kiểu “ngoạ tàm mi”(2); có sách còn vẽ hình lông mày
đen đậm khởi đầu nhỏ rồi đến phần nhô cao, tiếp đến phần giữa hơi oằn xuống, phần
đuôi sau lại hơi gồ lên rồi nhỏ dần, trông giống hình con sâu tằm đang nằm. Tìm
ở kho sách giấy cũng nhiều nhưng nay tiện nhất là tìm ở các trang điện tử của
Trung Quốc bàn về tướng pháp như 成老師-面相學堂 Thành Lão sư - Diện tướng học
đường (http://www.tiger168.com); 面相學之吉凶概要 Diện tướng học chi cát hung
khái yếu (http://www.ccy22723095.com); 济南文眉 - 眉型的分类 Tế Nam văn mi - mi hình đích
phân loại (http://www.cnhszx.com)... Hoặc ví dụ vào trang điện tử 元亨利貞網 - Nguyên
Hanh Lợi Trinh võng (http://www.china95.net), tìm đến mục 看相-眉与性格命运 Khán
tướng - Mi dữ tính cách mệnh vận, sẽ thấy ngay một trang ảnh, kê các
loại tướng lông mày, trong đó có “ngọa tàm mi”. Vào mục ngọa tàm mi sẽ thấy hình vẽ của kiểu lông mày này:
“Khán tướng Mi dữ tính cách mệnh vận” đã kê cả thảy 14 kiểu lông mày:
Nhất tự mi; Tảo trửu mi; Điếu tang mi; Tân nguyệt mi; Bắc đẩu mi; Sư tử mi; Tiêm đao mi; Khinh thanh mi; Ngọa tàm mi; Thụ tâm mi; Liễu diệp mi; Long mi; Quỷ mi; La Hán mi.
Sách tướng nước ta cũng hay bàn về mấy kiểu lông mày quen thuộc như: Mày chữ nhất (nhất tự mi); mày chổi xể (tảo trửu mi); mày lá liễu (liễu diệp mi); mày tằm (ngọa tàm mi)…
* Hình trên, chữ ngọa tàm mi có vòng son đỏ và mũi tên chỉ đến kiểu mày này.
Quan Vũ (Tam Quốc chí) http://www.thefullwiki.org/臥蚕眉
Quan Vũ được tả với kiểu lông mày ngọa tàm mi. Để hình tượng thật rõ hình dạng lông mày giống con sâu tằm: người Trung Quốc đã vẽ lên một con sâu màu xanh nhạt trên lông mày bên phải.
2/ “Ngọa tàm mi” cũng là kiểu lông mày đẹp:
Cũng trong bài viết đã nêu, An Chi cũng viện dẫn giải thích của Từ
nguyên tự điển và Vương Vân Ngũ đại từ điển: “Ngọa tàm mi: Lông mày
cong mà đẹp” để quyết đoán “ngọa tàm mi” chỉ mang ý khẳng định vẻ đẹp của đôi
lông mày.
Điều này nêu chứng cớ sách vở, song có thể đây là trường hợp
của nghĩa phái sinh.
Trong kho từ vựng, một từ mới xuất hiện, ban đầu nó chỉ mang
nghĩa gốc. Lúc này từ có thể chỉ được hiểu theo lối định danh nhưng dần dà theo
thời gian, do nhu cầu biểu ý của cộng đồng, đã phát sinh nhiều nghĩa mới. Chính
điều này đã sinh ra những nhập nhằng trong cách hiểu, dễ sinh ra nhiều ngộ nhận
trong giao tiếp.
Có câu chuyện đứa cháu nhỏ chuyện trò với ông nội 80 tuổi:
- Ông ơi! Ông nhắm mắt lại đi!
- Gì vậy cháu?
- Mẹ bảo ông mà nhắm mắt thì bố sẽ giàu to! (3)
Quả thực từ “nhắm mắt” trong câu nói của mẹ đứa bé đã không
được dùng với nghĩa gốc mà dùng với nghĩa phái sinh. Cái nhập nhằng
về nghĩa của từ đã khiến trẻ con bị nhầm. Thực tế trên thế giới đã có
nhiều trường hợp nghĩa phái sinh phức tạp, oái oăm hơn nhiều và cũng
kèm theo nhiều câu chuyện kể cười ra nước mắt. Nghĩa phái sinh trong
từ ngữ của nhiều dân tộc đôi khi chuyển biến rất xa, qua hàng ngàn năm rồi lấn
át, có khi khiến người ta quên hẳn không còn biết gì đến nghĩa gốc ban đầu, việc
tầm nguyên của nhà biên soạn từ điển có khi chưa chắc đã tìm đến.
Đến đây ta có thể nêu nghi vấn: từ ngọa tàm mi mang
nghĩa lông mày đẹp có thể là một trường hợp phái sinh? Hẳn từ đã
xuất hiện trong nghề chăn tằm từ ngàn xưa, con tằm ngủ để chuẩn bị lột
xác qua giai đoạn mới trông rất đẹp, rất sung mãn, bóng bẩy.
Cái đẹp của tằm ngủ trong cái nhìn của người chăn tằm đã khiến họ liên tưởng đến đôi lông mày đen mượt, đường nét phân minh… và từ đó phát sinh ý niệm kiểu lông mày ngoạ tàm mi. Ngọa tàm mi trong tướng pháp là quý tướng của nam giới. Kiểu lông mày này đẹp, hắc bạch phân minh chứ không có vẻ hung dữ đáng sợ như kiểu lông mày sâu róm mà GS. Nguyễn Huệ Chi có nhắc đến trong bài “Nét ngài” và “mày ngài” (4). Nguyễn Du dùng chữ “mày ngài” tả khuôn mặt của Từ Hải là đã vận dụng nghĩa này; hơn nữa viết Truyện Kiều hẳn Nguyễn Du chỉ nhờ vào vốn sách vở… kinh, sử, truyện… của nhà Nho. Điều kiện sách vở thời này chắc chắn không thuận tiện như hôm nay, lúc viết câu, dùng từ cho thơ hẳn nhà thơ cũng chẳng thể mở các từ điển tầm nguyên mà cân đong, viết thật sát nghĩa từ điển cho từng trường hợp.
Cái đẹp của tằm ngủ trong cái nhìn của người chăn tằm đã khiến họ liên tưởng đến đôi lông mày đen mượt, đường nét phân minh… và từ đó phát sinh ý niệm kiểu lông mày ngoạ tàm mi. Ngọa tàm mi trong tướng pháp là quý tướng của nam giới. Kiểu lông mày này đẹp, hắc bạch phân minh chứ không có vẻ hung dữ đáng sợ như kiểu lông mày sâu róm mà GS. Nguyễn Huệ Chi có nhắc đến trong bài “Nét ngài” và “mày ngài” (4). Nguyễn Du dùng chữ “mày ngài” tả khuôn mặt của Từ Hải là đã vận dụng nghĩa này; hơn nữa viết Truyện Kiều hẳn Nguyễn Du chỉ nhờ vào vốn sách vở… kinh, sử, truyện… của nhà Nho. Điều kiện sách vở thời này chắc chắn không thuận tiện như hôm nay, lúc viết câu, dùng từ cho thơ hẳn nhà thơ cũng chẳng thể mở các từ điển tầm nguyên mà cân đong, viết thật sát nghĩa từ điển cho từng trường hợp.
Kết lại vấn đề: ta có thể tin được rằng trong tướng thư của
Trung Quốc có kiểu ngọa tàm mi có hình dạng của con tằm ngủ.
Nguyễn Du viết Truyện Kiều đã dùng kiểu dạng này để tả đôi lông mày đẹp và oai
nghi của Từ Hải.
B/ "MÀY NGÀI" DÙNG CHỈ GÁI BUÔN HƯƠNG:
Nguyễn Du dùng phép hoán dụ của biện pháp tu từ: “Bên
thì mấy ả mày ngài,/ Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi”.
Để chỉ gái buôn hương, mày ngài dùng ở đây không
cùng gốc với trường hợp nêu ở phần trên (A/) mà lại xuất phát từ chữ 蛾眉(5) nga
mi.
Hỗ động Bách khoa互动百科 của
Trung Quốc đã thích nghĩa chữ nga mi với 6 nghĩa, trong đó nghĩa thứ
nhất ghi như sau: 蛾眉: 蚕蛾触须细长而弯曲,因以比喻女子美丽的眉毛… Nga mi: Tàm nga xúc
tu tế trường nhi loan khúc, nhân dĩ tỉ dụ nữ tử mỹ lệ đích mi mao… (Nga mi: Râu con bướm tằm dài mà cong, nhân lấy đó mà ví với lông mày đẹp của phụ nữ).
Vậy là cùng một chữ mày ngài nhưng ở 2 trường hợp
khác nhau, Nguyễn Du dùng 2 nguồn từ Hán khác nhau: mày ngài của Từ Hải
là ngoạ tàm mi (lông mày sâu tằm) còn của kỹ nữ là nga mi (lông
mày râu bướm tằm).
Xin trích thêm ở đây một đoạn trong bài viết “Nét ngài - mày
ngài” của GS. Nguyễn Huệ Chi để làm rõ thêm vấn đề: “… Trong tiếng Việt
con ngài có hai nghĩa, nghĩa đầu tiên là con bướm tằm do con nhộng trưởng thành
cắn kén chui ra; bướm tằm có hai loại đực và cái, sẽ giao phối với nhau đẻ ra
trứng, trứng ấy lại nở ra thành con tằm. Vì ngài là một chặng trong quá trình
sinh trưởng của giống tằm nên người ta cũng quen miệng gọi con tằm là con ngài.
Nhưng nghĩa thứ hai này không phổ biến bằng nghĩa thứ nhất. Ở đây, “mày ngài”
trước hết có nghĩa là lông mày của con ngài tức con bướm tằm rồi sau mới có
thêm nghĩa là lông mày giống hình con tằm. Nếu ai đã sống ở những vùng trồng
dâu nuôi tằm tất sẽ biết khi con ngài vừa ra khỏi kén, nhất là con cái, trên
hai mắt có hai chiếc râu cong dài, đẹp như lông mày phụ nữ.” (6)
济南文眉 - 眉型的分类
“TẾ NAM VĂN MI - mi hình đích phân loại” đã kê cả thảy 28 kiểu lông mày. Kiểu nga mi ở hàng thứ ba, bên trái (được đánh dấu bằng vòng tròn xanh lá). Kiểu ngoạ tàm mi khá đẹp ở hàng cuối, bên trái (được đánh dấu bằng khung đỏ).
Vậy là rõ, sở dĩ có chuyện rắc rối chẳng qua là do từ “ngài” trong
tiếng Việt. Con sâu tằm cũng gọi là con ngài rồi con bướm tằm lại
cũng gọi là con ngài, từ đó sinh ra từ mày ngài, mày tằm. “mày ngài,
mắt phượng” rồi “mày tằm, mắt phụng”! Khi nào mày ngài được hiểu là
mày như hình sâu tằm, khi nào mày ngài lại phải hiểu là mày như
hình râu bướm tằm? Quả là phức tạp!.
CHÚ THÍCH:
(1) Tằm ăn lá dâu lớn dần. Lúc chuẩn bị lột xác để sang giai
đoạn sau, tằm nằm bất động. Lúc này người chăn tằm gọi là “tằm ngủ”.
(2) Khoa diện tướng còn gọi quầng da thịt dưới mắt người
là ngọa tàm. Đây là vấn đề khác, không liên quan gì đến kiểu lông mày ngọa tàm.
(3) Kiến thức ngày nay số 789.
(4)-(6) http://www.talawas.org.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét