Hành trình về Phương Đông
Lời nói đầu
Tác phẩm “Life and Teaching of the Masters of the Far East»
(1935)”, hồi ký của Dr. Blair T. Spalding (1857-1953). Một phần của hồi ký đã
được Nguyên Phong chuyển ngữ với tựa đề “Hành trình về Phương Đông”
Nguyên tác có tất cả sáu quyển ghi nhận đầy đủ về cuộc hành
trình gay go nhưng lý thú và tràn đầy sự huyền bí ở Ấn độ, Tây Tạng, Trung hoa
và Ba tư. Ba quyển đầu ghi lại những cuộc thám hiểm của phái đoàn từ Anh sang Ấn,
sự gặp gỡ giữa phái đoàn và những vị thầy tâm linh sống ở Á châu, và ở dãy Hy
Mã Lạp Sơn. Ba quyển sau là những ghi nhận riêng của giáo sư Spalding về các
cuộc hành trình. Sự trao đổi kiến thức giữa phái đoàn và các vị thầy tâm linh,
với bản tường trình của phái đoàn đã đưa đến những cuộc tranh luận sôi nổi. Cuối
cùng thì ba người trong phái đoàn đã trở lại Ấn độ sống đời ẩn sĩ. Hồi ký của
giáo sư Spalding là một công trình nghiên cứu nghiêm túc với nhiều dự kiện được
phái đoàn ghi nhận đầy đủ một cách khoa học, và cho đến nay vẫn còn nhiều đọc
giả hâm mộ, nhiệt liệt tán thưởng các quyển hồi ký này.
Chương 1
Trong cuộc sống vội vã, quay cuồng hiện tại, nhiều người đã mất
đi niềm tin. Họ quan niệm rằng sống để thụ hưởng, thỏa mãn các nhu cầu vật chất
vì chết là hết. Không có Thượng đế hay một quyền năng siêu phàm gì hết. Các đây
không lâu, một tờ báo lớn tại Hoa kỳ đã tuyên bố, “Thượng đế đã chết!” Tác giả
bài báo công khai thách đố mọi người đưa ra bằng chứng rằng Thượng đế còn sống.
Dĩ nhiên, bài báo đó tạo nên một cuộc bàn cãi rất sôi nổi. Một nhà thiên văn học
tại trung tâm nghiên cứu Palomar cũng cho biết, “Tôi đã dùng kính viễn vọng tối
tân nhất, có thể quan sát các tinh tú xa trái đất hàng triệu năm ánh sáng mà
nào có thấy thiên đường hay thượng đế cư ngụ nơi nào?” Sự ngông cuồng của khoa
học thực nghiệm càng ngày càng đi đến chỗ quá trớn, thách đố tất cả mọi sự. Tuy
nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh, giải thích tất cả mọi
sự, thì một sự kiện xảy ra: Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu vương Ranjit
Singh cầm đầu sang thăm viếng nước Anh. Trong buổi viếng thăm đại học Oxford,
vua Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ này đã làm đảo lộn quan niệm
khoa học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hóa học, kể
cả những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng
giờ đồng hồ dưới đáy một hồ nước. Sau khi để một phái đoàn y sĩ do bác sĩ Sir
Claude Wade khám nghiệm, ông ta còn chui vào một quan tài để bị chôn sống trong
suốt 48 ngày. Khi được đào lên, ông ta vẫn sống như thường. Đạo sĩ còn biểu diễn
nhiều việc lạ lùng, dưới sự kiểm chứng nghiêm khắc của các khoa học gia. Điều
này gây sôi nổi dư luận lúc đó. Hội Khoa Học Hoàng Gia đã phải triệu tập một uỷ
ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên
tuổi được chỉ thị sang Ấn độ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích những
sự kiện huyền bí. Phái đoàn khoa học đã đặt ra những tiêu chuẩn rõ rệt để giúp
họ quan sát với một tinh thần khoa học tuyệt đối. Không chấp nhận bất cứ một điều
gì nếu không có sự giải thích rõ ràng, hợp lý. Để soạn thảo bản tường trình, mỗi
khoa học gia trong phái đoàn phải tự mình ghi nhận những điều mắt thấy, tai
nghe vào sổ tay cá nhân. Sau đó, tất cả cùng nhau so sánh chi tiết và kiểm chứng
cẩn thận. Chỉ khi nào tất cả đều đồng ý thì điều đó mới được ghi nhận vào biên
bản chính. Điều này đặt ra để bảo đảm cho sự chính xác, không thành kiến đến mức
tối đa. Tất cả những điều gì xảy ra mà không có sự giải thích khoa học, hợp lý đều
bị loại bỏ. Khi ra đi, họ không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi
khác. Giáo sư Spalding đã cho biết, “Phương Đông có những chân lý quan trọng
đáng để cho người Tây phương nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người Tây phương
phải quay về Đông phương để trở về với quê hương tinh thần.” Điều đáng tiếc là
sự trở về của phái đoàn đã gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ một dư luận quần
chúng đầy thành kiến hẹp hòi. Các khoa học gia bị bắt buộc phải từ chức, không
được tuyên bố thêm về những điều chứng kiến. Sau đó ít lâu, trưởng phái đoàn,
giáo sư Spalding đã cho xuất bản bộ sách, “Life and teachings of Masters of the
East” và nó đã gây ra một dư luận hết sức sôi nổi. Người ta vội tìm đến những
người trong phái đoàn, thì được biết họ đã rời bỏ Âu châu để sống đời tu sĩ
trong dãy tuyết sơn. Tuy thế, ảnh hưởng cuốn sách này đã tạo hứng khởi cho nhiều
người khác trở qua Ấn độ để kiểm chứng những điều ghi nhận của phái đoàn. Thiên
ký sự của Sir Walter Blake đăng trên tờ London Scientific cũng như loạt điều
tra của ký giả Paul Bruton, Max Muller đã vén lên tấm màn huyền bí của Đông
phương và xác nhận giá trị cuộc nghiên cứu này.
Ấn độ là xứ có rất nhiều tôn giáo. Tôn giáo gắn liền với đời
sống và trở nên một động lực rất mạnh làm chủ mọi sinh hoạt người dân xứ này.
Người Ấn thường tự hào rằng văn hóa của họ là một thứ văn minh tôn giáo và dân
xứ này được thừa hưởng một kho tàng minh triết thiêng liêng không đâu có. Vì thế
Hội Khoa Học Hoàng Gia đã bảo trợ cho phái đoàn đến Ấn độ để nghiên cứu những
hiện tượng huyền bí này.
Tuy nhiên, sau hai năm du hành khắp Ấn độ từ Bombay đến
Calcutta, thăm viếng hàng trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ
nổi tiếng, phái đoàn vẫn không thỏa mãn hay học hỏi điều gì mới lạ. Phần lớn
các giáo sĩ chỉ lập đi lập lại những điều đã ghi chép trong kinh điển, thêm thắt
vào đó những mê tín dị đoan, thần thánh hóa huyền thoại để đề cao văn hoá xứ họ.
Đa số tu sĩ đều khoe khoang các địa vị, chức tước họ đã đạt. Vì không có một
tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng xưng là hiền triết (Rishi), sư
tổ (Guru), hay đại đức (Swami), thậm chí có người xưng là thánh nhân giáng thế
(Bhagwan). Ấn độ giáo (Hinduism) không có một chương trình đào tạo tu sĩ như
Thiên chúa giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ ngực xưng danh, ai cũng là tu sĩ được
nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh tước, địa vị để lôi cuốn tín đồ. Ấn
giáo không phải một tôn giáo thuần nhất, mà có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi
tông phái lại chia làm nhiều hệ phái độc lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc
như các tôn giáo Âu châu. Các giáo sĩ mạnh ai nấy giải thích kinh điển theo sự
hiểu biết của họ. Phần lớn cố tình giảng dạy những điều có lợi cho họ nhất,
ngoài ra họ còn tụ họp để phong chức tước lẫn nhau hay chống đối một nhóm khác.
Sự tranh luận tôn giáo là điều xảy ra rất thường, nhóm nào cũng tự nhận họ mới
là chính thống, mới là đúng với giáo lý của thượng đế. Do đó, cuộc nghiên cứu
tôn giáo của phái đoàn không mang lại một kết quả mong ước, nhiều lúc mọi người
thấy lạc lõng, rồi rắm không biết đâu là đúng, là sai. Hội Khoa Học Hoàng Gia
chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt căn bản trên nền tảng khoa học, hợp lý nhưng lấy
tiêu chuẩn này áp dụng sẽ gặp nhiều trở ngại vì văn hoá Ấn độ và Âu châu khác hẳn
nhau. Người dân xứ này chấp nhận các tông phái như một điều hiển nhiên, không
ai chất vấn khả năng các giáo sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lý
hay không? Họ sùng tín một cách nhiệt thành, một cách vô cùng chịu đựng.
Thất vọng về cuộc du khảo không mang lại kết quả như ý muốn,
giáo sư Spalding một mình lang thang đi dạo trong thành Benares. Giữa rừng người
hỗn tạp ồn ào, một thuật sĩ cởi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một con rắn
hổ to lớn nằm trong sọt ngửng cổ lên cao, phun phì phì. Tiếng kèn lên bỗng xuống
trầm, con rắn cũng lắc lư, nghiêng ngã. Đám đông xúm lại xì xầm coi bộ khâm phục
lắm. Nếu họ hiểu con rắn đã bị bẻ răng, nuôi bằng bả á phiện và được luyện tập
cẩn thận… Khắp xứ ấn, các trò bịp bợm này diễn ra không biết bao nhiêu lần
trong ngày, nó sẽ kết thúc khi một vài tên “cò mồi” đứng trong đám đông vỗ tay,
ném tiền vào rổ, và khuyến khích dân chúng ném theo… Đang mãi mê suy nghĩ,
Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, phong độ khác thường chăm chú nhìn ông
mỉm cười. Người Ấn lễ phép cúi đầu chào bằng một thứ tiếng Anh hết sức đúng giọng,
ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện dần dần trở nên thân mật, Spalding bèn lên tiếng
hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những trò bịp bợm này. Người Ấn trả lời:
- Các vị minh sư đâu có cư ngụ trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu
in danh thiếp với các chức tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải quảng
cáo các quyền năng, đạo quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh
sư không nhất thiết phải có đông đệ tử, muốn tìm gặp họ phải biết phân biệt.
Các đạo sĩ mà ông đã gặp, sở dĩ nổi tiếng có đông giáo đồ vì họ biết thu tập đệ
tử qua các hình thức quảng cáo, biết hứa hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ
chả dạy điều gì ngoài một số “từ chương” trong kinh sách. Điều này một người
thông minh có thể tự đọc sách, nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất vọng vì các
đạo sĩ ông đã gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?”
Giáo sư Spalding ngạc nhiên:
- Tại sao ông biết rõ như thế?
Người Ấn mỉm cười:
- Các ông đã bàn cãi với nhau rằng cuối tháng này, nếu không
thu thập thêm điều gì mới lạ, phái đoàn sẽ trở về Âu châu và kết luận rằng Á
châu chả có điều gì đáng học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân
chỉ là những huyền thoại để tô điểm cho vẻ huyền bí Á châu.
Giáo sư Spalding mất bình tĩnh:
- Nhưng tại sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa
bàn định với nhau như thế, ngay trong phái đoàn còn có nhiều người chưa rõ kia
mà?
Người Ấn nở một nụ cười bí mật và thong thả nhấn mạnh:
- Ông bạn thân mến, tư tưởng có một sức mạnh thần giao vượt
khỏi thời gian và không gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà hôm nay tôi đến
đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc thánh
kinh, “Hãy gõ cửa, rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm rồi sẽ gặp”. Đó là thông điệp của một
vị chân sư nhờ tôi chuyển giao.”
Sự kiện người Ấn đứng giữa chợ Benares nhắc đến một câu trong
Kinh thánh làm giáo sư Spalding ngây ngất như say vừa tỉnh. Toàn thân ông như
rung động bởi một luồng điện cao thế.
Ông lắp bắp:
- Nhưng làm sao chúng tôi biết các ngài ở đâu mà tìm? Chúng
tôi đã bỏ ra suốt hai năm trời đi gần hết các đô thi, làng mạc xứ Ấn…
Người Ấn nghiêm nghị trả lời:
- Hãy đến Rishikesh, một thị trấn bao phủ bởi dẫy Hy Mã Lạp
Sơn, các ông sẽ gặp những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo
sĩ này chỉ sống trong các túp lều sơ sài, hoặc ngồi thiền trong các động đá. Họ
ăn rất ít và chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Đó mới
là những người dành trọn cuộc đời cho sự đi tìm chân lý. Một số người đã thắng
đoạt thiên nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng trong trời đất…
Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc thần thông thì các ông
sẽ không thất vọng.
Người Ấn im lặng một lúc và nhìn thẳng vào mặt giáo sư
Spalding:
- Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn nữa, để tìm gặp các đấng
chấn sư (Rishi) thì các ông còn mất nhiều thời gian nữa…
Giáo sư Spalding thắc mắc:
- Nếu ông tin ở thuyết tiến hóa của Darwin, thì tôi xin tóm tắt: “sự tiến hóa của linh hồn đi song đôi với thể xác. Chân sư là một người đã tiến
rất xa trên mức thang tiến hóa; trong khi đạo sĩ chỉ mới bắt đầu…”
- Như thế thì các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ?
Người Ấn mỉm cười khẽ lắc đầu:
- Chắc chắn như thế, nhưng phép thuật thần thông đâu phải mục
đích tối hậu của con đường đạo. Nó chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư
tưởng và ý chí. Đối với các bậc chân sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào
các ngài phải làm. Mục đích của con đường đạo là Gỉai Thoát, là trở nên toàn
thiện như những đấng cao cả mà đức Jesus là một.
Giáo sư Spalding cãi:
- Nhưng chúa Jesus đã từng làm các phép lạ.
Người Ấn bật cười trả lời:
- Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng chúa Jesus làm vậy vào mục
đích khoe khoang hay sao? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm
hoá những người dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.
Một lần nữa, người Ấn lạ lùng này lại nói về một đấng giáo chủ
mà hầu như mọi người Tây phương đều biết đến. Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:
- Thế tại sao các đấng Chân sư không xuất hiện dạy dỗ quần
chúng?
Người Ấn nghiêm nghị:
- Ông nghĩ rằng các ngài sẽ tuyên bố cho người đời biết mình
là ai chăng?
Nếu đức Phật hay đấng “Christ” hiện ra tuyên bố các giáo điều,
liệu ông có chịu tin không? Có lẽ các ngài phải biểu diễn các phép thần thông
như đi trên mặt nước hay biến ra hàng ngàn ổ bánh mì cho dân chúng thì các ông
mới tin sao? Điều này chắc rồi cũng sẽ có một số đạo sĩ Hắc đạo biễu diễn để
lôi cuốn tín đồ nhưng các đấng cao cả đâu có làm thế phải không ông bạn?
- Nhưng… nhưng các ngài sống ẩn dật như thế có lợi gì cho thế
gian đâu?
Người Ấn mỉm cười:
- Vì không biết rõ các ngài nên thế gian không thể xét đoán
các ngài một cách đứng đắn. Ai bảo rằng các ngài không giúp ích gì cho nhân loại? Nếu tôi quả quyết rằng đấng “Christ” vẫn thường xuất hiện và vẫn giúp đỡ nhân
loại không ngừng thì ông có tin không? Có lẽ ông sẽ đòi hỏi một bằng chứng, một
hình ảnh hoặc một cái gì có thể chứng minh được. Bạn thân mến, những tư tưởng
sâu xa của các đấng cao cả không dễ gì chúng ta hiểu thấu. Có lẽ câu trả lời giản
dị nhất là các ngài phụng sự thế gian một cách âm thầm, lặng lẽ bằng cách phóng
ra các tư tưởng yêu thương, bác ái, tốt lành mà sức mạnh có thể vượt thời gian
và không gian. Tuy mắt ta không trông thấy nhưng hiệu lực của nó vô cùng mạnh mẽ.
Khi xưa, nhân loại còn ấu trĩ nên các ngài đã xuất hiện để đặt một nền móng,
căn bản, hướng dẫn loài người. Đến nay, nhân loại đã ít nhiều trưởng thành và
phải tự lập, sử dụng khả năng của mình, chịu trách nhiệm về những việc họ làm.
Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:
- Lúc nãy bạn nói rằng có một vị chân sư nhờ bạn chuyển giao
một thông điệp cho chúng tôi. Bạn có thể cho tôi biết địa chỉ của ngài được
không?
- Bạn thân mến, tất cả đều do Nhân Duyên, đến khi nào đủ
duyên bạn sẽ gặp các ngài.
Nói xong, người Ấn độ cúi đầu chào và biến mất trong đám người
đông đúc, ồn ào giữa ngôi chợ thành phố Benares.
Chương 2
Thành phố Benares là một nơi có nhiều di tích lịch sử và có rất
nhiều tu sĩ. Bất cứ một người Âu Mỹ nào đến đây cũng ngạc nhiên về thành phố
dân cư đông đúc, nhà cửa san sát và khắp nơi nhan nhản những đền thờ, lăng tẩm
đồ sộ. Có những ngôi đền trông thì thật cổ kính, trang nghiêm nhưng khi bước
vào trong bạn sẽ thấy gì? Một số tín đồ hành lễ ngây ngô vừa cầu nguyện, vừa
rung một cái chuông nhỏ để lời cầu xin của họ thấu đến tai các vị thần. Một số
khá đông đạo sĩ ngồi trong các tư thế du già (yoga) cực kỳ lạ lùng, khó tập luyện
để tín đồ đến bỏ tiền vào trong bát nhỏ bầy trước mặt họ. Chúng tôi có cảm tưởng
như họ làm xiếc biễu diễn kiếm ăn hơn là thực hành một pháp môn tu hành chân
chánh.
Trong khi mọi người trong phái đoàn đang quay phim những đạo
sĩ ngồi trên bàn đinh, các đền thờ to lớn, thì giáo sư Spalding thong thả đi dạo
ngoài bờ sông. Ông nhìn thấy một đạo sĩ vóc người lực lưỡng đang đi gần đó. Như
có một mãnh lực vô hình nào đó thúc đẩy, Spalding muốn vượt lên để nhìn cho rõ,
ông bèn rẽ qua một lùm cây rậm rạp, để bắt cho kịp vị đạo sĩ nọ. Vừa đi được
vài bước, ông đã giựt mình vì gặp một con rắn hổ mang to lớn chận lối. Rắn hổ
là một loại rắn cực độc, hàng năm có hàng ngàn người bị rắn cắn chết, vì ở xứ Ấn
giống rắn này có nhiều vô kể, xuất hiện khắp nơi. Tiến thoái lưỡng nan, chưa biết
phải làm gì thì con rắn đã trườn tới ngẩng cao cổ phun phì phì. Bất ngờ, vị đạo
sĩ ở đâu đi đến, ông chẳng nói gì chỉ bước thẳng vào giữa con rắn và giáo sư
Spalding. Vị đạo sĩ dơ tay vuốt nhẹ, con rắn từ từ bò vào trong bụi rậm, mất
hút trước sự ngạc nhiên của giáo sư Spalding. Vị đạo sĩ mỉm cười thong thả
tuyên bố:
- Cái phàm ngã hữu hình, hữu hoại không thể làm việc này mà
đó là cái Chân Ngã thâm diệu, cái mà ta gọi là thượng đế ngự trong tôi và muôn
loài đã khiến con rắn bỏ đi, khi hoàn toàn gạt bỏ cái phàm ngã bên ngoài để cho
cái Chân Ngã tự biểu lộ, và hành động thì không chuyện gì có thể xảy ra nữa. Bằng
cách phát triển toàn vẹn tình thương và bác ái của thượng đế cho nó xuyên qua
mình và ban rải cho muôn loài ta sẽ cảm hoá được các thú dữ. Khi ông vừa gặp
con rắn, một tư tưởng sợ hãi phát ra, và tôi đã nhận được tư tưởng này; ngoài
ra hình như ông có ý muốn gặp tôi?
Giáo sư Spalding ấp úng:
- Chúng tôi đang suy tầm các hiện tượng huyền bí Á châu - thú
thật là tôi đang cảm thấy hoang mang và thất vọng về những điều nhìn thấy ngoài
chợ nhưng khi vừa nhìn thấy ông, tôi linh cảm có một sự gì khác thường - Hình
như có một mãnh lực vô hình nào xui khiến.
Đạo sĩ chăm chú nhìn giáo sư rồi ra dấu cho ông này ngồi xuống
bên gốc cây cổ thụ gần đó. Đạo sĩ lên tiếng:
- Sáng nay trong cơn thiền định, tôi nhận được một thông điệp
về các ông, do đó tôi mới rời am thất đi dạo bên ngoài. Phải chăng các ông muốn
tìm hiểu về phép tu Du Già (Yoga)? Đáng lý không bao giờ tôi tiết lộ điều này ,
nhưng tôi đã nhận thông điệp phải giúp đỡ các ông vậy thì ông cứ hỏi, tôi sẽ cố
gắng trả lời tùy theo sự hiểu của mình.
- Xin ông cho chúng tôi được biết về khoa Du Già (Yoga).
Đạo sĩ yên lặng trong chốc lát và lên tiếng:
- Không ai biết rõ pháp môn Du Già (Yoga) bắt đầu từ lúc nào
trong lịch sử. Kinh sách Ấn độ giáo (Hinduism) nói rằng thần Shiva truyền dạy
môn này cho hiền triết Gherandạ Nhà hiền triết dạy lại cho các đệ tử của ông
nhưng chỉ có Marteyanda là lãnh hội được các tinh túy và phổ biến trong giới
trí thức thời đó.
Du Già (Yoga) là một khoa học bao gồm nhiều thứ từ: thiên
văn, địa lý, triết học, toán học, v.v... Pháp môn tôi được truyền dạy gọi là
Hatha Yoga, chỉ là một phần nhỏ của toàn bộ Yogạ Theo lời sư phụ tôi thì trong
thời cực thịnh, Yoga phát triển khắp nơi và lôi cuốn giới hiền triết, trí thức
rất đông. Theo thời gian, thời hoàng kim đã qua, nhân loại đã sa vào hố thẳm của
sa đoa. vật chất, bị lôi cuốn vào các cám dỗ xác thịt. Để chống lại sự phá sản
tâm linh này, các hiền triết đã hội thảo để tìm một giải pháp. Sau cùng họ đi đến
kết luận là cho phép truyền dạy một phần của môn Yoga cho quần chúng, nhằm đem
lại một giải pháp cho giai đoạn lúc đó. Phần được truyền dạy này trích ở chương
Yuj (cái ách) gồm các phương pháp trói buộc tinh thần lẫn thể xác trong một kỷ
luật khắc khe để đạt mục đích tập trung Tâm và Thân làm một với bản thể trời đất.
Từ đó phần này được truyền bá khắp nơi và tồn tại đến ngày naỵ Vì trích ở
chương Yuj, nên nó được gọi là Yogạ Nên nhớ đây chỉ là một phần rất nhỏ của môn
Yoga nguyên thủy, vậy mà phần nhỏ này cũng chỉ rất ít người hiểu rõ một cách đứng
đắn. Đa số đã hiểu sai nên mới có các lối tập luyện kỳ dị, các lối tu khổ hạnh
điên rồ, các tư thế lố bịch. Như các ông thấy, có các đạo sĩ nằm bàn đinh, dơ
cánh tay lên trời cho đến khi nó khô liệt. Sự luyện tập như thế không có ích gì
mà cũng chả mang lại một kết quả gì. Đó là những kẻ làm hoen ố danh dự một môn
khoa học như Yoga. Đối với đa số, Yoga đã bị hạ thấp xuống thành một môn thể dục
để thân thể khoẻ mạnh cường tráng.
Tuy thế, nếu luyện thế đúng cách nó vẫn mang lại nhiều kết quả
tốt cho thể xác. Nhưng các đạo sĩ (Yogi) lại khác, họ biết rằng luyện tập môn
này sẽ giúp họ khám phá các năng lực tiềm tàng, mầu nhiệm, giúp họ đạt các phép
thần thông biến hóa.
Để luyện ý chí, họ tập trung năng lực vào các việc như hành
xác, bắt nó chịu các thử thách cực độ như phơi nắng, dầm sương, ngồi trên than
hồng, đứng bằng tay, tréo chân lên cổ, nhịn đói, nhịn khát, lấy gươm xiên vào
da thịt, v.v…
Để chứng minh quyền năng ý chí, họ đem trò này ra biễu diễn
cho quần chúng để tìm cách vừa kiếm tiền, vừa hưởng sự kính trọng của đám dân
chúng khờ khạo.
Mục đích của Yoga đâu phải làm trò lạ mắt cho người đời kính
phục.
Giáo sư Spalding ngắt lời:
- Nhưng ta có nên trách họ không? Nếu các đạo sĩ chân tu dấu
kín các phép tu chân truyền thì sự hiểu lầm làm sao tránh khỏi.
Đạo sĩ mỉm cười thong thả giải thích:
- Một ông vua có khi nào phơi bày ngọc ngà, châu báu cho mọi
người coi chơi. Ông ta cất dấu cẩn thận có phải thế chăng? Pháp môn Yoga còn gì
quý bằng nên người tu chân chính không khi nào đem rao bán ngoài chợ. Kẻ nào
thành tâm muốn học hỏi phải ra công tìm kiếm và đó là phương pháp duy nhất. Một
danh sư không cần quảng cáo rầm rộ vì không cần các đệ tử xúm vào xưng tụng.
Trái lại, ông tuyển chọn đệ tử gắt gao và chỉ truyền dạy các giáo lý bí truyền
khi người đệ tử tỏ ra xứng đáng. Khoa Yoga bí mật vì cách luyện tập rất nguy hiểm
đối với người non kém, chưa đủ khả năng. Khai mở các bí huyệt đâu phải trò chơi
tầm thường.
Có rất nhiều môn Yoga khác nhau, nhưng tôi tu luyện theo môn
Hatha Yoga, nhắm việc chủ trị xác thân trước khi chủ trị tinh thần. Lúc đầu ta
phải luyện tập bắp thịt và bộ máy hô hấp cho thật thuần thục, sau đó mới đi vào
thần kinh, não tuỷ. Nếu tập đúng cách, sức khoẻ sẽ tăng cường, sống lâu và có ý
chí mạnh mẽ. Đó chỉ là giai đoạn nhập môn, nó đòi hỏi ít nhất từ một đến bốn
năm mới đáng kể. Thân thể có cường tráng, tinh thần có dũng mãnh mới có thể tiếp
tục bước vào giai đoạn kế tiếp.
Giáo sư Spalding gật gù:
- Như thế môn này khác phương pháp thể dục của người Âu Mỹ thế
nào? Chúng tôi cũng có các cách khiến thân thể khỏe mạnh.
- Người Âu Mỹ biết cách làm thân thể nẩy nở trên bộ da, bắp
thịt, làm sao so với lối luyện tập của người Á châu, vốn chú trọng từ bên trong
ra đến bên ngoài. Trước hết có bốn cách thức căn bản: Nghỉ ngơi làm xoa dịu thần
kinh, cân não. Tĩnh toa. để tập trung ý chí. Điều tức để tẩy uế thân thể, khu
trục các chất cặn bã, và Khí công để kiểm soát hơi thở. Hãy lấy một thí dụ giản
dị như việc nghỉ ngơi, hãy quan sát con mèo khi nó nằm yên hay rình bên lỗ chuột.
Con mèo biết cách dưỡng sức, bảo tồn sinh lực không hao phí chút nào. Mọi cử động
tư thế là cả một sự suy nghĩ, kiểm soát để thoải mái tối đạ Người Âu các ông tưởng
mình biết nghỉ ngơi, nhưng thật ra các ông không biết gì cả. Các ông ngồi trên
ghế một lúc rồi quay bên này, ngả bên nọ. Khi thì tréo chân, lúc lại dang tay,
coi thì thoải mái nhưng trí óc các ông hoạt động liên miên từ việc này đến việc
nọ. Như thế chỉ là hoạt động ầm thầm chứ đâu phải nghỉ ngơi. Loài vật biết cách
dưõong sức bởi vì chúng có bản năng dìu dắt mà bản năng là tiếng nói tự nhiên.
Loài người được hướng dẫn bằng lý trí, nhưng thay vì làm chủ lý trí, họ đã
không kiểm soát được bộ Óc của họ, nên hậu quả là cả hệ thống thần kinh thể xác
thể đều bị ảnh hưởng. Sự nghỉ ngơi hoàn toàn gần như không có.
Giáo sư Spalding thở dài thú nhận:
- Đó là điều chúng tôi không bao giờ nghĩ đến, nhưng liệu ông
có thể nói rõ hơn về khái niệm sơ đẳng môn Hatha Yoga không?
- Tôi chỉ có thể nói một vài tư thế giúp con người tăng cường
sức khoẻ thôi. Có hai mươi tư thế (Asana), mà ai cũng có thể tập luyện để tăng
cường sinh lực. Các tư thế này có ảnh hưởng đến một số bí huyệt khiến nó tác động
lên các cơ quan suy yếu, giúp nó hoạt động trở lại mạnh mẽ hơn. Khoa học Tây
phương đã chứng minh rằng ngoài các mạch máu chính, thân thể con người còn có
hàng triệu các vi ti mạch chạy khắp nơi để đưa dưỡng khí nuôi cơ thể. Nếu một
cơ quan hay bắp thịt ít hoạt động hay suy yếu, thì số lượng các vi ti mạch
(capillaries) cũng giảm bớt đi. Tập thể thao hay bơi lội có thể làm các mạch
máu nhỏ này gia tăng hoạt động, khiến cơ quan phục hồi. Cũng như thế, tập các
tư thế Yoga sẽ làm luồng hoa? hầu (Prana) lưu chuyển, kích động các cơ quan từ
trong khiến nó hoạt động nhưng tập Yoga làm nó hoạt động đúng với hiệu năng sẵn
có. Do đó, nó mang lại nhiều hiệu quả thần diệu hơn. Con người không có lo gì bệnh
tật nữa, nếu có bệnh cũng sẽ khỏi hoàn toàn.
Giáo sư Spalding lắc đầu:
- Tôi không tin người Âu Mỹ sẽ chấp nhận việc tập Yoga chữa
được hết bệnh tật.
Đạo sĩ mỉm cười:
- Một thân thể khỏe mạnh, cường tráng làm sao có thể bị bệnh
được? Bệnh tật là do sự mất quân bình trong cơ thể. Người Âu Mỹ các ông chỉ biết
hoạt động chứ đâu biết nghỉ ngơi, thế đã là lý do gây nên các bệnh thần kinh rồi.
- Thôi được, xin ông nói thêm về cách tập luyện ra sao?
Đạo sĩ thong thả giải thích:
- Việc đầu tiên là phải ngồi cho thoải mái, ngồi trên ghế, nhất
là các ghế bành êm ái rất có hại cho xương sống, con đường vận hà chính của luồng
hoa? hầu (Prana), và là nguyên nhân gây nên các chứng đau lưng, bại xuội, phong
thấp. Phép ngồi thật ra rất dễ, chỉ cần ngồi xếp bằng dưới đất, không dựa vào
đâu, không nghiêng ngả bên nào, giữ cở thể thật thăng bằng, xương sống phải thật
thẳng và thở nhẹ, đều đặn. Ai cũng có thể thở nhẹ trong vài phút nhưng sau đó sẽ
lại thở loạn xạ ngaỵ Đó là vì bộ Óc quen hoạt động, quen náo nhiệt. Hãy giữ cho
lòng yên tĩnh, vắng lặng không bận rộn vào mọi chuyện vớ vẩn. Lúc đầu chưa quen
chủ trị tư tưởng thì hãy nghĩ đến một cái gì đẹp đẽ, mỹ lệ như bông hoa, giòng
suối. Đó là bước đầu cho việc nghĩ ngơi.
Giáo sư Spalding buột miệng:
- Như thế đâu có gì khó khăn lắm.
Đạo sĩ bật cười:
- Nghỉ ngơi cần gì phải khó khăn, phiền phức. Khi giữ được
xương sống thẳng và thở hít đều đặn, thì luồng chân khí sẽ lưu thông khắp cơ thể
và từ đó sẽ điều chỉnh các chỗ bế tắc, ứ đọng trong châu thân. Cách thứ hai là
nẳm ngửa trên mặt đất, chân duỗi thẳng, đưa hai ngón chân cái ra ngoài. Hai tay
buông xuôi bên thân mình, mắt nhắm lại để sức nặng toàn thân phân phối đều trên
sàn gạch. Nên nhớ phải nằm trên sàn chứ không phải trên giường, nhất là giường
nệm, vì giường mềm mại khiến thân thể lệch lạc không đều. Hãy nằm cho thoải
mái, không nên cố gắng thái quá, đầu óc phải thảnh thơi, chớ suy nghĩ hay mong
mỏi điều gì. Tư thế này sẽ xoa dịu bộ thàn kinh khiến nó lấy lại trạng thái
quân bình. Nên nhớ nền tảng chính của Hatha Yoga dựa trên sự nghỉ ngơi, dưỡng sức
chứ không phải hành xác với các tư thế vặn vẹo kỳ cục.
- Nhưng Yoga có các tư thế đó cơ mà?
- Vấn đề đứng ngồi với một tư thế đặc biệt trong một khoảng
thời gian không quan trọng, nhưng sự tập trung ý chí để thi hành tư thế đó một
cách đứng đắn sẽ thúc đẩy các mãnh lực tiềm tàng trong cơ thể con người. Những
mãnh lực này là bí mật của thiên nhiên, nó chỉ phát triển khi người luyện tập
phải kèm theo một phương pháp thở (Khí công). Tư thế giúp con người chủ trị
giác quan, hơi thở giúp con người mở cửa vào thế giới tinh thần. Nên nhớ tinh
thần và thể xác luôn đi song đôi. Không thể có một tinh thần bạc nhược trong một
thể xác tráng kiện, hay tinh thần minh mẫn trong một thể xác bệnh hoạn. Trong
giai đoạn cao của Hatha Yoga, thì hành giả sẽ phải tham thiền nhập định rất
lâu, thế ngồi của thể xác là điều quan trọng vì nó giúp sự tập trung tư tưởng
được dễ dàng, giúp hành giả tinh tấn, tăng cường ý chí…
- Nhưng tôi vẫn thắc mắc về các tư thế kỳ lạ, vặn vẹo thân
hình của Yoga như chổng ngược đầu, vắt chân lên cổ.
- Bạn nên nhớ, trung tâm bí mật của hệ thần kinh rải rác nhiều
chỗ trong cơ thể. Mọi tư thế có công dụng riêng, ảnh hưởng đến một bí huyệt nhất
định. Nhờ kích động các bí huyệt đó mà ta có thể ảnh hưởng các bộ phận trong cơ
thể, cũng như hoạt động trí não. Các tư thế lạ lùng chỉ dùng để kích động các
bí huyệt mà thôi. Ngoài ra không còn gì khác nữa. Bạn phải nhớ kỹ rằng ngoài
các tư thế còn có phương pháp khí công nữa, chứ không phải chỉ vận động các bắp
thịt thôi. Người Tây phương tập thể thao, vận động thể xác mạnh mẽ, tiêu phí sức
lực để làm nẩy nở bắp thịt. Người Á châu tin rằng chính cái sức mạnh ở trong mới
điều khiển và chỉ huy các bắp thịt. Bạn cho rằng phương pháp chổng ngược chân
lên trời (trồng cây chuối) là lố bịch ư? Tư thế này dồn máu xuống bộ Óc do trọng
lượng của nó. Bình thường máu được đưa lên óc do sức vận động của tim. Sự khác
biệt ở chỗ để máu tự nhiên dồn xuống óc xoa dịu cân não rất có lợi cho ai làm
việc nhiều bắng trí óc và giúp quả tim ngơi nghỉ không phải cố gắng để đưa máu
lên óc. Nhờ tim được nghỉ mà tránh được các chứng đau tim. Khi thực hành các tư
thế này phải cẩn thận, làm chậm rãi, từ từ, có ý thức, giữ vững tư thế trong một
thời gian, không nên cố gắng thái quá. Nên nhớ chìa khoá là ở sự nghỉ ngơi
thong thả, chứ không phải hùng hục. Môn Yoga giúp thân thể tự động điều hoà
trong sự yên tĩnh, thăng bằng, khác hẳn các lối tập thể thao co tay, múa chân
ào ạt của người Âu. Làm thế tuy bắp thịt cơ thể nẩy nở, nhưng thân thể náo động,
có hại cho thần kinh.
Giáo sư Spalding im lặng không thốt nên lời nào, tất cả những
gì người đạo sĩ này nói ra đều hợp lý, rất khoa học, không hề có tính chất mê
tín dị đoan như ông đã nghe các tu sĩ khác thần thánh hoá. Một người Âu trung
bình vốn coi rẻ dân tộc Á châu như loại người chậm tiến, di sản một miền nóng bức,
thiếu ăn, chắc phải ngạc nhiên khi thấy từ thời xưa người Ấn đã được giáo dục một
cách tập thể dục tối tân, tinh vi, và khoa học như thế.
Đạo sĩ Ấn nhìn ông mỉm cười như đoán được ý nghĩ:
- Yoga là khoa học của vũ trụ, nó không những chỉ áp dụng
riêng đối với dân Á châu, mà là khắp nơi. Tôi không thể đi sâu vào chi tiết
nhưng dù sao duyên hội ngộ lần này cũng tốt đẹp. Tôi giúp ông bạn một chìa khoá
bí truyền này. Luật thiên nhiên định rằng trung bình con người thở với số nhịp
là 21.600 lần mỗi ngày. Sự hô hấp quá nhanh làm gia tăng nhịp điệu nói trên và
thu ngắn sự sống. Sự hô hấp chậm rãi, kéo dài, đều đặn là tiết kiệm sinh lực và
kéo dài sự sống, đó là bí quyết khoa Khí công. Mỗi hơi thở tiết kiệm sẽ tích tụ
lại thành một số dự trữ giúp ta kéo dài sự sống. Các đồ ăn có chất kích thích
hay hút thuốc làm cho hơi thở dồn dập, giảm số lượng dưỡng khí vào phổi, tất
nhiên làm ta giảm thọ nhanh. Có lẽ ông bạn còn nghi ngờ? Khoa Yoga ý thức rất
rõ sự liên quan chặt chẽ giữa cơ quan hô hấp và tuần hoàn. Cả hai cơ quan này
liên hệ mật thiết với hệ thần kinh. Bộ thần kinh là chìa khóa vào cánh cửa tâm
linh, do đó, hơi thở chính là lối vào tinh thần. Nhưng hơi thở chỉ là sự biểu lộ
trên địa hạt vật chất của một sức mạnh tế nhị hơn. Sức mạnh này mới là cột trụ
sinh hoạt xác thể, và chính cái sức mạnh vô hình, vô ảnh ẩn tàng trong cơ thể
chúng ta mới thực sự điều khiển đời sống. Khi nó rời xác thân thì hơi thở ngừng
lại và sự chết đến. Sự kiểm soát hơi thở giúp ta làm chủ một phần nào luồng
sinh lực vô hình này. Khi sự chủ trị thân xác được thực hiện đến mức cao siêu,
con người sẽ kiểm soát được sự vận động các cơ quan trong thân thể như tim, gan
,bao tử, phổi…
- Làm sao có thể được, tim ngừng đập là chết rồi còn gì? -
Giáo sư Spalding kêu lớn.
- Bạn không tin ư, được bạn hãy để tay lên ngực tôi.
Giáo sư Spalding để tay lên ngực đạo sĩ và tay kia bắt mạch.
Một sự rung động lạ lùng xảy ra, nhịp tim đập của đạo sĩ từ từ chậm dần và
ngưng hẳn. Đây là một ảo tưởng? Giáo sư vội đưa tay xem đồng hồ, đúng một phút
im lặng, rồi quả tim bỗng bắt đầu đập trở lại. Đạo sĩ mỉm cười giải thích :
- Bây giờ thì ông tin rồi chứ? Có lẽ ông nghĩ rằng điều này
phản khoa học, tôi xin lấy thí dụ sau mà ông có thể kiểm chứng được. Con voi thở
chậm hơn con khỉ do đó nó sống lâu hơn. Quan sát lối hô hấp loài vật như con rắn
chẳng hạn, nó thở rất chậm nên sống lâu hơn con chó. Nếu nghiên cứu kỹ, bạn sẽ
thấy sự liên hệ mầu nhiệm giữa hơi thở và sự sống lâu. Một kẻ sống đời êm đềm,
sống lâu hơn người có đời sống vội vã, náo nhiệt. Có các giống dơi ngủ suốt mùa
đông. Chúng treo cẳng trên vách đá ngưng thở nhiều tháng, và chỉ tỉnh giấc khi
xuân đến. Con gấu cũng ngủ suốt mùa đông như thế. Tại sao loài vật làm được mà
loài người lại không làm được? Đó đâu phải phản khoa học hay phản thiên nhiên.
Vì các khoa học gia kết luận rằng điều này không thể xảy ra nên không bao giờ họ
nhìn thêm điều gì nữa. Đối với người Á châu, bất cứ việc gì cũng có thể xảy ra
và thiên nhiên là ông thầy rất tốt.
- Nhưng như thế đâu có lợi gì, sống lâu thêm vài tháng, vài
giờ…
Đạo sĩ mỉm cười một cách bí mật trả lời:
- Một ngày nào đó, bạn sẽ hiểu lời tôi nói. Tôi không thể giải
thích gì thêm lúc này. Bạn có tin rằng nếu luyện tập pháp môn này đến mức cao
siêu, ta có thể thắng đoạt tử thần không? Bạn đồng ý rằng ngưng thở là chết,
và nếu ta giữ được hơi thở thì ta bảo tồn sự sống có đúng không?
- Bạn thân mến, một đạo sư có thể cầm giữ hơi thở không những
trong nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm và nhiều thế kỷ, tức là họ có thể kéo
dài sự sống theo ý muốn có đúng không? Ông bạn đã đồng ý ràng hơi thỏo ở đâu tức
là sự sống ở đó kia mà.
- Nhưng làm sao có ai giữ được lâu như thế?
- Khi bạn lên dãy Hy Mã Lạp Sơn, bạn sẽ gặp những người này
và điều này không lạ lùng như bạn nghĩ. Khoa Yoga chân truyền có thể đem lại
nhiều quyền năng bất ngờ, lạ lùng, nhưng đã mấy ai khổ công tập luyện. Trong thời
buổi điên đảo hiện nay, con người mê mải trong danh lợi, phù phiếm, các ảo ảnh
cuộc đời, làm gì có thì giờ suy nghĩ đến sinh hoạt tâm linh. Đó cũng là lý do
những người thực sự mong muốn một trạng thái tâm linh thường ẩn mình nơi hoang
vắng, các bậc đó không bao giờ phải đi tìm đồ đệ mà người tìm đạo phải đi kiếm
các ngài…
Giáo sư Spalding thắc mắc:
- Nhưng sống lâu trong hoang vắng để làm gì chứ?
- Hiện giờ đầu óc bạn vẫn còn suy nghĩ như người Âu, nghĩa là
lý luận theo một chiều. Muốn học hỏi bạn phải cởi bỏ các thành kiến sẵn có, thì
mới mong học hỏi những điều mới lạ. Một thời gian nữa bạn sẽ hiểu điều tôi muốn
nói. Dĩ nhiên, các bậc chân sư kéo dài đời sống vì những lý do chính đáng, cao
cả chứ đâu tham sống sợ chết như người thường. Trên dẫy tuyết sơn có những vị
đã sống cả trăm năm, có vị sống đến cả ngàn năm. Tất cả đều có những sứ mạng
riêng nên họ giữ nguyên thể xác. Một đạo sĩ thấp kém như tôi không đủ kiến thức
để có ý kiến. Tôi cho bạn biết trước một điều, bạn sẽ cầm về Anh móng tay của một
vị Lạt Ma đã sống hơn bốn trăm năm.
- Liệu ông có thể cho chúng tôi biết làm cách nào để kéo dài
đời sống như thế được?
- Có ba phương pháp kéo dài sự sống. Phương pháp thứ nhất là
luyện tập tất cả các tư thế (asana) cùng với môn khí công bí truyền cho thật
thuần thục tuyệt hảo. Phương pháp này chỉ có thể thực hiện dưới sự chỉ dẫn của
một vị danh sư đã có kinh nghiệm vì sai một ly đi một dặm, đó là chưa kể người
tập phải có một nếp sống tinh khiết, trong sạch hoàn toàn. Một ý niệm xấu khi
thiền định có thể làm loạn động hơi thở đưa đến tình trạng “tẩu hoa? nhập ma”,
điên loạn hoặc chết ngaỵ Phương pháp thứ hai là sử dụng dược chất, pha chế các
loại thuốc đặc biệt các loại cây cỏ hiếm hoi, phương pháp này cũng chỉ một thiểu
số biết cách bào chế và chỉ truyền lại cho các đệ tử riêng. Phương pháp luyện
đơn này chỉ được dùng trong trường hợp đặc biệt vì nó có các hiệu quả không thể
lường được. Phương pháp thứ ba là lối mở các kinh kỳ bát mạch, sinh tử huyền
quan rất khó giải thích theo khoa học thực nghiệm. Tôi chỉ có thế nói như thế
còn tin hay không là quyền của ông. Trong óc con người có một lỗ trống rất nhỏ
nằm sâu bên trong, và có một nắp đậy bên ngoài . Nơi cuối cùng của đốt xương sống
là sào huyệt của luồng hoa? hầu Kundalinị Sự truỵ lạc, trác táng làm tiêu hao
sinh lực, khiến con người trở nên già nua, cằn cỗi. Trái lại, nếu biết kiểm
soát ta có thể tiết kiệm sinh lực. Khi một người làm chủ toàn xác thân, y sẽ kiểm
soát được luồng hoa? hầu này. Chỉ những đạo sĩ Yogi thượng thặng mới dám luyện
tập đến luồng hoa? hầu, khiến nó thức tỉnh đi ngược lên trên theo xương sống
khai mở các bí huyệt, các trung tâm quan trọng nằm dọc theo lộ trình. Khi mở được
nắp đậy lỗ hổng ngay trong óc để luồng hoa? hầu Kundalini chui vào cư ngụ nơi
đây, ta sẽ khai mở nhiều quyền năng, cải lão hoàn đồng kéo dài sự sống. Sự khó
khăn nhất là việc mở được cái nắp đậy trên óc, việc này có khi cần sự trợ giúp
của một danh sư sử dụng nội lực giúp y đả thông kinh kỳ bách mạch. Việc này rất
khó vì kẻ táo bạo luyện công dễ mất mạng như chơi. Người thành công có thể kéo
dài sự sống như ý muốn và khi chết thể xác họ vẫn tươi tốt như khi còn sống, và
không hề hư hại…
Giáo sư Spalding im lặng, tât cả những điều vị đạo sĩ tiết lộ,
thật lạ lùng, ngoài tầm hiểu biết của khoa học. Chắc chắn khoa sinh lý học
không thể chấp nhận luồng sinh lực vô hình này. Có lẽ nó xuất phát từ trí tưởng
tượng của các đạo sĩ chất phác, mê tín chăng? Có nên tin hay không?
Như đọc đưọoc tư tưởng của giáo sư, đạo sĩ mỉm cười:
- Tôi biết ông bạn nghi ngờ vì các điều đó hoàn toàn trái với
lý thuyết khoa học nhưng bạn hỡi, minh triết bao trùm mọi khoa học, nó là khoa
học vũ trụ, so với môn khoa học thực nghiệm thì môn này chỉ là một mãnh vụn.
- Một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến vấn đề tôi vừa trình
bày, lúc đó tình trạng hiểu biết của nhân loại đã tiến hoá cao hơn bây giờ, nên
có thể hiểu biết một cách chính xác hơn. Bạn nên hiểu luật vũ trụ định rằng
khoa học thực nghiệm phải luôn luôn đi song song với sự tiến hoá của nhân loại.
Vài trăm năm trước có phải khoa học lúc đó thật là ấu trĩ so với bây giờ hay
không? Nếu đi ngược dòng lịch sử, bạn có thấy rõ mực tiến hoá của khoa học và
nhân loại luôn luôn bổ túc cho nhau không? Thời tiền sử, nói về nguyên tử lực
là điều vô lý và có nói cũng chả ai hiểu. Thời Trung Cổ, nếu có gỉang giải về
không gian sẽ bị kết án là phù thuỷ. Lịch sử Âu châu đã chứng minh rằng những
người thông minh quá đều bị chế nhạo, là điên khùng rồi bị thiêu sống. Đó cũng
là lý do các bậc danh sư không hề xuất hiện và các phương pháp tu hành được gìn
giữ cẩn thận, bí mật, chỉ những người thành tâm mới được dạy bảo.
- Nhưng có cách nào một người Âu như tôi được truyền dạy các
điều này không?
- Được lắm chứ, nhưng liệu bạn có sẵn sàng từ bỏ chốn phồn
hoa đô hội để ẩn mình nơi hoang vu, tịch mịch tu học không?
- Điều này… cũng được, nhưng tôi phải thu xếp công việc đã….
- Bạn có sẵn sàng từ bỏ mọi hoạt động vui thú phàm thục để
hoàn toàn dành cho việc thực hành pháp môn Yoga - không phải vài ngày, vài giờ, mà trọn đời.
- Nhưng chảng lẽ trọn đời chỉ có làm thế thôi… có lẽ khi tôi
già đã…
Đạo sĩ bật cười:
- Bạn mến, Yoga không phải một trò tiêu khiển trong lúc nhàn
rỗi hoặc khi tuổi già bóng xế. Người Âu các ông sao ham hoạt động và tham lam
quá vậy?
Giáo sư Spalding đỏ mặt cãi:
- Nhưng tập Yoga để làm gì? Kéo dài đời sống khổ hạnh thêm
vài năm có ích lợi gì đâu?
Đạo sĩ nghiêm mặt:
- Ai bảo mục đích Yoga là cầu sống lâu? Sống khổ hạnh mà
không có ý nghĩa để làm gì? Phần lớn các đạo sĩ luyện thân thể cường tráng sống
lâu hơn người khác chưa thấu hiểu được mục đích tối hậu. Bạn nghĩ các bậc chân
sư chỉ lo sống thêm ít lâu thôi hay sao? Người đời thường chỉ hiểu một chiều,
và đi ngay đến kết luận. Chinh phục thể xác chỉ là bước đầu đưa con người đến
việc chinh phục tinh thần. Giữ cho mình không hành động xấu thì dễ nhưng giữ
cho tâm không nghĩ xấu mới khó khăn gấp bội, và đòi hỏi nổ lực phi thường. Đời
người quá ngắn, việc tập luyện kiểm soát thể xác đã đòi hỏi nhiều năm, không đủ
để tu tập tinh thần. Do đó, các đạo sĩ mới kéo dài thêm đời sống. Môn Hatha
Yoga như tôi nói chỉ nhắm mục đích chủ trị xác thân, khi thành công phải tu tập
thêm Raja Yoga nhắm chủ trị tinh thần nữa chứ. Hatha Yoga dọn đường cho Raja
Yoga…
- Thế tại sao ta không tập Raja Yoga ngay có hơn không?
Đạo sĩ lại bật cười:
- Người Âu thật hấp tấp, muốn đi xa phải đi từ từ, phải tập
đi trước khi tập chạy chứ. Đốt giai đoạn là bảo đảm thất bại. Khi thể xác chưa
làm chủ nổi thì làm sao đã đòi làm chủ tinh thần…
Giáo sư Spalding nôn nóng:
- Nhưng làm sao tôi có thể học môn Raja Yoga, bạn có thể chỉ
cho tôi thêm về môn này không?
- Này ông bạn, việc gì cũng có duyên phận, nếu đủ duyên bạn sẽ
gặp thầy hay bạn giỏi. Hãy có một lòng khao khát chân lý rồi định mệnh sẽ dẫn dắt
bạn.
- Nhưng tôi đâu quen biết ai, các bậc chân sư đâu có tên
trong điện thoại niên giám - tôi làm sao gặp các ngài?
Đạo sĩ mỉm cười một cách bí mật.
- Hãy vững niềm tin, lòng khao khát cầu đạo có một tư tưởng mạnh
mẽ và chắc chắn sẽ được đáp ứng. “Hãy gõ cửa rồi cửa sẽ mở, hãy tìm rồi sẽ gặp”,
bạn quên rồi sao?
Giáo sư Spalding giật mình, một lần nũua câu nói quen thuộc trong
Kinh thánh lại được nhắc nhở bởi một đạo sĩ xứ Ấn. Ông bối rối không biết nói
gì. Đạo sĩ mỉm cười nói tiếp:
- Người Âu có tính tò mò, cái gì cũng muốn biết. Thực hành mới
là quan trọng, chứ biết suông để làm gì? Phương pháp rèn luyện tinh thần cũng giống
như thể xác thôi. Nếu tập lueỵ6n thể thao đều đặn thì bắp thịt sẽ nảy nở, rắn
chắc; thì rèn luyện tinh thần cũng vậy. Nhiều người có các tính xấu như ích kỷ,
tham lam, hà tiện, đa nghi… Do đó, họ hành động không tốt với người khác. Đa số
cho rằng đó là bản tính tự nhiên, không đổi được. Thật ra, nếu muốn ta có thể sửa
đổi mọi tính tình. Nếu một tập luyện đúng cách làm bắp thịt nở nang thì sự kiểm
soát thích nghi sẽ tạo các đức hạnh cần thiết. Kinh Rig Veda đã ghi rõ: “Kẻ
nào quan niệm sự tiến hoá một cách rõ ràng chính xác sẽ ý thức được quyền lợi
và hạnh phúc của mình. Muốn trở nên một bậc toàn thiện ta phải có các đức hạnh
và can đảm. Người nào muốn cải thiện xã hội phải biết cải thiện mình trước đã.
Phải biết quên quyền lợi riêng để chú tâm vào phận sự chung. Phải hiểu rằng các
cơ hội tiếp xúc với mọi người đều tạo cho ta cơ hội phụng sự. Phụng sự mọi người
chính là phụng sự thượng đế. Những người nhiệt tâm sửa mình phải ý thức quyền
năng vô hạn của tư tưởng vì hành động phát sinh từ tư tưởng. Người tìm đạo phải
biết kiểm soát tư tưởng của mình và sử dụng chúng một cách hợp lý và bác ái. Kiểm
soát tư tưởng là mục đích của môn Raja Yogạ Trở ngại lớn nhất của những người
luyện tâm, rèn chí là sự kiêu ngạo và óc chỉ trích. Với óc chỉ trích, con người
công kích tất cả họ sẵn sàng bôi nhọ mọi đức hạnh, tìm sự sai quấy ở khắp mọi
người. Người tu pháp Raja Yoga phải có thái độ ngược lại, phải tìm thấy điều
thiện ở tất cả mọi người và nhìn thấy mọi sự đều có cái lý riêng của nó. Có thế
họ mới giúp mình và người khác được. Trở ngại thứ hai là sự nông nổi, làm điều
này chưa xong, đã nhảy sang việc khác. Vừa bắt tay vào việc đã mong thấy kết quả
và nếu kết quả chưa như ý muốn liền bỏ điều theo đuổi, để nhảy sang một điều
khác. Rốt cuộc không có điều gì xong cả. Thái độ này không thể chấp nhận được.
Sự bền tâm kiên chí là điều cần thiết để chủ trị tư tưởng. Dĩ nhiên, kiếp người
ngắn ngủi không ai có thể trừ hết thói hư, tật xấu trong một kiếp, do đó, việc
tu hành cũng kéo dài trong nhiều kiếp sống. Khi đó họ sẽ ý thức các sự kiện vĩ
đại của sự sống vô cùng và rời bỏ cái bản ngã để hòa mình vào giòng tiến hoá của
vũ trụ, hoà nhập với Chân Ngã bất diệt.
- Như thế môn này sẽ giúp ta trở nên một vị thánh?
- Này ông bạn, đừng nên kết luận vội vàng. Con đường dẫn đến
quả vị tiên thánh đâu phải chỉ có một. Có nhiều con đường đưa đến chân lý và
không đường nào hơn đường nào. Đây là một điều vô cùng quan trọng mà bạn phải
ghi nhớ mãi mãi. Không một con đường nào hơn đường nào dù là Hatha Yoga hay
Raja Yoga hay là môn gì chăng nữa. Tại sao ta cứ nghĩ pháp môn này mới hay, tôn
giáo kia mới tốt? Không một đường nào có thể là duy nhất được. Tốt hơn cả hãy tự
biết mình. Thay vì tìm một chân lý tuyệt đối, hãy tìm sự tuyệt đối nơi mình vì
chân lý để sống chứ không phải để dạy.
Giáo sư Spalding im lặng không thốt lên câu nào. Lời nói của
đạo sĩ như có một sức mạnh vang dội trong lòng ông. Các thành kiến từ trước bỗng
tan biến hết và ông cảm thấy xúc động vô cùng.
- Này ông bạn, không một vị thánh nào vỗ ngực xưng danh mà chỉ
có các kẻ còn u mê trong bản ngã mới tha thiết đến danh vọng, địa vị. Khi họ
đeo đầy mình những chức tước, thì làm sao họ giải thoát được? Thượng đế ban
cho ta trí thông minh để nhận xét thì ta phải biết phân biệt chứ. Hãy nhìn
thành Benares với cả trăm đền thờ khác nhau, hàng ngàn giáo sĩ, tông phái. Ai
cũng tự nhận rằng phe mình gần thượng đế nhất. Tại sao suốt hai năm nay phái
đoàn các ông đã đi khắp nơi, thăm viếng mọi chỗ mà vẫn không thỏa mãn? Phải
chăng vì sự hiểu biết phân biệt của các ông đã cao, không chấp nhận sự mê tín,
mù quáng nữa. Kinh Gita nói rõ, “Thầy nào, trò nấy. Một tu sĩ chân chính không
có đệ tử bất hảo, và một đệ tử thông minh không tìm thầy bất lương”. Luật thiên
nhiên đã dạy “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Một người sáng suốt
đâu thể đi theo kẻ u mê… Một tu sĩ hiểu biết phải lo làm chủ chính mình để cầu
giải thoát chứ đâu phải lo lôi kéo đệ tử cho đông, xây cất các đền đài cho đẹp,
đễ tự hào về các thành quả này. Như thế là phô trương bản ngã, kiêu căng, ngã mạn
làm sao còn giải thoát được. Bạn hãy sử dụng lý trí và trực giác để phân biệt
những người này, nếu bạn tha thiết mong cầu chân lý thì chắc chắn điều mong ước
sẽ thành sự thật. Chúng ta gặp nhau thế này cũng đã quá đủ, đã đến lúc tôi phải
trở về am thất.
- Nhưng làm sao tôi sẽ gặp lại ông… tôi chưa biết tên ông.
- Hãy gọi tôi là Bramananda.
Giáo sư Spalding yên lặng nhìn vị đạo sĩ khuất dần qua hàng
cây rậm rạp. Bóng chiều từ từ rơi xuống trên sông Hằng.
Chương 3
Lawrence Keymakers là một người Anh giàu có, sống tại Benares
nhiều năm. Ông làm chủ nhiều xí nghiệp lớn và có một kiến thức rất rộng về xứ
này. Thương gia Lawrence khoản đãi phái đoàn trong toà biệt thự rộng, xây cất
bên bờ sông Hằng.
Sau câu chuyện xã giao, giáo sư Allen lên tiếng:
- Bạn nghĩ sao về những điều người Ấn gọi là Minh Triết
thiêng liêng và những sự kiện mê tín dị đoan xảy ra ngoài chợ?
Lawrence lắc đầu:
- Xứ này vẫn có những trò biểu diễn như thế, nhưng ngoài những
cái mà ta cho là ảo thuật hoặc mê tín dị đoan còn ẩn náu những ý nghĩa tâm linh
rất ít ai biết được. Muốn tìm hiểu phải nghiên cứu cặn kẽ chứ không thể kết luận
vội vã…
Giáo sư Oliver bật cười:
- Bạn cho rằng những trò ngồi bàn đinh, thổi kèn gọi rắn còn ẩn
dấu những ý nghĩ tâm linh hay sao?
- Tùy tâm trạng của mình mà xét đoán sự kiện, nếu ta nhìn nó
dưới cặp mắt của người Âu thì ta sẽ chỉ thấy nó là một trò múa rối, không hơn
không kém, nhưng nếu ta gạt bỏ các thành kiến, biết đâu ta chẳng học hỏi thêm
được nhiều điều.
Giáo sư Allen châm biếm:
- Bạn ở Ấn đã lâu, chắc đã học hỏi được nhiều điều mới lạ…
Lawrence mỉm cười:
- Đúng thế, tôi đã học hỏi rất nhiều và điều đầu tiên tôi học
được là sự khiêm tốn. Chỉ có sự khiêm tốn mới giúp ta học hỏi thêm những điều mới
lạ. Các bạn hãy nhìn ly nước đầy trên tay tôi đây, nếu tôi tiếp tục rót thêm
thì nước sẽ tràn ra ngoài. Trừ khi tôi đổ bớt nước trong ly đi thì tôi mới rót
thêm nước vào được. Kiến thức cũng thế, chỉ khi ta khiêm tốn gạt bỏ những thành
kiến có sẵn ta mới tiếp nhận thêm được những điều mới lạ. Các bạn muốn nghiên cứu
học hỏi những minh triết của xứ Ấn, nhưng vẫn giữ thành kiến của người Âu,
khinh bỉ mọi sự thì có khác chi ly nước đầy, làm sao rót thêm nước vào được nữa?
Mọi người im lặng, câu nói thẳng của vị thương gia ít nhiều
đã va chạm tự ái phái đoàn. Dù sao họ cũng là những khoa học gia nổi tiếng nhất
của Hoàng Gia Anh, lúc nào cũng được nể vì, kính trọng. Để phá tan bầu không
khí nặng nề, giáo sư Morimer chỉ một hình vẽ lạ lùng treo trên tường:
- Đây là hình vẽ gì vậy? Trông như các tinh tú thì phải…?
- Bạn nói đúng, đó là lá số tử vi của tôi.
Mọi người bật cười, giáo sư Allen khôi hài:
- Lá số tử vi? Lawrence thân mến, bạn đã trở thành người Ấn
hồi nào vậy?
Lawrence nghiêm mặt:
- Đây là một món quả vô giá của Sudeih Babu, nhà chiêm tinh
giỏi nhất Ấn độ.
Toàn thể phái đoàn phá lên cười, vì nghĩ đến những gã thầy
bói ngồi xổm bên lề đường. Khắp xứ Ấn, chỗ nào cũng có thầy bói, thầy tướng kiếm
ăn qua sự mê tín của dân chúng. Đồ nghề của họ là một vài cuốn sách bẩn thỉu,
vài niên lịch lạ lùng. Họ tự hào có thể biết rõ số phận sang hèn mọi người,
nhưng hình như không biết gì về số phận của chính họ.
Lawrence lắc đầu:
- Sudeih là một vị thầy, một người thuộc giai cấp thượng lưu
quý phái chứ không phải loại thầy bói hạ cấp. Y nghiên cứu tử vi từ nhỏ và có
thể biết trước nhiều điều quan trọng. Các bạn muốn khảo cứu hiện tượng huyền bí
sao không đến gặp y. Biết đâu y chả giúp các bạn, Sudeih có thói quen là không
bao giờ tiếp khách lạ nhưng y là bạn thâm giao của tôi, tôi sẽ hết lòng giới
thiệu.
Giáo sư Allen lắc đầu:
- Chúng tôi muốn nghiên cứu nền văn minh xứ Ấn, chứ không phải
xem vận mạng hên xui tốt xấu.
Lawrence mỉm cười bí mật:
- Như thế các bạn lại càng phải đến gặp nhà chiêm tinh này.
Các bạn nên nhớ dù muốn, chưa chắc Sudeih đã chịu tiếp các bạn. Chính tiểu
vương xứ Punjab đến xin yết kiến ba ngày, ba đêm mà Sudeih cũng không thèm tiếp…
Nhà chiêm tinh ở một biệt thự rộng lớn, quanh nhà trồng rất
nhiều cây cảnh. Đã có hẹn trước nên gia nhân mời tất cả mọi người vào trong
phòng khách. Đó là một căn phòng rất lớn, trang trí sang trọng như phòng một
ông hoàng.
Sudeih Babu là một người Ấn gầy gò, nhỏ bé, nhưng có một đôi
mắt sáng ngời, chứng tỏ một đời sống nội tâm dồi dào. Y di chuyển hết sức chậm
rãi như một con mèo và nói bằng một tiếng Anh rất đúng giọng và lịch sự:
- Keymakers cho biết các ông muốn tìm hiểu về khoa chiêm tinh?
Giáo sư Oliver nói ngay:
- Xin ông hiểu cho, chúng tôi muốn sưu tầm các hiện tượng huyền
bí chứ không hoàn toàn tin tưởng gì về môn này.
Babu im lặng nhìn mọi người, y lạnh lùng:
- Nếu các ông muốn, tôi có thể lấy lá số tử vi cho các ông.
Giáo sư Oliver nghi ngờ :
- Xin ông đừng dài dòng về tương lai và may rủi. Hãy nói thử
về quá khứ của tôi xem sao.
Babu gật đầu hỏi giáo sư Oliver vài câu về ngày sinh rồi y
phóng bút vẽ các ký hiệu lạ lùng lên một tờ giấy. Y chậm rãi tuyên bố:
- Ông sinh trưởng trong một gia đình thương gia. Từ nhỏ ông
nuôi mộng hải hồ thích du lịch, nhưng gia đình ông nghiêm khắc ngăn cấm. Thân
phụ Ông muốn con mình phải theo học về thương mại tại Oxford để nối nghiệp. Tuy
nhiên, ông lại có năng khiếu về khoa học, nên chỉ một thời gian ngắn ông đã
chuyển qua ngành Vật lý học. Cha ông giận quá, nhất định không giúp đỡ gì ông nữa.
Gia tài sự nghiệp truyền cho các em ông. Đến khi ông trở nên một khoa học gia lỗi
lạc của Hoàng Gia thì cha ông lại bắt ông trở về đi vào con đường chính trị. Dưới
áp lực gia đình, ông thành hôn với một thiếu nữ giòng dõi quý tộc. Cuộc hôn
nhân không mang lại hạnh phúc và ông vùi đầu trong phòng thí nghiệm để tìm
quên. Người vợ quen thói giao thiệp rộng đã phá nát tài sản, sự nghiệp và còn
ngoại tình. Cha ông buồn phiền, thất vọng qua đời. Ông chịu đựng người vợ suốt
18 năm cho đến khi bà ta từ trần. Sau khi thu xếp mọi việc, ông gia nhập phái
đoàn với mục đích rời xa Luân- đôn và thoa? mãn giấc mộng hải hồ.
Giáo sư Oliver ngồi im không thốt lên một tiếng, chứng tỏ những
điều Babu nói không sai. Một không khí nặng nề bao trùm căn phòng. Babu lạnh
lùng tiếp:
- Ông có muốn tôi nói thêm chi tiết hay nói về tương lai nữa
không?
Giáo sư Oliver lắc đầu xua tay, mặt mày tái nhợt như người vừa
trải qua một điều gì kinh khủng. Giáo sư lên tiếng:
- Nhưng tại sao các tinh tú ở xa lại ảnh hưởng đến từng cá
nhân được?
Babu thong thả trả lời:
- Nếu tinh tú ở xa quá thì khoa học thực nghiệm giải thích thế
nào về ảnh hưởng của mặt trăng đối với nước thuỷ triều lên xuống hoặc chu kỳ
trong thân thể đàn bà?
- Nhưng nếu tôi bị tai nạn thì điều đó ăn nhập gì đến các
hành tinh.
Babu lắc đầu mỉm cười:
- Các ông nên nghĩ thế này, tinh tú chỉ là biểu tượng mà
thôi. Tự nó không ăn nhập gì đến chúng ta hết, mà chính cái dĩ vãng của ta đã ảnh
hưởng đến đời sống hiện tại. Tinh tú chỉ phản chiếu lại cái ảnh hưởng này mà
thôi. Không ai có thể hiểu khoa chiêm tinh nếu họ không tin luật Luân Hồi
(Reincarnation). Con người chết và tái sinh trở lại trong nhiều kiếp. Định mệnh
của y theo dõi và ảnh hưởng lên đời sống của y theo luật Nhân Qủa (Karma -
cause and effect). Nếu ta không tin con người chết đi và đầu thai lại để học hỏi,
để tiến hóa, để trở nên một người toàn thiện, thì mọi sự đều là ngẫu nhiên hay
sao? Một thượng đế công bình, bác ái có lẽ nào dung túng điều này? Khi qua đời
thể xác hư thối tan rã nhưng tính tình, dục vọng, ý chí vẫn còn nguyên cho đến
khi ta đầu thai vào một kiếp sống mới thì những tính này sẽ trở nên cá tính
(personality) của kiếp sau. Các hành tinh chỉ là tấm gương ghi nhận các nguyên
nhân này và phản chiếu trở lại. Bất cứ một hành động nào cũng tạo nên một
nguyên nhân dù xấu hay tốt, ví như ta ném một trái bóng lên không trung. Trước
sau gì nó cũng rơi xuống vì trọng lượng và ảnh hưởng của sức hút trái đất,
nhưng đến khi nào nó rơi xuống còn tùy sức ném của ta nặng nhẹ ra sao. Khoa
chiêm tinh nghiên cứu các vũ trụ tuyến này để đoán được khi nào cái nguyên nhân
trước sẽ trở lại. Babu im lặng một lúc và thong thả giải thích thêm. Trước khi
đi xa hơn, tôi muốn các ông hiểu lịch sử chiêm tinh để có một cái nhìn thật đứng
đắn. Từ ngàn xưa, chiêm tinh học vẫn được coi là một khoa học quan trọng. Chiêm
tinh gia chỉ đứng ở địa vị thứ hai, sau Giáo sĩ mà thôi. Đối tượng của khoa
chiêm tinh là vũ trụ. Tiếc thay phần này đã bị thất truyền, chỉ còn phần nhỏ
nói về sự liên hệ giữa con người và các bầu tinh tú, còn được lưu truyền đến
nay và được xem là khoa bói toán. Khoa chiêm tinh có từ lúc nào không ai biết,
nhưng hiền triết Bhrigu đã truyền dạy các môn đồ của ông vào khoảng 6000 năm
trước. Nòng cốt của nó nằm trong bộ sách Brahma Chinta, do ông soạn ra. Bhrigu
có bốn đệ tử. Người thứ nhất rất giỏi về khoa học đã đi sang Ba Tư (Iran) lập
nghiệp, từ đó ngành chiêm tinh đi về hướng Tây và ảnh hưởng đến Hy Lạp và La Mã
sau này. Người thứ hai rất giỏi về triết học đi về phương Đông, sang Trung Hoa
truyền bá ngành này ở đây. Người thứ ba thích nghiên cứu những hiện tượng siêu
hình đã lên Tuyết Sơn nhập thất và sau truyền môn này cho dân chúng Tây Tạng.
Người thứ tư ở lại xứ Ấn, và làm đến chức quốc sự Bộ sách Brahma Chinta được coi là quốc bảo cất trong cung điện. Sau này, các hoàng tử tranh cướp ngôi vua đã giành nhau bộ sách quý. Sau mấy chục năm chinh chiến, bộ sách được phân chia làm nhiều phần, mỗi ông Hoàng giữ một mảnh, và tứ đó khoa chiêm tinh trở nên thất truyền - Các mảnh vụn này đã được các thầy bói sưu tầm, ghi chép lại để kiếm ăn, nhưng họ chỉ nắm một vài then chốt chứ không sao hiểu hết. Như các ông thấy, căn nhà này rất lớn, gồm có 49 phòng, mỗi phòng đều chứa đầy các sách vở do tôi sưu tầm. Tất cả gia tài sự nghiệp của tôi đều được sử dụng để sưu tầm các sách cổ… Tôi xuất thân từ một gia đình hoàng tộc nhưng tôi chỉ ham mê khoa chiêm tinh. Tôi bỏ ra mấy chục năm nghiên cứu, theo học các vị chiêm tinh gia nổi tiếng cho đến khi sưu tầm được bộ Brahma Chintạ Dĩ nhiên, bộ sách này nguyên bản mấy ngàn trang nhưng tôi chỉ sưu tầm được có vài trăm trang và tốn gần 20 năm nghiên cứu nó.
Người thứ tư ở lại xứ Ấn, và làm đến chức quốc sự Bộ sách Brahma Chinta được coi là quốc bảo cất trong cung điện. Sau này, các hoàng tử tranh cướp ngôi vua đã giành nhau bộ sách quý. Sau mấy chục năm chinh chiến, bộ sách được phân chia làm nhiều phần, mỗi ông Hoàng giữ một mảnh, và tứ đó khoa chiêm tinh trở nên thất truyền - Các mảnh vụn này đã được các thầy bói sưu tầm, ghi chép lại để kiếm ăn, nhưng họ chỉ nắm một vài then chốt chứ không sao hiểu hết. Như các ông thấy, căn nhà này rất lớn, gồm có 49 phòng, mỗi phòng đều chứa đầy các sách vở do tôi sưu tầm. Tất cả gia tài sự nghiệp của tôi đều được sử dụng để sưu tầm các sách cổ… Tôi xuất thân từ một gia đình hoàng tộc nhưng tôi chỉ ham mê khoa chiêm tinh. Tôi bỏ ra mấy chục năm nghiên cứu, theo học các vị chiêm tinh gia nổi tiếng cho đến khi sưu tầm được bộ Brahma Chintạ Dĩ nhiên, bộ sách này nguyên bản mấy ngàn trang nhưng tôi chỉ sưu tầm được có vài trăm trang và tốn gần 20 năm nghiên cứu nó.
Babu mỉm cười nhìn giáo sư Oliver:
- Bạn Oliver thân mến, lá số tôi lấy cho ông rất khác thường
so với người Âu. Tin hay không tùy ý bạn, đúng hay sai, chỉ bạn biết, nhưng tôi
muốn nói thêm rằng các nghiệp quả đã trả xong. Đời bạn đã bước vào một khúc
quanh quan trọng. Lá số cho thấy bạn đã đến bên thềm Đạo và sẽ được một sự dìu
dắt của một hiền giả.
Giáo sư Oliver cảm động xiết chặt đôi tay gầy guộc của nhà
chiêm tinh. Toàn thể phái đoàn cũng xúc động không kém. Khi trưóoc họ đã nghi
ngờ khoa bói toán, nhưng sự kiện vừa xảy ra đã thay đổi tất cả. Không ai ngờ
giáo sư Oliver lại có một đời sống cá nhân bất hạnh như thế.
Babu đưa toàn thể phái đoàn đi xem những căn phòng chứa sách
với những tủ lớn chứa đựng hàng ngàn cuốn sách cổ. Giáo sư Mortimer, một nhà khảo
cổ học của trường Harvard đã phải kinh ngạc trước kho tàng sách vở vô giá này.
Có những bộ sách viết trên lá buôn (payrus) cả ngàn năm trước, xen lẫn các tài
liệu khắc trên gỗ vào thế kỷ thứ 6. Toàn thể phái đoàn có cảm tưởng như phần lớn
kho Minh Triết xứ Ấn đều tập trung nơi đây. Giáo sư Mortimer lên tiếng:
- Những sách vở này nói về những gì vậy?
- Đó là những sách về vấn đề Tôn Giáo, Minh Triết Cổ Truyền,
Triết Học Ấn độ.
- Như thế ông cũng là một triết gia?
Babu mỉm cười:
- Một người không hiểu về triết lý sẽ chỉ là một hạng chiêm
tinh tồi hay thầy bói hạ cấp.
- Ông có thu nhận đệ tử không?
- Có rất nhiều người đến xin tôi dạy dỗ nhưng tôi từ chối vì
thấy họ không đủ thiên tư để lĩnh hội hay không đủ ý chí để đi đến cùng. Tôi
nghĩ mình chưa đủ sức làm thầy ai hết mà chỉ là một người ham mê nghiên cứu,
cũng như các ông là những khoa học gia say mê kiến thức khoa học.
- Nhưng ông cũng dùng chiêm tinh để hướng dẫn đời mình chứ?
Ông có thể xem được quá khứ vị lại kia mà.
Babu lắc đầu:
- Không đâu, tôi đã tìm thấy ánh sáng Chân Lý, và không cần đến
khoa chiêm tinh nữa. Khoa học này chỉ hữu ích cho những kẻ còn lần mò trong
bóng tối. Tôi đã hoàn toàn trao trọn đời mình vào tay thượng đế (brahman).
Không còn lo nghĩ, ưu phiền gì về tương lai nữa. Bất cứ điều gì xảy ra tôi cũng
chấp nhận như ý muốn của Ngài.
- Nếu ông bị kẻ hung dữ hãm hại làm lâm nguy tính mạng thì
ông có cho đó là thiên ý không? Ông sẽ làm gì để tự vệ chứ?
- Tôi biết rằng trong khi nguy cấp chỉ cần cầu nguyện là đủ.
Cầu nguyện là cần thiết vì lo âu chẳng ích gì. Nhiều khi tôi gặp khó khăn, lúc
đó tôi ý thực sự giúp đỡ của thượng đế hơn bao giờ hết. Các bạn có biết rằng
tôi đã xé bỏ lá số tử vi của mình từ khi tìm thấy ánh sáng Chân Lý. Tôi tin chắc
rằng con người có thể cải tạo tinh thần để hoà hợp với thượng đế, còn các việc
xảy ra do hậu quả của quá khứ ta không thể thoát được thì lo lắng có ích gì?
Ý niệm về thượng đế là điều phái đoàn luôn luôn nghe nói đến,
người dân Á châu có một tinh thần tôn giáo rất mạnh, tôn sùng thượng đế quá nhiệt
thành. Họ đâu hiểu rằng người Âu vốn có óc hoài nghi, thường thay thế cái đức
tin đơn giản bằng cái lý trí phức tạp. Làm sao họ có thể hiểu rằng thượng đế chỉ
là một quan niệm, một giả thuyết cũng như trăm ngàn giả thuyết khác nghĩa là cần
phải chứng minh cụ thể.
Babu mỉm cười như đọc được ý nghĩ mọi người:
- Này các bạn, cái lý trí tự cao tự đại của con người không
có ích gì cả. Chỉ khi nào họ đạt đến trạng thái tĩnh lặng của tâm hồn, họ mới ý
thức các luật huyền bí vũ trụ và sự nhỏ bé của con người. Khi tách khỏi trạng
thái u mê của lý trí, họ mới ý thức sự an lạc tuyệt vời khi hoà hợp với thượng
đế.
Giáo sư Allen lắc đầu:
- Tại sao ông không nghĩ rằng đó là một ảo ảnh? Một sự tưởng
tượng?
Babu bật cười:
- Này các bạn, một bà mẹ sinh con có khi nào lại nghi ngờ rằng
đứa con đó không có thật. Khi hồi tưởng lúc lâm bồn, có khi nào bà ấy cho rằng
đó chỉ là một sự tự kỷ ám thị? Khi nhìn đứa con mỗi ngày một lớn khôn làm sao
bà mẹ lại nghĩ rằng đứa bé không hiện hữu? Sự giác ngộ tâm linh là một biến cố
vô cùng quan trọng trong đời người, mà không ai có thể quên được vì từ đó, con
người hoàn toàn thay đổi, trở nên một người mới.
Babu liếc mắt nhìn toàn thể phái đoàn, tất cả đều là những
giáo sư, khoa học gia danh tiếng nhất… Y mỉm cười tuyên bố:
- Chúng ta chỉ mới ở vào buổi bình minh của khoa học, nhưng mỗi
khám phá mới, mỗi kiến thức mới, đều đem lại cho chúng ta một bằng chứng rằng,
vũ trụ này là công trình của một đấng hoá công. Hãy lấy một thí dụ toán học cho
dễ hiểu. Nếu ta bỏ vào túi 10 thẻ nhỏ, mỗi thẻ có ghi từ số 1 đến số 10, và tuần
tự rút ra từng cái một. Sau khi rút xong ta lại bỏ thẻ vào túi, trộn đều và rút
ra lần nữa. Làm sao ta có thể rút tuần tự từ số 1 đến số 10? Theo toán học, ta
phải rút mười lần, mới có một lần rút được thẻ mang số 1. Phải rút 100 lần mới
có một lần rút được số 1 và 2. Phải rút 1000 lần mới được số 1, 2, 3 liên tiếp.
Nếu muốn rút theo thứ tự từ 1 đến 10, thì trường hợp đặc biệt này chỉ có thể xảy
ra một lần trong mười tỷ lần, có đúng không? Nếu áp dụng toán học vào các điều
kiện tạo đời sống ở quả đất này, thì ta thấy nguyên lý ngẫu nhiên không sao hội
đủ các điều kiện cần thiết. Vậy thì ai đã tạo ra nó? Trái đất quay quanh trục
của nó với vận tốc 1600 cây số một giờ ở giữa đường xích đạo. Nếu nó quay chậm
10 lần thì ngày sẽ dài gấp 10 và dĩ nhiên sức nóng của mặt trời cũng gia tăng gấp
10 lần. Thế thì cây cối, sinh vật đều bị thiêu sống hết còn gì. Nếu cái gì chống
được sức nóng cũng chết lạnh vì đêm cũng dài ra gấp 10 và sức lạnh cũng tăng
lên gấp 10 lần kia mà. Ai đã làm trái đất quay trong một điều kiện tốt đẹp như
thế? Mặt trời là nguồn sống của quả đất phải không? Mặt trời nóng khoảng 5500
độ bách phân. Quả địa cầu ở đúng một vị trí tốt đẹp không xa quá mà cũng không
gần quá. Vừa vặn đủ để đón nhận sức nóng của mặt trời. Nếu sức nóng mặt trời
gia tăng một chút, ta sẽ chết thiêu, và ngược lại nếu sức nóng mặt trời giảm đi
một chút, ta sẽ chết rét. Tại sao trái đất nằm ở điều kiện thuận lợi như vậy?
Trục trái đất nghiêng theo một toa độ là 23 độ. Nếu trái đất đứng thẳng, không
nghiêng theo bên nào thì sẽ không có thời tiết bốn mùa. Nước sẽ bốc hơi hết về hai
cực và đồng thành băng giá cả. Mặt trăng là một vệ tinh của trái đất, điều khiển
thuỷ triều biển cả. Nếu nó không cách xa trái đất 380 000 cây số mà xích lại gần
hơn 80 000 cây số thì một cuộc hồng thuỷ sẽ xảy ra. Nước sẽ bị sức hút dâng lên
ngập tất cả các lục địa mỗi ngày hai lần. Tóm lại tất cả mọi đời sống trên mặt
địa cầu sẽ biến mất, nếu các điều kiện sai lệch đi một lỵ Nếu nói rằng đời sống
chỉ là một sự ngẫu nhiên thì trong tỷ tỷ lần may ra mới có một điều kiện tốt đẹp
hoàn toàn để có được sự sống như thế.
Babu quay sang nhìn giáo sư Allen, một nhà sinh vật học của
trường Harvard:
- Nếu toán học xem có vẻ trừu tượng quá, hãy thử quan sát
thiên nhiên dưới cái nhìn của khoa sinh vật học (Biology) xem sao. Với khả năng
sinh tồn của mọi vật, ta thấy sự hiện diện của tạo hoá rất chu đáo. Sự sống
không có sức nặng hay bề đo mà mạnh mẽ làm sao. Bạn hãy nhìn một rễ cây non nớt,
mềm yếu, vậy mà nó có thể soi nứt một tảng đá cứng rắn. Sự sống chinh phục
không khí, đất, nước. Nó thống trị mọi nguyên tố, nó bắt buộc vật chất tan rã rồi
lại kết hợp thành các hình thể mới. Sự sống là nhà điêu khắc nặn thành những
hình thể mới lạ, là họa sĩ vẽ những cảnh vật thiên nhiên tô điểm cho tạo hóa.
Sự sống cũng là nhạc sĩ dạy chim hót thánh thót, dạy côn trùng ngân nga, là nhà
hoá học chế các hương thơm, quả ngọt. Sự sống từ các loài thảo mộc thu hút thán
khí biến thành dưỡng khí nuôi muôn loài. Hãy nhìn những giọt nguyên sinh chất
(protoplasm) trong suốt gần như vô hình, mắt ta không thể nhìn thấy, mà nó di động
nhờ hấp thụ sinh khí thái dương. Chính cái tế bào đơn độc này chứa mầm sống của
muôn loài, và là cội nguồn của toàn sự sống theo khoa học thực nghiệm. Tự nó
không tạo ra sự sống vậy thì sự sống ở đâu đã đến. Này các ông bạn, cá hồi
(salmon) sinh ra ở nước ngọt, theo dòng nước ra biển và sống ở đây cho đến khi
trưởng thành rồi lại trở về nguồn. Hãy nhìn nó lội ngược dòng về sinh quán, nó
bơi một mạch đâu hề phân vân lưỡng lự. Nếu ta bắt nó đem đến một chỗ khác, nó vẫn
trở lại nơi xưa. Ai đã dạy cho nó phân biệt một cách chắc chắn như vậy? Loài
lươn biển cũng thế, chúng rời sinh quán từ các ao hồ, sông lạch khắp nơi trên
thế giới để bắt đầu một cuộc du hành đến tận ngoài khơi quần đảo Bermudạ Muốn đến
đây, một con lươn Âu châu phải đi gần 4000 cây số, lươn Á châu phải đi xa hơn,
có khi gần 8000 cây số. Chỉ tại đây chúng mới sinh sản và chết. Các con lươn
con sinh ra tại đây không biết gì về sinh quán mà vẫn trở về quê hương xa xôi của
cha mẹ chúng nó. Biết tìm về một cái lạch ở Pháp hay một cái hồ ở Nam dương. Giống
nào về nhà giống đó, một con lươn Pháp không bao giờ bị bắt ở Ấn độ và một con
lươn giống Thái lan không bao giờ đi lạc sang Phi châu. Ai đã ban cho loài lươn
nguồn cảm kích phân biệt như thế? Ai đã hướng dẫn những con lươn bé bỏng trên
đường phiêu du ngàn dặm như vậy? Chắc chắn không thể do ngẫu nhiên phải không
các bạn?
Toàn thể phái đoàn kinh ngạc trước kiến thức quảng bác của
nhà chiêm tinh gầy gò, bé nhỏ. Không ai ngờ một xứ chậm tiến như Ấn độ lại có một
nhà bác học uyên thâm như vậy. Babu mỉm cười nói tiếp:
- Có lẽ các ông còn nhiều phân vân, thôi được hãy nói về yếu
tố di truyền cho thực tế hơn. Yếu tố này là một mầm sống nguyên thuỷ rất nhỏ chứa
đựng trong tất cả các tế bào. Mọi sinh vật đều có đặc điểm di truyền khác nhau.
Yếu tố này cho ta thấy rõ sự sống đã được trù định từ trước vì một cái cây sẽ tạo
ra một cái cây, chứ không phải con vật. Từ các loại sinh vật bé nhỏ như con kiến
đến các loài sinh vật to lớn như cá voi đều chịu sự chi phối của yếu tố này. Điều
này chắc chắn không phải ai nghĩ ra hay ngẫu nhiên phải không? Chỉ có đấng
sáng tạo mới có đủ quyền năng làm các việc đó. Này các bạn, khắp nơi trong vũ
trụ đâu đâu cũng có một sự quân bình tuyệt đối, không loài nào lấn át loài nào.
Hãy nhìn loài côn trùng, chúng sinh sản rất nhanh mà sao không chiếm quả đất? Ấy là vì chúng không có bộ phổi như loài có vú (mammal). Chúng thở bằng khí quản (trachea) và khi chúng lột xác lớn lên, khí quản không lớn theo nên thân thể chúng bị giới hạn trong khuôn khổ nhất định. Con người hơn loài thú ở điểm lý trí. Bản năng con thú tuy kỳ diệu, nhưng bị giới hạn. Bộ Óc con người tuyệt vời ở chỗ nó có thể vượt xa tầm giới hạn của nó. Muốn quan niệm sự hiện hữu của thượng đế, cần phải có một năng khiếu mà chỉ loài người mới có. Ta có thể gọi nó là trí tưởng tượng cũng được, nhưng nhờ nó mà con người mới thu nhận các sự kiện vô hình, vô ảnh. Trí tưởng tượng mở cho ta một chân trời bao la và nhờ thế ta mới ý thức một thực tại tuyệt diệu rằng thượng đế là tất cả, ngài ở khắp mọi nơi, nhưng không ở đâu ngài hiện rõ như trong tâm hồn chúng ta.
Hãy nhìn loài côn trùng, chúng sinh sản rất nhanh mà sao không chiếm quả đất? Ấy là vì chúng không có bộ phổi như loài có vú (mammal). Chúng thở bằng khí quản (trachea) và khi chúng lột xác lớn lên, khí quản không lớn theo nên thân thể chúng bị giới hạn trong khuôn khổ nhất định. Con người hơn loài thú ở điểm lý trí. Bản năng con thú tuy kỳ diệu, nhưng bị giới hạn. Bộ Óc con người tuyệt vời ở chỗ nó có thể vượt xa tầm giới hạn của nó. Muốn quan niệm sự hiện hữu của thượng đế, cần phải có một năng khiếu mà chỉ loài người mới có. Ta có thể gọi nó là trí tưởng tượng cũng được, nhưng nhờ nó mà con người mới thu nhận các sự kiện vô hình, vô ảnh. Trí tưởng tượng mở cho ta một chân trời bao la và nhờ thế ta mới ý thức một thực tại tuyệt diệu rằng thượng đế là tất cả, ngài ở khắp mọi nơi, nhưng không ở đâu ngài hiện rõ như trong tâm hồn chúng ta.
Toàn thể phái đoàn yên lặng, thán phục những dẫn chứng hoàn
toàn khoa học và giản dị của nhà chiêm tinh. Vài giờ trước đây, ai cũng nghi ngờ
khả năng của “gã thầy bói”; nhưng hiện giờ mọi người đều công nhận y là một nhà
bác học với kiến thức uyên bác không thua ai.
Babu mỉm cười nhìn tất cả mọi người và nói:
- Là khoa học gia, các ông hãy suy nghĩ về những điều tôi vừa
trình bày. Hãy quan sát vũ trụ, hãy dẹp bỏ các thành kiến sẵn có, và sự ngông
cuồng của khoa học thực nghiệm, rồi các ông sẽ thấy tất cả đều diễn ra trong một
trật tự, mỹ lệ và điều hoà. Các ông sẽ ý thức sự bé nhỏ của con người trước vũ
trụ bao la vì khoa học xây dựng trên căn bản của giác quan vốn rất giới hạn,
sao có thể cảm xúc vũ trụ được? Nếu ta cứ khăng khăng cho rằng những cái gì
không nghe được, không nhìn được, đều không hiện hữu thì thật là một sai lầm
tai hại. Có biết bao nhiêu sự kiện xảy ra mà giác quan giới hạn không thể cảm
nhận, cho đến một ngày nào họ khai mở các giác quan khác…
- Làm sao ông biết như thế?
- Tôi đã nghiên cứu trực tiếp các vấn đề này trong khi Thiền
định. Các sách vở bí truyền cũng đều nói rất rõ như vậy…
Giáo sư Mortimer hấp tấp:
- Chúng tôi có thể nghiên cứu hay phiên dịch những sách này
không?
Babu mỉm cười:
- Liệu ông có muốn bỏ ra vài chục năm để phiên dịch không?
Sách vở huyền môn đâu phải loại sách phổ thông để mọi người coi chơi. Theo tôi
hiểu thì chỉ một thiểu số người thích nghiên cứu nó vì trong tiền kiếp họ đã có
những hứng khởi tâm linh, đã từng nghiên cứu vấn đề này, đã có đủ trí tuệ để
xét suy một cách tường tận. Họ là những ngườ iđã đến bên thềm Đạo và sắp bước
vào. Chỉ những người này mới thích thú để tâm nghiên cứu những quyển sách khô
khan như những sách trong nhà tôi.
Toàn thể phái đoàn im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ
riêng nhưng tất cả đều đồng ý rằng nhà chiêm tinh nói không sai. Giáo sư Allen
lên tiếng:
- Tại sao thấy ánh sáng Chân Lý rồi mà ông vẫn tiếp tục hành
nghề chiêm tinh. Tại sao ông còn chỉ vẽ cho người đời quá khứ, vị lai?
Babu hãnh diện tuyên bố:
- Tôi sống và phụng sự thế gian bằng nghề nghiệp này. Đâu phải
ai tôi cũng tiếp. Dù bạn là tiểu vương hay thủ tướng. Nếu thấy bạn không có tâm
hướng thiện, sửa đổi thì không đời nào tôi hé môi nói một điều gì. Biết bao người
đã đến cổng, nhưng mấy người vào được đến đây. Cách đây ít lâu, một tiểu vương
cho khuân đến một rương ngọc chỉ để hỏi tôi một điều nhưng tôi không trả lời. Nếu
không nhận được một thông điệp bằng tư tưởng thì dễ gì tôi tiếp các ông và nếu
không xem qua lá số của giáo sư Oliver, dễ gì tôi tiết lộ các bí mật cho những
người lạ, nhất là người Âu Mỹ. Từ xưa đến nay, khoa chiêm tinh vẫn bị người đời
hiểu lầm và diễn tả sai lạc rất nhiều. Nhờ nghiên cứu bộ sách nguyên thủy Brahma Chinta nên tôi có thể nói cho các ông biết chút ít về khoa học này, với
hy vọng sẽ đánh đổ phần nào thành kiến sai lầm của người Âu. Khi sinh ra đời, mỗi
cá nhân đều mang sẵn một tài sản khác nhau, đó là Nghiệp Báo. Tài sản này có thể
tốt đẹp do các nguyên nhân hợp với thiên ý hoặc xấu xa bởi các lỗi lầm trong tiền
kiếp. Tất cả nguyên nhân này đều chứa chấp trong Tàng thức hoặc A-lạiđa-thức
(alaya-vijnana), và trở nên một động lực chi phối đời tạ Động lực này được phân
phối bởi các mãnh lực trong vũ trụ một cách vô cùng phức tạp, và biến thành một
thứ gọi là Vũ trụ tuyến (cosmic rays). Những vũ trụ tuyến này không ồ ạt ảnh hưởng
đến ta ngay, mà tùy theo sự thay đổi của tinh tú để phản chiếu xuống trần gian.
Điều này rất hợp lý vì trải qua vô lượng kiếp sống, con người đã làm biết bao
điều xấu xa, đâu thể nào trong vài ba kiếp mà trả hết được. Đó cũng là lý do
con người cứ trầm luân trong luân hồi sinh tử. Chiêm tinh học nghiên cứu sự xê
dịch, vận hành của tinh tú mà đoán biết được các ảnh hưởng con người trong kiếp
sống này. Nhờ nghiên cứu chiêm tinh mà người ta hiểu rõ rằng không hề có một Đấng
Thần Linh thưởng phạt hay kiểm soát các hành động của tạ Tất cả chỉ là hậu quả
của những gì do ta tạo nên và phải gánh chịu.
- Nhưng chính ông đã đề cập đến thượng đế và sự hiện hữu của
ngài kia mà?
Babu bật cười:
- Các ông vẫn còn quan niệm rằng thượng đế là một ông già ngồi
trên cao nắm quyền sinh sát, định đoạt số phận con người – đó là một quan niệm
rất ấu trĩ. Thượng đế cao cả hơn nhiều, ngài sáng tạo và đặt tất cả vào một trật
tử trong vũ trụ. Làm gì có việc ngài định đoạt số phận từng người như các ông
nghĩ. Tất cả diễn tiến theo luật vũ trụ, nhân nào quả nấy, một lực nào cũng có
một phản lực đi kèm đó là khoa vật lý chứ đâu phải gì xa lạ? Làm gì có việc số
mệnh đã định sẵn, nếu thế ta cứ tiêu cực, bất động mặc cho số phận run rủi hay
sao? Này các ông bạn, chiêm tinh học là một khoa học thực tiễn và tiến bộ,
không thể có vấn đề mê tín. Lá số tử vi không có nghĩa là con người chỉ là nô lệ
của quá khứ mà chỉ cho ta thấy rõ sự tuần hoàn của vũ trụ mà trong đó con người
có thể thay đổi tính mạng. Chiêm tinh học nghiên cứu phản ứng của con người dưới
ảnh hưởng tinh tú. Các tinh tú chỉ là những khí cụ trung gian biểu lộ một cách
trung thực các tác động quân bình của nghiệp quả gây nên trong quá khứ. Mỗi người
sinh ra đời vào một ngày giờ mà ảnh hưởng của tinh tú hoà hợp với nghiệp quả cá
nhân của ỵ Các vũ trụ tuyến được tinh tú phản chiếu xuống làm mạch máu di chuyển,
tế bào thay đổi, dĩ nhiên ảnh hưởng đến cuộc đời con người. Mặc dù con người
không thể thay đổi việc đã xảy ra trong quá khứ, nhưng nhờ ý chí tự do, y có thể
vượt khỏi tầm ảnh hưởng này và chiến thắng ảnh hưởng tinh tú. Tôi lấy một thí dụ
như thương gia Keymakers, bạn của các ông. Đáng lý theo số mạng thì ông ta phải
chết trong cuộc chiến vừa quạ Nhưng vì một mầm thiện nẩy sinh, thấy chiến tranh
quá ư tàn khốc, ông động lòng trắc ẩn mang tài sản ra giúp đỡ rât nhiều nạn
nhân chiến cuộc. Dĩ nhiên, khi đó ông ta không hề biết gì về số mạng của mình,
nhưng hành vi bác ái này đã tạo một phản lực mạnh mẽ thúc đẩy các vũ trụ tuyến
xê dịch sang một bên và nhờ thế ông ta thoát chết. Số mạng của ông ta hoàn toàn
thay đổi từ đó. Các ông hiểu rằng hoán cải số mạng không có nghĩa việc quá khứ
sẽ bị xoá bỏ, nhưng đáng lý một biến cố lớn sẽ xảy ra trong kiếp này, lại không
xảy ra. Khi ta phát tâm làm một việc hợp với thiên ý thì một ảnh hưỏong tinh tú
bỗng chói sáng và các từ điện mạnh mẽ đẩy ngược luồng vũ trụ tuyến sang hướng
khác. Do đó, con người có thể cải số mệnh dễ dàng, nếu biết làm các việc tốt lành,
đẹp đẽ. Dĩ nhiên, ảnh hưỏong xấu không mất đi, nhưng sẽ tiềm ẩn, chờ một cơ hội
khác sẽ phát hiện lại. Nói một cách khoa học thì đời người có thể ví như một
phương trình toán học, A * B bằng C. A và B là nguyên nhân và C là hậu quả,
nhưng nếu tta thêm vào đó một nguyên nhân X thì A * B * X sẽ không thể bằng C nữa,
vì đã có thêm nguyên tố X. Đó là nguyên lý hoán cải số mạng mà tôi vừa trình
bày. Đời người thực ra đã ghi khắc trên tinh tú nhưng các tinh tú khi sáng khi
mờ, và sự mờ tỏ do chính ta quyết định. Khi ta có các hành vi xấu xa nó tạo ra
những động lực xấu và số thu hút các điều xấu ghi khắc trên tinh tú, phản chiếu
xuống mau lẹ hơn. Dĩ nhiên hậu quả không thể lường. Trái lại, nếu ta ý thức điều
này, phát tâm làm việc hữu ích tự nhiên phát sinh các động lực tốt đánh bật các
ảnh hưởng xấu sang một bên. Nhờ nghiên cứu chiêm tinh học một cách đứng đắn,
khoa học, con người sẽ hiểu biết mệnh trời, biết tin tưởng ở mình, và sống cuộc
đời thoải mái, không bi quan, không lạc quan, an vui tự tại.
- Như thế người đi trên đường Đạo, sẽ gặp gì khi đã có nghiệp
quả xấu?
- Nghiệp quả xấu ví như một án treo, bất động, nhưng không ai
có thể tránh được nó. Đối với những người đã vào cửa Đạo, đã hiểu biết thì họ lại
cầu xin được trả quả cho lẹ. Tuy họ không gây các nhân xấu nữa, nhưng họ đủ can
đảm để chịu đựng nghiệp quả. Có thế họ mới rút ngắn thời gian trong sinh tử
luân hồi. Hiểu biết mệnh trời để sống thoải mái chính là mục đích của khoa
chiêm tinh chân chính.
Babu im lặng suy nghĩ. Sau cùng, y bước đến một tủ lớn mang
ra một cái hộp nạm vàng rất đẹp. Trong hộp chứa một quyển sách cổ viết trên lá
buôn (papyrus), y long trọng tuyên bố:
- Đây chính là một phần của bộ Brahma Chinta mà tôi sưu tầm
được. Các ông nên biết huyền môn có hai phần. Công truyền (exoteric) và bí truyền
(esoteric). Loại bí truyền chỉ được dạy cho các đệ tử đã bước vào cửa Đạo, đã
được tuyển chọn rất kỹ. Hiền triết Bhrigu chỉ truyền cho 4 đệ tử bộ sách này.
Tôi tiếc rằng mẫu nhỏ này còn nhiều thiếu sót và rất khó hiểu, mất hơn 20 năm
nghiên cứu, mà tôi chỉ hiểu chút ít thôi. Gặp gỡ các bạn bữa nay là một nhân
duyên hiếm có, tôi xin dịch vài trang để làm quà cho các bạn: “Vạn vật trong
vũ trụ dù ở cõi vô hình hay hữu hình đều được sắp hạng và phân loại theo quy mô
của số 7. Tất cả mọi hình thức sinh hoạt trong dãy hành tinh hiện tại đều thuộc
một trong 7 cung. Mỗi cung có 7 phân bộ hay 49 nhóm. Toàn thể Thái dương hệ của
chúng ta đều là sự biểu lộ của thượng đế, mỗi phần tử trong đó đều là một phần
của ngài. Ngoài ra có 7 vị tinh quân (logo) mỗi vị kiểm soát một cung. Thật ra
các vị này chỉ là những trung tâm thần lực, những con đường vận hà để thần lực
thượng đế ban rãi ra. Con người có ba thể chính là thể xác, thể vía và thể trí
tương ứng với ba cõi giới Hạ giới, Trung giới, và Thượng giới. Thượng đế cũng
thế, tất cả vật chất trong Hạ giới hợp thân thể xác của ngài. Tất cả vật chất
cõi Trung giới hợp thành vía của ngài, và tất cả vật chất cõi Thượng giới hợp
thành thể trí của ngài. Tóm lại, tât cả đều là thành phần của thượng đế từ hạt
bụi đến các dãy thiên hà. Mọi nguyên tử vật chất cấu tạo nên chúng ta đều là một
phần của thượng đế xuyên qua 7 cung - khi qua đây nó bị thay đổi ít nhiều, tùy ảnh
hưởng các cung. Khoa chiêm tinh có thể phân biệt người nào chịu ảnh hưởng cung
nào tùy số lượng nguyên tử cấu tạo xuất phát từ cung liên hệ.”
Babu nhìn mọi người thấy họ có vẻ ngơ ngác. Y mỉm cười giải
thích:
- Đề tài này rất khó hiểu, thôi để tôi giải thích rộng ra vậy.
Nói theo danh từ Thiên chúa giáo thì 7 vị tinh quân này đã xuất hiện trong linh
ảnh (vision) của Thánh Jean. Sách khải huyền 4.5 nói rõ, “có 7 ngọn đèn thắp
trước ngài, đó là 7 vị đại thiên thần của chúa trời”. Lúc khởi thủy, mọi người
chúng ta đều là thành phần của thượng đế, nghĩa là cùng bắt nguồn từ một nơi.
Sau đó, chúng ta tách rời ra, xuyên qua 7 con đưòong vận hà này. Theo sự hiểu
biết của tôi, thì 7 con đường biểu lộ 7 đức tính của thượng đế, qua 7 vị tinh
quân. Vị thứ nhất là thiên thần Michael (sức mạnh), liên hệ đến hỏa tinh. Vị
thứ hai là Gabriel (toàn tri) liên quan đến thủy tinh. Vị thứ ba là Raphael
(quyền năng) liên quan đến thái dương. Vị thứ tư là Uriel (ánh sáng) liên quan
đến mặt trăng. Vị thứ năm là Zakiel (hảo ý) liên quan đến mộc tinh, còn hai vị
kia là Jophiel và Samuel thì tôi không biết rõ hành tinh liên hệ. Khoa học thực
nghiệm tinh rằng các hành tinh đều là sự kết hợp ngẫu nhiên của vật chất. Nếu
là ngẫu nhiên tại sao chúng nằm ở các vị trí nhất định trong vũ trụ, và di chuyển
theo một quỹ đạo cố định? Mọi vật dường như tuân theo một định luật thiên
nhiên, nhưng đằng sau định luật đó luôn luôn có một sức mạnh thiêng liêng cai
quản. Tôi cố gắng dùng tên các vị thiên thần và danh từ Thiên chúa giáo để giải
thích cho các ông . Điều này có thể được diễn tả khác đi tùy theo quan niệm tôn
giáo, văn hóa; nhưng sự thật vẫn là một. Muốn hiểu khoa chiêm tinh phải đi ngược
về nguồn cội. Con người từ một chốn nguyên thủy ví như nước cùng một nguồn chảy
theo bảy dòng suối khác nhau để ra biển. Mỗi dòng suối sẽ mang một tính chất
khác nhau, do đó nước trong suối cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều. Loài người có thể
phân biệt ra 7 đức tính rõ rệt tùy theo con đường vận hà mà họ trải qua. Chiêm
tinh nghiên cứu con người và ảnh hưởng hành tinh đến các tính nết nhất định.
Cũng như khoa Sinh lý học phân biệt con người qua tính chất nồng nhiệt, lãnh đạm,
bạch huyết chất hay đa huyết chất. Thực ra đó chỉ là các phương pháp khác nhau
để trình bày tính chất con người. Dĩ nhiên không dễ gì tìm ra cung của mỗi người
vì y đã đi sâu trong luân hồi sinh tử, tạo các nghiệp quả phức tạp, và những
nguyên nhân này chế ngự, ảnh hưởng đến tính tình y rất nhiều. Chỉ với sự khai mở
các giác quan như Thần nhãn hay có một kinh nghiệm sâu xa về huyền môn, ta mới
có thể biết rõ họ thuộc cung nào. Nếu một người biết rõ cung của mình và tiếp tục
trau dồi bản tính sẵn có, thì y sẽ tiến bộ rất nhanh, vì khí cụ hữu hiệu nhất
là phương pháp thuộc về cung liên hệ. Thí dụ như người có khiếu về âm nhạc lại
cứ học toán. Không phải y sẽ không tiến bộ gì, nhưng nếu đi về âm nhạc y sẽ tiến
nhanh hơn vì hợp với khả năng hơn. Sự hiểu biết mình là ai, có những khả năng
tiềm ẩn nào sẽ giúp ta định hướng đi cho chính xác. Đó mới là mục đích của khoa
chiêm tinh. Đa số con người hành động không ý thức, chịu ảnh hưỏong ngoại cảnh,
nên luôn bất mãn, không thoải mái. Họ tự đóng kịch với chính mình, hoặc sống
theo một lề lối khuôn khổ không thích hợp. Trong Kinh thánh có câu, “nếu các
ngươi không hồ nhiên như trẻ con, các ngươi không thể vào nước thiên đàng”. Điều
này khuyên ta nên sống thật với chính mình. Chiêm tinh học có thể giúp ta biết
ta là ai, thích hợp với nhũung công việc gì? Sự nghiên cứu chiêm tinh như thế
mới gọi là đứng đắn chứ không phải chỉ xem quá khứ, vị lai, may rủi.
- Làm sao con người có thể biết họ thích hợp với cung nào?
- Một nhà chiêm tinh giỏi có thể lấy lá số tử vi để xem cá
nhân liên hệ với cung nào, điều này đòi hỏi rất nhiều thời giờ, kinh nghiệm. Một
phương pháp khác là hãy nhìn hành động mỗi người. Người thuộc cung 1 sẽ đạt đến
mục đích bằng sức mạnh ý chí. Người thuộc cung 2, phân tích kỹ lưỡng vấn đề để
lựa chọn phương pháp nào hữu hiệu nhất. Người thuộc cung 3 nghiên cứu rất kỹ về
thời gian, giờ khắc thuận lợi nhất v.v… Một thí dụ khác như trong việc chữa bệnh,
người cung 2 sẽ tìm hiểu nguyên nhân và phương pháp nào thích hợp nhất để chữa
bệnh, khi người ở cung 3 sẽ nghiên cứu thời gian nào thuận lợi để chữa. Người ở
cung 6 sẽ tìm cách chữa bệnh bằng đức tin. Người thuộc cung 7 sẽ chữa bằng các
nghi lễ, cúng tế, v.v... Tuy nhiên,cách tốt hơn hết là tự mình, xét lấy mình.
Hãy dẹp bỏ những điều mình vẫn khoác lên bản ngã như danh vọng, địa vị, ham muốn.
Hãy thành thật với chính mình thì ta có thể xem được mình thuộc về cung nào. Nếu
ta là người có ý chí mạnh mẽ, cương quyết làm việc trong tinh thần khoa học thì
có lẽ ta ở cung 1. Nếu là người khôn khéo, thích lý luận và làm việc một cách
hiệu quả thì có lẽ ở cung 2. Nếu là người nhạy cảm, thích hoạt động xã hội, từ
thiện thì có lẽ ta thuộc cung 5. Nếu là người có đức tin mạnh mẽ, cẩn thận, có
thể ta thuộc cung 7, v.v… Đề tài các cung rất khó giải thích trong một thời
gian ngắn. Tôi chỉ có thể nói vắn tắt thôi. Cái vật chất sơ khai nguyên thuỷ bắt
đầu tiến hoá qua 7 con đường vận hà hay 7 đức tính quan trọng. Chỉ khi nào con
người phát triển toàn vẹn cả 7 đức tính này, y sẽ trở nên toàn thiện. Dĩ nhiên, chúng ta đều bất toàn dù mỗi cá nhân đã nảy nở các đức tính cần thiết căn bản.
Người Âu tây đã khai mở rất nhiều khả năng suy luận, khoa học, nhưng thiếu khả
năng sùng tín, bác ái. Vì lý trí nảy nở nhiều hơn tình cảm nên họ có vẻ thiếu
thiện cảm, lạnh lùng, thích chống báng thay vì dung hòa. Trong khi đó, người Á
châu phát triển mạnh mẽ về sự sùng tín, bác ái, nhưng thiếu khả năng suy luận,
để tình cảm chi phối nên họ có vẻ chịu đựng, nhượng bộ, khoan dung, dễ dãi. Cả
hai đều không quân bình tuyệt đối, nên trong tương lai sẽ có các biến chuyển mạnh,
xáo trộn để cả hai dân tộc có dịp học hỏi, hòa hợp với nhau.
Babu im lặng suy nghĩ một lúc rồi trầm giọng:
- Trong cuộc đời nghiên cứu sách vở bí truyền của các tôn
giáo, tôi không hề thấy có sự khác biệt giữa các giáo lý, nếu không nói là giống
hệt nhau. Tiếc thay, con người chỉ thích đi tìm sự khác biệt để chỉ trích, phê
bình và càng ngày càng đi xa đến chỗ vô minh cùng cực.
- Nhưng các tôn giáo có khác biệt nhau chứ?
Babu nhẹ nhàng:
- Này các bạn, mỗi quốc gia có phong tục, tập quán riêng biệt.
Mỗi thời buổi đều có các thay đổi, giá trị khác nhau. Do đó, một chân lý cũng
có thể được giảng dạy bằng các phương pháp khác nhau. Phương pháp, ngôn ngữ có
thể khác, nhưng chân lý vẫn là một cũng như thượng đế có 7 con đường vận hà
khác nhau qua bảy cung. Nguyên tử mỗi cung có các rung động khác nhau, có màu sắc
khác nhau, tính chất khác nhau, nhưng nó đều là nguyên tử xuất phát từ thượng đế.
Nếu bạn thay đổi áo mặc khác nhau thì bạn đâu có thay đổi, chiếc áo có thể khác
nhưng người mặc áo vẫn chỉ là một. Nếu các ông đi ngược về cội nguồn các ông sẽ
hiểu sự thay đổi từng thời kỳ qua ảnh hưởng tinh tú.
Giáo sư Allen thắc mắc:
- Xin ông giải thích thêm về việc này.
Babu trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Trong 7 vị tinh quân có những biến đổi diễn ra từng thời kỳ
giống như sự tuần hoàn của hơi thở trong bộ máy hô hấp, hay sự vận động của quả
tim. Các sự biến đổi này diễn ra vô cùng phức tạp, dưới thiên hình vạn trạng.
Vì lẽ thể vía con người được cấu tạo cùng một nguyên tử với thể vía các vị tinh
quân, nên khi vị tinh quân thay đổi , tự nhiên mọi người trên thế gian cũng ít
nhiều ảnh hưởng theo. Nói một cách khác, khi vị tinh quân cai quản một cung
thay đổi thì những người đã đi qua cung đó, nguyên tử cấu tạo có chứa đựng nhiều
tỷ lệ của cung đó sẽ thay đổi theo. Trong lịch trình tiến hóa, đã có những sự
thay đổi trong đầu óc loài người, từng thời kỳ và do đó, văn minh nhân loại
cũng đổi thaỵ Theo sự nghiên cứu của tôi thì mỗi chu kỳ kéo dài khoảng 100 năm,
nhưng cứ 25 năm cuối lại có các biến chuyển gây ảnh hưởng cho chu kỳ kế tiếp.
- Như vậy thì sự biến chuyển kỳ này sẽ bắt đầu vào khoảng
1975 cho đến năm 2000 và ảnh hưởng đến thế kỷ 21?
Babu gật đầu:
- Thật ra chu kỳ không hoàn toàn trùng hợp từng năm, từng
tháng, vì niên lịch thông thường không chính xác. Khoa chiêm tinh sử dụng một
thứ lịch khác theo sự vận chuyển của các tinh tú. Tuy nhiên, để giản dị hoá vấn
đề này ta có thể nói rằng cứ 25 năm cuối của mỗi thế kỷ là buổi giao thời có
nhiều sự thay đổi mãnh liệt.
Giáo sư Mortimer buột miệng:
- Nhưng đã có bằng chứng nào rằng cuối thế kỷ này sẽ có các
thay đổi lớn?
Babu mỉm cười nhìn tất cả mọi người:
- Các ông đều là người Âu, tôi xin dẫn chứng bằng lịch sử Âu
châu cho dễ hiểu. Các ông có thể coi nó là sự trùng hợp ngẫu nhiên cũng được.
Năm 1275, Roger Bacon phát động phong trào phục hưng văn hoá, rồi suốt 100 năm
sau, toàn thể Âu châu đều thay đổi. Năm 1375, Chirstian Rosenkreuz phổ biến nền
văn hoá này khắp từng lớp dân chúng, đưa Âu châu thoát khỏi nền tảng hắc ám của
thời kỳ Trung cổ. Năm 1275 và 1375 chả là 25 năm chót của thế kỷ 13 và 14 hay
sao?
Giáo sư Mortimer, một nhà bác học về cổ ngữ và lịch sử Âu
châu suy nghĩ:
- Qủa thế, phong trào phổ thông văn hoá bằng đường lối phục
hưng đã cứu nguy cho sự suy đoềi của Âu châu, nhưng đó chỉ là hai trường hợp.
Tôi thiết nghĩ muốn kết luận ta cần nhiều dữ kiện rõ ràng hơn.
Babu mỉm một nụ cười bí mật và xác định:
- Thế thì ông nghĩ sao về việc phát minh ra máy in, kỹ thuật ấn
loát vào năm 1473? Nhờ thế tư tưởng các triết gia, giáo sĩ mới phổ thông khắp
quần chúng, nâng cao dân trí Âu châu? Ông nghĩ sao về Francis Bacon và cao trào
nghiên cứu khoa học năm 1578, sử dụng Anh ngữ thay vì Latin để phổ biến kiến thức
khoa học. Có phải những việc này đã đem khoa học vào xã hội để cải thiện cuộc sống
hay không? Việc này xảy ra vào 25 năm cuối của thế kỷ 15 và 16. Phải phục hưng
văn hoá, đưa Âu châu khỏi các thành kiến bảo thủ đã, rồi cải cách, phát triển
khoa học để mọi người biết suy luận sau đó, mới thay đổi xã hội được chứ. Văn
hoá đi trước phổ biến tư tưởng để dọn đường cho các thay đổi chính trị, xã hội
về sau. Năm 1675, các Hội Kín bắt đầu mọc lên, kêu gọi san bằng giai cấp, dẹp
tan bất công xã hội, gây nên bởi chế độ Bảo Hoàng. Năm l789, cuộc cách mạng
Pháp đã bùng nổ, và thay đổi hẳn lịch sử Âu châu. Hai biến cố này đều xảy ra
trong vòng 25 năm cuối của thế kỷ 17 và 18. Từ đó đến nay chắc các ông đã thấy?
Giáo sư Mortimer toát mồ hôi trán. Lịch sử Âu châu đối với
ông nào có xa lạ gì, nhưng sự giải thích của Babu đã làm ông bừng tỉnh.
Toàn thể phái đoàn đều bàng hoàng, khâm phục Babụ Trong một
buổi chiều, nhà chiêm tinh xứ Ấn đã hùng biện, dẫn chứng về toán học, sinh vật
học, triết học, tôn giáo và cả lịch sử Âu châu như một học giả uyên bác nhất.
Kiến thức của y đã chinh phục tất cả mọi người.
Giáo sư Mortimer run giọng:
- Vậy thì theo ông việc gì sẽ xảy ra cho thế kỷ 20 này?
- Năm 1875 đánh dấu một bước tiến quan trọng, đó là sự phát
triển khoa học văn minh cơ giới cùng thuyết “Tiến hóa” của Darwin, và phong
trào Thiên chúa giáo tự do. Từ đây bắt đầu một cuộc tranh chấp giữa tinh thần và
vật chất. Có hai mãnh lực rất mạnh phát xuất từ hai bầu tinh tú đối cực, gây
nên phong trào Duy tâm và Duy vật. Thế kỷ 20 bắt đầu với sự phát triển cực thịnh
của thuyết Duy vật. Con người sẽ bị thúc đẩy vào các sự kiện vật chất, họ sẽ gặp
các thử thách mà nhu cầu bao tử, khoái cảm xác thân tranh đấu với nhu cầu tâm
linh một cách mãnh liệt. Đến khoảng 25 năm cuối, từ 1975 trở đi thì phong trào
Duy tâm sẽ phát triển mạnh ẽm và được phổ biến sâu rộng để thúc đẩy sự tiến hoá
tâm linh. Cuối thế kỷ 20, phong trào Duy vật sẽ sụp đổ, hiện tượng nghiên cứu
các giáo lý bí truyền sẽ bắt đầu. Này các ông bạn, các bạn đều là những người
tiên phong. Trước khi một sự phổ thông Bí giáo được thực hiện phải có những hạt
giống gieo sẵn và nẩy mầm. Đó là lý do các bạn được thúc đẩy để nghiên cứu các
hiện tượng huyền bí phương Đông. Tôi không thể tiết lộ thêm điều gì, nhưng qua
lá số tử vi của Oliver, tôi quả quyết những điều tiên đoán đều sẽ thành sự thật.
Chắc chắn trong 25 năm cuối của thế kỷ này, sẽ có nhiều thay đổi và có những cố
gắng giúp cho sự tiến bộ của nhân loại, giai đoạn này rất quan trọng. Có hai loại
người trên thế gian: một loại đã thấy ánh sáng rực rỡ nơi cuối chân trời và định
hướng để tiến tới đó. Dĩ nhiên, họ sẽ phải chiến đấu cam go với các cám dỗ, các
hoàn cảnh bất lợi xảy ra chung quanh. Nhưng ở họ, hy vọng luôn luôn sáng rỡ. Hạng
thứ hai, không cảm xúc được các tư tưởng thanh cao, không tin tưởng những điều
cao thượng. Họ là những người lạc lõng, đáng thương vì họ sẽ phải học các bài học
hết sức đau khổ cho đến khi họ hiểu biết và quay đầu về phía ánh sáng. Điều này
đã và đang xảy ra.
- Chuyện gì sẽ xảy ra cho những người không hiểu biết này?
Babu bật cười:
- Các ông nghĩ rằng thượng đế sẽ trừng phạt họ ư? Không đâu,
họ sẽ phải tự học lấy những bài học trong lầm lỗi, trong đau khổ. Thí dụ như một
người muốn đi từ quê lên tỉnh. Y có thể đi theo các đường lộ xây cất sẵn sàng,
theo bản đồ chỉ dẫn. Nhưng có người cứ khăng khăng đi theo ý mình bất tuân theo
luật lệ, đường dọn sẵn không đi, bản đồ có sẵn không thèm nhìn. Y sẽ đi vào rừng,
dẫm lên gai góc, đau đớn, lạc lối lung tung. Sau đó, mới ý thức được sự ngu xuẩn
của mình. Đời là một bài học vô cùng quý giá mà ai cũng phải học. Cõi đời đầy
những vô thường, khi thế này, lúc thế khác chứ đâu êm xuôi bằng phẳng.
Babu ngưng nói đưa mắt nhìn về sông Hằng. Bên kia bờ sông là
một câu lạc bộ với những ánh đền màu cùng tiếng nhạc dập dìu. Y thở dài:
- Đó là nơi hội họp của một hội đồng thương mại. Hội này quy
tụ toàn các thương gia, các bậc thượng lưu, trí thức, giàu có bậc nhất thành phố
này. Tuần nào họ cũng hội họp ăn uống. Đa số đều đã ngoài 60 mà vẫn còn ham
vui. Cơ thể họ đã suy nhược, nhưng lòng hưởng thụ vật chất còn mãnh liệt. Họ tụ
tập nhau để nói chuyện mưa gió, thời tiết, thú vui đời người. Không ai ý thức
được rằng chỉ ít lâu nữa, ai cũng phải từ giã cõi trần. Nghe họ vui đùa, tưởng
như họ có thể lột da như giống rắn để sống mãi mãi như thế.
Babu nhìn lên bầu trời đầy sao trầm ngâm:
Mọi vật trong vũ trụ đều quân bình tuyệt đối, không dư, không
thiếu, từ hạt bụi bé nhỏ đến những dãy thiên hà vĩ đại. Đời người quá ngắn, và
luôn bị lôi cuốn vào sinh hoạt quay cuồng. Đâu mấy ai ý thức được sự phung phí
hôm nay, dọn đưòong cho sự đau khổ ngày mai. Tất cả chỉ là những ảo ảnh chập chờn,
thế mà người ta cứ coi như thật. Nếu biết thức tỉnh quan sát, ta có thể học hỏi
biết bao điều haỵ Tiếc rằng khi đắc thời người ta quên đi quá khứ rất nhanh. Chỉ
trong đau khổ, nhục nhã ê chề mới chịu học. Có thể đó cũng là lý do luôn luôn
có các biến động vô thường, thúc dục con người học hỏi.
- Ông nghĩ rằng con người sẽ học hỏi trong đau khổ.
Babu thở dài:
- Đúng thế, chúng ta có tính hay quên, nên cứ phải học đi, học
lại cái bài học khổ. Chỉ khi bị khổ sở, bị đàn áp, tự do bị chà đạp, con người
mới quay về với niềm hy vọng cuối cùng là đức tin. Khi sung sướng ít ai nghĩ đến
việc tu thân cầu giải thoát. Khi cơ thể bệnh hoạn, ta mới thấy khoẻ mạnh là hạnh
phúc. Khi bị tù đày, ta mới thấy giá trị của tự dọ Tiếc rằng khi khỏi bệnh, ta
không ý thức nguyên nhân đã gây nên bệnh đó, mà lại tiếp tục một đời sống như
trước; do đó, ta cứ bị bệnh hoài.
- Nhưng con người cũng học hỏi rất nhiều, và đã có tiến bộ lớn
lao.
Babu ngắt lời:
- Các ông gọi như thế nào là tiến bộ? Trên phương diện vật
chất, con người ta đã tiến bộ chút ít so với những thế kỷ trước. Nhưng phương
diện tinh thần vẫn nghèo nàn như xưa, chả tiến được chút nào, bằng cớ là họ vẫn
tiếp tục các lỗi lầm quá khứ.
- Ông muốn nói đến chiến tranh ư?
Babu im lặng nhìn lên bầu trời đầy tinh tú, ngẫm nghĩ một điều
gì.
Toàn thể mọi người im lặng chờ đợi. Sau cùng, giáo sư Allen
lên tiếng:
- Theo ông, thì hòa bình có thể thực hiện một ngày gần đây
không?
Babu mỉm cười trả lời:
- Các ông nghĩ rằng, với khả năng bé nhỏ của tôi mà có thể biết
hết được ư? Từ khi con người có mặt trên trái đất này, đã có hết cuộc chiến
này đến cuộc chiến khác. Chiến tranh có bao giờ chấm dứt được? Thực ra chiến
tranh chỉ là sự biểu lộ trạng thái bên trong chúng ta, là sự phóng đại các động
tác hàng ngày của chúng tạ Sở dĩ mỗi ngày, nó một trầm trọng hơn, là do kết quả
các hoạt động kỹ nghệ, và óc sáng tạo của con người. Chiến tranh không thể chấm
dứt nếu các nguyên nhân gây nên cuộc chiến vẫn còn. Nếu có một cây cổ thụ thật
lớn và ta muốn tiêu diệt nó. Ta không thể leo lên vặt hết lá cây được, vặt lá
này nó lại mọc lá khác phải không các bạn? Cách duy nhất là đốn tận gốc rễ.
Nguyên nhân chiến tranh bắt nguồn từ các tham vọng, giận dữ, oán hận, đầu óc quốc
gia, bộ lạc, tinh thần phe phái, đố kỵ, ganh ghét, v.v… Tận diệt được các thói
xấu này là chấm dứt chiến tranh. Phương pháp duy nhất là làm một cuộc cách mạng
trong tâm hồn. Chỉ khi nào loài người ý thức điều này và thay đổi quan niệm sống,
xóa bỏ lòng thù hận, thì họ sẽ thấy bình an. Tiếc rằng ai cũng chỉ nhìn thấy sự
sai quấy nơi người khác, nên mới có tình trạng ngày naỵ Hoà bình và thiện chí cần
đi đôi với nhau, nên không ai có thể thực hiện hòa bình khi lòng còn đầy oán
thù, ghen ghét, muốn bốc lột kẻ khác để mưu lợi cho cá nhân mình hay phe phái
mình. Tất cả các hội nghị, các mưu tính để mang lại hoà bình cho nhân loại đều
thất bại, vì con người không chịu thực hiện hòa bình ở chính mình.
Babu mỉm cười nhìn tất cả mọi người một lúc, rồi trầm giọng:
- Các ông đều biết Đại đế Alexander, người đã chinh phục thế
giới. Trong việc xây dựng hoà bình cho Hy Lạp, ông đã càn quét, tiêu diệt tất cả
những nước láng giềng, có thể đe dọa xứ sở của ông. Rồi cứ thắng xong trận
này, lại phải lo đến trận khác, và cuộc chiến tranh để mang lại hoà bình cứ kéo
dài. Alexander là một người thông minh theo học với hiền triết Aristotlẹ Khi
lên ngôi hoàng đế, ông đã tâm sự với thầy, “con sẽ chiến thắng Ai cập và Thổ
nhĩ kỳ”. Aristotle hỏi, “Rồi sao nữa?”. Alexander suy nghĩ, “Sau đó, con có thể
ngủ một cách bình an”. (Thời đó người Hy Lạp chỉ biết đến Ấn độ, chưa biết đến
các nước khác ở Á châu). Aristotle mỉm cười, “Con hỡi, tại sao con không ngủ
bình an ngay đêm nay có hơn không?”.
Babu kết luận:
- Tôi nghĩ con người cần đặt cho mình một câu hỏi tương tự.
Hãy quan sát lòng mình một cách thành thật xem mình muốn gì? Chúng ta muốn
bình an hay kích động? Phải chăng chúng ta đều náo nức muốn cái gì? Mỗi buổi
sáng, chúng ta vội vã cầm lấy tờ báo để tìm các tin tức sôi nổi nhất. Nếu không
có tin gì về chiến tranh, thiên tai, xáo trộn, khó khăn kinh tế - thì chúng
ta vất tờ báo xuống đất, và than rằng chả có gì đáng xem. Có phải thế không?
Chúng ta muốn sống yên ổn, không thích xáo trộn, nhưng rất thích thú nghe nói về
các sự xáo trộn của kẻ khác. Chúng ta dành nhiều giờ để bàn cãi sôi nổi về người
này, người nọ, chê bai ông này, diễu cợt bà kia. Phải chăng chúng ta vẫn làm thế? Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi, tại sao chúng ta lại làm thế không? Lòng ta
còn ham tiền bạc, danh vọng, địa vị, sức khỏe, và chỉ cầu bình an cho chính
mình thôi, nên chẳng bao giờ thỏa mãn. Nếu ai có hỏi thì ta cũng sẽ chối quanh
như đại đế Alexander chỉ xin một giấc ngủ bình an mà thôi. Giấc ngủ bình an nào
có khó, nào xa xôi diệu vợi, tốn công nhọc sức mới có. Làm sao ta có thể lao đầu
vào vật chất phù du, xây dựng danh vọng địa vị, thỏa mãn cái phàm ngã hữu hình
hoại đồng thời tìm sự bình an, yên tĩnh? Chính các điều trên đã phá vỡ sự yên
tĩnh sung mãn của nội tâm tạ Phiền não là do chính ta tạo nên, chứ đâu phải
hoàn cảnh phải không các bạn? Ngày hôm nay chúng ta đã nói chuyện rất lâu rồi.
Các bạn sẽ còn trải qua một hành trình dài, gặp gỡ nhiều bậc danh sư, hiền triết.
Tôi chúc các bạn tìm được niềm an tĩnh của tâm hồn.
Babu mỉm cười, dơ tay tiễn khách, vầng trăng đã lên cao, lấp
loáng phản chiếu trên sông Hằng.
Chương 4
Cuộc gặp gỡ Brahmananda và Sudeih Babu đã thay đổi tất cả. Cho
đến lúc đó, phái đoàn mới công nhận rằng đằng sau khu rừng mê tín dị đoan, còn
có những chân lý cao siêu đáng học hỏi và nghiên cứu. Sự hiện diện của một vị
Chân sư bí mật gửi thông điệp bằng tư tưởng cho Brahmananda và Sudeih Babu, làm
phái đoàn phấn khởi, tin tưởng rằng cuộc khảo cứu sẽ còn vượt xa hơn điều họ dự
tính.
Cuộc tiếp xúc với Sudeih Babu đã khiến mọi người bắt đầu cởi
bỏ các thành kiến dị biệt, các quan niệm bảo thủ và lòng tự hào của người Âu, để
bắt đầu quan sát, học hỏi thêm về nền minh triết bí truyền của Á châu.
Phái đoàn bắt đầu cuộc hành trình nhắm hướng Rishkesh trực chỉ.
Lúc đầu, đường xá còn tốt nên sự di chuyển còn nhanh chóng, nhưng về sau có những
đoạn đường bị ngắt quãng, phái đoàn phải dùng lừa, ngựa hoặc đôi khi phải đi bộ
qua các eo núi. Sự kiện một nhóm người Âu, di chuyển trên những con đường độc
đáo, hẻo lánh là một điều chưa hề xảy ra. Các sĩ quan quân lực Hoàng Gia đã hết
sức ngăn cản vì lý do an ninh. Mặc dù Ấn độ là thuộc địa của Anh, nhưng nhiều địa
phương vẫn không hợp tác với chính quyền. Việc di chuyển đòi hỏi sự hộ tống của
lực lượng quân đội võ trang đầy đủ. Có nhiều vùng, ngay cả dân địa phương cũng
ít dám qua lại, vì có những đảng cướp hoạt động mạnh mẽ. Để đề phòng, phái đoàn
đã võ trang cẩn thận, nhưng trong suốt thời gian di chuyển, không hề có một sự
kiện đáng tiếc nào xảy ra. Toàn thể mọi người có cảm tưởng như được che chở bởi
một quyền năng mạnh mẽ vô hình.
Trên đường, phái đoàn đi qua một đền thờ của đạo Jain. Căn bản
của tôn giáo này xây dựng trên chủ trương mở rộng lòng từ bi (Ahimsa). Tín đồ đạo
Jain thực hành lý tưởng Ahimsa triệt để, đôi khi có vẻ quá khích. Đạo Jain được
thành lập hơn 2000 năm, do đức Mahavira, một vị hoàng tử đã từ bỏ cung vàng, điện
ngọc vào rừng tu hành và đắc đạo. Ngay khi bước chân vào đền, người ta đã thấy
ngay pho tượng đức Mahavira ngồi thiền, trên trán có gắn một viên kim cương lớn.
Trước khi vào đây, du khách phải cởi thắt lưng, giày dép, những vật gì làm bằng
da thú, sừng, ngà voi, v.v…
Tất cả các vật do sự giết chóc mà ra. Sở dĩ phải làm thế, vì giáo lý Ahimsa dạy các tín đồ phái này không được sát sinh, ăn thịt cá, mà ngay trong nhà cũng không được chứa một thứ gì của sự giết chóc. Các giáo sĩ đạo Jain mặc toàn đồ trắng, trên mặt bịt một miếng vải thưa chỉ chừa đôi mắt. Họ làm thế để tránh loài ruồi, muỗi khỏi bay lọt vào mũi, miệng. Vì lòng từ bi (Ahimsa) bao trùm tất cả, lỡ có sâu bọ nào vô phúc bay lọt vào rồi nằm lì trong đó thì phạm tội sát sinh. Không những thế, các giáo sĩ đạo Jain mỗi năm phải nhập thất một lần trong suốt ba tháng hè, vì thời gian đó côn trùng sinh sản nhiều, nếu di chuyển sợ dẫm lên chúng.
Tất cả các vật do sự giết chóc mà ra. Sở dĩ phải làm thế, vì giáo lý Ahimsa dạy các tín đồ phái này không được sát sinh, ăn thịt cá, mà ngay trong nhà cũng không được chứa một thứ gì của sự giết chóc. Các giáo sĩ đạo Jain mặc toàn đồ trắng, trên mặt bịt một miếng vải thưa chỉ chừa đôi mắt. Họ làm thế để tránh loài ruồi, muỗi khỏi bay lọt vào mũi, miệng. Vì lòng từ bi (Ahimsa) bao trùm tất cả, lỡ có sâu bọ nào vô phúc bay lọt vào rồi nằm lì trong đó thì phạm tội sát sinh. Không những thế, các giáo sĩ đạo Jain mỗi năm phải nhập thất một lần trong suốt ba tháng hè, vì thời gian đó côn trùng sinh sản nhiều, nếu di chuyển sợ dẫm lên chúng.
Đối với người Âu, việc thực hành Ahimsa có vẻ quá khích, và
vô lý, nhưng phần đông phái này thực hành giới luật rất nghiêm chỉnh. Họ tin rằng
nếu các giới luật mà không giữ được thì không hy vọng gì đi xa hơn trên đường
tu học.
Một số giáo sĩ Jain còn “quá khích” hơn nữa. Sau một thời
gian tu ở trong đền, họ phát nguyện vào rừng tu và sống loã thể. Họ chỉ uống nước
suối, ăn trái cây, và dành trọn thời giờ thiền định. Họ quan niệm rằng khi còn
ăn cơm gạo, mặc y phục là còn mang nợ xã hội. Còn hưởng những vật dâng cúng của
tín đồ là còn mang nợ loài người. Khi tu là phải ly khai với đời, từ bỏ tất cả,
không bận tâm đến bất cứ chuyện gì của thế gian, như của cải, vật chất, và ngay
cả mảnh vải che thân. Đạo Jain cho rằng xuất gia phải tuyệt tất cả ý niệm sở hữu,
vì sở hữu bất cứ gì đều là ràng buộc, níu kéo đưa đến sự quyến luyến, gây chướng
ngại cho việc tu hành giải thoát. Ngay cả các đền thờ đẹp đẽ cũng phải từ bỏ để
vào rừng lấy đất làm giường, lấy trời làm nhà, và thú rừng làm bạn. Họ dành tất
cả thời giờ để thiền định về ý niệm mở rộng lòng thương đến muôn loài. Nhiều tu
sĩ ngồi thiền mà thú rừng kéo đến quấn quít chung quanh, không hề sợ hãi. Các học
giả người Âu đã gọi tôn giáo này là phái “Lõa thể”, vì quan niệm từ bỏ triệt để
này. Điều đáng tiếc là danh từ “Lõa thể” thường bị đồng hóa với các sự kiện xấu
xa, mọi rợ, thiếu văn minh. Khi người Anh đến cai trị xứ này, rất nhiều tu sĩ đạo
Jain đã bị bắt giam vì tội xâm phạm thuần phong mỹ tục, mặc dù họ chỉ sống
trong rừng không tiếp xúc với xã hội. Khi gác bỏ các thành kiến dị biệt, phong
tục và tập quán, phái đoàn thấy đạo Jain chủ trương rất thực tế. Giáo phái này
tin tưởng rằng sức mạnh của tình thương có thể san bằng mọi khó khăn, trở ngại.
Tuy nhiên, tình thương phải hết sức tuyệt đối. Mục đích của nó không giới hạn
vào một hạng người nào riêng biệt, mà phải được ban rải đồng đều cho tất cả,
không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tín ngưỡng. Đây là một cải cách hết sức
lớn lao vì phong tục Ấn độ vốn rất thiên vị, và chủ trương dị biệt giai cấp.
Tín đồ đạo Jain tin rằng, con người dù mạnh hay yếu, sang hay hèn, trung lưu
hay hay hạ lưu, bình dân hay vua chúa, đều thụ hưởng lòng thương như nhau. Lòng
thương chẳng những phải bao la, mà còn nồng nàn như tình mẹ con, không quản ngại
khó khăn, nguy hiểm. Lòng thương phải chân thành, thâm thúy phát ra từ đáy
lòng, không thể giả dối , hay vị nể một hoàn cảnh nào. Sau khi ban rãi tình
thương khắp đồng loại, còn phải ban rãi đến loài vật, từ con voi to lớn đến các
côn trùng nhỏ nhen. Do đó, họ tránh sát sinh đã đành mà còn không sử dụng bất cứ
vật dụng gì do sự giết chóc mang lại. Đạo Jain cho rằng chiến thắng kẻ thù bằng
sức mạnh là một thú tánh cần loại trừ, nhưng chinh phục bằng tình thương là đường
lối duy nhất để giải quyết mọi việc.
Đạo Jain có khá đông tín đồ, phát triển mạnh tại miền bắc Ấn
độ, nhưng không đi đến các nơi khác, vì gặp phải sức chống đối của Ấn độ giáo
và Hồi giáo. Lịch sử Ấn độ ghi nhận Hồi giáo đã tiêu diệt Phật giáo và đạo Jain
một cách hết sức dã man. Hơn nữa, quy luật khắc khe của tôn giáo này không mấy
ai theo nổi, và các tu sĩ bịt mặt, loã thể dễ bị người đời ngộ nhận. Có lẽ thế,
nên tôn giáo này chỉ bành trướng trong các vùng hẻo lánh miền sơn cước.
Ashmah là một làng nhỏ, nằm sát chân núi. Phái đoàn dừng chân
ở đây một thời gian cho lừa, ngựa nghỉ ngơi. Một lý do nữa là gần đó có một di
tích lịch sử quan trọng: Ngôi đền yên lặng.
Đó là một ngôi đền kiến trúc bằng đá trắng, xây cất hơn 4000
năm nay. Trong đền không có hình tượng gì, mà chỉ là một căn phòng to lớn, trang
nghiêm. Bước vào ngôi đền yên tĩnh, tất cả mọi người đều thấy trong lòng bỗng lắng
xuống một cảm giác bình an khôn tả. Tục truyền, hoàng đế Rapoor mang quân đi
chinh phục các nước láng giềng, đã gặp một vị đạo sĩ nơi đây. Đạo sĩ khuyên vua
nên bỏ ý định chinh phục bằng sức mạnh, mà chỉ nên lấy nhân nghĩa mà đối xử với
người. Nhà vua nghe theo, ra lệnh bãi binh, khuyến khích dân chúng sống theo đạo
hạnh. Từ đó vương quốc Rapoor được hưởng một nền thái bình, thịnh trị.
Thời gian trôi qua, đến nay chẳng còn mấy ai biết đến thời đại
của hoàng đế này, nhưng ngôi đền xây cất để kỷ niệm sự tỉnh ngộ của nhà vua vẫn
còn tồn tại. Khi bước chân vào đây, không ai được nói một lời nào, mà phải tuyệt
đối giữ yên lặng. Lý do ngôi đền không có hình tượng gì là để nói lên cái chân
lý tuyệt đối vốn vô hình, vô tướng. Vị đạo sĩ giữ đền đã giải thích cho phái
đoàn.
- Đền yên lặng là nơi chỗ của quyền năng, vì yên lặng đồng
nghĩa với quyền năng. Khi con người đạt đến chỗ im lặng trong tư tưởng thì họ
đã đến chỗ mà tất cả đều là sự hợp nhất với quyền năng thiêng liêng. Con người
có sức mạnh tư tưởng nhưng vì vô ý thức, họ đã để cho nó hao tán. Qưyền năng
hao tán là Động, còn tập trung là Tĩnh. Khi tập trung mọi sức mạnh tư tưởng vào
một trung tâm sinh lực duy nhất, con người tiếp xúc với thượng đế. Khi hợp nhất
với đấng thiêng liêng, ta hợp nhất với mọi quyền năng và đó là di sản tâm linh
tối hậu. Phương pháp duy nhất để hoà hợp với đấng thiêng liêng, là tiếp xúc với
ngài một cách ý thức, từ bỏ ngoại cảnh, để quay về với nội tâm, vì đấng thiêng
liêng ẩn tàng trong tâm con người. Khi con người từ bỏ ảo giác của kiêu mạn, bản
ngã, nhận thức sự vô minh, hèn kém của mình và sẵn sàng học hỏi, sửa đổi, đó là
tu thân. Người ta không thể dạy bảo điều gì cho những cá nhân kiêu căng, tự phụ,
vì chỉ có người khiêm tốn mới thấy được chân lý. Đấng thiêng liêng không nghe
các lời cầu xin ồn ào, lập đi lập lại mà chỉ nghe những lời cầu nguyện chân
thành của những kẻ đến với ngài bằng trái tim, sùng kính ngài bằng tâm hồn và sự
im lặng. Kẻ nào tiếp xúc với ngài trong ầm thầm sẽ nhận biết quyền năng của
ngài do sự thực hiện các điều mong muốn của họ.
- Nhưng nếu không cầu nguyện theo mọi sách vở, thánh kinh làm
sao tín đồ có thể hiểu biết về tôn giáo mà họ đang theo đuổi?
- Minh triết phát sanh từ sự yên lặng. Thượng đế không cần ta
phải tuyên dương ngài một cách ồn ào hay bằng một ngôn ngữ gì. Khi một tín đồ
thành tâm trong tĩnh lặng, y sẽ hòa hợp tư tưởng với ảnh hưởng thiêng liêng; và
ảnh hưởng này chỉ có thể nhận biết được khi lòng ta vắng lặng. Khi tâm hồn hoàn
toàn an tĩnh, ta có thể tự phân tích mình, trau dồi phẩm hạnh và đón nhận những
mặc khải từ cõi trên. Chỉ trong sự vắng lặng, con người mới ý thức năng lực
trong mình, và chung quanh mình. Chỉ trong yên lặng các quyền năng tiềm ẩn mới
phát sinh và nẩy nở. Tâm có an thì việc bên ngoài mới không vọng động, dục vọng
mới chịu yên tĩnh. Con người có giải thoát các ồn ào, náo nhiệt bên ngoài, thì
mới đón nhận được các hoà âm tuyệt diệu đến từ cõi vô biên. Con người cần khám
phá rằng hạnh phúc ở trong tâm mình. Hiện nay phần lớn đều tìm kiếm hạnh phúc
bên ngoài, nhưng ngoại cảnh chỉ đem lại các giải trí trong chốc lát, thay vì hạnh
phúc vô biên. Tất cả phương pháp tìm kiếm bên ngoài đều vô vọng. Con người phải
biết quay về nội tâm vì mọi hình tướng, nghi thức đều là sự áp chế.
- Nhưng làm sao tìm thấy điều gì khi ngồi yên lặng?
- Con người sẽ dần dần ý thức được chính mình. Dĩ nhiên, điều
này đòi hỏi một thời gian. Họ sẽ tìm thấy ở mình một thứ hạnh phúc không lệ thuộc
ngoại vật, cũng không lệ thuộc tha nhân. Một tâm trạng giải thoát không ai có
thể cướp được, đó là tâm trạng “tôn giáo”, kết tinh bởi sự nẩy nở, thăng hoa
các ý thức sâu kín trong nội tâm. Con người sẽ tự mình tìm thấy câu giải đáp
khi họ ý thức thực chất của chính mình, và ảnh hưởng cao cả của thượng đế. Chỉ
khi đó, mọi sự tìm kiếm ở ngoại cảnh sẽ chấm dứt.
- Những điều ông nói rất hay, nhưng nếu không có sách vở chỉ
dẫn, làm sao con người biết đâu mà tìm để đạt đến trạng thái đó?
- Đa số người Âu chỉ quen hoạt động và ỷ lại vào một phương
pháp, giáo lý hướng dẫn cuộc đời. Do đó, họ dễ bị hướng dẫn sai lạc, lầm lẫn.
Phải tự mình suy gẫm và tìm lấy con đưòong cho chính mình mới là phương pháp đứng
đắn. Con đường giải thoát đòi hỏi can đảm và nổ lực cá nhân, vì không đường nào
giống đường nào. Lịch sử cho thấy có biết bao tôn giáo rao truyền chân lý cực kỳ
tốt đẹp, nhưng có mấy tín đồ nghiên cứu tường tận? Đa số đều ỷ lại vào các
giáo sĩ chỉ dẫn. Chính các giáo sĩ còn chưa giải thoát chính mình, thì còn cứu
độ cho ai nữa? Đó là lý do hoàng đế Rapoor xây dựng ngôi đền yên lặng và trong
đó không có một pho tượng, một hình ảnh hay ngôn ngữ nào, để tránh đi vào con
đường của các tông phái Ấn giáo. Thượng đế ở khắp mọi nơi và tuyệt đối, ngôn ngữ,
hình ảnh không thể diễn tả được. Chỉ trong sự im lặng hoàn toàn phá bỏ tất cả
hình tướng, nghi thức, con người mới tự do sống bình an với nhau, hiểu sự liên
quan giữa y và những người đồng loại. Con người thường suy tư về sự liên hệ giữa
người với người, nhưng sự suy tư này ít nhiều đều thiên vị. Nó luôn luôn sai lạc
nếu nó khảo sát sự vật xuyên qua bản ngã. Tư tưởng con người chỉ chân chính khi
họ giải thoát khỏi các thành kiến, điều kiện bao bọc bên ngoài. Tự do tư tưởng
không phải chỉ là muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, mà còn là giải thoát ta ra khỏi
các áp lực bắt ta phải suy nghĩ theo một lề lối riêng. Đây là một chân lý chỉ
tìm thấy trong sự yên lặng, trong sự cởi bỏ mọi nghi thức, hình tướng, ngôn từ,
các thành kiến dị biệt, các cưỡng bách tư tưởng, các sợ hãi bắt nguồn từ vô
minh. Chỉ khi nào hoàn toàn tự do, con người mới thực sự bình an và giải
thoát.
Phái đoàn từ giã vị giáo sĩ coi đền. Cuộc viếng thăm tuy ngắn
ngủi nhưng đã gây một ấn tượng tốt đẹp với mọi người. Hình như có một luồng từ
điện vô hình phảng phất quanh ngôi đền, khiến ai cũng thấy trong lòng dào dạt một
sự bình an khó tả. Lối tu trong yên lặng không còn là một vấn đề trừu tượng, vô
ích như họ nghĩ. Quả thật xứ Ấn còn rất nhiều điều để cho người Âu học hỏi và
suy nghĩ.
Chương 5
Rishikesh! Một tên gọi linh thiêng, thành phố của các vị
thánh. Từ lâu nay người ta đã coi thành phố này như một thánh địa mà tất cả những
kẻ cầu đạo đều phải đến để đắm mình trong bầu không khí thiêng liêng. Rishikesh
nằm ở một vị trí đặc biệt và là cánh cửa vào rặng Hy Mã Lạp Sơn. Từ đó đi lên
hướng bắc là rặng núi hùng vĩ, chứa đựng những điều huyền bí. Phía nam là con
sông Hằng, dòng sông thiêng của Ấn giáo. Một người Ấn bất kể giai cấp, trí thức,
đều ít nhất một lần trầm mình trong dòng nước này để đón nhận những ân phược mà
dòng sông mang lại.
Đúng như lời người Ấn bí mật thành Benares đã nói, khắp nơi
đâu đâu cũng có các đạo sĩ và tín đồ hành hương. Có những đạo sĩ mình hạc,
xương mai vừa đi vừa tụng niệm các câu thần chú. Có các đạo sĩ khổ hạnh, chống
gậy trầm tư bên dòng nước sông Hằng. Chen chúc bên các tín đồ huyên náo là các
thuật sĩ, quần áo sặc sỡ biểu diễn những trò lạ lùng. Một đạo sĩ to lớn, lực
lưỡng, quấn khố bằng da cọp, uốn mình trong tư thế Yogạ Bên cạnh một thuật sĩ gầy
gò, nằm lăn trên đất, lâm râm cầu nguyện. Có các vị tăng sang sảng đọc kinh bên
cạnh những giáo sĩ vừa đánh trống vừa nhẩy nhót, ca hát tên các vị thần. Có những
tu sĩ thiền định trong những hang đá đục sâu vào núi, không màng thế sự, bên cạnh
những đạo sĩ râu tóc xồm xoàm, quấn mình trong những mảnh vải rách như một xác
ướp. Có các tu sĩ nằm yên lặng, hơi thở thoi thóp như sắp chết, bên cạnh những
thuật sĩ say sưa gọi tên thượng đế một cách ồn ào. Trong làn khói hương nghi
ngút, các tín đồ hành hưoong chen vai thích cánh, trên mặt ai cũng một niềm
thành kính rõ rệt. Phái đoàn cảm tưởng như đang lạc vào một thế giới lạ lùng,
huyền ảo, với những nhân vật kỳ dị, khác thường.
Bác sĩ Kavir, giám đốc viện nghiên cứư Phạn ngữ (Sanskrit) của
chính phủ là một học giả nổi tiếng, có một kiến thức rộng và đã sống ở
Rishikesh nhiều năm. Theo ông ta thì Rishikesh không còn là một thành phố của
các bậc chân tu đạo hạnh như xưa, mà là một nơi quy tụ rất nhiều thành phần hỗn
tạp. Đa số là các đạo sĩ, tu sĩ nghèo nàn từ hình thức đến tinh thần. Họ góp nhặt
vài phép tu, vài phương pháp dưỡng sinh, vài câu thần chú, rồi kiếm ăn qua sự
mê tín của dân chúng. Phần lớn những tu sĩ này đều là những kẻ thất bại ngoài đời,
lười biếng, không chịu làm việc. Đối với một quốc gia chậm tiến như Ấn độ, thì
hình thức dễ nhất để có cơm ăn, áo mặc, và một mái nhà, là trở nên một tu sĩ, sống
trên lòng sùng tín của dân chúng. Vì không có một tiêu chuẩn kiểm soát nào, nên
bất cứ ai cũng có thể trở thành tu sĩ; chỉ cần mặc áo tu sĩ, học thuộc vài câu
kinh, vài hình thức lễ nghi, cúng tế là có thể tự xưng đạo sĩ, thánh nhân được
rồi. Chính các tu sĩ, đạo sĩ giả mạo này là những kẻ làm hoen ố danh dự tôn
giáo, lợi dụng đức tin để làm chuyện xằng bậy, ích kỷ cá nhân. Đã thế, họ còn tụ
tập phe nhóm, phong chức tước, ca tụng lẫn nhau và đả kích những tu sĩ không
cùng phe nhóm.
Được tin có phái đoàn ngoại quốc đến nghiên cứu nền minh triết
cổ truyền, rất đông đạo sĩ, gíao sĩ tìm đến để tiết lộ những pháp môn huyền bí,
dĩ nhiên, là với một giá biểu. Khi bị từ chối, lập tức họ sụt giá như người mua
bán. Một đạo sĩ đòi bán một cuốn sách bí truyền với giá 50 đồng tiền vàng, sau
nhiều lần sụt giá, y bằng lòng để lại cuốn sách với giá một bữa ăn. Một nhóm tu
sĩ danh xưng trọng vọng, chức tước đầy người đòi đến thảo luận triết lý với
phái đoàn. Khi nghe họ giới thiệu về thành tích và đạo quả đạt được, phái đoàn
cực kỳ ngẩn ngơ, vì toàn các bậc thần thánh gì đâu, chứ không phải người. Ai
cũng tu cả trăm năm, đủ các phép thuật thần thông biến hoá. Tuy nhiên, khi một
viên cảnh sát ở đâu bước vào thì các bậc “thần tiên” mặt mày lơ láo, kéo nhau bỏ
chạy hết.
Quanh các chợ , có rất nhiều tu sĩ khổ hạnh phô trương thân
thể tàn phế bị huỷ hoại như một công trình vĩ đại. Phái đoàn không hiểu họ có
thể đạt đến điều gì, ngoài ít xu lẻ mà khách bộ hành ném chọ Một số các đạo sĩ
sử dụng tà thuật công khai. Với một giá biểu, họ sẵn sàng làm bùa chú, thư phù,
nguyền rủa một kẻ thù của bạn, đem đến cho bạn một cô gái đẹp hoặc giúp bạn
thành công trên thương trường. Đâu đâu cũng có đạo sĩ rao bán bùa ngãi hoặc
xưng là đấng này, đấng nọ. Một tu sĩ đến gặp phái đoàn xưng là hậu thân của đấng
Krishna và đã từng là Phật Thích Ca trong một tiền kiếp. Bác sĩ Kavir nổi giận
ra lệnh tống giam ngay tu sĩ này. Khi cảnh sát đến còng tay, tu sĩ thú nhận, y
chỉ là một học sinh thi rớt tiểu học, không sao kiếm được việc làm. Y đã lười
biếng còn thích làm thầy kẻ khác, nên làm gì một thời gian cũng gặp khó khăn.
Sau cùng, y cạo đầu, mặc áo tu và tự xưng là Krishna giáng thế, một số dân quê
tin những lời tuyên bố của y. Họ quyên góp, xây cho y một ngôi đền. Y sống trên
phẩm vật dâng cúng của tín đồ, một cách ung dung chẳng tu hành gì hết. Đã thế,
y còn đòi hỏi này nọ, chê ngôi đền quá nhỏ bé không xứng với chức tước của ỵ
Quen thói hống hách, lừa bịp, khi nghe tin có phái đoàn ngoại quốc đến thăm viếng,
y dở trò bịp bợm để mong kiếm được món tiền nhỏ.
Lịch sử Ấn độ cho thấy khi xưa Rishikesh là một thánh địa
thiêng liêng, một nơi các tu sĩ thánh thiện đến để tu học. Sau này, khách hành
hương quá đông, một số hành khất kéo nhau đến đây hành nghề. Thấy làm đạo sĩ
coi bộ dễ kiếm ăn hơn nên nhiều hành khất đã “chuyển nghề” trở thành các đạo
sư, gíao sĩ chuyên làm tiền các tín đồ ngây thơ, nhẹ dạ.
Dĩ nhiên, Rishikesh vẫn còn các tu sĩ học thức, dành trọn đời
cho việc đi tìm chân lý. Họ vẫn tu hành quanh đó không để ý đến sự kiện các tu
sĩ giả lợi dụng sự có mặt của họ để mưu cầu lợi lộc. Đó cũng là một nét đặc thù
của nền văn hoá xứ này. Một người Âu Mỹ chắc chắn không thể chấp nhận sự kiện
như thế, họ sẽ nhờ luật pháp can thiệp hoặc cảnh cáo những tu sĩ bất lương.
Nhưng Ấn giáo không có một tổ chức chặt chẽ như Thiên chúa giáo. Các giáo sĩ
quan niệm có nhiều đường tu khác nhau, ai tu nấy chịu và những kẻ mạo danh, lợi
dụng sẽ phải chịu hậu quả ở một kiếp sau.
Giáo sư Kavir cho biết, theo thời gian, khi nền văn hoá suy đồi,
cuộc sống trở nên khó khăn, các bậc tu sĩ thánh thiện mỗi ngày một hiếm, thì
các đạo sĩ, thuật sĩ giả mạo nổi lên mỗi ngày một nhiều. Hàng ngàn người dốt
nát, vô học đi lang thang với các chức tước rất lớn như đạo sư, giáo sĩ, thánh
nhân. Họ chỉ chờ những ngày hội, ngày lễ là xuất hiện quanh các đền, chùa lên mặt
này nọ để quyên tiền. Dĩ nhiên họ là gánh nặng của xã hội, vì chỉ thụ hưởng mà
không làm lợi ích gì. Đó cũng là lý do nhiều người Âu Mỹ đã coi thường gia tài
văn hoá xứ Ấn. Xét cho cùng, một phần lỗi cũng là do sự tôn sùng tôn giáo quá mạnh
của dân chúng. Họ không phân biệt một đạo sư tu hành chân chính, gìn giữ giới
luật nghiêm minh, với những kẻ bịp đời. Lòng sùng tín khiến họ trở nên ngây
thơ, nhẹ dạ, sẵn sàng làm theo sự mách bảo của các bậc tu hành. Một lý do nữa
là sự ỷ lại vào sức mạnh thần quyền. Đa số các tín đồ mải mê với sinh kế, không
có thì giờ lo việc tinh thần, nên họ uỷ thác cho các giáo sĩ cầu nguyện dùm, và
đồng hoá việc giải thoát với việc trung thành vào một bậc giáo sĩ. Đa số các
giáo sĩ lợi dụng vấn đề này tối đa, hứa hẹn sẽ chăm lo tinh thần giáo dân bằng
cách cầu nguyện cho họ. Các giáo sĩ này tự hào đã tu hành đắc đạo, đã có thể
nói chuyện trực tiếp với thượng đế. Và là người trung gian giữa trời và người.
Họ sống trong các đền đài đẹp đẽ, hưởng thụ vật dụng được cúng, và nhân danh
thượng đế để đòi hỏi này nọ. Người Á châu bản tính không thích hoài nghi, chấp
nhận việc các tu sĩ nói ra ý muốn của thượng đế, và tuân hành triệt để. Cũng vì
thế, các tài liệu tôn giáo Ấn độ đã bị sửa đổi rất nhiều, không phân biệt được
điều có thật với những sự kiện huyền hoặc. Các tu sĩ tha hồ trích dẫn những câu
nói bí ẩn, và giảng ra theo ý nghĩa có lợi nhất cho họ. Xứ Ấn độ phân biệt giai
cấp rõ ràng, tu sĩ luôn đứng hàng đầu trên cả vua chúa, quý phái. Giai cấp tu
sĩ không làm gì, chỉ hưởng thụ và các giai cấp khác có bổn phận phải cung cấp
các nhu cầu đòi hỏi của tu sĩ. Cũng vì không làm gì, quá nhàn hạ, họ đâm ra chống
báng, đả kích lẫn nhau. Mỗi người tự lập một giáo phái, xưng hùng, xưng bá, giảng
kinh điển theo quan niệm của mình từ cụ thể đến trừu tượng, như Thời gian luận,
Phương hướng luận, Đa nguyên luận… Không ai chịu theo ai, và còn tranh luận lung
tung khiến các tín đồ không còn biết đâu mà lần. Cũng vì xã hội nghèo đói, rối
ren, tinh thần lại điên đảo bởi các tà thuyết, nên từ bao năm nay, Ấn độ không
sao trở nên một quốc gia hùng cường, thịnh vượng như các xứ khác. Tuy thế, với
gia tài minh triết lớn lao tiềm ẩn, vẫn có các bậc chân tu đạo hạnh, sống kín
đáo để giữ cho ngọn lửa tâm linh luôn cháy sáng và vẫn có những người tha thiết
mong cầu chân lý, sẵn sàng từ bỏ tất cả để đi tìm chân lý.
Sự kiện từ bỏ tất cả để đi tìm đạo cũng là một nét rất đặc biệt
của Á châu, vì người Âu Mỹ khó có thể chấp nhận vấn đề từ bỏ của cải, vật chất,
để chạy theo một viễn ảnh trừu tượng, viễn vông, không thiết thực. Người Âu cả
quyết rằng sự tìm kiếm chân lý là vô ích, hạnh phúc là hưởng thụ tất cả những
gì cuộc đời có thể mang lại vì chết là hết! Nếu như thế, thì mục đích cuộc đời
là gì? Tại sao chúng ta lại sinh ra để chết? Văn hóa Âu tây đã không giải
thích được vấn đề này một cách rốt ráo. Biết bao nhà triết học nổi danh đã nhức
óc về đề tài này, nhưng đa số đều chỉ nói một cách quanh co, không đi đến một kết
luận nào chắc chắn. Họ chỉ nói rằng có thể như thế này, hay cũng có thể như thế
khác mà thôi. Cho đến khi người Âu thật sự giao tiếp với người Á châu, thì họ bỗng
bật ngửa, vì tất cả những gì họ thắc mắc thì người Á châu đã có những câu trả lời
từ nhiều ngàn năm về trước.
Lịch sử đã ghi nhận có những người Âu đến viếng thăm Á châu
và say mê nền minh triết xứ này, đến nổi quên cả mục đích chính của chuyến đi.
Điển hình là đại đế Alexander xứ Hy Lạp, vị hoàng đế, bách chiến bách thắng đã
chinh phục thế giới, dẹp tan Ai cập, quét sạch Ba tư, mở rộng bờ cỏi đến tận Ấn
độ dương. Khi đến Ấn độ, ông là một kẻ chinh phục, oai danh lừng lẫy nhưng khi
trở về nước, ông đã trở nên một triết gia khiêm tốn, nhã nhặn. Hoàng đế
Alexander, học trò của hiền triết Aristotle đã bị các bậc hiền giả xứ Ấn chinh
phục. Khi dẹp tan các đạo binh của hoàng đế Ấn độ, Alexander cho mang tất cả những
tướng chỉ huy xứ Ấn đến hạch hỏi. Ông vua kiêu căng lớn tiếng, “Thua trận như vậy,
các người đã chịu phục ta chưa?”. Nếu là trường hợp các quốc gia khác, thì vua
chúa đều quỳ mọp xin tha tội, và xin thần phục trước sức mạnh của Hy Lạp. Nhà
chỉ huy xứ Ấn đã dõng dạc trả lời, “Nhà ngươi chỉ là một kẻ vũ phu, tàn ác làm
sao ta phục cho được. Người có thể thắng bằng quân sự, nhưng cai trị thế nào nổi
dân của tả” Alexander nổi giận, “Ta đã cai trị toàn thế giới, có nước nào không
phục tài ta, nơi nào làm phản, ta giêt trọn cả nước. Ngươi không thấy các đại
cường quốc như Ai cập, Ba tư còn xin thần phục huống chi Ấn độ yếu đuối?” Vị
chỉ huy xứ Ấn bật cười, “Chinh phục bàng sức mạnh quân sự thì dễ, chứ chinh phục
nhân tâm còn khó gấp trăm ngàn lần. Một kẻ vũ phu như ngươi, làm sao có thể cai
trị được Ấn độ?” Câu nói bất ngờ làm đại đế Alexander giật mình. Nên nhớ, ông
là một hoàng đế văn võ toàn tài, chứ không phải là một kẻ chỉ ỷ vào sức mạnh. Từ
nhỏ, ông đã được giáo dục bởi các bậc hiền triết Hy Lạp và năm 14 tuổi, ông đã
đem quân chinh phạt khắp Địa trung hải, tạo các chiến công hiển hách. Ông theo
học với triết gia Aristotle và lúc nào cũng có vài chục hiền giả chung quanh để
thảo luận. Câu nói của vị tướng lãnh chỉ huy xứ Ấn, làm ông suy nghĩ. Thay vì
ra lệnh giết ngay viên tướng này để làm gương, ông đã không giận dữ, lại còn
mang ngay đề tài chinh phục nhân tâm ra thảo luận với ỵ Trong suốt lịch sử Âu
châu, chỉ có Alexander là hoàng đế duy nhất đã tranh luận ôn tồn cho đến khi kẻ
thù kính phục mới thôi.
Chi tiết cuộc thảo luận này ra sao, không thấy lịch sử ghi
chép nhưng chỉ ít lâu sau, hoàng đế Alexander đã cho mời các bậc hiền triết xứ Ấn
đến thảo luận với các học giả Hy Lạp vẫn tháp tùng theo đoàn viễn chinh. Chỉ một
thời gian ngắn, Alexander nhận thấy các triết gia Hy Lạp không thể sánh kịp với
các hiền giả Ấn độ. Nhà vua bèn đổi thái độ, lấy lễ nghĩa đối xử với các vị
này. Thay vì cai trị bằng sức mạnh như vẫn làm với các quốc gia khác, ông ghi
nhận những lời khuyên của các bậc hiền triết, tôn trọng quyền lợi dân chúng xứ
này.
Đoàn quân viễn chinh ngừng lại, không đi sâu vào nội địa xứ Ấn,
để ông có thời gian học hỏi, đàm đạo với các bậc thánh nhân, hiền triết. Các cuộc
thảo luận nhiều khi kéo dài đến cả tuần lễ, có khi cả tháng. Sau đó, ông đã ra
lệnh rút binh trở về Hy Lạp, vì giấc mộng bá vương không còn nữa. Ông dự định sẽ
cải tổ lại guồng máy cai trị thế giới theo gương Ấn độ. Tiếc thay, nhà vua lại
chết sớm khi chưa đầy 30 tuổi. Một sử gia đã than, “Nếu Alexander sống lâu thêm
ít năm nữa, thì biết đâu lịch sử Tây phương đã khác hẳn.
Trong các hiền triết nổi danh, Ramakrishna được coi là một vị
thánh của Ấn giáo. Danh tiếng ông này vang sang tận Âu châu. Phái đoàn tìm đến
đức Mahayasa, môn đệ của ông này đang tu ở một ngôi đền gần đó.
Ngang qua một khoảng sân nhỏ đến một căn phòng kiến trúc kiểu
xưa, cổ kính. Mọi người được mời ngồi xuống thảm. Khoảng vài phút sau, có tiếng
chân người chậm rãi bước lại, đó là một ông lão khoẻ mạnh, râu dài trắng phếu,
dung mạo nghiêm trang, và đôi mắt chói sáng tỏa ra một cái gì thánh thiện, khiến
mọi người có cảm giác rung động lạ thường.
Giáo sư Evans-Wentz lên tiếng bày tỏ mục địch của phái đoàn,
Mahayasa mỉm cười:
- Ơn trên đã dẫn dắt các ông đến đây, các ông sẽ có dịp tiếp
xúc nhiều với những bậc hiền triết xứ này. Ơn trên có một mục đích rõ ràng rồi
các ông sẽ thấy.
- Chúng tôi nghe nói nhiều về đạo sư Ramakrishna, ông có thể
cho chúng tôi biết thêm về ngài không?
- Tôi rất thích nói về ngài. Ngài mất đã nửa thế kỷ rồi,
nhưng vẫn còn lưu lại nhiều kỷ niệm linh động trong lòng tôi. Tôi gặp ngài hồi
27 tuổi, và luôn luôn ở bên ngài, cho đến những ngày cuối cùng. Nhờ ngài, tôi
đã trở thành một con người mới, và quan niệm của tôi đối với cuộc đời cũng thay
đổi hẳn. Ảnh hưởng của ngài thật sâu đậm, ai đến với ngài cũng được cảm hoá như
vậy, kể cả những kẻ hoài nghi, chế nhạo…
- Nhưng nếu người ta không tin, làm sao người ta có thể được
cảm hóa?
Đức Mahayasa mỉm cười:
- Trước ảnh hưởng an lành tỏa ra từ con người thánh thiện của
đức Ramakrishna dù có hoài nghi thế nào, người ta cũng thấy thanh thoát.
Giáo sư Allen rụt rè:
- Chúng tôi được biết ngài rất ít học.
- Đúng thế, ngài là con người đơn giản, biết ít, học ít,
nhưng ngay cả những bậc học rộng, tài cao của Ấn độ đều ngưỡng mộ ngài. Họ cúi
đầu trước hào quang tâm linh của ngài. Ngài vẫn dạy rằng tiền bạc, chức tước, địa
vị chẳng qua chỉ là phù vân, hư ảo trước các giá trị tâm linh…
- Nhưng người Âu không thể hiểu tại sao những vua chúa, học
giả nổi tiếng lại có thể cúi đầu trưóoc một người không học hết bậc trung học.
Đức Mahayasa mỉm cười:
- Sở dĩ họ không hiểu được, vì họ quan niệm đạo sư phải là
người có bằng cấp, tốt nghiệp những đại học nổi tiếng, có tài ăn nói hấp dẫn.
Quan niệm người Ấn không như vậy. Một đạo sư không nhất thiết phải tốt nghiệp
trường học chuyên môn, viết những sách vở cao siêu, mà ở những điều ngài khêu gợi,
thức tỉnh tâm thức được cho mình. Có gần ngài, mới hiểu thế nào là bình an. Những
ngày bên ngài tốt đẹp biết bao. Ngài thường đắm mình trong những cơn thiền định
sâu xa, khiến chúng tôi có cảm tưởng như tiếp xúc với một vị thánh hơn một người
phàm. Tôi xin kể cho các ông về cảm tưởng của tôi. Tôi được giáo dục theo
phương pháp Âu tây, tôi rất tự đắc được đọc nhiều biết rộng hơn những người
chung quanh. Khi đó tôi là giáo sư dạy Anh ngữ cho trường trung học ở Calcuttạ
Đức Ramakrishna tu ở đạo viện Dakshinewar cách đó không xạ Một hôm, tôi theo
các bạn đến nghe ngài thuyết giảng, thực ra tôi có ý muốn biện luận với một vị,
được dân chúng coi là thánh nhân, hơn là muốn nghe giảng. Nhưng một sự lạ lùng
đã xảy ra, khi vừa nghe những lời nói của ngài, tôithấy trong lòng rộn rã một cảm
giác lạ lùng, yên tĩnh. Ngài không nói bằng ngôn ngữ thông thường, sử dụng các
danh từ bóng bẩy như tôi nghĩ, mà bằng tiếng nói của trái tim. Tôi say mê uống
những lời giảng giản dị, chân thành như người khát nước lâu ngày, sau đó, tuần
nào tôi cũng đến nghe giảng. Một thời gian sau, tôi được ngài thu nhận làm đệ tử,
chính ngài khuyên tôi, “Xem tướng, thầy biết con sẽ trở nên một tu sĩ (Yogi).
Con hãy làm tròn công việc hàng ngày của mình với đời. Nhưng tâm hồn lúc nào cũng
tưởng nhớ đến thượng đế.”
- Chúng tôi nghe nói về Ramakrishna ngay từ khi còn ở Âu
châu, nhưng dư luận người Anh có lẽ không hiểu rõ về ngài, ngoại trừ việc ngài
là một người không có học thức…
Mahayasa gật đầu mỉm cười:
- Theo sự hiểu biết của tôi, sở dĩ ngài không thích học vì bản
tính ngài thiên hẳn về vấn đề tâm linh. Một người như thế tất nhiên không để ý
đến những từ chương, bằng cấp hay quyền quý, danh lợi. Năm ngài bắt đầu vào tuổi
thanh niên, một sự lạ xảy ra. Tuổi 16,17 là lúc đứa trẻ thường bị khủng hoảng
hoặc thay đổi tâm tính nhất là trên phương diện tình ái. Đối với người cao thượng,
đó là lúc mở màn cho một đời sống thật sự với sự phát triển các năng khiếu tâm
linh siêu việt. Sự mở màn ấy bắt đầu vói sự hoảng hốt trước cái chết. Đa số con
người ít nhiều cũng đã nghĩ đến sự chết nhưng họ chỉ nghĩ một lát rồi quên
ngay, ít ai chịu tìm hiểu sâu xạ Các bậc hiền triết thì khác, họ tận lực tìm hiểu
thế nào là sự chết, đức Ramakrishna cũng phản ứng như vậy, ngài suy ngẫm, “cái
gì là chết? Thể xác này chết nhưng còn tôi, tôi có chết không? Nếu tôi là thể
xác này, tôi chết nhưng tôi có phải là thể xác này không? Nếu tôi không là thể
xác này, tôi sẽ không chết, nhưng làm sao tìm ra điều này? Chỉ có một cách là
kinh nghiệm sự chết”. Sau đó, ngài quyết tâm tham thiền, suy gẫm về đề tài này.
Ngài tưởng tượng thân thể ngài đã chết, không còn thở, không còn cảm xúc. Với một
ý chí mãnh liệt, ngài rút hết sinh lực ra khỏi thể xác và một ngày kia ngài
thành công. Thân thể ngài cứng đơ, bất động như người chết, nhưng ngay lúc đó một
quyền lực khôn tả phát ra từ đáy lòng và tràn ngập tâm tư ngài. Chuyện gì xảy
ra sau đó, không thấy ngài nói đến nhưng chúng ta có thể đoán ra, xuyên qua lời
dạy của ngài. Chúng ta có thể nghĩ rằng quyền lực ấy là cái mà ta gọi là Ân huệ,
và khi được mặc khải đó thì ta tiến sâu vào nguồn sống để hòa hợp với đấng vô
cùng. Ngài đã hợp nhất với Chân Ngã. Từ đó, ngài kinh nghiệm rằng Chân Ngã ngự
sâu trong lòng nhưng ngài chưa kinh nghiệm được một chân lý khác. Chân Ngã là sự
thật duy nhất, ngoài sự thật đó không có gì nữa cả. Khi tiến sâu vào nội tâm,
ngài thấy sự bình an nhưng khi ngài tỉnh dậy, ngài vẫn không thỏa mãn vì điều
ngài mới đạt đến chỉ là sự bình an của các vị thánh. Ngài ra tâm suy gẫm về cảm
giác thiếu thốn này, thân thể ngài khi đó thường nóng hực kéo dài trong nhiều
tháng. Dĩ nhiên ,những người chung quanh không hiểu, và cho rằng ngài mắc bệnh.
Ngài đắm mình trong trạng thái Vô Ngã rất lâu, không màng đến những việc chung
quanh. Chú của ngài không hiểu, nên thường trách mắng ngài lười biếng, không chịu
học hành. Một hôm, ngài nghe nói đến ngôi đền Dakshiniwar, danh từ này có một sức
hấp dẫn lạ lùng, thế là ngài quyết định đến đó. Đến nơi, ngài bước ngay đến trước
tượng Shiva và nói, “Hỡi cha, cha đã gọi, nay con đến với chạ” Ngay lúc đó các
cảm giác nóng hực, thiếu thốn hoàn toàn biến mất. Ngài chứng nghiệm được một
chân lý mới, cha ta và ta là một. Từ đó ngài không cần tĩnh tâm mới có cảm giác
an lạc, mà lúc nào cũng ở trạng thái này. Ramakrishna bị rất nhiều thử thách. Bị
trẻ con chọc phá và các tu sĩ khác dèm pha, gây hấn, nhưng lòng ngài lúc nào
cũng bình thản, lặng yên, không một chút vọng động. Kinh Gita dạy rằng một khi
đã đạt đến trạng thái Vô Ngã, lòng người không còn bị xao động bởi các sự kiện
bên ngoài, dù khắc khe, đau khổ đến đâu. Một sự an lạc tràn ngập thân ngài lôi
cuốn những người chung quanh khiến họ khâm phục, kính mến và số người này mỗi
ngày một đông. Một điều cần lưu ý là ngài không học hay đọc những sách vở gì về
trạng thái Vô Ngã mà ngài đạt được lúc thanh xuân. Cũng không ai chỉ dẫn ngài về
trạng thái siêu việt này. Nhưng mỗi khi tín đồ nhờ ngài giảng giải một đoạn
kinh sách gì, ngài mới đọc và thông hiểu nó một cách dễ dàng. Các sách vở đó rất
ư khó hiểu, nhưng ngài chỉ đọc lướt qua đã quán triệt được ngay, vì ngài đã chứng
nghiệm được những điều nói trong sách đó. Ngài dạy đạo bằng sự lặng thinh hơn
là lời nói, nhiều người đến với ngài để chất vấn, nhưng khi vừa gặp ngài thì mọi
thắc mắc tự nhiên tiêu tan như đã được phúc đáp. Nếu một câu hỏi đặt ra, ngài
thường trả lời một cách dịu dàng, vắn tắt, dễ hiểu. Ngài không viết sách như những
đạo sư khác, mà chỉ dạy đạo qua cử chỉ yên lặng hay vài câu nói giản dị. Môn đệ
của ngài đến từ khắp xứ và tùy theo căn cơ lãnh hội ít hay nhiều. Ý kiến của họ
vê ngài tuy khác nhau, nhưng ai cũng nhìn nhận ngài là một đạo sư vào bậc nhất,
và hết sức kính mến ngài. Vì đã đạt trạng thái Vô Ngã, Ramakrishna không phân
biệt giữa ngài và những người khác, giữa người giàu, kẻ nghèo, hay nam nữ, đối
với ngài, tất cả đều bình đẳng tuyệt đối kể cả những loài cầm thú.
- Vì Ramakrishna không hề để lại sách vở, giáo lý, nên người
Âu không hiểu tại sao ngài lại nổi tiếng như vậy? Ông có thể cho chúng tôi biết
một chút về giáo lý của ngài không?
Mahayasa mỉm cười:
- Sau khi ngài qua đời, nhiều đệ tử đã xuất gia để truyền bá
giáo lý, riêng tôi vẫn còn là cư sĩ, hàng ngày tôi vẫn đi làm nhưng sống giữa
cõi đời, mà tôi không còn tùy thuộc vào đời. Tôi còn nhớ rõ một lần ngài đã dạy
như sau, “chúng ta xông pha trong cuộc đời với ý niệm cho rằng ta có thể tìm hạnh
phúc trong cõi đời. Cho đến lúc gần đất, xa trời, nhiều người cũng không buồn hỏi
rằng ý niệm đó có đúng không? Thật sự là chúng ta chả bao giờ chịu ngừng lại để
suy nghĩ, lúc nào chúng ta cũng nghĩ rằng mình gần đạt được những điều mình
mong mỏi. Chúng ta chỉ chịu dừng chân khi nào bị cuộc đời hắt hủi, giày vò.
Ramakrishna cho rằng đó là việc dĩ nhiên, và giải thích bằng giấc mộng. Trong
giấc mộng, nếu ta chỉ gặp những điều thích thú, chúng ta vẫn mơ mộng mãi và chỉ
giật mình tỉnh giấc khi gặp những chuyện đau buồn. Một cuộc đời êm đẹp không tiện
cho sự suy tư về các vấn đề quan trọng, nhưng nếu là mộng thì chắc chắn cũng phải
có lúc tỉnh. Trong nhiều năm ròng rã, chúng ta cố tìm hạnh phúc, và nhiều lần
tưởng đã đạt được nó để hưởng một cách lâu bền. Nhưng lần nào ta cũng thất vọng.
Sau đó, ta lại tiếp tục chạy theo ảo ảnh đó như trước. Nếu biết dừng chân suy
nghĩ, ta sẽ thấy chúng ta đuổi theo hạnh phúc nhưng không hề biết đến bản chất
thật sự của nó , và không biết phải dùng phương tiện nào để đạt nó. Hãy thử tìm
hiểu thế nào là hạnh phúc. Ai cũng biết đặc tính của hạnh phúc là “thường hằng”,
nghĩa là nó ở mãi với ta; suốt đời ta lúc nào cũng vui sướng, tươi tắn. Nhưng tất
cả những gì cuộc đời mang lại cho ta đều là vô thường, chỉ có những khoái cảm
nhất thời, chứ có gì lâu bền đâu. Vì khoái cảm nhiều và đến với ta như dòng nước
chảy, chúng ta tưởng nó là hạnh phúc và kết luận rằng bao giờ dòng khoái cảm đó
còn tiếp tục đến với ta, chúng ta được hưởng hạnh phúc. Suy gẫm kỹ thì khoái cảm
chẳng qua chỉ là phản ứng của lòng ta trước sự vật bên ngoài, nó lôi cuốn chúng
ta. Các sự vật này khi thì tạo vui, lúc thì gây khổ.
Hơn nữa cùng một sự vật mà có thể tạo vui hay gây khổ tùy lúc, bởi thế ta phải nhận thức rằng “Hạnh phúc” không có ở sự vật bên ngoài. Nếu nó là sự vật bên ngoài, chúng ta phải càng có hạnh phúc khi càng có nhiều sự vật mới đúng chứ. Thật sự, người giàu có, lắm sự vật, chưa chắc đã hạnh phúc hơn kẻ nghèo. Nói cách khác, kẻ nghèo ít của cải, chưa chắc thiếu hạnh phúc hơn người giàu. Tóm lại, chúng ta thấy rõ ràng mình theo đuổi hạnh phúc nhưng không biết thế nào là hạnh phúc và cũng chả biết phải dùng cách nào để đạt hạnh phúc?!!. Những người tìm hiểu một cách chân thành sớm muộn gì cũng thấy rằng hạnh phúc nằm ở ngay nội tâm tạ Các khoái cảm không có tính cách tư hữu, mà chỉ là một tia nhỏ của hạnh phúc chân thật thuộc bản tính tự nhiên của con người, bị che lấp bởi vô minh. Một con chó gậm xương bị trầy miệng, chảy máu nó lại tưởng rằng máu phát xuất từ khúc xương. Chúng ta cũng thế cứ tưởng sẽ được hạnh phúc khi chạy theo những vật ngoại giới. Có lẽ các ông khó chấp nhận quan niệm này, nhưng ít ra cũng tin rằng những nỗi vui hay buồn tùy ở chúng ta nhiều hơn là sự vật bên ngoài. Dù sao, sự chấp nhận này cũng chưa đủ đem lại cho ta hạnh phúc, vì có hai nỗi đe dọa: sự ham muốn và sợ hãi. Chúng ta càng ham muốn thì càng sợ hãi, và càng sợ hãi lại càng đau khổ. Thay vì diệt trừ những đe doa. này, chúng ta lại quỳ luỵ chúng. Khi ham muốn lên tiếng, “hãy đạt được vật đó đi, rồi sẽ sung sướng”, thì chúng ta tin tưởng và tìm mọi cách đạt kỳ được vật đó. Nếu chúng ta không đạt được, thì chúng ta đau khổ, mà nếu đạt được thì ham muốn lại thúc dục ta tìm đến một vật khác nữa. Thế mà chúng ta vẫn không thấy mình bị lừa gạt chút nào mới lạ, quả là ham muốn như lửa đỏ, càng cháy dữ khi càng đổ thêm dầu. Bao giờ chúng ta là nô lệ của dục vọng, chúng ta không sao đạt được hạnh phúc. Nếu đạt được lại sợ mất đi, càng có nhiều càng lo sợ nhiều, có đúng thế không? Tóm lại, muốn có hạnh phúc thật sự, phải vượt lên khỏi sợ hãi và ham muốn.
Hơn nữa cùng một sự vật mà có thể tạo vui hay gây khổ tùy lúc, bởi thế ta phải nhận thức rằng “Hạnh phúc” không có ở sự vật bên ngoài. Nếu nó là sự vật bên ngoài, chúng ta phải càng có hạnh phúc khi càng có nhiều sự vật mới đúng chứ. Thật sự, người giàu có, lắm sự vật, chưa chắc đã hạnh phúc hơn kẻ nghèo. Nói cách khác, kẻ nghèo ít của cải, chưa chắc thiếu hạnh phúc hơn người giàu. Tóm lại, chúng ta thấy rõ ràng mình theo đuổi hạnh phúc nhưng không biết thế nào là hạnh phúc và cũng chả biết phải dùng cách nào để đạt hạnh phúc?!!. Những người tìm hiểu một cách chân thành sớm muộn gì cũng thấy rằng hạnh phúc nằm ở ngay nội tâm tạ Các khoái cảm không có tính cách tư hữu, mà chỉ là một tia nhỏ của hạnh phúc chân thật thuộc bản tính tự nhiên của con người, bị che lấp bởi vô minh. Một con chó gậm xương bị trầy miệng, chảy máu nó lại tưởng rằng máu phát xuất từ khúc xương. Chúng ta cũng thế cứ tưởng sẽ được hạnh phúc khi chạy theo những vật ngoại giới. Có lẽ các ông khó chấp nhận quan niệm này, nhưng ít ra cũng tin rằng những nỗi vui hay buồn tùy ở chúng ta nhiều hơn là sự vật bên ngoài. Dù sao, sự chấp nhận này cũng chưa đủ đem lại cho ta hạnh phúc, vì có hai nỗi đe dọa: sự ham muốn và sợ hãi. Chúng ta càng ham muốn thì càng sợ hãi, và càng sợ hãi lại càng đau khổ. Thay vì diệt trừ những đe doa. này, chúng ta lại quỳ luỵ chúng. Khi ham muốn lên tiếng, “hãy đạt được vật đó đi, rồi sẽ sung sướng”, thì chúng ta tin tưởng và tìm mọi cách đạt kỳ được vật đó. Nếu chúng ta không đạt được, thì chúng ta đau khổ, mà nếu đạt được thì ham muốn lại thúc dục ta tìm đến một vật khác nữa. Thế mà chúng ta vẫn không thấy mình bị lừa gạt chút nào mới lạ, quả là ham muốn như lửa đỏ, càng cháy dữ khi càng đổ thêm dầu. Bao giờ chúng ta là nô lệ của dục vọng, chúng ta không sao đạt được hạnh phúc. Nếu đạt được lại sợ mất đi, càng có nhiều càng lo sợ nhiều, có đúng thế không? Tóm lại, muốn có hạnh phúc thật sự, phải vượt lên khỏi sợ hãi và ham muốn.
Đức Mahayasa im lặng như đắm chìm vào một quá khứ rồi tiếp tục:
- Đến đây chúng ta cần được một vị thầy hướng dẫn thêm. Người
này phải hiểu rõ hạnh phúc ở đâu, phải theo đường lối nào. Người này phải thắng
được các đe dọa như sợ hãi, ham muốn, và thật sự đã đạt được niềm hạnh phúc vô
biên; như vậy mới có đủ kinh nghiệm dìu dắt chúng tạ Như con bệnh phải đi tìm
danh y thì kẻ cầu đạo cần một vị thầy. Ramakrishna chính là vị thầy mà tôi gặp.
Kinh sách xưa xác nhận sự minh triết có thể giúp con người thoát khỏi khổ đau,
nhưng ta không thể tìm nó bằng lý luận hay trong sách vở. Trong quá khứ, đã có
những bậc đạo sư như đức Phật, đấng Christ đã tìm được hạnh phúc và hướng dẫn
những kẻ khác. Sau khi các ngài tịch diệt, môn đệ có trình bày giáo lý của các
ngài trong kinh sách, nhưng dù sao đi nữa, kinh sách cũng có những khiếm khuyết,
ngôn ngữ làm sao diễn tả hết được, làm sao bằng lời những vị đạo sư hãy còn sống
bên cạnh chúng ta. Ramakrishna đã dạy rằng, nguyên nhân các đau khổ đều ở trong
ta chứ không phải ở bên ngoài. Có người hỏi thế giới chúng ta đang sống có điều
gì xấu xa không? Thì ngài đã trả lời rằng nó rất tốt đẹp, có xấu xa chăng là
lòng người, vì con người đã hiểu sainó. Công việc của chúng ta hiện nay là phải
đi ngược dòng tìm cho ra sự sai lầm nguyên thuỷ để diệt trừ nó, thì mọi việc sẽ
tốt đẹp… Phát giác và trừ tuyệt cái sai lầm căn bản là phương thuốc chánh, tất
cả phương tiện khác đều chỉ là tạm bợ. Nhiều lắm là chúng giúp ta tìm ra phương
thuốc nói trên. Đó là giá trị của các tôn giáo, các nghi lễ, tiếc thay tôn giáo
hay gây sự chia rẽ, đôi khi còn làm cho tâm trí suy kém, cản trở bước tiến của
tín đồ. Có người đã hỏi tại sao con người luôn luôn đau khổ, sợ hãi, thì ngài
trả lời rằng, sự kiện đó là do lầm lạc phát sinh, từ sự thiếu hiểu biết chính
mình. Có nhiều người, họ biết mình rất rõ ràng, hoặc lại cho rằng điều này
không cần thiết, vì trong đời sống hàng ngày đầy rẫy những phức tạp, điểu ta cần
khai thác là làm gì cho có lợi, kiếm được thật nhiều tiền. Để khai thác, con
người gán cho kiến thức một giá trị quá mức, như bắt mọi người phải đến
trường. Từ xưa đến nay nhân loại thu thập biết bao kiến thức nào là sử ký, địa
dư, thiên văn, vật lý, triết học và siêu hình học nữa… Nếu những kiến thức này
là sự hiểu biết đứng đắn thì nó phải đem lại hạnh phúc cho nhân loại chứ. Sự thật
lại khác hẳn, chúng ta học cách chế ngự quyền lực thiên nhiên, đi ngược luật tạo
hóa, khiến cho xã hội càng ngày càng đau khổ, bất mãn thêm. Sự chế ngự này, con
đẻ của khoa học chỉ đem lại lợi ích cho một thiểu số thôi. Do đó, lắm kẻ giàu
sang sung sướng nhưng vẫn không sao hạnh phúc được trước khổ đau của đa số. Tóm
lại, khoa học đã tạo cho con người nhiều khó khăn hơn là giải quyết các điều kiện
căn bản của cuộc sống.
Đức Mahayasa nhìn mọi người trong phái đoàn, rồi tiếp tục:
- Đã có một giáo sư đại học hỏi Ramakrishna về bức tường vô
minh mà khoa học không sao vượt qua được. Họ biết các vật vi tế như nguyên tử,
điện tử nhưng đó cũng chỉ qua sự ức đoán mà thôi, không phải biết một cách trực
tiếp. Họ cũng biết các vật vĩ đại như các dãy thiên hà nhưng cũng chỉ ngưng ở
đây thôi. Ngài đã trả lời rằng, ngoại cảnh chỉ đưa con người tới chỗ vô minh mà
thôi. Theo ngài, nếu nhân loại cố tìm tòi những gì káhc hơn là bản chất con người
thì những kiến thức ấy không phải sự hiểu biết thật sự. Lời nói này có vẻ làm
giảm giá trị của khoa học, nhưng nếu suy nghĩ kỹ ta thấy ngài rất có lý. Sự hiểu
biết về khoa học hiện nay còn nhiều điểm đáng nghị Các khoa học gia vẫn còn bất
đồng ý kiến về một chuyện gì, thì quần chúng đã lên tiếng ủng hộ, do đó những
người bất đồng ý kiến cũng phải im, dù có thể họ rất có lý và số đông đã sai.
Trong phạm vi khoa học, cũng như triết học và tôn giáo, ý kiến thưòong sai biệt
ít nhiều, tùy tâm trí nhà bác học. Sự tìm hiểu chân lý bắt buộc một học giả phải
có những đức tính cao quý vì tâm trí học giả có một ảnh hưởng to lớn trong sự
tìm hiểu và sự hiểu biết chỉ cóthể xem như một chánh kiến, khi người tìm kiếm
có đủ tư cách. Vì thế khoa học đã vấp nhiều lỗi lầm khó sửa. Sự thất bại của
khoa học phát sinh từ một lầm lỗi nguyên thủy là các bác học tưởng mình đã biết,
không cần sự tự biết mình. Trong cả hai trường hợp, họ bắt đầu cuộc đi tìm với
những thành kiến sai lầm về bản chất của họ. Do đó, những điều họ tìm ra dù có
giá trị vẫn bắt đầu từ những sai lầm căn bản, hậu quả là khoa học ngày nay đã
đưa nhân loại đến những hố thẳm, thay vì chân trời sáng lạng. Một hôm có tín đồ
đến hỏi Ramakrishna về các thần tượng mà họ không thích. Họ muốn ngài chấp nhận
ý kiến của họ là không nên thờ thượng đế dưới hình thức thần tượng.
Một người hỏi ngài:
- Thượng đế có sắc tướng không?.
Ngài đáp:
- “Ai nói rằng thượng đế có sắc tướng.
- “Nếu thượng đế không có sắc tướng thì tại sao lại thờ ngài
trong các hình tượng làm gì?
- Chúng ta hãy để thượng đế sang một bên, và xin anh cho tôi
biết anh có sắc tướng không?
- Dĩ nhiên là có chứ, hãy nhìn thân thể này…
- Nhưng anh có phải cái xác thân đen xám, râu tóc xồm xoàm
này không?
- Dĩ nhiên tôi là xác thân này chứ còn gì nữa.
- Trong lúc ngủ say, không mơ mộng, anh có phải là nó không?
- Có chứ, vì khi thức dậy tôi thấy tôi đâu thay đổi gì.
- Và rồi khi anh chết.
- Thì tôi cũng còn là nó.
- Vậy thì tại sao khi người ta hỏa thiêu nó, nó không nói nó
không chịu đi, và muốn ở lại nhà?
Khi người này ý thức rằng mình đã sai và đáp rằng:
- Tôi không phải là thể xác này, mà là sự sống trong nó.
- Anh hãy suy gẫm kỹ về điều này. Hồi nãy anh nói rằng anh là
thể xác này. Bây giờ anh lại nói rằng không phải. Cho mình là xác thân này là một
lỗi lầm nguyên thủy. Bao giờ sự sai lầm này còn, dù anh nói thượng đế có sắc tướng
hay không cũng không ăn thua gì. Khi sự sai lầm này được đánh tan thì mọi việc
sẽ sáng tỏ.
Tóm lại, theo Ramakrishna thì nguyên nhân của sợ hãi, dục vọng,
ham muốn là do sai lầm đầu tiên, tự cho mình là xác thân này, vì sợ hãi hay ham
muốn đều bắt đầu từ thể xác này. Dĩ nhiên, rất nhiều người cũng đồng ý như thế, và tin rằng con người không phải là thể xác mà là một sự sống trường cửu.
Sách vở cũng nói như thế rất nhiều. Nhưng trong đời sống thực tế, họ có làm gì
khác đâu. Lúc đầu họ nghĩ rằng nhờ kiến thức thu thập, hiểu biết các chân lý
cao siêu họ sẽ khác người thường. Nhưng tại sao họ vẫn hành động y như họ là thể
xác này vậy? Nếu xác thân họ nhỏ bé, họ cho rằng mình bé nhỏ. Nếu xác thân họ
to lớn, đẹp đẽ, họ cho rằng mình lớn đẹp. Nếu xác thân họ Ốm đau, họ cho rang
mình bệnh hoạn. Nếu tư tưởng họ phong phú, họ cho rằng mình thông minh… Tóm lại,
sự sợ hãi và dục vọng vẫn y như xưa, có thể lại còn gia tăng hơn vì họ hãnh diện
về sự hiểu biết của mình hơn xưa. Nói một cách khác, sở dĩ họ làm thế, vì chưa
chứng nghiệm được con người thật của mình, sự sai lầm nguyên thuỷ vẫn còn tác động
mạnh mẽ nơi họ. Kiến thức của họ chưa tạo được một sự biến chuyển thật sự…
Ramakrishna đã dạy rằng, kiến thức về tâm linh thu thập qua
sách vở thường tai hại hơn là một người thất học, dốt nát. Những người kiến văn
quảng bác, lịch thiệp, bằng cấp, danh vọng thường ích kỷ, lại còn ngạo mạn, họ
cho rằng mình biết nhiều, hiểu nhiều, và không chịu tìm hiểu, thực hành đào sâu
vào thêm nữa. Đó là sự hiểu biết hời hợt qua sách vở, chứ đâu phải là một chứng
nghiệm nội tâm. Sách vở chỉ là la bàn hướng dẫn, chứ đâu phải minh triết thật sự.
Sự thu thập kiến thức kiểu này, tạo nên tình trạng hỗn độn trong triết lý và thần
học. Các triết gia và nhà thần học đã thảo luận không ngừng về những vấn đề khó
khăn, như nguyên nhân đầu tiên, sự thật cuối cùng, bản chất thời gian, định mệnh
con người, tự do, giải thoát, v.v… và chả đạt đến một kết quả nào. Các bậc hiền
triết đứng bên ngoài cuộc thảo luận đó, vì họ có lối giải quyết riêng, trái với
các giải pháp trí thức. Thay vì thảo luận, họ cố khám phá lấy sự thật, và khi
tìm ra sự thật, các vấn đề trên sẽ đương nhiên được giải quyết.
Nói đến đây, đức Mahayasa lặng yên chìm đắm trong một không
khí êm đềm nào đó.
Giáo sư Evans-Wentz cố gắng:
- Nhưng con người không thể sốgn bằng đức tin, mà còn phải
thỏa mãn lý trí nữa, đối với những người thiên về lý trí, không biết ngài nghĩ
sao?
Mahayasa mỉm cười:
- Nếu thầy tôi Ramakrishna còn sống có lẽ ngài sẽ khuyên ông
nên cầu nguyện.
- Tại sao như vậy?
- Cầu nguyện là phương tiện cuối cùng của con người. Khi nào
lý luận tỏ ra bất lực thì sự cầu nguyện sẽ bổ sung, phù trì, cứu độ…
- Nhưng nếu tôi không thể cầu nguyện thì phải làm sao?
- Ông nên tiếp xúc với các bậc chân tu, các vị này sẽ hướng dẫn
tâm hồn ông lên cõi thiêng liêng, và thức động các khả năng thiêng liêng nhất của
ông. Có lẻ ông cần một vị thầy.
Chương 6
Bác sĩ Kavir cho biết nếu phái đoàn muốn nghiên cứu những sự
kiện huyền bí, những phép thuật lạ lùng thì phải đến gặp pháp sư Vishudha.
Vị pháp sư này có lệ không bao giờ tiếp khách, ngay cả những
tín đồ thuần hành sùng kính nhất. Ông sống trong một căn nhà nhỏ với một vài đệ
tử thân tín và rất ít khi nào ra ngoài. Các đệ tử cho biết thầy họ không bao giờ
biểu diễn phép thuật dù ở nơi kín đáo, và không chịu cho phái đoàn vào. Bác sĩ
Kavir mang hết tài dẫn dụ ngoại giao cũng như quyền lực hăm dọa nhưng họ vẫn
khăng khăng. Sự hiện diện của một nhóm người Âu, gây nhiều chú ý của dân chúng
và tín đồ hành hương, nên chỉ một lúc, một đám đông đã vây kín phái đoàn. Có lẽ
tiếng động ồn ào này tạo sự chú ý của vị pháp sư nên ông ra lệnh cho đệ tử mời
bác sĩ Kavir vào nói chuyện.
Một lát sau, Kavir bước ra nét mặt hân hoan:
- Đạo sư Vishudha không tiếp khách lạ, nhưng ngài đặc biệt tiếp
phái đoàn như một ngoại lệ đấy.
Đó là một ông lão to lớn, tóc bạc trắng như cước ngồi trên tấm
bồ đoàn kết bằng cỏ, nét mặt ông lạnh như băng, và đôi mắt như nhìn vào khoảng
không, như không thèm chú ý gì đến phái đoàn. Một đệ tử lên tiếng:
- Các ông đến đây với mục đích gì?
Giáo sư Allen lên tiếng:
- Chúng tôi được biết đạo sư có các quyền năng phi thường. Mục
đích chuyến đi này của chúng tôi, là nghiên cứu những sự kiện huyền bí, ghi nhận
một cách khoa học những điều tai nghe, mắt thấy…
- Nếu đạo sư vui lòng…
Vishudha nghe thông ngôn xong, mỉm cười yêu cầu giáo sư
Oliver cho mượn một cái khăn tay và một cái kính lúp. Ông ta dơ chiếc kính lên
ánh sáng mặt trời cho nó chiếu lên chiếc khăn tay và tuyên bố:
- Tôi sẽ thu hút các mùi hương trong không khí, các ông thích
mùi gì?
- Tôi thích mùa hoa lài.
Visudha mỉm cười trao trả chiếc khăn cho giáo sư Oliver. Một
mùi hương phảng phất khắp phòng và ai cũng biết đó là mùi hoa lài. Mọi người
quan sát kỹ chiếc khăn, nó không hề ướt hay có dấu hiệu gì rằng người ta đã nhỏ
vào đó một chút dầu thơm. Như đoán được ý nghĩ mọi người, Vishudha yêu cầu giáo
sư Mortimer đưa ra một chiếc khăn tay khác. Giáo sư Kavir thông dịch:
- Bây giờ các ông hãy chọn một mùi hoa gì đặc biệt của xứ các
ông mà không hề có tại xứ Ấn độ.
- Được lắm, tôi muốn mùi hoa uất kim hương (tulip).
Visudha mỉm cười dơ chiếc kính lúp lên ánh sáng mặt trời cho
nó chiếu vào chiếc khăn và lần này mùi hoa uất kim hương lại thơm nồng khắp
phòng. Phái đoàn vội vã yêu cầu những mùi hương lạ lùng và lần nào ông cũng làm
họ hài lòng. Thậm chí đến cả những mùi thuốc hoá học, những mùi a-xít trong
phòng thí nghiệm, ông cũng có thể làm được. Mọi người quan sát kỹ xem ông ta có
dấu gì dưới lớp áo choàng không. Vishudha mỉm cười vén cao tay áo để chứng tó
ông không hề làm trò ảo thuật hay cất dấu hương liệu gì đặc biệt trong người.
Giáo sư Mortimer buột miệng:
- Xin ông giải thích việc này?
Mọi người giật mình vì phong tục xứ Ấn, chất vấn một đạo sư
là điều bất kính. Vishudha quay sang giáo sư Kavir nói vài lời, ông này thông dịch:
- Đó chỉ là môn khoa học gọi là Thái dương học. Ánh sáng mặt
trời chứa đựng một năng lực rất mạnh, nếu biết chọn lựa và cô lập nó ta có thể
tạo mọi vật theo ý muốn.
Giáo sư Mortimer giật mình:
- Thái dương học, phải chăng nó là môn khoa học của dân Atlantic?
- Đó là môn khoa học đã một thời thịnh hành tại châu
Atlantic, nhưng không phả riêng của giống dân này.
- Như thế châu Atlantic là có thật… châu này đã chìm xuống biển
từ lâu và chỉ có Plato ghi nhận lại trong tập sách của ông… Chuyện này ra sao?
Vishudha trầm ngâm:
- Tin hay không là tùy các ông. Người Âu lúc nào cũng đòi hỏi
bằng chứng này nọ, nếu các ông muốn gọi nó là truyền thuyết cũng chẳng sao… Khoa học nơi đâu cũng có nguồn gốc, khi tiến đến một trình độ cao xa thì thời
gian hay không gian, đâu có nghĩa lý gì nữa. Khoa Thái dương học thật ra xuất xứ
từ Tây Tạng ở một thời đại xa xôi, khi Ấn độ còn là một hòn đảo và rặng Hy Mã Lạp
Sơn còn là một bờ biển… nhưng điều này đâu có ích gì cho việc nghiên cứu của các
ông?
- Ông có thể làm gì với môn này?
- Các ông còn muốn gì? Như vậy chưa thỏa mãn sao?
Vishudha đứng dậy bước đến bên một chậu hoa gần đó. Mặc dầu
chậu nở đầy hoa, nhưng trong đó cũng có một số hoa đã tàn. Vishudha dơ chiếc
kính lúp chiếu lên các hoa này. Trước cặp mắt kinh ngạc của mọi người, những
hoa khô héo bỗng trở nên tươi tốt, thơm thọ Mọi người nín thở, không ai nói nên
lời. Vishudha dơ chiếc kính lên chiếu vào lòng bàn tay ông. Một chùm nho tươi tốt
bỗng xuất hiện. Nên biết Ấn độ là xứ nhiệt đới, không trồng được nho, hơn nữa
lúc đó đang vào mùa đông, các cây nho bên Âu châu đều khô héo. Có được chùm nho
tươi tốt là một việc vô lý, lạ lùng. Vishudha đưa chùm nho cho giáo sư Allen
xem và thản nhiên tuyên bố:
- Đây là giống nho Pajouti chỉ mọc ở miền nam nước Ý, không hề
được xuất cảng. Mùi của nó thơm nhưng vị hơi chát.
Mọi người xúm lại xem chùm nhọ Có người ngắt vài quả bỏ vào
miệng ăn như sợ rằng đó chỉ là một ảo tưởng. Chờ mọi người ăn xong, Vishudha trịnh
trọng:
- Đây đâu phải lần đầu các ông thấy một sự lạ xuất hiện. Các
ông đã nghe nói về chuyện này rồi đấy chứ. Các ông không nhớ chuyện đấng Christ
hỏi thánh Phillip ở thành Galileo, “chúng ta sẽ mua bánh mì ở đâu?” Ngài biết
rõ rằng bánh mì mà đám quần chúng đang cần dùng không phải mua ngoài chợ. Ngài
mượn dịp đó để chỉ cho các tín đồ rằng người ta có thể tạo ra bánh mì bằng sức
mạnh của tinh thần. Thông thường mọi người chỉ nghĩ rằng ta có bao nhiêu bánh
mì hay bao nhiêu tiền bạc và chỉ giới hạn trong một khuôn khổ nào đó thôi. Điều
đức Jesus muốn nói là khi ta đã sống với tâm thức của Chân Ngã, thì người ta
không còn thiếu sót hay gò bó vào một giới hạn nào nữa. Ngài nhìn về thượng đế
là nguồn gốc sáng tạo ra muôn loài, và tạ Ơn thượng đế đã luôn đặt vào tay loài
người cái quyền năng và chất liệu cần thiết để thoa? mãn tất cả nhu cầu của họ.
Đức Jesus đã bẻ bánh mì và bảo tông đồ hãy phân phát cho mọi người .Khi tất cả
ăn no rồi mà vẫn còn dư đến 10 rổ bánh. Cũng bằng cách đó mà Elisê đã làm cho
người quả phụ thành Jerusalem có dầu ăn thừa thãi không bao giờ hết. Ngài không
hỏi đến kẻ có dư thừa dầu trong nhà, vì như thế số dầu chỉ giới hạn mà thôi. Những
câu chuyện trong Kinh thánh đã dạy ta điều gì? Phải chăng các môn khoa học đời
nay không thể giải thích vấn đề này? Phải chăng có kẻ cho đó chỉ là một chuyện
thần thoại? Có lẽ các ông cho rằng những chuyện này được ghi chép từ lâu rồi
nên có phần nào sai lạc đi?
Mọi người trong phái đoàn giật mình vì câu hỏi bất ngờ. Kinh
thánh đối với họ không phải quyển sách nào xa lạ. Phần lớn đều thuộc lòng nhưng
ít ai suy nghĩ căn kẽ về những sự kiện xảy ra trong đó. Vishudha mỉm cười nhìn
từng người rồi tiếp tục:
- Đức Jesus đã dạy rằng trong thiên nhiên có chất liệu để làm
đủ mọi vật, và người ta có thể tìm lương thực của mình trong đó. Chúng ta chỉ cần
rút các chất liệu này để tạo ra mọi thứ cần dùng. Nhưng con người hèn nhát và
thiếu đức tin đã không nghĩ rằng họ có thể thực hiện được những việc này. Nhu cầu
phải chăng cũng là ý muốn sáng tạo? Thay vì vươn lên để thực hiện ý muốn, để
sáng tạo thì con người lại thu hẹp mình lại. Nghĩ rằng mình không thể làm được
những việc đó. Vì thế con người càng ngày càng rời xa thượng đế. Đến nay con
người tin rằng họ là một thực thể cách biệt với thượng đế. Họ đã đi lệch hẳn
con đường toàn vẹn, bỏ lỡ cái mục đích cao đẹp. Họ đã không để thượng đế biểu lộ
xuyên qua họ như ngài muốn. Chính đức Jesus đã nói rằng, “Những gì mà ta làm được
thì các ngươi cũng sẽ làm được, và các ngươi sẽ còn làm được những việc lớn lao
hơn nữa.” Ngài muốn nói điều gì đây? Phải chăng con người trong cương vị chân
thật, chính là con của thượng đế? Sứ mạng đức Jesus trên thế gian chính là chứng
tỏ rằng trong cương vị nào đó, con người cũng có thể sáng tạo một cách hoàn
toàn tốt đẹp như thượng đế. Khi ngài ra lệnh cho người mù hãy ra ao Siloe rửa mắt,
phải chăng ngài đã chứng tỏ cho quần chúng biết rằng ngài được thượng đế gửi xuống
để sáng tạo cũng như thượng đế vậy?
Vishudha ngừng nói, đưa tay ra, một ổ bánh mì to lớn bỗng xuất
hiện trên tay y từ hồi nào. Tất cả mọi người im lặng, nín thở không ai thốt nên
lời. Sự kiện một đạo sư Ấn không nói gì về truyền thống, tôn giáo xứ này, mà lại
nói về Kinh thánh như một vị mục sư làm mọi người kinh ngạc. Bỗng nhiên ổ bánh
mì biến mất như bị thiêu hủy. Vishudha mỉm cười thong thả:
- Các ông đã thấy, tôi đã lạm dụng các định luật huyền bí
giúp tôi thực hiện ý muốn. Tôi vừa đốt cháy đồ vật mà tôi tạo nên. Làm như thế
tôi đã lạm dụng một điều luật bất di bất dịch của thiên nhiên. Nếu tôi tiếp tục
làm thế thì không những món đồ bị đốt cháy, mà chính kẻ sáng tạo là tôi cũng chịu
chung số phận. Các ông đã ngửi mùi hương và việc tôi làm chậu hoa hồi sinh,
cũng như chùm nho xuất hiện… Tôi có thể sử dụng quyền năng này khi làm một việc
có ích cho nhân loại, hoặc với một lòng bác ái thanh cao vì đó là hợp với luật
vũ trụ, hợp với thiên ý. Trái lại, chỉ với một ý định xấu xa như khoe trương bản
ngã, tôi sẽ đi lệch đường và chịu trách nhiệm về việc làm của mình nghĩa là sẽ
gặp ngay sự phản tác dụng về hành động của mình. Tôi đốt cháy một vật thì tôi
cũng có thể cháy thành than tức khắc. Nếu con người phụng sự thượng đế, hành động
đúng theo thiên ý, hợp luật trời thì y đã bước chân vào cõi trời rộng mở còn
ngược lại thì y đang bước vào cánh cửa của địa ngục rồi đó…
Vishudha nhìn thẳng vào mặt mọi người :
- Này các ông, những nhà thông thái, thế đã thỏa mãn các
mong ước, hiếu kỳ của các ông chưa? Nếu các ông còn mê man trong các cuộc khảo
cứu, ghi nhận các hiện tượng lạ lùng mà khoa học chưa giải thích được thì khắp
thành phố này, có hàng trăm đạo sĩ, pháp sư có thể làm những chuyện đó. Điều
đáng tiếc rằng rất ít người hiểu biết về cái hậu quả họ sẽ phải gánh chịu. Các
ông muốn ghi nhận những phép thuật thần thông để làm gì? Phải chăng các ông sẽ
công bố cho mọi người Âu Mỹ biết hay sao? Như thế có ích lợi gì? Liệu đã có mấy
ai tin tưởng rằng những điều các ông nói không phải là một sự tưởng tượng? Có
thể họ sẽ lên án các ông là đằng khác. Có bao giờ các ông nghĩ rằng mình đang
làm một chuyện vô ích hay không? Có lẽ các ông sẽ làm những phúc trình về các
hiện tượng lạ lùng nhưng rồi sẽ đi đến đâu? Cuộc đời đâu phải chỉ quan sát ghi
nhận rồi làm những thống kê, có phải không? Này các nhà thông thái, các ông đã
khám phá thế nào là mục đích cuộc đời chưa? Nếu các ông chưa tự hỏi mục đích
cuộc đời mình để làm gì thì ghi nhận, nghiên cứu có ích lợi gì đâu? Khi chưa
tìm được giải đáp cho chính mình thì các phúc trình, thống kể cũng vô ích thôi,
có phải như thế không?
Một sự im lặng bao trùm căn phòng. Vishudha thong thả ngồi
trên tấm bồ đoàn, không nói thêm điều gì nữa. Bác sĩ Kavir ra hiệu cho phái
đoàn rút lui. Rời khỏi căn nhà đá, toàn thể mọi người đều xúc động, không ai
nói lên một lời nào. Những sự kiện xảy ra đã làm đảo lộn mọi quan niệm thông
thường về vật lý, hóa học… Đúng như nhà đạo sĩ đã nói, làm sao chứng minh một
phép lạ đây?
Làm sao có thể cho những người Âu đang bận rộn với mưu sinh tại
New York hay London biết rằng ở phương Đông có những bí mật vô tận, những triết
lý cao cả mà người Tây phương không thể hiểu. Tư tưởng Đông phương đã vượt xa,
rất xa những tư tưởng tiến bộ nhất của Tây phương. Có lẽ các nhà hiền triết xứ
này đã mỉm cười trước những ngông cuồng, hỗn tạp của cái gọi là khoa học tiến bộ.
Câu hỏi của Vishudha khiến mọi người suy nghĩ rất nhiều. Lúc đầu, ai cũng mong
ghi nhận những điều lạ lùng để nghiên cứu nhưng trước những sự kiện mà khoa học
không thể giải thích, toàn thể mọi người đâm ra bối rối không biết phải làm gì.
Giáo sư Spalding nhớ lại câu nói của người Ấn thành Benares,
“nếu các ông chỉ muốn nghiên cứu các hiện tượng thần thông, các quyền năng lạ
lùng thì hãy đến Rishikesh, các ông sẽ không thất vọng. Nhưng nếu các ông muốn
đi xa hơn để có thể gặp các bậc chân sư thì các ông cần một thời gian nữa”. Sự
gặp gỡ các vị chân sư thánh triết có một sức hấp dẫn lạ lùng đối với phái đoàn,
nhưng tại sao phải chờ đợi thêm một thời gian nữa? Hình như có một nguyên nhân
sâu xa nào đó mà phái đoàn không thể giải thích, mọi người linh cảm như đã có
những sự xếp đặt huyền bí cho việc du khảo tại phương Đông này.
Harishchandra là một đạo sĩ dòng tu Swami, thường đi khắp
nơi, ít khi nào ở một chỗ. Lần này ông ghé thăm bác sĩ Kavir ít hôm, nên phái
đoàn có cơ hội gặp gỡ. Ông trạc 60, thân hình cao lớn, có đôi mắt sáng ngời.
Sau vài câu xã giao ông cho phái đoàn biết tuổi thật của ông đã quá 100, và tin
rằng ông sẽ còn sống ít ra vài chục năm nữa.
- Tại sao ông nghĩ mình sẽ sống lâu như thế?
- Tại vì lúc này khả năng sáng tạo của tôi rất mạnh. Tôi tin
rằng với bộ Óc còn linh hoạt như một thanh niên, tôi có thể sống khá lâu nữa.
Bác sĩ Kavir mỉm cười tiếp lời:
- Harishchandra không những là một đạo sư Yoga mà còn là một
nghệ sĩ. Ông ta có thể sử dụng tất cả nhạc khí cổ điển cũng như tân tiến, ông
còn vẽ tranh, nặn tượng, làm thơ… Tóm lại, chả có bộ môn nghệ thuật nào mà ông
ta không biết.
Bác sĩ Mortimer tò mò:
- Ông theo học ở đâu và làm sao có thể biết nhiều thứ như vậy?
Hashichandra cười lớn:
- Bác sĩ Kavir nói không đúng đâu. Tôi chỉ biết chút đỉnh về
vài bộ môn nghệ thuật. Tôi không hề được đi học nhưng Yoga đã giúp tôi…
Bác sĩ Mortimer hấp tấp:
- Ông muốn nói đến phương pháp khí công hay các tư thế?
Đạo sĩ bật cười lớn:
- Không phải thế, tôi ý thức được sự sáng tạo trong một buổi
thiền định, và từ đó tôi có thể làm được nhiều thứ. Đa số con người đều coi nghệ
thuật như một phương tiện giải trí, họ sử dụng nghệ thuật như một cái gì giúp họ
trốn thoát hoàn cảnh con người của họ. Nghe một bài ca, một câu hát họ quên đi
các ưu phiền hiện tại… Đó không phải là sự thưỏong thức cái Chân, Thiện, Mỹ của
nghệ thuật. Nghệ thuật mà tách khỏi cuộc sống thì chỉ là một kỹ thuật phô diễn
những cái gì hời hợt, các ước vọng nông cạn. Nguồn cảm hứng không phải mời gọi
mà được, mà là một rung động tự nhiên. Tất cả cố gắng chiếm đoạt cảm hứng qua bất
cứ một hình thức nào, chỉ là những ảo tưởng. Tài năng, thiên tư chỉ giúp ta nhận
thấy bản ngã, giúp ta thỏa mãn các ước vọng thấp hèn, và làm thui chột sự sáng
tạo. Một nghệ sĩ chân chính là người thực sự vượt qua các hư ảo của bản ngã, của
danh vọng và ý thức cái đẹp của nghệ thuật như một thực tại.
Nhìn thấy mọi người có vẻ ngơ ngác. Harishchandra mỉm cười giải
thích:
- Nội tâm con người là một bãi chiến trường luôn luôn có xung
đột giữa các quan niệm, hình thức, lý thuyết, thực hành. Sự tranh chấp này thường
gây lầm lỗi. Khi ta nghe một bản nhạc, thưởng thức một bức tranh ta rung động
theo cảm nhận của tạ Rung cảm này mỗi cá nhân một khác, vì nó dựa theo các quan
niệm, thành kiến sẵn có. Nếu tôi thích nhạc Mozart, thì tất cả các nhạc sĩ khác
đều khó có thể so sánh với ông này. Dĩ nhiên người mê Beethoven không đồng ý
như thế. Tóm lại, sự rung động của tôi đã có thành kiến, vì như thế tôi mất đi
nhạy cảm đối với sự sáng tạo. Một người nghệ sĩ sẽ trở nên một cái máy nếu y chỉ
biết phục vụ cho bản ngã, làm việc để phô trương cá nhân, để thỏa mãn dục vọng
thay vì để sáng tạo. Y chỉ biết “tôi viết”, “tôi soạn nhạc”, “tôi vẽ”, “tôi
sáng tác”, v.v… Từ phút đó, y mất đi khả năng sáng tạo tuyệt vời mà chỉ còn là
cái xác không hồn. Sự thành công, lời khen tặng, làm căng phồng bản ngã của y
và làm lu mờ sự rung động với cái đẹp thật sự. Cái tinh thần ham lợi, háo danh
đó không phải là tinh thần yêu cái đẹp, mà bắt nguồn từ sự khao khát dục vọng.
Dục vọng đòi hỏi một sự bảo đảm an toàn, do đó người nghệ sĩ đâm ra sợ hãi. Từ
đó, y xây một bức rào ngăn cách với mọi sự vật khác. Y không còn chiêm ngưỡng
những cái đẹp nữa. Dĩ nhiên, cái đẹp vẫn còn đó nhưng lòng y đã khô héo vì
thành kiến, và xu hướng biệt lập. Thay vì nhìn sự vật như một thực tại, y lại
nhìn nó qua một hình thức sưu tập, chiếm hữu biến nó thành một đồ vật. Người
nghệ sĩ chân chính chỉ biết sáng tạo, chúng ta chỉ biết thưởng thức. Chúng ta đọc
sách, nghe nhạc, ngắm các tác phẩm nghệ thuật nhưng chúng ta không hề có cái
rung động sâu xa của người sáng tạo. Muốn ca hát ta cần có một bản nhạc, nhưng
vì không có bản nhạc tuyệt diệu, chúng ta đâm ra theo đuổi ca sĩ. Thiếu sự trung
gian này, ta thấy mất mát. Trước một vẻ đẹp, ta lại có ý so sánh nó với một bức
tranh; trước một âm thanh thiên nhiên ta lại chỉ tưởng tượng đến một bản nhạc
nào đó. Ta chỉ còn biêt rung động qua sự rung động của kẻ khác. Đó không phải
là sáng tạo.
Giáo sư Mortimer lắc đầu:
- Muốn sáng tạo, ta cần một tài năng, thiên tư chứ đâu phải
ai cũng có thể sáng tạo, đâu phải ai cũng có tài…
Harishchandra lắc đầu:
- Không phải thế, ai cũng có thể sáng tạo mà không cần tài
năng đặc biệt, vì sự sáng tạo là trạng thái tuyệt vời của nghệ thuật. Không bị ảnh
hưởng của bản ngã. Sáng tạo không có nghĩa là soạn nhạc, làm thơ, vẽ tranh,
nhưng là một trạng thái mà trong đó Sự Thật có thể biểu hiện. Sự Thật chỉ có thể
biểu hiện khi tư tưởng ngưng đọng lại. Và tư tưởng chỉ ngưng đọng lại khi bản
ngã vắng mặt. Khi tâm hồn hoàn toàn tĩnh lặng, không bị thôi thúc bởi dục vọng,
khả năng sáng tạo sẽ tự biểu lộ. Khi “cái ta” không còn nữa, thì tất cả là một
sự hợp nhất thiêng liêng. Cái đẹp có thể được diễn tả trong một bài thơ, bản nhạc,
nụ cười hay trong sự im lặng. Phần lớn con người không có khuynh hướng yên lặng.
Chúng ta không có thời giờ quan sát đám mây trời, buổi hoàng hôn, một ngọn núi
hùng vĩ, một bông hoa hé nở, vì đầu óc chúng ta quá bận rộn, quay cuồng. Mắt ta
nhìn cảnh nhưng lòng ta không rung động chút nào, vì còn mải mê theo đuổi những
ảo ảnh. Đôi khi ta cũng có cảm giác rung động khi nghe một bản nhạc hay, nhưng
nếu ta cứ nghe đi, nghe lại bản nhạc đó để tìm lại cảm giác ban đầu thì ta đã
vô tình giết chết sự sáng tạo. Người nghệ sĩ chân chính là người mở rộng tấm
lòng để cảm hứng đến một cách tự nhiên, là người nhìn thấy Chân, Thiện, Mỹ ở khắp
tất cả mọi nơi, chứ không phải qua khả năng hồi tưởng hoặc qua một chất kích
thích. Người nghệ sĩ chân chính sáng tạo vì lòng yêu cái đẹp, chứ không phải vì
tác phẩm sẽ đem lại cho y tên tuổi, tiền bạc, địa vị. Làm thế là đồng hóa cá
nhân mình vào đối tượng. Bất cứ ai biết rung động trước cái đẹp đều là nghệ sĩ,
đều là người sáng tạo vì cái cảm giác chân thật, tuyệt vời đó chính là một sự
“giác ngộ”, một sự hợp nhất. Cái cảm giác đó không thể tự tạo hay tìm được, mả
nó đến và đi một cách tự nhiên…
- Phải chăng ông đã có kinh nghiệm đó?
- Trong một buổi tham thiền, tôi ý thức được điều này, và từ
đó tôi nhìn thấy cái đẹp ở bất cứ mọi nơi. Tôi sống trong tâm thức này và có thể
sáng tạo mãnh liệt qua bất cứ một phương diện hay hình thức nào… âm nhạc, hội
hoạ, thơ phú, v.v…
- Ông có thể cho chúng tôi nghe một bài nhạc không?
Harishchandra mỉm cười, rút trong áo ra một cây sáo trúc rất
dài, y đưa sáo lên miệng nhưng rất lâu không một âm thanh nào phát ra. Giáo sư
Mortimer sốt ruột :
- Chúng tôi không nghe thấy gì cả, ông có thổi sáo hay không
đó?
Đạo sĩ ung dung:
- Các ông chưa biết thưởng thức âm nhạc vì lòng các ông còn đầy
thành kiến, hãy im lặng vì âm thanh của tôi là sự bình an…
Giáo sư Mortimer toan cãi, nhưng đạo sĩ đã đưa một ngón tay
lên miệng làm hiệu để ông im lặng. Bất chợt giáo sư Mortimer rùng mình, một âm
thanh kỳ lạ Ở đâu bỗng phát ra. Một cảm giác bình an từ từ thấm nhẹ trong cơ thể
và ông thấy mình đắm chìm trong một niềm hoan lạc khó tả, trong một thế giới lạ
lùng của âm thanh. Âm thanh thật chậm, thật êm, nhỏ như tiếng gió thì thào qua
các ngọn cây, như tiếng nước róc rách qua khe suối. Thời gian như ngưng đọng lại.
Khi giáo sư Mortimer giật mình tỉnh lại, thì âm thanh đã chấm
dứt từ lâu. Đạo sĩ vẫn ngồi yên khẻ mỉm cười, cây sáo trúc đặt trước mặt. Toàn
thể phái đoàn ngây ngô nhìn nhau không nói nên lời. Giáo sư Mortimer lắc đầu thắc
mắc:
- Âm thanh gì kỳ vậy? Liệu ông có thể giải thích được không?
Đạo sĩ mỉm cười:
- Các ông nên biết, con người có nhiều thể bao quanh xác thân
như thể phách, thể vía, thể trí… Các thể này được cấu tạo bằng những nguyên tử rất
nhẹ, rất thanh gần như vô hình. Âm nhạc tự nó đã có các rung động cùng nhịp với
sự rung động của các thể, nên ảnh hưởng rất nhiều đến con người. Âm thanh vừa
qua căn bản trên “phần tư âm”, có tác động lên thể trí các ông. Các loại âm
thanh dựa trên “phần ba âm” tác động lên thể vía, và “phân nửa âm” tác động lên
thể xác. Điều này cũng dễ hiểu thôi, vì “phần tư âm” thanh hơn nên ảnh hưởng đến
các thể nhẹ hơn. Con người chỉ biết tác động của âm nhạc ở cõi vật chất nhưng
không hiểu ảnh hưởng của chúng ở các cõi trên. Âm nhạc lưu một dấu vết trên
thân thể con người, và trực tiếp ảnh hưởng đến tính tình, hành động. Điều này
có thể ví như khi ta ném một hòn đá xuống ao. Khi hòn đá chìm nhưng làn sóng vẫn
gợn, và lan rộng ra. Một cái lá nổi trên mặt nước chắc chắn sẽ chịu nhiều ảnh
hưởng. Hậu quả của âm nhạc còn mạnh hơn như vậy. Do đó, việc chọn nhạc để nghe
rất quan trọng. Kinh Veda đã nói, “vũ trụ tạo lập do sự phối hợp các âm thanh”.
Thánh kinh cũng ghi nhận, “huyền âm xuất hiện trước nhất, và huyền âm ở với thượng
đế, huyền âm là thượng đế.”
Phái đoàn nhìn nhau, một lần nữa tu sĩ Ấn giáo đã giải thích
một đề tài mới lạ và trích dẫn Thánh kinh, quyển sách không xa lạ với người Âu.
Nhờ âm thanh mà các sinh vật thông cảm với nhau. Quyền năng
này rất đơn giản ở loại thú cầm và dân dần trở nên phức tạp ở loài người. Từ
ngôn ngữ đến tiếng hát thô sơ chỉ có vài bước và bước này tạo nên âm nhạc. Âm
nhạc là một công thức tế nhị, kín đáo để truyền thông nhưng có một tác dụng cực
mạnh, có thể làm thay đổi quốc gia, xã hội, truyền thống. Nó còn mạnh mẽ hơn
các giáo điều, triết lý vì nó ảnh hưởng đến các thể vô hình. Con người chỉ hiểu
rằng khi nghe nhạc buồn lâu ngày, ta sẽ trở nên u sầu. Khi nghe nhạc vui lòng
ta thấy phấn khởi. Thật sự lòng ta chỉ phản ảnh một cách vô thức những đổi thay
trong các thể. Từ ngàn xưa, âm nhạc đã giữ một địa vị quan trọng và ảnh hưởng
rất lớn từ vua chúa đến thứ dân. Các ông không thấy thời đại nào, âm nhạc càng
thay đổi, biến chuyển nhiều thì thuần phong, mỹ tục càng suy giảm, và xã hội
càng đảo lộn hay sao? Trái lại khi âm nhạc bị hạn chế thì xã hội đâm ra bảo thủ.
Các ông cho rằng âm nhạc là sản phẩm văn hoá, tiêu biểu cho từng thời kỳ. Điều
này không đúng lắm vì lịch sử cho thấy mỗi khi âm nhạc thay đổi là chính trị,
văn hoá thay đổi theo sau. Âm nhạc có tính cách xây dựng cũng như huỷ hoại, chỉ
có các âm thanh tinh vi do sự sáng tạo chân thành của lòng vô ngã mới đưa ta trở
về quê hương của linh hồn. Muốn sáng tạo các loại nhạc này con người cần phải để
cho Chân Ngã sáng chói, cần trau dồi cho tâm hồn tĩnh lặng để hoà đồng với vũ
trụ. Vì âm thanh của vũ trụ lúc nào cũng vang lừng cho những người thức tỉnh,
người biết thưởng thức, biết yêu cái đẹp, biết nghe những huyền âm cao cả
trong yên tĩnh vô biên. Hãy yên lặng, các ông sẽ học hỏi nhiều điều mới lạ. Hãy
cố gắng nhìn mọi vật như một thực tại, các ông sẽ sáng tạo và khi sống trong
tâm thức sáng tạo, các ông đều là những nghệ sĩ, những người biết yêu cái đẹp,
biết rung động với Chân, Thiện, Mỹ.
Bác sĩ Bandyo, cựu giám đốc bệnh viện Calcutta, một giáo sư đại
học nổi tiếng về khoa giải phẩu. Ông là một bác học Ấn độ đã được đề nghị trao
giải thưởng Nobel về y học. Sau một biến cố, ông từ chức, lui về ẩn cư tại một
làng nhỏ gần Rishikesh để săn sóc sức khỏe cho dân chúng tại đây. Ông là người
mà thương gia Keysmakers ca tụng và hết sức giới thiệu, nên phái đoàn tìm đến gặp.
Sau vài câu chuyện xã giao, giáo sư Mortimer lên tiếng:
- Chúng tôi nghe nói ông đã từ chức trong trường hợp hết sức
đặc biệt. Thương gia Keysmakers dặn chúng tôi nên hỏi ông về việc này. Xin ông
vui lòng cho biết lý do.
Bác sĩ Bandyo im lặng một lúc và trả lời:
- Đây là một câu chuyện đáng lý không bao giờ tôi nói cho ai
biết, nhưng vì có lời giới thiệu của Keysmakers, nên tôi sẵn sàng. Như các ông
biết, tôi là một khoa học gia nổi tiếng, trọn đời hiến dâng cho khoa học. Tôi
không biết gì về Yoga cũng như không hề tin tưởng các sự kiện vô hình, huyền
bí, mà chỉ tin những gì khoa học có thể chứng minh một cách rõ ràng thôi. Là một
bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh tật miền nhiệt đới, tôi có thói quen là rất thích
nghiên cứu các chứng bệnh lạ lùng, khó chữa. Tôi đã điều trị hơn 100 trường hợp
lạ lùng mà bác sĩ khác đã bó taỵ Tôi ghi nhận rất kỹ triệu chứng bệnh lý cũng
như phương pháp chữa trị và viết vài tài liệu y học để giảng dạy trong các trường
y khoa thế giới. Tôi đã nhiều lần đi diễn thuyết về bệnh miền nhiệt đới, và được
đề nghị trao giải thưởng Nobel. Dĩ nhiên đó là một vinh dự lớn cho cá nhân tôi
và xứ Ấn độ. Một hôm, người ta đưa vào bệnh viện một cô bé chừng mười ba, mười
bốn tuổi gì đó. Cô bé mắc một chứng bệnh hết sức lạ lùng, chưa từng nghe nói đến.
Tôi rất thích thú, dành trọn thời gian nghiên cứu căn bệnh này. Một hội đồng Y
khoa gồm các bác sĩ danh tiếng nhất được thành lập để nghiên cứu, suốt mấy
tháng liền, chúng tôi ra công chữa trị, nhưng bệnh nhân vẫn không thuyên giảm.
Cuối cùng thì mọi người đành bótaỵ Tôi tuyệt vọng ngồi cạnh bệnh nhân, chờ em
bé trút hơi thở cuối cùng. Chưa bao giờ tôi thấy mình bất lực trước sự sống chết
vô thường như vậy. Bất chợt trong giây phút đó, tôi bỗng ý thức một điều lạ
lùng là sự hiện diện của một bầu không khí tươi mát và êm ái không thể tả. Khắp
phòng bỗng rực rỡ một màu sắc chói sáng và tôi thấy một người đàn bà hiện ra
ngay bên cạnh giường cô bé. Thân thể ngài sáng chói hào quang như dòng nước lấp
lánh dưới ánh mặt trời. Trong giây phút đó, tôi bỗng nhận thức ra ngài là đức Mẹ
thế gian. Ngài mang nhiều danh hiệu khác nhau như đức mẹ Maria của Thiên chúa
giáo, đức Quán Thế Âm Bồ Tát của Phật giáo, đức Avalokiteshvara của Ấn giáo.
Ngài thuộc ngôi hai của thượng đế và biểu hiệu cho lòng Từ bi, bác ái, luôn
luôn đáp lại những lời cầu sinh của chúng sanh. Trong giây phút, lòng tôi bỗng
hoàn toàn thay đổi. Tôi quỳ sụp xuống đất mặc dù suốt đời tôi chưa bao giờ biết
cầu nguyện là gì. Tôi cầu xin với tất cả lòng thành kính, xin Mẹ cứu chữa cho bệnh
nhân. Tôi phát nguyện trọn đời tôn vinh hoạt động của Mẹ và theo ngài vĩnh viễn.
Bác sĩ Bandyo im lặng như ôn lại quá khứ. Giáo sư Mortimer sốt
ruột:
- Rồi sao nữa, cô bé đó ra sao?
- Các bạn mến, còn sao nữa, khi đức Mẹ hành động thì có bệnh
gì mà không khỏi. Ngày hôm sau, cả bệnh viện xôn xao vì tôi đã chữa khỏi bệnh
cho cô bé. Tất cả bạn hữu xúm vào trách tôi đã tìm ra cách chữa, nhưng dấu kỹ,
chờ mọi người bó tay rồi mới trổ tài. Trường Y khoa yêu cầu tôi công bố phương
pháp chữa trị, và đòi đặt tên tôi vào căn bệnh đó. Họ tin rằng với phát minh
này, chắc chắn giải Nobel sẽ về tay tôi. Các công ty thuốc cũng ồn ào đòi tôi
công bố loại thần dược. Chẳng những công ty xứ Ấn, mà ngay các công ty ngoại
quốc cũng nhất định đòi mua trọn bản quyền. Dĩ nihên tôi không thể trả lời và
dù có nói cũng không ai tin. Hội đồng Y khoa cực kỳ giận dữ, tin rằng tôi dấu
nghề, các bạn thân cũng nhất định chất vấn kỳ được phương pháp chữa trị, và kịch
liệt công kích thái độ bất hợp tác của tôi. Bộ trưởng Y tế tiếp xúc với tôi, và
cho biết có mười bác sĩ khắp thế giới được đề nghị lãnh giải Nobel. Nhưng chỉ một
người trúng giải, nếu phát minh của tôi được công bố thì chắc chắn tôi sẽ lãnh
giải này. Tôi trả lời rằng chính đức Mẹ hiện ra, và chữa cho bệnh nhân. Tất cả
đều cho rằng tôi điên. Sau cùng, giải Nobel năm đó được trao tặng cho một bác
sĩ quốc gia khác. Hội đồng Y khoa Ấn độ vô cùng tức giận đòi trục xuất tôi. Các
bạn đồng nghiệp cũng xa lánh và báo chí xúm vào chỉ trích tôi như một “thầy phù
thuỷ”. Các ông thử thưởng tượng, đang là một bác sĩ danh giá nhất xứ, bỗng trở
nên một “lang băm hạ cấp”? Lúc đó tôi hiểu thế nào là vô thường. Tôi không biết
phải làm gì hơn là cầu nguyện đức Mẹ, giúp cho tôi đủ can đảm để chịu đựng sự bất
hạnh này. Tất cả mọi người đều nguyền rủa, chế diễu, chỉ có một người duy nhất
tin ở tôi, đó là thương gia Keysmakers. Ông này dùng thế lực bênh vực cho tôi,
áp lực Hội đồng Y khoa phải phục hồi danh dự cho một bác sĩ bị vu cáo oan ức.
Nhờ ông tung tiền mua chuộc báo chí nên dư luận lắng dịu dần và rồi người ta
không còn chú ý đến tôi nữa. Trong suốt thời gian khủng hoảng, tôi tin rằng sự
kiện này ắt phải có lý do, nên hết lòng cầu nguyện đức Mẹ. Trong một buổi cầu
nguyện, câu trả lời đã đến với tôi qua một linh ảnh. Trong một tiền kiếp xa
xôi, tôi là một y sĩ rất có tài nhưng tôi đã phủ nhận các quyền năng huyền bí
và chê bai những kẻ có đức tin hay cầu nguyện đức Mẹ, đó là hậu quả mà tôi phải
trả ngày nay… Kể từ hôm nhìn thấy đức Mẹ, một sự thay đổi lớn đã diễn ra trong
tâm hồn tôi. Từ nhỏ tôi không hề biết đến tôn giáo. Tôi hấp thụ nền giáo dục
Tây phương nên tin tưởng tuyệt đối ở khoa học. Sự chứng kiến phép lạ thay đổi tất
cả, như người mù bỗng sáng mắt, tâm hồn tôi hoàn toàn khác trước, tôi thấy
thanh thản vô cùng và đủ sức chịu đựng sự chế diễu của mọi người. Tôi dành trọn
thời giờ để cầu nguyện và phát nguyện đời đời, kiếp kiếp theo chân đức Mẹ, cứu
giúp tất cả chúng sanh. Một hôm trong lúc cầu nguyện, ngài bỗng hiện ra mỉm cười,
và từ đó tôi thấy mình ngụp lặn trong một thế giới mới lạ. Tôi ý thức được các
điều mà từ trước không bao giờ nghĩ đến, tôi chứng kiến rõ ràng các cõi giới
khác cũng như sự hoạt động, tiến hóa không ngừng của muôn loài. Nói một cách giản
dị hơn, khả năng Thần nhãn của tôi bỗng khai mở. Từ đó, tôi quan sát, học hỏi
các cõi giới của Thiên thần. Diễn tả cõi giới vô hình bằng lời lẽ thông thường,
không thêm bớt là điều rất khó vì lời nói chỉ có thể diễn tả những gì hữu hình.
Diễn tả những điều không thể diễn tả, dĩ nhiên rất vụng về, nhưng bác sĩ Bandyo
đã lưu loát, hoạt bát diễn tả thế giới này như một sự kiện khoa học và hiển
nhiên.
Bác sĩ Bandyo nhìn toàn thể mọi người, rồi thản nhiên:
- Có lẽ các bạn không tin tưởng lắm, điều này không quan trọng.
Tin hay không là quyền của các bạn. Tôi chỉ muốn chia sẽ với các bạn kinh nghiệm
tâm linh này thôi. Nhờ khai mở Thần nhãn, tôi biết chung quanh chúng ta có một
thế giới vô hình, rộng lớn và có những sinh vật khác sinh sống. Sở dĩ tôi gọi
là vô hình vì mắt thường không thể nhìn thấy được, nhưng một ngày nào đó, khoa
học sẽ chứng minh được thế giới này. Các sinh vật vô hình thường được chúng ta
gọi bằng danh từ như Ma, Quỷ, Tinh linh (entities), v.v… Vì không có một kiến
thức rõ rệt về các sinh vật này, chúng ta đã gán ghép cho chúng nhiều điều
không đúng. Thật ra, các sinh vật này cũng có thứ xấu, thứ tốt, cũng như loài
người vậy. Một trong các sinh vật này hợp tác chặt chẽ với đức Mẹ trong các
công việc của ngài. Danh từ đứng đắn nhất có lẽ là Thiên thần (Deva). Có nhiều
loại Thiên thần, mỗi loại phụ trách một công việc riêng. Vì lý do nghề nghiệp,
tôi thường tiếp xúc với các Thiên thần chăm lo sức khoẻ. Tôi xin thuật lại thế
giới này cho các bạn… Các thiên thần lo về sức khoẻ thường liên lạc chặt chẽ với
những người có trách nhiệm trong việc chăm sóc, chữa bệnh. Điển hình là các bác
sĩ, ý tá. Một y sĩ có lương tâm chức nghiệp, làm việc để giúp đỡ người khác,
luôn luôn được một vị thiên thần hộ mạng. Vị này thường theo dõi, bao trùm
chung quanh y sĩ bằng một hào quang sáng rõ và tác động vào trực giác ông này
khi điều trị bệnh nhân. Vị thiên thần trấn tĩnh y sĩ và không ngớt phóng ra các
hào quang mịn màng như tơ để chuyển sinh khí đến người bệnh. Công việc của vị
thiên thần hình như dung hoà, pha trộn các sinh lực vô hình trong cõi siêu
nhiên và sử dụng tư tưởng biến nó thành các sợi tơ ánh sáng tuôn trào vào bệnh
nhân. Một bác sĩ tận tâm sẽ có các rung động cộng hưởng với ảnh hưởng này một
cách vô hình, tự nhiên thu hút các từ điện tinh vi này vào mình, để nó toát ra ở
mười đầu ngón tay, và có thể hàn gắn vết thương một cách dễ dàng, mầu nhiệm.
Người ta không thể giải thích tại sao một bác sĩ này lại giỏi hơn một bác sĩ
kia, mặc dù họ cùng hấp thụ một nền giáo dục như nhau? Và một bác sĩ giỏi, ta
gọi là bác sĩ “mát tay”, nhưng thật ra đó là do tư tưởng vị y sĩ thanh cao,
rung động với các luồng thần lực vũ trụ và trở thành một trung tâm vận hà các
sinh lực này đến bệnh nhân. Mặc dù y học tự hào đã chữa được nhiều thứ bệnh,
nhưng thực ra trên địa hạt siêu hình còn nhiều vấn đề mà y học phải bó tay. Một
bác sĩ có thể ví như một công cụ của thượng đế cứu giúp chúng sinh; nhưng nếu
viên y sĩ không ý thức điều này mà làm các hành động bất nhân thì y sẽ chịu các
hậu quả rất nặng. Lẽ dĩ nhiên, ân phước dồi dào không thể đến với ông, và vì thế
các ảnh hưởng bất hảo sẽ kéo đến ảnh hưởng đến đời sống, chức nghiệp, khả năng
của vị này. Nhờ có Thần nhãn, tôi thấy các bác sĩ chuyên phá thai chẳng hạn,
lúc nào quanh ông ta cũng có các oan hồn bu kín. Một bác sĩ bất cẩn cũng thế,
ông đã lạm dụng quyền năng thượng đế ban cho, làm thương tổn đến bệnh nhân thì
chắc chắn sẽ gặp những điều vô cùng bất hạnh.
Từ ngàn xưa, người ta đã biết điều này, nên mới đặt ra lời thề của Hippocrates, đến nay không mấy ai để ý đến chi tiết này. Họ hành nghề như tất cả những nghề nghiệp thông thường khác, không ý thức chức vụ thiêng liêng của mình. Là một bác sĩ chuyên về giải phẩu, tôi có thể lấy kinh nghiệm của mình ra nói: trong cuộc giải phẩu, mạng sống của bệnh nhân hoàn toàn nằm trong tay viên y sĩ, và các thiên thần hộ mạng. Một sơ ý, bất cẩn cũng có thể gây những hậu quả đáng tiếc. Do đó, việc hành nghề y sĩ là một bổn phận, chức vụ thiêng liêng, đòi hỏi một lương tâm, một lòng bác ái và hy sinh lớn lao chứ không thể coi như một nghề nghiệp kiếm sống thông thường.
Từ ngàn xưa, người ta đã biết điều này, nên mới đặt ra lời thề của Hippocrates, đến nay không mấy ai để ý đến chi tiết này. Họ hành nghề như tất cả những nghề nghiệp thông thường khác, không ý thức chức vụ thiêng liêng của mình. Là một bác sĩ chuyên về giải phẩu, tôi có thể lấy kinh nghiệm của mình ra nói: trong cuộc giải phẩu, mạng sống của bệnh nhân hoàn toàn nằm trong tay viên y sĩ, và các thiên thần hộ mạng. Một sơ ý, bất cẩn cũng có thể gây những hậu quả đáng tiếc. Do đó, việc hành nghề y sĩ là một bổn phận, chức vụ thiêng liêng, đòi hỏi một lương tâm, một lòng bác ái và hy sinh lớn lao chứ không thể coi như một nghề nghiệp kiếm sống thông thường.
- Xin ông nói thêm về thế giới thiên thần, ông đã thấy những
gì?
- Vì nghề nghiệp, tôi thường quan sát các hoạt động của thiên
thần trong bệnh viện, thí dụ như phòng hộ sinh, nơi các sản phụ chờ giây phút
lâm bồn. Nơi đây có một không khí bình an, mát mẻ do các thiên thần tạo ra để
chào đón linh hồn nhập thế. Đối với cõi vô hình, giờ phút này có tính cách vô
cùng trang nghiêm, như một cuộc lễ. Vị thiên thần bao trùm y sĩ, y tá trong hào
quang và không ngớt di chuyển sinh khí đến người mẹ để giúp bà trong lúc đau đớn.
Mọi nghi thức diễn ra thật chính xác, rõ ràng cho đến khi đứa bé lọt lòng. Khi
linh hồn tái sinh, nó có cảm giác bỡ ngỡ như người mê mới tỉnh, linh hồn thấy
ngộp thở, tối tăm, nặng nề. Nó cần được trấn an nên khi tiếng khóc chào đời vừa
phát ra thì trong cõi vô hình, một ảnh hưởng thanh thoát cũng rung động vào tâm
thức đứa bé khiến nó bình tĩnh hơn. Vị thiên thần trông coi buổi lễ có một
khuôn mặt uy nghi, tâm thức vị này luôn luôn liên kết chặt chẽ với trái tim đức
Mẹ. Một niềm ưu ái đối với sản phụ tỏa ra từ khuôn mặt của vị thiên thần, và
chuyển cho sản phụ dưới hình thức một ân huệ để tán dương chức vụ sinh sản cao
cả của bà. Lúc đó, tâm thức sản phụ được nâng lên cao hào với ân phước đức Mẹ…
Bác sĩ Bandyo ngưng nói một lúc, rồi thong thả tiếp:
- Các ông đều thuộc phái nam, nên không thể hiểu tâm trạng
người mẹ lúc sinh con. Dù hoàn cảnh có khó khăn, đau đớn thế nào, khi vừa nghe
con khóc, tất cả người mẹ nào cũng thấy sung sướng vô biên vì khi đó tâm thức họ
đang hòa hợp với ân phước đức Mẹ. Trong tim họ đang phản chiếu sự hiện diện
linh động của ngài, chói ngời lòng bác ái, thương yêu vô tả. Vào giờ phút đó,
chính vị thiên thần trông coi buổi lễ cũng nhận được một luồng hào quang. Trong
ánh sáng đó, người ta thấy một cái gì vinh quang, tươi đẹp, một nguồn an lạc
tuyệt vời, tuôn trào đến sản phụ và hài nhị Khi đó vị thiên thần hộ mạng bắt đầu
làm công việc giúp đỡ đứa bé, giúp nó điều hoà sự sống đang bị xáo trộn. Ngài
phát ra các từ điện bao quanh đứa nhỏ, giống như các bọt xà phòng để bảo vệ nó
chống lại sự ồn ào bên ngoài. Nhờ đó, đứa bé sẽ thiếp đi trong giây lát, lúc đó
vị thiên thần chú tâm điều hoà tâm thức đứa nhỏ để nó thích hợp với hoàn cảnh mới.
Bác sĩ Bandyo im lặng như đắm chìm vào một tư tưởng nào đó,
sau cùng ông nói :
- Đối với một đứa bé vừa ra đời, khoa học chỉ lo cho chúng ăn
uống, dinh dưỡng đầy đủ mà thôi, chứ không hiểu chúng cần một yếu tố vô cùng
quan trọng đó là tình thương. Khi thể xác được chăm sóc thế nào thì các thể
khác cũng phải được chăm lo y như vậy; và món ăn cần thiết của các thể này là
tình thương. Thiếu tình thương, đứa trẻ khó lòng sống sót vì nhu cầu tình cảm
đôi lúc còn quan trọng hơn các nhu cầu khác. Tình thương là một yếu tố dinh dưỡng
cần thiết để trẻ em nẩy nở tâm lý, tinh thần và chính vì cha mẹ không lo đủ nhu
cầu này, mà các đứa trẻ chậm lớn, thiếu phát triển. Các bệnh tâm lý, thần kinh
đều trực tiếp phát nguồn từ đây. Lý do này cũng giản dị thôi, đứa bé hình dung
vũ trụ theo lối cư xử của cha mẹ đối với nó. Tùy theo nó được yêu hay ghét mà
cuộc đời hiện ra đáng ghét hay đáng yêu. Từ lúc sơ sinh, nó nhận được tiềm lực
yêu thương từ đức Mẹ, và nếu được yêu thương, năng lực này sẽ phát động mạnh mẽ
và nó sẽ trở thành một trung tâm ban rãi tình thương. Trái lại, nếu nó bị hất hủi,
nó sẽ trở nên hung hãn vì mầm yêu thương đã bị dập tắt rồi. Bổn phận làm cha mẹ
là một điều vô cùng thiêng liêng, một trách nhiệm vô cùng quan trọng hơn là việc
chỉ lo cho nó đủ ăn, đủ mặc. Tình thương là một năng lực sáng tạo khiến người
thương và kẻ được thương trở nên phong phú. Trên thế gian này, tình thương là một
thứ mà ai cũng có thể cho mà không sợ phung phí. Một tình thương chân thật có
giá trị giao hoà, không gì có thể thay thế được. Nó không bao giờ gây hư hại,
mà chỉ tạo ảnh hưởng tốt lành. Tình thương là một sinh lực có thể chữa trị tất
cả mọi bệnh tật và đây là điều khoa học cần chú trọng đến.
Bác sĩ Bandyo dẫn chứng:
- Sách “Journal of Medecine” có đề cập đến cuộc nghiên cứu của
bác sĩ René Spitz, thuộc đại học New York. Hai nhóm trẻ sơ sinh được nuôi dưỡng
khác nhau. Nhóm thứ nhất được nuôi dưỡng bởi chính cha mẹ chúng; nhóm thứ hai
được giao cho các cô y tá. Tất cả đều được nuôi nấng, ăn uống như nhau chỉ khác
ở sự yêu thương. Chỉ vài tháng, nhóm trẻ thứ nhất phát triển mạnh mẽ, lên cân,
khoẻ mạnh, trong khi nhóm thứ hai chậm ăn, chậm lớn và đau ốm lung tung. Bác sĩ
Spitz kết luận rằng trẻ con cần tình thương để có thể phát triển bình thường.
Khoa học thực nghiệm đã chứng minh như thế, nhưng bậc làm cha mẹ đâu mấy ai
dành nhiều thời giờ cho các con? Họ chỉ lo cho chúng ăn mặc đầy đủ là cảm thấy
làm tròn bổn phận rồi. Cũng vì thế, xã hội Âu Mỹ tuy vật chất đầy đủ, nền giáo
dục rất cao mà lại phát sinh đủ các hiện tượng tội ác, thần kinh, vi phạm luật
pháp một cách kỳ dị khác các xứ chậm tiến. Tại sao những nhà thông thái không đặt
câu hỏi, phải chăng bậc cha mẹ đã không dành đủ thời giờ cho con trẻ để chúng
phát triển bình thường?
Phái đoàn im lặng. Họ thấy bác sĩ Bandyo quả rất có lý trong
vấn đề này. Giáo sư Mortimer lên tiếng:
- Hãy trở lại vấn đề các thiên thần, họ còn ảnh hưởng gì đến
đời sống con người nữa không?
- Các thiên thần ít khi nào can thiệp vào đời sống con người.
Thật ra, họ vô cùng bận rộn với các sinh hoạt riêng biệt. Thế giới của họ cấu tạo
bằng các nguyên tử thanh, nhẹ, có sức rung động rất nhanh, nên họ không thích
dính dáng vào thế giới hữu hình, vốn có những rung động thô kệch. Điều này có
thể ví như các ông đang sống ở một nơi mát mẻ, sạch sẽ, không lý nào lại chui
vào chỗ hôi hám, nóng bức làm gì.
Giáo sư Allen tò mò:
- Ông có thể sử dụng khả năng thần nhãn vào các việc khác như
thế giới bên kia cửa tử được không?
Bác sĩ Bandyo mỉm cười:
- Bạn mến, trước hết tôi xin xác định rằng chết không phải là
hết, mà chỉ là một giai đoạn di chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác.
Con người chỉ rời bỏ thể xác này thôi. Sự chết không có gì đáng sợ như người ta
vẫn nghĩ.
- Như thế người chết có thấy chúng ta không?
- Họ nhìn thấy chúng ta qua thể vía mà thôi. Do đó, họ biết
được tình cảm hoặc ý nghĩ, cảm xúc của ta mặc dù họ không còn nghe được lời
nói, âm thanh cõi trần nữa.
- Như vậy họ vẫn ở gần người sống?
- Lúc mới từ trần, còn quyến luyến, họ vẫn ở nguyên chốn cũ,
gần nhà cửa, gia đình, những người thân. Theo thời gian, họ ý thức được cõi giới
mới rồi siêu thoát, nghĩa là hòa nhập với cõi giới mới, không quanh quẩn ở cõi
trần nữa. Sự quyến luyến rất có hại cho người chết, nhất là những người chết bất
đắc kỳ tử. Họ còn nhiều dục vọng, ham muốn, nên cứ quanh quẩn ở cõi trần, không
chịu đi đâu hết.
- Số phận trẻ em khi chết ra sao?
- Chúng ít ham muốn, dục vọng, nên thảnh thơi, tự tại hơn.
Lúc đầu chúng vẫn quanh quẩn, nô đùa quanh cha mẹ, và không ý thức sự chết của
mình. Chúng tái sinh rất mau lẹ và thường hay trở lại gia đình cũ vì các nhân
duyên từ trước. Thí dụ như một bà mẹ xẩy thai do sự bất cẩn của bác sĩ chẳng hạn.
Đứa bé vẫn tiếp tục quanh quẩn bên mẹ chúng và sẽ đầu thai trở lại khi có dịp.
Trong trường hợp phá thai lại khác, đứa bé không hiểu tại sao mẹ nó lại ghét
chúng và làm hại nó như thế? Nó quanh quẩn gần đó một cách đáng thương và tìm
cách hỏi mẹ chúng nhưng dĩ nhiên không tìm được câu trả lời.
- Người Á châu thường tin rằng các vong linh thân nhân có thể
giúp đỡ người sống và có các quyền năng đặc biệt, vì vậy, có tục lệ thờ cúng tổ
tiên. Theo ông thì điều này ra sao?
Bác sĩ Bandyo cười lớn:
- Theo sự hiểu biết của tôi, con người khi sống ra sao thì chết
cũng thế thôi. Không có gì thay đổi hết! Họ không thông minh hơn, hiểu biết
hơn. Hơn nữa, âm dương cách trở, họ khó có thể giúp gì cho người cõi trần. Dĩ
nhiên, họ rất muốn tiếp xúc với thân nhân còn sống, nhưng người sống đâu ý thức
gì đến sự hiện diện của họ. Đó cũng là lý do người chết rất đau khổ. Hơn nữa,
người chết đọc được tư tưởng người sống qua thể vía và đôi lúc biết rõ sự thật
còn làm họ đau khổ hơn nữa. Thử tưởng tượng cha mẹ đọc được tư tưởng đứa con mừng
rỡ khi cha mẹ chết vì được hưởng gia tài. Người chồng mừng rỡ vì vợ chết rồi, từ
nay tha hồ tự do, muốn làm gì thì làm. Người chồng thấy vợ mừng chồng chết vì
đã trút được gánh nặng. Các ông nên biết, người đau khổ nhiều, phần lớn là người
chết, chứ không phải người sống. Do đó, họ cần được an ủi, chỉ dẫn.
- Nhưng làm sao an ủi họ được? Ông vừa nói âm dương cách trở
kia mà?
Bác sĩ Bandyo mỉm cười:
- Có nhiều cách giúp đỡ người chết, một cách tiêu cực và một
cách tích cực. Đối với thân nhân người chết, họ có thể làm một cách tích cực
như giúp cho người chết thấy thoải mái, nhẹ nhàng để họ mau siêu thoát. Việc thứ
nhất nên tránh than khóc, kêu gào, để người chết khỏi xúc động, thương tiếc, và
quyến luyến, khó rời cõi trần được. Việc thứ hai là tránh cỗ bàn, mổ gà, làm thịt
vì như thế chỉ kêu gọi các vong linh bất hảo, các cô hồn đói khát kéo đến đầy
nhà gây ảnh hưởng xấu đến người chết. Nên cầu nguyện trong suốt 49 ngày liền,
vì đây là lúc người chết đang ở trong trạng thái quan trọng, sự cầu nguyện khiến
đầu óc họ trở nên sáng suốt, hiểu biết dễ siêu thoát. Nên thiêu xác thay vì
chôn cất, để người chết không thấy đau khổ khi nhìn thể xác mình hư thúi, bị
dòi bọ đục khoét. Khi không còn lưu luyến thể xác, họ sẽ dễ siêu thoát hơn. Tại
Ấn độ, tất cả người chết đều được hỏa táng, đó là phong tục rất tốt, vì khôgn
còn các vong hồn quanh quẩn các nghĩa địa nữa. Việc tích cực giúp đỡ thường do
các tu sĩ đảm trách. Họ xuất vía sang cõi chết để an ủi, hướng dẫn vong linh.
Tu sĩ đảm nhiệm việc này phải phát nguyện phụng sự hoàn toàn, phải trải qua một
thời gian huấn luyện để giữ tâm trí luôn sáng suốt, vì cõi chết có nhiều cảnh
ghê rợn với các sinh vật lạ lùng, một người thiếu kiến thức, hiểu biết, có thể
kinh hoàng ghê sợ. Chỉ khi nào có thể tự chủ hoàn toàn, không bị ảnh hưởng bên
ngoài làm giao động, tâm hồn luôn yên tĩnh không lo âu, sợ sệt và có một tình
thương hoàn toàn rộng rãi đến tất cả, không còn phân biệt, thì sự giúp đỡ mới
kín đáo, vô tư và có hiệu quả. Các ông nên nhớ, qua cõi này, sinh vật có thể đọc
được tư tưởng lẫn nhau nên một lời nói không chân thật, tinh khiết có thể mang
đến hậu quả không thể lường được.
- Tại sao ông biết rõ như thế?
Bác sĩ Bandyo mỉm cười:
- Tại vì tôi đang được huấn luyện để làm việc này. Sự khai mở
thần nhãn giúp tôi thu thập kiến thức về cõi giới vô hình. Từ đó, tôi nhận thức
sứ mạng đức Mẹ đã giao cho tôi. Tôi đã phát nguyện dành trọn đời để thực hiện
thiên ý. Đó là lý do tôi từ bỏ đời sống quay cuồng của đô thị để đến đây. Ban
ngày, tôi là một bác sĩ chăm lo săn sóc những người bệnh. Thời giờ còn lại tôi
phục vụ đức Mẹ qua các công việc ngài giao phó. Các bạn thân mến, trọn cuộc đời,
chưa lúc nào tôi sống thật trọn vẹn như bây giờ.
Chương 7
Ram Gopal Mukundar là một đạo sĩ nổi tiếng có thể chữa trị mọi
bệnh tật. Ông thành lập một đạo viện (Ashram) ở ngoại ô Rishikesh và có khá
đông môn đệ.
Qua sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp xúc với
phái đoàn. Ram Gopal có một thân thể cực kỳ tráng kiện trông như một lực sĩ, bước
đi của ông vững chãi và uyển chuyển như một mãnh hổ. Giọng nói của ông hùng
tráng như một tiếng cồng. Hàng ngày, ông dành riêng một thời gian để tiếp xúc với
bệnh nhân. Ông yêu cầu phái đoàn ngồi đó xem ông trị bệnh. Bệnh nhân gồm đủ hạng
người , từ các bậc thượng lưu, quý phái ngồi trên kiệu đến các loại bình dân
nghèo đói, lê lết. Họ mang đủ thứ bệnh từ các loại bất trị như ung thư, cùi hủi
đến các chứng đau tim, phong thấp, tiểu đường, v.v... Một bệnh nhân ăn mặc sang
trọng, khuôn mặt tái nhợt cho biết y là một phú ông giàu có tại Madras, bị đau
tim đã đến thời kỳ trầm trọng. Bác sĩ cho biết nếu lên cơn một lần nữa chắc chắn
y không thể sống.
Ram Gopal yên lặng nghe bệnh nhân kể lể rồi cho biết:
- Hơi thở của ông bị đứt quãng nhiều, tôi nghĩ cơn đau tim sẽ
tái phát trong một thời gian không lâu nữa.
Bệnh nhân xanh mặt quỳ mọp xin cứu mạng. Ram Gopal thong thả
cho biết :
- Ông có thể sống thêm nhiều năm nữa nếu chịu khó điều trị.
Chắc hẳn ông đã biết cách trị bệnh của tôi?
Bệnh nhân im lặng suy nghĩ. Ram Gopal giải thích cho phái
đoàn:
- Bệnh tật là kết quả của những gì trái với thiên nhiên. Sống
thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh. Con người bẩm sinh đều khỏe mạnh, họ mắc
bệnh vì các thói quen, lối sống không hợp tự nhiên, rồi theo thời gian tiêm nhiễm
vào cơ thể làm suy nhược. Khi bệnh mới phát ra, con người ỷ lại vào thuốc men,
các phát minh khoa học. Tiếc thay, lối này chỉ có thể tạm thời cầm giữ bệnh tật
cho nó không phát lên chứ không trừ tuyệt căn. Y khoa Tây phương chỉ ngăn chận
bệnh tật không làm nguy hại đến tính mạng trong một thời gian, rồi sau đó cũng
bó taỵ Muốn trừ bệnh hoàn toàn, chỉ có một cách duy nhất là cương quyết trừ tuyệt
gốc và người duy nhất có thể chữa được là “chính mình” mà thôi, ngoài ra không
có ai khác. Một khi bệnh nhân ý thức được điều này, nhất định theo đuổi cách trị
đến cùng thì hầu như bệnh gì cũng có thể chữa khỏi.
Giáo sư Mortimer lên tiếng:
- Xin ông giải thích rõ ràng hơn nữa.
- Cách chữa cũng rất giản dị, việc đầu tiên bệnh nhân phải
làm là quyết định xem có theo phương pháp này được không? Nếu nhất quyết thì y
lập tức từ bỏ tức khắc tất cả gia tài, sự nghiệp, hoàn cảnh gia đình bên ngoài
để gia nhập đạo viện cho đến khi hết bệnh.
- Ông muốn nói y phải trở nên một tu sĩ hay sao?
Ram Gopal bật cười:
- Không phải thế, đây không phải là một đạo viện có tính cách
tôn giáo. Tôi không bao giờ bắt buộc ai phải học giáo lý, tin tưởng một số giáo
điều, nghi thức hay sùng kính một đấng vô hình nào hết. Đạo viện (Ashram) này
chỉ có mục đích chữa bệnh. Điều tôi muốn thực hiện là để bệnh nhân phải rời bỏ
cái nếp sống cũ, cái hoàn cảnh, nguyên nhân đã khiến y mắc bệnh. Lo nghĩ, phiền
não, dinh dưỡng không đúng cách là nguyên nhân chính của hầu hết các thứ bệnh.
Phải dẹp bỏ, dứt sạch tất cả cho tâm hồn thật thảnh thơi, thoải mái, rồi mới có
thể chữa trị được. Đó là điều kiện quan trọng nhất của phương pháp này.
- Nhưng việc gì phải từ bỏ tất cả, đi dưỡng bệnh một nơi xa
cũng có hiệu quả tương tự vậy.
Ram Gopal bật cười:
- Điều này không thể chữa tận gốc được, hoàn cảnh tuy có khác
nhưng đầu óc bệnh nhân vẫn còn cố chấp, suy nghĩ, lo lắng thì làm sao dứt được
phiền não? Chỉ có hoàn toàn dứt bỏ, để đầu óc không còn bận tâm chút gì nữa, để
trở nên con người hoàn toàn mới thì may ra mới có thể chữa hết bệnh được.
- Từ bỏ gia tài, nhà cửa, gia đình đâu phải dễ dàng, mấy ai
đã làm được như thế? Nói thì thật giản dị nhưng nó là cả vấn đề…
- Này ông bạn, nếu chết, ông có mang mấy thứ đó đi theo được
không? Ông cứ việc ôm chặt lấy những thứ giả tạo vật chất rồi để đau đớn dầy
vò và cái chết quanh quẩn ám ảnh chăng? Trước sau gì cũng mất nó, thì thà bỏ
quách đi có hơn không? Cách chữa này có thể coi như ta đã chết rồi, đã mất tất
cả rồi, và đi tìm cái sống trong cái chết. Nguyên lý của bệnh như sau: con người
chìm đắm trong danh lợi, lo quanh, nghĩ quẩn, tích trữ tài sản mà quên sự vô
thường ở đời. Họ chỉ thấy lợi nhỏ mà quên hại lớn. Lo làm giàu vật chất mà quên
tu tâm dưỡng tinh thần, vì thế thân thể suy nhược, tâm trí điên đảo, thần trí bất
nhất, lại thêm tửu sắc quá độ, hỷ nộ bất thường, dinh dưỡng coi thường và bệnh
tật do đấy mà sinh ra. Khi bệnh còn nhẹ, ta không để ý chữa trị, đến khi nó
phát ra đe doa. trực tiếp vào đời sống, ta mới hoảng hốt tin tưởng vào các phát
minh khoa học chữa trị. Thuốc men chỉ tạm thời ngăn chận khiến cho bệnh chậm
tái phát, kéo dài cuộc sống để ta tiếp tục đắm chìm trong dục vọng, phiền toái
một thời gian nữa. Đến khi thuốc men trở nên vô hiệu, bệnh tái phát thật mạnh,
thì khoa học bó tay, và con người chấp nhận sự phải đến sẽ đến, và coi như đó
là số mạng. Đây là một lầm lẫn rất lớn mà ít ai để ý. Nguyên nhân chính của bệnh
là do sự bận rộn với đời sống hàng ngày, nếp sống càng tiện nghi thì họ lại
càng hết sức lao tâm, lao lực để đạt đến cái tiện nghi hơn nữa. Thêm vào lòng
tham muốn chiếm đoạt, tranh đua để thỏa mãn dục vọng nhất thời, khiến cơ thể
trở nên mất quân bình, phá hoại cơ quan thần kinh. Cơ quan này là đầu mối của mọi
thứ bệnh nên theo thời gian, bệnh từ từ ngấm vào tạng phủ khiến con người càng
ngày càng lệch lạc, sống nghịch với thiên nhiên, mất đi sự an lạc sẵn có, nói một
cách khác, họ mất đi chính mình. Sự xả ly, dứt bỏ tất cả là bước đầu để trở lại
cái tinh thần nguyên thuỷ, nó là điều kiện cần thiết để dứt căn bệnh trầm kha của
loài người. Có thể đầu óc mới lấy lại sự thăng bằng để họ có thể điều trị…
- Nhưng bệnh tật có nhiều nguyên nhân chứ, ông nghĩ sao về
các bệnh do vi trùng gây ra?
Ram Gopal lắc đầu:
- Trong người khỏe mạnh, vi trùng xâm nhập thế nào được? Người
sống theo thiên nhiên không thể có bệnh. Vi trùng thì chỗ nào chả có, nhưng đâu
phải ai cũng mắc bệnh như nhau. Nếu vi trùng là nguyên nhân chính thì tại sao
có kẻ mắc bệnh và có người lại không mắc bệnh? Ngay cả những lúc có bệnh thời
khí khiến hàng trăm, hàng ngàn người lăn ra chết; nhưng vẫn có những kẻ sống
sót đấy chứ. Tóm lại, thân thể khỏe mạnh có thể chống mọi thứ bệnh.
Ngay lúc đó bệnh nhân ngửng mặt nói vài câu. Ram Gopal lắc đầu
và quay sang phái đoàn cho biết:
- Bệnh nhân này muốn trở về nhà thu xếp công việc khoảng vài
tháng đến một năm, rồi sau đó mới đến đây chữa bệnh. Lúc này đang là mùa dệt sợi
mà y lại là chủ nhân nhiều hãng dệt. Tôi cho y biết không chịu chữa trị khó
lòng sống qua một tháng nữa.
Giáo sư Allen kêu lên:
- Nhưng nếu bắt từ bỏ tất cả ngay thì làm sao y có thể thu xếp
kịp?
- Chữa bệnh không phải việc đi chơi. Tôi quan sát thần sắc bệnh
nhân rất kỹ và thấy y khó sống lắm rồi. Nếu y mê muội trở về lo thu xếp công việc,
thì đầu óc đã lệch lạc lại càng lo âu thêm, thế nào cũng lên cơn đau tim mà chết.
Như các ông thấy điều kiện tiên quyết để chữa bệnh là trị tận gốc và đây là
giây phút quyết định sự sống chết. Chỉ có y mới tự chữa lấy cho mình mà thôi.
Con người phải hiểu biết để đoạn tuyệt với quá khứ, không thể có lối chữa trị
lưng chừng kéo dài thời gian được. Thật ra khoa học đã làm việc này, kéo dài
thêm thời gian rồi bó taỵ Đây không phải là lối chữa của tôi.
Bệnh nhân đắn đo suy nghĩ một lúc, y ngập ngừng nói vài câu rồi
đứng lên bước vội ra khỏi cửa, không dám nhìn ai. Giây phút quyết định đã trôi
qua, Ram Gopal thở dài rồi gọi một bệnh nhân khác vào. Sau buổi khám bệnh, chỉ
có một số chấp nhận theo lối chữa lạ lùng này, và được các đệ tử của đạo sĩ đưa
vào đạo viện.
Ram Gopal cho phái đoàn biết bệnh nhân chỉ được mang theo một
bộ quần áo và tuyệt đối không được tiếp xúc với ai trong thời gian điều trị. Dĩ
nhiên, khi hoàn tất việc chữa trị, y có thể rời nơi này theo ý muốn. Một số người
sau khi vào đây khong từ bỏ việc đời lại bỏ ra về và số này không phải ít.
Giáo sư Allen thắc mắc:
- Nhưng sau khi vào đây, họ sẽ phải làm gì? Ông chữa trị ra
sao?
- Như các ông đã biết, yếu tố đầu tiên là cương quyết chữa bệnh
cho đến khi tuyệt căn mới thôi. Yếu tố này đòi hỏi việc xả ly, dứt bỏ tất cả mọi
sự. Yếu tố thứ hai là tự mình chữa trị lấy cho mình vì không ai có thể chữa bệnh
cho ai cả. Yếu tố này đòi hỏi việc làm chủ các cảm giác của mình để chữa bệnh.
Tại đây, bệnh nhân ăn rất ít, thời gian đầu y chỉ uống nước suối và ăn cơm nhạt
thôi. Phương pháp này nhắm việc tẩy uế các chất độc trong cơ thể. Một lý do
quan trọng gây nên nhiều chứng bệnh là sự ăn uống bừa bãi, không tiết độ. Để
giúp cơ thể loại bỏ các độc tố đã nhiễm từ lâu. Bệnh nhân chỉ ăn thật nhạt
nghĩa là không một chút gia vị, đường hay muối (ghi chú: người Ấn ăn rất nhiều
gia vị và rất mặn). Mỗi ngày, bệnh nhân chỉ ăn một lần trước buổi trưa và uống
nước vài lần thôi. Uống ít nước giúp cho tim đập chậm lại vì dung lượng nước
qua tim sẽ ít đi. Tim và thận được nghỉ ngơi sẽ giúp cơ thể lấy lại quân bình
mau chóng, đây là hai cơ quan thiết yếu giữ các vai trò quan trọng cho việc phục
hồi sức khỏe. Ăn nhạt khiến gan và dạ dày thải bỏ các độc tố tích tụ trong đó,
cứ thế trong khoảng hai tuần lễ là đa số độc tố đã bị khu trục cả. Nếu muốn các
ông cứ thử ăn nhạt ít tuần lễ là thấy cơ thể đổi khác ngaỵ Ngoài việc dưỡng
sinh đúng cách, bệnh nhân dành trọn thời giờ tập Yoga, để lấy lại quân bình cho
cơ quan thần kinh, khối óc. Tư thế đầu phải tập là cách ngồi cho ngay ngắn,
lưng thật thẳng để luồng hỏa hầu di chuyển không gặp khó khăn. Hai tay buông
thỏng trên đầu gối và thở thật tự nhiên, không cố gắng thái quá. Trong khi tập
tư thế này, không để tâm xao động, lo nghĩ việc gì, phải “vô cầu, vô niệm” mới
là đúng cách. Không sử dụng thần chú hay xin xỏ một đấng thần linh nào, mà chỉ
cần hết sức tự nhiên, theo thời gian bệnh sẽ từ từ thuyên giảm.
Giáo sư Mortimer thốt lên:
- Chỉ có thế thôi ư? Như vậy giản dị quá có khó gì đâu?
- Dĩ nhiên, nhưng phải làm thật chuyên cần không gián đoạn
trong suốt thời gian tại đây cho đến khi khỏi bệnh.
Mọi người nhìn nhau, họ nghĩ đạo sĩ này phải có một phương
pháp gì ghê gớm lắm hoặc sử dụng thuốc men gì đó để chữa trị, chứ phương pháp
ông nói thật tầm thường và có vẻ hoang đường khó tin.
Ram Gopal hiểu ý :
- Khi trở về với chính mình, với con người nguyên thủy, hòa hợp
với thiên nhiên thì bệnh tật và sức khoẻ chỉ là những gì tương đối, không còn
tranh chấp nữa. Con người thật của ta vốn sẵn có kia mà, việc gì phải gò bó,
khó khăn mới tìm được. Khi dứt bỏ tất cả, ta trút được một gánh nặng ở tâm hồn.
Khi ăn uống đúng cách, ta loại bỏ yếu tố gây nên bệnh tật, và cách tập Yoga
giúp ta lấy lại quân bình nguyên thủy, trở về với con người thật của mình, như
vậy là “tự mình chữa cho mình”, không ỷ lại vào một tha lực hay một yếu tố bên
ngoài nào hết.
- Nhưng ngoài ra còn phải uống thuốc men gì nữa chứ?
Ram Gopal lắc đầu:
- Phương pháp này không sử dụng thuốc men gì cả, đó là một
phương pháp hết sức tự nhiên và khoa học. Dĩ nhiên, nếu ông chở đến một người bệnh
sắp chết hay một kẻ gẫy chân, gẫy tay thì tôi không thể chữa như thế được. Nói
khác đi, nếu một kẻ mắc bệnh thời khí hay các bệnh thông thường thì họ đã đi kiếm
các bác sĩ chữa trị, chứ việc gì phải đến đây? Hầu hết các bệnh nhân đến tận rừng
hoang núi thẳm này chỉ là những kẻ đã tuyệt vọng hoặc gặp các chứng nan y mà y
sĩ đã bó taỵ Các ông nên biết, cơ thể con người có khả năng làm hồi phục rất
nhiệm mầu. Sở dỉ cơ thể suy yếu, bệnh hoạn, vì họ sống không tự nhiên, có thế
thôi. Sống tự nhiên không những giúp thể xác khang kiện, mà còn mục đích tối hậu
là dẹp bỏ cái “phàm ngã” trở về cái “chân ngã” của mình. Khi từ bỏ được bản ngã
thấp hèn thì ta ung dung, tự tại, thảnh thơi, tiêu diêu cùng trời đất, thiên
nhiên, thì còn lo lắng chi nữa? Trên lý thuyết thì thật dễ dàng nhưng thực
hành lại là cả một vấn đề. Con người quen sống bừa bãi, nô lệ dục vọng xác thân
quá lâu, đến nổi sinh bệnh, rồi muốn cởi bỏ tất cả đâu có dễ. Quen ăn ngon, mặc
đẹp bây giờ ăn vài nắm cơm nhạt, uống vài gáo nước suối đâu phải ai cũng làm được
ngay lập tức. Khốn nổi muốn trừ tận gốc phải uống thuốc đắng và thuốc đắng
chính là lối sống tự nhiên này.
- Nhưng đã có bằng chứng gì về phương pháp này? Làm sao biết
được nhờ thực hành như trên mà bệnh nhân khỏi bệnh, kéo dài đời sống?
Ram Gopal không tỏ vẻ giận dữ về câu nói bất kính:
- Tôi có hơn ba ngàn môn đệ, tất cả đều là người mắc bệnh nan
y sống tại đây. Đa số đã bị các bệnh viện từ chối, vì không chữa được nữa. Họ vẫn
sống nhiều năm nay, hàng ngày cả trăm người đến xin gia nhập đạo viện, và chỉ
có một thiểu số cương quyết mới được chấp nhận. Đã thế, nhiều người không qua kỳ
thử thách cũng bỏ đi rất nhiều, nhưng trong số những người ở lại, tất cả đều hết
bệnh, tuyệt căn. Các ông nên nhớ tôi không nhận một thù lao hay đòi hỏi ân huệ
gì, tôi cũng không tự xưng một danh vọng, chức tước nào hết. Đời sống ở đây
hoàn toàn tự túc, và kẻ khoẻ mạnh phải lo trồng tỉa, gặt hái thực phẩm. Quy luật
đạo viện không nhận tặng vật dù bất cứ thứ gì, nhiều kẻ tỏ ý muốn dâng tài sản,
sự nghiệp khi đến đây với hy vọng sẽ được đối xử đặc biệt. Tôi yêu cầu một khi
đã dứt bỏ tất cả, thì hãy bố thí cho người nghèo, hoặc để lại cho con cháu,
thân nhân, rồi đến đây với bộ quần áo trên người. Dù bệnh nhân là tiểu vương gia
hay kẻ hành khất tôi cũng coi như nhau, mục đích của họ là chữa bệnh và chỉ có
họ mới có thể chữa cho mình. Đạo viện được thành lập chỉ để thực hành việc chữa
bệnh mà thôi, chứ không phải một nơi giam cầm hay có tính cách tôn giáo. Muốn
gia nhập phải tuân theo các điều kiện, nhưng muốn rời đây thì tùy ý, không hề
có sự ngăn cản.
- Nhưng ông có dạy các phương pháp Yoga?
- Đúng thế, nhưng Yoga là một khoa học, không phải tôn giáo
như nhiều người đã hiểu lầm. Ngoài ra tôi chủ trương một lối tu thân cho những
người muốn vào cửa đạo nhưng đây cũng không phải là một tôn giáo.
- Xin ông vui lòng giải thích phương pháp tu này.
Ram Gopal mỉm cười:
- Như các ông thấy, phương pháp dưỡng sinh và tập Yoga có thể
giúp con người vượt qua các bệnh tật. Cũng như thế, phương pháp tu thân sẽ giúp
con người vượt qua các trở ngại để tiến vào cửa đạo. Có rất nhiều phương pháp
tu hành tùy theo quan niệm cá nhân, hoàn cảnh xã hội chung quanh, tôn giáo…
Nhưng tất cả đều nhắm mục đích chung là giải thoát. Tôi không quan niệm một phương
pháp nào mà để mỗi cá nhân tùy theo sở thích lựa chọn. Tôi chỉ khuyên họ nên
sáng suốt kiểm soát cách thức tu hành để tránh các sai lầm thông thường. Như
các ông thấy, trên các con tàu lướt sóng ngoài biển khơi bao la, cứ khoảng nửa
giờ, vị thuyền trưởng phải nhìn vào bản đồ, xem địa bàn, đo phương hướng để xác
định vị trí con tàu. Biết mình ở đâu và đi đến đâu là câu hỏi quan trọng của mọi
người trên đường đạo. Công việc tu hành cũng thế, người tu lúc nào cũng phải
luôn luôn tự hỏi vê mình, để kịp thời sửa sai các lỗi lầm thông thường vì sai một
ly đi một dặm. Khi con tàu rời bến, một lỗi lầm nhỏ từ khởi điểm có thể làm con
tàu đi xa mục tiêu vài chục hải lý. Đường tu cũng thế, một ý niệm sai lầm có thể
khiến ta đi vào tà đạo lúc nào không haỵ Phương pháp tại đạo viện không chú trọng
đến hình thức, mà chỉ nhắm vào kiểm soát thường xuyên quan niệm của người tu đối
với bản thân mình, với mọi người chung quanh. Phải tự xét mình, kiểm soát tư tưởng
của mình từng ngày, từng giờ, rồi suy ngẫm về bản ngã, chân ngã. Kinh Veda đã dạy,
“ta không phải là xác thân vật chất này mà là một linh hồn cao quý, trường tồn,
một điểm linh quang của thượng đế.” Nói khác đi, con người là một linh hồn bất
diệt còn thể xác chỉ là một dụng cụ thô sơ, tạm thời. Người hiểu đạo là người
ân cần lo lắng cho linh hồn hơn là cái xác thân tạm bợ. Chân lý này giúp cho
người tu tránh các tội ác, các phiền não, vì đa số người đều lầm tưởng mình là
xác thân nên lo lắng, chìu chuộng nó đủ điều. Để cho xác thân được sung sướng họ
đã không ngần ngại giết nhau, làm hại nhau, lừa bịp lẫn nhau, tóm lại tất cả những
gì xấu xa, tồi bại. Nếu ý thức được chân lý này thì ai lại còn vơ vét của cải,
vật chất làm gì, vì các thứ đó đâu có ích lợi gì cho linh hồn. Người hiểu biết
đường đạo ý thức linh hồn là ta, là người làm chủ, còn xác thân chỉ là con ngựa
để ta cưỡi đi trên đường. Người chưa hiểu biết nhận mình là con ngựa và cố gắng
thỏa mãn các nhu cầu của họ. Họ không ý thức mình là tay kỵ mã kiêu hùng bất
diệt mà cam chịu thân phận con vật yếu hèn chịu sự chi phối của thời gian và
không gian. Căn bản đầu tiên của người đi trên đường đạo là ý thức mình, duyệt
xét đường đi của mình để tìm một lối tu thân hợp lý. Kinh Veda lại dạy rằng,
“Ta và người tuy bề ngoài khác biệt nhưng thực sự bên trong lại như nhau, bởi tất
cả đều cùng chung một nguồn gốc mà ra”. Chân lý này cho thấy chúng ta đều là
hoa trái của một cái cây, cùng chung một gốc, bề ngoài tuy káhc, nhưng bề trong
tất cả đều là con của thượng đế. Nếu ý thức được chân lý này thì ai lại còn giận
hờn, oán thù, ghen ghét nhau. Có khi nào tay mặt lại cầm dao chém tay trái, có
khi nào anh em lại thù nghịch hãm hại lẫn nhau. Sự khác biệt giữa con người là
do mức tiến hoá khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém
ta đâu? Suy luận rằng, “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác,
vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có
khác nhau đâu. Khi hiểu rằng “nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính
mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức rằng mọi vật đều
có sự sống, đều có thượng đê ngự Ở trong. Ta sẽ cởi bỏ thành kiến, mở rộng lòng
thương đến muôn loài. Người tu là người sống thuận hòa với mình và mọi người, sống
an lạc với vạn vật trong vũ trụ, sống hoà hợp với thiên nhiên một cách ung dung
tự tại. Đó là con đường tu đứng đắn nhất theo sự hiểu biết của tôi.
Ram Gopal nhìn mọi người, rồi mỉm cười:
- Nếu chúng ta tu một thời gian mà thấy lòng không vui vẻ, phấn
khởi, gương mặt không thoải mái, cử chỉ không dịu dàng, lời nói không ôn tồn,
tâm hồn không thương mến thì chắc là ta đã không sống thuận lẽ đạo. Có lẽ ta đã
đi vào tà đạo lúc nào mà không haỵ Khi tu hành mà tâm thần rối loạn, thần trí đảo
điên, tham lam, sân hận, oán thù, thì đó là triệu chứng đã đi lạc đường rồi. Nếu
biết thế phải lập tức kiểm điểm lại phương pháp tu hành để sửa đổi, và quyết
tâm trở lại khởi điểm để bắt đầu lại con đường đạo. Nếu không làm như thế thì
vô phương cứu chữa, cũng như bệnh đã nhập tâm mà còn mê say luyến tiếc vật chất,
không cương quyết dứt bỏ thì làm sao còn chữa trị được. Này các bạn, giáo lý
nào cũng dạy phải thương yêu, tha thứ và giúp đỡ đồng loại nhưng tại sao xã hội
lại không như vậy? Tại sao giữa cái biết và hành xử lại có sự trái ngược? Phải
chăng lòng con người còn ham mê vật chất, tuy nghe điều hay lẽ thiệt nhưng ta vẫn
để đó, tiếp tục làm các điều càn rỡ. Người bệnh cũng thế, khi mới mắc bệnh
không lo chạy chữa mà chờ khi mạng sống bị đe doa. mới cuống lên, thuốc gì cũng
uống, ai nói gì cũng làm, cố sao kéo dài đời sống. Tại sao lại có các điểm
tương đồng như thế? Khoa học công nhận rằng ăn uống điều độ, có thể tránh bệnh
tât, nhưng biết rồi để đó, chứ có mấy ai theo? Hình như chúng ta vẫn thèm miếng
ngon, vật lạ dù biết nó là chất độc. Nếu chúng ta chấp nhận tất cả đều là con của
thượng đế, tại sao ta vẫn đâm chém, làm hại lẫn nhau? Nếu chúng ta chấp nhận
các loài cầm thú là đàn em bé bỏng, thì ta phải tránh sát sinh chứ. Tại sao ta
vẫn giết hại “đàn em” qua các bữa ăn thịnh soạn? Phải chăng miếng ăn, vì béo
đã làm ta quên hết rồi? Vấn đề của cải cũng thế, ta biết chúng chỉ là vật tạm
bợ, vô thường khi chết nào có mang theo được; nhưng thực tế, hễ đâu có của cải
là nơi đó có tranh chấp lẫn nhau. Hãy nhìn đàn gà trong sân, chúng đang vui vẻ
nô đùa nhưng hễ có ném cho nắm thóc, là có xô xát ngaỵ Hãy nhìn bầy chó cùng
cha, cùng mẹ âu yếm liếm nhau kia, nhưng chủ ném cho cục xương là cắn nhau tức
thì. Loài người thông minh hơn loài vật nhưng của cải, danh vọng, vật chất đa
làm họ bất hoà có khác chi loài thú? Từ mấy ngàn năm nay, con người luôn được
hướng dẫn bởi các chân lý cao đẹp. Tôn giáo nào cũng dạy những điều thật tốt
lành nhưng tại sao vẫn không thấy có sự tiến bộ? Phải chăng vì chúng ta chỉ nói
chân lý ở đầu môi, chót lưỡi? Ta đến các thánh đường tôn nghiêm với y phục
sang trọng nhất, các lễ vật đẹp đẽ nhất, đọc thuộc lòng các lời răn chân chính
nhất nhưng chúng ta vẫn làm các điều xấu xa, bỉ ổi nhất. Có bao giờ các ông
nghĩ về những điều này không?
Mọi người im lặng nhìn nhau không ai thốt lên lời nào. Ram
Gopal mỉm cười:
- Hãy dở Thánh kinh mà xem, đức Jesus đã dạy, “các người đừng
quá lo về y phục hay thức ăn. Đời sống không quý báu hơn thức ann và thân thể,
không quý báu hơn y phục hay sao? Hãy nhìn loài chim bay trên trời, chúng
không hề gieo cũng không hề gặt, không chứa chấp thực phẩm trong bồ, nhưng cha
của các ngươi trên trời vẫn lo cho chúng chu đáo. Các người không quý hơn chim
muông hay sao?” Lòi dạy thật rõ ràng, giản dị và chắc chắn, các ông đã nghe
nói qua nhiều lần rồi, nhưng có lẽ không mấy người hoàn toàn tin tưởng nên thế
giới mới có những cảnh chém giết vì miếng ăn, manh áo.
Một lần nữa, phái đoàn lại ngạc nhiên vì một tu sĩ Ấn độ sống
nơi hoang vu, hẻo lánh dưới chân núi Tuyết Sơn lại trích dẫn Thánh kinh một
cách rành mạch cho thính giả người Âu.
Ram Gopal im lặng như suy nghĩ một điều gì, sau cùng ông lên
tiếng:
- Vì biết rằng của cải, vật chất là nguồn gốc của tội lỗi, cám
dỗ nên tại đạo viện này mọi người chỉ được giữ một bộ quần áo trên mình và phải
đoạn tuyệt với vật chất hoàn toàn. Còn lo giữ của tức là còn lo mất, quyến luyến
vật chất như vậy thì làm sao giải thoát được. Giữ tiền bạc, của cải hay danh vọng
có thể ví như đeo gông vào người, rồi nhẩy xuống sông, chắc chắn sẽ chìm chứ
làm sao bơi lội cho được, phải thế không các bạn?
Giáo sư Mortimer lên tiếng:
- Ông nói cũng có lý nhưng không hẳn tôn giáo nào cũng lánh
xa của cải, vật chất. Đôi lúc họ cần những thứ này để làm các công việc như mua
thực phẩm, xây cất thánh đường, v.v... Tiền bạc có công dụng riêng của nó.
Ram Gopal gật đầu:
- Sử dụng tiền bạc đúng cách là một vấn đề còn để nó cám dỗ lại
là một vấn đề khác. Chính đức Jesus đã dạy, “kẻ giàu có tu hành chẳng khác con
lạc đà chui qua lỗ kim. Một người không thể thờ hai vua, ngươi thờ Chúa hay thờ
tiền bạc”. Một người tu hành chân chính không thể nô lệ bạc tiền dưới bất cứ
hình thức nào. Các ông chắc thắc mắc tại sao tôi cương quyết chủ trương tuyệt sở
hữu, gặp nhau hôm nay cũng là một nhân duyên, tôi xin kể một câu chuyện để các
ông hiểu tại sao con đường tu hành cho rằng tiền bạc, vật chất là trở lực lớn
cho người tụ Câu chuyện như sau: “Một đệ tử quyết tâm cầu đạo, xin học với một
đạo sự Sau thời gian học hành chăm chỉ, một hôm sư phụ có việc phải đi xa nên dặn
học trò ở lại chăm lo tu hành. Học trò nghe theo lời thầy, thiền định sớm hôm
không hề bê trễ, Vì nếp sống tu hành thanh bần, tu sĩ chỉ có độc mỗi một miếng
khố che thân. Nhưng chiếc khố cứ bị chuột cắn rách hoài nên tu sĩ cứ lâu lâu lại
phải đi xin một mảnh vải che thân khác. Dân làng thấy vậy, bèn biếu tu sĩ một
con mèo để trừ lũ chuột. Tu sĩ đem con mèo về nuôi, từ đó chuột không dám lộng
hành nữa, nhưng tu sĩ lại phải lo thêm một phần ăn. Ngoài thực phẩm chay tịnh,
tu sĩ phải xin sữa để nuôi con mèo. Một tín đồ thấy vậy bèn tình nguyện dâng
cúng tu sĩ một con bò cái để có sữa nuôi mèo. Tu sĩ vui vẻ nhận con bò nhưng
nuôi được mèo lại không có rơm cho bò ăn. Do đó, ngoài thức ăn khất thực, tu sĩ
lại phải đi xin rơm về nuôi bò. Dân làng thấy vậy bèn biếu tu sĩ một mảnh đất
và dụng cụ canh nông để tu sĩ trồng trọt, nuôi bò. Tu sĩ ra công cầy cấy nên
rau trổ thật nhiều, bò ăn không hết, phải mang bán ngoài chợ. Miếng đất thật mầu
mỡ sinh hoa lợi quá nhiều, tu sĩ làm không xuể, phải gọi người đến làng giúp. Lạ
thay, miếng đất cứ thế sinh sôi nẩy nở, trồng gì cũng tươi tốt và chả mấy chốc
trở nên một đồn điền trù phú. Tu sĩ có nhiều hoa lợi bèn xây một đền thờ to lớn,
đẹp đẽ, thuê thợ khắc tượng, đúc chuông thật vĩ đại, nhưng thời gian tu hành
không còn là bao vì tu sĩ phải lo trông nom đồn điền, lo sổ sách giao dịch buôn
bán, kiểm soát nhân công trồng tỉa, rồi có tiền bạc phải lo đầu tư, bỏ vốn mua
thêm đất đai, khai khẩn thêm nữa. Một hôm, sư phụ trở về không trông thấy túp lều
đơn sơ nữa mà thay vào đó một ngôi đền tráng lệ, nô nức khách hành hương, trong
đền ồn ào những tín đồ vừa cúng bái vừa buôn bán. Trông thấy sư phụ, tu sĩ mừng
rỡ chạy ra chào. Sư phụ Ôn tồn hỏi tại sao lại có sự thay đổi như thế. Tu sĩ trả
lời, 'thưa thầy, thật tâm con muốn tu hành nhưng tại lũ chuột cứ cắn rách áo
hoài. Để bảo vệ cái áo con nuôi mèo. Để có sữa cho mèo ăn, con phải nuôi bò, và
để có rau nuôi bò, con phải canh tác. Rồi thì trúng mùa liên tiếp, sức con làm
không xuể nên phải gọi thêm người làm giúp, rồi thì buôn bán thành công, tiền bạc
nhiều thêm, con phải đích thân trông nom mọi việc. Sau đó con cho xây cất đền
thờ to tát, đúc tượng thật vĩ đại, con còn mướn người lo việc cúng tế, nhang
đèn cẩn thận'. Sư phụ thở dài, 'xây cất đền thờ thật to chỉ là trói buộc, nào
phải giải thoát. Tụ tập tín đồ cho đông, ồn ào phức tạp, chỉ gây trở ngại cho
việc thanh tụ Chỉ vì một cái khố rách mà con đã đi thật xa, xa hẳn con đường mà
ta đã chỉ dạy nhằm việc giải thoát. Con chỉ lầm lẫn một chút mà đã đi lệch lúc
nào không hay, trói buộc vào các thứ đó rồi làm sao có thể thoát được?”
Ram Gopal yên lặng như đắm chìm vào quá khứ, một lúc sau ông
nói thật khẻ:
- Các ông thấy câu chuyện thật khôi hài phải không? Nhưng đó
là chuyện thật, vì tôi chính là vị tu sĩ trẻ đó. Sau khi nghe thầy nói xong,
tôi tỉnh ngộ, và hiểu con đường tu hành giải thoát chân chính là thế nào. Tôi lập
tức rời bỏ tất cả để theo thầy lên núi Tuyết Sơn học đạo. Suốt mấy chục năm tu
hành tinh tấn, sư phụ mới sai tôi đến đây thành lập đạo viện này để chữa bệnh
và chỉ dạy đệ tử phương pháp tu thân. Vì kinh nghiệm quá khứ, tôi cương quyết
chủ trương kẻ đã tu hành phải tuyệt sở hữu và lúc nào cũng phải tự mình kiểm thảo
hàng giờ, hàng phút vì sai một ly là đi một dặm.
Mọi người ngồi yên tưởng tượng ra cảnh một đạo sĩ trẻ tuổi
trước sự cám dỗ của thành công vật chất. Giáo sư Mortimer lên tiếng:
- Theo ông thì ngoài vấn đề vật chất, người tu còn gặp những
khó khăn gì nữa? Từ bỏ vật chất có đem lại giải thoát không?
- Bất cứ một sự cởi bỏ nào cũng làm nhẹ gánh, vật chất là một
nô bộc tốt nhưng là một chủ nhân rất xấu. Nhiều người tu vô tình quá chú trọng
đến tiền bạc mà quên rằng đồng tiền có hai mặt. Nhiều người cho rằng sử dụng vật
chất là để phát huy tôn giáo, giúp đỡ các tín đồ có nơi tu học. Dĩ nhiên ,mục
đích rất tốt đẹp, nhưng nếu quá chú trọng vào hình thức sẽ đưa đến sự xao lãng
vấn đề tinh thần. Một tu sĩ cần phải ý thức rằng mình vẫn là kẻ đang đi trên đường,
đang cố gắng tìm kiếm chân lý hầu được giải thoát, chứ chưa đi trọn con đường,
thì đừng đòi làm những việc to lớn. Họ chỉ nên làm việc một cách nhiệt thành
nhưng không nên làm nô lệ cho những công việc này. Một trở ngại lớn trên đường
đạo là sự thiếu nhiệt thành, đa số chúng ta đều quen buông lung, do dự, không đủ
cương quyết nên sẽ phải trải qua những kinh nghiệm chua cay, khổ sở để học hỏi
các bài học quý giá này. Tất cả chúng ta vẫn đồng ý rằng cuộc đời là ảo mộng,
phù du, vô thường, gỉa tạo chỉ có con đường tu hành mới là giải thoát thế nhưng
tại sao chúng ta vẫn chạy theo vật chất, chả chịu tu tâm dưỡng tánh?
Giáo sư Mortimer phản đối:
- Người tu hành và kẻ thường khác nhau nhiều, chúng tôi còn
phải lo sinh kế, kiếm ăn…
Ram Gopal mỉm cười:
- Một ngày có 24 giờ, có lý nào vì sinh kế mà các ông phải
dành trọn để lo việc kiếm ăn. Tại đạo viện này, mọi người chỉ bỏ ra một giờ để
trồng trọt các thực phẩm thì vẫn đủ kia mà. Ta dư ăn thì lại muốn ăn ngon, đủ sống
thì lại muốn sống cho sang giàu, được giàu sang lại muốn giàu hơn nữa. Rồi ta lại
nguỵ biện rằng phải lo kiếm ăn, sinh kế có phải thế không? Người Âu Mỹ hoạt động
không ngừng, coi sự làm việc là nguồn vui, do đó mới sinh lắm bệnh tật, phiền
não, thần kinh suy nhược, vì nhu cầu tâm linh không thỏa mãn. Tại sao ta không
hoạt động như thế cho nhu cầu tâm linh?
- Người Âu không thể chấp nhận vấn đề làm việc cho một cái gì
mơ hồ, cho một viễn ảnh tâm linh không thực tế.
Ram Gopal lắc đầu :
- Khi nào đời sống vật chất trở nên cực kỳ phức tạp, phiền
não thì con người sẽ ý thức đến vấn đề tâm linh. Đã có nhiều vị tiểu vương, triệu
phú từ bỏ tất cả tài sản để vào đây tu hành khi mạng sống của họ bị đe doa. bởi
bệnh tật, vì họ biết không thể ôm lấy tài sản rồi chết. Sau khi từ bỏ tất cả, đầu
óc thoải mái thanh thản, họ lại thấy việc trau dồi tâm linh là quý, thế là họ
phát nguyện tu hành, sống một cuộc đời trong sạch, ung dung, tự tại. Nếu chỉ là
miếng ăn thì chỉ cần làm việc khoảng một giờ là đủ rồi, nhưng vì không biết an
phận nên mới có các trói buộc vào vật chất, không lối thoát. Các ông cho rằng
tu hành chỉ cần ăn mặc đẹp đẽ, đi đến các đền thờ dâng cúng phẩm vật, tiền bạc,
đọc vài câu kinh là đã đủ hay sao? Những cái đó chỉ là hình tướng bên ngoài,
không có nghĩa chi hết. Ngay cả việc trở nên môt tu sĩ mà không chịu tu thân,
trau dồi tâm linh cũng vô ích thôi vì các phiền muộn đau khổ vẫn còn kia mà.
- Như thế thì thế nào mới là tu hành thật sự?
- Bước vào con đường đạo là tự sửa mình, thấy gì ác không
làm, thấy gì thiện thì nhất định làm cho đến cùng. Luôn luôn tự giác, kiểm thảo
lấy mình và quan sát, học hỏi không ngừng. Nếu các ông buôn bán, thấy có lợi
các ông có dồn sức ra buôn bán nữa không? Dĩ nhiên là có, thì việc tu hành
cũng thế, tại sao ta không lo cho nhu cầu tinh thần như ta đã lo cho vật chất?
Tại sao ta lại cứ hứa hẹn nay mai sẽ sửa tánh, tu thần như người khất nợ vậy?
Tu hành không phải việc chơi mà làm một cách cẩu thả. Đó là một quyết định quan
trọng vô cùng. Đừng nghĩ bộ áo có thể làm nên nhà tu, đừng nghĩ mình sẽ được một
đấng nào giúp đỡ, đó là một sự hiểu lầm tai hại. Đa số các tín đồ đều mong chờ
sự gíup đỡ của đấng mình tôn thờ. Họ cho rằng thuộc lòng các câu kinh, thi hành
vài nghi lễ, dâng cúng các phẩm vật là đã làm tròn bổn phận và sẽ được cứu rỗi.
Nếu điều này đúng thì các bậc vua chúa đã lên thiên đàng hết cả vì họ dâng cúng
nhiều hơn mọi người kia mà. Tu hành đòi hỏi sự tận tâm, tận lực cải thiện con
người của mình để xứng đáng là con của thượng đế, chứ không phải dựa vào vài
hình thức bên ngoài. Đa số tín đồ coi việc tu như đi xe buýt, muốn đến đâu chỉ
việc mua vé rồi leo lên xe ngồi, ngắm cảnh vật hai bên đường, ung dung cho tài
xế lái, khi đến nơi, là họ xuống xe không chút mệt nhọc gì hết. Tu hành chân
chính là tự mình cất bước. Thiên đàng không phải nơi mà ta có thể mua vé đến,
cũng không thể mong dâng cúng vài thứ mà được các vị thần linh che chở. Giải
thoát chỉ đến với sự tinh tấn riêng của từng người. Khi hiểu như thế ta cần lập
tức lên đường không chậm trễ. Hãy lấy niềm tin làm bạn đồng hành, tận dụng các
cơ hội sẵn có để sửa mình hầu giải thoát cho chính mình. Con đường tu có trăm nẻo
đi, không nẻo nào giống nẻo nào nhưng tất cả đều đưa đến mục đích. Sự chọn lựa
con đường hoàn toàn do cá nhân nhưng họ cần suy gẫm cẩn thận để khỏi lầm đường,
lạc nẻo. Tu hành chân chính dựa trên căn bản “tự biết mình”, vì trên đường đạo
không có vấn đề vinh hay nhục, mà chỉ có sự tiến bộ. Do đó, người tu phải dẹp bỏ
tự ái, ngã mạn, mặc cảm, không hổ thẹn, ngã lòng để tinh tấn tiến bước. Nếu sa
ngã lại đứng dậy và tiếp tục, lúc nào cũng định hướng không để cho lầm đường lạc
lối. Những kẻ tự cao, tự đại không chịu tu thân sửa mình, thật đáng thương vì họ
giống như người bệnh sắp chết, mà không chịu uống thuốc xả ly, dứt bỏ cho khỏi
bệnh.
Ram Gopal ngừng nói, chiều xuống đã lâu chỉ còn vài tia nắng
vương vấn trên thân thể cực kỳ lực lưỡng của vị đạo sĩ xứ Ấn. Phái đoàn yên lặng
bái phục sự giải thích chân lý thật giản dị, khiêm tốn của người mà dân chúng
coi là “vị đạo sĩ có thể chữa mọi thứ bệnh”.
Chương 8
Cuộc gặp gỡ những đạo sư đại diện cho nền minh triết cổ truyền
xứ Ấn, đã làm cho phái đoàn phấn khởi, nhưng còn các bậc Chân Sư (Rishi), những
vị này như thế nào? Tại sao một vị chân sư bí mật gửi thông điệp cho các đạo
sư yêu cầu giúp đỡ phái đoàn? Đây là một dấu hỏi lớn mà mọi người hết sức thắc
mắc. Liệu chúng tôi có thể gặp các bậc chân sư không? Những vị này ở đâu?
Giáo sư Mortimer đã hỏi giáo Kavir, và ông này cho biết có quen một đạo sĩ tu
hành tên Akila Bakhtir vốn thường qua lại nhiều trong dãy Tuyết Sơn và có kiến
thức rộng về những hiền triết ẩn tu nơi đây. Phái đoàn bèn tìm đến đạo sĩ này,
đó là một ông lão gầy như hạc, vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười.
Giáo sư Mortimer nôn nóng:
- Theo lời truyền tụng thì ông đã có dịp tiếp xúc với các đạo
sĩ Tuyết Sơn?
Đạo sĩ xác nhận:
- Đúng thế, tôi đã có dịp gặp gỡ các bậc thánh nhân đó.
- Ông tin rằng họ là những thánh nhân?
- Dĩ nhiên, không những tôi tin mà còn biết rõ họ là những bậc
hiền giả.
- Dựa vào tiêu chuẩn nào mà ông quả quyết như vậy? Họ có biểu
diễn quyền năng hay làm gì khác người không? Liệu có thể có những bậc siêu
nhân như vậy không?
Đạo sĩ gật đầu:
- Sự có mặt trên thế gian của những bậc thánh nhân là điều hợp
lý, nếu ta tin các luật: Luân hồi, Quả báo, Tiến hoá và Nhân quả. Nếu quan sát, ta sẽ thấy con người đều có các trình độ khác nhau. Có người kém ta rất xa,
có người lại hơn ta rõ rệt. Nếu nhân loại tuần tự tiến hoá thì trải qua nhiều
kiếp sống, và thời gian, tất phải có những người đã tiến bộ rất xa chứ. Theo
tôi biết, đã có những người tiến xa hơn hàng ngũ nhân loại hiện nay, đã khai mở
một vài giác quan thượng đẳng, quyền năng siêu việt mà ta gọi là bậc Thánh
Nhân. Sự thực, các quyền năng này đều tiềm tàng trong mọi người chúng ta, chờ đợi
cơ hội khai mở. Khi khai mở các quyền năng này, ta sẽ thấy rõ các nấc thang tiến
hoá của nhân loại và nhận định rằng ở mỗi nấc thang đều đã có kẻ đạt đến. Lịch
sử các quốc gia đều chứa đựng công trình vĩ đại của các bậc vĩ nhân trên mọi
lãnh vực hoạt động. Những người này, trong phạm vi riêng biệt của họ đã vượt xa
quần chúng và tầm hiểu biết của những người đương thời. Thí dụ như các bác học,
các nhà tư tưởng lớn. Sự tiến hoá chẳng qua chỉ là biểu lộ của sự sống thiêng
liêng, con người càng ngày càng trở nên tốt đẹp, tế nhị vì sự sống vô cùng cần
được biểu lộ qua hình thể đó. Một bậc toàn thiện là việc tự nhiên, hợp lý do sự
kết tinh đến mức tuyệt đỉnh của một con đường tiến hóa dài và liên tục. Tất cả
kinh điển mọi tôn giáo đều chứng minh sự hiện diện của các bậc siêu nhân. Mọi
tôn giáo khi thành lập đều có các bậc thánh nhân xuất hiện. Người Ấn có các thần
linh như: Brahman, Vishnu, Shiva hoặc các đấng cao cả như Krishna,
Sancharacharya. Tín đồ Phật giáo thì có đức Thích Ca, đức Quan Thế Âm. Tín đồ
Thiên chúa giáo thì có đấng Jesus, các nhà tiên tri, các bậc thánh; các bộ lạc
man dã cũng có các thần linh riêng của họ.
- Xin ông giải thích rõ hơn về sự tiến hoá này?
- Luật tiến hoá vũ trụ định rằng mọi vật đêu thay đổi theo thời
gian để tiến trên những con đường định sẵn. Dĩ nhiên, đi nhanh hay chậm còn tùy
cá nhân và hoàn cảnh chung quanh. Loài thảo mộc là kết tinh của loài kim thạch,
loài cầm thú sau thảo mộc, và loài người tiếp theo loài cầm thú. Cũng như thế,
loài người có một cứu cánh nhất định, một giới hạn mà khi họ vượt qua thì họ sẽ
bước vào một giai đoạn mới. Nói một cách khác, trên loài người là đời sống Siêu
Nhân Loại. Trong mỗi con người có ba phần chính: xác thân, linh hồn, và tinh
thần. Tinh thần là điểm linh quang tiềm tàng trong mọi con người mà ta gọi bằng
nhiều danh từ khác nhau như Phật tính, Chân Ngã, Thần tính, v.v...
- Bằng chứng vào đâu mà ông đưa ra thuyết này?
- Đây không phải là một giả thuyết, trong sự tu luyện, tôi ý
thức được điều này. Các tôn giáo lớn cũng nói như thế. Đức Phật đã nói, “Mọi
chúng sinh đều có Phật tính.”. Thánh Paul định nghĩa con người gồm ba phần:
xác, hồn, thần… Sự tiến hóa là sự trở về với thượng đế, trở về với con người thật
của mình, phát triển Phật tính của mình trọn vẹn, để giác ngộ. Danh từ tuy khác
nhưng nội dung đều giống nhau, tôi cố gắng giải thích theo quan niệm mà người
Âu có thể hiểu được, sự hợp nhất với thượng đế nghĩa là trở về với ngài vì
chúng ta đều là một phần của ngài. Theo sự hiểu biết của tôi về luật tiến hóa,
thì với con người, thể xác họ đã phát triển khá hoàn hảo, nhưng đa số vẫn chưa
chủ trị được xác thân. Một người tiến cao là người đã chủ trị được xác thân, đặt
nó dưới sự kiểm soát của lý trí và linh hồn. Một người kém tiến hóa là người
còn nhiều thú tánh, chỉ lo nghĩ đến các đòi hỏi của thể xác như ăn uống, ngủ
nghê, dục tính. Chính vì thế, họ sẽ gặp nhiều đau khổ để học lấy sự chủ trị xác
thân. Thế gian là một trường học mà trong đó, có yếu tố đau khổ. Sau khi chủ trị
được xác thân, là việc kiềm chế thể vía. Thể vía hay tư tưỏong là điều rất khó
kiểm soát, chinh phục. Ta thấy nhiều người tuy đã kiểm soát hành động của xác
thân, nhưng vẫn còn để tư tưởng chạy lung tung như ngựa bất kham, không theo một
đường hướng nào nhất định. Sự định trí, bắt tư tưỏong phải theo một đường lối
suy nghĩ sẽ đưa ta đến sự kiểm soát thể vía. Sau đó là sự kiểm soát thể trí,
nghĩa là sử dụng trí tuệ để suy nghĩ, phân biệt, phá tan các tà kiến, các màng
che phủ của vô minh. Định trí suy nghĩ là một việc, nhưng suy nghĩ chân chính,
đứng đắn lại là một việc khác. Chỉ khi nào cả ba thể: xác, hồn, trí hoàn toàn
được kiểm soát thì ta sẽ hòa hợp với Chân Ngã. Từ đó, phàm nhân và Chân nhân
hòa hợp làm một, con người sẽ tiến hóa đến một giai đoạn mới, trở nên một bậc
chân tiên. Khi đó, con người bước vào một đời sống trường cửu của tinh thần, đời
sống của đấng “Christ”. Đó là một đời sống huy hoàng, tốt đẹp, vượt ngoài tầm
hiểu biết của chúng ta, và không thể diễn tả bằng ngôn ngữ.
- Ông tin rằng tất cả đều tiến tới đời sống đó?
- Dĩ nhiên, tiến hoá là một định luật vũ trụ và rồi ai cũng sẽ
phải đi trọn con đường đó. Ta có thể làm ác, ích kỷ, đi ngược dòng tiến hóa,
nhưng làm thế ta chỉ làm chậm trễ sự tiến bộ của mình, nhưng không thể chận đứng
được dòng tiến hoá của nhân loại. Vấn đề đặt ra là thời gian, con người có thể
đi đến mục đích trong thời gian ngắn nhất hoặc dài nhất. Thí dụ như ta có thể
bơi xuôi dòng, ngược dòng hay chơi vơi ở một chỗ, nhưng dòng nước vẫn chảy và
dù muốn hay không trước sau gì ta cũng trôi từ nguồn đến biển cả. Sống thuận
theo thiên ý là bơi xuôi dòng, nghịch thiên ý là ngược dòng. Đa số con người
thường chơi vơi, không nhất quyết, lúc chìm đắm, khi nổi trôi, có lúc ngược
dòng, có khi lại xuôi dòng vì chưa ý thức sáng suốt để nhận định con đường phải
theo.
- Nhưng làm sao biết đường nào là đường phải theo?
- Chính vì con người bơ vơ, lạc lối nên mới có các bậc Thánh
nhân chỉ bảo hướng dẫn. Sự hiện diện của các bậc như đức Phật, Chúa, Krishna… và
các vị giáo chủ khác là để hướng dẫn cho nhân loại. Tiếc thay, con người chỉ
thích ai nói thuận ý mình, đúng với điều mình mong ước, chứ không thích những
điều “đúng sự thật”, không thích bị đánh thức…
- Làm sao mình có thể biết được đâu là “đúng sự thật”?
- Con người có trí khôn, có óc phân biệt để làm gì? Tại sao
không chịu sử dụng chúng để lựa chọn một con đường tốt đẹp?
- Ông muốn nói đến con đường đạo? Làm sao ta có thể bước vào
cửa đạo?
Đạo sĩ vuốt bộ râu mỉm cười:
- Có bốn nhân duyên đưa ta đến cửa đạo. Nhân duyên thứ nhất
là gần gủi, tiếp xúc, thân cận với những bậc thiện tri thức, những người đang
đi trên đường đạo. Thí dụ như trong một tiền kiếp ta có dịp tiếp xúc với một vị
đạo sư, giám mục, một người bề trên có kinh nghiệm tâm linh sâu xạ Chúng ta hết
sức khâm phục và thiết tha mong rằng ta sẽ có các kinh nghiệm như vậy. Một hoài
bão như thế chắc chắn sẽ giúp ta gặp đạo trong kiếp sụ Nhân duyên thứ hai là
nghiên cứu sách vở, nghe giảng giải về đạo lý. Càng ham nghiên cứu ta càng muốn
tìm hiểu và đi sâu vào đạo nhiều hơn, và dĩ nhiên khi hiểu biết, ta sẽ thay đổi
đời sống để cho nó có ý nghĩa hơn và đó là bước chân vào đường đạo. Nhân duyên
thứ ba là sự mở mang trí tuệ, vì một lý do nào đó, ta nhận thức những việc xảy
ra rồi phân vân, đặt câu hỏi tại sao nó lại xảy ra như vậy? Từ sự hoài nghi ta
suy gẫm, quan sát, học hỏi bằng sức mạnh của tư tưởng và có thể khám phá ra
chìa khoá mầu nhiệm, các nguyên tắc đạo lý. Đây là con đường tu Thiền Định mà
các ông đã nghe nói đến. Nhân duyên thứ tư là sự trau dồi hạnh kiểm, tu thân,
làm các việc thiện, mở rộng lòng bác ái, quên mình để giúp đỡ mọi người và dần
dần ánh sáng tâm linh sẽ soi sáng hồn ta.
- Xin ông cho biết thêm về các bậc siêu nhân mà ông đã từng
tiếp xúc.
Bakhir mỉm cười, vuốt nhẹ chùm râu bạc:
- Tôi đã gặp nhiều đạo sư có quyền năng siêu việt, có vị đã sống
nhiều thế kỷ và đạt quả vị rất cao. Điều đặc biệt là các ngài xét mọi sự vật với
một quan niệm khác hẳn chúng ta vì trong tư tưởng các ngài không còn một chút
ích kỷ như đa số chúng tạ Các ngài đã loại trừ bản ngã thấp hèn, không còn sống
cho mình mà cho tất cả. Ngoài đặc tính đó, các ngài còn phát triển hoàn toàn về
mọi phương diện. Đa số chúng ta đều bất toàn, không mấy ai đạt đến trình độ cao
tột. Ngay cả các nhà thông thái, bác học cũng chỉ đạt đến trình độ cao tột trên
một phương diện nào đó thôi, và còn nhiều khía cạnh khác chưa được hoàn hảo.
Chúng ta đều có mầm mống của mọi đặc tính, nhưng chỉ một vài phần thức động và
phát triển không đồng đều. Các bậc siêu nhân là người đã phát triển toàn vẹn mọi
đặc tính trên phương diện ngoài tầm hiểu biết của chúng tạ Phần lớn các vị siêu
nhân đều có hình dáng bề ngoài tốt đẹp. Xác thân các ngài đều hoàn toàn về mọi
phương diện và ít chịu ảnh hưởng của thời gian, có vị đã sống nhiều thế kỷ mà
trông vẫn khoẻ mạnh như một người ngũ tuần. Tôi đã gặp một vị đạo sư sống hơn
2000 năm nay, ngài cai quản một viện cổ tàng trong lòng núi. Viện cổ tàng này
chứa đựng rất nhiều tài liệu dồi dào, phong phú dường như để ghi lại dấu tích
toàn thể lịch sử tiến hoá của nhân loại. Trong đó có chứa đựng các hình thể của
nhiều giống người đã sống trên mặt địa cầu, từ giống dân Lemurian đến các loài
người khổng lồ từ thời xa xưa. Có các mô hình diễn tả sự biến đổi của lớp vỏ địa
cầu sau các thiên tai, cũng như sự di chuyển của các giống dân trên các lục địa.
Có các bản thảo bút tự rất cổ của các bậc đạo sư, giáo chủ, như có một bản viết
của chính đức Phật khi ngài còn là thái tử Siđharta. Có các ngăn tủ bằng gỗ lim
kiên cố chứa các tài liệu giáo lý nhiệm mầu, có thứ viết bằng các văn tự lạ
lùng của những nền văn minh đã biến mất từ lâu. Ngoài ra còn có các bản đồ, mô
hình các thành phố cổ xưa của quá khứ cũng như các di tích động vật rất cổ
xưa…
Giáo sư Mortimer lên tiếng:
- Ông có nhớ chỗ đó không? Làm sao có thể đến nơi đó được?
Đạo sĩ nghiêm nghị:
- Dãy Hy Mã Lạp Sơn không phải nơi ai muốn đi, muốn đến dễ
dàng được vì nó chứa đựng nhiều bí mật huyền bí và có các tinh linh canh giữ,
phải có một nhân duyên lớn mới có thể đến các thánh địa đó được.
- Nhưng tại sao các bậc siêu nhân lại cứ ẩn lánh, không ra mặt
giúp đỡ nhân loại, không công bố các tài liệu mầu nhiệm đó cho mọi người? Cất
dấu như thế có lợi gì đâu?
- Các ngài lúc nào cũng giúp đỡ nhân loại bằng cách ban rải
các luồng thần lực xuống trần gian để muôn loài có thể hưởng thụ chả khác nào
ánh sáng mặt trời đối với cây cỏ. Sự giúp đỡ của các ngài hết sức rộng lớn,
ngoài sự tưởng tượng và tầm hiểu biết của con người. Việc công bố hay cất dấu
các tài liệu đều có lý do mà ta không thể nghĩ bàn được…
- Theo thuyết tiến hoá ông vừa trình bày, thì trên con người
còn có một đời sống siêu nhân, và như thế hẳn còn các bậc cao cấp nữa?
Bakhir bật cười một hồi rồi mới trả lời:
- Các ông vẫn còn quan niệm cấp bậc, hơn kém, chức tước… Một
khi đã giải thoát khỏi luân hồi, sinh tử trở nên một bậc chân tiên (Asekha) thì
thánh đạo chia ra làm bảy con đưòong cho các ngài chọn lựa. Dĩ nhiên, sự hiểu
biết của tôi còn nông cạn và thiếu sót nên tôi chỉ cóthể cắt nghĩa một cách sơ
lược. Các ngài có thể bước vào những cảnh giới vượt xa tầm hiểu biết của chúng
ta, các cảnh giới này có tên gọi như: Niết bàn, thượng thiên, phi tưởng phi
phi tưởng xứ… Sau khi bước vào các cõi này, một ngày nào đó các ngài sẽ chuyển
kiếp xuống trần trong bầu thế giới tương lai như một bậc giáo chủ. Đây là con
đường Dharmakaya. Các ngài có thể bước vào trạng thái tâm linh với một ý nghĩa
huyền bí mà tôi không biết rõ, đây là con đường Sambhogakya. Các ngài có thể
hoà hợp với kho thần lực vũ trụ để làm các công việc hợp với định luật vũ trụ,
đây là con đường Nirmanakya. Các ngài có thể ở lại thế gian, giúp đỡ nhân loại,
dưới hình thức một vị Bồ tát đây là con đường Bồ Tát Đạo (Boshivartakya). Ngòai
những con đường khác ra sao tôi không được biết rõ. Theo sự hiểu biết của tôi
thì số người giải thoát đã ít mà số người ở lại để giúp đỡ thế gian còn ít hơn.
Hiện nay, tất cả đang chuẩn bị cho một vận hội mới, đó là sự lâm phàm của một đức
chưởng giáo tương lai mà danh từ chính xác nhất gọi là Di Lặc Bồ Tát.
Bakhir im lặng một hồi rồi tuyên bố:
- Một ngày nào đó các ông sẽ hiểu biết rõ hơn điều tôi muốn
nói. Thật ra các điều này đã được tiên đoán từ lâu và lưu trữ trong một viện cổ
tàng ngầm dưới lòng núi xứ Tây Tạng. Các tài liệu này được các đức Lạt Ma giữ
gìn rất cẩn thận.
- Làm sao chúng tôi có thể xem các tài liệu vô giá đó. Xứ Tây
Tạng vẫn còn chính sách bế môn tỏa cảng, không giao tiếp với bên ngoài, nhất
là với người da trắng.
Bakhir mỉm cười bí mật:
- Này các ông bạn, tôi chỉ có thể nói như thế này thôi. Sự hiện
diện của các ông tại xứ Ấn độ không phải một việc ngẫu nhiên. Các ông tốn suốt
mấy năm đi sưu tầm chân lý mà có thấy gì đâu, có đúng không? Đó chẳng qua chỉ
là một thử thách mà thôi. Các ông không thấy chỉ một thời gian ngắn mà các ông
đã tiếp xúc với các đạo sư minh triết nổi tiếng nhất Ấn độ và được tiết lộ những
điều chưa từng công bố cho một người Âu nào? Nếu không có thông điệp của một vị
Chân Sư thì làm sao các ông gặp được những người mà ngay cả tín đồ thùân hành
nhất xứ Ấn cũng không dễ gì gặp được. Trong một xã hội đầy dị đoan, mê tín,
hình bóng chân lý gần như phai mờ, người dân xứ này muốn còn phải mất công, thế
mà các ông được chỉ dẫn những điều vô giá một cách dễ dàng. Có bao giờ các ông
tự hỏi tại sao không? Một người Âu chả bao giờ chịu ngồi chung chiếu với người
Ấn, vì hệ thống dị biệt, nhưng các ông đã gác bỏ thành kiến đó, dẹp bỏ tự hào
dân tộc để ngồi cạnh những đạo sư rách rưới, đó là một cố gắng không nhỏ. Các
ông đã vạch qua rừng người mê tín, các đạo sĩ giả mạo, bịp bợm, các tu sĩ không
chân chính để tìm gặp những người đáng gặp gỡ và chăm chú nghe dạy bảo. Đó
không phải là việc dễ dàng, có thể các ông không biết, nhưng các ông đã vượt
qua những thử thách phi thường. Tây tạng không bao giờ đón nhận một du khách
bên ngoài, nhưng với các ông sẽ là một ngoại lệ, vì các ông được che chở bởi một
vị chân sự Các ông sẽ lãnh một sứ mạng lớn là kêu gọi thế giới bên ngoài hãy
quay về phương đông, với quê hương tinh thần của họ. Quay về không phải để tìm
kiếm một chân lý mới, một tôn giáo mới hay một kiến thức gì mới lạ. Nhưng để hiểu
biết rằng chân lý luôn luôn ẩn tàng khắp nơi, tôn giáo chỉ là những con đưòong
khác nhau đưa đến chân lý.
Toàn thể phái đoàn yên lặng nhìn nhau, quả thế chỉ một thời
gian ngắn họ đã gặp biết bao đạo sư, được chỉ dạy những chân lý quý báu. Đó
không phải một may mắn tình cờ mà như có sự sắp đặt trước.
- Ông biết ràng có một vị chân sư muốn giúp đỡ chúng tôi?
- Đúng thế! Tôi biết rõ chuyện này nên các ông mới có thể gặp
tôi hôm naỵ Tôi biết các ông đang khao khát sự hiểu biết, thật ra một số trong
các ông đã từng học đạo từ tiền kiếp, nay trở lại Ấn độ dưới bộ da người ngoại
quốc. Tuy nhiên, các ông không nhớ những điều đã học. Nhưng khi nhân duyên đến,
các ông sẽ phục hồi ký ức. Định mạng đã dẫn dắt các ông trở lại Á châu để hoàn
tất một sứ mạng cao cả…
Toàn thể mọi người ngạc nhiên và xúc động vô cùng. Lòng ao ước
gặp vị chân sư bí mật gia tăng. Giáo sư Mortimer cố gắng thốt lên vài câu :
- Nhưng đến bao giờ chúng tôi mới có thể gặp ngài?
- Thời gian không còn lâu nữa, đến khi đó các ông sẽ biết.
Tôi chỉ có thể nói đến đây thôi.
Phái đoàn im lặng hồi lâu, sau cùng giáo sư Wentz lên tiếng:
- Chúng tôi nghe nói ông biết thuật khinh công?
Đạo sĩ bật cười:
- Điều này đâu có gì lạ. Chỉ là một phương tiện di chuyển tầm
thường, nhỏ mọn mà thôi.
- Nhưng điều này phản khoa học, làm sao có thể chứng minh được?
Bakhir mỉm cười gõ nhẹ lên chiếc gậy trúc, bất ngờ thân hình
ông ta nhấc bổng lên không trung như có một sợi dây vô hình kéo lên. Ông ta vẫn
ngồi yên trong tư thế liên hoa không cử động. Toàn thể mọi người sửng sốt, tuy
họ đã chứng kiến nhiều phép lạ nhưng sự kiện bay bổng lên không trung là một điều
lạ lùng, ngoài sự tưởng tượng. Đạo sĩ bỗng xoay mình, thân thể ông bỗng như một
cơn lốc bay vọt ra xa với một tốc độ rất nhanh, chỉ trong chớp mắt ông đã xa
cách phái đoàn đến mấy chục thước.
Đạo sĩ nói vọng lại:
- Này các ông, tại sao con người lại phải bò lết trên mặt đất?
Nếu loài người có quyền năng hơn loài thú thì y phải bay cao hơn chim, lội
nhanh hơn cá chứ? Tại sao y không làm được như vậy? Phải chăng đó là quan niệm
duy vật về bản chất của mình? Tư tưởng y chỉ nghĩ rằng mình chỉ có thể đi được
mà thôi. Tùy cảm nghĩ mà con người bị giới hạn hay không giới hạn, tự do hay nô
lệ. Nếu biết rõ mình và phát triển khả năng của mình một cách đứng đắn, họ có
thể làm hầu như mọi chuyện.
Đạo sĩ lao mình vùn vụt trên con đường đất ngoằn ngoèo, chỉ mấy
phút ông đã mất hút chỉ để lại phía sau một đám bụi mờ. Tất cả mọi người xúc động,
không ai nói nên lời, giáo sư Mortimer cầm máy ảnh nhưng không sao chụp được.
Chương 9
Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cõi vô hình.
Khác với những đạo sĩ phái đoàn đã gặp, ông này không phải người Ấn mà là một
người Ai cập. Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi.
Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng
lòng tiếp phái đoàn trong một thời gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy gò,
khắc khổ và một thân hình mảnh khảnh. Ông ta khoác áo choàng rộng và quấn khăn
theo kiểu Ai cập.
Giáo sư Evans-Wentz vào đề:
- Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng
huyền bí…
Pháp sư thản nhiên:
- Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cõi vô hình.
- Như thế ông tin rằng có ma…
Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết:
- Đó là một sự thật không những ma quỷ hiện hữu mà chúng còn
là đối tượng nghiên cứu của tôi.
- Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật?
- Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con
người thường sợ hãi cái gì mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông
thường nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ đó họ
thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp
nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ
hãi. Các ông đòi hỏi một chứng minh cụ thể chăng?
- Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên…
- Được lắm, các ông hãy nhìn đây.
Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len
và mang ra góc phòng để xuống đất. Ông ta thong thả:
- Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy.
Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói gì, giáo sư
Mortimer nóng nảy :
- Nếu ông nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về
quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao?
Vị pháp sư nghiêm giọng:
- Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn
chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải
chỉ có một cõi này.
- Khi chết ta bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy cảnh
khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là
“dĩ thái”. Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo
vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với
một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi. Khi vừa chết,
thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng
trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau
vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên
ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh
giới tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này. Sau khi ở đây một
thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan rã giống như con người trút bỏ
áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với
một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã
hết thì con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn. Điều này cũng giống
như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao
thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào, thì nó
sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ bảy có rung động
nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân,
người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xã hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, còn đầy thú
tánh. Vì ở cõi âm, không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng
nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người,
nửa thú. Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ
sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong linh này luôn
oán hận, ham muốn, thù hằng và thường tìm cách trở về cõi trần. Tùy theo dục vọng
riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cõi trần không
nhìn thấy chúng được. Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu
quán, các nơi mổ sẻ thú vật để tìm những rung động theo những khoái lạc vật chất
tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài
mà tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này.
Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thỏa mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cõi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thỏa mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cõi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Toàn thể phái đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai cập đã diễn
tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn vông.
Dù sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó
là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu chăng?
Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người:
- Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lý học tốt
nghiệp đại học Oxford…
Giáo sư Harding giật mình kêu lên:
- Oxford ư? Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao?
- Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai cập đầu
tiên tốt nghiệp về ngành này.
(Ghi chú của giáo sư Spalding: Phái đoàn đã phối kiểm chi tiết
này và hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là Hamud
El Sarim nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật lý).
- Nhưng làm sao ông biết rõ được cõi giới này? Ông đã đọc
sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu?
- Tôi đã khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành
trong nhiều năm. Ngay khi còn là sinh viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình
(metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một
lúc thì khoa học phải bó taỵ Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học.
Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các vị đạo
sư uyên b ác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt
tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về
cõi âm, tôi đã học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10
năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt. Từ đó, tôi tha hồ nghiên
cứu cõi âm vì tôi có thể sang tận đây học hỏi và cõi này trở nên quen thuộc,
tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu hình, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều.
Giáo sư Evans- Wentz ngập ngừng:
- Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma?
- Dĩ nhiên, vì tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cõi này,
nên tôi có rất đông bạn bè, phần lón là vong linh người quá cố nhưng cũng có một
vài sinh vật có đường tiến hóa riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người
và có loại không thông minh hơn loài vật là bao…
- Giao thiệp với chúng có lợi ích gì không?
- Các ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với
những luật thiên nhiên khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến
thức rõ ràng…
- Như thế có nguy hiểm không?
- Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn… Một
số thầy phù thủy, thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc
thư phù, nguyền rủa….
- Ông có thể làm như vậy không?
Vị pháp sư nghiêm mặt:
- Tất cả những việc gì có tính cách phản thiên nhiên, ngược
luật tạo hoá đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều
tối kỵ của ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh
này, vì chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng
chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một
thầy pháp hạ cấp hay một phù thuỷ chữa bệnh.
- Xin ông nói rõ hơn về những cảnh giới cõi âm.
- Các ông nên biết dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài
các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể: thể lỏng, thể đặc và thể
hơi, thì bên cõi này cũng có những thể tương tự. Luật thiên nhiên cho thấyvật nặng
sẽ chìm xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình cũng thế. Nguyên tử
cõi âm rung động với một nhịp độ khác với cõi trần, các nguyên tử rung động thật
nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tùy theo nhịp độ
rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy
cõi giới. Các nguyên tử rung động chậm chạp phải chìm xuống dưới vì nếu ta mang
nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngay. Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước
nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế,
có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt
biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới
đáy cũng không thể lên sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác nhau. Cảnh giới
thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với các vong linh hình dáng ghê rợn,
nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây đã là khổ
sở lắm rồi, các ông hãy tưởng tượng bị dục vọng hành hạ mà không thể thỏa mãn
thì còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không so thỏa mãn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống. Do đó, theo thời gian y
sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra thì
y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu. Cõi giới thứ sáu, có sự rung động rất giống
như cõi trần, tại đây các vong linh ít còn thèm muốn vật chất như ăn uống, dục
tình, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thỏa mãn bản ngã, ích
kỷ, ghen tuông, hờn giận, v.v… Đa số có hình dáng giống như người cõi trần,
nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử gần giống như cõi trần nên
họ hay trở về cõi này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để
chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyên vu vơ nhằm thỏa mãn tự ái, bản ngã cá nhân. Vì đa số
vong linh khi còn sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập
vào đồng cốt, họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các
rung động ham muốn, các cố chấp về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ
thăng lên cảnh giới thứ năm. Cõi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi trần
nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với
những âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đã bớt ham muốn
về cá nhân, nhưng còn ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những
kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ,
v.v… Đây cũng là cõi có những sinh hoạt của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là
những sinh vật vô hình có hình dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là
Thiên tinh (sylphs), Thổ địa (gnome), Phong tinh (elves), v.v… Một số bị thu phục
bởi các phù thủy, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cõi này còn có sự hiện
diện của những “hình tư tưởng”. Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng
phát sinh thì chúng sử dụng tinh chất cõi này tạo nên một hình tư tưởng thích hợp.
Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. Vì đa số tư tưởng
con người còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan rã ngaỵ Một người
tập trung tư tưởng có thể tạo ra một hình tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay
vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các hình tư tưởng sống đến cả năm
hay cả thế kỷ, không những thế hình tư tưởng này còn chịu sự sai khiến của ông
tạ Các phù thuỷ luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật
vô hình để sai khiến. Hình tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà còn từ
một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ý
nghĩ, họ sẽ tạo ra một hình tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. Hình tư tưởng
này sẽ tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với tình cảm,phong tục, thành kiến
của quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay “dân tộc
tính”. Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của hình tư tưởng
này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là tình cảm của dân tộc
đó, chứ không ảnh hưởng đến lý trí. Một người sống nhiều bằng lý trí sẽ ít chịu
ảnh hưởng như người bình thường. Điều này giải thích tại sao một dân tộc có tâm
hồn mơ mộng như thi sĩ khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế mặc dù trên
phương diện địa lý, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan
niệm về tôn giáo, phong tục, tập quán. Cảnh giới cõi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ
nhiên nguyên tử cõi này rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hóa,
thánh thiện, những nhà trí thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục vọng
khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này. Đa số đều ý thức ít nhiều, nên họ bắt đầu
cởi bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưỏong lẫn
nhau, và đôi khi kêt những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đình hay
quốc gia. Cõi giới thứ ba chói sáng, có những rung độgn nhẹ nhàng. Tại đâu có
những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí tuệ,
những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một cảnh giới của một
số thần linh (devas) như Cảmđục thiên thần (Kamadeva), Hữu sắc thiên thần
(Rupadeva), và Vô sắc thiên thần (Arupadeva). Các thần linh này có đời sống và
tiến hoá cao hơn trình độ của nhân loại. Cõi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng
những nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng.
Đây là cõi giới mà những người tiến hoá rất cao, rất tệ nhị không còn dục vọng,
ham muốn, lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, phát triển ccác đức tính
riêng trước khi siêu thoát len cảnh giới cao hơn.
- Như thế người chết thường lưu lại ở cõi Trung giới bao
nhiêu lâu?
- Thời gian lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con
người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây
hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ… Để siêu thoát, thể vía phải hoàn
toàn tan rã hết thì mới lên đến cõi Thượng thiên hay siêu thoát. Tóm lại danh từ
như thiên đàng hay địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cõi Trung
giới (Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể vía khi chết, mà ta thức tỉnh ở một
cảnh giới tương ứng.
Mọi người yên lặng nhìn nhau, những điều Hamud giải thích
hoàn toàn hợp lý và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào. Nhưng làm sao
chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm không thể nhìn thấy được? Dù sao
Hamud cũng là một Tiến sĩ Vật lý tốt nghiệp đại học nổi tiếng nhất Âu châu chứ
không phải một phù thủy vô học chốn hoang vu, ít nhiều ông ta cũng có một tinh
thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận một lý
thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu
Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học.
- Sự hiểu biết về cõi vô hình rất quan trọng, vì khi hiểu rõ
những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là
hình hài, xác thân chứ không phải sự sống, và hình hài có chết đi, thì sự sống
mới tiếp tục tiến hoá ở một thể khác tinh vi hơn. Đây là một vấn đề hết sức hợp
lý và khoa học cho ta thấy rõ sự công bình của vũ trụ. Khi còn sống, con người
có dục vọng này nọ, khi dục vọng được thỏa mãn, nó sẽ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời
các chất thô kệch, các rung động nặng nề sẽ bị thu hút vào thể vía. Sau khi chết,
dục vọng này trở nên mạnh mẽ vì không còn lý trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ
đốt cháy con người của tạ Sự nung đốt của dục vọng chẳng phải địa ngục là gì?
Giống như đức tính, phẩm hạnh khi còn trẻ, quyết định điều kiện sinh sống lúc
tuổi già, đời sống cõi trần quyết định đời sống bên kia cửa tử. Luật này hết sức
hợp lý và dễ chứng minh. Khi còn trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khỏe mạnh,
thì khi về già ta sẽ ít bệnh tật, khi còn trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề
nghiệp vững chắc thì khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không?
Những người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được đòi hỏi thể xác,
thì các dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết. Luật thiên nhiên định rằng
khi về già thể xác yếu dần, đau ốm, khiến cho ta bớt đi các ham muốn và nhờ thế,
dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể vía cũng thanh lọc bớt các chất nặng nề,
ô trượt để khi chết, sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng hơn. Trái lại những
người còn trẻ, lòng ham muốn còn mạnh mẽ, nếu chết bất đắc kỳ tử thường đau khổ
rất nhiều và phải lưu lại cõi Trung giới lâu hơn. Nếu hiểu biết như thế, ta cần
phải duyệt xét lại đời sống của mình ở cõi trần để khỏi lưu lại những cảnh giới
thấp thỏi, nặng nề bên cõi âm. Những người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các
quyến luyến, ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết
xả ly, dứt bỏ mọi phiền não để mau chóng siêu thoát. Một sự chuẩn bị Ở cõi trần
sẽ rút ngắn thời gian bên cõi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cõi giới cao
hơn.
- Nhưng còn các ma quỷ thì sao?
- Các ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể thế nào đó, khác
hẳn loài người. Thật ra phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới thứ
bảy, thứ sáu mà thôi. Chúng còn lưu luyến cõi trần, còn say mê dục vọng không
sao thoát ra khỏi cảnh giới này… Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại
cõi trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, khiến người cõi trần trong một
thoáng giây có thể nhìn thấy chúng… Khoan đã, các ông hãy xem kìa, người bạn của
tôi đã làm xong việc.
Hamud chỉ vào góc phòng nơi ông ta để bó len và cây kim đan
áo. Mọi người bước đến gần và thấy một chiếc áo len đan bằng tay đã thành hình
từ lúc nào không ai rõ. Chiếc áo đan tay rất vụng, không khéo léo nhưng trên ngực
có thêu tên giáo sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích:
- Con ma này rất nghịch, và thường quanh quẩn ở đây. Tôi yêu
cầu hắn đan chiếc áo len cho các ông để làm bằng chứng. Để tránh việc các ông
cho rằng tôi làm trò ảo thuật, tráo vào đó một chiếc áo len khá,c tôi yêu cầu hắn
thêu tên người nào trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông đều biết rằng
từ khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên các ông, và nếu chiếc áo này không đan riêng
cho các ông thì còn ai nữa?
Qủa thế, vị pháp sư gầy gò không thể mặc chiếc áo đan to tướng
, rất vừa vặn cho giáo sư Mortimer, một người Âu mà kích thước đã rất ư quá khổ,
so với những người Âu khác, đó là chưa kể vòng bụng khổng lồ, rất hiếm có của
ông này. Hơn nữa, áo này cũng không thể may sẵn để bán vì đường kim mũi chỉ rất
ư vụng về, nếu có bán, cũng chẳng ai muạ Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài vị
pháp sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ lùng.
Giáo sư Evans-Wentz thắc mắc:
- Như vậy ông có thể sai khiến ma quỷ hay sao?
- Tôi không phải là một phù thuỷ, lợi dụng quyền năng cho tư
lợi; mà chỉ là một người có rất nhiều bạn hữu vô hình bên cõi âm. Tôi hiểu rõ
các luật thiên nhiên như Luân hồi, Nhân quả, và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để
mưu cầu một cái gì. Tôi chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cõi vô hình một cách
đứng đắn. Sự nghiên cứu những hiện tượng siêu hình là một khoa học hết sức đứng
đắn, chứ không phải mê tín dị đoạn. Nhiều người thường tỏ ý chê cười khi nói đến
vấn đề ma quỷ, nên những ai có gặp ma, cũng chả dám nói vì sợ bị chê cười hay
cho là loạn trí. Nếu người nào không tin hãy nghiên cứu và chứng minh một cách
khoa học rằng ma quỷ chỉ là những giả thuyết tưởng tượng, còn như phủ nhận
không dám chứng minh chỉ là một cái cớ che dấu sự sợ hãi. Điều khoa học chưa chứng
minh được không có nghĩa là điều này không có thật, vì một ngày nào đó, khoa học
sẽ tiến đến mức mà họ có thể chứng minh tất cả. Những phương pháp thông thường
như cầu cơ, đồng cốt, thường gặp sai lầm vì như tôi đã trình bày, các vong linh
nhập vào phần lớn cũng có kiến thức giới hạn ở cảnh giới nào đó. Đôi khi họ
cũng trích dẫn vài câu trong “Thánh kinh”, hoặc sách vở, kinh điển để nâng cao
giá trị lời nói, điều này có khác nào những nhà chính trị khi diễn thuyết.
Phương pháp khoa học chính xác nhất là phải tự mình qua hẳn thế giới đó nghiên
cứu. Các ông nên biết thân thể chúng ta không phải môi trường duy nhất của linh
hồn và giác quan của nó cũng không phải phương tiện duy nhất để nghiên cứu ngoại
cảnh. Nếu ta chấp nhận rằng vũ trụ có nhiều cõi giới khác nhau và mỗi thể con
người tương ứng với một cõi, thì ta thấy ngay rằng thể xác cấu tạo bằng nguyên
tử cõi trần nên chỉ giới hạn trong cõi này được thôi. Các thể khác cũng có giác
quan riêng của nó và khi giác quan thể vía được khai mở, ta có thể quan sát các
cõi giới vô hình dễ dàng. Khi từ trần, thể xác tiêu hao, các giác quan không
còn sử dụng được nữa thì linh hồn sẽ tập phát triển các giác quan thể vía ngaỵ
Nếu biết cách khai mở các giác quan này khi còn sống, ta có thể nhìn thấy cõi
âm một cách dễ dàng.
Giáo sư Allen ngập ngừng:
- Nhưng có một quan niệm lại cho rằng, sau khi chết linh hồn
sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục vĩnh viễn, điều này ra sao?
Hamud lắc đầu:
- Đó là một quan niệm không hợp lý, vì điều này cho rằng khi
chết linh hồn sẽ đổi thay toàn diện. Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu
để trở nên toàn thiện, trở nên một vị thiên thần vào cõi thiên đàng hoặc là
linh hồn có thể mất hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một thứ ma quỷ
bị đẩy vào địa ngục. Điều này vô lý vì sự tiến hóa phải từ từ, chứ không thể đột
ngột được. Trên thế gian này, không ai toàn thiện hay toàn ác. Trong mỗi chúng
ta đều có các chủng tử xấu, tốt do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để lại; tùy
theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này nẩy mầm, phát triển hay thui chột,
không thể phát triển. Một người tu thân là một người biết mình, lo vun xới tinh
thần để các nhân tốt phát triển, giống như người làm vườn lo trồng hoa và nhổ cỏ
dại. Thực ra, khi sống và chết, con người không thay đổi bao nhiêu. Nếu khi sống
họ ăn tham thì khi chết, họ vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ, điều này sẽ không
còn được thỏa mãn vì thể xác đã hư thối, tan rã mất rồi. Sau khi chết, tìm về
nhà thấy con cháu ăn uống linh đình mà họ thì không sao ăn được, lòng ham muốn
gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau khổ không sao tả được.
- Như ông đã nói, loài ma đói thường rung động theo không khí
quanh đó, như thế họ có thỏa mãn không?
- Khi người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc thì loài
ma đói xúm quanh cũng tìm cách rung động theo tư tưởng đó, nhưng không làm sao
thỏa mãn cho được. Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan
khoái, ứa nước bọt nhưng điều này đâu có thỏa mãn nhu cầu bao tử đâu. Các loại
ma hung dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ sẻ súc vật, lò sát sinh để rung động
theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô tình mời
gọi các vong linh này đến, sự có mặt của họ có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu, nhất
là cho nhũng người dễ thụ cảm.
- Đa số mọi người đều cho rằng ma quỷ thường xuất hiện ở
nghĩa địa, điều này ra sao?
- Sự hiện hình ở nghĩa địa chỉ là hình ảnh của thể phách đang
tan rã, chứ không phải ma quỷ, vong linh. Khi ta chết, thể xác hư thối thì thể
phách vốn là thể trung gian giữa thể xác và thể vía cũng tan rã theo. Thể phách
được cấu tạo bằng những nguyên tử tương đồng với nguyên tử cõi trần. Nhưng
trong đó có nhiều nguyên tử "dĩ thái", nên nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực còn
rơi rớt trong thể xác, để cố gắng kéo dài sự sống thêm một thời gian nữa. Vì đang
tan rã nên thể phách không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên nghĩa địa có
những hình ảnh người cụt đầu, cụt chân, bay là là trên các nấm mồ, người không
hiểu thì gọi đó là ma. Theo sự hiểu biết của tôi, thì việc thiêu xác tốt đẹp hơn
việc chôn cất, vì để thể xác tan rã từ từ làm cho linh hồn đau khổ không ít và
thường ở trong một giai đoạn hôn mê, bất động một thời gian rất lâu. Thiêu xác
khiến vong linh thấy mình không còn gì quyến luyến nữa nên siêu thoát nhanh hơn
nhiều.
- Ma quỷ thường thuộc thành phần nào trong xã hội?
- Chúng thuộc đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi còn sống.
Người chết bất đắc kỳ tử thường lưu lại cõi âm lâu hơn người chết già vì còn
nhiều ham muốn hơn. Những kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội,
giận hờn và có ý định trả thù. Một người tự tử để trốn nợ đời cũng thế, y sẽ
hôn mê trong trạng thái khổ sở lúc tự tử rất lâu. Định luật cõi âm xác nhận rằng,
“Chính cái dục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ đến và lưu lại ở đó lâu
hay mau.”
- Số phận của những người quân nhân tử trận thì ra sao?
- Họ cũng không ra ngoài luật lệ đó, tùy theo dục vọng từng
cá nhân. Tuy nhiên, người hy sinh tính mạng cho một lý tưởng có một tương lai tốt
đẹp hơn, vì cái chết cao đẹp là một bậc thang lớn trong cuộc tiến hoá. Họ đã
quên mình để chết và sống cho lý tưởng thì cái chết đó có khác nào những vị
thánh tử đạo. Dĩ nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lý tưởng và những
kẻ giết chóc vì oán thù và chết trong oán thù lại khác hẳn.
- Như ông nói thì người chết vẫn thấy người sống?
- Thật ra phải nói như thế này. Khi chết các giác quan thể
xác đều không sử dụng được nữa, nhưng người chết vẫn theo dõi mọi sự dễ dàng vì
các giác quan thể vía. Không những thế họ còn biết rất rõ tư tưởng, tình cảm
liên hệ; mặc dù họ không còn nghe thấy như chúng tạ Nhờ đọc được tư tưởng, họ vẫn
hiểu điều chúng ta muốn diễn tả.
- Như vậy thì họ Ở gần hay ở xa chúng ta?
- Khi mới từ trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia đình,
bên những người thân nhưng theo thời gian, khi ý thức hoàn cảnh mới, họ sẽ tách
rời các ràng buộc gia đình để sống hẳn ở cõi giới của họ.
- Điều này không có gì khó. Hãy nghĩ đến họ trong giấc ngủ.
Thật ra nếu hiểu biết thì ta không nên quấy rầy, vì làm thế chỉ gây trở ngại
cho sự siêu thoát. Sự chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực từ trước
vẫn hướng ra ngoài, thì nay quay vào trong, linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng
một bí huyệt trên đỉnh đầu. Do đó, hai chân từ từ lạnh dần rồi đến tay và sau
cùng là trái tim. Lúc này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không còn bị ảnh
hưởng vật chất. Khi linh hồn rút lên óc, nó sẽ khơi động các ký ức, cả cuộc đời
sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này gọi là “hồi quang phản chiếu” (Memory
projection). Đây là một giây phút hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến
đời sống cõi bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ giữa thể xác và thể phách sẽ đứt
hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, vô ý thức để linh hồn rút khỏi thể
phách và thể vía bắt đầu lo bảo vệ sự sống của nó bằng cách xếp lại từng lớp
nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài và lớp thanh nhẹ Ở trong. Sự thu xếp này ấn định
cõi giới nào vong linh sẽ đến.
- Ông du hành sang cõi âm thế nào?
- Nói như thế không đúng lắm, vì ám chỉ một sự di chuyển từ
nơi này đến nơi khác. Các cõi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều
không gian và thời gian. Sang cõi âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng giác quan
thể vía để nhận thức chứ không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cõi trần
không thấy cõi âm vì nguyên tử cấu tạo nó quá nặng nề, rung động quá chậm không
thể đáp ứng với sự rung động nhanh của cõi âm. Quan niệm về không gian cũng
khác vì đây là cõi tư tưởng, nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ cần
giữ hình ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ gặp người đó ngaỵ Khi di chuyển ta
có cảm giác như lướt trôi, bay bỗng vì không còn đi bằng hai chân như thể xác.
- Những người chết nhận thức về đời sống mới ra sao?
- Trừ những kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm, đa số mọi người thức
tỉnh trong cảnh giới thứ năm hoặc thứ sáu, vốn có rung động không khác cõi trần
là bao. Lúc đầu họ còn bỡ ngỡ, hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy theo tình cảm,
dục vọng mà họ hành động. Tôi đã gặp vong linh của một thương gia giàu có, ông
này cứ quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều năm, ông cho tôi biết rằng ông rất cô
đơn và đau khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai. Ông trở về căn nhà để sống
với kỷ niệm xưa nhưng ông buồn vì vợ con ông vẫn còn đó nhưng chả ai để ý đến
ông. Họ tin rằng ông đã lên thiên đàng, vì họ đã bỏ ra những số tiền, tổ chức
các nghi lễ tôn giáo rất lớn, một tu sĩ đã xác nhận thế nào ông cũng được lên
thiên đàng. Tôi khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến luyến để siêu thoát nhưng
ông ta từ chối. Một vài người thân đã qua đời cũng đến tìm gặp, nhưng ông cũng
không nghe họ. Có lẽ ông ta sẽ còn ở đó một thời gian lâu cho đến khi các lưu
luyến phai nhạt hết. Tôi đã gặp những vong linh quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ
gầy dựng nên, họ vô cùng đau khổ và tức giận vì không còn ảnh hưởng được gì, họ
rất khổ sở khi người nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu phá cơ
nghiệp. Tôi đã gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có kẻ tìm ra,
họ vẫn quanh quẩn gần đó và đôi khi tìm cách hiện về doa. nạt những người bén mảng
đến gần nơi chốn dấu. Vong linh ghen tuông còn khổ sở hơn nữa; họ không muốn
người họ yêu mến chia sẻ tình yêu với kẻ khác. Đôi khi họ điên lên khi chứng kiến
sự âu yếm của người họ yêu mến và người khác. Dĩ nhiên họ không thể làm gì được
nên vô cùng khổ sở. Những nhà lãnh đạo, những vua chúa, những người hống hách
quyền uy thì cảm thấy bất lực khi không còn ảnh hưởng gì được nữa, nên họ hết sức
đau khổ. Hãy lấy trường hợp một vong linh chết đuối, vì y không tin mình đã chết,
nên cứ ở trong tình trạng lúc chết, nghĩa là ngộp nước. Vì đầu óc hôn mê, nên y
không nhìn thấy cõi âm, mà vẫn giữ nguyên hình ảnh cõi trần, dĩ nhiên nó chỉ nằm
trong tư tưởng của y mà thôi. Nói một cách khác, thời gian như ngừng lại, y cứ
thế hôn mê trong nhiều năm. Tôi đã cố gắng thuyết phục nhưng nói gì y cũng không
nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà, đầu óc y hôn mê quá rồi, nên cũng không sao
trở về được. Nhờ các bạn bè cõi vô hình, tôi tìm được tên tuổi, và địa chỉ thân
nhân vong linh. Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một nghi lễ cầu siêu để cảnh
tỉnh vong linh. Nhờ sức chú nguyện mãnh lực của buổi cầu siêu, tôi thấy vong
linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời kinh. Y trở về nhà và chứng kiến buổi cầu
siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y qua đời. Sau đó y chấp nhận việc mình đã
chết và siêu thoát…
- Ông cho rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sau?
- Cầu siêu cho vong linh là một điều hết sức quan trọng và
ích lợi, vì nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời
kinh và âm hưởng của nó thật là vô cùng ở cõi âm nếu người ta tụng niệm chú tâm,
sử dụng hết cả tinh thần. Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một hình
thức. Họ chỉ biết đọc các câu kinh trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết tập
trung tinh thần, nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự cầu nguyện có một sức mạnh
kinh khủng, có thể dời núi lấp sông, đó là bí huyết khoa “Mật tông Tây Tạng”.
- Như ông nói thì tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm nhiều hay
sao?
- Vấn đề cầu nguyện cho người chết không phân biệt tôn giáo
và cũng không cần theo một nghi thức, nghi lễ nào nhất định, mà chỉ cần tập
trung tư tưởng, hết sức chú tâm cầu nguyện. Theo sự hiểu biết của tôi thì tôn
giáo nào cũng có những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt nếu người thực
hành thành tâm.
- Như vậy nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi gì không?
- Một số người tin rằng, hạnh phúc vĩnh cữu của con người tùy
thuộc tâm trạng y lúc từ trần. Nếu lúc đó y tin rằng mình được cứu rỗi thì như
được một vé phi cơ lên thiên đàng, còn không y sẽ xuống địa ngục. Điều này gây
nhiều sợ hãi, lo âu vô ích. Nếu một người chết thình lình thì sao? Phải chăng họ
sẽ xuống địa ngục? Nếu một tín đồ hết sức ngoan đạo nhưng chết ngoài trận mạc
thì sao? Họ đâu được hưởng nghi lễ rửa tội? Sự chuẩn bị hữu hiệu nhất là có một
đời sống thanh cao, nếu ta đã có một đời sống cao đẹp, thì tâm trạng khi chết
không quan trọng. Trái lại, ta không thể ao ước một tương lai tốt đẹp dù tang lễ
được cử hành bằng các nghi lễ to lớn, linh đình nhất. Dù sao, tư tưởng chót trước
khi lìa đời cũng rất hữu ích cho cuộc sống mới bên kia cửa tử. Nó giúp vong
linh tỉnh táo, dễ thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Một cái chết thoải mái, ung
dung phải hơn một cái chết quằn quại, chết không nhắm mắt được. Theo tôi thì sự
hiểu biết về cõi vô hình, sự chuẩn bị cho cái chết là điều hết sức quan trọng,
cần được phổ biến rộng rãi, nhưng tiếc là ít ai chú ý đến việc này.
- Vậy theo ông, chúng ta cần có thái độ gì?
- Đối với người Âu tây, đời sống bắt đầu khi lọt lòng mẹ, và
chấm dứt lúc chết, đó là một quan niệm cần thay đổi. Đời sống cõi trần chỉ là một
phần nhỏ của chu kỳ kiếp sống. Chu kỳ này được biểu hiện bằng một vòng tròn mà
sự sống và chết là những nhịp cầu chuyển tiếp giữa hai cõi âm, dương, giữa thế
giới hữu hình và vô hình. Trên con đường tiến hóa, còn hằng ha sa số các chu
ký, các kiếp sống cho mỗi cá nhân. Linh hồn từ cõi thượng giới cũng phải qua
cõi trung giới. Phần ở cõi trần chỉ là một phẩn nhỏ của một kiếp sống mà thôi.
Trong chu kỳ này, phần quan trọng ở chỗ vòng tròn tiến sâu vào cõi trần và bắt
đầu chuyển ngược trở lên, đó là lúc linh hồn hết tha thiết với vật chất, mà có
ý hướng về tâm linh. Các cổ thư đã vạch ra một đời sống ở cõi trần như sau: 25
năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo cho gia đình, đây là giai đoạn tiến sâu
vào trần thế, 25 năm sau nữa phải từ bỏ việc đời để lo cho tâm linh, đó là thời
điểm quan trọng để đi ngược lên, hướng về tâm linh, và 25 năm sau chót phải từ
bỏ tất cả, chỉ tham thiền, quán tưởng ở nơi rừng sâu, núi thẳm. Đối với người Á
châu thì 50 tuổi là lúc từ bỏ vật chất để hướng về tâm linh, nhưng người Âu
châu lại khác, họ ham mê làm việc đến độ mù quáng, cho đến già vẫn tranh đấu hết
sức vất vả, cho dục vọng, cho bản ngã, cho sự sống còn, cho sự thụ hưởng. Do
đó, đa số mất quân bình và khi chết hay gặp các nghịch cảnh không tốt. Theo ý
tôi, chính vì sự thiếu hiểu biết về cõi âm nên con người gây nhiều tai hại ở
cõi trần. Chính vì không nhìn rõ mọi sự một cách tổng quát, nên họ mới gây lầm
lỗi, chứ nếu biết tỷ lệ đời sống cõi trần đối với toàn kiếp người, thì không ai
dồn sức để chỉ lo cho 1/3 kiếp sống, mà sao lãng các cõi trên. Nếu con người hiểu
rằng quãng đời ở cõi trần rất ngắn ngủi, đối với trọn kiếp người và đời sống
các cõi khác còn gần với chân lý, sự thật hơn thì có thể họ đã hành động khác
đi chăng? Có lẽ vì quá tin tưởng vào giác quan phàm tục, nên đa số coi thế giới
hư ảo này là thật và cõi khác là không có…
- Nhưng nếu ông cho rằng các cõi kia còn gần với sự thật hơn,
thì tại sao ta lại kéo lê kiếp sống thừa ở cõi trần làm gì? Tại sao không rũ
nhau đi sang cõi khác có tốt hơn không?
Hamud mỉm cười:
- Tuy cõi trần hư ảo, nhưng nó có những lợi ích của nó, vì
con người chỉ có thể tìm hiểu, và phát triển xuyên qua các rung động thô thiển
này thôi. Cõi trần có các bài học mà ta không tìm thấy ở đâu khác. Chính các bậc
chân tiên, bồ tát trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống trần, làm các
công việc vĩ đại như một thử thách cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con người
phải tiếp nhận các bài học ở cõi trần, nhờ học hỏi những bài học này, họ mới trở
nên nhạy cảm với các rung động ở cõi trên.
- Ông muốn nói sự nhạy cảm như thế nào?
- Sự mở mang trí tuệ giống như một máy thu thanh, và các rung
động ví như các tầng sóng. Một người không hiểu biết, ví như máy thu thanh
không bắt trúng đài, không thay đổi băng tầng. Họ sinh ra sao thì chết cũng vậy,
chả học được điều gì, vì như máy không bắt trúng đài chỉ kêu rè rè. Một người
hiểu biết là người biết thay đổi con người của mình để bắt trúng những tầng
sóng. Dĩ nhiên có nhiều làn sóng, băng tầng khác nhau và con người sẽ bị tràn
ngập bởi các làn sóng này cho đến khi họ điều hoà, phân biệt điều hay, lẻ dở, để
chọn những bằng tầng thích hợp hơn. Khi đó, họ bắt trúng những đài phát thanh,
nghe được điệu nhạc họ muốn. Huyền âm của thượng đế lúc nào cũng vang lừng
trong vũ trụ cho những ai muốn nghe, biết chuyển tâm thức để nghe, biết thay đổi
tâm hồn để bắt được làn sóng thanh cao, tế nhị đó.
Mọi người gật đầu thán phục vị pháp sư Ai cập đã dùng những
thí dụ cụ thể để giải thích một điều phức tạp. Giáo sư Mortimer thắc mắc :
- Ngoài việc khai mở giác quan để nghiên cứu cõi âm, ông còn
làm gì nữa?
- Việc nghiên cứu sẽ không có ý nghĩa gì, nếu ta chỉ quan sát
như một khách bàng quang, đứng ngoài nhìn ngắm. Con người cần học hỏi những điều
gì xảy ra khi họ từ trần, để thay đổi thích hợp với cuộc sống mới, không những cho
họ mà còn cho những người thân. Càng hiểu biết bên kia cửa tử, họ càng dễ dàng
hướng dẫn các vong linh khác.
- Nói một cách khác, ông hay giúp đỡ những vong linh vừa từ
trần?
- Chính thế, đó là công việc của tôi. Phần lớn người chết thường
xúc động và không chấp nhận rằng họ đã chết, họ muốn bám víu lấy cõi trần, và
trở nên các loài ma vất vưởng. Công việc của tôi là trấn an họ, giải thích cho
họ rằng ở cõi âm nếu muốn siêu thoát cần thay đổi trọn vẹn lối sống. Việc này
dĩ nhiên rất khó vì các vong linh không chịu nghe, hơn nữa nhiều người luyến tiếc
cõi trần, vì họ có những việc chưa giải quyết xong, tâm hồn họ chưa được an để
siêu thoát. Vì thế sự hiện diện của một người còn sống như tôi rất hữu ích, tôi
có thể giúp họ hoàn tất các tâm nguyện để họ siêu thoát…
- Đây là một việc hết sức khó khăn, nên tôi phải kết thân với
một số bạn bè bên cõi âm. Nếu vong linh u mê nhất định không nghe, thì tôi phải
nhờ những bạn bè, người thân của họ thuyết phục, giúp đỡ. Thí dụ như một vong
linh bị chết trong một trận hỏa hoạn tại Luân đôn. Y bị kẹt trong tòa nhà ba tầng,
không sao thoát được, nên chết ngộp bởi khói. Y không tin mình đã chết, nên thần
thức vẫn vùng vẫy, tìm chỗ thoát thân. Tôi khuyên bảo nhưng y quá lo sợ chết cháy,
nên không chịu tin lời tôi. Sau tôi phải nhờ mẹ y đã từ trần từ nhiều năm trước
đến khuyên bảo thì y mới chấp nhận và siêu thoát.
- Ông muốn nói rằng thân quyến có thể làm việc đó, dù họ chết
đã lâu ?
- Dĩ nhiên, sự liên hệ giữa con người với nhau đâu phải tình
cờ mà do nhiều duyên nghiệp từ trước. Nếu sợi dây thân ái vẫn còn, thì dù qua đời
họ vẫn để ý lưu tâm đến những người họ yêu mến. Dù đã siêu thoát lên cảnh giới
riêng, nhưng họ vẫn sẵn sàng trở lại khuyên bảo, giúp đỡ con cháu của họ.
- Như vậy sau khi chết ta có thể gặp lại cha mẹ, ông bà, họ
hàng thân thích hay sao?
- Dĩ nhiên, như tôi vẫn nói con người khi sống ra sao thì chết
vẫn vậy, đâu có đổi thay gì. Nếu tình cảm vẫn còn thì họ vẫn tìm đến gặp nhau.
Thật ra nếu ta xem sự chết như đi du lịch qua một thế giới mới, quang đãng,
sáng sủa hơn thì chúng ta sẽ không có cảm tưởng xa người quá cố. Sự thật là
không có điều gì chia cách linh hồn cả, khi ta yêu mến ai bằng những rung động
chân thành, ta yêu mến họ qua linh hồn của họ chứ đâu phải chỉ xác thân. Xác
tuy hư hoại nhưng hồn họ vẫn ở quanh ta, tuy ta không thấy họ nhưng họ vẫn cảm
nhận được tình thương của tạ Họ còn biết các đau buồn, cảm giác của ta, vì họ đọc
được tư tưởng. Dĩ nhiên, nếu họ vẫn theo dõi thì khi ta chết đi, họ sẽ đón tiếp
để trấn an tạ Đây là một vấn đề cần được lãnh hội cẩn thận, vì khi hiểu biết ta
sẽ không còn sợ hãi, ta chấp nhận sự chết như một việc hiển nhiên. Bên kia cửa
tử cũng như cõi trần, luật thiên nhiên luôn luôn biểu hiện và hết sức công bằng.
- Làm sao chúng tôi có thể biết chắc rằng khi chết ta sẽ gặp
người thân?
- Như tôi đã trình bày, có bảy cảnh ở cõi trung giới và sự thức
tỉnh ở cảnh nào hoàn toàn tùy theo tâm thức con người rung động cùng với nhịp
rung của cảnh đó. Con người chỉ có thể tiếp xúc với vong linh ở cảnh đó hoặc cảnh
thấp hơn mà thôi. Đa số những người qua đời đã lâu, thể vía đã được thanh lọc
nên thường sống ở cảnh giới cao hơn, do đó họ có thể tiếp xúc với những người ở
cảnh giới thấp hơn nếu họ muốn. Ngược lại những kẻ thức tỉnh ở cảnh thứ bảy hay
thứ sáu chỉ muốn tìm về cõi trần mà thôi, ít khi ý thức cảnh giới khác. Có nhiều
vong linh sau khi đã lên đến cảnh giới cao lại tìm về những cảnh thấp hơn,
không phải họ ham mê gì cõi này, nhưng vì lòng thương người, họ muốn giúp đỡ những
người cùng cảnh ngộ, những kẻ lạc lõng, bơ vơ không ý thức.
Hamud im lặng một lúc rồi thong thả:
- Cứu trợ, giúp đỡ các vong linh bên kia cửa tử là một điều hết
sức cần thiết vì người chết thì nhiều, mà người hiểu biết lại chẳng có bao
nhiêu…
- Nhưng đâu phải ai cũng làm được việc này, phải có các quang
năng đặc biệt như ông, hay đợi lúc chết mới giúp đỡ được chứ…
Hamud lắc đầu:
- Không phải khi từ trần mới làm được việc này. Khi còn sống
ta vẫn có thể làm được mà cũng không cần khai mở quang năng nào cả. Bất cứ ai
biết suy nghĩ đều có thể làm được. Các ông nên hiểu rằng khi ngủ, thể vía của
ta được tự do có thể hoạt động bên cõi âm. Nếu ta tập trung tư tưởng trước khi
ngủ vào một sự giúp đỡ, an ủi nhắm mục đích hướng dẫn, cứu trợ tất cả mọi người
không phân biệt thì điều này sẽ được thực hiện.
- Chỉ thế thôi ư? Như vậy thì ai làm chẳng được?
- Dĩ nhiên, điều này không nguy hiểm gì hết vì tư tưởng có một
sức mạnh thần giao đặc biệt và có một mãnh lực phi thường ở cõi âm. Nếu ta tập
làm những việc này khi còn sống, ta sẽ không bỡ ngỡ, ngạc nhiên khi qua cõi bên
kia vì ta đã quen thuộc với nó rồi. Ta còn gặp những người nhờ tư tưởng của ta
mà được giúp đỡ, dĩ nhiên là họ sẽ đón tiếp ta nồng hậu và từ đó sẽ tiếp tục
làm những công việc này…
- Làm sao có thể dễ dàng như thế được?
Hamud mỉm cười:
- Nghe thì dễ thật nhưng nó đòi hỏi một sự quyết tâm. Thứ nhất
việc làm của ta phải bất vụ lợi, vị tha, vô tư vì cõi âm là cõi tư tưởng. Nếu
ta có ý định mưu đồ việc gì, những người khác biết ngay và hậu quả lại chưa biết
thế nào mà lường được. Thứ hai, đa số vong linh đều u mê, ngoan cố, rất khó
thuyết phục, vì các nghiệp quả trói buộc hoặc lưu luyến cõi trần vì con cháu
khóc than, thương tiếc quá làm họ đâm ra xúc động khó siêu thoát. Do đó, công
việc này đòi hỏi sự tế nhị, khéo léo và một tâm hồn an tĩnh, không bối rối, xúc
động. Nhưng khi ta đã phát tâm thì tư tưởng này sẽ là một khí cụ rất tốt giúp đỡ
ta rất nhiều. Theo ý kiến của tôi, thì việc có một kiến thức rộng rãi về cõi âm
là căn bản đầu tiên.
Giáo sư Allen lắc đầu:
- Nếu nói rằng khi ngủ, ta qua cõi âm. Tại sao tôi không ý thức
một tí gì cả? Phải có một bằng chứng nào rõ rệt mới tin như vậy được.
- Các ông hiểu thế nào về sự cấu tạo của con người. Trong lúc
tỉnh, thể vía là cây cầu cho tâm thức. Mọi sự va chạm, rung động, cảm xúc bên
ngoài do hệ thần kinh giao cảm, được thể vía chuyển vào tâm thức, sau đó mới
ghi nhận ở khối óc. Bằng chứng là ta suy nghĩ trước khi ta hành động có phải
không? Nguyên nhân giấc ngủ là sự mệt mỏi của thể xác. Nó cần phục hồi sức khỏe nên nằm yên, nhưng thể vía lại khác. Nó vẫn hoạt động vì bằng chứng là đôi khi
ngủ say nhưng ta vẫn ý thức mọi việc xảy ra chung quanh, có đúng thế không? Thể
vía luôn rung động để đáp ứng với hoàn cảnh chung quanh, vì tính chất này nó rất
mẫn cảm với các rung động của bản năng, ham muốn, dục vọng. Các tính xấu như giận
hờn, oán ghét chẳng qua là sự cô đọng của tư tưởng mà thôi. Sự cô đọng này tạo
thành một lớp vỏ bao trùm lên thể vía, và ảnh hưởng của nó. Do đó, tính tình
con người chỉ là một thói quen của tư tưởng. Như tôi đã trình bày, tư tưởng
thanh cao cũng như hèn hạ đều bị thu hút vào thể vía và trực tiếp ảnh hưởng đến
tình cảm con người. Bằng chứng là một người có tâm hồn thanh khiết không thể hợp
với những nơi ồn ào náo nhiệt, ngược lại kẻ có tâm hồn náo động không thể chịu
nơi vắng vẻ, êm đềm. Có người tự hỏi, tại sao họ không thể ngồi yên một chỗ,
không thể tu tập các pháp môn thiền quán? Ấy vì thể vía họ lao chao, giao động.
Họ cần biết cách chủ trị tình cảm, thanh lọc thể vía. Các món đồ ăn nặng trọc
như thịt cá, rượu, các chất kích thích cũng đem vào thể vía những phần nặng trọc.
Người tu phải triệt để từ bỏ các món ăn này, vì nó rất có hại cho việc tham thiền,
quán tưởng. Thể xác và thể vía liên lạc với nhau qua bảy trung tâm giao điểm
sinh lực gọi là Luân xạ Tại đây, có một tấm màn cấu tạo bằng nguyên tử cõi trần
để ngăn chận ảnh hưởng cõi âm. Vì thế, ký ức và sinh hoạt lúc ngủ không chuyển
sang khối óc vật chất. Tuy nhiên, đôi khi ngủ dậy ta vẫn mường tượng có một cái
gì mà không sao nhớ được. Đối với một người bình thường thì luân xa không thức
động nên tấm màn này khép chặt nhưng rượu, thịt, các chất kích thích có thể phá
hoại tấm màn này khiến nó bị rách và ảnh hưởng cõi âm có thể chuyển qua cõi trần
khiến y bị điên khùng hay rối loạn hệ thần kinh. Có khi cá nhân mất tự chủ, bị
các loài ma quỷ nhập vào sai khiến.
Giáo sư Allen lên tiếng:
- Những điều ông trình bày rất lạ lùng, nhưng cũng có lý. Tuy
nhiên, theo sự hiểu biết của chúng tôi thì khoa học không thể chứng minh điều
này. Liệu có cách nào khiến chúng tôi cũng khai mở các quan năng để nghiên cứu
cõi giới vô hình như ông không?
Hamud gật đầu:
- Sự khai mở quyền năng thuộc phạm vi tâm thức, trước khi mở
tâm phải tinh luyện các thể đã. Nếu chưa thanh lọc được các thể thì đừng nói đến
khai mở bất cứ một giác quan nào.
- Vậy ta phải luyện các thể bằng cách nào?
- Tinh luyện thể trí bằng sự suy tư chân chính. Trí tưởng tượng
con người là một công cụ sáng tạo hữu hiệu. Khi ta suy tư, tưởng tượng, ta vô
tình xây dựng thể trí. Nếu ta chỉ suy tư những điều tốt lành, cao thượng thì ta
đã luyện trí rồi. Sau thể trí là thể vía, thể này chỉ luyện bằng cách ham muốn
chân chính. Hãy ham mê các điều cao thượng thì tự khắc thể vía sẽ phát triển.
- Ông nói nghe thật dễ dàng. Tư tưởng cao thượng và ham muốn
chân chính là những điều trừu tượng, làm sao có thể làm được…
- Đa số mọi người quan niệm như thế nên chả khi nào tiến bộ
được. Con người muốn quyền năng, giải thoát nhưng chỉ chờ đợi một phép lạ, một
tha lực ngoại giới, chứ không tự tin rằng mình có khả năng làm những việc đó.
- Dù tôi muốn thanh lọc các thể thì cũng phải có một phương
pháp, một sự hướng dẫn, một kỹ thuật nào đó, chứ nói một cách trừu tượng thì ai
nói chẳng được.
- Theo sự hiểu biết của tôi thì tôn giáo nào cũng dạy những
điều cao đẹp và áp dụng những lời dạy này. Đây cũng là một phương pháp, kỹ thuật
thanh lọc các thể.
- Như vậy, ông theo phương pháp nào? Hãy nói về kinh nghiệm
của ông đã…
Hamud trầm ngâm rồi gật đầu:
- Được lắm, tôi được truyền thụ phương pháp này tại một tu viện
ở Tây Tạng, nên chịu ảnh hưởng Phật giáo rất nhiều. Thứ nhất là luyện thể xác,
phải biết cách kiểm soát, kiềm chế thể xác hoàn toàn, quy định mọi hoạt động
như ăn, uống, ngủ cho thật đúng. Thức ăn được phân làm ba loại : tỉnh, động và
điều hoà. Người tập phải tránh đồ ăn “tỉnh” vì nó làm thể xác hôn mê, lười biếng,
bất động. Các thức ăn có đặc tính “tỉnh” là các món đang lên men, các thứ đồ
khô, các loại rượu. Các món ăn có đặc tính “động”, như thịt, cá, thường đem lại
các kích thích hăng hái nhất thời, xác chết thú vật gồm nhiều nguyên tử nặng nề
bởi các thú tính thấp hèn không thích hợp cho việc tu hành, thanh lọc. Chỉ có
các món ăn “điều hòa” là thứ có khả năng tăng trưởng, chứa nhiều sụ sống như
ngũ cốc, vì nó đâm mầm, nẩy lộc, các loại trái cây vốn tràn đầy nhựa sống, các
loại rau cỏ vốn hấp thụ khí thái dương cần thiết cho một thể xác cường tráng,
nhạy cảm. Sau việc ăn uống, còn phải thở hít, hô hấp cho đúng cách. Khoa học chứng
minh con người sống được là nhờ hơi thở nhưng thật ra đó nhờ sinh khí (prana).
Chính các sinh khí này thấm nhuần khắp cơ thể, mang sự sống đến khắp tế bào.
Prana xuất phát từ ánh sáng mặt trời, nó rung động và pha trộn trong không khí.
Bằng cách hô hấp thật sâu, thong thả. Prana sẽ thấm vào thần kinh hệ và lưu
thông khắp châu thân, mang sự sống khắp xác thể. Chính các Prana tích tụ trong
hệ thần kinh tạo ra luồng “nhân điện”, một yếu tố quan trọng của sự sống.
Tóm lại, dinh dưỡng đúng cách bằng các món ăn có đặc tính “điều
hòa”, tập thở hít đúng cách là phương pháp tinh luyện thể xác vô cùng quan trọng.
Như các ông thấy, phương pháp này không có gì trái với khoa học hiện tại. Cách
thực hành có thể khác nhau tùy cá nhân, người gọi là thể dục, kẻ gọi là thiền định,
điều này không quan trọng vì căn bản chính chỉ nhằm đem lại một thể xác lành mạnh,
cường tráng. Người luyện thể xác cần sống nơi thoáng khí, nhiều ánh sáng mặt trời
để đón nhận các sinh lực prana, nhằm bổ túc luồng nhân điện. Các món ăn như thịt
cá mang lại các rung động thô bạo, khiến luồng nhân điện này chạy loạn lên khó
kiểm soát, gây nên các bệnh tật hoặc phá hoại hệ thần kinh. Các món ăn “tỉnh”
như rượu làm tê liệt bộ thần kinh khiến luồng nhân điện bị ngắt quãng không đều,
ngăn trở các sinh khí prana lưu thông mang sinh lực nuôi thể xác, gây nên nhiều
hậu quả không tốt.
Sau khi thanh lọc thể xác, ta bắt đầu luyện đến thể vía. Thể
vía là trung tâm của tình cảm, một khi tình cảm trong sạch, vị tha, bác ái,
đương nhiên các chất thanh nhẹ sẽ được hấp thụ vào và các chất nặng trọc, xấu
xa sẽ bị đào thải ra ngoài, theo một nguyên lý giống như sự thấm lọc (osmose).
Khi thể vía thanh cao, nó sẽ rung động với các tư tưởng cao thượng mang tâm thức
lên một bình diện cao hơn. Khi sự rung động đến một chu kỳ nào đó, các giác
quan thể vía bắt đầu khai mở tự nhiên, con người sẽ bắt đầu có quyền năng đặc
biệt. Nói một cách khoa học hơn, các giác quan thể vía chỉ hoạt động ở một chu
kỳ và chỉ khi nào thể vía rung động đúng chu kỳ này nó mới được đánh thức để hoạt
động. Thể vía chỉ có thể rung động ở chu kỳ này vì nó được cấu tạo bằng những
nguyên tử thật thanh, nhẹ, khi những nguyên tử nặng trọc bị khu trục hết. Điều
này chỉ xảy ra khi con người chỉ có các tình cảm cao thượng, lòng bác ái tốt
lành bao trùm mọi vật. Đó là bí quyết cách luyện thể vía.
Khi bảy giác quan của thể vía hoạt động, nó sẽ khai mở một số
bí huyệt để luồng hỏa hầu Kundalini thức giấc. Khi luồng hỏa hầu này chạy dọc
theo xương sống lên đỉnh đầu, nó sẽ thúc đẩy, khai mở thể trí khiến nó khai triển
để hợp nhất với chân thần. Khi thể trí khai triển, mở lớn ra nó sẽ khởi sự tiêu
diệt cái phàm ngã ích kỷ của con người để hướng đến các điều thánh thiện. Đây
là một giai đoạn vô cùng khó khăn, rất ít ai vượt qua nổi. Danh từ Phật giáo gọi
là Phật tánh biểu lộ, danh từ Thiên chúa giáo gọi là quên mình để hòa nhập với
đấng cứu thế, danh từ Ấn giáo gọi là sự hợp nhất với Chân Ngã. Nói một cách giản
dị thì đây là lúc trí tuệ quy kết các tư tưởng và hoạt động về tình huynh đệ,
bác ái nhu thuận, từ bi, trí tuệ, vị tha, hỷ xả để kết tinh thành chân ngã. Khi
phàm ngã hoàn toàn bị huỷ diệt, các thể cũng hoàn toàn được thanh lọc thì không
còn sự phân biệt giữa ta và tha nhân, giữa chủ thể và đối tượng mà tất cả đều
là một. Thể trí không còn tính cách cá nhân mà đã thành “đại trí”, hay trí tuệ
“bát nhã”. Tâm thức cũng không còn là tâm cá nhân mà thành tâm thức “bồ đề”, hòa hợp hoàn toàn với tâm thức vũ trụ. Cả tâm lẫn trí mở rộng đón nhận ánh sáng
chân lý mà không còn phải học hỏi, lý luận gì nữa. Đây chính là giai đoạn giác
ngộ của người tụ Họ trở nên một đấng siêu nhân, một vị Tổ, một vị Thánh…
Giáo sư Evan-Wentz thắc mắc:
- Căn cứ vào đâu ta biết được như vậy? Phải có bằng chứng gì
chứ?
Hamud lắc đầu:
- Các kinh nghiệm quý báu, thiêng liêng đó chỉ có các bậc
giác ngộ rồi mới hiểu được. Không một vị thánh nào vỗ ngực tự xưng đã đạt quả vị
này hay quyền năng nọ. Khi đã giác ngộ thì chức tước, danh vọng, địa vị đâu có
nghĩa lý gì nữa, vì họ đâu còn bản ngã thấp hèn như chúng ta để phân biệt. Chỉ
có các “bậc lừa bịp”, các tu sĩ giả mạo mới thích danh vọng, chức tước, vì bản
ngã họ còn to lớn và cần các danh xưng, địa vị để lừa bịp tín đồ nhẹ dạ.
- Trên nguyên tắc thì như vậy, nhưng còn phương pháp, kỹ thuật
thì sao?
- Phương pháp, kỹ thuật thì rất nhiều, con đường đến chân lý
cũng thế, tùy theo nhân duyên, căn cơ cá nhân không thể áp dụng một kỹ thuật
nào cứng nhắc được. Phương pháp, kỹ thuật có thể khác nhau, nhưng nguyên tắc chỉ
có một. Sự thật là chân lý luôn luôn được truyền dạy dưới hình thức này hay
hình thức khác., tùy theo điều kiện, hoàn cảnh và phương tiện. Phương pháp tuy
khác nhưng chân lý vẫn là một giống như nước suối hay nước sông vẫn là nước mà
thôi. (Tùy duyên bất biến). Chân lý có thể được truyền dạy bởi những thầy phù
thuỷ trong các bộ lạc man dã hoặc các bậc giáo chủ trong kinh điển tôn giáo.
Kinh điển hay tôn giáo có thể khác nhau về hình thức nhưng vẫn có điểm tương đồng
mà ta phải chấp nhận.
- Chấp nhận phải chăng là một hình thức của tin tưởng?
- Con đường đạo đòi hỏi một đức tin, nhưng không phải nhắm mắt
tin tưởng bừa bãi. Đức tin chỉ đến sau khi người tìm đạo tự mình nhận thức rõ
ràng, sau khi hiểu biết chứng nghiệm nó một cách rốt ráo. Các ông là những khoa
học gia, không đời nào các ông tin tưởng một sự kiện gì nếu không kiểm chứng rõ
ràng. Sự nghi ngờ là một điều cần thiết, nhưng nếu có những sự kiện mà khoa học
không thể chứng minh hay chưa thể chứng minh được, các ông sẽ phải làm gì? Phủ
nhận chăng? Nếu phủ nhận, các ông đã bỏ qua một cơ hội tìm hiểu nghiên cứu. Nếu
chấp nhận mà không kiểm chứng thì các ông đã mù quáng tin tưởng bừa bãi. Tôi
không mong các ông phải tin tưởng những điều tôi trình bày, nhưng mong các ông
hãy suy gẫm, nghiên cứu nó. Nếu chưa thể sử dụng các dụng cụ khoa học thực nghiệm
để chứng minh thì hãy sử dụng lý trí, trực giác, vì sự nghiên cứu cõi âm là một
khoa học, chứ không phải một sự tin tưởng bừa bãi. Kiến thức về cõi giới này sẽ
giúp đỡ nhiều người, tôi tin rằng trong một ngày không xa sẽ có nhiều cuộc
nghiên cứu về đối tượng này.
- Tại sao ông không công bố những khám phá của mình cho mọi
người? Tại sao ông lại ẩn thân một nơi hoang vu như thế này? Nếu ông muốn, kiến
thức của cõi giới này được nghiên cứu rộng rãi thì ông phải là người khởi xướng
nó lên để mọi người được biết, và biết đâu sau đó lại chẳng có những cuộc
nghiên cứu?
Hamud mỉm cười:
- Khi trình độ con người chưa đến lúc, thì có những điều chưa
thể công bố được. Các bậc giáo chủ ngày trước đã giảng dạy chân lý làm thành
hai phần, Công truyền và Bí truyền. Tại sao các ngài lại dạy riêng cho một thiểu
số môn đồ giáo lý Bí truyền? Phải chăng các ngài biết chỉ một thiểu số người mới
có thể lãnh hội được những điều ngài giảng dạy. Khoa học nghiên cứu về cõi âm
cũng có những sự nguy hiểm riêng của nó, không thể truyền dạy bừa bãi cho tất cả
mọi người.
- Xin ông giải thích rõ hơn về việc này, tại sao lại nguy hiểm?
- Tôi vừa trình bày cho các ông một phương pháp tinh luyện
các thể như tôi đã được truyền dạy. Dĩ nhiên, còn có nhiều phương pháp khác
cũng mang lại các kết quả tương tự nhưng cứu cánh lại khác hẳn. Có hàng trăm
phương pháp phát triển năng khiếu thần thông, nhưng người tu phải hiểu rằng quyền
năng chỉ là những phương tiện thấp thỏi, giúp ta mở rộng kiến thức. Quyền năng
không bao giờ là một cứu cánh, một mục đích. Sự tham luyến, vọng tưởng sẽ đưa
người có quyền năng vào ma đạo. Người tu hành cần ý thức rõ rệt rằng chỉ khi
nào phàm ngã hoàn toàn bị tiêu diệt thì con người mới thoát khỏi ảo ảnh của màn
vô minh và thực sự chứng nghiệm chân lý. Quyền năng càng cao ta càng phải lập hạnh,
nghiêm khắc giữ gìn đề cao cảnh giác các ảo ảnh của vô minh….
- Ông nói đến vô minh như một cái gì trừu tượng, liệu ông có
thể lấy một thí dụ dễ hiểu hơn không vì danh từ này còn xa lạ với chúng tôi?
- Hãy lấy thí dụ một người tu hành công phu khổ luyện đã bắt
đầu khai mở vài quyền năng thô thiển như Thần Nhãn chẳng hạn. Vì số người có
quyền năng này ở cõi trần rất ít, người đó tưỏong mình tiến bộ vượt bực, đã trở
nên một đấng này, đấng nọ. Lòng kiêu căng phát triển xúi dục họ nghĩ rằng mình
đã đắc quả vị lớn lao, đã được giao phó các sứ mạng cao cả. Họ tự phong cho
mình những chức tước, danh vọng hoặc đôi khi tín đồ xưng tụng cho họ là đấng
này, đấng nọ, thì họ cũng chấp nhận tuốt. Họ nghĩ mình đã sáng suốt, cao cả thì
còn lầm lạc thế nào được nữa… Họ đâu hiểu rằng trong cõi âm có rất nhiều vong
linh bất hảo hay tìm cách hướng dẫn sai lạc những người non nớt vừa bắt đầu
khai mở quyền năng. Dĩ nhiên với trí tuệ nông cạn, họ không có một tiêu chuẩn
nào để xét đoán, hiểu biết những hiện tượng, những điều họ nhìn thấy và trắc
nghiệm xem điều đó có hợp với chân lý hay không? Bởi thế họ dễ bị lung lạc để
trở nên một tay sai đắc lực của các vong linh, ma quỷ, các sinh vật vô hình.
Như các ông đã thấy những pháp sư, thầy phù thủy, các tu sĩ thiếu sáng suốt,
thiếu công phu tu hành, thiếu trì giới, đều rơi vào cạm bẫy của vô minh cả. Họ
có một vài quyền năng thật nhưng không sử dụng nó vào mục đích giúp dời mà sử dụng
vào các việc ích kỷ hại nhân…
- Nhưng làm sao tránh được các điều này? Làm sao một người mới
bắt đầu có quyền năng biết được những điều mình nhìn thấy không phải là ảo ảnh
của vô minh, những điều mình chứng nghiệm không phải sự truyền dạy vu vơ của
loài sinh vật vô hình?
Hamud nghiêm trang tuyên bố:
- Người nào sống một đời tinh khiết về tư tưởng và hành động,
không bị Ô nhiễm bởi ích kỷ thì sẽ được che chở. Với các rung động thanh cao,
các ảnh hưởng xấu không thể xâm nhập, các vong linh bất hảo thấy người đó không
có gì để chúng lợi dụng được. Trái lại, một người còn nhiều tham vọng, thiếu
công phu trì giới thì chính sự rung động bất thiện phát xuất từ nội tâm người
đó, sẽ hấp dẫn các vong linh, ma quái đến quanh. Trong họ còn đầy đủ các khí cụ
như Tham, Sân, Si, ích kỷ, mê muội thì quá dễ dàng để các vong linh lợi dụng. Một
tu sĩ bất cứ tôn giáo nào cũng đều phải giữ giới, tuân các điều răn vì các bậc
giáo chủ sáng lập tôn giáo đã đi qua con đưòong đó, đã biết các hiểm nguy và đặt
ra cấm điều để cho người theo sau biết đường mà tránh.
- Nhưng các lối tu luyện thần thông vào mục đích nhất định
như chữa bệnh thì sao?
- Điều này tùy tâm thức người luyện, nhưng theo sự hiểu biết
của tôi thì bất cứ lối tập luyện nào thiếu sự đứng đắn đều đưa vào con đường
nguy hiểm. Các ông nên biết một khi có quyền năng, dù là một quyền năng hạ cấp
rất thô thiển, kẻ sự dụng nó đều có thể làm nhiều việc mà người bình thường cho
là “phi thường”, vì đa số nhân loại chưa có khả năng đó. Điều này khiến kẻ luyện
dễ trở nên kiêu căng và nếu không có tâm trong sạch, y có thể sử dụng quyền
năng này vào các điều tà vạy.
Giáo sư Allen lắc đầu:
- Ông nói điều xấu, điều tốt như có một tiêu chuẩn rõ ràng vậy.
Tại sao ông không nghĩ xấu hay tốt chỉ là những điều tương đối. Một điều người
Âu cho là vô lý có thể người Á châu lại chấp nhận như một sự kiện hữu lý.
- Đúng thế, quan niệm xấu tốt, thiện ác ít nhiều chịu ảnh hưởng
xã hội, nhưng vượt lên cao hơn nữa, chúng ta vẫn có luật vũ trụ kia mà. Theo sự
hiểu biết của tôi, thì có hai con đường: Chánh đạo và Tà đạo. Con người làm
chuyện tà đạo là khi y dùng quyền năng tiềm tàng của mình để mưu lợi riêng cho
sự phát triển cá nhân, và sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của kẻ khác. Phát triển cá
nhân ở đây có nghĩa là sự bành trướng về giác quan, cảm xúc hay tri thức của cá
nhân, mà không kể gì đến sự thiệt hại cho kẻ khác. Một người lợi dụng sự ngu dốt,
yếu đuối của kẻ khác để thu lấy ít lợi lộc về tiền bạc hay thỏa mãn tham vọng
cá nhân tức là đang đi trên con đường tà đạo. Nếu y có chút quyền năng, y sẽ trở
nên ghê gớm như thế nào? Chánh đạo cũng là việc sử dụng những quyền năng của
mình, nhưng để phụng sự nhân loại. Trong khi phụng sự, con người sẵn sàng hy
sinh mọi tiện nghi, tham vọng cá nhân mình để làm việc hữu ích cho kẻ khác. Kẻ
phụng sự dứt tuyệt các thú vui về giác quan, từ bỏ mọi tôn kính chính đáng mà y
có quyền hưởng thụ, dẹp bỏ cái phàm ngã cá nhân, chỉ nên chú trọng đến mục đích
đạt đến sự toàn thiện. Tà đạo sử dụng quyền năng qua các hình thức lễ nghi,
cúng bái trợ lực để tạo nên các đoàn thể hình thức. Các hình thức này có thể là
vật chất hay một tổ chức mà công cụ của nó không phải lo cho đời sống hay một
lý tưởng cao thượng mà chỉ là một hình thức phát biểu cho quan niệm riêng của
mình. Chánh đạo là sử dụng các quyền năng cố hữu của bản chất con người để vượt
qua mọi hạn định của hình thức. Để giải thoát tâm hồn khỏi các trói buộc của cảm
giác, của sự tưởng tượng hay xu hướng nhất thời. Để tránh các cám dỗ, lừa gạt của
vô minh, để phục vụ cái phần tử thiêng liêng của bản thể vũ trụ. Một người
nghiên cứu huyền môn có thể đi trên đường chánh cũng như tà. Họ có thể tìm cách
phát triển cá nhân qua sự tự chủ gắt gao để khai mở các quyền năng, thu thập kiến
thức. Họ cũng có thể ao ước cõi thiên đàng mở rộng trong lòng mọi người, và
chính trong họ, qua các hành động bác ái, vị thạ Trong hai trường hợp, hạng đầu
cầu mong kiến thức, quyền năng; hạng sau muốn trở nên người hữu dụng. Càng đi
xa thì sự tiến bộ càng khác biệt. Người sử dụng kiến thức, quyền năng để phụng
sự, sẽ trở nên một bậc “Bồ Tát” (Bodhisattva), và chỉ có trái tim Bồ Tát mới là
ánh sáng soi đưòng, chỉ lối giúp họ đi trọn vẹn con đường đạo. Người cầu trí thức
cho mình chỉ quanh quẩn trong phạm trù cá nhân một lúc, thiếu từ bi, trí tuệ, y
rất dễ bị sa ngã vào ma đạo lúc nào không haỵ Không có trí tuệ bát nhã soi đường,
y dễ trở thành nạn nhân của vô minh. Điều này cũng như một người đi biển mà
không có bản đồ, la bàn định hướng, mà đi bừa bãi thì làm sao đến nơi được. Đường
đạo cũng thế, một tu sĩ phải trì giới nghiêm minh để tu thân, nhưng vẫn chưa đủ,
mà còn phải lập những hạnh nguyện, xác định mục đích rõ ràng để hành động. Có
tu thì phải có hành, phải biết đem kiến thức của mình ra để giúp ích cho những
người khác. Trí tuệ phải đi đôi với Từ Bị Có “Trí” mà thiếu “Tâm” chỉ là mớ kiến
thức vô dụng, một cái xác không hồn. Có “Tâm” mà thiếu “Trí” cũng không được vì
sẽ dễ sa ngã, đi lầm vào tà đạo. Đó là điều đã xảy ra trong quá khứ, các tu sĩ
thiếu kiến thức, trí tuệ, đã bị vô minh che phủ. Họ coi thượng đế như một đấng
thần linh để thờ phụng, tách ngài ra khỏi tín đồ và dạy bảo rằng thượng đế cao
siêu quá, không thể nói chuyện với những người tầm thường được, mà phải qua
trung gian của giới tăng lữ. Họ đặt đủ các ngôn từ hoa mỹ, thêu gấm dệt hoa vào
giáo điều để tín đồ quay cuồng trong ngôn ngữ, mà xa lánh chân lý thực tế. Dần
dần các chân lý cao đẹp bị bao phủ bằng các hình thức mê tín dị đoan, các điều
xằng bậy, và đưa đến chỗ suy tàn… Đó là điều đã xảy ra cho tôn giáo Ai Cập.
Giáo sư Evan-Wentz ngắt lời:
- Xin ông nói rõ hơn về sự suy tàn của nền văn minh Ai cập. Lịch
sử vẫn chưa hiểu tại sao nền văn minh này lại suy tàn nhanh chóng như vậy?
Hamud ngồi im lặng như hồi tưởng một ký ức xa xôi nào đó, một
lúc sao y gật đầu:
- Có nhiều giả thuyết về sự suy tàn của nền văn minh Ai cập.
Đa số đỗ lỗi cho chiến tranh, bệnh dịch, thiên tai, nhưng ít ai biết rõ nguyên
nhân sâu xạ Tôi không có ý muốn tiết lộ những điều này, vì mục đích buổi tiếp
xúc hôm nay là nói chuyện, tham khảo về cõi giới vô hình. Tuy nhiên, tôi sẵn
sàng tiết lộ những điều thầm kín như một nhân duyên đặc biệt với các ông. Điều
này không phải tự ý tôi, nhưng do một thông điệp tư tưởng của một vị chân sư
chuyển giao. Tôi muốn tiết lộ những điều này như một cảnh cáo đối với thế giới
ngày nay, để họ không đi vào vết xe của quá khứ…
Một lần nữa, sự hiện diện của một vị chân sư bí mật lại được
nhắc đến khiến mọi người vô cùng cảm kích. Vị pháp sư Ai cập ngửa mặt nhìn lên
trời như ôn lại dĩ vãng:
- Trong thời buổi vàng son, nền văn minh Ai cập đã đến lúc cực
thịnh. Các đạo viện với những minh sư truyền dạy khoa học huyền môn, đưa dân
trí đến một mức tiến bộ vượt xa thời buổi hiện naỵ Tuy nhiên, theo thời gian,
nhiều tu sĩ đã không giữ gìn giới luật khắt khe, hoặc không thấu hiểu các giáo
điều cao siêu. Họ bèn tìm một lối đi ngắn hơn và dễ hơn, chú trọng về phương
pháp kỹ thuật để đạt đến quyền năng. Thần thông trở nên mục đích chứ không phải
phương tiện nữa. Để đạt mục đích, họ không ngần ngại hy sinh quyền lợi tôn
giáo, quốc gia… Thiếu sáng suốt nên họ đi vào ma đạo, và chịu sự sai khiến của
các động lực bất hảo. Các tăng lữ này lập thành phe nhóm, liên kết lẫn nhau, để
tạo một ảnh hưởng cực mạnh, đến nỗi các vua Pharaoh hách dịch cũng phải kiêng
dè. Họ lạm dụng danh từ tôn giáo, thần linh, truyền bá các tà thuật, phù phép,
thần chú hắc ám để lôi cuốn tín đồ. Dĩ nhiên với các tà thuật, họ có thể làm mọi
thứ mà một người bình thường vô phương chống lại. Chỉ một thời gian ngắn, dân
chúng đều trở thành nạn nhân của một thứ tà giáo. Các vị pháp sư trở nên sứ giả
của cõi âm, một thứ quỷ sống đội lốt người. Họ còn kêu gọi những âm binh hung
ác nhất đến giúp họ đạt các mục đích ám muội. Trong đền thờ, khoa phù thuỷ thay
thế sinh hoạt tâm linh và các tu sĩ chân chính bị loại trừ, đào thải nhanh
chóng. Cũng vì thế, khoa huyền môn chân chính trở nên thất truyền vì không người
tu học, nghiên cứu. Các tu sĩ chân chính phải trốn tránh, từ bỏ các giáo đường
uy nghiêm. Nền văn minh đặt căn bản trên kiến thức huyền môn cũng tàn lụi, khi
cánh cửa huyền môn chân chính khép chặt. Các ông nên biết, trong thời cổ, hầu hết
các khoa học gia, y sĩ, các nhà toán học kiến trúc đều xuất thân từ giới tu sĩ
hoặc học hỏi trong các tu viện; vì thời đó, không có trường học hay nền giáo dục
như bây giờ. Khi bùa chú, phép thuật mê hoặc nhân tâm, thúc đẩy con người từ bỏ
thượng đế để tôn thờ các loài ma quái thì các thứ như chiêm tinh, toán học, kiến
trúc, không còn lý do để tồn tại. Thời gian trôi qua, nền văn minh Ai cập huy
hoàng đã xuống dốc cực kỳ thảm hại. Chính các tu sĩ lầm lạc, ích kỷ đầy tham vọng
là nguyên nhân gây nên hoàn cảnh trên. Họ lợi dụng danh nghĩa tôn giáo, một thứ
tôn giáo ma quái để đưa Ai cập vào con đường thoái hoá. Thay vì lo giải thoát
cho chính mình khỏi mê lầm, thì họ lại hướng dẫn quần chúng vào ma đạo. Thay vì
tuân theo các giới luật thì họ lại phá giới, nguỵ biện bằng các danh từ hoa mỹ,
tốt đẹp. Thay vì kiểm thảo nội tâm, họ lập phe nhóm bênh vực lẫn nhau để che dấu
các hành vi tà muội. Khoa nghi thức hành lễ mất hết các tính cách thiêng liêng,
mà chỉ còn hình thức bề ngoài, kêu gọi một năng lực ngoại giới đến trợ giúp quyền
uy giáo sĩ. Sự hiến dâng biến thành hối lộ, tu sĩ lựa chọn các thứ mình thích
nhất như món ăn, thiếu nữ xinh đẹp để tế thần. Sau đó đem chia chác cho nhau
cùng hưởng thụ; thượng đế nhân từ bác ái bỗng biến thành một thần linh toàn lực,
toàn uy, trọn quyển thưởng phạt mà giới giáo sĩ là trung gian. Để lung lạc nhân
tâm, khoa bùa chú, thôi miên được sử dụng tối đa như một phương tiện cần thiết
để thỏa mãn tham vọng cá nhân. Để tránh các tinh túy huyền môn không lọt vào
tay giới bàng môn tà đạo, các tu sĩ chân chánh đã sử dụng khoa Ám Tự (chữ tượng
hình cổ Ai cập). Đây là một văn tự huyền bí ẩn dấu nhiều ý nghĩa tâm linh mà chỉ
các tu sĩ chân chính sau khi vượt qua thử thách mới được tiết lộ. Sự sử dụng ý
nghĩa biểu tượng hoặc tỷ dụ được dùng tối đa, chính Moses về sau đã sử dụng
ngôn ngữ này trong các cuốn sách của Do thái . Sự bành trướng của nhóm tà đạo
quá mạnh, các tu sĩ chân chính phải rút vào rừng sâu núi thẳm và cuối cùng thì
khoa huyền môn chân chính cũng thất truyền. Một số giáo sĩ, khoa học gia, các
nhà toán học, kiến trúc, trốn sang Hy Lạp và truyền dạy các khoa này tại đây, mở
đầu cho một nền văn minh mới. Trong khi đó, để lôi cuốn phe đảng, vấn đề truyền
giáo được đặt ra và giới tăng lữ buộc các vua Pharaoh phải gây chiến tranh để
truyền bá tôn giáo. Các cuộc “thánh chiến” này đã đem lại một giai cấp mới - Nô
lệ.
Giáo sư Mortimer ngạc nhiên:
- Như thế lúc trưóoc không có nô lệ hay sao?
Hamud lắc đầu:
- Nền văn minh cổ đặt căn bản trên sự bác ái hoàn hảo của từng
cá nhân, làm gì có vấn đề nô lệ. Hiện tượng nô lệ chỉ bắt đầu khi văn hoá suy đồi,
giới tu sĩ lộng hành và sau các cuộc chiến tranh. Lúc đầu họ là tù binh chiến
tranh, về sau họ trở thành nô lệ. Sau đó các giáo sĩ đặt ra luật những ai không
cùng tôn giáo đều bị coi là nô lệ. Dân Do thái vì khác tôn giáo nên trở thành nạn
nhân đầu tiên. Tình trạng nô lệ thay đổi xã hội rất nhiều, các giáo sĩ không cần
sử dụng bùa chú, thôi miên để thỏa mãn dục vọng, các nô lệ đương nhiên phải
làm tất cả những gì chủ nhân muốn. Theo thời gian, pháp môn phù thủy, bùa chú
cũng thất truyền vì giới tu sĩ không cần đến nó nữa. Khi các phép thuật biến mất
thì uy tín các giáo sĩ cũng giảm theo, và các vua Pharaoh bắt đầu hạn chế quyền
lực các giáo sĩ. Khi nền văn minh xuống dốc, các chân lý tốt đẹp biến mất, đời
sống hưởng thụ của tiện nghi vật chất khiến các vua chúa trở nên ích kỷ, chỉ muốn
kéo dài đời sống, nên phong tục xây cất nhà mồ, ướp xác trở nên thịnh hành, vì
nó hứa hẹn một đời sống vĩnh cữu. Công cuộc xây cất những ngôi mộ vĩ đại đã làm
khánh kiệt tài sản quốc gia, đưa xã hội Ai cập vào một tình trạng suy thoái… Do
đó, Ai cập trở nên một miếng mồi ngon cho Ba Tư và Hy Lạp... Lịch sử đã ghi chép
khá rõ ràng từ lúc này, tôi chắc các ông đã biết rõ…
Phái đoàn im lặng nhìn nhau, sự suy yếu của Ai cập sau khi bị
Ba Tư, Hy Lạp cai trị không phải là một điều gì xa lạ, nhưng tại sao một nền
văn minh như Ai cập đã xây cất những Kim tự tháp hùng vĩ, đã sản xuất bao nhân
tài, ảnh hưởng sâu rộng đến toàn cõi Trung đông, lại suy sụp mau chóng vẫn còn
là một câu hỏi lịch sử. Lời giải thích của Hamud là một chìa khoá vô giá về lịch
sử này.
Nhà pháp sư Ai cập mỉm cười nhìn tất cả mọi người:
- Lịch sử nhân loại luôn luôn biến đổi theo chu kỳ, nhiều việc
xảy ra trong quá khứ sẽ tiếp diễn lại. Có sống trong thời buổi đen tối, hỗn loạn,
đầy đau khổ hoang mang, nhân loại mới ao ước cõi tâm linh cao thượng. Nhu cầu
này sẽ được đáp ứng, và một đấng thánh nhân sẽ chuyển kiếp xuống trần, mở rộng
cánh cửa tâm linh, hướng dẫn nhân loại dưới một hình thức, phương tiện thích hợp
với hoàn cảnh thời gian và không gian khi đó. Điều này đã xảy ra nhiều lần tại
các nơi khác nhau trên thế giới, từ Trung hoa qua Ấn độ, đến Trung đông. Các bậc
thánh nhân đều rao truyền những chân lý cao siêu, đẹp đẽ, nhưng vì nhân loại cứ
u mê, thiếu hiểu biết, nên chỉ ít lâu sau tất cả lại quay cuồng vào vết xe cũ.
Các chân lý cao đẹp bị xuyên tạc, sửa đổi, giảng giải sai lạc bởi các giáo sĩ
mê tín, thành kiến, đầy cuồng tín. Dù sao đi nữa bánh xe tiến hóa vẫn quay đều
và trong mọi hoàn cảnh, thời đại nào cũng có các cá nhân cố gắng vượt mức để tự
giải thoát ra khỏi ảo ảnh của màn vô minh để nhận định chân lý…
Hamud im lặng một lúc rồi thong thả:
- Tôi muốn các ông ghi nhận một điều này, các ông có thể coi
đó như một lời tiên đoán hay cảnh cáo trước cũng được. Thời gian sắp đến sẽ là
một giai đoạn cực kỳ tiến bộ về tri thức, nhưng thoái bộ về tâm linh. Mọi sự hiểu
biết chỉ nhắm vào hiện tượng thay vì nguyên nhân bản chất. Do đó, nền khoa học
tương lai không thể chuyển biến được lòng người hoặc giúp cho con người có cái
nhìn sáng suốt, có được một tâm hồn bình an. Nền “khoa học hiện tượng” chỉ kích
thích giác quan, cảm xúc hướng ngoại sẽ khiến cho con người cực kỳ bất mãn, lo
âu và trở nên hoang mang phiêu bạt. Thêm vào đó, sự khai quật các ngôi cổ mộ Ai
cập sẽ tháo củi xổ lồng cho vô số âm binh, các động lực cực kỳ hung dữ. Như tôi
vừa kể với các ông, thời kỳ chót của nền văn minh Ai cập, các giáo sĩ đã thực
hành tà thuật tối đa, mà khoa ướp xác là một bí thuật mang sự liên lạc của cõi
vô hình vào cõi trần. Tất cả các ngôi mộ cổ đều là nơi giam giữ các động lực vô
hình để canh giữ, duy trì ảnh hưởng tà môn. Khi được tháo củi xổ lồng, chúng sẽ
mang nền tà giáo cổ Ai cập trở lại thế kỷ này. Dĩ nhiên, dưới một hình thức nào
nó hợp thời hơn. Một số pháp sư vốn là sứ giả cõi âm sẽ đầu thai trở lại, hoặc
nhập xác để tác oai, tác quái, tái tạo một xã hội tối tăm, sa đọa, đi ngược
trào lưu tiến hoá của thượng đế. Thế giới sẽ trở thành nạn nhân của thứ tôn
giáo ma quái này.. Chiến tranh, đau khổ, bất an cùng các kích thích của cảm
giác mới lạ do nền “khoa học hiện tượng” mang lại, sẽ thúc đẩy con người vào
các cùng cực của cuộc sống. Trong thời buổi này, khối óc ly trí không giúp được
gì mà chỉ có sự hiểu biết và ý thức bản chất thầm lặng của nội tâm mới đáp ứng
được. Đó là lối thoát duy nhất mà thôi.
Giáo sư Allen ngắt lời:
- Nhưng đã có bằng chứng gì về sự hiện diện của các động lực
vô hình này. Làm sao có thể cảnh cáo mọi người về sự trở lại của pháp sư thời cổ? Người Âu Mỹ sẽ chẳng bao giờ chấp nhận một điều hoang đường, vô lý nếu không
có bằng chứng rõ rệt.
Hamud mỉm cười bí mật:
- Cõi âm là đối tượng nghiên cứu của tôi, nên tôi có thể
trình bày một vài dữ kiện để các ông suy nghiệm, như một bằng chứng. Chuyện xảy
ra đã bắt đầu xảy ra, theo thời gian các ông sẽ thấy. Dù các pháp sư tà đạo thời
cổ này có khéo léo dẫn dụ con người bằng những danh từ hoa mỹ, những chủ thuyết
đẹp đẽ thế mấy đi nữa, thì họ vẫn chỉ có thể sống như một con người. Dù thế nào
họ cũng không thể bỏ qua các thói quen cũ của quá khứ, họ sẽ đội lốt tôn giáo,
họ sẽ kêu gọi sự hợp tác của thần quyền, họ sẽ đặt ra các giáo điều mới, thay
thế các chân lý cao đẹp để lôi kéo con người từ bỏ thượng đế. Họ sẽ sử dụng
danh từ, ngôn ngữ để đánh lạc hướng mọi người, tuy nhiên trước sau gì họ cũng
phải chết và trước khi chết, họ sẽ di chúc yêu cầu ướp xác họ và xây dựng những
nhà mồ vĩ đại bằng đá như họ đã từng làm trong quá khứ…
Giáo sư Allen bật cười:
- Như vậy thì nhận diện họ quá dễ, nhưng tôi không tin thời
buổi này còn ai ướp xác, xây cất nhà mồ như vậy, ông nên nhớ chúng ta đã bắt đầu
vào thế kỷ 20, không phải tám ngàn năm trước?
Hamud mỉm cười:
- Rồi các ông sẽ thấy, tôi mong các ông ghi chép những điều
này cẩn thận rồi đúng hay sai thời gian sẽ trả lời.
Chương 10
“Yêu cầu chấm dứt cuộc du khảo. Mọi tài trợ cắt đứt. Trở về
Luân đôn ngaỵ”
Bức điện tính đến bất ngờ, làm phái đoàn hết sức sửng sốt.
Bác sĩ Kavir cho biết một tờ báo ở Luân đôn đã ghi nhận rằng phái đoàn khoa học
ưu tú nhất Anh quốc, đã quỳ mọp bên cạnh những đạo sĩ “trần truồng” xứ Ấn để
nghe dạy bảo.
Dư luận quần chúng hết sức phẩn nộ, đòi đại học Oxford phải
ngưng ngay các cuộc du khảo và triệu hồi phái đoàn trở về để giải thích. Phái
đoàn lập tức lấy xe lửa trở về Bomby.
(Ghi chú: Khi đó Ấn độ đang là thuộc địa của Anh, và vấn đề
kỳ thị chủng tộc, giai cấp còn rất mạnh) Nhật ký của giáo sư Spalding:
“Thật là bất ngờ khi chúng tôi nhận được bức điện tín, kèm
theo đó là một bức thư của Lãnh sự quán Bombay cùng những mẫu báo nói về những
giáo sư đại học của Hoàng gia đã “quỳ mọp” bên cạnh những phù thủy Ấn mang rợ để
nghe dạy bảo. Lời tường thuật đầy ác ý của một ký giả thiếu sáng suốt, đã phá
hoại công trình sưu tầm nghiên cứu đang diễn ra tốt đẹp. Làm sao có thể giải
thích cho quần chúng hiểu rằng ngoài các phong tục, tôn giáo hỗn độn, phức tạp,
hoang đường, mê tín dị đoan còn ẩn dấu các chân lý cao đẹp mà người Âu cần
nghiên cứu. Đành rằng Ấn độ đã ngủ say trong bao thế kỷ nay, nhưng trong sự suy
đồi vật chất vẫn tiềm tàng một sinh lực tâm linh mãnh liệt đang chờ đợi được
đánh thức.
Chúng tôi đã học hỏi nhiều trong cuộc du khảo này, bài học đầu
tiên do một người Anh, thương gia Keymakers đã dạy:
- Để nghiên cứu một cách vô tư và khoa học, người Âu cần gạt
bỏ lòng tự kiêu, thành kiến văn hóa, chỉ giữ gìn một đầu óc khoa học, phê bình
chặt chẽ để có thể xuyên qua rừng người mê tín tìm đến sự thật.
Như một viên ngọc quý cần phải được mài dũa, cuộc đi tìm chân
lý cũng thế, chúng tôi đã mất mấy năm trời tìm tòi, gạn lọc mới gặp được các vị
đạo sư tiêu biểu cho đời sống tâm linh thực sự của xứ Ấn. Nhờ những may mắn
tình cờ, chúng tôi đã gặp các sinh hoạt tâm linh cao thượng mà ít người Âu nào
có diễm phúc khám phá. Tất cả những chân lý từ trước đến nay chỉ được truyền bá
một cách hết sức bí mật, thận trọng, đã được tiết lộ cho chúng tôi. Là một phái
đoàn khoa học, chúng tôi đã phân tách kỹ lưỡng, kiểm soát cẩn thận, phê bình
chặt chẽ và đặt câu hỏi cho đến khi thật rõ ràng. Mỗi người chúng tôi đều ghi
chép vào sổ tay cá nhân riêng những sự kiện quan sát, sau đó chúng tôi cùng
nhau kiểm điểm, bàn luận và kiểm chứng lại tài liệu này cho đến khi tất cả đồng
ý là chính xác, mới ghi vào hồ sơ chính. Nhờ phương thức này, chúng tôi quả quyết
rằng tài liệu ghi nhận hoàn toàn đặt căn bản trên nền tảng khoa học chứ không
phải sự tin tưởng hay hiểu biết của một cá nhân.
Chúng tôi hy vọng khi công bố, các kết quả này sẽ là một nhịp
cầu thông cảm giữa hai văn hoá và thúc đẩy những cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn.
Sự kiện vừa qua đã thay đổi tất cả và làm sụp đổ mọi kỳ vọng khiêm tốn nhất.
Giáo sư Allen tin rằng nếu chúng tôi trở lại Luân đôn tuyên bố những điều khám
phá và giải thích lý do một cách rõ ràng có thể quần chúng sẽ có thiện cảm hơn
chăng? Tôi không nghĩ như thế, hiện tại còn quá sớm để thay đổi một dư luận bắt
nguồn từ những quan niệm hẹp hòi, những thành kiến và sự tự hào mù quáng.
Người Âu chỉ nhìn Ấn độ như một xứ chậm tiến, một thuộc địa dốt
nát, mê tín đầy những kẻ thất học, chứ nào thấy được những giá trị tinh vi, những
khoa học tiến bộ được che dấu cẩn thận dưới ánh nắng thiêu đốt miền nhiệt đới.
Giáo sư Mortimer và nhóm khoa học gia Hoa kỳ có ý muốn tách
riêng và tiếp tục cuộc nghiên cứu vì xứ Hoa kỳ dù sao cũng ít thành kiến hơn. Đại
học Yale và Harvard sẵn sàng bảo trợ cuộc du khảo, nhất là khi nó đã có kết quả.
Với tư cách trưởng phái đoàn, tôi không muốn thấy công trình tốt đẹp bị gián đoạn
nhưng cũng không muốn đại học Hoa kỳ hưởng hết kết quả, dù sao tôi cũng là một
người Anh, với mọi tự hào về truyền thống Oxford đã đào tạo ra chúng tôi, và
chúng tôi muốn tên tuổi nó trong cuộc khảo cứu tiền phong này.
Viên lãnh sự lạnh nhạt tiếp đãi phái đoàn trong căn phòng nhỏ.
Y chỉ mẫu báo nói về cuộc nghiên cứu đang trở nên một đề tài hấp dẫn, được báo
chí khai thác triệt để:
- Các ông nên biết điều một chút, dù sao các ông cũng là những
khoa học gia, giáo sư đại học lừng lẫy, có chân trong hội Khoa học Hoàng gia.
Các ông là đại diện cho thành phần danh dự, ưu tú nhất nước Anh… Các ông đã làm
mất uy tín Hoàng gia, tại sao các ông không chịu ngồi yên ở Oxford? Cái xứ
nóng bực này có gì đâu để khảo cứu…
Giáo sư Oliver nổi nóng:
- Đó là việc riêng của chúng tôi, anh biết gì mà nói…
Viên lãnh sự nhếch miệng cười nhạt:
- Đó không phải việc riêng của các ông nữa, nó liên quan đến
danh dự Hoàng gia, danh dự Oxford. Các ông nên biết tôi cũng xuất thân từ
Oxford…
Giáo sư Oliver buột miệng:
- Nếu anh xuất thân từ Oxford thì anh phải biết cuộc khảo cứu
này sẽ làm rạng danh đại học của chúng tạ Một ngày nào đó, người ta sẽ nói rằng
chính Oxford đã tiên phong trong việc khảo cứu các hiện tượng huyền bí, các môn
Yoga….
- Yoga? Yoga là cái gì? Ông muốn nói đến một loài thú nào
chăng?
Giáo sư Oliver há hốc miệng, không nói thêm lời nào. Một sự
ngờ nghệch như vậy có thể tha thứ được đối với một công dân tầm thường, vô học,
chỉ quanh quẩn nơi xó nhà, chưa hề ra khỏi tầm chuông nhà thờ Westminster… Đằng
này y là một lãnh sự, đại diện cho Hoàng gia, xuất thân từ Oxford và đã sống ở Ấn
độ hơn 6 năm naỵ Viên lãnh sự xem xét thông hành và cho biết phái đoàn phải rời
Ấn độ ngay trong tuần lễ sau.
Nhật ký của giáo sư Spalding:
Trong khi mọi người trở về khách sạn, chờ đợi ngày lên tàu trở
về Luân đôn. Tôi vẫn linh cảm sẽ có một chuyện gì xảy ra. Tôi lang thang trong
khu phố Bombay đông đúc, đầu óc mơ hồ, không biết phải làm gì. Tôi cố ôn lại những
việc xảy ra trong vòng nửa năm quạ Quả thế, từ hôm thất vọng đi lang thang như
thế này trong thành Benares. Tôi đã gặp một người Ấn cao lớn, khác thường đã
chuyển giao thông điệp của một Chân Sự Từ đó khắp mọi nơi, phái đoàn luôn luôn
được che chở và may mắn gặp gỡ những người dành trọn đời cho việc đi tìm chân
lý, những người đã thắng đoạt thiên nhiên, đã chinh phục được các sức mạnh vô
hình trong trời đất, đã có quyền năng phi thường… Đúng như lời người đó nói, sự
nghiên cứu đã vén mở được những điều phái đoàn muốn tìm kiếm, nhưng mọi người vẫn
chưa hài lòng. Chúng tôi ao ước được gặp vị Chân Sư bí mật, một người mà tôi có
cảm giác đã quen, đã biết từ một tiềm thức xa xôi nào. Trong giây phút đó, tôi
bỗng có một ý tưởng lạ lùng, bằng tất cả sức mạnh tư tưởng tôi ao ước vị Chân
Sư bí mật này hãy giúp đỡ chúng tôi, hãy cho chúng tôi gặp mặt.
Đang đắm chìm trong dòng tư tưởng triền miên bỗng tôi giật
mình, một cảm giác lạ lùng như một luồng điện chạy dọc theo xương sống, khiến
tôi mở choàng mắt ra. Dưới chân một cây cổ thụ cao lớn, cành lá xum xuê, một
người Ấn với khuôn mặt phương phi, quai hàm rộng, trán cao, cặp mắt tinh anh có
khả năng thu hút người khác. Còn ai vào đây nữa, chính người Ấn lúc đầu mà tôi
đã gặp tại thành Benares. Chính người này đã mang thông điệp đầu tiên cho phái
đoàn. Tôi vội vã chạy đến mừng như gặp bạn cố trị Người Ấn mỉm cười:
- Thế nào? Việc nghiên cứu của các ông tốt đẹp chứ? Tôi hy
vọng Brahmananda, Sudeih Babu, Mahasaya, Harishinanda, Hamud El Sari… không làm
các ông thất vọng.
Tôi há hốc miệng, không nói được câu nào. Tại sao người này
dường như biết tất cả?
Người Ấn mỉm cười:
- Bạn mến, cách đây nửa năm, bạn có hỏi tôi rằng, các bậc
Chân Sư có thật hay không? Nếu có thật tại sao các ngài không xuất hiện dạy dỗ
quần chúng? Sự ẩn dật đâu có lợi ích gì? Lúc đó, trong lòng bạn thật sự không
lấy gì tin tưởng về sự hiện hữu của những cá nhân đã tiến xa trên con đường đạo.
Tôi đã trả lời rằng, vì không biết rõ các ngài nên quan niệm thông thường không
thể xét đoán các ngài một cách đứng đắn. Thực ra các bậc toàn thiện luôn luôn
xuất hiện để giúp đỡ thế gian một cách lặng lẽ, âm thầm. Đa số mọi người tin rằng
các ngài phải hiện ra trong hào quang rực rỡ, với các phép thần thông biến cõi
trần đau khổ này thành một cõi thiên đàng. Điều này sẽ không bao giờ xảy ra… Khi đó bạn không hoàn toàn đồng ý, là một người Thiên chúa giáo, bạn vẫn nghĩ rằng,
đấng Christ đã hứa sẽ trở lại cứu rỗi tất cả… Thực ra đấng Christ có bao giờ rời
bỏ chúng ta đâu. Lúc nào ngài chả luôn bên cạnh ta, giúp đỡ chúng tạ Sự tin tưởng
rằng ngài sẽ trở lại trong một vầng hào quang sáng chói là một điều không đúng.
Chúng ta chỉ quen tìm kiếm thượng đế bên ngoài như một đấng toàn năng có thể
giúp ta thỏa mãn những điều mong ước, chứ không chịu tìm kiếm ở nội tâm, nơi
ngài luôn ngự trị. Tôi hy vọng sự tiếp xúc với các đạo sĩ trong thời gian qua sẽ
giúp bạn một căn bản vững chắc, một niềm tin mãnh liệt để có thể tiếp tục việc
nghiên cứu.
Tôi kinh ngạc đến sững người, không những người Ấn này biết
rõ tất cả mà dường như còn đọc được tư tưởng người khác. Người Ấn mỉm cười hiểu
ý:
- Các bạn đã được chỉ dẫn về khoa Yoga, các phương pháp dưỡng
sinh, cõi giới vô hình, môn chiêm tinh bí truyền, các luật vũ trụ, quan niệm về
Phàm Ngã và Chân Ngã… Các bạn đã tỏ ra say mê, thích thú vì đó là điều khao
khát bấy lâu nay, đúng không?
- Tại sao… tại sao ông lại biết rõ như vậy?
Người Ấn dịu dàng :
- Vì tôi là người được chỉ thị phải giúp đỡ các bạn. Chính
tôi đã theo dõi tư tưởng các bạn từ khi phái đoàn vừa đặt chân đến xứ này. Tôi
hết sức thông cảm sự bất mãn, buồn phiền, chán nản suốt hai năm đầu, khi các bạn
đến thăm các đền đài nguy nga, tiếp xúc với các đạo sĩ nổi tiếng nhưng không học
hỏi được điều gì mới lạ. Thay vì gặp các bậc hiền triết, các bạn gặp toàn những
kẻ bịp đời, những người giữ chức tước, địa vị thật cao mà công phu tu hành, trì
giới lại rất thấp. Thay vì gặp những đạo sư có kinh nghiệm tâm linh, các bạn gặp
những tu sĩ miệng nói thao thao như nước chảy mà chả biết mình đang nói gì,
hình như chân lý cao siêu mà y trích dẫn từ kinh điển không dính dáng gì đến đời
sống an nhà, sung sướng trong các đền thờ đồ sộ của y cả. Tất cả đều là những
thử thách cho sự nghiên cứu của các bạn. Một chân lý có giá trị thực sự phải chịu
nổi các thử thách của thời gian. Cuộc đi tìm chân lý cũng thế, nó đòi hỏi một sự
cố gắng và một tinh thần khoa học, suy xét để gạt bỏ các điều mê tín, các thành
kiến. Các bạn đã xứng đáng được truyền dạy những chân lý cao đẹp đó, tôi mới đến
gặp bạn tại Benares và chuyển giao thông điệp của một vị Chân Sự Nhờ thế các bạn
mới thực sự gặp được những người tiêu biểu cho nền minh triết của Á châu. Tuy
nhiên, như tôi đã nói nếu bạn muốn đi xa hơn để gặp các bậc chân sư thì lại
khác…
- Ông tin rằng chúng tôi có thể gặp các ngài?
- Dĩ nhiên, nếu các bạn chọn con đường này, nó sẽ là một cuộc
hành trình khác hẳn cuộc hành trình vừa quạ Các bạn sẽ không thể đứng bên ngoài
mà nhìn vào, để nghiên cứu, ghi nhận như một khách bàng quang. Cuộc hành trình
này phải là một kinh nghiệm cá nhân. Một sự hiểu biết mà không do mình tìm ra.
Kinh nghiệm thật ra chỉ là một hiểu biết hời hợt, nông cạn. Sự hiểu biết do người
khác mang lại, dù bằng bất cứ phương tiện nào, cũng chỉ là kinh nghiệm của người
đó. Ta không thể trông đợi một chân lý đến từ bên ngoài, mà phải biết thế nào
là đủ để dừng lại, để trở về. Đi xa tức là trở về, đó mới là con đường đứng đắn.
Cuộc hành trình này không như lần trước “đi ra ngoài”, tiếp xúc với các đạo sư,
ghi nhận những tinh hoa, soạn thảo tài liệu, mà phải là một cuộc hành trình “trở
về”, một cuộc hành trình về phương đông. Các bạn không thể nhân danh phái đoàn
đi quan sát, ghi nhận nữa, mà phải là một nhóm người đi tìm chân lý và sống với
chân lý đã học được. Trong cuộc hành trình này, các bạn sẽ không được công nhận
bởi các đại học, dư luận quần chúng. Danh vọng của bạn có thể bị xuyên tạc, điều
bạn học hỏi có thể bị chế nhạo, nghi ngờ. Các bạn sẽ hết sức cô đơn, nản lòng,
thối chí, có lúc bạn sẽ sợ hãi và đâm ra nghi ngờ những điều đã xảy ra. Tóm lại,
các bạn cần suy nghĩ cho kỹ trước khi quyết định. Nếu trở về Luân đôn một thời
gian, đợi dư luận lắng dịu, các bạn có thể công bố những điều ghi nhận, nhưng mọi
người có tin hay không lại là chuyện khác. Nếu muốn tiếp tục, các bạn phải rời
bỏ tất cả để làm một cuộc hành trình lên Tuyết Sơn. Đây là giây phút quyết định.
- Nếu chúng tôi muốn tiếp túc cuộc hành trình thì phải làm thế
nào?
Người Ấn mỉm cười:
- Tại sao bạn lại cứ hỏi tôi, phải làm gì? Tôi phải làm thế
nào? Nếu muốn các bạn chỉ việc lên đường, có thế thôi.
Định mệnh con người luôn luôn có những thay đổi lớn, mặc dù
không thấy rõ nhưng chúng ta vẫn vô tình tiến đến mục tiêu đã vạch sẵn. Không đầy
hai tuần lễ sau, chúng tôi đã đứng trong làng Potar, ngay sát chân dãy Hy Mã Lạp
Sơn hùng vĩ. Chúng tôi đã bỏ lại tất cả, danh vọng, địa vị, đoạn tuyệt với
thành kiến, tự ái cố hữu của người Tây phương.
Cuộc hành trình về phương Đông của chúng tôi bắt đầu.
Blair T.Spalding
Dịch giả: Nguyên Phong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét