Nghề tay phải của anh là dạy học. Nhưng bên cạnh đó, anh còn
là nhà nghiên cứu ngôn ngữ (với 65 bài nghiên cứu khoa học, 27 cuốn sách bao gồm
giáo trình, chuyên khảo viết chung và viết riêng). Cũng cần phải nói thêm rằng
không phải người giảng viên nào cũng có thể trở thành một chuyên gia, một nhà
nghiên cứu hay một nhà phê bình văn học. Nhưng đáng nể hơn, nghề tay trái đã biến
anh thành một Nhà văn, thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Thử đếm xem nước ta có bao nhiêu người đang là Nhà giáo lại
kiêm Nhà văn? Mà lại là nhà văn có khả năng viết được nhiều thể loại "Tay
tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm", đủ cả tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, ký,
thơ… mà còn với một số lượng lớn (10 tiểu thuyết, 2 tập truyện ngắn, 5 vở kịch,
1 vở chèo, 1 tập ký chân dung và bây giờ lại là một tập thơ dày dặn), mà ở thể
loại nào cũng có đóng góp như anh? Kịch, chèo thì được dàn dựng và công diễn,
tiểu thuyết thì gây xôn xao dư luận và được chuyển thể thành phim dài tập... Có
lẽ số người tài hoa như thế, tôi nghĩ cũng không nhiều.
Từ trước đến giờ, Hữu Đạt vẫn dành ưu tiên viết về thể loại
văn xuôi. Nay bước sang "đầu 6", sau những vui buồn, từng trải, bôn
ba "tứ xứ", bận rộn với nhiều công việc, anh đã quyết định xuất bản tập
thơ đầu tiên, một lần nữa sự phong phú trong thể loại đã chứng minh thêm sự đa
tài của anh.
Nhan đề của tập thơ là "Lữ hành", phải chăng Hữu Đạt
đã tự coi mình như lữ khách (hơn một lần anh đã dùng từ "lữ khách",
"du khách" và "viễn xứ", "xứ người"). Khi rong ruổi
khắp trời Âu, Á để học tập, tham quan hoặc làm công tác giảng dạy ở xứ người,
anh đều làm thơ ghi lại cảm nhận, sự trải nghiệm, nỗi vui buồn của mình…
Bài thơ đầu tiên của tập như là tuyên ngôn thơ của anh:
"Lữ hành đi tứ xứ/ Vẫn nhớ bóng quê mình/ Lòng chạy theo con chữ/ Sâu tận
đáy tâm linh".
Có thể biết được địa chỉ "tứ xứ" mà "lữ
khách" Hữu Đạt đã từng đặt chân, bởi chúng đều được ghi dấu ấn qua mỗi bài
thơ.
Đến nước Nga có bài: "Đêm giao thừa ở Matxcơva",
"Hoa trắng"…; đến nước Pháp có bài: "Bên thành Vecxay",
"Xuân xa xứ"; qua nước Bỉ có: "Thăm pháo đài Oatéclô"; dừng
chân ở Hà Lan có: "Qua Amstecsdam"…; ở Campuchia có bài "Sa ry
ka keo"; ở Trung Quốc có khá nhiều bài: "Ga Đông Xương", "Bến
Hạc Lâu", "Nghĩ bến sông Tương", "Qua bến Tương Giang"
"Nhớ Thôi Hiệu", "Nhớ Lý Bạch", "Long Môn thành",
"Tử Cấm thành", "Di Hòa viên"…
Và đặc biệt trong thời gian 6 tháng dạy tiếng Việt ở Thượng Hải
năm 2010, Hữu Đạt viết nhiều hơn cả với một tâm trạng buồn, cô đơn: "Đi
bên sông Hoàng Phố", "Thăm Thạch Long môn", "Thăm Thiếu Lâm
tự", "Đi trên phố Quảng lính", "Một mình", "Buồn chủ nhật",
"Đêm xa xứ", "Thu cảm", "Mưa Thượng Hải",
"Chợt thức"… Buồn nhất là những ngày chủ nhật, sinh viên nước ngoài
nghỉ học, thầy không phải bận rộn vì công việc dạy học nữa, một mình trong
"Bốn gian phòng lạnh lẽo/ Suốt ngày không tiếng người/ Chỉ mình ta quanh quẩn/ Vỗ cánh đập/ tiếng dơi" (Buồn chủ nhật)
thì nỗi nhớ quê hương, nhớ vợ con chập chờn "theo giấc ngủ". Ai đã từng
đi nước ngoài, đến một nơi mà không người thân, không bạn bè trong một thời
gian dài mới thấu hiểu nỗi lòng của người xa xứ.
Đi đến đâu, anh cũng nhớ thương đất mẹ, giữa thành phố
Matxcova tươi đẹp, anh vẫn cảm thấy buồn: "Đêm giao thừa lòng bỗng rỗng
không/ Vẫn bánh chưng xanh/ Vẫn bánh giò bánh tét/ Nhưng Tết vẫn cứ không là Tết/
Thiếu mùi vị quê hương/ xuân như vẫn chưa về". Bắt gặp một cành đào ở nước
Nga anh bỗng thấy ấm lòng khi nghĩ "xuân nước mình phảng phất ở đâu
đây", nghe một bài hát Việt Nam giữa xứ người cũng thấy cay cay xúc động,
tưởng như quê hương đang gần lại: Nghe em mắt ướt qua câu hát/ Bỗng thấy đâu
đây bóng quê nhà. Đến Hà Lan - đất nước hiện đại với những con người "hiền
như đất", anh cũng liên tưởng rồi thương quê hương: Nước biển/ Cao hơn nhà
thành phố/ Mà sao chẳng lũ như quê tôi?. Đến Thượng Hải - một trong những thành
phố phồn hoa nhất Châu Á, anh cũng không lúc nào nguôi nỗi nhớ Việt Nam:
"Anh đang sống trên miền cực Bắc/ Sao lòng mình chỉ thấy đất trời
Nam" …
Hữu Đạt có biệt tài khi vẽ chân dung nhân vật bằng câu chữ.
Trước đây anh đã nổi tiếng khi "vẽ" nhân vật bằng văn xuôi qua tập kí
"Văn khoa chân dung kí", anh đã vẽ người nào ra người ấy với tính
cách rất đặc trưng, rất chính xác, đầy yêu thương và hóm hỉnh không kém gì tập
"Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa từng gây sốt. Còn trong tập
thơ này, Hữu Đạt lại dựng chân dung những người thân yêu như người mẹ, người
anh rể, thầy cô, bạn bè… mà chân dung nào cũng gây xúc động cho người đọc…
Hình ảnh mẹ của mỗi thi sĩ được hiện lên với nhiều dáng hình,
kỉ niệm và kí ức khác nhau. Hữu Đạt không nằm ngoài ngoại lệ làm thơ về thân mẫu.
Đọc bài thơ "Mẹ tôi" của anh, tôi đã hiểu vì sao Hữu Đạt có thể hát
được cải lương mùi mẫn trong những buổi liên hoan hoặc trong lúc cần minh họa
sinh động cho bài giảng về các tiểu loại của sân khấu; tôi đã hiểu vì sao anh
có thể sáng tác được ca kịch cải lương và cả chèo, kịch nữa; và tôi cũng đã biết
cái gel nghệ sĩ của nhà khoa học Hữu Đạt chính là được thừa hưởng từ người mẹ
nghệ sĩ yêu quý:… Thương bà/ Mẹ giã từ cuộc đời nghệ sĩ/ Trở về làm một nông
dân/ (…) Sân khấu vắng hình bóng mẹ/ Bạn bè thiếu vắng tình thương/ Người xem
trở nên buồn tẻ/ Vắng mẹ rồi/ Ai hát cải lương/ (…) Sự nghiệp nửa đời dang dở/
Tình thương mẹ để cho con/ Ứớc mơ đem từ thuở đó/ Bay theo bát ngát trăng tròn.
Trong bài Gặp bạn cũ, cái nhói đau của tác giả đã truyền cái
xót xa sang người đọc, tôi chợt thấy buồn tê tái khi bắt gặp những câu thơ sau:
"Mới năm nào bạn đến nước Nga/ Gặp tôi ở cổng trường
Lômônôxôp/ Mái tóc bạn xanh đen màu mực/ Nụ cười phóng khoáng trẻ trung/ Thoắt
đi đã mấy chục năm/ Đường đi mấy đoạn "dao quăng"/ đã già/ Bạn không
còn mái tóc đen/ như trước nữa/ Nụ cười/ héo theo tháng năm/ Sách đọc mỗi ngày
mỗi ít/ Tai nghe/ câu được câu chăng/ Kiếp người đi qua chóng vánh/ Mùa thu vẫn
thế muôn đời/ Trăng vàng vẫn thường đỏng đảnh/ Đi qua trước bạn và tôi".
Tác giả không nói đây là bạn trai hay bạn gái nhưng tôi nghĩ
đây có thể là một người bạn gái. Bạn gái thì mới tả mái tóc, nụ cười chứ! Bạn
trai thì tóc đen hay tóc bạc có quan trọng gì, đàn bà tóc bạc mới "có vấn
đề". Người đàn ông 60 chưa thể gọi là già, đàn bà 60 mới thực là già vậy.
Phụ nữ 40 tuổi vẫn có thể gọi người đàn ông 60 là… anh mà không thấy bất bình
thường nhưng không thể gọi người đàn bà 60 là chị, phải gọi cô mới phải đạo
(?). Người bạn này mấy chục năm trước chắc cũng là một nữ sinh giỏi giang từng
du học tại trường Lomonoxov, cô trẻ trung với "mái tóc đen màu mực",
với nụ cười "phóng khoáng" hồn nhiên… Vậy mà giờ đây đã là người đàn
bà tóc đã bạc, nụ cười đã héo, mắt đã mờ: "Sách đọc mỗi ngày mỗi ít",
tai đã điếc: "Tai nghe câu được câu chăng"… Ôi, không gì có thể cưỡng
được quy luật "sinh lão bệnh tử" của muôn đời, "Đời người như
bóng câu qua cửa". Hữu Đạt đã chốt lại bài thơ với triết lí Kiếp người đi
qua chóng vánh/ Mùa thu vẫn thế muôn đời/ Trăng vàng vẫn thường đỏng đảnh/ Đi
qua trước bạn và tôi"… Đọc bài thơ này, tôi chợt liên tưởng tới câu chuyện
một hoàng hậu khi về già, bị bệnh tật kiên quyết không gặp vua, không cho vua
nhìn mặt để hy vọng hình ảnh trẻ trung xinh đẹp của mình vẫn còn trong kí ức
nhà vua. Và những ai khi về già, có nên gặp lại người yêu cũ của mình không?
Một số nhà thơ đã viết về người chị dâu thân thương của họ
nhưng viết về anh rể thì khá hiếm. Người anh rể của Hữu Đạt đã từng là một người
lính. Có tác phong đậm chất lính: "chân đi, miệng nói, tay làm", là
con người "giản dị", lẽ sống của anh là biết "yêu thương"
và "tôn thờ hai chữ: sống vinh". Anh được bố mẹ vợ yêu quý và các em
vợ coi như một tấm gương để noi theo, như người thay mẹ cha chăm lo cho đàn em,
dẫu rằng anh không còn nữa nhưng tình cảm của Hữu Đạt dành cho người anh rể của
mình thật đáng trân trọng: Khi sống anh là anh rể/ Chết rồi anh thành sao Khuê/
Cha mẹ nay không còn nữa/ Bóng anh dắt chúng em đi. Bài thơ giản dị nhưng khiến
cho người đọc thấy tình cảm gia đình lớn của tác giả thật ấm áp, có nếp nhà. Một
đại gia đình hòa thuận, có nề nếp gia phong bao giờ cũng sinh tạo những con người
có ích cho xã hội.
Những bài thơ tặng thầy cô của anh, tuy tên của người đề tặng
được viết tắt như "Kính tặng cô Đ.Th.H, cô L.H.S, cô H.Th.CH; Kính tặng thầy
H.T.Ph, thầy N.X.L… nhưng chúng ta cũng dễ dàng đoán được (ngay cả khi anh có
thể không chỉ dẫn bằng những cái tên viết tắt). Bởi đó là những nhà giáo quá nổi
tiếng đã được Hữu Đạt "vẽ" cực chính xác, người đọc thấy toát lên ở
những chân dung ấy một nhân cách đẹp, cống hiến cả đời mình cho các lớp sinh
viên, cho sự nghiệp nghiên cứu của Ngành Khoa học Xã hội & Nhân văn Việt
Nam. Nhưng cuộc đời riêng của một vài thầy cô đôi khi còn thiệt thòi, vất vả,
éo le và lận đận… Có thầy về già vẫn cô đơn, vẫn "một mình", có thầy
không còn nhà để ở khi tuổi đã tám mươi, có thầy làm việc cả đời vẫn chưa được
Nhà nước phong học hàm (nhưng cái học hàm mà sinh viên phong, nhân dân phong
cũng thật vinh dự, cao quý lắm thay!). Bản thân Hữu Đạt là một người thầy mà vẫn
luôn nhớ đến những người thầy đã dạy mình, "ăn qủa nhớ kẻ trồng cây",
anh là biểu hiện của một nhân cách đẹp, có đạo nghĩa, có trước có sau.
Một số người thầy đã được nhắc đến bằng văn xuôi trong tập:
Văn khoa chân dung kí nay được nhắc lại trong tập thơ này. Điều đó chứng tỏ Hữu
Đạt rất yêu quý, trân trọng và dành tình cảm mến yêu đặc biệt với những thầy cô
đã tạo được những ấn tượng sâu sắc trong cuộc đời sinh viên và nhà giáo của
anh.
Trong bài Có một niềm tin (Kính tặng Thầy H.T.Ph), chân dung,
thần thái của Thầy được hiện ra rõ ràng như con người bằng xương bằng thịt và
tôi nhận ra ngay đó chính là Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân - người Thầy
yêu kính của tôi:
Vẫn mái tóc bồng bềnh thời trai trẻ/ Vẫn nụ cười bát ngát lúc
còn xuân/ Tám mươi tuổi vẫn phóng xe đến lớp/ Có đến hai hay ba buổi mỗi tuần/
Đôi tay múa những vòng như nghệ sĩ/ Giọng bổng trầm như tiếng sáo diều ngân/
Chân uyển chuyển bước đi theo dáng người vóc hạc/ bóng vờn bay trên giáo án mỗi
phần…
Có thể nói, mảng thơ "chân dung" và đặc biệt là
"chân dung các nhà giáo" là "đặc sản" của thơ Hữu Đạt.
Hữu Đạt đã từng thể hiện tinh thần "tự phản biện",
"cảnh báo xã hội" hoặc "nhìn thẳng vào sự thật" của một
công dân yêu nước qua một số bài trong mục Tiếng nói nhà văn của báo Văn nghệ.
Thì trong tập thơ này, cái tinh thần đó lại được phát huy mạnh mẽ trong những
bài thơ thế sự: "Lời cha", "Làng đâu", "Thương nước
mình", v.v..
Xót xa làm sao khi đọc những câu sau:
Sau cải cách quê tôi nghèo xơ xác/ Ruộng nương vô hợp tác
chung làng/ Tổ đổi công mỗi mùa hai vụ/ Lúc thu về chỉ có chút khoai lang (Mẹ
tôi).
Với bài Làng đâu, anh trăn trở đau đớn khi "văn hóa
làng" đã mất đi trong thời buổi "kinh tế thị trường", mất dần đi
không gian làng quê "mái ngói", "giếng khơi"; mất dần đi những
mảnh đời "nghèo nhưng sạch", họ tuy vất vả nhưng lại có lúc thảnh
thơi "đứng hóng mát cổng chùa". Giờ đây, những người nông dân đã đua
nhau bán đất lấy tiền xây nhà lầu, mua sắm, ăn chơi xả láng, cờ bạc đỏ đen, rồi
mất đất, mất nghề trồng rau, trồng lúa, họ lại trở thành những người tay trắng,
phải tha phương cầu thực:
… Nhà ai cũng khoe tiền bán đất/ Tiền đền bù, tiền lờ lãi
chia nhau/ Rồi hỉ hả sắm sanh, xây dựng/ Đi đến đâu cũng biệt thự nhà lầu/ Thói
quen mới ăn tiêu xả láng/ Tiền nhiều rồi ai còn thích trồng rau/(…) Lớp lớp đàn
em thích cuộc đời phố xá/ Ham rong chơi cờ bạc, đỏ đen/ Đầu phố, cuối thôn nhà
hàng mọc kín/ Bóng ca ve lờ lượn dưới ánh đèn/ Ngôi làng cũ năm xưa không còn nữa/
Nhiều gia đình mất nghiệp phải tha phương/ Đêm thăm thẳm trong màn trời chiếu đất/
Triệu phú hôm nao nay thành kẻ đứng đường…
Trong bài Thương nước mình, anh không nén được những xót xa
khi người dân không những khốn khó vì hậu quả chiến tranh, vì bão lũ, hỏa hoạn,
tai nạn giao thông, lạm phát tăng… mà họ còn oan ức, khốn khổ vì nạn tham
nhũng, dự án kém hiệu qủa… Nhưng với bản tính nhân hậu của người nghệ sĩ chân
chính, không bao giờ kêu gào, phá phách…, anh vẫn có niềm tin, nên dẫu "tê
tái lòng/ vẫn hát khúc yêu thương"…
Thơ anh hay bởi cái tình hồn hậu, bởi sự nghiêm túc mô phạm của
một nhà giáo chứ không phải ở sự tung tẩy cách tân tùy tiện về hình thức. Anh
không phải tạng nhà thơ chạy theo trường phái nghệ thuật siêu thực, hậu hiện đại,
tượng trưng… Vì vậy, cách làm mới về hình thức của anh trong nhiều bài vẫn dựa
trên cơ sở cấu trúc thơ truyền thống, dù có ngắt dòng dài ngắn thì đó vẫn là những
câu thơ thuộc thể loại thơ có vần luật Chẳng hạn như:
Bao tháng năm rồi
trong ký ức
Những sớm mưa bay
vẫn còn đây
Nhìn thành đá lạnh
lòng
heo hút
Nỗi nhớ xa quê đã bao ngày
(Bên thành Vecxay)
Gọi em
chẳng thấy em đâu
chỉ nghe
quặn
thắt
nỗi đau âm thầm
(Mưa hoang)…
Thơ anh sử dụng khá nhiều những từ Hán Việt như lữ khách, viễn
xứ, kí ức, hạ giới, phiêu du, tâm linh, dương gian, cố hương, nhi nữ giang hồ,
vũ trụ, gia thế, thiên cổ tự, Long Môn thành, Tử Cấm thành, Hà thành… nên có
màu sắc trang trọng, cổ kính phù hợp với nội dung hoài niệm, suy tư…
Tuy có đôi bài thơ vui như "Bạn cũ" nhưng âm hưởng
chủ đạo của toàn tập thơ là giọng trầm, man mác buồn, nghĩ ngợi…
Cái sự nghĩ ngợi đó thể hiện ở sự hoài nghi, chất vấn, trăn
trở, chiêm nghiệm trong những câu thơ như: Vĩ nhân sao lại khiêm nhường thế?/ Sự
nghiệp ngàn năm chỉ thế này? (Thăm pháo đài Oatéclô), Thành quách ngàn năm thì
sụp đổ/ Thi tứ vạn năm vẫn dâng sầu? (Suy ngẫm), Hỡi người trên khắp thế gian/
Sao đâu cũng thấy gian nan kiếp người (Đi trên phố Quảng Lính), Một mình tôi, một
mình tôi/ Chẳng thành gì cả giữa trời mênh mông (Một mình), Liệu con sẽ nghĩ gì
khi ngồi trên đống bạc/ Năm tháng trôi qua cha mẹ đã không còn? (Lời cha), Dây
số phận giữa hai người đã đứt/ Có bao giờ khỏa lấp được nỗi đau (Cải đắng)…
Trong tập "Lữ hành" này, Hữu Đạt rất có ý thức cách
tân về hình thức qua một số bài thơ hình cái cốc, cái nơ, hình tháp nước, hình
tháp chồng, hình tháp chồng hình kim cương, hình mũi tên… Đó cũng là những thử
nghiệm của khá nhiều nhà thơ cả cũ và mới. Trước đây đã có Trần Huấn Chương thử
nghiệm thơ hình tam giác trong bài Tối từ năm 1936; Nguyễn Vỹ thể nghiệm với thơ
hình thoi, hình zich zắc cùng nhiều bài có hình thức tân kì như Mưa rào, Hoàng
hôn, Tiếng chuông chùa…Nhưng có lẽ chỉ đến Hữu Đạt thì kiểu thơ hình thức mới
được phát huy đến đỉnh điểm và dường như sau mỗi hình thức sáng tạo ấy, mỗi bài
thơ còn chứa đựng một nội dung sâu kín nào đó, một thông điệp riêng của thơ ca.
Hữu Đạt vốn chuyên viết văn xuôi nhưng với thơ, anh cũng có
những thành công rất đáng ghi nhận. Ngôn ngữ đối thoại trong tiểu thuyết của
anh sắc sảo, mạnh mẽ bao nhiêu thì ngôn ngữ trong thơ anh lại uyển chuyển, mềm
mại bấy nhiêu…
Cái hay của thơ anh không phải là cố làm ra vẻ khác lạ về
hình thức mà ở sự rung động của trái tim, khi nào Hữu Đạt xúc động sẽ khiến người
đọc xúc động, khi nào Hữu Đạt run rẩy sẽ khiến người đọc run rẩy, khi nào câu
thơ của anh chạm đến vùng kí ức, hoài niệm, chiêm nghiệm, trăn trở… của người đọc
thì khi đó anh thành công. Tôi thích những bài như Hoa bằng lăng, Bên phố cổ,
Nhớ trường xưa, Heo may, Đêm rằm ở ngoại ô rất lãng mạn với những câu "Đêm
rằm ta muốn được yêu/ Cả trăng, gió/ Cả những điều vu vơ..
Có lẽ do chịu ảnh hưởng và yêu quý một số nhà thơ thời Thơ mới
và Thơ Cách mạng nên đôi khi trong nhịp điệu thơ anh có phảng phất cái nhịp điệu
thơ của người đi trước. Ví như: Hồn em như hoa bạch đàn/ Đậm hương nhưng có nồng
nàn đắm say (…) cứ khiến tôi liên tưởng đến câu: Hồn anh như hoa cỏ may/ Một
chiều cả gió, bám đầy áo em (Nguyễn Bính) hoặc: Em- cánh hoa rừng/ trên vách
núi/ bốn mùa/ uống mãi ánh sương đêm cứ khiến tôi nhớ đến nhịp điệu bằng trắc
trong: Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm (Vũ Cao)… Đó
là điều mà ta cũng gặp ở nhiều nhà thơ khác khi họ cùng sáng tác theo một thể
loại.
Thơ anh, những bài càng viết ở giai đoạn sau càng hay hơn…
Tôi nghĩ anh thật xứng đáng với danh hiệu "Nhà giáo tài
hoa" hoặc "một Phó Giáo sư, Tiến sĩ đa tài"… Tôi nói như thế, chắc
người khó tính nhất cũng phải đồng ý với tôi!.
15/4/2020
Hoàng Kim Ngọc
Nguồn: ussh.vnu.edu.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét