Thi ca là quà tặng của tâm hồn và con tim. “Trong tim
trong óc của con người có những chỗ bất cập với hình ảnh nghe nhìn chỉ có thơ
(tức là ngôn từ cao cấp) mới len vào được” (Maiakovski). Bởi vì thơ là một
‘’kỷ nghệ đặc biệt” nên từ trái tim đến trái tim chỉ có thể len vào được bằng
thơ. Vì vậy thơ ca là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống con người.
Giữa bộn bề cuộc sống thì góc thơ vẫn là nơi yên bình để tâm hồn mình trú ngụ với
những ngọt ngào sẻ chia. Một trong những nhà thơ đương đại được bạn đọc yêu
thích hơn nửa thế kỷ là TRẦN DZẠ LỮ với những bài thơ tình quyến rũ.
Khi tôi chưa có mặt trên đời thì thơ Trần Dzạ Lữ đã bay bổng trên các tạp chí
tên tuổi từ thập niên 60 của thế kỷ xx. Đến lúc tôi bắt đầu cảm nhận được cái
hay, cái đẹp những bài thơ tình của anh thì anh đã là một trong những “cây cổ
thụ” của thi ca đương đại. Tháng chín năm nay tôi bất ngờ nhận được món quà là
tập thơ có tựa đề rất ấn tượng CỨA NÁT MUÔN TRÙNG - Nhà XB hội nhà văn gồm có
91 bài thơ tình do chính tác giả ký tặng. Tôi đã đọc một mạch hết bài này đến
bài khác cho đến hết tập thơ chỉ trong một buổi chiều thu. Như vậy đủ đển thấy
thơ anh hấp dẫn lôi cuốn người đọc như thế nào. Tập thơ viết về tình yêu và đó
là tiếng lòng của thi nhân. Tôi đã đọc đi đọc lại mấy lần để cảm nhận vẻ đẹp về
nội dung và nghệ thuật. Thơ anh dung dị, đằm thắm mà thiết tha. Cái tình trong
thơ luôn mộc mạc gần gũi, sâu sắc mà tế nhị của phong cách Á đông. Cứ mỗi lần đọc
lại một bài thơ tôi lại phát hiện thêm những điều mới mẻ ẩn hiện sau bài thơ. Mỗi
bài thơ có một vẻ đẹp lung linh của cảm hứng trữ tình, đậm đà da diết.
Viết về tác giả và tác phẩm tôi xin trình bày thành 3 mục như sau:
1/ Vài nét khái quát về văn nghiệp của TRẦN DZẠ LỮ.
2/ TRẦN DZẠ LỮ - Nhà thơ của tình yêu nồng nàn say đắm
3/ Thi pháp thơ TRẦN DZẠ LỮ
2/ TRẦN DZẠ LỮ - Nhà thơ của tình yêu nồng nàn say đắm
3/ Thi pháp thơ TRẦN DZẠ LỮ
1/ VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ VĂN NGHIỆP CỦA TRẦN DZẠ LỮ
Nhà thơ Trần Dzạ Lữ tên thật là Trần Văn Duận
Anh sinh ngày 25/2/1949
Tại ngôi làng xinh đẹp mang tên Ngọc Anh của thành phố Huế mộng mơ.
Anh sinh ngày 25/2/1949
Tại ngôi làng xinh đẹp mang tên Ngọc Anh của thành phố Huế mộng mơ.
Anh bắt đầu viết từ khi còn là cậu học trò cấp 2 (bậc phổ thông cơ sở) thập
niên 1960. Các sáng tác của anh được đăng trên các tạp chí: Văn, Văn Học, Bách
Khoa, Thời Nay, Khởi Hành, Thời Tập, Giữ Thơm Quê Mẹ, Tuổi Ngọc,…
Sau năm 1975 các sáng tác của anh được hiện diện trên các báo, tạp chí: Kiến
Thức Ngày Nay, Thanh Niên, Phụ Nữ, Người Lao Động, Tuổi Trẻ, Thời Văn, Áo Trắng,
Người Hà Nội , Ngày Mới…
Anh là hội viên Hội Nhà Văn Thành phố Hồ Chí Minh.
Các tác phẩm đã xuất bản:
- HÁT DẠO BÊN TRỜI (Nhà xuất bản Trẻ, năm 1995)
- GỌI TÌNH BÊN SÔNG (Nhà xuất bản Trẻ, năm 1997)
- THƠ TÌNH VIẾT TRÊN BAO THUỐC LÁ (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, năm 2014)
- CỨA NÁT MUÔN TRÙNG (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, năm 2015)
- GỌI TÌNH BÊN SÔNG (Nhà xuất bản Trẻ, năm 1997)
- THƠ TÌNH VIẾT TRÊN BAO THUỐC LÁ (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, năm 2014)
- CỨA NÁT MUÔN TRÙNG (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, năm 2015)
Các sáng tác của anh đã góp mặt trong các thi tuyển:
- Thơ Tình Việt Nam và Thế Giới (Nhà xuất bản Thanh Niên, năm 1989)
- Nghìn Câu thơ tài hoa (Nhà xuất bản Văn Học, năm 2000)
- Thơ Việt Nam 1945-2000 (Nhà xuất bản Lao Động, 2001)
- Ngàn năm Thương Nhớ (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2004)
- 700 năm Thơ Huế (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2008)
- Cùng một lứa bên trời lận đận (Nhà xuất bản Thanh Niên, 2009)
- Thơ Tình Việt Nam và Thế Giới (Nhà xuất bản Thanh Niên, năm 1989)
- Nghìn Câu thơ tài hoa (Nhà xuất bản Văn Học, năm 2000)
- Thơ Việt Nam 1945-2000 (Nhà xuất bản Lao Động, 2001)
- Ngàn năm Thương Nhớ (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2004)
- 700 năm Thơ Huế (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2008)
- Cùng một lứa bên trời lận đận (Nhà xuất bản Thanh Niên, 2009)
Với một bề dày sáng tác của anh như thế có lẽ cũng đã không ít nhà phê bình đã
viết về con người thơ Trần Dzạ Lữ và tác phẩm của anh. Tôi chỉ là kẻ hậu sinh
yêu thơ, đọc thơ anh và có đôi dòng cảm nhận.
Trước hết thơ được bạn đọc yêu mến bởi thơ anh mang phong cách trữ tình, hài
hòa cân đối trong từng câu từng chữ. Tình yêu là chủ đề lớn trong thơ trữ tình
của nhà thơ TRẦN DZẠ LỮ. Mỗi bài thơ đều chứa đầy tình người, tình đời và ăm ắp
thi vị.
Từ xưa đến nay đã biết có bao văn nhân thi sĩ nói về đề tài tình yêu. Maksim
Gorky nói rằng: “Con người sinh ra có linh hồn chính là để yêu”.
Còn Xuân Diệu của chúng ta thì:
“Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào”
(Xuân Diệu)
“Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào”
(Xuân Diệu)
Không biết có bao nhiêu người đồng tình với họ? Chỉ biết rằng tình yêu đã đồng
hành với sự tồn tại của con người từ thuở hồng hoang đến bây giờ và tin rằng
còn đến cả mai sau. Cũng với bấy nhiêu cung bậc yêu thương, nhung nhớ, giận hờn…
Nhưng mỗi người có cách giải bày riêng. Thơ tình Trần Dzạ Lữ có nét độc đáo rất
riêng. Có chất men say trong ngôn ngữ thơ phải nói là rất “ Trần Dzạ Lữ.”
Thơ Trần Dzạ Lữ là tiếng nói cất lên từ trái tim đa cảm. Thơ anh dẫn dắt người
đọc đắm chìm trong một bầu không khí lãng mạn của tình yêu đôi lứa. Ngôn từ
dung dị mà tha thiết ngọt ngào. Những câu thơ trữ tình lay động người đọc bởi sự
chân thành chứa chan tình yêu say đắm nồng nàn. Tình yêu tha thiết anh dành cho
thơ hơn nửa thế kỷ đến nay anh vẫn miệt mài sáng tác. bắt gặp những điều đó qua
những câu thơ được viết ra từng những cung bậc của tình yêu:
“Chiều nay thiêu thiếu một người
Anh nghe thiếu cả một trời an yên
Môi cười ấy dễ nào quên
Chưa ba đào đã sóng lên địa đàng”
(Chiều nay thiêu thiếu một người)
Anh nghe thiếu cả một trời an yên
Môi cười ấy dễ nào quên
Chưa ba đào đã sóng lên địa đàng”
(Chiều nay thiêu thiếu một người)
Tình yêu trong thơ anh là tình yêu sắt son, thủy chung với người tri âm tri kỷ.
Ngồi đối diện với ly rượu trong một ngày cuối năm nhà thơ cũng chỉ nghĩ đến
bóng dáng của nhân vật trữ tình trong thơ với một tình yêu bỏng cháy và nhớ
nhung:
“Tháng chạp rồi… Ngồi đối bóng căm căm
Ly rượu cạn nhưng tình không thể cạn
Nếu ngày mai đất trời quên độ lượng
Hồng thủy buồn ta vẫn cứ yêu em”
(Tháng chạp rồi)
Ly rượu cạn nhưng tình không thể cạn
Nếu ngày mai đất trời quên độ lượng
Hồng thủy buồn ta vẫn cứ yêu em”
(Tháng chạp rồi)
Thơ tình của anh quả là lãng mạn với cách viết nhiều ví von, những hình ảnh ẩn dụ,
so sánh tinh tế và biện pháp tu từ đầy biểu cảm:
“Nụ cười em đã nhốt lấy hồn tôi
Gã lãng tử chưa hề lòn cúi
Thích mây trời và lang thang khắp lối
Sao bây giờ nhận tội yêu em?’’
(Nụ cười em đã nhốt lấy hồn tôi)
Gã lãng tử chưa hề lòn cúi
Thích mây trời và lang thang khắp lối
Sao bây giờ nhận tội yêu em?’’
(Nụ cười em đã nhốt lấy hồn tôi)
Vâng! “Một gã lãng tử thích mây trời và lang thang thang theo gió.” Chưa ai có
thể cầm chân được chàng vậy mà giờ đây chàng đã phải tự thú rằng. Chính ”nụ cười”
“em đã nhốt lấy hồn tôi”, chàng đã phải trần tình từ đáy lòng chân thật của
mình và chấp nhận “quy hàng”, “Rũ áo giang hồ bại tướng suốt trăm năm”.
Nụ cười em thật màu nhiệm có sức hấp dẫn hơn cả “Mười thành công lực”. Tình
yêu thật tuyệt vời!
Và cũng phải nói rằng không có nỗi buồn nào có thể buồn hơn dấu tình sầu muộn của
sự phân ly. nếu em rũ áo xa anh thì nỗi buồn vô tận đó như “cứa nát muôn
trùng”. Hình ảnh tượng trưng mà rất cụ thể cho “em” - nhân vật trữ tình trong
thơ thấu hiểu, chắc chắn rồi! Như vậy thì “em" không thể nào xa anh được!
“Buồn anh
cứa nát muôn trùng
Nếu em
giũ áo
xa
Trần Gian anh“
(THÔI)
cứa nát muôn trùng
Nếu em
giũ áo
xa
Trần Gian anh“
(THÔI)
Chất men say trong tình yêu được tác giả chuyển tải lên từng câu từng chữ cho
người đọc cảm được tình yêu thật nồng nàn và dịu ngọt:
“Mời nhau uống rượu hoa đào
Anh chưa uống đã say màu môi em
Một trời nhớ ngã, thương nghiêng
Hồn hoang đậu xuống tóc mềm buộc nhau”
(Mời nhau uống rượu hoa đào)
Anh chưa uống đã say màu môi em
Một trời nhớ ngã, thương nghiêng
Hồn hoang đậu xuống tóc mềm buộc nhau”
(Mời nhau uống rượu hoa đào)
- "Đêm nay mình uống rượu sim
Quyện môi nhau để tình thêm thắt tình
Phải là hương lửa ba sinh
Mới đau đáu nhớ, mới rình rập yêu…"
(Đêm uống rượu sim)
Quyện môi nhau để tình thêm thắt tình
Phải là hương lửa ba sinh
Mới đau đáu nhớ, mới rình rập yêu…"
(Đêm uống rượu sim)
Những giây phút hạnh phúc bên người yêu dấu đã đi vào trang thơ và trở thành những
phút giây vĩnh cữu của tình yêu bằng những hình ảnh ẩn dụ tượng trưng rất đắm
say và lãng mạn của một tình yêu mãnh liệt:
- «Khi mình đủ vòng tay nhau
Đêm òa vỡ tiếng mưa mau bên ngoài
Phút giây sống thật đây rồi
Em trao anh hết nụ cười Tây Thi»
(Đêm trong vòng tay nhau)
Đêm òa vỡ tiếng mưa mau bên ngoài
Phút giây sống thật đây rồi
Em trao anh hết nụ cười Tây Thi»
(Đêm trong vòng tay nhau)
"Nước sông xa không dập nổi lửa tình gần
Ta cứ cháy hết đời nhau em nhé
Làm mã phu anh cõng nàng công chúa
Dẫu lên rừng xuống bể cũng cam tâm’’
(Nước sông xa không dập nổi lửa tình gần)
Ta cứ cháy hết đời nhau em nhé
Làm mã phu anh cõng nàng công chúa
Dẫu lên rừng xuống bể cũng cam tâm’’
(Nước sông xa không dập nổi lửa tình gần)
Với Trần Dzạ Lữ tình yêu trong hiện tại là tình yêu đẹp nhất, say đắm nhất có lẽ
vì vậy anh dành những vần thơ đẹp nhất, rung cảm nhất:
“Dắt nhau đi bởi tiếng sét tình cờ
Mà đắm đuối hơn nghìn năm chờ đợi
Phi thời gian đó là điều em nói
Khi tay mình choàng hết cả tay thơ…
Tình thứ mấy có hề chi đâu em
Gắn vào môi nhau nụ hôn khắc biết
Dẫu mai này sông có khô… hồ cạn
Anh tách buồn ra khỏi lý nhân duyên
Tình yêu đầu hay cuối vẫn là em’’
(Không ai định tuổi nàng thơ)
Mà đắm đuối hơn nghìn năm chờ đợi
Phi thời gian đó là điều em nói
Khi tay mình choàng hết cả tay thơ…
Tình thứ mấy có hề chi đâu em
Gắn vào môi nhau nụ hôn khắc biết
Dẫu mai này sông có khô… hồ cạn
Anh tách buồn ra khỏi lý nhân duyên
Tình yêu đầu hay cuối vẫn là em’’
(Không ai định tuổi nàng thơ)
Mỗi địa danh nơi anh đặt chân đến trong cuộc đời lữ thứ, đều để lại dấu ấn
trong thơ và tất nhiên có tình yêu và nỗi nhớ: Chùm thơ tứ tuyệt về quê có Đông
Hà, Quãng Trị, Nong, Truồi, Chợ Thần Phù…
“Ngọn gió Nam Lào không thổi bạt
Đông Hà chằm lại một sắc xuân”
(Tứ tuyệt về quê)
Đông Hà chằm lại một sắc xuân”
(Tứ tuyệt về quê)
- “Giật mình nhớ nụ cười em
Mong vào trong đó đong thêm tình đầy”
(Tứ tuyệt về quê)
Mong vào trong đó đong thêm tình đầy”
(Tứ tuyệt về quê)
- “Chiều Khe Tre, nghe suối chảy bên nhà
Cứ ngỡ em thì thầm bao nỗi nhớ”
(Tiễn em)
Cứ ngỡ em thì thầm bao nỗi nhớ”
(Tiễn em)
Thơ tình quả là không có tuổi. Đọc thơ anh tôi như thấy cả cuộc đời, cả cuộc
tình của con người thi sĩ này và bao giờ cũng nồng nàn dịu ngọt một tình yêu rất
trẻ trung tươi mới!
Ở tại Sài Gòn cũng chỉ nhớ và mong:
Ở tại Sài Gòn cũng chỉ nhớ và mong:
- ”Sài Gòn ơi đi đâu rồi cũng nhớ
Về Ngả Năm, Ngả bảy lúc chờ em
Điệu Tango luồn qua một trái tim
Đó là lúc anh chín mong mười đợi»
(Sài Gòn trong nỗi nhớ)
Về Ngả Năm, Ngả bảy lúc chờ em
Điệu Tango luồn qua một trái tim
Đó là lúc anh chín mong mười đợi»
(Sài Gòn trong nỗi nhớ)
Khi về lại cố đô Huế thân thương không có “em’’ đi cùng nên nhìn đâu cũng mơ
màng tới bóng dáng người thương và nỗi nhớ nàng vì thế không thể nào vơi.
“Đêm Huế Hương cau còn thơm lựng
Mơ màng đến cả nụ cười em”
(Đêm Huế nhớ Sài Gòn)
Mơ màng đến cả nụ cười em”
(Đêm Huế nhớ Sài Gòn)
Và tình yêu được khẳng định vững bền như một chân lý với sự thủy chung sau trước:
“Ví dầu cạn nước sông Tương
Tình yêu vẫn cứ lừng hương bên người”
(Tháng giêng tình)
“Ví dầu cạn nước sông Tương
Tình yêu vẫn cứ lừng hương bên người”
(Tháng giêng tình)
Thơ anh dường như cho người đọc thấy cả cuộc đời và cuộc tình của anh. Thơ Trần
Dzạ Lữ có nhiều sắc thái tình cảm, với đủ các cung bậc của tình yêu. Đặc biệt
chất chứa bao nỗi vời vợi nhớ mong tha thiết chân tình và vô cùng lãng mạn! Đọc
thơ anh ta tìm về với một tiếng nói sẻ chia, một tiếng lòng tri âm hội ngộ. Đối
với người đã yêu và đang yêu sẽ thấy được nguồn cảm xúc, những rung động khao
khát cho riêng mình. Đối với người đã đi qua cuộc tình sẽ sống lại với những
khoảnh khắc của tình yêu đôi lứa bây giờ đã trở thành kỷ niệm khó phai!
3/ THI PHÁP THƠ TRẦN DZẠ LỮ:
Để khám phá về thơ anh ta đi tìm thi pháp. Vì thi pháp là mấu chốt của thơ, là
những đặc điểm về hình thức nghệ thuật trong thơ. Thơ anh có sự kế thừa của thi
pháp truyền thống qua những bài thơ lục bát. Cách gieo vần đối thanh một cách
linh hoạt, hài hòa. Câu thơ rất mềm mại duyên dáng và chỉnh chu. Anh sử dụng
thành thục, điêu luyện các thể thơ dân tộc cổ truyền. Trong đó có thể lục bát,
thể song thất lục bát. Những câu thơ lục bát của anh vừa hay về nội dung vừa
giàu về nhạc điệu và giàu chất trữ tình của ngôn từ sử dụng.
“Mời em uống rượu hoa đào
Chung này, anh rót em vào liêu trai
Chung anh, e, ngậm trang đài
Hoa thua, liễu hận để hoài thai… thơ!”
(Mời nhau uống rượu hoa đào)
Chung này, anh rót em vào liêu trai
Chung anh, e, ngậm trang đài
Hoa thua, liễu hận để hoài thai… thơ!”
(Mời nhau uống rượu hoa đào)
Cuộc sống muôn màu, nhiều cung tình cảm thì có lẽ thi pháp hiện đại mới đủ cho
ngòi bút của anh biểu đạt cảm xúc. Vì thế các sáng tác của anh phần lớn theo
thi pháp hiện đại. Thơ anh phong phú nhiều thể loại: Thơ bốn chữ, năm chữ, bảy
chữ, tám chữ…
Ở thể thơ bốn chữ:
- “Nụ cười muốn vỡ
Đất trời thành thơ
Phong lan bốn mùa
Hương qua cửa sổ”
(Và trà hoa đào)
- “Nụ cười muốn vỡ
Đất trời thành thơ
Phong lan bốn mùa
Hương qua cửa sổ”
(Và trà hoa đào)
Thơ năm chữ:
“Mùa xuân lại về rồi
Hiên xưa mà nhớ mẹ
Nhiều năm con đi biệt
Chữ hiếu quăng đâu rồi”
(Tự thú II)
“Mùa xuân lại về rồi
Hiên xưa mà nhớ mẹ
Nhiều năm con đi biệt
Chữ hiếu quăng đâu rồi”
(Tự thú II)
Thơ sáu chữ:
“Lơn tơn anh về với Huế
Một mình không có em theo
Nắng xuân bên đèo ấm thế
Sao lòng chợt nặng đìu hiu”
(Về Huế một mình)
“Lơn tơn anh về với Huế
Một mình không có em theo
Nắng xuân bên đèo ấm thế
Sao lòng chợt nặng đìu hiu”
(Về Huế một mình)
Thơ bảy chữ:
“Đêm Huế anh luồn dưới bóng cây
Trời chưa trở rét đã bao ngày
Không em, anh chợt buồn chi lạ
Ước gì “Kinh Bắc” cũng về đây!’’
(Đêm Huế nhớ Sài Gòn)
“Đêm Huế anh luồn dưới bóng cây
Trời chưa trở rét đã bao ngày
Không em, anh chợt buồn chi lạ
Ước gì “Kinh Bắc” cũng về đây!’’
(Đêm Huế nhớ Sài Gòn)
Thơ tám chữ:
“Nói vậy thôi anh vẫn gặm đợi chờ
Thay bánh mì để dõi tìm phi đạo”
Chìa khóa trái tim em anh vững giữ
Thì lo gì giông bão dọc đường đi”
(Đợi em nơi phi trường)
“Nói vậy thôi anh vẫn gặm đợi chờ
Thay bánh mì để dõi tìm phi đạo”
Chìa khóa trái tim em anh vững giữ
Thì lo gì giông bão dọc đường đi”
(Đợi em nơi phi trường)
Ngôn ngữ thơ anh không dùng những lời lẽ trác tuyệt khác lạ hay phi thường… mà
chỉ là những lời nói giản dị hàng ngày. Đôi khi dùng phương ngữ Huế như “ri,
tê mô, rứa” vân dụng đúng chỗ, gieo vần khéo léo phù hợp với ngữ cảnh làm nên sự
độc đáo dễ thương trong thơ anh. Ngôn ngữ thơ anh là ngôn ngữ đối thoại giữa
hai người hoặc độc thoại. Cấu trúc thi thoại gồm đối thoại hoặc độc thoại để tạo
nên thi ca:
“Giận chi em? Tim anh đã thắp đèn
Một trời thương cũng bắt đầu lồ lộ
Giận chi em để cực lòng anh rứa
Nụ hôn đền sẽ ngờ ngợ rất riêng”
(Giận chi em)
Một trời thương cũng bắt đầu lồ lộ
Giận chi em để cực lòng anh rứa
Nụ hôn đền sẽ ngờ ngợ rất riêng”
(Giận chi em)
Tạo vật trong thơ có tình, đằm thắm và có hồn làm nên tứ thơ đẹp, sắc nét, hài
hòa cả về ngôn ngữ thơ lẫn tâm trạng thể hiện. Câu thơ khắc họa được những đường
nét của đời sống thực qua bút pháp lãng mạn tài hoa. Bằng nhiều thủ pháp nghệ
thuật: ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng, đảo ngữ, điệp từ, điệp ngữ… để đạt tới ngôn
ngữ thơ giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu: nhẹ nhàng, tha thiết mà sâu lắng. Thi ý
ngọt ngào, ngôn từ dung dị đễ đọc, dễ hiểu như một lời tâm tình dễ đi vào lòng
người. Thơ Trần Dzạ Lữ nói chung là những cảm xúc mãnh liệt của tình yêu đôi lứa.
Thơ anh có đủ những say đắm nồng nàn, thiết tha của men tình. Và đó là lý do
thơ tình Trần Dzạ Lữ rất được nhiều thế hệ công chúng yêu thích. Một trái tim
đa cảm, một tâm hồn chan chứa cảm xúc, cuộc sống tinh thần phong phú và những
câu thơ cứ thế rất tự nhiên đến với tác giả. Đó là tiếng thơ của thi nhân mà tiếng
lòng của độc giả. Người đọc qua thơ anh sẽ tìm được một tâm hồn đồng điệu, một
tiếng nói sẻ chia. Mong anh tiếp tục với những sáng tác mới, tiếp tục gửi gắm
những tình thi tha thiết nồng nàn đến với người đọc, cho nền thi ca đương đại!.
T. phố Huế ngày 8/10/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét