Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2021

26 truyện ngắn Sơn Nam 1

26 truyện ngắn Sơn Nam 1

Mấy lời giới thiệu
Những câu chuyện cũ về một vùng đất mới

Ðồng bằng sông Cửu Long là một vùng lương thực chủ yếu của miền Nam. Việc khai thác những tiềm năng phong phú của vùng đất mới này bắt buộc mọi người phải ra sức tìm hiểu nó một cách cặn kẽ. Càng đi sâu tìm hiểu những đặc điểm về lịch sử, về địa lý, về xã hội và đặc biệt là về con người miền Nam, người ta càng thấy việc tìm hiểu này không chỉ là cần thiết, không thể thiếu được mà còn bổ ích và đầy hứng thú đối với các nhà khoa học, các nhà văn hóa và nghệ thuật.
Trong bước đầu tìm hiểu, không ít người đã tìm đọc lại Sơn Nam, đặc biệt là cuốn lịch sử khẩn hoang miền Nam và cuốn Ðồng bằng sông Cửu Long hay là Văn minh Miệt Vườn. Những cuốn sách và những bài báo của Sơn Nam đã giúp người ta đi trở lại những ngày đầu khai phá tìm hiểu những điều kiện thiên nhiên và xã hội của cuộc sống trong vùng, có khi cách nay nhiều thế kỷ, về cách thức làm ăn và sinh sống của con người những thời kỳ ấy.
Sơn Nam kể "truyện đời xưa" nhưng không phải theo kiểu viết sử thông thường. Nói là Lịch sử... nhưng không viết theo niên biểu, anh viết đọc như thể anh có gì thì nói nấy, cần thì nói không cần thì thôi, không nhứt thiết phải đủ lễ bộ, chương hồi cho đầy đủ, cân đối. Ðối với người mới tìm hiểu, chưa có thì giờ vào thư viện lục tài liệu xưa, đọc sách Sơn Nam, thấy rất bổ ích. Thật vậy, sách anh viết, tài liệu vừa đủ để nêu được vấn đề, không nhiều quá làm người đọc phải mệt mà không cần thiết, mà cũng không ít quá để không nắm được gì, viết vui gọn, ngưòi đọc như được thưởng thức một bữa cơm bình dân, trông đạm bạc mà ngon miệng.
Trong đống tài liệu cũ nằm bắt bụi trong những kho lưu trữ, anh tìm ra, chép lại không phải tất cả, mà gạn lọc lấy những cái cần thiết, những cái thiên hạ chưa biết hoặc ít biết, thành ra những cái vốn đã cũ mà vẫn thấy mới là vậy.
Nhưng Sơn Nam không chỉ có những trang khảo luận mà còn có nhiều truyện ngắn, mà một tuyển tập được nhiều người biết đến, có cái tên khá tiêu biểu: Hương Rừng Cà Mau. Cà Mau vùng đất cuối cùng của Tổ Quốc, được kể lại vào cái thời kỳ mà phần lớn diện tích của nó còn là rừng với đủ thú dữ và hiểm nguy nhưng lại đầy hương sắc vì con người miền Nam đã tới đó sinh cơ lập nghiệp.
Về người nông dân miền Nam, đặc biệt là miền Tây, từ Hà Tiên tới mũi Càm Mau, tức là miền đất được khai phá sau cùng. Vì đi tới đây sau cùng, những người khai phá này đã tới những vùng khỉ ho cò gáy nhứt, trước họ không ai thèm làm. Rừng sâu, nước độc, rắn rết hùm beo. Nhưng không thể lùi được vì không còn đất sống nữa người ta mới phải lang bạt tới đây.
Muốn tồn tại, muốn sống sót được trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như vậy, con người phải có một sức mạnh tinh thần đáng kể. Không được sự giúp đỡ nào của chính quyền lúc bấy giờ mà còn bị áp bức bóc lột nặng nề, những người phải rời bỏ quê quán tới xứ này phải sớm biết đùm bọc lấy nhau. Sức mạnh tinh thần đó không bắt nguồn từ kinh sách của thánh hiền vì phần lớn những người đi khẩn hoang đều thất học. Ðó là những giá trị tinh thần của dân tộc mà người ta mang từ nơi chôn nhau cắt rún tới đây và được phát triển lên trong hoàn cảnh đấu tranh mới, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống lại thiên nhiên còn thù địch với con ngưòi và chống lại những thế lực áp bức bóc lột cũng thù địch với con người không kém.
Giá trị tinh thần nổi bật trong cuộc đấu tranh này là tình nghĩa giai cấp của những người nghèo, bắt buộc phải xa xứ mà tới đây, cùng nhau lập quê hương mới, nơi ca dao còn ghi lại:
Cà Mau khỉ khọt trên bưng,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.
Hoặc:
Tới đây xứ sở lạ lùng,
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê.
Trong cảnh ngộ đó, con người sống bằng gì?
Bằng cái Nghĩa!
Ngày xưa, ở xứ này, thường nói! Sống phải điệu nghệ!
Theo Sơn Nam, điệu nghê là đạo nghĩa, nói trại ra. Rừng của Sơn Nam có hương là vì vậy. Tình nghĩa giữa con người ở đây không có xuất xứ trong cái cộng đồng làng xã, cái"tâm lý làng" như có người gọi, mà nó rộng hơn, nó sinh sôi nẩy nở từ trong vùng đất mới, khẩn hoang lập ấp, trong đấu tranh khắc phục ngoại cảnh thù địch, chống áp bức bóc lột, nên nó vẫn giữ được cái chân chất thật thà của người lao động gần thiên nhiên mà lại không tủn mủn hẹp hòi. Ðây là một nét đặc biệt nữa mà ca dao còn ghi được:
Dấn mình vô chốn chông gai,
Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân.
Lao xao sóng bủa dưới lùm,
Thò tay vớt bạn chết chìm cũng ưng.
Cái tình nghĩa bốn phương bè bạn này rất sâu đậm, nó thể hiện trong ca dao, trong các làn điệu dân ca và về sau, chúng được gặp lại nó trong Lục Vân Tiên, giữa Vân Tiên và các bạn, giữa Vân Tiên với Tiểu đồng...
Cái tình bạn này đi lièn với cái nghĩa "giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha", mà chúng ta cũng thấy rõ trong truyện Vân Tiên.
Từ trước tới nay, truyện ngắn của Sơn Nam được biết nhiều nhất là qua tập Hương Rừng Cà Mau. Sự thật, Sơn Nam còn viết rất nhiều truyện ngắn đăng rải rác trên các báo Sài Gòn trong một thời gian dài hàng chục năm chưa được sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu.
Ðối với các bạn trẻ hôm nay, truyện"xưa" của Sơn Nam làm sống lại cảnh đời của cha ông đi khai phá thời trước, sống lại cái không khí hoang sơ mà hào hứng của buổi ban đầu lập nghiệp, theo dõi cách sống mộc mạc mà "điệu nghệ" của ông cha.
Ðối với bạn đọc ở kháp các nơi, những trang khảo cứu và những truyện ngắn của Sơn Nam là những chìa khoá mở cửa vào tâm hồn của người Việt ở miền Nam.
Trên tinh thần đó, chúng tôi chọn để giới thiệu với bạn đọc thêm 26 truyện ngắn của Sơn Nam, trước đây đăng rải rác trên các báo ở Sài Gòn. Những tên truyện được đưa vào tập này, tự nó đủ giới thiệu nội dung: Chuyện Rừng Tràm, Nhứt Phá Sơn Lâm, Con rắn ri voi, Cái ổ ong, Con sấu cuối cùng, Ðơn Hùng Tín chào đời... Như đã nói trên, truyện của Sơn Nam, cũ mà mới. Nói những chuyện cũ của một vùng đất mới, một vùng đất mà khó ai dám nói, kể cả những người sanh trưởng tại chỗ, là đã thật hiểu biết đầy đủ. Mong rằng những truyện ngắn này sẽ góp thêm hiểu biết về miền đất thân yêu của chúng ta.
Nhà xuất bản
Hết thời oanh liệt
Non trăm năm về trước, làn sóng người Việt Nam từ Cần Thơ, Vĩnh Long đổ xuống Rạch Giá, Cà Mau để khai khẩn đất hoang. Họ đã gặp những trở ngại thiên nhiên nào? Tài trí, sự dũng cảm của họ ra sao? Lòng chúng ta không khỏi phập phồng âu lo khi ngày nay đọc lại quyển Truyện đời xưa của cụ Trương Vĩnh Ký. Cụ có nhắc lại câu chuyện cọp ở vùng Gò Quao. Cọp ta đi dạo xuống bãi sông để tìm mồi, rủi bị kẹt đuôi trong bụi dừa nước... Rõ ràng thời ấy cọp quá lộng hành dám bỏ rừng sâu, bén mảng đến các xóm nhà sác mé sông, nơi mà chúng bị cô lập, thất thế nhứt. Ông cha ta đã đánh đuổi lũ cọp ấy như thế nào? Có người đáp: nhờ các thầy võ giỏi chuyên môn đánh cạp xuất thân ở các trường võ Quảng Nam, Quảng Ngãi. Gặp lúc nước nhà loạn lạc, các thầy chạy vào vùng Cà Mau mà ẩn lánh. Võ nghệ của các thầy quá đỗi cao cường, gặp cọp là rượt bắt lại, nắm gáy đè xuống, nện vào lưng cọp những quả đấm thôi sơn chẳng khác nào chúng ta ngày ngay đánh một con mèo hoặc một con chó con...
Người khác bảo rằng: họ đã từng gặp mấy ông thầy bùa Xiêm, chuyên môn dụ dỗ cọp. Các thầy Xiêm nằm ngửa dưới gốc cây giữa rừng mà thổi kè, nói đúng hơn là thổi vào một miếng lá tre. Tức thời cọp mẹ, cọp con chạy lại, quỳ xuống hầu hạ canh gác cho thầy ngủ. Sau khi thức dậy, thầy xiêm võ về từng con, nhổ vài sợi râu hoặc vài sợi lông để nuôi sâu. Lông cọp, râu cọp được đem về cắm trong măng tre đang mọc. Vài hôm sau thì ô hô, mỗi sợi là một con sâu. Tục truyền rằng loại sâu ấy lớn bằng cườm tay, mặt đỏ hói, mình mảy vằn vện, có đuôi dài ngoe nguẩy. Nhiều người nuôi nó trong một cái hũ kín mít để giữ nhà. Khi có khách đến sâu cọp nhảy dựng trong hũ nghe rổn rảng rồi la hét! Ngoài ra, cứt của loại sâu này rất quý giá vì nó là vị thuốc độc, giết người trong nháy mắt. v.v...
Sự thật ra sao?
Cọp U Minh, cọp Gò Quao ngày nay bị tiêu diệt hoặc bị xua về Bảy Núi, về Tà Lơn phải chăng là nhờ các thầy võ Quảng Nam hoặc các thầy Xiêm có bùa phép?
Trả lời câu hỏi ấy, cách hay nhứt là đến tìm các ông bà lão hiện còn sống ở vùng Gò Quao, Trà Ban. Mấy ông này nếu không trực tiếp đánh cọp thì ít ra cũng đã thấy và nghe rõ ràng hơn chúng ta. Vậy xin mời các bạn đọc thân mến đến phỏng vấn và nghe các ông trả lời.
- Thưa ông, ông xuống đây lập nghiệp từ hồi nào?
- Ðiều đó không nhớ chắc chắn ngày tháng. Nhưng mà mấy cháu nên nhớ: hồi Tây đánh nước mình, miệt Rạch Giá, Cà Mau còn hoang vu. Ngoài biển, có ghe đánh lưới của người Hải Nam. Còn trong đát liền chỉ có mấy nhóm người Triều Châu, Phước Kiến qua đây từ đời ông Mạc Cửu. Họ ở gần chơ Rạch Giá, chợ Bạc Liêu bây giờ. Kỳ dư, có vài sóc người Miên ở giữa đồng. Thưa thớt lắm. Sông Cái Lớn, Gò Quao này nhiều khi chèo ghe suốt ngày mà không gặp một nhà nào. Nghe nói hồi Gia Long tẩu quốc, nhiều người cất nhà ở Tân Bằng, Cán Gáo, Tau Dừa, Cái Nước. Hồi tôi xuống Gò Quao này, ở miệt dưới đã có vườn tược, có cau lão rồi. Nhưng đó là chuyện xa xôi, cách mình một khoảng rừng trên trăm cây số. Nghe nói chớ tôi chưa từng đi tới.
- Lúc đó miệt Trà Ban này phải chăng là hoàn toàn không có ai ở?
- Sự thật như vậy. Vài nhà người Miên ở tận giữa đồng nhưng họ không làm ăn chung đụng với người mình. Kỳ dư, ven sông Cái lớn này toàn là rừng. Trên bờ có cọp, dưới sông có sấu. Mình chèo ghe ban ngày, chừng vài trăm trước là thấy sấu nổi trước mũi ghe. Trời chạng vạng, nghe cọp rống, mấy ổng úp mặt xuống đất nên có tiếng dội...
- Hồi mới tới cất nhà, chắc cọp khuấy rối mình dữ lắm!
- Không có! Không có! Mình ngu dại gì vô tuốt trong ngọn cùng mà cất chòi. Làm như vậy có hai điều lợi. Một là mong mấy ngọn rặch không có rừng già. Rừng chỉ ăn dài theo mé sông cái, bề sâu vô chừng hai ba ngàn thước... Phía trong toàn là sậy, đế, cây mốp, rừng chồi. Mình có thể phá gấp sậy để đó để làm ruộng trước, co 1lúa gạo mà ăn liền. Ðiều lợi thứ hai là ở xa cọp. Lúc mới xuống làm ăn, mình cần sự yên ổn. Hơi đâu mà lo chuyện đánh cọp, trong lúc mình không rành võ nghệ.
- Ở hẻo lánh như vậy, chắc sợ cọp dữ lắm. Cọp ưa tìm người mà ăn thịt...
- Vài người lo xa. Họ rào chung quanh chồng heo. Sợ nhứt là khi mình did ruộng, cọp lén vào nhà bắt con nít. Lần đó, cọp tới sàn tôi chạy vòng quanh tìm cách vô nhà. Ðứa con tôi ở một mình. Nghe tiếng động đậy nó chạy ra sát hàng rào. Cọp ta không phương thế nào vào trong được nên day lại, thò đuôi vô kẽ hàng rào. Trưa về nhà nghe con tôi nói lại: "Ba ơi! Hồi ba đi ruộng, có con vèo vện lại đây, thò đuôi vô. Con nắm đuôi mà nó mạnh lắm, kéo ra được chạy vuột." Chừng đó, lối xóm ai cũng hoảng sợ xây hàng rào chung quanh nhà. Ðêm cũng như ngày chỉ nghe động tịnh là nghĩ tới cọp. Nhưng dân mình gốc ở hai huyện (Cần Thơ, Vĩnh Long) xuống đây. Ở đó, đất khai khẩn lâu đời rồi nên phần đông nghe tới tên cọp là sợ chớ ít ai thấy tường tận ông cọp lần nào. Có một cô nọ ngồi rửa chén sau nhà, thấy cái tàu mo cau rụng xuống bèn vụt chạy vô nhà, đóng cửa lại: "Má ơi, cọp! cọp!." Hỏi cọp ra sao. Cô ta nói nó cao lắm, lưng nó vàng, bụng nó rằn. Chừng xem kỹ lại rõ ràng là tàu cau... Có bà lão khác ngồi câu cá dưới gốc cây xộp. Cọp trong rừng men chạy ra chụp một cái. Bà nọ té nhào bên một gốc cây. Nhờ vậy mà cọp chụp hụt. Sau đó cọp chạy cong đuôi vô rừng. Bà ngồi dậy mở mo trầu ra ăn rồi lững thững về nhà nói lại. Bữa nay xui xẻo quá. Câu cá không được con nào, nhè gặp heo rừng ra nhát. Chừng cả nhà hồ nghi trở ra gốc xộp mà xem kỹ, rõ ràng là dấu móng cọp. Kể từ đó, thiên hạ ưa bàn tán về cọp, bắt đầu lo ngại. Có người bàn: nên thành lập một đội binh để vô rừng đánh cọp. Công việc đầu tiên là đốn tre tầm vông vạt nhọn để sẵn. Khi gặp cọp thì đánh trống lên, cả xóm xách tầm vông tới nghinh chiến. Mới nghe qua, dường như có lý. Nhưng sau đó, ở rạch Cái Cam, Phong Ðiền, Cần Thơ, có người xuống cho hay: "Ở xứ tôi, có bố trí như vậy nhưng thất bại. Gặp cọp, đánh trống lên, ai nấy xách tầm vông chạy tới. Cọp im lặng, trụ hình một chỗ. Thinh không, ổng hét lên. Tức thì ai nấy chạy tán loạn. Có người thiếu điều đổ ruột vì chạy càn đụng nhằm ngọn tầm vông của bạn mình. Về sau, có người gài bẫy được một ông cọp. Họ đút mũi tầm vông vô miệng cọp để đâm. Dè đâu cọp nhai nát như... mình ăn mía."
- Vậy làm thế nào mà đánh cọp đến đỗi không còn sót một con như ngày nay?
- Chuyện đó phải làm lần hồi. Bố trí một đạo binh đánh cọp không xong, dân xóm này mới bày đặt cất miễu thờ cọp. Ðó là ngụ ý: "Chúng tôi là người làm ăn, không dám đả động tới ông, xin ông cứ ở trong rừng để chúng tôi được yên ổn!." Cất miếu xong, chạng vạng có người tới đốt nhang. Mấy hôm đầu, ông cọp đi vòng quanh miếu, đứng nhìn nhang rồi về. Bữa sau đem ra cũng một cái đầu heo rừng. Cọp mừng lắm. Từ đó xóm giềng được yên.
Nhưng tạo hoá vần xoay, dân miệt trên xuống đây khai khẩn ngaỳ thêm đông.
Ðất giữ đồng khai thác hết. Bấy giờ chỉ còn là đất rừng sát mé sông, nơi cọp ở. Ðó là hồi nguy nan nhất cho dân mình và cũng cho cọp. Nhiều người làm gan cất nhà sát mé rừng. Ban đầu, đôi ba nhà, sau, năm mười nhà. Họ thấy ở gần rừng mé sông tuy là nguy hiểm nhưng có nhiều huê lợi khác: ăn ong, làm rẫy. Một công rẫy trúng mà được tới một trăm hai chục giạ khoai lang. Lúc này, nhiều người chết vì đi một mình vô rừng bị cọp chụp bất thình lình. Họ sắm mác thông, thứ có cán dài để ứng phó. Nhưng ở chỗ rừng dày, con người khó bề xoay trở để thủ thế.
Thời thế tạo anh hùng. Bận đó, ông thầy râu (thầy thuốc Nam, vì có râu dài nên gọi là thầy Râu) có đứa con gái bị cọp vồ. Tức mình ông cầm mác rượt theo tận giữa rừng, chém cọp rớt một cẳng. Tư Ngạn bị cọp cõng mất một con heo nái. Chú rượt theo cầm cự với cọp suốt buổi trưa. Nhờ lối xóm tiếp cứu nên mới thoát nạn. Từ đó về sau, chú ưa uống rượu, cặp mắt luôn luôn đỏ ngầu.
Kinh nghiệm là không nên đánh cọp nơi chật chội, tứ bề có cây cối. Cọp sợ con người. Bằng cớ là ở giữa đồng trống, mình cầm mác thét lớn là cọp chạy mất. Vì vậy, khi dân mình phá động rừng, cọp tản mác, kiếm nơi khác mà hùng cứ. Rạch Cái Bần này lần hồi còn sót lại được ông Mun.
- Tại sao ông Mun dám ở lại?
- Vì ông thuộc về lại cọp già, đã từng chống chọi nhiều phen với loài người. Cọp nhỏ thì đi. cọp già ở lại. Thứ già là thứ dữ. Mỗi rạch chỉ còn sót lại một hai ông. Dân trong xóm đều quen mặt nên đặt tên. Có hai ông, Ông Vện với Ông Mun. Vện là cọp đực. Ông Mun là cọp cái.
Trời đất dành riêng cho đôi cọp này số phận riêng. Trước hết xin nói về ông Mun.
Thường ngày ông tới lui vàm Xẻo Gừa - một xẻo nhỏ, có cây gừa to lớn, nhỏ gừa (rễ thòng xuống) buông xuống hàng trăm cây to bằng cổ tay, bằng cây cột nhà. Ông Mun ngủ sát cốc, chung quanh có nhỏ gừa che chở nhiều lớp.
Ông dạn lắm. Sáng đi, chạng vạng về. Tháng Tư năm đó, ông sanh được bốn ông Mun con...
Thật là khủng khiếp, lạ thường. Xưa nay, cọp sanh một hay sanh đôi là cùng. Ðàng này sanh tới bốn con. Dân làng nhìn nhau lắc đầu, tưởng tượng một ngày kia bốn ông Mun nhỏ lớn lên, sung sức.
Phải đối xử bằng cách nào?
Bắt bốn ông Mun con chăng? Chuyện đó rất dễ. Ông Mun mẹ thường đi tìm mồi, để bầy con bơ vơ ở gốc cây gừa. Nhưng mất con, ông Mun mẹ sẽ đổ quạu, trả thù, gây nhiều chuyện bất an cho xóm.
Lo xa rồi lại nghĩ gần, ông thầy Râu, ông Hương Văn Huệ, ông Tri Khách lừa bày ra một kế: bắt bớt ba, chừa lại một.
Thi hành xong, ba ông đem ba con cọp nhỏ về nhà. Xóm giềng rất đỗi vui mừng. Nhưng ba ông không yên trí, sợ ông Mun mẹ đánh hơi theo tìm con để trả thù...
Sau rốt, các ông mua nhang đèn về dựng bàn thờ trước nhà mà khấn vái:
- Xin trình cúng ông Mun được hay: Thói thường xưa nay một mẹ thì một con. Ðằng này, ông sanh tới bốn con. Dân làng chúng tôi lo sợ nên thừa lúc ông đi vắng có tới xin bớt ba con, chừa lại cho ông một con. Như vậy không mích lòng ông mà cũng không hẹp bụng chúng tôi.
Ông Mun về ổ, thấy mất con, gầm thét, rồi vài hôm sau dẫn đứa con còn lại đi đâu mất.
Bây giờ làm sao để nuôi ba ông cọp con nọ?
Cọp con hiền lắm, mình mẩy mềm mại, bò tới bò lui, cái lưng uốn éo như con mèo lớn. Tối ngaỳ, mấy cậu cứ đòi sữa. Biết được chuyện ấy, người đàn bà động lòng, xúm xít lại, đặt mấy cậu ngồi giữa bộ ván, ai nấy ngồi vòng quanh mà dòm ngó cho mãn nhãn. Các cậu đánh hơi rồi từ từ bò ngay lại người đàn bà nào có sữa để đòi bú. Bà chủ H. Cho bú thử. Kết quả, vài ngày sau vú sưng lên làm độc, đau sứt núm vú, bấy giờ thiên hạ càng lo ngại. Sau cùng, chở ba cậu ra chợ Rạch Giá để nạp cho quan phó chủ tỉnh. Ông phó tên Quitxy thưởng cho hai mươi lăm đồng bạc trắng.
- Còn ông Vện?
- Ông Vện có lẽ là chồng ông Mun cha của mấy cậu nọ. Phải chăng vì già nua bịnh hoạn mà ông Vện không theo vợ theo con. Buổi sáng đó người ta thấy ông Vện nằm dài trên bờ rẫy, sát mí rừng. Ban đầu ngỡ là ông ngủ trưa. Chừng mặt trời lên cao ngạc nhiên làm sao, ông vẫn nằm ì không nhúc nhích. Thiên hạ xúm lại gần, lấy đất chọi thữ rồi lấy cây dài đem cọc, chừng đó mới biết ông chết. Họ thui râu của ông, lấy thước đo ông dài một thước sáu. Người khác đòi, khiêng lên cân thử. Các bậc kỳ lão cản ngăn, cho rằng làm vậy là quá khinh thị mạt sát kẻ đã chết.
Rạch Cái Bần không còn cọp nữa. Các rạch khác cũng nỗ lực như vậy. Lần hồi, ghe xuồng đi thông thương ngày đêm từ ngọn Cái Cau đến vàm sông Cái Lớn. Câu hát thời xưa: "U Minh Rạch Giá thị quá sơn trường, Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp tha" không còn. Ghe xuồng tàu bè tấp nập, bọn sấu phải lui về vàm. Cũng thời câu hát xưa, thiên hạ sửa lại như vầy:
Ðường đi Rạch Giá thị quá sơn trường,
Gió run bông sậy, dạ buồn nhớ ai.
Bông sậy là nơi đã khai thác thành rầy. Lòng dạ con người thơ thới hơn. Không còn sợ cọp, sợ sấu. Họ rảnh trí mà ngắm cảnh nhớ tình. Nhớ ai bây giờ? Trai nhớ gái. Vợ nhớ chồng. Người nay nhớ công ơn người xưa đã đánh cọp để tạo lập nên làng nên xóm. Họ không phải là thầy nghề võ, thầy bùa.
Chẳng qua là họ muốn sống nên phải ráng sức cùng nhau, mỗi người ráng một ít. Sự thật về chuyện đánh cọp Gò Quao là vậy. Nó dễ mà khó, khó mà dễ. Người đánh cọp thời đó không bao nhiêu, tên tuổi của họ không cần bia đồng tượng đá. Vậy mà về sau này có bao nhiêu người tự xưng là thầy đánh cọp thời xưa để hát thuật Sơn Ðông, bán thuốc trật gãy xương hoặc bán bùa Xiêm để dụ dỗ gái tơ.
Thiệt đáng trách biết chừng nào!
Chuyện rừng tràm
Rừng Cà Mau âm u và mênh mông đến mức nào? Ðể trả lời câu hỏi đó, người ở địa phương thường xúm xít lại để kể cho nhau một câu chuyện giải trí như vầy:
Năm đó thầy đội kiểm lâm X. vừa đáo nhậm ở lô rừng 321. Thầy ta thích bắn chim nên luôn luôn đích thân bơi xuồng đi rong khắp đường quanh nẻo tắt trong rừng. Cho đến ngày nọ, thầy nghe có tiếng chim gõ kiến, thứ chim chỉ ở vùng đất cao chớ không bao giờ ở nơi rừng tràm trầm thủy. Lấy làm lạ, thầy từ từ bơi xuồng lại ngay hướng đó, lắng tai xác nhận rõ ràng:
- Cóc! Cóc! Cóc! Cóc!
"Chắc là chỗ này chim gõ kiến nhiều lắm." Thầy đội nghĩ thầm như vậy. Mái dầm khoát nước càng lúc càng hăng. Và ngạc nhiên làm sao, tiếng "cóc cóc" lần lần nghe trầm xuống, thở thành tiếng "cum cum" giống na ná tiếng mõ của đình làng.
Trước mặt hiện ra một cảnh lạ mắt khiến thầy bỡ ngỡ như hai chàng Lưu Nguyễn khi giã từ non cao để trở về gặp trần gian. Cảnh rừng tràm dày bịt "cây chen vạn gốc" không còn nữa. Một vòm trời xán lạn hiện ra. Hàng trăm mái nhà cất san sát thành một xóm lớn, trong bản đồ tự hồi nào đến giờ chưa có ghi vào. Chừng điều tra lại thì ô hô! Ðó là một số người lén lút vào đây cất nhà phá rừng để bán củi lậu thuế đã ba năm qua mà nhà cầm quyền không bao giờ hay biết.
Sau khi thương lượng, họ đồng ý chịu cho thầy một số tiền "trà nước" hai ngàn đồng, hồi xưa đó là số vốn khá to. Nghe nói nhờ đó mà thầy đội sắm được chiếc đò máy và đến năm sau, thầy đâm đơn lên quan trên để xin từ chức, dưỡng già.
Sở dĩ nãy giờ chúng tôi đi hơi xa vấn đề là cốt ý giúp độc giả hiểu tối thiểu về lối sinh hoạt của một số người khá đông sống bằng nghề phá củi lậu thuế thời Pháp thuộc.
Anh Tư Hưng ở trong số người ấy.
Qui mô làm ăn của anh so với xóm trên kia thì nhỏ bé hơn nhiều. Anh đã được người bạn giới thiệu vào kinh Mười Lăm. Ở đấy, chỉ có bốn gia đình, thêm anh nữa là năm. Nhờ họ khéo che đậy bằng hình thức giăng câu bắt rắn, nên lính kiểm lâm thời đó ít chú ý.
Hừng sáng, họ đi vào rừng đốn củi. Gạp cây nào to lớn, ngay thẳng họ hạ xuống lột vỏ, ngâm bùn chôn giấu để làm cột nhà, bán với giá đắt hơn. Cứ mười bữa, họ cho người chở củi ra chợ Thới Bình giao cho nhà vựa củi. Vựa này có giấy phép của nhà nước. Ðường đi thật gay go. Lắm khi họ phải chịu trần truồng nhảy xuống bùn, đẩy xuồng củi xuyên qua rừng hàng năm, ba cây số. Ðêm hôm tăm tối, họ phải nhìn hướng sao trên trời mà đi. Lắm khi đi lạc đàng trở về xóm cũ, họ chờ ngày khác. Mùa mưa thì trên rừng có nước, việc đi lại tương đối dễ. Qua mùa hạn, muốn buôn bán lậut huế như vậy phải vác củi đi qua nhiều khu rừng nổi tiếng có rắn và cọp.
Sống như vậy lâu ngày, anh Tư Hưng lần lần mến người mến cảnh.
Ngày nào bán được củi là nhóm người nọ chở về một xuồng đầy gạo, đường, trà, vải.
Lúc nào bán được một bộ cột nhà thì đó là phần thưởng chung. Họ mở tiệc ăn uống suốt ngày, thâu đêm, mời người ở xóm khác tới dự. Anh Tư Hưng thích dự những cuộc ăn uống đó.
Ðây là Hai Ðẹt, người đã từng nhậu ba lít rượu đế với ba yến khô cá sặc rằn.
Ðó là Bảy Vĩnh, người hồi tháng trước đã ăn một lượt ba kí-lô mỡ heo luộc chín, chấm với muối ớt. Sau khi ăn xong, anh còn đòi uống thêm bốn gáo nước lạnh.
Lại còn Tư Cần, đối thủ lợi hại của Bảy Vĩnh, Chính Tư Cần đã ăn bốn chục viên bánh xôi nước và một con vịt luộc, Bảy Vĩnh đáp lại, sẵn sàng ăn tám kí lô sầu riêng. thứ trái này khó kiếm ở rừng Cà Mau, phải gởi tàu đò ra chợ Rạch Giá mua về.
Ngày hôm sau đúng lời hứa, Bảy Vĩnh ăn tất cả. Có điều lạ là sau đó anh trợn trắng, mửa ra toàn sầu riêng, khiến cho cử toạ phải một phen khó xử vì cái mùi "thơm béo" không đến nỗi khó chịu.
Nói chung, anh Tư Hưng không chịu tham dự các cuộc tiêu khiển ấy, không phải anh không có tài ăn nhiều như thiên hạ, ngặt vì anh muốn giữ thể diện để mưu cầu chuyện khác.
Trong số người tụ họp, anh chú ý đến cô Một, cô gái thùy mị của ông lão Bích.
Lão Bích là người đứng tuổi nhứt trong xóm. Lão thường đến chung vui với tư cách người thạo chữ nho. Phen đó thấy lão đến, có người dùng chữ nho để cười cợt với lão:
-Tử viết thiện giả, có con không gả; tích thiện phùng thiện, để lâu sanh chuyện; tích ác phùng ác, để lâu tác hoác.
Lão nâng tô rượu mà cười.
- Tôi chỉ có mụn con gái nên phải kén rể đông sàng cho kỹ lưỡng. Cậu nào biết văn chương mới mong.
- Văn chương là thế nào? - người nọ hỏi.
- Là biết hát đối. Ðây tôi ra một câu, ai đối được tôi gả con gái cho:Thấy anh hay chữ em hỏi thử đôi lời, thuở tạo thiên lập địa, ông trời do ai sanh?

Anh Tư Hưng xiết đỗi vui mừng sực nhớ hồi nhỏ anh đã từng nghe câu trả lời như sau, nên anh lập tức lên tiếng:Nghe em hỏi tức, anh trả lời phức cho rồi, thuở tạo thiên lập địa, hai đứa mình chưa sanh!

Ai nấy vỗ tay hoan nghinh. Cô Một e thẹn, cắm đầu chạy về nhà.
Từ đó về sau, anh Tư Hưng thường gặp cô Một để trò chuyện. Lão Bích khuyên anh nán một đôi năm, chờ khi là ăn khá. Anh vui mừng nhận lời. Từ sáng đến chiều đôi trai trẻ cố sức đốn củi để đi bán. Nhưng phen đó, rủi bị lính kiểm lâm bắt được, tịch thâu chiếc xuồng. Vô cùng buồn bực, lão Bích chạy mượn cho Tư Hưng số vốn nhỏ để anh ta xoay qua nghề buôn nồi. Nồi trách, cà ràng ở Hòn Ðất giá rẻ, chở về Cần Thơ bán lại lời gấp ba gấp tư. Nhưng họa vô đơn chí, vì chở quá cao nên khi ghe đến Cần Thơ thì bị sóng đánh chìm...
Nghĩ rằng đã đến lúc mặt vận, anh Tư bèn lên chợ tìm nhà anh em bạn quen nhờ bảo lãnh để mướn chiếc xe kéo. Không còn cách nào nhắn tin về gia đình lão Bích, anh hằng yên tâm suy nghĩ rằng:
- Năm xưa mình hứa một hai năm sau mới cưới cô Một. Chờ năm mười tháng nữa, mình dành dụm số tiền mọn trở về rừng cũng không thất hẹn.
Như chim gãy cánh, vào một chiều tháng ba năm sau, anh Tư cùng một người bạn ở Cần Thơ trở về kinh Mười Lăm để thăm viếng lão Bích và cô Một.
Rừng tràm không có mùa hạ hay mùa thu rõ rệt. Mãn năm, luôn luôn lá xanh tươi và lấm tấm vài chiếc lá vàng sắp rụng. Anh Tư và người bạn hối hả bơi xuồng vào ngọn kinh. Lòng anh khấp khởi mừng thầm. Nhưng dòng nước hôm nay có khác, nó chảy lờ đờ, trong veo không một miếng xác mía, một manh lá chuối trôi ra. Ðiều ấy chứng tỏ không còn người nào ở trong ngọn kinh.
Ðến xóm cũ thì hỡi ôi, ai nấy đều dời mất chỉ còn sót lại vài căn nhà hoang xiêu vẹo, cất xa nền nhà lão Bích chừng non công đất. Hỏi ai bây giờ? Cây cỏ toàn là lạ, căn nhà xưa đã đóng cửa. Anh in trí rằng gia đình lão Bích đã dời đi nơi khác. Không còn đủ thời giờ để cho anh buồn tủi nữa vì mặt trời sắp lặn sau rừng. Làm sao tìm chỗ ngủ gấp ở chốn rừng này? Người bạn của anh quá nóng lòng đòi trở ra sông Cái, nhưng trở ra sao kịp? Thôi thì đành đi sâu vào rừng tìm nơi nào có đất trống, có củi mục để đốt ngừa rắn rít, cọp beo.
Anh Tư khuyên bạn nên vào gần rừng với anh để giấc ngủ bảo đảm hơn. Cách đó không xa, đúng như anh ao ước, có một đống củi lớn chắc là của ai đốn lậu thuế chưa kịp lưu đi.
Hai người trải nóp ra, nằm hút thuốc. Chập sau vì quá mệt mỏi không ai bải ai họ chui vào nóp ngủ say.
Một tiếng hú lớn khiến cây cối vang dội. Anh Tư giật mình, hé nóp. Bên ngoài trăng sáng vằng vặc, không biết rõ vào canh mấy, anh Tư lắng tai định thần, để tìm hiểu tiếng hú quái dị đó. Anh ngỡ là tiếng chim ụt. Mà kìa! Có bóng trắng thấp thoáng từ xa len lỏi vào rừng tràm và tiếng cười rú lên:
- Hả! Hả! Hả!
Lập tức, anh Tư Hưng gọi bạn:
- Mầy! Mầy thức hay ngủ?
Bạn đáp liền, giọng run run:
- Tao thức nãy giờ.
- Mầy nghe gì không?
- Nó hú, nó cười phải không? Chắc mình gặp con xà niên rồi.
Anh Tư Hưng quả quyết rằng này ẩm thấp, không bao giờ có xà niên như ở vùng núi cao. Anh nhướng mắt lên. Bóng trắng ban nãy đang lù lù tới quá rõ rệt.
Chắc chắn đó là một người con gái bỏ tóc xõa, mình mẩy trắng ngần, tay cầm một món gì ngắn, lòng thòng tựa như cây phất trần...
Anh buột miệng:
- Ma... ma thiệt rồi. Mầy tỉnh trí không? Mầy nằm sát xuống coi chân nó có đụng đất không? Ma thì đi hỏng chân khỏi mặt đất.
Bạn anh trả lời:
- Tao coi kỹ nãy giờ rồi. Nó đi hỏng mặt đất.
Bóng trắng nọ dường như chỉ còn gần đề anh chừng một công đất, hai tay quơ lên rồi lại cười lớn. Làm sao bây giờ? Tâm trí đang bối rối lại càng bối rối hơn. Anh vụt đứng dậy khi nghe từ trong rừng có tiếng hú thứ hai đáp lại:
- Hú... Hú...
Anh Tư Hưng ra lịnh cho bạn cùng tẩu thoát sau khi cuốn nóp thật gấp, e bóng ma nọ nhìn được dấu người mà truy nã theo. Họ núp trong bụi rậm, thủ trong tay khúc tràm ngắn để tự vệ.
Bóng trắng nọ là một cô phụ nữ.
Cô ta ngồi xuống đống tràm mà hai người vừa trải nóp ngủ khi nãy. Cô ta vẻ giận dữ; đôi tay cấu xé vào đống tràm nghe rột rột. Chập sau ông lão hiện tới, mặc áo ngắn, quần đùi đen.
Anh Tư Hưng đứng dậy nắm tay bạn:
- Phải chạy mới được, mau!
Bạn cãi lại:
- Ðể tôi ăn thua với nó...
Bỗng dưng, ông lão đứng ngoài đống tràm la lớn:
- Ai đó? Bà con nào đó? Phải mầy đó không Tư Hưng? Tao là Hai Bích đây...
Nhờ vậy mà anh Tư nhận được bóng ma nọ: cô Một, người hứa hôn với anh ngày nào.
Lão Bích cho biết thêm giọng mếu máo:
- Bây giờ nó điên rồi. Mầy đi vài tháng nó mang thai. Nó chờ mày về, chờ hoài. Rồi nó đẻ trong rừng, không ai làm mụ bà. Tao làm mụ cho nó... Mầy tưởng tượng cái cảnh não nề. Con mầy chết non. Kiểm lâm vô đây với hương quản để bắt củi xét thuế thân. Xóm mình tản lạc, tao với vợ mầy phải chạy vô trong nầy. Mầy coi vợ mầy không thèm bận quần áo nữa mà có bận thì cũng không mua nổi. Nó khóc, nó cười, nó chửi tao. Ban đêm muỗi mòng quá, nó cầm cây xơ quất này đập muỗi. Nó điên vì tình, vì đời...
Anh Tư Hưng khóc không ra nước mắt. Anh cũng không còn mặt mũi nào để nhìn mặt cô Một ngày xưa.
Chắc chắn là anh không cưới cô Một. Năm sau có người gặp anh chạy xích lô ở Sài Gòn. Hỏi anh về vấn đề vợ con, anh đáp:
- Khổ quá. Tôi bây giờ là thằng khùng. Vợ con gì...
Nhứt phá sơn lâm
Trời vừa hừng sáng là khu rừng bắt đầu huyên náo. Từ sáu tháng nay, trướx sự xâm chiếm của lớp người"tay rìu" bao nhiêu chim cò, rắn, rít, khỉ, chồn, heo rừng phải nhượng bộ rút lui.
Bọn tay rìu vào rừng kinh ngang kin dọc dưới sự điều khiển củacặp rằng . Tất cảcặp rằng đều do một ông"chủ đường" chỉ huy. Ðường có nghĩa là con kinh lớn tập trung bao nhiêu củi đã cưa sẵn thành từng khúc hai tấc rưỡi hoặc một thước. Muốn có một đường củi như vậy phải là tay rất có thế lực đối với nhà cầm quyền thực dân thời bấy giờ.
Họ đấu giá một lô rừng cúp, loại rừng mà nhà nước cho phép khai thác cứ hai mươi hoặc hai mươi lăm năm một lần.
Sau khi đấu giá được, việc cấp bách nhứt là mộ nhân công (tay rìu) vì chung quanh khu rừng nói trên rất ít dânc ư. Phải có nhân công thật nhiều mới khai thác xong đúng thời gian cam kết với nhà nước. Vì vậy, người chủ đường phải mộ nhiều nhân công từ Cần Thơ, Hà Tiên, Long Xuyên... đem xuống tận cái lô rừng cúp rạch Thứ Sáu, làng Ðông Thái, tỉnh Rạch Giá này.
Anh Tư Bình Thủy tốc nóp, ngồi dậy. Anh ngáp dài, nhìn rừng, nhìn nước rồi từ từ nả lưng xuống với ý định dỗ lại giấc ngủ, bụng nghĩ thầm:
- Làm thêm đôi ba thước củi cũng chưa đũ trả nợ. Không khéo, lại lao lực sanh bịnh tim, bịnh phổi mà mang khốn...
Cum! Cum! Cum!
Tiếng búa bổ vào gốc tràm bắt đầu vang lên từ đầu đến cuối rừng nghe còn nhặt hơn tiếng mõ thầy chùa tụng kinh.
Ðùng! Ðùng! Ðùng!
Từng thân cây ngã xuống liên hồi mặt nước rung chuyển, sóng gợn lên chạy dài, vỗ vào vách chòi của anh nghe lát chát.
Các "tay rìu" bắt đầu nói chuyện cho qua cơn mệt nhọc. Anh Tư Bình Thủy nghiêng tai vào đầu nóp, lắng nghe tỏ rõ từng tiếng một:
- Rừng này gốc của ông Gia Long. Hồi xưa Gia Long cũng như mình...
Ðó là giọng của Hai Cờ Ðỏ. Gọi là Cờ Ðổ không phải vì cầm cờ Cộng sản đi biểu tình, nhưng vì quê quán anh này ở Cờ Ðỏ - một địa phương thuộc đồn điền của Tây "Êmory." Anh có giấy chứng nhận riêng biệt của hãng Tây. Theo lời anh khoe khoang thì giấy đó mạnh hơn giấy thuế thân, bảo đảm không sợ bất cứ một thầy hương quản nào. Giọng Hai Cờ Ðỏ nói sang sảng:
- Ðố các cha vậy chớ rừng này hồi đời xưa có vua Gia Long đi ngang qua không?
Có tiếng cãi lại:
- Túng tiền thì lại đây, tôi cho mượng đỡ vài cắc, chớ đừng nói dóc. Nói phải có sách, mách phải có chứng...
- Dân ở Cờ Ðỏ không bao giờ nói dóc. Ðể tôi nói lại. Số là xưa kia... Gia Long bị Tây Sơn rượt, ngài phải dùng ghe biển mà chạy từ Cà Mau ra Phú Quốc. Chiếc ghe của ngài gọi là long thuyền... Ngài đứng trước mũi ghe, ngóng vào bờ mến tiếc lắm, vì ngài muốn làm vua ở đất liền chớ nào có mộng làm chúa ở cù lao...
Ai nấy nhốn nháo lên:
- Nghe lòng vòng quá. Nói cho lẹ thử coi... Muỗi cắn gần chết đây nè? Bà con nào cho tôi mượn bếp un, quạt khói lên dùm...
- Tôi nói ông Gia Long ngóng vô bờ, dòm dáo dác cái cụm rừng của tụi mình đương đứng bây giờ. Rồi ổng day qua nói với đình thần tả hữu:"Sơn bất cao, thủy bất thâm, phù sa chi địa nhơn tác bất thành tu hú giả. Nhứt phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá, cao phi viễn tẩu giả nan tàng..."
- Cắt nghĩa cho mau. Ở đây ai mà biết chữ nho.
Hai Cờ Ðỏ cười dòn:
- Câu đó ngụ ý về địa lý. Gia Long nói xứ Nam Kỳ này không có núi cao, không có sông sâu. Còn đất phù sa thì dở quá, vô dụng. Ðến đỗi móc đất lên nắn con tú hú để thổi cũng không kêu. Ðó là"bất thành tu hú giả." Duy có hai nghề phá sơn lâm đâm Hà Bá là dễ làm ăn. Nhưng lưới trời lồng lộng không ai chạy khỏi: phá rừng, chài cá khiến con người phải nghèo mạt...
Cả bọn cười vang lên:
- Hay! Hay! Bây giờ tới phiên ông Tư Châu Xương nói cho anh em nghe một chuyện khác.
Nghe đến tên ông Châu Xương, anh Tư Bình Thủy chợt sáng mắt lên. Ông này nước da đen ngăm, mặt mày hung tợn nhưng lòng dạ thiệt thà. Trong số tay rìu quen biết chỉ có ông là tử tế với anh nhứt. Bằng cớ là hôm trước lúc anh đau rét suốt ba, bốn ngày, ông cho đứa con gái lại nấu cháo và cho tiền để mua mấy chai thuốc phát lãnh hoàn. Cô gái ấy tên là Mịn, tuy đen đúa nhưng có duyên. Lúc ban đầu Mịn kêu bằng chú. Anh phải đính chánh lại rằng tuổi anh còn nhỏ, mới có hăm ba vì quá lăn lóc với sanh kế nên mau già đó thôi.
Sau rốt, Mịn chịu gọi anh bằng anh, Mịn săn sóc châu đáo lắm, nhiều đêm ngồi quạt khói un muỗi cho anh đến quá mười giờ đêm mà không về. Những đêm về khuya đó, anh không bao giờ nghe tiếng ông Tư Châu Xương rầy con gái. Trái lại, có đêm nhiều khi cô Mịnh bơi xuồng đến thăm anh một lần thứ hai.
- Ba của em sợ anh đắng miệng, biểu em đem qua anh điếu thuốc rê này. Ba nói hễ khi nào anh hút thấy ngon là trong mình bớt đau.
Ðêm thanh vắng, giữa tứ bề rừng bụi, anh Tư lúc ấy thấy vui sướng không cùng. Anh cố tình nói một câu để dọ thử tấm lòng cô Mịn:
- Làm ơn thì làm ơn cho trót. Không lẽ tôi phải bước xuống sàn lại đằng bếp un để châm thuốc hút. Nhờ em đốt dùm.
Mịn e thẹn:
- Hồi giờ, em đâu biết đốt thuốc. Hay là em gắp cục than cho anh.
- Tội nghiệp. Bộ cô muốn đốt tôi luôn sao? Có gì là đắng. Cô cứ ngậm vô miệng, hút một hơi cha cháy trước.
Và Mịn đã ngoan ngoãn nghe lời của anh. Ðiếu thuốc rê hôm đó ngon làm sao!
Cô Mịn đã xuống về từ lâu mà anh còn ngồi đó, tiếc cái tàn thuốc đã cháy tới da tay, tâm trí mơ màng nhớ đến đôi mắt của Mịn, đôi mắt đen như nước rừng, có đôi vì sao chiếu xuống ngời lên lấp lánh...
Ông Tư Châu Xương bắt đầu kể chuyện. Anh Tư Bình Thủy lập tức ngồi dậy. Nghe có tiếng cưa củi, anh đoán chắc hôm nay thế nào cũng có cô Mịn đến giúp cha.
Ông nói:
- Hai Cờ Ðỏ nói dứt cái sấm truyền của vua Gia Long. Bây giờ tôi xin nói tiếp về lúc Tây qua đánh thành Long Hồ tức Vĩnh Long bây giờ. Tôi cắt nghĩa tại sao lính Tây có mang mỏ neo ở bâu nói, tại sao trên đồng bạc trắng của Tây có chạm hình người đàn bà...
"Năm đó, Tây kéo tàu binh tới bến Long Hồ. Tụi nó bắn súng lên. Bên này, binh của An Nam mình lập tức nã đại bác thần công xuống. Hai bên kịch chiến khá lâu. Lính Tây chết nhiều quá. Quan đề đốc của Tây ra lịnh kéo neo rút lui về Mỹ Tho.
Thừa cơ, bên mình bắn súng như mưa bấc. Lính thủy Tây ráng sức kéo neo nhưng không xuể. Vì vậy, tàu chạy thối lui không được. Dè đâu, lúc đó trên tàu Tây một con đầm xuất hiện ra, tay cầm cờ phất tới. Ðó là vợ của quan đề đốc đứng ra thay chồng để xua binh đổ bộ lần thứ hai. Nhờ vậy, Tây thắng, chiếm thành Long Hồ. Sau đó, tụi nó nhớ ơn cái mỏ neo với con đầm nên mới ra lịnh ghi lại kỷ niệm... Bởi vậy, đàn ông nhiều khi cần có đàn bà giúp mới làm được việc lớn. Và ở đời, nhiều khi cái chuyện rủi ro như cái mỏ neo nọ lại biến thành dịp may..."
Ông Tư Châu Xương dứt lời, ai nấy cười vang. Có người chêm vô một câu:
- Bây giờ tới phía Tư Bình Thủy. Tư Bình Thủy đâu rồi? Nó mê ông lắm đó ông Tư.
Anh Tư ngồi trong này nín khe, lắng nghe ngoài rừng thiên hạ gọi anh ngày một gấp!
- Ðâu rồi? Hay là thua bài cào hồi tối rồi ngã luôn. Hồi tối, tôi thua hai chục đồng, nó thua có năm đồng, nhằm nhè gì. Ông Tư Châu Xương đâu? Kêu... thằng rẻ của ông thức dậy coi...
Anh Tư Bình Thủy lắng nghe chờ sự phản ứng của ông Tư Châu Xương. Nhưng êm tịnh, chập sau, thấy Hai Cờ Ðỏ chống xuồng tới chòi. Anh giả vờ như ngủ mới thức dậy mà nói:
- Bữa nay bịnh quá, tôi muốn ngủ luôn. Kêu ra có chuyện gì không?
- Ra rừng rồi hãy biết. Ông già vợ của mầy chờ ở ngoải.
- Ðừng nói bậy, ông bắt lỗi thì sao?
- Cam đoan không bắt lỗi. Thằng Tư mâỳ biết không? Hồi nãy ông nói: đàn ông cần có đàn bà mới lập sự nghiệp được. Chắc là ổng muốn mở hơi gả con gái cho thằng Tư mầy.
Anh Tư Bình Thủy lội xuống rừng. Nước rừng quá lạnh, ngập khỏi lưng quần, khiến anh tỉnh táo lại. Anh cầm búa lội qua gốc tràm gần đó. Nể lời yêu cầu của người chung quanh, anh không thể chối từ:
- Tôi chỉ biết bài thơ ông Tiều. Bà con có đọc Lục Vân Tiên đều biết. Tôi không muốn nói ra vì nó chua chát quá. Tay rìu đời nay là ông Tiều đời xưa đầu thai lại chớ gì...
Tiều rằng: Vốn lão tinh thông,
Một mình thơ thẩn non lòng hôm mai.
Tấm lòng chẳng muốn của ai,
Lánh nơi danh lợi chông gia mặc lòng.
Kìa non nọ nước thong dong,
Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.
Công hầu phú quý mặc ai,
Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày.
Giọng của Tư Bình Thủy khá trong trẻo nên hấp dẫn được người nghe. Mặc dầu đó là tâm sự của người xưa nhưng những người lưu lạc ngày nay cũng nhờ đó mà sống lại đôi phút giây mát mẽ, thơ mộng. Họ im lặng nhìn nhau, chờ đợi lời bình luận sôi nổi. Cô Mịn liếc qua Tư Bình Thủy như khâm phục, hãnh diện.
Nhưng từ trong rừng, kìa tên cặp rằng Be chống xuồng ló ra. Hắn mặc áo bành tô vàng, miệng ngậm ống vố, hất hàm lên:
- Ê Từ Bình Thủy nói dóc cái gì đó? Thằng này bữa nay bày đặt o mèo nữa hả? Thi phú của mầy ăn nhập vào đâu?
Tư Bình Thủy trợn mắt nhìn cặp rằng Be. Hắn nhếch mép:
- Nói chơi không được nữa hả? Tao cho mầy hay: Cô Mịn muốn có hạnh phúc thì hãy tìm một người giống như tao. Cô sẽ có áo bông quần lãnh.
Rồi hắn day lại cô Mịn mà cười:
- Phải vậy không cô Mịn? Cưa củi làm chi mà áo rách vai, rách ngực. Người ta thấy da, thấy thịt của cô kìa... Cô dòm lại coi... trắng xát.
Nhanh như chớp, Tư Bình Thủy xách búa lội nước đùng đùng lại gần xuồng cặp rằng Be mà chửi:
- Ỷ làm cặp rằng hả? Ðồ tục tỉu! Tao chém mầy!
Cái chuyện cầm búa hăm he chém người như thế ra rất thường giữa cuộc làm ăn hỗn độn này. Ông Châu Xương, ông Hai Cờ Ðỏ thấy chưa cần can thiệp, vì ông biết cái tật xỏ lá của cặp rằng Be. Ðúng vậy, hắn vội vã chống xuồng ra xa rồi dừng lại, nói vài câu để cứu vớt thể diện:
- Bà con ơi! Thằng con nít thất học này làm gì mà biết thi phú, kinh sử. Nó nói dóc.
Tư Bình Thủy nói lớn:
- Thằng nào nói dóc? Chú mầy mới là thằng nói dóc. Hồi qua Bình Thủy rủ tao xuống đây, mầy nói ở dưới này sướng lắm. Sao mầy không nói ở dưới này muỗi mòng đỉa vắt nước ngập ngang lưng quần, nhà cửa không có. Mầy lại còn bày đặt chứa bài cào lấy xâu. Măn mùa, mồ hôi nước nắt của dân tứ xứ bị mầy cướp ráo.
Cặp rằng Be đành đuối lý, chống xuồng đi. Hắn nói với lại:
- Tao cho Tây hay. Nó vô bắn nát óc mầy. Xứ này, xứ của tây mầy biết chưa?

"Xứ này, xứ của Tây." Mấy tiếng đó khiến cho ai nấy cười rộ lên, cười chua chát thiếu điều ra nước mắt. Gió rừng ngừng lại. Nước rừng bừng tỉnh soi rõ từng lá cây, dáng người. Chập sau, ông Tư Châu Xương nói ôn tồn:

- Mình dốt nát không biết tích Gia Long tẩu quốc, tích Tây đánh thành Long Hồ, nhưng chắc chắn mình không bao giờ nói một câu quá trật lất như thằng cặp rằng đó. Hơi đâu mà phiền, Từ Bình Thủy ơi! Trăm sự chỉ vì sinh kế. Ông Tiều này xưa nào có lúc rảnh rang tâm trí. Hồi nãy đọc thơ Lục Vân Tiên, cháu quên mấy câu trước:Mình rằng: đây đó hỏi han, xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau. Nhưng ông Tiều không được rảnh:Tiều rằng: chẳng dám nói lâu, bởi vì còn phải vào rừng đốn củi bán hầu chợ phiên.
Trăm sự cũng bởi đồng tiền. Bây giờ, mưu kế hay nhứt là tối nay cháu lại nhà bác. Bác chỉ cho ni tấc từng cây cột, cây kèo. Mình nến thừa dịp này mà ăn cắp... của Tây một bộ cột. Cứ đốn sẵn, nhận lấp dưới sình. Hôm nào thuận lợi, mình sẽ lưu đi. Mai kia mốt lại, cuộc phá sơn lâm này mãn, chắc chắn thế nào mình cũng lời được một cái sườn nhà. Cháu chịu vậy không?
Anh Tư Bình Thủy liếc sang cô Mịn rồi cúi đầu trả lời nhỏ:
- Dạ, bác thương con cháu. Con cháu đội ơn bác không hết chớ có dám cãi lại bao giờ.
Tháng chạp chim về
Nó hiện ra từ mí rừng phía đông. Ban đầu chỉ là một đốm đen. Ngỡ đó là con chim đầu đàn, tôi chờ đợi những con khác bay theo sau nhưng tôi ngạc nhiên:
- Con diệc này sao bay về có một mình? Thường thường nó bay về nhiều lắm, sắp thành hai hàng như mũi tên, phải không ông Tư?
- Không phải! Không phải đâu!
Ông Tư trả lời cho có chừng. Mắt ông nhướng lên, theo dõi đốm đen cô độc nọ. Ông bước tới bước lui, quay tròn vòng rồi la lên mừng rỡ:
- Nó đó mà! Tội nghiệp quá. Năm nào cũng như năm nào...
Trên ngọn cây gòn, kìa một con chim to tướng đen thui, đầu có đốm trắng, cao nghệu như đứa trẻ lên mười tuổi. Mặt trời đã gác lên mí rừng dọi lên lông cánh của nó, mướt rượt.
- Năm nay nó già đi nhiều... Tội nghiệp!
Khỏi cần lượn vòng quanh, nó cũng nhìn được con rạch Ðường Sân này...
Nóng ruột tôi hỏi:
- Con chi gì mà coi dữ quá vậy ông Tư?
- Con chim già sói. Thứ này bây giờ ít lai vãng tới miệt Cạnh đền này, chớ hồi đó thì ôi thôi...
- Làm sao bắt nó xuống coi thử. Phải chi mình có súng...
Ông Tư nhìn tôi, nhăn mặt lắc đầu:
- Súng với ống mà làm gì? Ðừng nói bậy, nghe được nó bay đi luôn. Giống già sói gan dạ lắm. Cháu chưa biết sao? Hồi năm đó ông kiểm lâm Rôbe lại đây, cũng vào tháng này gập nó. Ông nổ nghe cái "rầm", con già sói không thèm nghe, cứ đứng im. Qua phát thứ hai nó ngóng mỏ, coi bộ tức mình bực bội. Tiếng súng thứ ba nổ lên. Già sói nhè nhẹ cất cánh bay đi, buông xuống một cục phẩn, nhè cái nón của ông Rôbe mà rớt trúng. Báo hại ổng mắc cỡ, tôi phải thay mặt con già sói nọ mà xin lỗi ông... Con già sói này sống ít nhứt là năm chục năm rồi. Nó có nghĩa lắm, bỏ sân chim không đành. Hồi năm chục năm về trước, hồi trăm năm về trước rạch Ðường Sân ở Chắc Băng này phồn thịnh lắm.
Vùng Rạch Giá, Hà Tiên nổi danh là nơi tập họp nhiều sân chim, của trời đất dành riêng cho. Từ vàm đến ngọn sông Cái Lớn, bao nhiêu là sân: sân Cái nước, sân Thầy Quơn, sân Thứ Nhứt... Ðó là chưa kể mấy sân ở giữa rừng mà chưa ai bước chân tới. Từng vùng rộng chừng mười ngàn thước vuông, tụ tập hàng vạn con chim lớn.
Chúng nó sanh sôi nẩy nở, tạolập một thế giới riêng biệt náo nhiệt, ở khắp nhành cây và mặt đất. Dân chúng kéo đến các sân chim này để bắt chim, nhổ lông bán cho ghe buôn từ Hải Nam đến, họ mua về để kết quạt. Ta có thể chia hai loại chim: thứ làm ổ trên cây và thứ làm ổ trên mặt đất.
Làm ổ trên cây thì có chim chàng bè, chim già sói, chim chó đồng. Là ổ dưới đất thì co chim bồ nông là đáng kể.
Chim bồ nông tụ tập nhiều nhứt là ngọn rạch Chắc Băng đổ ra sông Cái Lớn. Ở đây hoàn toàn hẻo lánh, ít cây to lớn, ít cọp hoặc rắn. Hai loại này hay tìm chim mà ăn thịt hoặc ăn trứng. Ngoài ra trên mặt đất phủ dày nhiều dây choại, dây dớn để cho chim làm ổ. Nước dưới đất U Minh lại ngọt, xa xa lấp lánh nhiều vũng bùn chi tha hồ mà bơi lội. Chim bồ nông giống hệt chim thằng bè nhưng lông nó nhuộm màu xám tro. Bắt đầu tháng Chín tháng Mười, chúng bay từ Biển Hồ hoặc từ sông Hậu về rừng U Minh để làm ổ. Chúng lấy chân đạp dây choại xuống sát mặt đất và dùng mỏ để dò xét bên dưới. Gặp nơi đất ẩm hoặc có trũng, chúng bỏ đi nơi khác vì e sau này trứng sẽ thúi. Gặp chỗ vừa ý, chúng nhổ cỏ xung quanh, dọn một vùng nước khá rộng để bầy con sau khi nở ra có chỗ bơi lội.
Tháng Mười Một, chim bồ nông đẻ ra ba trứng, lớn hơn trứng ngỗng chút ít. Sau đó, chim trống và chim mái thay phiên nhau ấp. Khi trứng nở, chúng tiếp tục ấp con dưới cánh cho ấm. Chờ khi chim con có lông ống thì chim trống lẫn chim mái bay đi tận Biển Hồ để tìm mồi nuôi con. Chừng hai ngày sau, khi trở về trong dãy (bọc da dưới mỏ) mỗi con đều đầy cá. Cứ mỗi ngày chim con được đút mồi một lần. Lúc cha mẹ đi vắng bầy chim con tha hồ đùa giỡn trong vũng nước đã dọn sẵn kế bên.
Ngày qua ngày, bầy con lớn lên nhanh chóng, hễ đói là la hét lên inh ỏi. Khi thấy cha mẹ đem mồi về, chim con đạp chân quạt cánh, bay sập sận lên không trung. Lúc chim bồ nông đút mồi cho con, chúng ta có thể nói là một trận giặc lớn. Hàng ngàn con già sói, con chim chó đồng bay lại để giựt mồi cho con mình. Vì vậy khi con cá ở Biển Hồ từ trong đãy moi ra là chim bồ nông phải tranh đấu với ba loại chim kia. Và chính loại chó đồng, già sói lại phải đánh lộn cắn nhau để giành giựt, như ăn cướp chia của...
Trứng bồ nông vừa nở, người chủ sân bắt đầu lo mướn "bạn giữ sân." Nhiệm vụ của"bạn" là dọn một con đường tương đối trống trải từ mé rạch lên sân. Ðồng thời, họ cất trại dựng hai vòng thành lớn bằng tre chung quanh sân.
Vòng thành thứ nhứt hơi vuông, mỗi cạnh dài cỡ sáu trăm thước, cao hai thước tây.
Kế đó là vòng thành thứ nhì bên trong là tường để xử tử loài chim. Nền đất dọn sạch cỏ. Giữa hai vòng thành có cánh cửa lớn bằng tre.
Ðâu đó xong xuôi, chủ sân mướn chừng hai chục người bạn, khác, gọi là"bạn giết". Họ ra tay khi đàn chim bồ nông con bắt đầu bay sập sận nghĩa là mọc lông cánh đầy đủ. Nếu để trể, chim con sẽ bay mất.
Ðêm ấy trời tối, vào khoảng canh ba. Sau khi được cha mẹ đút mồi, đàn chim bồ nông con vui chơi hả hê, bơi lội tung tăng dưới ao rồi trở về ngủ trên ổ. Mẹ cha của chúng đã đi vắng tận Biển Hồ, tìm mồi cho ngày mai.
Bỗng đâu từ bốn phía có tiếng la ó, gầm thét của loài người. Mở mắt ra, bầy chim con phải choá mắt vì những đốm lửa đỏ rực. Mấy người bạn giết đã xông vào, hai tay cầm đuốc quơ qua, quơ lại. Ðàn chim con chạy tứ tung, tìm một lối thoát tuyệt vọng. Chúng bắt đầu chạy dồn vào một xó để lần lượt gom vào vòng thành thứ hai như cá vào rọ.
Cạnh cửa tre hạ xuống, hàng chục người đứng bao vây phía ngoài pháp trường nọ, miệng la inh ỏi, tay quơ đuốc lửa.
Dầu muốn xé rào chui ra, lũ chim nọ cũng không dám. Khi ấy, hai chục người"bạn giết" bước vào phía trường để thi hành nhiệm vụ đao phủ với hai bàn tay không. Quần áo của họ nai nịt gọn gàng. Ngang lưng thắt sợi dây nịt lớn làm bằng yếm dừa để đề phòng loại mòng chim chun vào người. Loại mòng này hay đeo theo cánh chim bồ nông để hút máu như chí, như rận.
Hai chục người phải đối phó với chín mười ngàn chim bồ nông! Họ lanh lẹ lắm, tả xông hữ đột như Triệu Tử Long, Ðương Dương Trường Bản, tay trái họ nắm cần cổ chim tay mặt nắm đầu chim. Họ vặn lọi lại. Chim chết không kịp ngáp. Giết rồi quăng xuống tại chỗ. Phải lanh tay lắm mới giết kịp. Ðể chậm trễ thì chừng mặt trời mọc, bầy chim lớn từ Biển Hồ sẽ chứng kiến cảnh tượng đẫm máu này. Chúng sẵn sàng đáp xuống chiến đấu một mất một còn với loài người để giải thoát cho đàn con.
Trời sáng. Thống thiết dường bao, tiếng kêu la của đàn chim lớn khi trở về không gặp con nghe vang dội cả góc rừng! Vài con may mắn hơn, tìm lại được bầy con nhờ chạy lạc nên thoát chết đêm vừa qua. Chúng tiếp tục đút mồi. Nhưng vài đêm sau, chủ sân mở cuộc tảo thanh lần thứ hai để tóm trọn gói.
Riêng về bầy chim mất con thì cứ bay tới bay lui trên sân, kêu la ba bốn ngày liên tiếp rồi trở về Biển Hồ với niềm oán hận, thề không bao giờ trở lại đất Kiên Giang này nữa.
Xong xuôi công việc, mấy người"bạn giết" về nhà uống rượu nghỉ ngơi. Giờ đấy đến lúc người"bạn nhổ" làm việc. Họ nhổ lông cánh từng con, xong một con là bó lại, giao phó nắm lông cho chủ sân. Chủ sân ngồi kế bên, trao cho họ cây thẻ để sau này làm bằng chứng tính tiền công... Xen vào đó, còn mấy người cán hôi. Mấy người nầy tình nguyện nhổ lông không ăn tiền. Họ xin lại xác chim bồ nông, đem về lóc mỡ ra, nấu dầu để thắp đèn.
Không cần nói rõ, ai cũng có thể hình dung được bãi chiến trường, hôm sau xác chim bồ nông vun lên cao ngất, như đống lúa ba bốn trăm giạ.
Ðó là cách giết loại chim bồ nông ổ trên mặt đất. Ðối với loại thằng bè, già sói, chó đồng làm ổ trên cây thì phải tốn công hơn. Vào khoảng canh ba, mấy "bạn giết" trèo lên tìm ổ chúng bẻ cổ từng con rồi ném xuống đất.
Lông chim bán cho ghe buôn từ Hải Nam đến. Họ mua về để kết quạt. Giá thị trường như sau:
- Lông bồ nông một bó một quan.
- Lông thằng bè, già sói thì hai quan mỗi bó.
Mỡ chim thì đem về nấu dầu như trên kia đã nói. Thịt chim đem xào sả nghệ, nước cốt dừa ăn cũng ngon ngon. Nhưng ai mà ăn cho hết? Có thể muối phơi khô. Thời bấy giờ, không ai cần làm chuyện đó. Họ thảy bỏ xác chim dưới sông cho diều, cho quạ...
Ðất hoang, rừng rậm lần lần được khai thác ở vùng Kiên Giang. Vì động đất động rừng, chim bay đi, bỏ sân cũ.
Chúng bị tiêu diệt lần lần. Số chim còn lại bay về đâu? Ngày nay cùng Rạch Giá, Cà Mau còn vài sân chim. Nhưng toàn là cò, diệc, cồng cộc, loại chim nhỏ.
Vài con Nghi chim còn nhớ sân cũ, hàng năm cứ tới tháng Chạp là bay về. Như con chim già sói này trở về rạch Ðường Sân.
Và ông Tư - Ngưòi giúp chúng tôi những tài liệu trên đây - hồi còn trai tráng chính là người "bạn giữ sân" và người "bạn giết" - hai danh từ xa xăm mà không ai nhắc tới nữa.
Con chim già sói đứng cao nghệu trên cây gòn, day mỏ qua phía nhà ông Tư.
Ông Tư đứng tần ngần, lấy tay che mắt nhìn nó, cố sức nhìn kỹ từ nét mặt như hỏi han sức khỏe của người bạn già quen thuộc, biết giữ thủy chung đạo bằng hữu.
Ông nói:
- Mấy chục năm rồi, năm nào tháng Tết nó cũng về đây vài ngày. Năm nay nó già nhiều rồi. Ðầu sói hơn mọi năm, cháu thấy không?
Như lời ông Tư, tôi thấy rõ ràng một đốm trắng ở giữa đầu con chim nọ. Là kẻ sanh sau đẻ muộn tôi nào gặp con chim này hồi mấy mươi năm về trước để so sánh cho biết nó già nhiều hay già ít? Mặt trời gần lặn rồi, nền trời đỏ khé. Con già sói đứng sững đó, im lìm như đúc bằng đồng đen, phía sau có hào quang.
Nó nhìn ông Tư, râu tóc bạc phếu.
Ông Tư nhìn nó. Có lẽ ông nghĩ đến phận mình mà nảy sinh ra bao mối cảm hoài. Trong con tim già, qua thời gian, giờ đây chắc chắn đã lắng xuống hết bao hung bạo của thời xuân xanh của ông và của đất nước hoang vu. Giữa ông và con chim nọ, không còn oán thù. Biển im lặng sau cơn dông tố. Ðây là Bá Nha với Tử Kỳ cảm thông nhau. Cầu cho ông Tư với con chim già sói được sống lâu hơn trăm tuổi! Xin tạ ơn đấng tạo hóa đã dành cho đất nước này bao nhiêu đặc ân như những sân chim đây là một. Hiên ngang thay! Ðẹp đẽ thay! Hỡi người Việt đầu tiên đến vùng Kiên Giang hưởng ơn Trời lộc Nước mà khai phá miền Nam...
Ruộng Lò Bom
Ông Hai Don đến khu rừng tràm, vừa bơi xuồng vừa nhìn dáo dác. Lệ - đứa con gái ông - đi đốn củi một mình từ sáng đến xế trưa mà vẫn chưa về nhà ăn cơm.
Nó mất dạng nơi chốn nào? Hồi năm ngoái, Lệ đã tư tình với một tên cướp. Ông Hai don bắt quả tang đôi trai gái trắc nết, đánh cho một trận đòn nên thân. Tên cướp nọ bỏ xứ, vắng bặt. Nhưng dường như Lệ bắt đầu sống phóng khoáng, tập ca vọng cổ, vào rừng đốn củi một mình, chẳng sợ ma rừng như trước. Mới đây, trong xóm lại xuất hiện một tay"anh hùng mới," gọi nôm na là Tư Cồ, vì hắn to lớn xác, vai u thịt bắp. Tư Cồ khoe khoang rằng đã phiêu bạt khắp Nam Kỳ, lục tỉnh, biết làm đủ thứ nghề. Hắn ta còn nói thêm:
- Tôi nghèo vì muốn sống ngang dọc chớ nếu cần làm giàu như thiên hạ thì mấy hồi... Và tôi làm mướn qua tháng qua ngày chỉ vì tôi không muốn làm chủ. Người làm mướn sung sướng trăm bề: không lo xa, có nhà ở, cơm ăn. Khi cháng ông chủ này thì mình giựt nợ, làm tôi tớ cho ông chủ khác. Rốt cuộc kẻ giàu người nghèo đều chết ráo trọi. Chỉ có cỏ cây là sống mãi mãi...
Ông Hai Don đã dè dặt đề phòng. Lệ nói gần nói xa:
- Tư Cồ rõ ràng là người lịch thiệp, có tài như vậy thì chẳng bao giờ chết đói.
Ông Hai đáp:
- Có tài... ăn cướp chớ tài gì. Nó là đứa liều mạng, lười biếng, xem loài người như cỏ cây, thua cỏ cây nữa là khác. Phách lối, xấc xược quá!
Lệ vẫn chưa hiểu:
- Ảnh nói dứng phần nào chớ.
- Nín đi. Nó nói cao xa lắm. Nó ám chỉ rằng tất cả dân xóm này là loài cỏ cây, chữ nho kêu bằng thảo giái. Riêng nó mới xứng đáng làm người, dọc ngang ngang dọc.
Dè đâu lời mạt sát ấy lại gieo cho Lệ một ấn tướng tốt đẹp về chàng trai Tư Cồ. Lệ tò mò, muốn hiểu Tư Cồ oanh liệt như thế nào. Nàng muốn tìm người yêu cho xứng đáng. Người bạn trăm năm của nàng phải là người tứ xứ mới tới. Chàng ta chẳng hiểu rành dĩ vãng của nàng. Và theo kinh nghiệm cho biết, kẻ giang hồ tứ chiếng ít kén chọn khắt khe trong tình chồng vọ. Họ dễ dãi đối với sự trinh tiết.
Lệ đã hẹn hò với Tư Cồ nhiều lần, vào rừng tràm để tìm hiểu nhau hơn. Nhưng lần này, ông Hai Don dường như chú ý. Hai người lựa một gốc cây tràm cao ráo, đem cơm ra ăn...
Lệ chợt nghe tiếng động nên cau mày, néo mình vào gốc tràm:
- Em hồ nghi quá.
Từ Cồ vẫn thản nhiên:
- Trong rừng, nghe tiếng cảnh lá khua răng rắc hoặc tiếng khoát nước là sự thường. Em sợ hả? Sợ ai? Sợ nỗi gì?
Lệ nói khẽ:
- Sợ ba em bắt gặp.
Từ Cồ nói:
- Dễ quá. Hễ ổng gặp thì xử huề. Chẳng lẽ ổng đánh anh.
- Rũi ổng đánh thì sao?
- Thì anh chạy trốn lẩn quẩn... như con nít chơi cút bắt.
- Anh nói kỳ quá. Bộ... ba em là con nít sao?
- Ừ! Anh xin lỗi. Theo ý em thì anh nên làm gì lúc này...
Tâm hồn Lệ xao xuyến lạ thường. Tuy lẳng lơ trắc nết, nhưng nàng chẳng muốn cha buồn phiền. Ðối với Tư Cồ, nàng chưa từng gần gũi về xác thịt. Nàng muốn làm lại cuộc đời, kỹ lưỡng hơn. Nếu tình cờ, cha nàng bắt gặp thì oan ức cho nàng quá. Ðôi trai gái hò hẹn nhau giữa rừng, kín đáo, thiệt là tình ngay mà lý gian. Vài con chim áo dà bay tới tấp như giật mình. Ðể được vững bụng. Lệ mạnh dạn trèo lên cây tràm.
Nàng nắm lấy một nhánh to, lao mình, rút chân, uốn lưng. Ðến ngọn cây tràm, nàng nằm nghiêng, ôm sát thân cây. Ðằng xa, trong bụi lá gồi, như có gió thổi nhẹ, vô cớ. Lá gồi như cái quạt xanh tươi, đung đưa. Nàng nói hơi to:
- Coi chừng cọp, anh Cồ ơi!
- Anh xem cọp như... loài cỏ cây! Ý kìa! Ngộ quá...
- Cái gì ngộ? Anh phải cúi mặt xuống để nghe tiếng đất. Kìa... Dường như cọp tiến lại phía tụi mình.
Tư Cồ đáp:
- Em sao u mê quá... Xứ này đây có cọp. Cọp đâu dại khờ tới đây làm gì?...
Bỗng dưng, có tiếng quát to:
- Tụi bây lộng quá rồi! Ðứa nào nói tao là loài thú vật, dại khờ, giống như cỏ cây hả? Còn con yêu tinh kia! Xuống đây. Mầy không thấy cha mầy đây hả? Rõ ràng phường mèo gà đồng...
Ông Hai Don bước tới, vạch lá. Lệ im lặng như nài nỉ Tư Cồ đừng cãi vã vô lễ. Tư Cồ lắc đầu, buồn bã:
- Tôi có tội. Bác muốn trừng trị cách nào! Tứ thật, hồi nãy tôi nói giỡn cho vui với cô Lệ. Tôi chẳng dám so sánh bác với cỏ cây, thú vật.
Ông Hai Don vẫn chưa vừa lòng. Ông muốn đánh Tư Cồ. Hắng ngồi lì đó, trông thật đáng ghét. Nếu đánh, ông sẽ viện cớ gì? Trai gái gạp nhau giữa rừng, nói chuyện. Câu chuyện giữa Lệ và tư Cồ chẳng có gì xúc phạm thuần phong mỹ tục cho lắm, ông nói đổng:
- Tụi bây làm gì ngoài này?
Tư Cồ bèn lên tiếng, tự bào chữa:
- Dạ, như bác thấy rõ: cô Lệ ở trên ngọn cây, còn tôi thì ngồi trên mặt đất. Không có gì lạ cả.
- Ðừng giỡn mặt với tao! Mầy ưa giỡn quá. Mầy coi tao như loài vô tri vô giác.
Tư Cồ đáp:
- Dạ, bác là cha ruột cô Lệ. Tôi kính mến cô Lệ.
- Nói dóc hoài!
- Dạ, tôi nói thật. Nếu bác thương tôi, tôi hứa làm ăn cho bác thấy. Tôi ghét những người khinh tôi. Chẳng lẽ bác khinh đứa làm ăn giỏi dắn. Tôi hứa chẳng bao giờ phụ lòng bác.
Ông Hai Don cau mày. Nếu làm to chuyện thì chẳng ích lợi gì cho ai hết. Chi bằng ông giữ thể diện với Tư Cồ và bắt buộc Tư Cồ giữ thể diện đối với ông. Ông nghĩ ra một giải pháp vẹn toàn: cho Lệ và tư Cồ ăn ở với nhau, haiđứa nó phải đi làm ăn ở xứ khác. Dân trong xóm sẽ bớt lời dị nghị, thanh danh của ông được bảo vệ một phần lớn.
Lệ xuống xuồng, cầm cây dầm bơi cho cha ngồi. Tư Cồ bơi xuồng của mình theo sau. Anh ta đem gói thuốc rê, vấn một điếu, mời ông Hai Don:
- Thưa bác...
Hai Don đưa tay nhận điếu thuốc:
- Ðược rồi. Tao tính cho tụi bây. Con người ta sống trên cõi đời nên giữ đức hạnh. Nói thiệt cho mầy nghe, Tư Cồ...
Tư Cồ im lặng. Ông Hai don lên tiếng thị oai:
- Tao kêu mà mầy không dạ hả?
Tư Cồ giựt mình:
- Dạ, thưa bác.
- Mầy có sức lực, có tài. Nếu mầy bớt phách lối thì nên nhà nên cửa, bằng không thì mãn đời mầy cứ như vầy hoài.
Tư Cồ toan cãi lại. Nhưng nghĩ sao không biết, anh ta lại thôi.
Gần mãn mùa mưa. Nước sông Hầu Giang lần lầ giựt xuống. Cánh đồng hoang vu, chạy dài tới chân trời, lai láng như biển cả, rộng hàng năm, sáu chục cây số nối liền bờ sông Hậu ra vịnh Xiêm La. Không một bóng người. Không một căn chòi hoặc nhà sàn. Lệ ngồi nấu cơm trên xuồng. Tư Cồ hút thuốc, khen tấm tắc:
- Trời vừa mưa vừa nắng hiu hiu, mát quá. Trời đất bao la, đất này vô chủ...
Lệ bắt đầu ngao ngán. Tư Cồ vẫn giữ thói ngang ngược ngày trước. Anh ta đưa nàng về đâu? Ðất này tuy đầy nước lụt và nhấp nhô những lượn sóng cỏ nhưng phải có người làm chủ, ghi tên trong sổ bộ của nhà nước. Tư Cồ cứ bơi xuồng thẳng về phía đông bắc:
- Ðằng kia, anh cất sẵn một căn nhà sàn, hồi ba năm về trước, lúc chưa gặp em... Em thấy xứ này ngộ không?
Lệ nói gắt:
- Giống như biển.
- Nó là đất liền, là đồng hoang. Vài tháng nữa, nước giựt xuống, mặt đất bày ra, vợ chồng mình đâu còn bơi xuồng thảnh thơi như vầy. Chừng đó, mình đi bộ... trên đầu ngọn cỏ.

- Anh cứ nói phách hoài. Hồi đó, ba ghét anh cũng vì mấy tiếng cây cỏ đó! Sao anh ư cái vụ cây cỏ, cỏ cây quá vậy! Chẳng lẽ trên mặt đất này chỉ có anh mới là không phải loại cây cỏ...

Tư Cồ nói lảng sang chuyện khác:
- Giống như biển. Cỏ mọc nhấp nhô, giống như rong trôi ngoài biển. Tới chòi rồi! Phía gò đất đằng kia, ngay gốc cây gáo.
Xuồng đậu bào bến. Bến tức là gốc cây gáo, loại cây chịu đựng nước lụt rất giỏi. Căn chòi đã xiêu vẹo nhưng còn tạm làm nơi trú ẩn được. Nước dâng lên gần ngập sàn nhà. Tư Cồ thúc hối:
- Lệ à! Em dọn cơm lên chòi.
Rồi anh ta nhảy xuống tắm. Nước sâu ngập cả đầu. Tư Cồ lặn hụp nhu con cồng cộc. Hồi lâu, anh trồi đầu khỏi mặt nước, vuốt mặt, đưa lên một cọng cỏ, loại cỏ dài hơn hai thước:
- Bảnh không! Nhờ cỏ này mà vợ chồng mình làm ruộng.
Lệ sửng sốt vì anh chồng này nói như đùa giỡn. Xưa nay, chẳng ai làm ruộng nhờ cỏ. Cỏ là loại thù nghịch của nhà nông. Nước ngập cao hơn đầu người. Lệ nhớ đến những trận mưa tầm tã vào tháng Tám âm lịch. Lúc cấy xong, nếu nước dâng lên đột ngột, một đêm hai tấc, lẽ dĩ nhiên lúa phải hư hao vì nạn lụt.
Ðoán chừng sự ngạc nhiên của vợ, Tư Cồ nói tiếp:
- Lát nữa, anh... bắt đầu làm ruộng.
Lệ không còn chịu được nữa:
- Anh nói giỡn hoài. Giữa cảnh trời nước bao la, không một bóng người, cỏ hoang mọc đầy. Ngồi trên chòi như ngồi giữa cù lao, ngoài biển.
- Anh nói thiệt chớ không nói chơi. Em chưa tin à? Nấu cơm cho lẹ đi.
- Muốn ăn thì lên đây mà ăn! Anh coi chừng cảm mạo. Rùi mang bịnh, làm sao chạy thầy chạy thuốc.
Tư Cồ vẫn cười hề hề. Anh nhảy lên sàn, vuốt mặt. Nước vẫn chảy ròng ròng trên lưng:
- Ăn rồi làm liền!
- Thôi! Giỡn như anh, có ngày chết đói. Gạo còn đủ ăn có một hai ngày. Hết gạo, mượn ai?
- Ðừng lo. Hết gạo thì mình đi chỗ khác chơi. Bộ mình muốn ở đây hoài sao? Chí trai, tang bồng hồ thỉ, rày đây mai đó. Nếu sống hoài một chỗ, mình... giống như loại cỏ cây sao?
Tư Cồ vừa nói vừa cười. Lệ thở dài. Nàng gặp anh chồng Sở Khanh rồi chăng? Ai lại làm ruộng theo kiểu này. Hay là tư Cồ có dính líu đảng cướp nào đó. Căn chòi giữa nơi vùng nước ngập này là sào huyệt của chúng. Tư Cồ hẹn hò với đồng đảng để chia của hoặc âm mưu bố trí một trận giết người cướp cửa. Làm ruộng mà không có lúa giống, không trâu bò, làm sao tin được.
Lệ dọn cơm cho chồng ăn, Tư Cồ vẫn nói giọng thiếu nghiêm trang:
- Em ăn cho no đi. Anh ăn ít lắm. Ăn nhiều tức bụng. Ðúng theo sách vở... Trước khi làm, mình không nên ăn.
Trong một thoáng. Lệ hối hận vì trót vương mang với Tư Cồ. Hắn lười biếng, ăn nói bóng gió nghe thô tục quá. Tiếng "làm" có nhiều nghĩa. Ðôi vợ chồng trẻ, buổi xế trưa, trong căn chòi nhỏ, tư bề sóng dậy lăn tăn và gió thổi hiu hiu... Tư Cồ nói:
- Lát nữa tôi cày...
Lệ thẹn thuồng:
- Thôi, đừng nói chuyện trên trời dưới đất. Anh làm ruộng à! Ruộng gì? Hay là anh gạt em, đưa em ra đây.
Tư Cồ cười dòn, xô chén cơm ra xa, rồi ho sặc sụa:
- Trời đất ơi! Con mẹ này... vô đoan quá. Ừ! Tôi là đưá bất lương, bắt cóc con gái ra đây để luyện"Thiên linh cái." Cây dao đây nè. Nãy giờ, tôi quên coi chừng, rủi mất thì chắc ngồi ở không mà chơi.
Nói xong, Tư Cồ đứng dậy, lại nóc chòi, vạch mái lá. Lệ chợt rú lên:
- Ghê quá! Anh đừng giỡn!
Một cây dao dài chừng non thước tây. Cán dao ngắn. Lưỡi dao sáng ngời, bên ngoài có thoa dầu mỡ, láng bóng. Cây dao được gói cẩn thận trong cái vỏ bằng mo cau. Tư Cồ thủ bộ như hiệp sĩ thời trung cổ đang tuốt thanh gươm khỏi vỏ. Lệ sực nhớ đến bọn cướp biển đang hươi ngọn mã tấu:
- Kỳ quá! Anh giỡn hoài.
- Làm thiệt chớ đâu phải giỡn. Làm ăn mà. Có làm mới có ăn.
Lệ nói gắt:
- Tôi về bây giờ! Tôi xuống xuồng về nhà. Giỏi thì anh ở ngoài xứ này một mình...
- Sao lại về? Tình chồng nghĩa vợ gì mà kỳ cục vậy? Chưa cực khổ, đói kém mà lại bỏ chồng ra đi. Ở lại... bớ phu nhân!
- Ở lại để làm gì?
- Ðể làm ruộng.
- Xứ ngập lụt, mênh mông như biển, làm ruộng gì?
- Ruộng "Lò Bom!"
- Lò Bom là ruộng gì?
- Là ruộng Lò Bom, ông bà nói vậy tôi hay vậy. Chẳng có ai "thông ngôn" tiếng đó. Tiếng Việt Nam.
- Lò Bom là gì?
- Ủa! Em hỏi cù cưa cù nhằng hoài vậy. Tôi cắt nghĩa rồi.
- Lúa Xom Mà Ca, ruộng Lò Bom. Em chưa biết lúa Xom Mà Ca à?
Tư Cồ giải thích:
- Ðất này hoang vu từ hồi tạo thiên lập điạ. Nghe đâu ông Mạc Cửu tới khai khẩn vùng Hà Tiên nhưng ổng ưa ở vùng biển để lập chợ mua bán, lập sòng bạc. Ruộng bỏ hoang. Thế là ông Mạc Cửu tiêu tan sự nghiệp. Chợ Hà Tiên lần lần sụp đổ. Ông Mạc Cửu ở bên Tầu qua, đem theo nhiều quân sư quạt mo nhưng chẳng ai chú ý tới chuyện làm ruộng. Họ chê đất này ngập lụt. Họ dòm đất này rồi uống rượu, ngâm thơ, bày đặt đủ điều lăng nhăng. Ðất này giáp mí với cái Ðông Hồ. Nghe đâu, mấy ông Tàu nói rằng ở Ðông Hồ, ban đêm có tiên hiện xuống. Vợ chồng mình là tiên... ở gần Ðông Hồ.
Lệ đổi giận làm vui:
- Ồ! Em nghe nói chuyện ông Mạc Cửu...
- Ông Mạc Cửu bất tài, không khai thác nổi xứ này. Rồi tới trào này: Tây lắc đầu, chẳng biết làm thế nào để lập làng lập xóm. Bác vật Tây chê đất này phèn, ngập lụt, khó khăn, thiếu kinh rạch, muỗi mòng. Mấy ông điền chủ không them khai khẩn, sợ tốn tiền đóng thuế mà chẳng thâu được huê lợi. Anh làm chuyện này, giỏi hơn Tây.
Nói xong, Tư Cồ cầm cây dao dài, đặt nhẹ xuống xuồng. Rồi anh ta cầm cây dầm, bơi ra khỏi chòi chừng vài chục thước, nhảy xuống nước.
Lệ đứng trông theo. Tư Cồ đứng trên mặt đất - tức là đáy nước - Nước cao ngang cổ. Hai tay Tư Cồ cầm dao, chém cỏ, chém gốc cỏ dưới nước. Cỏ nổi lên từng giề, vàng lườm màu phèn, trông giống như mấy giề rau câu, hải thảo ngoài biển.
Tư Cồ bơi xuồng lại gần chòi, kêu to:
- Mình ơi! Về...
Lệ ngơ ngác:
- Về nhà bây giờ à? Làm ruộng kiểu gì lạ vậy?
- Thì... ruộng Lò Bom, rồng lúa Xom Mà Ca. Xong rồi. Hay là mình muốn ở đây một mình.
Chiếc xuồng tiến nhanh, qua ngày đêm về nhà ông Hai Don. Dọc đường, Tư Cồ nói dong dài về cách thức làm ruộng Lò Bom. Cỏ bị chặt đứt gốc trôi lều bều. Hai tháng nữa, nước giựt xuống. Cỏ đã thúi, trở thành loại phân tốt, rải đầy trên mặt đất. Hai tháng nữa, tức là tháng Hai tháng Ba âm lịch, trời nắng cháy. Vợ chồng Tư Cồ sẽ trở lại đó, đốt cỏ. Rồi gieo lúa giống, lại lúa Xom Mà Ca từ lúc gieo đến lúc trổ bông là bốn tháng.
Tư Cồ lẩm bẩm:
- Nè! Mình phát cỏ mộ buổi, mình gieo giống một buổi. Hai buổi cộng lại là một ngày. Rồi nước mưa dâng lên, lúa trổ lúa chín. Mình trở lại đó gặt, một buổi nữa. Tổng cộng, làm ruộng tốn có một ngày rưỡi mà có lúa ăn. Một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, mình rảnh rang đến ba trăm sáu mươi ba ngày rưỡi!
- Mình làm biếng quá! Nhưng lúa Xom Mà Ca ra sao?
- Nó giống như lúa khác vậy thôi. Nhưng ăn không ngon cơm, bán mất giá. Mỗi mùa, mình cứ dời chỗ, theo kiểu làm rẫy trên núi. Chim chuột sâu bọ đâu có hay biết mà phá hoại. Tháng Hai, sau ngày Tết, em tới đó gieo mạ với anh? Chịu không? Rồi tháng Bảy, mình gặt, chừng vài chục giạ. Mình mượn chiếc ghe của ba.
Lệ dàu dàu nét mặt, không trả lời. Bấy giờ nàng đã hiểu tại sao Tư Cồ cứ rong chơi quanh năm mà vẫn tự hào là kẻ... chí thú làm ăn, khôn ngoan, lương thiện. Anh ta tự hào đến mức khinh khi kẻ khác - những kẻ chỉ biết ham thích vùng đất cao ráo, không phèn, không ngập lụt, thứ đất sản xuất lúa ngon thơm hơn.
Tư Cồ nói:
- Sao em nín thinh vậy? Hay là em muốn bỏ anh? Chán thằng chồng nghèo này hả?
Giọng Tư Cồ buồn rầu. Anh ta bớt nói, khi xuồng vào xóm. Anh ta nhớ tới vùng đất gần Ðông Hồ mà từ xưa đến giờ, không ai sản xuất ra lúa gạo nổi. Họ sự nước. Họ sợ cỏ hoang. Họ là loại cỏ cây. Từ khi học được kỹ thuật làm ruộng Lò Bom với ông lão vô danh, tư Cồ mừng quýnh như kẻ học được phép tiên, do kẻ siêu phàm truyền lại. Anh bám lấy nghề, sống thử. Nhưng muốn sống thì phải có lúa gạo, có tình yêu. Tình yêu muốn bền vững thì phải có thông cảm sâu sắc.
- Sao em lại không nói? Lệ...
- Nói gì bây giờ?
- Ở với anh không? Anh đã cưới hai người vợ, rồi cả hai người đó lần lượt bỏ anh, trong mùa phát cỏ. Chẳng cô nào trở lại với anh, khi gieo mạ, gặt lúa. Họ chê anh.
Lệ suy nghĩ vẩn vơ. Tư Cồ yêu vùng đất phèn mà thiên hạ đều chê là vùng đất bỏ. Giờ đây nàng yêu Tư Cồ, người mà thiên hạ chê là thô tục, bất lương. Thôi thì cũng hy sinh theo chàng ta vài năm, để chúng tỏ lòng nàng khác hơn loại cỏ cây. Nàng đáp:
- Ừ! Gieo mạ thì gieo mạ. Gặt lúa thì gặt, em không ngán. Nhưng em chỉ xin anh một điều.
- Ðiều gì? Anh sẳn sàng nghe theo em, miễn là em đừng xúi giục anh bỏ cái nghề ruộng Lò Bom.
- Em đâu dám. Mình làm ruộng thì cứ làm. Nhưng anh đừng nhắc tới chuyện cây cỏ cỏ cây. Thiên hạ họ không biết rõ, họ giận anh. Lại còn mấy tiến Lò Bom, Xm Mà Ca. Ðừng nói cho ai nghe. Họ hỏi hoài, anh cắt nghĩa mãi, rốt cuộc chẳng ai hiểu được ai. Họ hỏi để cầu vui vậy thôi... Trừ ra hai vợ chồng mình.
Con Rắn Ri Voi
Một buổi trưa, vào năm 1937, chú biện Tống đang đánh tứ sắc cầu vui với vài người bạn, chợt nghe tiếng canô chạy ầm ầm, ngày càng gần. Chú biện giựt mình, buông tay bài, nheo mắt:
- À! Ông cò Lơ Hia lùng bắt chuyện gì đó...
Một người đưa ý kiến:
- Chẳng lẽ ông cò bắt bọn mình. Chú biện quen thân với ổng mà?
Biện Tống lắc đầu:
- Ông Lơ Hia lợi hại lắm. Tôi làm biện làng, tức là làm thơ ký cho thầy xã trưởng vậy thôi. Bất cứ giờ phút nào tôi cũng có thể mất chức, bà con dư biết: lương bổng của tôi có bảy đồng năm cắc. Mấy người giăng câu, bắt cua hàng tháng huê lợi nhiều hơn tôi.
- Nhưng mà thầy được ngồi trong mát, khỏi dầm sương dãi nắng. hễ cúng đình thì thầy ngồi gần mâm của mấy ông hương chức hội tề.
Tiếng máy canô im bặt. Cả bọn ngơ ngác. Ông cò Lơ Hia mặc quần áo kaki và độikết trông oai vệ làm sao: dấu hiệutrái lựu đạn đặc biệt dành cho ngành cảnh sát thời Pháp thuộc... chói ngời màu bạc. Theo sau ông cò là một người mặc quần áoxá xẩu bằng lụa trắng.
Chú biện Tống thủ lệ, chắp tay xá theo phong tụcAn Nam , nhung ông cò lơ Hia đã vui cười, đưa taybông rua :
- Rảnh chưa? Chú biện. Dường như chú đánh bài tứ sắc với mấy người kia hả?
- Dạ, đâu có...,
- Ðừng chối. Dòm bộ tịch của mấy người tôi đủ biết. Từ xưa tới giờ, tôi bắt hơn... ngàn vụ cờ bạc rồi. Lần này là vụ thứ một ngàn lẻ một.
Biện Tống nài nỉ:
- Xin quan lớn thương dùm.
- Nếu không thương thì nãy giờ chú biện phải bị còng rồi. Còng rồi đem xuống canô, đem về nhốt tại khám đường ở chợ Ngã Năm. Bây giờ, chú biện theo tôi, khỏi còng. Chú là người ốm yếu, còng tay làm chi thêm vô ích.
Nói xong, ông cò Lơ Hia khoát tay, ra lịnh giải tán đám người hiếu kỳ đang dụm năm, dụm bảy từ phiá xa xa. Thật là hồn phi phách tán. Chú biện Tống riu ríu bước theo ông cồ. Người Huê kiều nói tiếng Việt khá rành:
- Ðừng sợ. Ðừng sợ. Thầy Hai đừng sợ. Thầy Hai làm việc ở xóm này lâu mau rồi?
Biện Tống liếc qua ông cò Lơ Hia như để xin phép trả lời. Là người am hiểu chút ít việc quan việc làng, biện Tống đã thuộc làu nguyên tắc: khi bị bắt thì tội nhơn chẳng được quyền nói chuyện với kẻ khác, nhứt là khi quan trên chưa lấy khẩu cung.
Ðến bờ kinh xáng, ông cò Lơ Hia nói nhanh:
- Chú biện gặp dịp may rồi đó. Tôi làm bộ như vậy để dân làng đừng nghi kỵ. Thôi, chú cứ xuống canô uống rượu chát, bàn chuyện riêng với người này, ông Xìn Phóc, làm má chín giàu có lắm, ở Sanh Ca Bo mới qua.
Xuống canô, biện Tống mừng rỡ vì thoát nạn. Nhưng mấy tiếngmá chín, Sanh Ca Bo mơ hồ quá. Bấy lâu nay, biện Tống ăn học rồi giao thiệp lẩn quẩn với những người làm ăn bậc trung ở chọ Gò Quao mà thôi. Người tên là Xìn Phóc tỏ bặt thiệp, vui vẻ. Ông ta mở cặp da - thứ cặp da hơi lạ - đem ra tấm danh thiếp:
- Thầy Hai uống rượu đi. Làm quen với thầy Hai, tôi mừng lắm.
Torng khi hai người đàm đạo với nhau, ông cò Lơ Hia ra sau lái canô ngắm cảnh rồi đem máy ảnh ra mà bấm. Xìn Phóc mới giải thích rõ ràng hai tiếngmá chín . Biện Tống tỏ vẻ... lanh lợi, nói mơ hồ:
- Vậy mà tôi tưởngmá chín là kẻ làm công hạng sang trọng, bạn thân của chủ tiệm hoặc có phần hùn trong công ty nào đó.
- Má chín, đúng ra là người mại bản, tiếng Tây kêu bằngcơm ra đo . Tôi làmcom ra do cho hãng buôn lớn nhứt ở Sanh Ca Bo, thuộc về miền Hạ Châu. Hãng này giàu bạc triệu chớ đâu phải ít. Phen này, nếu chịu hợp tác làm ăn với tôi thì thầy Hai lời bạc ngàn...
"Làm ăn" chuyện gì đây? Biện Tống chợt nghĩ đến những giai thoại về buôn lậu quốc tế, bọn ăn cướp biển ở vịnh Xiêm La. Xóm này, ai nấy kiếm đủ cơm gạo qua ngày, tư bề là vườn rậm, nước mặn đồng chua. "Hay là Xìn Phóc muốn tổ chức gián điệp quốc tế? Ông cò Lơ Hia đưa hắn đến để gài bẫy mình chăng?" Biện Tống thở dài:
- Cám ơnmá chín. Tôi dở lắm. Xóm này đâu có huê lợi gì. Dân chúng lo đặt lương, bắt rùa, bắt rắn...
Xìn Phóc gật đầu:
- Ông cò chỉ dạy tôi điều đó. Tôi tới đây, sau khi hiểu rõ tình hình. Nhưng còn chuyện nầy... nhỏ xíu thôi, tôi muốn nhờ thầy Hai giúp sức. Tôi ở lại đây với thầy Hai, bàn tín sau.
Ôn cò Lơ Hia nhìn đồng hồ, nói nhanh:
- Ðủ rồi. Má chín với biện Tống quen biết rồi hả? Nầy chú biện Tống.
- Dạ quan lớn dạy điều chi?
- Dịp may hiếm có. Nếumá chín bị cướp bóc, bắt cóc thì chú hoàn toàn chịu trách nhiệm nghe chưa? Má chín ở lại đây chừng một hoặc hai - ba tháng.
Xìn Phóc nhờ biện Tống tìm cho kỳ được một con rắn "quý báu" có vảy nhỏ và mịn giống như miếng da rắn đã thuộc xong làm kiểu. Xìn Phóc đem trọn con rắn ấy về Sài Gòn rồi trở xuống, mang theo khá nhiều tiền.
- Thầy Hai ơi! Con rắn đó... trúng lắm, tốt lắm. Chẳng hay ở xứ này bà con bắt nó dễ dàng không?
Biện Tống cười dòn:
- Loại rắn ri voi, hàng hà sa số. Nó lội dưới sông rạch trong rừng vào tháng ngập nước như vầy.
- Bên Sanh Ca Bo, ông chủ tôi muốn đặt mua chừng bốn ngàn miếng da rắn thứ đó, chở gấp về bển, trong vòng hai mươi bữa. Bảo lãnh nổi không? Cứ một miếng da rắn, tôi để cho thầy một đồng xu tiền huê hồng. Lần đầu tiên trong đời, biện Tống mới gặp một trường hợp may mắn như vậy. Từ trăm năm rồi... nghe ông già bà cả nói lại thì rắn ri voi là loại vô dụng. Nó sống dưới nước, mỗi con to bằng bắp tay, cắn không chết ai cả. Mấy tay bợm nhậu chê rắn ri voi, thịt nó ăn không ngon bằng rắn hổ đất. Thỉnh thoảng, nếu bắt được rắn ri voi, mấy tay nhậu ăn tạm hoặc thả nó xuống nước, phóng sanh. Xìn Phóc quả quyết da rắn rất có giá tại Sanh Ca Bo. Người ta mua nó đem về, thuộc lại làm bóp đầm bán giá cao. Rắn ri voi có vẩy mịn, vảy ấy bám sát vào da, nổi hột sáng ngời: Người Âu châu xem da rắn ri voi là bảo vật, quí gấp mấy lần da bò, da ngựa.
- Ðược không? Một miếng da rắn, tôi chịu hai xua huê hồng!
Biện Tống nói, thật thà:
- Một xu, hai xu huê hồng tuy là số tiền khá to nhưng làm sao tôi nói cho bà con lối xóm nghe. Họ bị gạt nhiều lần rồi. Năm xưa, có người đến mua con cắc kè, bảo rằng đem về lột da bán ra ngoại quốc cho Tây với đầm làm bóp, làm dây nịt. Hắn cho hàng mấy chục tay em vào thôn quê, mua cắc kè với giá hơi cao...
Người khá giả trong vùng nghĩ ra cách: xuất tiền mua cắc kè của bọn tay em này bán lại cho tay đầu nậu ở chợ Gò Quao. Bọn tay em này làm giàu. Nhưng số cắc kè dự trữ ấy chỉ bán được lần đầu mà thôi vì tay tổ lưu manh làm đầu nậu ấy chỉ mua một lần đầu lấy lệ. Mấy người khá giả làm trung gian đành ôm bụng kêu trời với số cắc kè quá nhiều dự trữ trong nhà, mua bằng giá khá cao, tưởng rằng bán lại thì lời to nhưng chẳng ai mua lần thứ nhì. Tay tổ lưu manh và số tay em nọ đã cao bay xa chạy... một cách hợp pháp.
Má chín Xìn Phóc cười dòn:
- Cắc kè là chuyện khác. Rắn ri voi là chuyện khác. Thầy Hai hãy cầm số tiền này, mua về cho tôi.
- Tiền nhiều quá, nếu tôi giữ trong mình, tụi bất lương dám cướp bóc bất tử...
- Thầy Hai quen với họ, chẳng lẽ họ giết thầy Hai...
Biện Tống nhận số tiền hơn ngàn đồng - số tiền to tát, thời bấy giờ. Xìn Phóc xem kỹ lần nữa. Ðứng lắm. Rắn ri voi của miền U Minh đã được các nhà thuộc da ở bên Ăn Lê gọi là"Acrochordusjavanicus" với lời chú thích:serpent - éléphant d’eau douce (rắn voi ở vùng nước ngọt). Ông ta chỉ dạy cho biện Tống về giá cả, cách lột da... Ðâu đó xong xuôi, ông ta nằm nhà, chờ ngày gom góp da rắn, đem về Sanh Ca Bo. Nếu biện Tống giựt tiền thì ông ta sẽ nhờ sự can thiệp của tên cò Lơ Hia.
Hôm sau, biện Tống trở thành nhân vật quan trọng nhứt trong xóm. Bà con bao vây chú ta, để mượn tiền trước. Biện Tống báo tin long trọng: - Xứ người ta có mỏ vàng. Xứ mình có rắn ri voi, quí như vàng. Da rắn này đem về thuộc lại, bán cho ông hoàng bà chúa ở bên tây. Hồi mấy năm trước, đã xảy ra vụ mua cắc kè. Lần này khác hẳn. Cắc kè nhỏ quá, lột da nhỏ xíu. Da rắn to hơn da cắc kè gấp bội, đẹp hơn da trăn. Bấy lâu nay, người Huê kiều mua da trăn, bà con dư biết điều đó.
Lời giảng giải ấy được đa số tán thành. Họ xin lãnh tiền trước. Biện Tống cho mượn, mỗi người năm đồng để làm sở phí, chừng nào nạp da rắn thì trả thêm. Tuy nhiên, điều kiện nêu ra khá gay go:
- Da rắn bán mắc hay rẻ, tùy theo bề ngang. Nếu bề ngang không đủ một tất thì bị loại.
- Da phải lột sạch sẽ, cạo hết mỡ rắn.
- Nếu da bị lủng lổ thì mất giá. Miếng da nào lủng năm lổ thì kể bỏ.
Làm sao tìm ra da rắn cho thật nhiều, thật tốt để bán? Thiệt là thế gian hi hữu. Rắn ri voi vì nó to lớn ( như con voi!), da nó mang nhiều vảy rằn ri, đẹp hơn da trăn được nâng lên hàng đầu, quí hơn rắn hổ, rắn mái gầm hoặc cá tôm. Nó quí hơn con gà con vịt, gà vịt phải nuôi, ấp trứng... tốn thì giờ. Ðằng này rắn ri voi thuộc vào loại chim trời cá nước, ai bắt được nấy hưởng, khỏi đóng thuế cho sở kiểm lâm. Mọi người đều mặc nhiên được quyền truy kích rắn, chẳng cần xin phép hương chức làng, chủ đất, chủ vườn!
Bình thường dân trong xóm ưa... cờ bạc, đờn ca vọng cổ mùi mẫn hoặc hát huê tình đối đáp. Giờ đây, ai nấy đều bận việc, bất luận già trẻ bé lớn, chẳng ai thèm cờ bạc vì bắt rắn của trời đất, lột da nó ra, bán bằng giá quá cao... Cũng là hình thức cờ bạc tinh vi mà mọi người trong sòng đều hưởng lợi.
Vui sướng quá! Biện Tống lấy làm hãnh diện. Chú tìm ra công ăn việc làm cho bà con lối xóm. Số da rắn mua được tuy nhiều nhưng vẫn còn ít.
Ngày đầu, hai trăm miếng da.
Ngày kế đó, ba trăm miếng da.
Ngày kế, năm trăm miếng da.
Ðến ngày kế, năm trăm miếng da... thứ thật to.
Thật là kỳ lạ, đáng suy nghĩ. Làm thế nào dân làng tìm ra năm trăm con rắn mỗi ngày? Ban đầu. Xìn Phóc sanh nghi, ngỡ là loại rắn khác. Nhưng sau khi xem kỷ, anh chàngmá chín gật đầu xác nhận:
- Ðó là rắn ri voi thứ thiệt. Dịp này, ta nên mua da rắn với giá thấp hơn. Thầy Hai nghĩ sao? Rắn ri voi ở xứ này sao mà mau lớn quá. Nè, mỗi tấm bề ngang hơn ba tất!
Biện Tống đáp:
- Ðể tôi dạo khắp xóm làng rồi cho ý kiến sau.
Xìn Phóc ghé tai nói nhỏ với biện Tống:
- Hai người mình làm giàu rồi. Nếu rắn quá nhiều, tôi mua tám ngàn tấm da thay vì bốn ngàn như đã định. Ðừng nói họ biết, họ làm núng. Luôn dịp, thầy Hai ghi chép cách bắt rắn của họ để sau này tôi qua bên Xiêm, qua Miến Ðiện dạy cho dân chúng. Dân Việt Nam giỏi quá.
Ban đêm hàng trăm chiếc xuồng tới lui khắp hang cùng ngõ hẻm. Dân làng đốt đèn như mở hội hoa đăng. Từ hồi lập quốc, khai hoang, chưa lần nào vùng rừng tràm U Minh Hạ lại tưng bừng như vậy. Biện Tống đã hiểu: dân làng không bắt bằng tay hoặc không dùng mũi chĩa mà xom. Phương pháp ấy quá chậm chạp, làm hỏng da rắn, mất giá. Xưa nay, họ quen nghề câu: câu giăng, câu cắm. Mỗi người sắm hàng trăm cần câu, móc mồi cá sặc rồi cắm xuống bãi bùn, tùy thích. Cứ năm bảy phút, họ bơi xuồng trở lại chổ để gỡ rắn.
Rắn vi voi đớp mồi chậm chạp, lưỡi câu mắc vào mép miệng rắn. Nếu gỡ ra quá chậm thì rắn sẽ sứt mép, tẩu thoát.
Biến Tống đến gặp Hai Kỳ, người đó bán trên hai trăm miếng da rắn. Nhà Hai Kỳ trở thành một cái xưởng khai thác rắn sống. Trước sân, hàng chục tấm da, căng ra, đóng đinh cho thẳng thớm. Trong nhà, Hai Kỳ đang lui cui lột da rắn. Rắn bị siết cổ, buộc vào gốc cột nhà. Bàn tay khéo léo của Hai Kỳ cầm dao nhỏ, rọc một đường dài từ cổ tới hậu môn rắn. Lột da là chuyện dễ, đàn bà có thể làm được.
Biện Tống hỏi:
- Xác rắn đâu hết rồi?
- Dạ, mấy bữa đầu thì tôi nướng, nấu cà ri, thắng mỡ để dành. Mỡ rắn làm thuốc dán trị ghẻ, trị phỏng lửa. Lâu ngày tôi đào lỗ mà chôn... Uổng quá.
- Làm cách nào bắt rắn cho nhanh?
Nghe câu hỏi ấy, Hai Kỳ nghĩ hồi lâu:
- Khó nói lắm. Tôi chỉ biết câu rắn mà thôi, câu cắm như chú biện thấy. Ðằng xóm, có ông Bảy Ðăng câu rắn theo kiểu này lạ lám.
- Kiểu gì?
- Ông ngồi một chổ, thả cần câu xuống nước, tay ôm cần như ông Khương Thượng trên thạch bàn. Kế bên có chai rượu. Vậy mà mỗi ngày ổng câu hơn ba chục con rắn, giỏi hơn tụi trai tơ, tụi này buồn bã suốt ngày, cắm hàng trăm cần, bơi xuồng tới lui vất vả quá.
Bảy Ðăng là một ông lão khật khùng, uống rượu, li bì, say té lăn, ngủ bờ ngủ bụi. Riết rồi bà con hàng xóm chẳng ai màng săn sóc lão. Biện Tống bơi xuồng đến gần chòi Bảy Ðăng buông cần câu, nói vồn vã:
- Vui lắm. Nhờ ông má chín Xìn Phóc mà sau này, tôi chết trong hòm. Mai chiều tôi mua cái hòm (quan tài) thứ tốt cho bà con ngán chơi. Nếu má chín Xìn Phóc ở đây vài năm, tôi sắm cái hòm bằng vàng.
- Ông làm cách nào mà câu rắn giỏi hơn thiên hạ?
Bảy Ðăng cưòi khì:
- Tôi câu bằng thuốc mê.
- Thuốc gì? Dùng chất... hoá học hả? Hay là ông làm bùa?
- Ðây nè!
Bảy Ðăng chỉ vào chai rượu:
- Nó là rượu đế, thứ ngon.
Nói xong, lão mời biện Tống uống. Biện Tống từ chối. Lão nốc môt hơi rồi để chai rượu xuống bãi cỏ. Chai rượu nằm hơi nghiêng, không đậy nút.
- Lát nữa, chú biện coi!
Hai ngưòi im lặng. Từ mé nước, một con rắn ri voi trườn lên... đến gần miệng chai rượu rồi thập thò, rút lui như hoảng sợ. Bảy Ðăng nâng chai rượu, nhểu vài giọt xuống nước, trên cỏ. Con rắn... hăng hái bò trườn, đến gần miệng chai. Bàn tay lanh lẹ của Bảy Ðăng chụp xuống, bỏ rắn vào giỏ.
- Rắn xưa kia không biết uống rượu. Nhưng mà cho tụi nó tập tánh nếm mùi... cay đắng. Bữa đó, tôi uống rượu, ngủ quên rồi quơ tay kiếm chai rượu đổ hết. Chừng thức dậy, tối thấy rắn bò lại để hửi hơi.
Biện Tống như phát giạc điều gì quan trọng:
- Té ra cái chai rượu là cái cần câu rắn.
Bảy Ðăng vội đính chính:
- Là cái bẫy thì đúng hơn. Cần câu này, tôi cầm trong tay để che mắt thế giang, vậy thôi. Rắn mê rượu. Nếu giàu thì tôi giữ độc quyền bắt rắn, ngặt vì tôi nghèo. Tôi sẽ mua vài ngàn lít rượu, đổ xuống rạch. Rắn trồi đầu lên mà nhậu, lờ đờ ai muốn bắt thì bắt.
Nhưng biện Tống vẫn chưa thắc mắc. Mớ rắn của Bảy Ðăng đều nhỏ. Làm sao mà lột được tấm da ba tấc bề ngang? Bảy Ðăng gật gù:
- Chuyện đó bí mật. Muốn am tường thì nên tới nhà Sáu Kiến. Tôi bán cho Sáu Kiến. Thằng cha đó chuyên môn lột da.
Biện Tống đến nhà Sáu Kiến. Hắn đang làm việc trong căn chòi bí mật, sau hè, nài nỉ lắm vợ con hắn mới chỉ rõ địa điểm, Sáu kiến trợn mắt:
- Ủa! Chú biện, làm sao chú biết tôi ở đây?
- Thì vợ con của anh nói.
- Ðồ mắc dịch! Vợ con tôi báo hại tôi...
Vừa nói Sáu Kiến vừa liếc lên trần nhà. Ô hô! Biện Tống ngỡ mình lạc vào một cái hắc điếm trong truyện Tàu, loại hắc điếm làm thịt người mà bán cho thân chủ. Hàng chục con rắn no tròn, bón láng, treo lủng lẳng, đong đưa, như những khúc dồi to tướng. Sáu Kiến nói lẩn thẩn:
- Này chú biện. Chẳng lẽ tôi bắt buộc chú uống máu ăn thề. nếu chuyện này tiết lộ ra, chắc tôi giết chú.
- Sao? Nói gì ghê quá vậy? Giữa anh em mình nào xảy ra chuyện xích mích. Treo mấy con rắn đó lên nóc nhà để làm gì? Sao mà nó lớn quá vậy? Hèn gì mỗi tấm da lột ra ba tấc.
Sáu Kiến đưa ra một cái ống bơm xe máy:
- Ðó! Chú hiểu chưa. Tôi buộc lỗ đít rắn lại rồi thì bơm hơi vô miệng rắn. Con rắn trở thành cái ruột xe máy, căng thẳng, no tròn và chẳng bao giờ nổ. Tôi bơm hoài, bơm mãi rồi vuộc miệng rắn lại, treo tòn ten. Tới nước nào đó, tôi lột da, tấm da rắn bề ngang hai tấc sẽ trở thành ba tấc, nhờ khí... của trời.
Biện Tống cười chua chát:
- Bà con mình sáng chế nhiều kiểu hay quá.
Sáu Kiến nói:
- Cho thằng má chín Xìn Phóc nó biết một trận. Nếu bị bơm hơi, da rắn phải mỏng. Hễ mỏng thì Tây với đầm xài cái bóp mau rách hoặc sợi dây nịt mau đứt. Tụi nó phải qua đây mua thêm nữa...
Nhưng Sáu Kiến lầm to.
Phen đó, Xìn Phóc mua mấy ngàn tấm da rắn, trả tiền sòng phẳng, đi biệt tích. Mùa rắn năm sau, bà con lối xóm có lòng mong đợi nhưng hắn không trở lại. Hỏi lý do thì biện Tống không biết. Ðến tết, tình cờ biện Tống ra chợ Ngã Năm gặp ông cò Lơ Hia. Ông cò cho biết:
- À! Cái ông má chín Xìn Phóc. Ổng gởi thơ cho tôi, chúc mừng năm mới. Ổng nói da rắn ở xứ U Minh mỏng quá, chuyến đó đem về, ổng lổ vốn.
Biện Tống giả bộ ngây thơ:
- Tại sao lỗ vốn?
- Xìn Phóc nói: khi đem ngâm chất hoá học thì da rắn cũng như giấy hút thuốc, nhiều chỗ bị đứt theo lằn ngang, lằn dài. Thay vì làm được sợi dây nịt cho người lớn thì da nó chỉ dùng làm dây đeo đồng hồ tay. Thay vì làm bóp cho đàn bà thì da nó chỉ dùng làm bóp cho con nít. Mà con nít bên Tây đâu có xách bóp.
Bốn Cái Ngu
Mấy người hàng xóm la hoảng lên:
- Tư Hưng đâu rồi! Nuôi heo bầy mà bỏ nó chạy cùng đường cùng sá. Sao không nhốt lại?... Thiệt hết nói. Tanh rình tanh ói, chỗ nào cũng một đống, ai hơi đâu mà hốt. Nó còn ủi nền nhà, phá mấy liếp cải. Nói ra thì mích lòng, để trong bụng thì ấm ức.
Tư Hưng từ đầu xóm chạy lơn tơn về, lên tiếng thanh minh:
- Bà con ơi! Tôi nhốt heo lại rồi. Chắc lại vợ tôi quên... Vợ tôi nó dại dột thì tôi chịu tội.
Nói xong, Tư Hưng chạy lùa ba con heo nái. Heo chạy tán loạn, đâm ngay vào vách lá, chui vào trong nhà. Anh ta nói to:
- Em ơi! Coi chừng heo chạy bể đồ đạc.

Nhưng hỡi ơi! Trong nhà không có một tiếng trả lời. Anh ta vào nhà, chạy tới trước cửa ngõ nhìn dáo dác. Vợ anh đâu rồi? Hay là đã xách gói trở về nhà cha mẹ ruột? Bốn tháng qua, vợ chồng anh ta gây lộn liên tu bất tận, tính đổ đồng hai ngày là xảy ra một cuộc cãi vã.

Tư Hưng nói:

- Ði đâu đi phứt cho rảnh. Gặp con vợ như vầy mau tàn mạt lắm. Thật là...

Vừa lúc ấy, ông Hai Kiểm đi ngang qua, lên tiếng:

- Chuyện gì đó Hưng? Vợ chồng mới cưới, nếu cơm không lành canh không ngọt thì đóng cửa dạy nhau...
- Dạ, chuyện rắc rối lắm, đổ bể tùm lum.
- Cái gì đổ bể?... cháu nói mau.
Ông Hai Kiểm xụ mặt, tưởng tượng đến những hậu quả tai hại mà ông gánh lấy. Chính ông đã làm mai mối cho Tư Hưng cưới vợ. Bên gái đòi một đôi bông búp, hai chiếc vòng đúng một lượng vàng. Vì muốn tác hợp cho hai trẻ là người dưng nhưng ông Hai Kiểm vẫn làm gan lãnh nợ, vay dùm cho gia đình Tư Hưng số tiền khá to. Chủ nợ hỏi: "Rồi làm sao vợ chồng nó đủ sức trả?" Ông Hai Kiểm đáp: "Vợ chồng nó sẽ nuôi heo nái, bán heo con lần hồi."
Những chuyện đáng buồn đã xảy ra, đến tai ông Hai Kiểm. Dư luận hàng xóm đã đồn đãi quá nhiều. Ban nãy ông gặp cô vợ trẻ của Tư Hưng ở bờ chuối, sát ven đường. Ông hỏi:
- Cháu làm gì vậy đó?
Cô vợ nó đáp:
- Dạ, cháu cắt lá chuối khô đem về bó lại, làm ụ cho heo ngủ.
- Cháu biết lo xa, bác mừng lắm. Xứ này nhiều muỗi, để heo ngủ trần mà mang tội. Làm sao heo mau lớn đúng tạ được? Sao thằng Hưng không ra đây làm công việc tiếp với cháu?
Cô vợ nọ ôm mặt khóc. Bấy giờ, ông Hai Kiềm mới nhìn tường tận: gò má cô ta bầm tím. Ông thở dài, định tìm Tư Hưng để dẫy dỗ. Dè đâu vừa đi ngang cửa là nghe giọng nói vô lễ của anh ta.
Ông Hai Kiểm vào sân, nói lẩm bẩm:
- Làm gì mà quát nạt? Cái gì đổ bể?
- Dạ, mời bác vô nhà, cháu nói hết đầu đuôi cho bác nghe.
Rồi Tư Hưng tố cáo bao nhiêu sự lơ đễnh của vợ: nào vợ ngủ trưa, nào vợ kho cá ăn mặn đắng, nào vợ lười biếng nuôi heo. Và nhứt là ưa cãi vã với chồng. Hễ giận hờn, lập tức cô vợ bỏ nhà ra sau vườn.
Ông Hai Kiểm dùng tình cảm để khuyên nhủ:
- Nó lo cắt lá chuối kho chớ đâu phải dạo xóm ngồi lê đôi mách hoặc đánh bài tứ sắc. Cháu hãy bình tĩnh. Vợ nó có lỗi thì dạy dỗ bằng lời nói nhỏ nhẹ.
Tư Hưng nói nhanh:
- Dạ, nó cứng đầu lắm. Hễ cháu đánh thì nó đứng lì một chỗ, không thèm chạy.
- Ừ... Nhưng mà cháu đừng đánh ngay con mắt vợ.
Tư Hưng phục thầm sự nhận xét của ông Hai Kiểm:
- Sao bác biết?
- Trời đất xui kiến như vậy. Bác sống tới năm nay là sáu chục tuổi rồi. Ðàn ông ưa bạt tai vợ, táng ngay con mắt. Rủi đui con mắt thì sao?
- Cục cu cu... cu! Cu!
Ông Hai Kiểm bước tới lui, ngắm nghía con cu mồi mới mua ở Xẹo Bần với giá là mười giạ lúa. Ông bắc ghế, đứng lên, mang cặp kiếng, nói thì thầm:
- Ồ! Con cu hai cốt. Chưa chắc! Hồi bữa hổm, nó gáy tới bốn cốt.
Rồi bác đưa tay lên miệng, bụm lại, nhái giọng gáy:
- Cục cú cu... cu!
Tức thời con cu mồi nhảy nhót, vỗ cánh, đòi bay ra khỏi cái lồng bằng tre. Nó đứng lại, há mỏ, ưỡn ngực:
- Cục cúc cu... cu! Cu! Cu!
Ông Hai Kiểm cười dòn:
- Giỏi quá! Trót làm thằng ngu thì ngu luôn cho trọn kiếp. Sáng mai, mầy nhớ gáy đủ bốn cốt cho tao!
Từ ngoài cửa, Tư Hưng bước vào. Anh ta nghe lóm tiếng được tiếng mất:
- Bác Hai ơi! Nói chuyện với ai vậy?
- Tư Hưng đó hả? Bác nói chuyện với con cu mồi. Gần tết rồi. Cu gáy vang dậy ngoài đồng, bác tính cho con cu mồi này ra nghê. Mua tới mười giạ lúa đó.
Tư Hưng vẫn thắc mắc:
- Con cu này mua quá mắc nhưng tại sao ngu dại. Nếu nó khờ thì luyện tập lại. Bác rành nghê gác cu lắm mà.
Một dịp may để ông Hai Kiểm giải toả bao nhiêu thắc mắc. Ông rót nước trà ngồi cao hứng rung đùi:
Ở đời có bốn cái ngu,
Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu...
- Mấy câu đó ý nghĩa như thế nào?
- Khó lắm. Nói ra sợ cháu hiểu lầm. Ông bà mình hồi xửa hồi xưa đặt để câu đó, nhắn nhủ mấy người lớn tuổi mà ưa làm chuyện bá vơ như bác. Cháu thử nghĩ: bác ở không suốt ngày, chỉ còn biết tiêu khiển bằng cách thăm viếng người chòm xóm, giúp đỡ lặt vặt. Rồi thì dưỡng nhàn. Cháu biết tại sao làm mai là cái ngu dại thứ nhứt?
Tư Hưng đáp:
- Dạ cháu hiểu mơ màng thôi...
- Nói ra, cháu đừng giận nghe không. Mình làm mai, giúp hai gia đình bên trai, bên gái kết tình thông gia. Nếu con cái họ ăn ở với nhau êm ấm thì thôi. Nhược bằng gặp thứ trai lỗ mãng, thứ gái lười biếng hỗn hào thì thế nào bên trai hay bên gái cũng trách móc mốc ông mai. Nào là thằng rể hoặc con dâu đó tệ quá. Không khéo, vài ngày nữa, nếu vợ chồng cháu chưa hoà thuận với nhau được....
Tư Hưng cúi đầu:
- Dạ, cháu hứa...
- Ðây là cái ngu thứ nhì của bọn già cả, có chút ít thể diện hoặc điền sản như bác. Mình lãnh nợ dùm cho thiên hạ, nếu con nợ trả đủ thì chủ nợ vui sướng, hưởng tiền lời. Bằng không, họ lại mắng vốn... Còn cái ngu thứ ba là gác cu.
Nghe đến đó, Tư Hưng mỉm cười. Gác cu tức là đem con cu mồi ra ngoài ruộng để cho cu gáy lên, nhử bắt con cu rừng. Mấy ông cai tổng, ông hội đồng địa hạt thường gác cu vào mùa này. Tư Hưng còn nhớ năm ngoái ông cai tổng đi gác cu với vài đứa tiểu đồng, mang theo nào trả ấm, thịt gà, cơm nếp. Tại sao gác cu là cái ngu dại thứ ba? Anh ta hỏi mãi nhưng Hai Kiểm cứ lắc đầu. Sao rốt, anh ta gợi ý:
- Dạo này, hễ ở nhà thì gây gổ với vợ. Cháu muốn theo bác, làm đứa tiểu đồng để học nghề. Hồi đó tới giờ, cháu ưa đá gà, đá cá thia thia. Mai kia mốt nọ, về già, cháu sẽ gác cu như bác.
- Ðừng, cháu ơi. Dại dột lắm.
Con cu mồi gáy vang lên. Ngoài bờ tre xa xôi dường như có tiếng đáp lại. Khiêu khích - "Cu kêu ba tiếng cu kêu, cho mau tới Tết dựng nêu ăn chè." Ông Hai Kiểm căn dặn Tư Hưng nên về nhà giúp công việc lặt vặt cho vợ bớt mệt. Nhứt là sửa các chuồng heo, đừng để lối xóm phiền hà...
Sáng hôm sau, Tư Hưng đã có mặt tại nhà ông Hai Kiểm. Hai người ăn cơm rang dằn bụng rồi lên đường. Ông Hai Kiểm đi trước, xách cái lụp, tức là cái lồng bằng dây chì, trong đó có để con cu mồi. Tư Hưng theo sau, vác một cây sào dài, đầu cây sào có cái móc nhỏ bằng sắt. Lại còn có cái bình tích, đầy trà nóng, hộp quẹt và chiếc chiếu.
Gió chướng thổi lao xao mang hơi lạnh từ phía tây bắc, báo hiệu ngày gần Tết. Mặt trời lên cao, bầu trời vẫn chưa trong sáng. Vài đám mây đen bay lởn vởn, thứ mây chuyển mưa còn rơi rớt. Mùi lúa chín xông lên vừa nồng vừa ấm. Qua khỏi bờ ven, hai người đều xăn quần lên tận gối. Lá lúa cứa vào da, hơi rát. Ðôi khi, bùn ngập tới nửa ống chân. Vài con cò trắng đáp xuống vũng nước cạn, rình cá tôm. Ông Hai Kiểm bước khá nhanh, dõi mắt nhìn đăm đăm về hướng cây gáo cổ thụ, giữa đồng.
Ðến nơi, Tư Hưng đứng lóng nhóng. Ông Hai Kiểm nói:
- Trải chiếu ra, ngồi xuống. Nếu khát nước thì uống trà cho thấm giọng.
Trèo lên cây gáo, bẻ vài nhánh cây nhỏ, quăn xuống cho bác.
Ông Hai Kiểm đem lá cây ghim lên cái lụp:
- Nhờ làm như vầy để cho cu rừng không thấy cái lồng bằng dây chì. Lát nữa, cu rừng sẽ bay tới, đậu trên cái sàn, trước mặt lụp.
- Còn mớ lưới này?
- Mình giương lưới lên, gài chốt. Cu rừng đến trước mặt cái lụp, khiêu chiến. Nếu cu đạp nhằm cây chốt, lưới chụp xuống cái sàn, túm con cu rừng.
Ðâu đó xong xuôi, ông Hai Kiểm dùng cây sào có móc sắt mà đưa cái lụp lên gần trên ngọn cây gáo. Ông bước ra xa, nhìn đôi ba lần khen ngợi:
- Ðược rồi, Cu rừng chẳng bao giờ biết con cu mồi đang bị nhốt trong cái lụp. Và trước mặt lụp là cái sàn nhỏ, có lưới giương lên. Êm lắm!
Hai người rút lui vào lùm cây mua, hơi thấp, vạch một lỗ khá to trong lùm rồi chui vào. Tư Hưng nói nhanh:
- Giống như ngồi trong hang...
- Ồ! Người gác cu ngồi ngoài bờ ngoài bụi như vầyl. Nếu đứng lom khom ở ngoài chỗ trống trải, cu rừng đâu thèm tới nạp mạng.

Ngồi giữa lùm cây, ông Hai Kiểm hút hết điếu thuốc này qua điếu thuốc khác. Con cu mồi bị nhốt trong lụp bắt đầu gáy vang:

- Cúc cù cu... cu! Cu! Cu!
Ông cười dòn:
- Giỏi quá! Ra đây, nó gáy tới ba cốt.
Tư Hưng hỏi:
- Dạ, cốt là cái gì?
- Theo tiếng lóng của nhà nghề, mấy tiếng cúc cú cu, gọi là tiếng cốt. Con cu mồi này gáy ba cốt. Bảnh quá! Cháu nghe lại thử. Nó gáy kìa!
Từ ngọn cây gáo, con cu mồi cất tiếng thảnh thót:
- Cúc cù cu... cu! Cu! Cu!
Ông Hai Kiểm nhướng mắt!
- Ðó... Nó gáy đủ bốn cốt. Loại cu nào nhiều cốt thì được cu mái say mê. Lúc lúa chín, cu rừng bắt đầu"phân đồng" mỗi con cu trống, chiếm một khu vực riêng biệt, từ cây này qua bờ tre bên kia. Nó tha hồ ăn lúa chín và tìnht ự với bọn cu mái. Nếu con con cu trống nào toan vào khu vực của nó, nó sẽ đánh đuổi, đá và cắn tơi bời. Thí dụ như khu vực này, từ cây gáo qua bờ tre, đã có sẵn một con cu trống làm bá chủ. Mìnhd dem con cu mồi này tới để xâm chiếm. Lát nữa, con cu trống sẽ ra tranh cắn, đánh đuổi con cu mồi này để rồi bị lưới chụp xuống.
Thời khắc trôi qua chậm chạp. Tư Hưng bắt đầu nản chí, muốn xin phép rút lui về nhà để... nuôi heo trả nợ đám cưới. Bỗng đâu từ phía bờ tre đối diện có giọng gáy thanh tao:
- Cúc cù cu... cu cu!
Ông Hai Kiểm ngồi nhốm tới, nép sát vào bụi cây mua, mang kiếng, nhìn qua kẽ lá:
- Ðó! Con cu rừng lên tiếng, đòi đá lộn với con cu mồi của bác.
- Sao nó chưa qua?
- Cháu nên bền chí. Cu rừng khôn ngoan lắm. Nó hồ nghi điều gì... bất an. Nhiều con cu rừng đã bị lưới chụp hụt vài trận rồi. Nó còn dè dặt, dò xét tình hình.
Trên ngọn cây, cu mồi gáy lên, thúc giục:
- Cú cù cu... cu! Cu! Cu!
Từ phía bờ tre, cu rừng bay nhanh qua cây gáo, đảo hai ba vòng, toan đáp xuống.
Tư Hưng nói:
- Nó tìm kẻ thù hả bác?
- Nói chuyện nho nhỏ một chút. Coi chừng nó nghe. Nó tìm kẻ tình địch. Cu rừng này cho rằng con cu mồi trong bụi là kẻ từ nơi xa lạ đến xâm chiếm cánh đồng lúc để ăn no và chiếm đoạt người yêu của nó.
- Tại sao nó bay qua đây! Hồi nãy bác nói con cu rừng này đầy đủ kinh nghiệm, chết hụt nhiều lần nên khôn ngoan....
- Lời tục thường nói: Biết chết nhưng cũng nhào vô. Con chim ghét nhau vì tiếng gáy. Cu rừng gáy hai cốt ghét con cu mồi gáy tới bốn cốt. Nó cho rằng có kẻ bảnh trai hơn, toan chiếm đoạt sự sống của nó... Im đi.
Qua kẽ lá, Tư Hưng thấy rõ ràng con cu rừng. Nó thuộc loại cu cườm, mớ lông chung quanh cổ nhuộm màu hường dợt, lấm tấm những điểm trắng tuyết, mỏ và đôi chân đỏ sậm, nhứt là con mắt tròn xoe, sáng ngời lấp lánh như giọt máu tươi.
- Nó khôn quá. Nó nhảy trên nóc lụp chớ không thèm nhảy trước cái sàn để vướng vào bẫy!
- Cháu nói đúng. Nhưng con cu mồi của bác còn khôn hơn!
Con cu mồi nhảy nhót, vỗ cánh ngược lên trời... nhưng bầu trời của nó quá hẹp, nó té xuống. Nó bước tới sát lưới, quơ chân. Cu đá nhau như gà, dùng mỏ mà cắn, đưa chân mà quào. Con cu rừng cứ bay quanh quẩn rồi đứng trên lụp mổ xuống, để khỏi Sa trại chủ vào cạm bẫy. Lát sau, nó bay lên trên cao... trở qua bờ tre gáy inh ỏi, thứ tiếng gáy kém đẹp, có hai cốt "cu, cu" khi chấm dứt.
Ông Hai Kiểm đưa tay lên miệng, nhái tiếng gáy để thúc giục cu mồi. Cu mồi lại gáy, khoe giọng thiên phú, đến bốn cốt. Nắng lên cao. Cu rừng dường như còn phân vân, chưa chịu xáp chiến.
Tư Hưng thở dài:
- Chừng nào nó bay qua đây...
Ông Hai Kiểm đáp:
- Bữa nay không xong thì chờ ngày mai, ngày mốt không xông thì ngày nọ, ngày kia... Gác được một con cu rừng khôn ngoan, mình vui hơn là gác con cu rừng thứ dại dột. Cháu mệt mỏi rồi hả?
Tư Hưng ngáp dài:
- Ðể cháu về nhà, lo cái chuồng heo.
- Cháu muốn về thì cứ về. Bác không dám cản cháu.
Nghe vậy, Tư Hưng lật đật cầm cây sào, bước ra khỏi lùm cây. Ông Hai Kiểm kêu lên thất thanh:
- Làm gì vậy? Cháu về thì về một mình. Ðể bác ở lại...
Bảy ngày sau, Tư Hưng đã quên hẳn chuyện gác cu của ông Hai Kiểm. Hàng ngày, anh ta lo nuôi heo, quét nhà, sửa sang bồ đựng lúa. Vợ chồng đối xử với nhau êm ấm.
Lúc vợ chồng Tư Hưng đang ăn cơm chiều, bà Hai Kiểm chạy vô sân, nói hơ hãi:
- Tư! Mầy thấy bác Hai mầy ở đâu không?
Trời mưa lất phất, lạnh lẽo. Trận mưa bấc dai dẳng, còn rơi rớt. Tư Hưng nhìn bà Hai Kiểm, thương hại:
- Chuyện gì mà bác gái dầm mưa? Lâu rồi, cháu không gặp bác trai.
- Ổng đi gác cu với mầy mà! Mỗi ngày mỗi đi, từ bữa đi chung với mầy đó.
- Dạ, cháu theo bác trai có một buổi đầu mà thôi...
- Kiếm bác trai mầy dùm tao! Tao hồ nghi quá.
Lập tức, Tư Hưng buông chén đũa, chạy ra sau vườn. Trời vẫn mưa. Mặt trời khuất đâu mất, cảnh vật tối om. Cây gáo đứng trơ vơ giữa đồng như bóng ma trơi. Tư Hưng lục soát bụi cây, chẳng có cái lụp nào cả. Tư Hưng thất vọng, trở về. Bỗng dưng, anh ta nhớ tới cái bờ tre bên kia, đối diện với cây gáo. Anh ta chạy qua, nhướng mắt: giữa bụi tre, cái lụp gác lơ lửng, trên đó có con cu mồi và một con cu rừng bị lưới chụp.
Cu rừng và cu mồi đều cú rũ, bất phân thắng bại vinh nhục, lông cánh lù xù vì dầm mưa quá lâu. Nhưng ông Hai Kiểm ở đâu? Tư Hưng toan kêu lên nhưng sợ làm lộ bí mật nhà nghề. Anh ta bèn đưa hai tay lên miệng, bụm lại, nhái tiếng cu kêu:
- Cúc cù cu... cu! Cu! Cu!
Bỗng nhiên, bụi nhãn lồng nhúc nhích. Có tiếng rên hừ hừ. Tư Hưng ngỡ là ma nhát, sửa soạn co chân tẩu thoát. Nhưng giọng run rẩy của ông Hai Kiểm vang ra từng đợt:
- Cứu... tao... tao gần chết... á khẩu...
Tư Hưng cõng ông Hai Kiểm vào nhà, đốt lửa hơ, cạo gió, mua thuốc cảm mạo, nấu cháo thương hàn... vài phút sau, ông Kiểm mới tỉnh táo, nói thân mật:
- Tao chờ đợi... mắc mưa suốt buổi. Con cu mồi bay quá. Rốt cuộc con cu rừng chịu đá lộn, mặc dù bị gài bẫy nhưng cũng đá. Vui quá... Ừa! Ngu quá. Con cu rừng đó, tao cho vợ chồng bây nướng ăn. Hồi xưa, nhiều người đi gác cu như tao, ngồi rình mò dè đâu phía sau lưng có con cọp đang chờ ăn thịt họ. Gác cu không đem lợi lộc gì ráo mà mình ham. Cái thói phong lưu đó nguy hiểm lắm. Nếu mày không ra ngoài cứu kịp thì tao á khẩu, chết luôn ngoài bụi tre rồi. Ðó là cái ngu thứ ba: "Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu mà!"
Tư Hưng mỉm cười, nhờ đến cái ngu thứ nhứt, thứ nhì:
- Dạ, hai vợ chồng cháu cỡ này đề huề lắm. Ba con heo nái đang có chửa, món nợ mà bác bảo lãnh hồi cháu sửa soạn cưới vợ...
- Tao hiểu rồi. Ráng mà làm ăn. Thôi tao về kẻo bác gái mầy trông đợi.
- Dạ, trời còn mưa lai rai. Ðể cháu nhắn tin cho bác gái hay... Còn cái ngu thứ tư nó ra làm sao bác?
- Cầm chầu hát bội. Rằm tháng giêng, cháu sẽ thấy. Hễ mình ít"chầu" bọn đào kép cho rằng mình là thằng già cầm chầu khó khăn, phách lối, khinh khi kẻ xướng ca vô loại. Nhưng nếu mình đánh chầu đúng điệu thì có kẻ giềm siểm, cho rằng mình là thằng già dê, cứ định chấm khen ngợi mấy cô đào trẻ mà quên mấy cô đào già.
Tư Hưng nắm bàn tay gân guốc của ông Hai Kiểm:
- Bác tử tế quá.
- Sao mầy biết? Ðừng nịnh tao. Vợ chồng mầy nên ăn ở thuận thảo đi.
Giọng Tư Hưng như ngậm ngùi:
- Bác dám lãnh đủ bốn cái ngu trên đời... Không màng tiếng bấc, tiếng chì. Cái tiêu khiển của bác không làm hại cho ai. Và bác dám gánh trách nhiệm để cho kẻ khác vui sướng. Cháu phục mấy ông già xưa quá trời.
Đồng thanh tương ứng
Xóm Tà Lốc nằm trơ vơ gần khu rừng tràm, trên khoảng đất hoang dài gần năm chục cây số ngàn, giữa chợ Rạch Giá và Hà Tiên, theo vịnh Xiêm La .
Thời Pháp thuộc, dân chúng xóm ấy sống biệt lập: bắt cá, đốn củi đủ ăn ngày nào hay ngày ấy . Nếu cần mua sắm vài vật dụng cần thiết, họ ngồi tại nhà mà chờ đợi một chú Huê kiều . Chú ta quảy gánh gióng, bán nào kim chỉ, lưỡi búa, đường thẻ, thuốc rê . Đặc biệt nhứt là loại kéo tàu, rèn tại chợ Rạch Giá . Ai không tin thì cứ mua thử một cây kéo đó, để dành trong rổ may . Kéo sống dai hơn kiếp người, và từ thưở cô gái mới về nhà chồng, cho tới khi có con có cháu, chết vô hòm mà kéo vẫn chưa lụt - nếu cây kéo đó không bị đánh mất .
Cách vài ngày, chú Huê kiều đi qua xóm một lần. Tuy chú ta bán hàng với giá đập đổ, dân trong xóm Tà Lốc chẳng ai than phiền. Thưở ấy, đường giao thông dường như không có. Chú ta đi bộ suốt hai mươi cây số, qua vùng đất phèn đầy muỗi mòng rắn rít và đầy kẻ lương thiện - những kẻ lương thiện nhưng nổi máu bất lương từng chập . Lắm khi, chú Huê kiều bị gãy gánh giữa đường thương mãi: hàng hóa và tài sản bị tịch thâu, thân xác chú ta còn chịu thêm trận đòn nhừ tử, kêu trời thì không thấu, kêu làng lính ở tận đâu đâu. Thà là nhịn nhục để ngày mai tiếp tục hành nghề. Dân trong xóm lần hồi thương mến chú Huê kiều. Khi đi qua xóm, chú ta rao hàng nghe lơ lớ, não ruột:
- Kéo tàu! Ké ....éo tàu!
Trẻ con bu lại, cười giỡn. Chú Huê sẵn sàng cho mỗi đứa một cục kẹo nhỏ rồi rảo bước, để lại giọng rao:
- Kéo tàu! Ké ... éo tàu!
Nhưng ánh sáng văn minh lần lần soi rọi bên hè xóm Tà Lốc. Vào những năm kinh tế khủng hoảng, chính phủ thuộc địa đã cố gắng biểu dương uy thế bằng cách cho xáng múc, đào con kinh thẳng tắp dọc theo duyên hải vịnh Xiêm La, nối liền chợ Rạch Giá lên chợ Hà Tiên, phía bắc. Lần hồi, khi đào xong xuôi, lịnh của quan chánh tham biện chủ tỉnh truyền ra, quan chủ quận liền chạy tờ về làng, làng chạy trát xuống ấp Tà Lốc .
Đại ý như sau:
Trát cho hương ấp Tà Lốc tuân cứ: Tới ngày... tháng... năm... nhà nước làm lễ ăn khánh thành con kinh quản hạt Rạch Giá - Hà Tiên. Quan Toàn Quyền Đông Pháp đích thân đi trên tàu, theo con kinh này. lần đầu tiên, con dân ấp Tà Lộc được ddón rước trọng thể quan Toàn Quyền Đông Pháp đại thần. Vậy đúng hừng đông nói trên, dân đinh trong ấp phải tề tựu ngay bờ kinh xáng, tại chợ, gần chỗ bàn hương án của hương chư'c hội tề đặt ra. Hương ấp phải truyền rao cho dân trong xóm được rõ rồi phúc bẩm cho làng biết. Nếu bất tuân sẽ bị khiển trách.
Nhận được trát nọ, hương ấp Thum đi tới lui thăm viếng từng nhà để vừa uống rượu, vừa làm công tác. Chú ta mở đầu câu chuyện:
- Ngày mốt, mình nên đón rước quan Toàn Quyền đại thần. Bà con thấy làm sao?
Ai nấy nhao nhao phản đối, trình ra nhiều bằng cớ xác đáng:
- Tụi tôi quần áo lem luốc, tay lấm chơn bùn. Vả lại, chưa đóng giấy thuế thân. Rủi có bề gì thì... phải làm sao?
Hương ấp Thum cười khì:
- Hỏi thử cho biết vậy thôi. Một mình tôi thay mặt tất cả bà con, đủ rồi . Nói chí tình, nếu bà con kéo nhau ra bờ kinh xáng, đứng khoanh tay gần bàn hương án để đón rước thì chắc thiên hạ cũng đuổi bà con trở về xóm, trước khi quan đại thần đến .
Nhưng dường như bà con trong xóm Tà Lốc hơi buồn phiền điều gì mơ hồ:
- Tụi tôi chưa được thấy mặt "tây u" và tàu bè tối tân của nước Pháp . Ai cũng muốn đi cho vui ngặt còn món nợ ... quần áo và thuế thân . Chẳng hay quan Toàn Quyền đại thần có ghé lại xóm mình để uống nước trà .... lấy thảo hay không ?
Hương ấp Thum đáp:
- Ghé làm gì ?
- Bộ thầy rảnh lắm sao ? Mục đích của ông là tới chợ Hà Tiên cho mau . Nếu mỗi xóm mỗi ghé thì chừng nào mới tới nơi tới chốn ?
Thế là đêm đó xong xuôi, ai về nhà nấy . Dân chúng nói một câu thòng:
- Thầy hương ấp cứ vui đi . Tụi tôi leo lên nóc nhà, hoặc trèo lên ngọn cây để coi tàu của Tây chơi, cho biết ....
Hương ấp Thum quày quả trở lại:
- Tôi không dám bảo đảm à . Đừng thậm thò thậm thụt như vậy . Ở dưới tàu, có ống dòm . Họ thấy xa lắm .
Một người trả lời:
- Thầy đừng lo . Từ đây ra tới kinh xáng, xa hơn hai chục công đất . Vả lại, tụi tôi núp sát mái nhà, hoặc đeo dính trên ngọn cây . Ở dưới tàu dòm lên quan Toàn Quyền đại thần cho rằng tụi tôi là rùa bò trên mồ mả, hay là con dơi, con quạ đeo nhánh cây .
Đến nhà việc làng Sóc Sơn, hương ấp Thum nhờ chú biện thảo tờ phúc bẩm. Đại ý, hương ấp cho rằng dân xóm Tà Lộc bận việc đốn cây, mò cua v.v... Hương chức làng chẳng mảy may phiền hà.
Trong thâm tâm, họ chẳng bao giờ muốn cho dân trong xóm Tà Lốc đi nghinh đón quan trên. Đó là hạng người không kỷ luật trật tự gì ráo. Dân chúng xóm chợ gần công sở cũng khá đông rồi. Thêm vào đó, mỗi tiệm phố đều sẽ treo cờ tam sắc.
Ai cần gì mời số người ở xóm Tà Lốc, không mợ chợ cũng đông . Trời vừa rực sáng .
Dân chúng xóm Tà Lốc đã kêu réo nhau inh ỏi:
- Thức dậy, anh em ơi!
- Tàu chưa tới mà . Thức thì thức .
- Tụi mình là "phó thường dân" xứ Nam kỳ, lâu lâu chào mừng quan trên: Chắc còn lâu lắm . Chừng này mặt trời mới ló dạng . Chắc quan Toàn Quyền đại thần đang ăn uống tại chợ Rạch Giá . Cỡ bốn giờ, mới tới .
Một ông lão khôi hài:
- Thiệt là dị hợm, kinh xáng đào rồi thì ... là rồi . Còn bày đặt ăn khánh thành giống như nhà vua làm lễ hạ điền . Làm như không có ông Toàn Quyền đi thử thì nước không chảy .
Có người hô to:
- Phía chợ vui quá hé ?
- Nóc nhà của tôi mới lợp, cột kèo bằng cây danh mộc ... lậu thuế . Ai muốn dưỡng già thì trèo qua nóc nhà tôi cho vui .
- Bậy nè! Lớn đầu mà còn dại . Ngồi trên nóc nhà, rồi hút thuốc, nguy hiểm lắm . Tại sao mình không ngồi trên cháng ba của cây xoài, cao hơn nóc nhà!
Chờ lâu quá nhiều người đâm ra nản chí . Họ tuột xuống đất, vô nhà uống nước cho thấm giọng rồi lại trèo lên . Đám trẻ càng xông xáo hơn . Chúng nó ở truồng, lén ra ruộng, cỡi trâu, đánh thẳng tay cho trâu sãi tới sãi lui. Rồi mòn mỏi, chúng nó nằm ngửa, phơi nắng trên lưng trâu để chờ đợi, sát kinh xáng trở về xóm.
Chuyện gì đến là đến! Vào khoảng tám giờ rưỡi sáng, đoàn tàu ăn lễ từ từ tiến tới. Dân xóm Tà Lốc hò reo, chỉ trỏ. Họ hối tiếc vì đã ngồi nhà. Tàu quá nhiều, chạy giăng hàng dài treo bông treo tụi đủ màu sắc . Đếm kỹ thì thấy hơn mười cái ống khói đen ngòm, tức là mười chiếc tàu .
Pháo đại, pháo tre, pháo trống ... nổ vang rền tại chợ . Nổ suốt năm mười phút mà chưa dứt ... Sau một hồi lẹt đẹt thì pháo lại rộ lên như con thú sắp đứt hơi cố gắng rống lên những tiếng cuối cùng vừa to, vừa dài ....
Một người nghĩ ra sáng kiến:
- Mấy đứa chăn trâu ơi! Tụi bay thử cỡi trâu, cho trâu sãi thật lẹ, coi họ làm gì ở ngoài chợ.
Vài đứa trẻ le lưỡi:
- Ngán lắm. Họ bắt tụi tôi không?
- Tụi bây là... con chó gì mà bắt. Thứ con nít ở truồng mà tưởng mình như người lớn .
Bọn trẻ bàn bạc:
- Mấy ông Tây ưa bận quần áo trắng, đội nón trắng . Tụi mình sợ trâu nó ghét màu trắng . Nhè trâu chém ông Chánh soái thì nguy .
Một người lớn quát to:
- Nói tầm phào hoài . Làm như tụi bây quan trọng lắm . Chưa ra tới đó là thiên hạ đuổi tụi bây rồi . Cứ ở gần lấp ló, coi lén vậy mà . Hơn nữa, chưa chắc Ông Toàn Quyền Chánh Soái chịu lên bờ uống rượu đế với ông đại hương cả . Tàu chạy qua rồi chạy luôn ... Không lẽ tàu chạy ngã khác .
Thế là bọn trẻ mục đồng được yên tâm: "Tụi tôi ham lắm" . Mấy người lớn nhìn theo, căn dặn:
- Về cho gấp, nói đầu đuôi cuộc lễ cho mấy thằng già này nghe chơi .
Hơn năm bảy con trâu xóm Tà Lốc sãi nhanh ra công sở, mang trên lưng những sứ giả bé bỏng .
Đột nhiên, tiếng "súp lê" nổi lên inh ỏi:
- Tu ... tu ... Tu! .... uuu ....
Dân xóm Tà Lốc khoái chí, vỗ tay:
- Đó là quan Toàn Quyền Chánh Soái chào mừng bà con xóm Tà Lốc ? Hay quá! Trời ơi! Khói lên từng cuộn đen thui .... Coi mê quá .
Tiếng tu tu ... cứ vọng rền .
Một anh chàng có vẻ thông thạo:
- Luật quốc tế mà! Họ chào mình theo luật quốc tế là cứ súp lê hoài ...
Chiếc tàu dẫn đầu ngừng lại . Mấy chiếc sau cũng ngừng, dường như chẳng dám qua mặt .
- Đúng rồi! Tàu của quan Toàn Quyền Chánh Soái . Ổng ghé lại chợ ....
Một ông lão thở dài:
- Các cha ơi . Quan Chánh Soái chào mấy ông hương chức hội tề chớ nào chú ý tới bọn mình . Đừng hí hởn mà buông tay, té gãy giò nghe các cha . Con nít quá vậy .
Nhưng bọn người háo thắng vẫn bàn bạc . Họ nghĩ mơ màng đến mấy ông hương chức hội tề . Nào ông cả Bon, ông chủ Xìa, Ông Xã Mực, ông thầy giáo Kiết, ông ban trưởng Huê kiều - Ông ban Xinh . Tất cả đang cúi đầu, lưng hơi khom, hột tay đưa ra để đón bàn tay ông Tây . Còn tay kia thì sờ lên ngực, ngay quả tim già, như để tỏ tình ... Pháp - Việt đề huề!
Vài phút sau, tàu "súp lê" vang dội như để tạm biệt . Từng chiếc một từ từ di chuyển . Mặt kinh xáng lấp lánh ... Mỗi chiếc tàu là một ống khói đen, phun làn khói mỗi lúc một mỏng mịn . Khói vương vít, bay chập chờn trên nền mây trắng, che khuất từng chập vài bóng diều quạ .
Bỗng nhiên một người quát to:
- Thấy mẹ rồi! Còn một chiếc Ở lại . Neo luôn tại chợ . Hay mấy ổng dòm thấy tụi mình trong này làm điều vô lễ ! Vô lý quá . Kìa ....
Từ phía chợ, bầy trâu phóng nước sãi, trở về xóm Tà Lốc .... Ai nấy phập phồng chờ đợi. Tin mừng hay tin buồn! Chẳng lẽ quan Toàn Quyền nghe ngóng được tiếng nói xa xôi của bọn người vô danh núp trên nóc nhà, trên ngọn cây, như rùa bò, như quạ đậu . Lạ thật . Trên con trâu dẫn đầu, có tới hai người . Một thằng bé và một người lớn .
Kìa! Trâu đã tới. Người lớn ấy ngồi vênh váo, như quen như lạ, chưa ai nhìn được hắn là ai!
Đúng rồi! Hương ấp Thum. Thầy ta trở về xóm để làm gì mà hấp tấp như vậy. Giống như mấy ông tướng Tây cỡi ngựa phi báo, cấp báo!
Mồ hôi tuôn ra nhễ nhãi đầy mặt hương ấp . Vừa nhảy xuống lưng trâu, thầy ta la lớn:
- Đánh mõ lên cho dân chúng tụ họp . Chuyện sanh tử lắm . Đợi cho đủ mặt, tôi mới nói, đâu phải chuyện giỡn . Tài sản của nhà nước!
Ai nấy đều ngơ ngác, tuột xuống đất, ngồi chồm hổm, sắp hàng hai để chờ lệnh . Gương mặt hương ấp Thum trông vừa đáng ghét vừa tội nghiệp . Bỗng dưng mà thầy ta lên giọng đàn anh .
Có người hỏi:
- Có gì vậy ?....
Hương ấp Thum im lặng, thở hổn hển . Một ông kỳ lão với giọng đàn anh kẻ cả:
- Cái gì vậy mầy Thum ?
- Dạ ... Dân xóm Tà Lốc chưa làm phận sự .
Ông kỳ lão quát:
- Phận sự gì ? Hay là ông Chánh Soái giận tụi tao, chỉ tụi tao vô lễ, ngồi trên ngọn cây ....
Hương ấp Thum nói:
- Dạ, dân xóm Tà Lốc phải ra sức ... kéo tàu .
- Tàu gì mà kéo ? Ai nấy giương mắt tròn xoe .
- Để người ta nói hết cho mà nghe . Số là đoàn tàu của quan Toàn Quyền đại thần bị trục trặc . Một chiếc bị tắt máy dọc đường, nhờ chiếc khác quăng đổi giòng tới đây rồi bỏ lại . Chẳng lẽ họ dòng chiếc tàu bịnh hoạn đó lên tới Hà Tiên thì mất thể diện cho "máy móc" của quan lớn quá, thiên hạ sẽ dòm hành chê bai. Bởi vậy, chiếc tàu họan nạn đó nằm tại chợ. Thầy hương quản giao cho tôi nhiệm vụ kéo chiếc tàu đó...
- Ủa! Sao lại dân xóm Tà Lốc!
Hương ấp Thum đáp:
- Dân xóm chợ đã góp tiền, đốt pháo và đóng thuế đầy đủ . Mấy chục năm nay dân xóm Tà Lốc chưa làm gí ích lợi cho nhà nước . Vậy thì ...
- Kéo lên bờ hay kéo đi đâu ? Chiếc tàu đó bao lớn ?
- Dạ ... Kéo về chợ Rạch Giá . Bà con nghĩ dùm . Sức một mình tôi làm sao kéo nổi chiếc tàu sắt về chợ Rạch Giá, xa hơn mười lăm cây số .
- Bậy nè! Ai hơi đâu mà làm chuyện bá láp . Tại sao mình không kéo chiếc tàu đó vô bờ mời mấy ông bác vật tới sửa máy . Hoặc chuyến về, mấy ổng dòng tàu về ...
- Dạ, nghe đâu quan Toàn Quyền đại thần đi tuốt lên Nam Vang, về theo nẻo khác . Bà con nghĩ dùm .
Ai nấy suy nghĩ: Kéo thì cứ kéo, ngại gì! Nhưng còn cái tội trốn thuế thân, từ nhiều năm . Nhiều tay tiều đốn củi quá lâu, nhiều chàng thanh niên một vợ ba con ... chưa được hân hạnh ghi tên vô bộ sổ của nhà làng .
- Dễ quá . Tôi bảo lãnh dùm! - Hương ấp Thum nói.
Thế là bọn trai tráng sắp hàng, ra bờ kinh xáng để kéo tàu, trước là xem tàu của quan trên cho biết nó nặng nề đến mức nào, sau là để làm phận sự con dân thuộc địa .
Chiếc tàu quá nặng . Mấy sợi dây đỏi sắt cũng không nhẹ . Nước chảy ngược . Gió thổi ngược .
Hơn năm chục người nai lưng "hố bụi" , đưa chiếc tàu liệt máy nọ về chợ Rạch Giá. Mệt và đói quá chừng. Kéo tàu sắt khác hẳn chèo ghe. Làm sao thảnh thơi mà ca vọng cổ. Đến canh một, canh hai đêm ấy, chiếc tàu mới xê dịch được hai phần ba lộ trình. Cũng may, hương chức hội tề đã chú ý.... ban cho dân ấp Tà Lốc năm đồng bạc để mua bánh tét, bánh lá dừa . Ăn tạm no . Nhưng làm sao tìm nước uống ? Nước dưới kinh xáng mặn đắng, chua chát quá chừng . Hễ ghé vô là chủ nhà hoảng sợ . Năm chục người uống hết nửa lu nước!
Nhứt là chuyến đi bộ trở về .
Dưới ánh trăng thanh, họ ca hát lai rai . Ai đủ sức thì cứ đi cho nhanh, về nhà cho vợ con mừng . Ai yếu đuối thì ngủ bờ ngủ bụi . Vài người mang bịnh cảm mạo, bắt gió vần công . Khổ thay! Mười lăm cây số bận về là cả một điều khổ nhục . Muỗi cắn quá chừng . Hồi ra đi, họ quên mang theo cái nóp .
Rốt cuộc, chẳng ai ngủ mê hoặc chết dọc đường . Suốt đêm, họ đi lang thang nhắm hướng Tà Lốc . Chốn quê hương đẹp hơn cả! Đúng vậy. Vài người chửi rủa hương ấp Thum, cho rằng thầy ta muốn lập công đầu với nhà nước Pháp . Khi tàu tới chợ Rạch Giá, hương ấp Thum cút mất, vô quán ăn hủ tíêu một mình . Và lúc kéo tàu, thầy ta ngồi trên tàu, hò hét, ngồi bên cạnh coi người lái . Khoẻ quá .
Đêm ấy, vì mình mẩy rêm nhức, dân kéo tàu đánh một giấc ngon lành trên giường thê nhi .
Nhưng lúc bình minh vừa ló dạng, từ đầu xóm vang lên tiếng mơ hồ:
- Kéo tàu! Ké ...éo tà ...àu!
Ai nấy nhẩy nhổm, mở cửa sau mà chạy, sau khi ... trăn trối với vợ con:
- Trời! Mới kéo một chuyến mà mệt đuối . Kéo thêm chuyến nữa chắc chết luôn . Má bầy trẻ nhớ nói rằng tôi đi đốn củi rồi nghe . Tổ cha ... thằng hương ấp Thum!
Tiếng gọi mơ hồ cứ lan xa, rõ rệt trong sương sớm:
- Kéo tàu .... Kéo tà ...àu!
Ngồi sau khe cửa, các bà hiền phụ nín thở, quan sát, chờ bóng dáng của hương ấp Thum . Tại sao hắn không đánh mõ ?
Nhưng hỡi ôi! Các bà cười vang . Tiếng "kéo tàu" nọ xuất phát từ cổ họng của anh Huê kiều quen thuộc, bán kéo tàu, kim chỉ và tặng kẹo ngọt cho trẻ con . Hắn ngơ ngác, thấy các thân chủ đều đóng cửa, ngủ trưa . Tại sao các thân chủ "tẩy chay" đột ngột như vậy ? Nhứt là các thân chủ ấy còn thiếu chịu của hắn một số tiền ngày càng to . Hắn bực dọc khi nghe tiếng cười, tiếng chửi thề . Nhưng hắn trung thành với nghề tổ, hắn cứ rao to, rao cho hả giận để đánh thức lương tâm dân chúng xóm Tà Lốc!
- Kéo tàu! Kéo tàu ....àu!.....
Cái tổ ong
Vừa bước lên sân, việc đầu tiên của cậu Minh là phóng mắt vào nhà rồi liếc nhanh phía sau sàn nước để tìm hình bóng cô Kim Em. Hổm rày, cậu mang bịnh tương tư. Nhưng khi đến đây cậu gặp sự thất vọng.
Ông Tư hỏi:
- Lâu quá, không gặp cháu. Cháu vắng hổm rày, chắc lo học hành...
Cậu Minh đáp:
- Dạ, cháu không có chuyện chi. Bãi trường rồi, rảnh rang lắm. Chừng một tháng nữa, cháu mới lên chợ Rạch Giá nhập học lại.
Thằng Thích chạy tới, nói xen vào:
- Ba ơi! Cậu Minh đọc sách để coi kiểu nuôi ong lấy mật ở bên Tây! Hôm qua, con lại nhà cậu, cậu lật sách cho con coi mấy cái hình ăn ong. Ở bên tây hễ muốn lấy mật, người ta bận áo mưa, đội mão, mang bao tay bằng da bò. Hèn gì họ... mình đồng da sắt, không sợ ong đánh. Cậu Minh nói với con: Hễ con dạy cách ăn ong ở xứ mình cho cậu... ăn được thì cậu mua cho con một cáibê hê , một cây đènpin .
Ông tư lườm thằng Thích:
- Ai hỏi mà mầy lên tiếng. Bỏ cái tật nói hớt của mầy nghe không? Xuống bếp, lo dọn cơm.
Rồi ông day qua cậu Minh:
- Nhằm bữa, cậu ăn luôn với tôi. Hổm rày nhằm cỡ ong"dàn trận." Lui cui tối ngày với ba cái mật, cái sáp...
Cậu Minh vô cùng thắc mắc: "Cô Kim Em đi đâu vắng rồi? Sao ban nãy thằng Thích rủ mình tới chơi, nó quả quyết rằng chị Hai nó có ở nhà."
Phía nhà dưới, nào thấy bóng hồng thấp thoáng. Gió phăng phắc nhưng mùi mật ong xông lên nồng nực khắp nhà. Ruồi bay từng bầy, bu lại gần mấy cái thùng thiếc đầy tàn ong mới"xắn" về. Mấy con ong non ngày non tháng như luyến tiếc ổ cũ, bò ra chung quanh miệng thùng, quạt cánh nhưng chẳng tài nào bay được. Cậu Minh nói hơi to:
- Chà! Ong nhiều quá. Mật thơm quá.
Rồi cậu đi lững thững xuống nhà bếp để xem cách nấu sáp, vắt mật, luôn dịp, tìm bóng giai nhân.
Trong buồng, vọng ra giọng chanh chua của thằng Thích. Nó đấu khẩu với chị nó:
- Ai biết cơm nước ra làm sao mà dọn? Sao chị nằm trong mùng hoài vậy? Ra dọn cơm cho người ta ăn. Kỳ cục quá.
Giọng cô Kim Em trả lời:
- Tao bịnh. Lâu lâu nhờ mầy dọn chén ra mà mầy cằn nhằn hả? Hết nói.
- Chị bịnh hả? Hổm rày sao không bịnh. Chờ khách tới thì chị bịnh... Tôi biết rồi.
- Ðừng om sòm cái miệng. Nhớ đem con cá nướng trên bếp xuống, cạo sơ sơ cho tróc cái lớp khét cháy ở ngoài da cá.
Thằng Thích trở giọng khôi hài:
- Ờ phải. Ta biết rồi. Vậy hả? Cha chả...
Mâm cơm đã dọn ra. Cậu Minh ngần ngại, leo lên bộ ván nhưng chẳng dám ngồi đối diện với ông Tư. Ông Tư mời mọc đôi ba lần mà cậu vẫn rụt rè, nói nhỏ nhẹ như con gái:
- Dạ, bác cầm đũa trước, cháu mới dám.
"Thiệt cái thằng ăn học theo thời bấy giờ mà còn giữ được lễ phép thời xưa." Ông Tư khen thầm như vậy. Bấy lâu nay, ông nghe thiên hạ đồn đãi: cậu Minh yêu mến con gái ông. Lúc đầu, ông chưa tin. Không lẽ cậu Minh lại muốn cưới con gái nhà bần h; àn, dốt chữ nghĩa. Dư luận ngày càng phồng lên, gia đình cậu Minh dường như chẳng lên tiếng đính chánh. Ông Tư tin là chuyện có thật. Gia đình cậu Minh thuộc vào hạng"có tiếng mà không có miếng" vì đã phá sản. Gia đình ông tuy vô danh nhưng đủ ăn nhờ nghề ăn ong mật ở góc rừng này. Con gái ông được nhiều người khen ngợi nhan sắc và nết na.
Nếu may mà hai đứa nó kết tóc với nhau; âu cũng là vinh hạnh lớn cho ông. Dường như cậu Minh ưa rủ thằng Thích đi chơi để"giả đò mua khế bán chanh" , viện cớ hợp lý tới lui thăm người đẹp. Ngoài ra, cậu Minh bắt đầu nghiên cứu về sinh hoạt của loài ong mật.
Ông Tư lên giọng:
- Bữa nay ăn uống sơ sài quá. Cá lóc nướng trui mà thiếu rau dấp cá, mất ngon. Nước mắm thì mặn đắng, thiếu me chua, ớt thì để nguyên trái. Thằng Thích mầy sao tệ quá.
Thằng Thích cãi lại:
- Ðâu phải tại tôi. Tại chị Hai đó. Hồi sáng, chỉ còn mạnh cùi cụi. Vậy mà chỉ vô mùng nằm, đắp mền, không biết đau chứng bịnh gì. Ba hỏi coi!
Nắm lấy cơ hội ấy, cậu Minh vào đề:
- Dạ thưa bác, cô Hai đau nặng nhẹ ra sao?
Ông Tư nín cười không được:
- Ối! Ðau đớn gì. Vô ý vô tứ thì ong vò vẽ nó đánh, nóng lạnh một buổi là hết. Ổ ong ngay nóc chuồng heo. Thứ ong vò vẽ bất nhơn, không có mật vô ích. Lát nữa mầy đốt ổ đó cho xong, nghe Thích. Bữa nào nó đánh tới tao nữa.
Thằng Thích mừng quýnh. Nó muốn trổ tài, giúp cậu Minh thấy tận mắt thói ăn nết ở của bầy ong. Nhứt định cậu Minh sẽ vui mừng mua tặng cho nó cáibê rê và cây đènpin, theo lời hứa. Nó ăn lua láo cho mau hết chén cơm rồi từ từ lui ra sau hè.
Còn lại ông Tư và cậu Minh. Cậu cố hướng dẫn cho cuộc đàm thoại đi sâu vào vấn đề... con ong. Hổm rày cậu chịu khó đọc qua một quyển sách khảo cứu in tại Ba Lê. Cậu hơi to giọng cố ý cho cô Kim Em trong buồng nghe ngóng.
- Thưa bác, sách Tây nói rằng ong mật là lại côn trùng có cánh, rất hữu ích cho loài người tự cổ chí kim.
Ông Tư trố mắt:
- Vậy hả? Nếu vậy thì sách Tây đâu có hay ho gì. Con ong có cánh để bay lẽ dĩ nhiên, ai cũng biết. Nhưng còn thiếu ...
- Thưa bác thiếu điểm nào?
- Ðiểm ích lợi... ong mật có ích cho loài người mà cũng cần thiết cho loài thú. Con gấu trong rừng sống nhờ mật ong.
Cậu Minh đáp:
- Ðúng vậy. Rồi mấy hãng kẹo bên Tây thường lấy con gấu làm nhãn hiệu. Và mỗi hãng kẹo đều có mướn nhiều ông kỹ sư, nhiều ông khảo cứu. Họ nhìn nhận mật ong bổ ích cho loài người. Lịch sử của loài người làm nên...
- Khó hiểu quá. Ăn thua gì với con ong.
- Dạ thưa hồi thời Bàn Cổ sơ khai, càn khôn hỗn độn, trước khi tìm ra lửa để nướng thịt thú rừng, con người đã nhờ mật ong mà tẩm bổ qua ngày qua tháng, chịu đựng sương tuyết. Ðó lànền văn minh mật ong (civilisation du miel), trước khi có nền văn minh dùng búa dao bằng đá, bằng sắt.
Liền khi ấy, ông Tư thích thú, rót rượu đầy chén mời cậu Minh:
- Hay quá. Hồi nhỏ tới lớn, bác mới nghe cháu nói. Mới nghe qua thì hơi dở nhưng ngẫm lại thì hữu lý.
Cậu Minh hớp chút rượu, trình bày tiếp, trong khi đó cô Kim Em ho húng hắng...
- Thưa bác, xin nói qua các nhà chép sử phương Tây. Họ bảo rằng thời xưa mật ong là vậy quí. Ong là loài côn trùng oai hùng chẳng kém loài sư tử. Bên Do Thái dây gian còn truyền tụng tích chàng dũng sĩ Săm Sông đi tìm nàng Ða Li La. Chàng ta gặp con sư tử cản đường nên ra tay giết sư tử. Vài ngày sau trởi lại chốn cũ thì ô hô! Có một ổ ong khá to đóng trong lồng ngực con ác thú, khoét gần hết xương thịt.
Ông Tư lắc đầu:
- Cháu nói hơi trật chìa rồi! Chắc đó là loài ong lỗ, ong vò vẽ, thứ ong đóng ổ ở sau chuồng heo. Loài ong mật thì ăn bông thôi, tinh khiết lắm. Còn gì lạ nữa không?
- Thưa bác, nhà kiến trúc sư khen loài ong đã biết cất nhà lầu. Ổ ong là tòa nhà bốn trăm hoặc tới năm trăm tần. Loài người ở thời văn minh chưa làm chuyện đó. Mùa nực, ong xúm nhau quạt cánh cho mát bầy con. Mùa lạnh, ong nằm xo rút liền với nhau để sưởi ấm. Nhờ vậy không khí được tinh khiết điều hoà, chẳng khác gì lò sưởi hay quạt máy.
Ông Tư bắt đầu chán nản vì ở rừng Cà Mau chỉ có hai mừa mưa nắng và mùa nào cũng nực, ở trần. Ông hy vọng chắm dứt câu chuyện khá dài.
- Bác ít đi chợ búa nên chưa rành cái quạt máy, lò sưởi... Thiết là lắm chuyện.
- Dạ còn nữa, bác ơi. Nhà chính trị khen loài ong biết tổ chức thành những quốc gia, có vua, có tôi, có thần dân. Nhà y học công nhận rằng nọc độc của loài ong trị được bịnh tê bại. Họ khen mấy người ăn ong trong rừng vì người ăn ong giỏi như mấy ông thầy Chà thổi ống sáo để chỉ huy loài rắn bàn nạo.
- Hơi lạ. Ăn ong với bắt rắn là hai nghề khác nhau.
- Thưa bác, đó là cách bào chế thuốc ngừa thiên thời, trái giống. Thầy rắn Chà Và đùa giỡn với rắn hổ con, rắn cắn không sao hết vì nọc còn non. Rắn lớn lên, nọc càng ngày càng độc. Máu huyết của thầy rắn cũng quen lần lần với nọc độc. Rủi bị rắn cắn thầy ta vẫn cười tươi! Người ăn ong ở rừng nào khác thầy rắn. Lần hồi, máu huyết người ăn ong trở thành lờn, ong đánh không đau đớn nữa...
Chén rượu thứ ba đã cạn. Ông Tư cười hề hề:
- Giống như uống rượu vậy thôi. Con nít uống rượu mau say, dân ghiền rượu thì coi rượu hơi giống nước lạnh. Uống đi cháu. Uống cho quen. Rượu còn hiếm hiệm... Cháu giỏi quá.
Cậu Minh cao hứng, uống lần hồi cạn nửa chén rượu đế. Mặt trời sắp lặn, đỏ khé sau rừng nhưng cậu nào hay. Mặt mày cậu ta cũng hừng lên, đỏ khé như một cái mặt trời nhỏ bé trong căn nhà ấm áp này.
- Còn nữa hết vậy cháu. Nhà kiến trúc, nhà y họ, nhà làm quốc sự đều khen con ong. Còn nhà gì nữa không?
- Thưa bác, ong ong ngộ lắm... Nhà nghệ sĩ nói rằng hễ gặp bông đẹp, nhụy ngọt thì con ong bay trở về ổ, báo cáo sự tình với đồng loại bằng một điệu vũ tức là nhảy múa. Nhờ điệu vũ đó mà bầy ong xúm nhau tìm hoa, hút nhụy. Ðẹp làm sao! Ổ ong tối mờ mờ như trong phòng ngủ. Con ong khiêu vũ trong bóng mờ. Khiêu vũ là cách nói chuyện tâm tình của loài ong. Có nhà thi sĩ cho rằng sáp ong là kết tinh bao nhiêu hương hoa của trời đất. Trong vũ trụ, đẹp nhứt là hoa. Nhụy hoa được loài ong hút về, tạo ra chất tinh khiết, xứng đáng cho chúng ta... xe lại làm cây đèn sáp để đọc sách hoặc cúng vái thần thánh. Con ong lại là... ông Tơ bà Nguyệt là lá thắm chữ hồng, đem nhụy bông đực rắc vô lòng bông cái. Vì vậy, bên Sa trại chủmạc Phi châu, cây chà là mới sanh trái được. Mấy người Ả Rập quí trong con ong, nuôi ong gần vườn chà là để cho bông cái chà là đừng trở ra thứ trái lép xẹp!
Ông Tư ngơ ngẩn vì... cậu Minh nói hơi nhiều lời, nói hết sách vở mà cũng chẳng ích lợi gì ráo. Nói tới nói lui rồi cậu ta cũng loanh quanh trở lại chuyện ái tình hơi thô tục.
Ngoài cửa sau, có bóng thằng Thích lấp ló. Ông tư hỏi:
- Gì vậy Thích?
Nó trả lời:
- Con muốn rủ cậu Minh ra ngoài này cho mát.
Ông Tư lắc đầu:
- Mầy giả ngộ hả? Muỗi mòng như trấu. Ra ngoài sau hè để làm gì?
Cậu Minh bắt đầu chán tiệc rượu vì cậu ta chẳng còn lý luận gì để phô trương cả!
- Thưa bác. Cháu muốn nói chuyện với thằng Thích. Cháu uống rượu hết vô rồi. Hơi say.
Khi thấy cậu Minh đến cửa nhà bếp, thằng Thích reo lên:
- Ðiệu lắm. Không có chổ chê. Cậu Minh ơi! Xong rồi. Mời cậu vô mùng kẻo mất cơ hội.
Ông Tư càng sửng sốt, nạt lớn:
- Mầy khùng rồi hả? Làm gì mà vô mùng? Ðừng nói bậy.
Thằng Thích nói khẽ:
- Dạ... con giăng mùng ở gần cái chuồng heo để cho cậu Minh coi cái ổ ong vò vẽ. Cái ổ này kỳ cục lắm. Ba biểu con phá ổ đó cho xong. Cậu Minh thì muốn con giúp... làm cách nào cho cậu thấy tận mắt con ong sống nhăn...
Ông Tư chép miện, muốn rầy thằng Thích nhưng sợ cậu Minh hiểu lầm:
- Ừ! Ðể tao coi mầy làm ăn ra thế nào!
Cậu Minh đứng ngoài hè., liếc thấy cái chuồng heo và cái mùng giăng trên bãi cỏ, bốn sợi dây căng thẳng qua bốn cây chuối hột. Sợ làm phật ý ông Tư, cậu dò hỏi:
- Cháu vô đó với thằng Thích. Nhà xảy ra chuyện, gì nguy hại không bác?
Sực nhớ đến mớ lý thuyết mà cậu ta vừa nói lúc uống rượu, ông Tư lẩm bẩm:
- Ờ! Thuốc dạy thầy, cậy dạy thợ. Biết đâu cháu thấy chuyện lạ hơn mấy ông bác vật! Ðây là ong vò vẽ, đóng ở góc chuồng heo của... rừng Cà Mau... Hiền lắm... Bác đâu dè thằng Thích nó rắn mắt. Mặt trời còn chạng vạng, ong nó thấy đường....
Lần đầu tiên, cậu Minh đánh bạo chui vô mùng. Ngồi bên trong, vui sướng làm sao. Vững như ngồi trong chiến bào. Ngoài kia, trời nhá nhem. Muỗi bay vo vo. Ông Tư chống nạnh, ho từng chập và dường như cô Kim Em cũng rón rén đến sát ngưỡng cửa.
Cậu Minh mỉm cười. Qua lớp vải mùng c3nh vật hiện ra mờ ảo, rung rinh. Mấy tàu lá chuối phất phơ. Con ruồi, con muỗi còn bay không lọt vào mùng, huống gì con ong vò vẽ. Một đoạn sách mà cậu đọc sơ qua cho biết: bên Âu châu, mấy nhà nuôi ong đều sắm những thùng nhỏ, lọng kiếng hoặc lưới sắt để dễ bề quan sát.
Muỗi dưới mặt cỏ bay luồn lên, vo ve. Cậu Minh quên đập muỗi, mải nhìn theo hướng ngón tay thằng Thích. Cái ổ ong vò vẽ lớn tròn, đen thui như cái trống, vừa một ôm. Ghê quá, đất chung quanh ổ ong chấp chóa, trơn láng. Nắng thoi thóp nhưng còn chiếu thẳng vào miệng ổ: một cái lỗ nhỏ, có hai ba con vàng bay loanh quanh như canh gác.
Cậu Minh muốn chứng minh tinh thần hăng hái:
- Nó không ra, làm sao mình coi được. Xa quá! Mầy Thích ơi. Phải chi hồi nãy mầy giăng mùng sát ổ ong.
Thằng Thích thở nhẹ:
- Nè anh! Tôi đem cây trúc này vô mùng để dành thọt.
- Làm sao mà thọt?
- Anh vén mí mùng, đưa cây trúc ra rồi đè mí mùng cho lẹ.
- Tao nghi ngờ quá.
- Ðể tôi!
Thằng Thích vén mí mùng, đưa cây trúc ra, nhắm ngay cái miệng ổ ong mà"chọt" tới.
Lẹ như điện xẹt, ba bốn con ong bay ra, theo cây trúc, chui vào mí mùng trước khi thằng Thích khép lại.
Hai người la hoảng:
- Chết tui. Anh ơi!
- Nó đánh tao. Ui da! Trời ơi! Thích ơi! Chạy ra được không?
Tình thế thật khó xử. Chạy sao kịp. Hàng ngàn con ong ào tới đậư ngoài mùng đen thui tùng cục, từng dề... chớp cánh nghe lào xào. Vài con xung phong lách mình xuống gốc cỏ; chui rèn rẹt vào mùng như con trùng, con kiến.
Bên ngoài, ông Tư kêu la ỏm tỏi:
- Dại quá vậy. Tại sao giăng mùng mà không trải chiếu cho sát mặt đất? Giăng mùng lơ lửng như vậy đó. Rán chịu trận.
Cô Kim Em đứng nép vào bệ cửa, lỡ cười lỡ khóc: Thằng Thích và chàng trai thông minh kia đang bị nhốt trong mùng.
Chập sau, mặt trời lặn khuất. Bầy ong gom về ổ. Ông tư bước tới, cầm một cái bao bố, khom lưng rồi thừa cơ hội thuận tiện, gói trọn cái ổ ong vào bao, chạy nhanh trở lại mương, nhận xuống nước: ong chết ngộp. Cô Kim Em tuân lời cha, xuống mương đem cái bao lên. Cái ổ ong được phá ra. Ong non trắng phau, lúc nhúc, gom hơn một thùng, đem lăn bột chiên ăn trong đêm ấy...
Cậu Minh uống rượu khá nhiều, ôm thằng Thích mà ngủ cho tới sáng...
Vài tháng sau, cậu Minh cưới cô Kim Em. Họ sống không mấy yên ổn, vì thời cuộc. Lần hồi, họ tản cư lên Sài Gòn. Chàng làm thơ ký ở một tiệm bán kem, nàng thì thủ phận đêm đêm gánh chè đậu kiếm thêm tiền để nuôi nấn bày con sáu đứa. Càng tiếc mùi mật thơm lành của quê nhà, thuở ban đầu. Nhứt là những đêm mưa gió, vợ chồng ngậm ngùi nhìn nhau không nói một cậu. Ngọn đèn điện mập mờ gợi hình ảnh ngọn đèn sáp từ đâu lạc đến, để lệ hàng đêm, chẳng bao giờ lụn để soi sáng trang sách của cuộc đời bao la: cuộc đời vừa xới mật vừa dễ hiểu nhưng họ chưa bao giờ hiểu - như cái ổ ong bên cạnh chuồng heo.
Con heo khịt
Từ hồi tháng mười một năm ngoái, mấy người cuốc rẫy ở ven rừng Ngã Bát không ngớt bàn tán xôn xao:
- Con heo Khịt về đây rồi. Nó lớn bằng con bò con lận mà.
- Phải! Tôi nghe danh nó từ lâu. Chú vợ của tôi ở Rạch Ruộng có nói lại: nội một đêm, nó ủi phá gần hai chục công rẫy khoai mì. Củ lớn ăn đã đành, củ nhỏ cũng không chừa.
- Sao không đâm nó? Thợ săn ở dưới Rạch Ruộng coi bộ dở quá, chưa xứng đáng là thợ rừng. Rầu lắm. Coi chừng con heo Khịt phá hại mùa khoai ở xóm mình. Nó đâu phải cọp mà mình sợ!
- Nói bậy đi. Chừng nào con heo Khịt phá hại, đụng chạm tới tài sản của mình thì hãy hay. Nói trước, xui xẻo lắm. Thợ săn ở Rạch Ruộng giỏi lắm chớ. Một người bị đổ ruột. Một người khác bị tét đùi. Phen đó, con heo Khịt mắc bẫy dây chì. Vậy mà nó tẩu thoát được.
- Bằng cách nào?
- Nó cắn một khúc giò, bỏ lại coi chơi. Khúc giò còn dính trong cái vòng dây chì. Coi mà phát ớn. Nó cắn giò nó cho đứt, một mình nó đánh chét bón con cho săn. Tôi đoán chừng con heo Khịt này ít nhât đã bảy - tám tuổi, nanh dài trên một tấc, mình mẩy nổi dấu chì. Thôi chuyện đâu còn đó. Nó chưa tới nhà mà bàn tán hoài, ngán lắm. Cứ lo làm ăn cho vợ con nhờ.
Chuyện ấy thấu đến tai ông Hai Cháy và ông Năm Tự. Vốn là thợ săn chuyên nghiệp, hai ông giữ vẻ mặt trầm tĩnh nhưng làm sao che giấu được bao nhiêu nỗi lo âu áy náy trong lòng.
Tháng này nhằm mùa hạn, rừng khô nước, heo rừng không ngủ nơi nào nhất định, chi bằng chờ lúc Sa trại chủmừa, nước nổi chừng ba tấc, heo rừng phải tìm nơi gò đất cao ráo mà ngủ, dễ tìm tông tích nó. Nhưng phải đề phòng! Mặc dầu mình nặng nề, chân nhỏ thó, heo rừng lội nước khá nhanh. Ðối phó lại, thơ săn nên tìm loại chó săn biết lội nước. Ðã có người chống xuồng cản chận đầu con heo rừng đang lội. Heo thản nhiên, hụp đầu xuống rồi hất lên như cõng vào chiếc xuồng nọ lên vai.
Ông Hai Cháy đến nhà ông Năm Tự mà nói:
- Mình ăn thịt hơn trăm con heo rừng. Nhung mà chuyến này coi bộ khó nuốt.
Năm Tự cau mày:
- Sao vậy? Tôi dọ kỹ rồi. Nó thành danh con heo Khịt vì nó dữ, khi dod63 quạu là sôi bọt mồm, khịt lên một tiếng lớn. Vậy thôi. Mình chưa ngán nó...
Ông Hai Cháy đáp lại chậm rãi:
- Bà con ở Rạch Ruộng cho biết: nó là heo độc giác. Theo chữ nho, chẳng hiểu nanh heo kêu bằng gì. Mình tạm kêu là"giác" đi. Trâu độc giác, voi một ngà, heo một nanh và ... người một mắt đều là thứ dữ.
Năm Tự im lặng:
- Ờ! Nếu con heo Khịt lên tới xóm này, nên lo liệu...
- Ðánh nó cho chết chớ lo liệu cái gì. Tôi dám liều chết nếu nó là heo Khịt. Rủi gặp heo nhỏ, tầm thường thì uổng công quá. Năm nay, gần sáu mươi tuổi rồi, tôi làm biếng lắm.
Năm Tự nói nhanh:
- Miễn là ông anh đi theo để làm quân sư, thằng em này vui vẻ ăn thua. Ông Anh cứ nhường cái bổn phận đó cho em. Em nhờ bà con dọ thám thử.
Giết heo là chuyện khó. Rình xem heo là chuyện dễ. Ðêm đó, theo lời yêu cầu của Năm Tự và Hai Cháy, một đám con nít xúm nhau rình bên giồng khoai mì đã bị heo phá hại đêm trước. Ðêm sáng trăng. Mù sương rắc xuống nhỏ từng hột trắng mỗi lúc thêm dày. Biết chống muỗi, vắt, lũ trẽ xúm nhau ngồi quanh gốc cây tràm. Cảnh rừng đêm mơ hồ. Ngồi hồi lâu không thấy gì lạ, lũ trẻ ngóng lên trời nhìn sương mù đang trôi gờn gợn như chất gì lỏng lẻo. Thích chí quá. Như ngồi dưới đáy biển sâu mà lớp sưong kia là sóng gió trôi trên đầu. Nhìn mãi sanh chán. Vài đứa ngủ gục ngáy to tiếng.
Bỗng đâu sậy đế gãy nghe rôm rốp. Rồi một bóng đen lộ ra đứng sát bụi mì ngóng mỏ rồi quay lưng, chạy về phía rừng tràm.
Lũ trẻ lập tức cho ông Năm Tự hay:
- Nó rồi! Nè ông Năm, nó như con bò con. Tưởng sao chứ vậy tụi tui đâu sợ. Nó chạy cong đuôi.
Ông Năm cười:
- Tại tụi bây đứng trên gió, nó đánh hơi được. Nó đâu sợ, nó xáp tới nhưng nó quay lưng vì sợ sụp nhầm bẫy hoặc hầm hố.
Nghe đến sáng kiến làm cần bẫy, bọn trẻ mừng quýnh. Vài đứa có kinh nghiệm lập tức bơi xuồng ra chợ Thới Bình để mua dây chì làm vòng bẫy. Gặp thầy đội kiểm lâm có mang súng, chúng nó mời thầy vô xóm Ngã Bát để bắn con heo Khịt. Nghe tin ấy, ông Năm vô cùng mừng rỡ. Nếu bắn được con heo ghê tởm ấy, ông khỏi ra tay. Vả lại, bắn sớm chừng nào hay chừng ấy. Từ bây giờ cho đến mùa mưa. Khi thời cơ thuận lợi. Còn năm - sáu tháng nữa lận. Biết đâu tới chừng đó; con heo Khịt sẽ bỏ xóm Ngã Bạt, sau khi phá hại mùa màng.
Trời chạn vạng.
Thầy đội kiểm lâm tới xóm. Ðêm đó, thầy ta hăng hái lắm vì mới vừa mượn được cây đènpin, loại năm pin của ông xếp kiểm lâm. Dịp may để thầy ta luyện tập về cách săn đèn!

Lại một đêm đầy sương, thứ sương mù khét lẹt, lạnh lẽo của rừng tràm U Minh khi mặt trời vừa chen lặn. Thầy đội mang đèn, ánh sáng chói mạnh tới trước soi một vòng tròn thấy rõ rệt từng nhành cây chiếc lá từng con muỗi.

- Tao làm gì thì làm. Tụi bây đừng nói chuyện. Ðứa nào sáng mắt, coi chừng tiếp với tao. Hai đốm đỏ tức là con mắt ông hổ. Nếu hai đốm vàng tức là mình chiếu ngay mắt con heo Khịt. Tao nghe đồn đãi như vậy.

- Kìa! Hai đốm vàng hiện ra.
Thầy đội từ từ bước tới.
Một bước rồi hai bước.
- Ðùng!
Súng nổ chát chúa, xé rừng. Một tiếng kêu rống. Lạ quá! Tiếng rống ấy nghe một chỗ và con thịt run rẫy, chẳng vang ra tiếng... khịt nào cả. Chừng xúm lại coi thì ô hô, thầy đội vừa bắn trúng một con heo rừng bé tí teo vừa mắc bẫy, chân còn treo lủng lẳng trên cây cần. Làm sao bây giờ. Ai dám gỡ nó xuống? Âu là bỗi thêm một phát nữa.
Ðằng xóm, ai nấy đều thức giấc, chờ kết quả. Sau khi nghe hai tiếng súng, họ đốt đuốc, chạy tới nơi, hô to:
- Rồi rồi. Xong rồi. Con heo Khịt đi dodòi!
Chừng đụng đầu với con heo nhỏ bé, ai nấy cười ngã nghiêng.
Ông Năm Tự đổ quạu:
- Làm chuyện bá lạp! Mấy đứa con nít thì rình trene gió. Người lớn thì bắn trúng cảm ơnheo "hà nàm" mắc bẫy. Không khéo, ai nấy là hề hạng bét. Bà con ở dưới Rạch Ruộng hay được là cười cả đám, chê đất này thiếu nhân tài.
Ông uống chút xíu rượu đế rồi thét to:
- "Vực một" đâu?
Từ ngoài sân, một con chó săn chạy vào đứng ngay trước mặt ông, phía tay mặt.
- "Vực hai" đâu?
Con khác chạy vô, đứng im bên trái.
- "Vực ba"!
Nó đứng ngoan ngoãn phía sau, và con chó "Vực Tư" giành góc còn lại. Cái bộ ván nhỏ bé mà ông đang ngồi trở thành cái ngai vàng.
Vỗ đầu từng con, ông bảo:
- Hồi nào tới giờ, tụi bây ở nhà, chưa bao giờ ra trận đủ bốn đứa. Mai này, Vực một, Vực hai phải ứng phó cho lanh: "Vực" là cánh, mỗi đứa là một cánh quân. Vực ba, Vực tư cũng vậy. Dưỡng sức đi. Thôi đi ngủ sớm, mùa nắng khó săn heo lắm. Ðây là thể diện của ta.
Bốn con chó vẫy đuôi, ra chiều hăng hái. Chúng ra ngoài hàng ba, trước khi nằm xuống, mỗi con đều quay tròn đôi ba vòng, nhìn kỹ chung quanh. "Chó ba khoanh mới nằm." ông Năm Tự lẩm bẩm như vậy, tự hào cho rằng cho săn của mình là giống tốt nhứt. Còn lại năm - sáu con chó nhỏ đứng xớ rớ chung quanh bộ ván, sủa gâu gâu, như kêu nài, bất mãn, ông nói:
- Còn tụi bây nữa. Chưa tới tuổi ra nghề. Tao lo cho tụi bây mà. Ði chỗ khác!
Gày gáy dứt canh hai. Sương lùa vào đầy nhà, vậy mà ông Năm Tự chưa nhắm mắt ngủ. Dựng đứng gần vách, ông ngắm nghía rõ ràng kìa... Một cây lao cổ phụng, một cây lao bay một cây mác thông. Tất cả khí giới này từ bảy tháng qua chưa xài tới mà vẫn sáng chói, không một bợn sét, nhờ ông lau chùi hằng ngày.
"Hừng đông, mình đi kêu Mười Hy phụ lực với mình. Khỏi cần bận rộn tới ông Hai Cháy, ổng già rồi."
Nghĩ vậy, ông Năm Tự ngủ yên. Ông có biết đâu là sự bố trí chua đáo ấy không được đúng với tình thế và đem lại nhiều hậu quả mà ông không đoán nổi.
- Tu... Tu... u...
Còi vừa túc lên. Bốn con chó Vực và năm con chó săn nhỏ bé đồng hè nhau chạy miết vô khu rừng tràm gáp ranh với đám rẫy khoai mì. Ông Năm Tự nói với Mười Hy:
- Chú Mười thấy chưa! Chó mà ăn cơm nguội thì lanh lẹ. Ăn cơm nóng, nó hư lỗ mũi đánh hơi hở ẹt. Cây lao bay với cây lao cỏ phụng của tôi đây nè chú cầm dùm. Tôi hô lên cây nào chú nhớ đưa cây đó cho kịp.
Chim rừng hót vang. Bước chân của hai người dẫm lên mớ lá vàng ẩm ướt. Muỗi, bù mắc... động ổ bay lên. Họ chen vào khoảng giữa chật hẹp mấy gốc tràm chòi. Nắng lên chui vào vòm cây lộ ra những đốm vàng tươi. Cá lóc, cá trê mắc cạn lăn tròn trên bùn nọn, mọi khi hễ gặp mồi nhậu thì hai người bắt liền. Hôm nay có khác. Ông Năm Tự thỉnh thoảng tháo khăn trên đầu, bịt lại chặt hơn, quần xà lỏn được vo lên sát vào bắp đùi. Ông nhướng mắt:
- Lâu quá vậy!
Rồi túc còi. Trong phút giây đàn chó gom lại. Ông căn dặn:
- Ðừng sủa bậy nghe! Tụi bây gặp trăn sủa cách khác, gặp rùa sủa cách khác. Giỏi lắm. Nhưng bữa nay, khi nào gặp heo rừng thì hãy sủa. Làm động rừng con Khịt đi xa.
Dứt lời, bầy chó tản ra. Hai phút sau, phía Lung Cây Kè, có tiếng chó sủa to, ba tiếng còi túc lên liên hồi. Ông Năm Tự và Mười Hy vạch lau sậy, chạy đến.
Con heo Khịt đứng sững, hai chân trước cao nghệu, mình mẩy đen thui, hươi nanh. Tiếng đồn không sai: nanh dài trên một tấc, con heo Khịt như con bò nhỏ, mớ lông gáy dựng lên vàng hực, lấp lánh.
- Vực một!
Ông Năm quát to.
Con Vực một nhảy vô cắn chân phía trước, bên hữu của con Khịt. Con Khịt vừa quay đầu là ông Năm ra lịnh:
- Vực hai!
Con Vực hai xốc tới cắn chân trước, bên tả. Con Khịt trở mình ngó phía sau tìm cách thủ thế, lui vào lùm cây!
- Vực ba! Vực tư!
Bị vây bốn góc, Khịt đứng nhóng lên. Thật ra răng của chó dầu bén nhọn nhưng làm sao cắn lủng da nổi chì của con Khịt được. Con Khịt lại đầy đủ kinh nghiệm: đây là thợ săn lão luyện và bầy chó hung hăng.
Nó tìm cách chạy tới. Mười Hy trao ngọn mác cho ông Năm Tự. Ông Năm ghìm ngọn mác trước ngực.
Heo Khịt thối lui, dùng hai chân sau bươi đất làm cái hố nhỏ, tạm che khuất cái mông dưới đất để hạn chế sự tấn công của Vực ba và Vực tư. Nhưng đất cứng quá. Nó quỳ hai chân sau. Mấy con chó nhỏ bao vây, đứng ngoài xa, sủa vang lên nhưng hưởng ứng, thúc hối bốn con Vực đang quyết chiến.
Bỗng nhiên, con heo Khịt thở mạnh nghe... khịt một tiếng. Ông Năm Tư thối lui. Heo Khịt trợn mắt trắng, miệng sôi bọt, đang lướt qua phía Vực một, bất chấp Vực hai.
Lẹ như chớp, con chó Vực một nhảy dựng đứng lên không trung ngang tầm đọt sậy. Nó vừa rớt xuống là con heo Khịt chĩa nanh lên, hứng ngay bụng.
Vực một giãy đành đạch, lủng ruột. Thừa cơ hội ấy con Khịt phá vòng vây, chạy nhanh.
Thấy con chó thân yêu vừa thiệt mạng, gan mật ông Năm Tự sôi lên. Chụp ngọn lao bay trong tay Mười Hy, ông phóng mạnh, buông tay. Ngọn lao ghim vào ngực con Khịt.
Nó mang ngọn lao mà chạy.
Nhanh như hớp, ông Năm vớicây lao cổ phụng - Loại lao cong, giống như cổ con phụng, có ngạnh như cái mồng - Mũi lao ghim vào hông con Khịt, đúng như sự tính toán của ông.
Bị đau điếng, con Khịt chạy nhanh, bất chấp cây cối, lau sậy, gò nỗng, ao vũng. Bày chó sủa vang, cố chạy cho nhanh hơn để chận đầu, cản mũi con Khịt. Nhưng may quá! Ông Năm Tự nói với Mười Hy:
- Nó chịu trận rồí
Mười Hy hơ hãi:
- Nó chạy như vầy, làm sao chịu trận. Bầy chó của mình đuối sức rồi.
Ông Năm Tự nói:
- Kìa! Cây lao cổ phụng này... hay quá. Con Khịt chạy không lâu đâu... Mình ráng theo nó cho kịp.
- Làm sao theo kịp được? Nó mất dạng rồi. Mấy con chó làm sao dám xáp vô để ăn thua?
- Thằng Mười này dở hơi quá. Chưa biết cây lao cổ phụng sao?
Chớ cứ sủa, ngày càng xa, xa dần. Con Khịt đã khéo léo chọn phương hướng, tìm nơi rậm rạp mà chui, mà nhủi. Trong khi đó, hai người thợ săn chạy chậm hơn, và chạy vòng quanh tránh mấy bụi chà là gai. Gai chà là đâm nhức nhối, mỗi bẹ chà là là một cái bàn chông.
Chó sủa rộ lên, càng gần, Mười Hy nói:
- Coi chừng! Hay là con Khịt trở lại ăn thua với anh em mình. Còn cái gì không!
Ông Năm Tự nói gắt:
- Bộ thằng Mười mất trí rồi sao? Có ba cái"bửu bối," xài hết hai rồi. Còn cây mác thông này mà thôi.
- Tôi ngán lắm. Tôi... chạy à! Hai bàn tay không, làm sao tôi dám đứng lại.
- Ai biểu mày ăn thua với nó. Ðứng ngoài xa mà coi. Chạy mau. Câu lao cổ phụn "ngon" rồi đó!
Phía trước mặt họ, con heo Khịt xuất hiện. Ngọn lao cổ phụng gồm hai bộ phận rời: Lưỡi và cán. Hai bộ phận này dính nhau nhờ một sợi dây dài. Lúc phóng tới, lưỡi và cán dính nhau, tạm thời nhờ cái khâu lỏng lẻo. Vì nhúc nhích, lưỡi cứ ghim vào hông con Khịt trong khi cái cán sút ra, tòn ten, lê lết trên mặt đất, có sợi dây nối liền.
- Nó kìa!
Ông Năm Tự la to trong khi Mười Hy sợ sệt. Cái cán lao bị kéo dài... Nhưng vài phút sau, vô tình con heo Khịt chui vào bụi rậm.
Cái cán trở thành chướng ngại vật, day ngang giữa hai gốc cây, trở thành một cái neo...
Con heo Khịt đứng lại, trì níu. Hai gốc cây tràm rung chuyển... Nó kêu rống vì càng trì níu thì ngọn lao càng xoáy bên họng, giữa hai cái be sườn rướm máu.
- Chết cha mầy!
Cây mác thông của ông Năm Tự lại cắm vào mông con heo Khịt, làm lủng da.
Con Khịt cảm ơnchân, phóng tới, ghê thật. Ngọn lao cựa quậy từ bên hông con Khịt vì cái ngạnh lút khá sâu.
Ngọn lao sút ra, làm gãy một khúc như be sườn. Nhờ vậy, con Khịt thoát nạn.
Bầy chó xáp lại hiểu rằng con Khịt đã đổ máu quá nhiều... Chó bao vây con Khịt.
Lúc con Khịt bối rối, ông Năm Tự đến trước mặt nó, cắm một mũi mác vào ngực. Khịt gào thét nhóng lên. Tay ông Năm ghì xuống chịu đựng.
Và cứ như vậy suốt mười phút, con Khịt chưa chết, nhưng ông Năm đã run tay, mồ hôi xuống ướt mặt. Mười Hy đứng xớ rớ chưa biết liệu lẽ nào.
Lâu lâu con Khịt rống lên xoay trở. Ông Năm Tự quỳ xuống hai tay bám chặt cây mác. Bầy chó giữ phía sau khiến con Khịt hết đường tháo lui. Hai hàng nước mắt tuôn ra tràn trề rưng rưng chảy trên má ông Năm. Ông dư hiểu: nếu con Khịt chạy vuột thì nó sẽ cắm đầu phóng cái nanh"độc giác" vào bụng ông trong tức khắc.
Mắt ông đổ hào quang, cảnh vật chấp chóe đất trời nghêng ngửa, cây rừng như trở gốc lên trời dang ngọn xuống đất. Nhưng may thay từ xa có bóng người chạy tới:
- Dữ ác hông? Sao không cho tôi hay trước?
Ông Hai Cháy xuất hiện như một vì cứu tinh, phóng vô yết hầu con Khịt một lưỡi mác, ghim vô thật sâu gần lút hết lưỡi thép.
Con Khịt ngã lăn và ông Năm cũng ngã ngửa, xuối tay thỏn mỏn.
Hôm sau, ông Năm Tự nằm mê man tại nhà, cơm ăn không trôi, phải nuốt nước cháo cầm hơi. Nhưng khi có ông Hai Cháy tới, ông Năm ngồi dậy như cái máy:
- Sao?
Hai Cháy đáp:
- Một trăm bảy chục ký lô! Cái nanh dài hai tấc.
Ông Năm Tự gật đầu lia lịa:
- Non ba tạ hả? Sướng quá! Cọp mà gặp con Khịt thì cọp đã rút lui. Tôi cầm cự chừng nửa giờ rồi anh tới... tiếp cứu đó. Mộ Di Phật! Hú hồn.
Con sấu cuối cùng.
Một tai họa thảm khóc vừa xảy đến cho gia đình ông cai tổng Hy. Hôm ngày cưới vợ của đứa con trai út, đoàn ghe rước dâu bị sấu cản mũi, bà con hai họ kêu la ỏm tỏi. Sấu lặn xuống rồi trồi lên đập đuôi ngay chiếc ghe chở cô dâu, chú rể.
Ai nấy trở về bình yên, trừ trường hợp đặc biệt của cô dâu. Nàng mất dạng sau khi quơ đôi chân ngược lên trời, lần cuối cùng, đầu và mình đều khuất dưới mặt nước xao động, trong miệng sấu.
Tôi đến chia buồn với ông cai tổng Hy. Ông nói giọng buồn bã:
- Nó mất xác. Bây giờ chỉ còn chờ báo thù.
Vì chưa biết rõ, tôi hỏi kỹ:
- Dạ thưa ông, ai báo thù?
- Sấu báo thù cho sấu... Theo tục lệ hồi xửa hồi xưa, sấu là loài thú bị đầy, mỗi con muốn thành tinh, để đầu thai kiếp khác cần phải nuốt... chín mươi chín nhơn mạng, thêm một người nữa là đúng một trăm chẵn. Nhưng mấy thầy câu sấu ở xứ mình quả quyết rằng họ có thể sửa đổi luật lệ của quỷ thần. Họ sẵn sàng giết sấu để báo thù cho người chết với điều kiện phải mướn bằng một số tiền khá cao.
- Ông mướn thầy câu sấu nào chưa?
- Họ đòi giá cao quá, dầu bắt được hay không, mình phải đặt tền tổ trước khi họ ra tay. Khổ lắm. Họ biết rằng kẻ bị"hùm tha, sấu bắt" chẳng bao giờ trở về nhà hưởng nhang khói nếu con sấu, con cọp sát nhân kia còn sống. Vì muốn cúng kiếng cho con dâu, bác dọ hỏi giá cả.... sơ sơ trên hai trăm đồng. Còn thêm điều kiện: bao nhiêu vòng vàng trong bụng sấu đều thuộc quyền của họ. Cách đây vài bữa, lão Năm Hên tới đây hỏi han kỹ lưỡng rồi xin phép bắt con sấu đó, không ăn một đồng xu nào hết.
- Người đâu mà tử tế quá vậy?
- Khó hiểu lắm. Ông ta nói rằng muốn bắt một con sấu cuối cùng, trước khi giải nghệ...
Rồi ông cai tổng Hy nói khẽ:
- Chắc ông ta biết con dâu tôi... nó mang theo hai chiếc neo đúng hai lượng vàng nên động lòng tham. Hễ bắt được con sấu. ông ta mổ bụng nó lượm trước hết rồi tri hô sau, hoặc chẳng thèm tri hô gì ráo. Như vậy, ông ta vừa... làm giàu, vừa được tiếng tốt với hậu thế!
Ðể hiểu rõ hơn, tôi đến Ngã Ba Ðình để làm quen với ông Năm Hên. Biết tôi là người quen thuộc với gia đình ông cai tổng Hy, ông Năm tỏ vẻ ái ngại:
- Nguy lắm. Tốt hơn cháu về nhà chờ đợi. Khi nào bắt được nó, bác cho cháu hay.
Tôi nài nỉ xin phép ở lại căn chòi che tạm ấy. Ông mải im lặng. Tôi sanh nghi, liên tưởng đến hai chiếc neo hai lượng vàng còn nằm trong bao tử con sấu ác nghiệt. Gương mặt ông Năm Hên trông hiền nhưng bí hiểm lạ thường. Ông đi ra đi vào, quan sát bãi bùn, nhìn mấy giề lục bình trôi ngang qua rồi nói:
- Sợ cháu không đủ kiên nhẫn. Chuyện nguy hiểm này, bác muốn chịu đựng một mình. Nếu có mặt một người thứ nhì, bác e xảy ra nhiều tiến dị nghị. Hồi xưa, cháu nên nhớ rằng: bác làm nghề này vì miễn cưỡng. Hôm nay bác muốn tự ý bỏ nghề không trống, không kèn. Thôi, được rồi. Cháu ráng ở sớm hôm với bác. Ðiều quan trọng là cháu đừng làm điều gì mà bác ngăn cấm. Ðừng chàng ràng hỏi tới hỏi lui. Ðừng thắc mắc là tại sao cháu hỏi mà bác không trả lời. Bây giờ thì cháu ăn cơm rồi ngủ cho thẳng giấc.
Vì tò mò muốn điều tra những thủ đoạn của thầy câu sấu, tôi nhận lời và ngoan ngoạn ăn cơm. Ăn xong tôi lựa một nhánh bần cổ thụ, trèo lên nằm co mình. Gió thổi mát rượi. Ông Năm Hên cứ hút thuốc phì phà. Tôi vui sướng như nằm trên chiếc ghế dựa. Con sông Ngã Ba Ðình nổi tiếng có nhiều sấu hung ác nên ghe xuồng qua lại rất thưa thớt. Trời xế dần, chưa chi mà cò, diệc hay giăng hàng về rừng. Lục bình trôi hết giề này tới giề kia, mấy cây khô trốc gốc nổi lềnh bềnh quay qua quay lại như xác người rũ tóc.
Tôi ngủ từ bao giờ, không hay biết.
Bỗng nhiên, tôi giật mình thức dây. Một trái bần chín khá to, vừa rụng xuống bãi bùn. Tôi mừng quýnh, nhảy xuống đất, chạy ra ngoài bãi, cúi xuống lượm, chợt nghe nhiều tiếng động lạ lùng, giống như giọng cười the thé củacô hồn ma quái.
Trên chòi, ông Năm Hên vụt đứng dậy mỉm cười:
- Coi chừng. Không nguy hiểm nhưng đừng giật mình, đừng la lớn. Nó đó!
"Nó" là ma hay là con sấu ăn thịt đứa con dâu của ông cai tổng Hy? Tôi muốn hỏi to nhưng sực nhóo lời căn dặn. Vả lại, tôi muốn tỏ rằng mình đây chẳng phải thợ câu sấu nhưng vẫn đầy đủ bản lãnh.
Hai chân tôi đau điếng như đạp nhằm gai. Vừa ngó xuống, tôi hoảng hốt: Hàng chục con thú nhỏ - vóc dáng bằng con cắc kè - chạy tới bao vây, nhe răng, phóng mình cắn khỏi mắt cá. Tôi rút chân khỏi bùn, toan rút lui về phía cây bần để tìm một nhánh cây làm roi. Không cần suy nghiệm, tôi hiểu ngay! Ðó là bầy sấu con mới nở, dưới bụng mỗi con đều dính những bệt màu vàng - màu của tròng đỏ trứng sấu. Ông Năm Hên quát to:
- Chạy luôn đi!
Tới gốc bần, tôi leo lên thật cao rồi ngóng xuống bãi. Kìa, một con sấu dài hơn ba thước từ mé nước bò trườn, bao vây đàn con, lùa xuống mé nước.
- Xuống đi!
Nghe theo lệnh ông Năm Hên, tôi tới căn chòi. Ông cứ ung dung hút thuốc, nhìn mơ màng theo làn khói. Trên vách lá, hang chục cây mun - mũi tên bằng cây cau già phía trước có mũi nhọn bằng sắt - nằm im lìm trong cái ống tre khá to. Bỗng dưng, tôi nổi giận, thầm trách:
- Lão Năm Hên này quá ác, muốn nhử cho sấu ăn thịt kẻ khác. Ðã ác, lão còn nhát gan. Cớ sao ông chưa chịu phóng vài cây mun bịt sắt để giết con ác thú?
Tôi nói:
- Sao bác thờ ơ quá vậy!
Lão trợn mắt:
- Ðó là con sấu cái. Nó lo giữ bầy con . Con sấu đực mới là chánh phạm.
-"Nó" đâu rồi? Tại sao bác biết là"nó" ?
- Cháu đừng hỏi.
Rồi ông nói lảng qua chuyện khác. Nào loài sấu đẻ hàng đôi ba chục trứng, đẻ xong khoét lỗ, sắp trứng từng lớp, cứ mỗi lớp trứn glà có một lớp lá cây mục, cỏ khổ. Ðâu đó xong xuôi, sấu kiếm lục bình, nhánh cây, rác rến mà phủ lên giống như mô đất, cao đến sáu bảy tấc. Khi trứng gần ngày nở, sấu mẹ bò quanh quẩn, nghiêng tai nghe tiếng động trong lòng trứng... Lúc mới nở, sấu con sống bằng chút ít tròng đỏ còn dính dưới bụng. Hằng ngày sấu mẹ cạnh chừng sấu con, sợ sấu cha trở về ăn thịt con...
Chúng tôi ăn cơm chiều. Trời sụp tối. Ông ngồi chồm hổ, bấm đốt tay, tính lẩm bẩm.
Ðến khoảng đầu canh hai, ông vỗ nhẹ vào vai tôi:
- Thức chưa hay còn ngủ?
Tôi trố mắt:
-"Nó" hả?
- "Người ta"hồi đầu mùa rồi, đừng hỏi nữa. Nếu buồn bực thì lại đây cói cái này cho vui.
Tôi bắt đầu lo ngại, nghĩ tới bao nhiêu giai thoại về hồn ma hiện về cỡi trên lưng loại sấu đội đèn. Ông Năm thúc hối:
- Mau mau!
Qua khi đìa, tôi thấy dưới này năm ba vật gì đen thui, giống như khúc củi nổi lều bều. Ông Năm giải thích:
- Tụi nó điếm đàng như vậy đó. Nó xuôi chân xuôi đuôi và cứ nổi phêu phêu trên mặt nước. Con sấu cái ở chính giữa, xung quanh là bầy sấu đực tới ve vãn. Sấu cái lội tới đâu, mũi"xạ" trong miệng nó hôi thúi tới đó, rù quến bầy sấu đực... Tụi đực rựa đánh mùi, giành"mèo" . Coi kìa!
Mặt nước xao động. Mấy"đốm đen" chuyển mình rượt nhau, đập đuôi nghe ầm ầm vang lên chấp choá dưới ánh trăng non. Chập sau, bầy sấu mất dạng.
Ông Năm Hên khép kín cánh liếp, nói nhanh:
- Cháu thấy nhãn tiền chưa? Con sấu cái này chờ"chồng" . Nó đánh bạt bầy sấu đực xấu máu. Bọn sấu đực giành mèo dữ tợn lắm. Bác gặp nhiều phen lạ lùng: sấu đực cắn lộn, con này cyui xuống bụng con kia để thiến lẫn nhau.
Rồi ông tắc đèn chui vào nóp ngủ.
Ngày qua ngày, ông Năm Hên xuống bãi bùn, cắm nhánh cây để ghi mức nước lớn, nước ròng. Ðôi khi, thừa lúc tôi nằm lim dim, ông xách cây dao phay, đi ra sau nhà, khuất dạng trong vùng rừng tràm lưa thưa. Tôi sực nhớ tới tập quán của vài người mỗi lần vào rừng phóng uế,"bón phân cho cây" là họ mang theo cây dao để đào lỗ rồi lấp lại cho hợp vệ sinh. Nhưng tại sao ông Năm Hên che dấu cái nhu cầu đơn giản ấy? Mội buổi sáng, nghe tiếng quạ kêu sau rừng, lão hối hã chạy ra khỏi nhà, hò hét inh ỏi:
- Quả đùng! Quạ đùng!
Lão trở vào, hút thuốc, bấm đốt tay rồi chạy xuống bãi bùn. Hồi lậu, lão trở lên:
- Cháu ở nhà một mình nghe không? Bác qua bên kia chừng vài giờ đồng hồ. Ở nhà, nhớ đuổi quạ. Và đừng bao giờ ra sau nhà, phía rừng tràm.
Tôi gật đầu, hứa vâng lời. Chờ lão khuất dạng, tôi làm bài toán liều mạng. Ra sau rừng để xem thử. Tại sao lão ngăn cấm? Nhứt định lão chôn giấu một vật gì bí mật. Rủi lạo bắt gặp, tôi bị rầy, bị đuổi ra khỏi nhà là cùng. Vùng rừng tràm quá thấp, nước đọng quanh năm. Giữa ban ngày muỗi mòng cứ bay vo ve, từ mặt nước, bầy lăng quăng thoát xác bay lên nhu con ngài lột vỏ kén. Hồi lâu, tôi đến vùng đất cao ráo, in tỏ rõ dấu chân người. Tôi dừng bước, ngạc nhiên và sợ sệ, nhận ra một nấm đất vuông vức. Kho tàng chăng? Bùa phép hoặc cạm bẫy gì đây? Sau khi hái một nhánh cây khôn, tôi xới đất: Hai khúc xương lòi ra, xương ống chân và xương bắp đùi và mớ xương vụn khác. Lập tức, tôi lấp đất lại rồi chạy nhanh về chòi để tránh mùi hôi thúi. Té ra ông Năm Hên đã chôn nguyên cái chân của một người, người ấy phải chăng là cô dâu của ông cai tổng Hy?
Chừng hai giờ sau, ông Năm Hên trở về, nhìn thẳng vào mặt tôi như muốn nói điều gì... Ông vấn thuốc hút, mỉm cười:
- Hổm rày, cháu buồn bực, hồ nghi công việc làm của bác hả? Ráng ở thêm tối nay, tới trưa mai cháu về nhà được rồi.
- Xin lỗi bác. Lúc bác vắng mắt...
- Cháu đừng hiểu lầm. Bác mời cháu ở lại chớ đâu muốn đuổi. Cái gì bác cũng tha thứ được hết. À, tuổi trẻ, người ngoại cuộc như cháu ưa tò mò. Bác muốn cháu tò mò cho tới nơi tới chốn. Ðời bác quá già rồi. Bác làm rẫy khoai mì ở rạch Ngan Trâu, tính giải nghệ từ lâu nh; ưng chưa giải nghệ được. Bữa nay hoắc sáng mai, bác giết con sấu cuối cùng. Sanh nghề tử nghiệp, bác đều sợ, vì nếu "tử vì nghiệp" thì đó là luật quả báo. Bác sợ những người tò mò, mới xem nửa chừng rồi bỏ cuộc...
Tôi im lặng, cúi đầu nghe lời trách mắng quá nghiêm khắc ấy. Dường như ông Năm Hên muốn trút bao nhiêu bất mãn chồng chất từ bao nhiêu năm qua lên đầu tôi.
Lão day mặt, hỉ mũi, nói nghẹn ngào:
- Cháu nên ở lại. Bác sợ cháu đồn đãi... bậy bạ. Giờ phút này, cháu thấy sự thật khi đào lên sau rừng. Nhưng cháu có thể hiểu lầm... cũng như ông cai tổng Hy hiểu lầm.
Chiều hôm ấy, ông Năm Hên nhịn ăn, vì buồn bực. Tôi lục nồi cơm nguội, nuốt lua láo nửa chén rồi chun vô nóp.
Ông đốt đuốc lên, nói khẽ:
- Ðừng ngủ. Hễ nghe phía sau rừng có tiếng sấu"nghé" đừng giật mình nghe không! Nước ở cái lung bên kia cạn rồi. Tối nay nó về đó.
Tôi đứng lóm thóm bên ngoài cửa, nhướng mắt... Bỗng nhiên, ông Năm Hên chạy ra ngoài, ngoắt lia lịa:
- Ðừng sợ. Cháu coi kìa! Nó trườn lẹ ghê, giống của nó dữ lắm. Bữa hổm, sấu cái lo ấp trứng, nó rảnh rỗi sanh tật hung hăng đón ghe... đám cưới. Hôm nay, đoán chừng bày sấu con đã nở, nó bò về để ăn thịt con.
Dưới bãi bùn, con sấu hiện ra, đen ngòm giống như cái xuồng độc mộc. Trăng sáng vằng vặc. Con sấu trườn dài, dọc theo bờ sống, day mũi qua bên tả, bên hữu. Ông Năm Hên nói:
- Cháu cầm cây đuốc dùm bác. Ðừng la hoảng nghe không. Ðể bác giết nó. Cầm đuốc cho thật chắc!
Tôi nhận lấy bó đuốc...
Ông Năm Hên bước xuống bãi với hai bàn tay không.... Sực nhóo tới cái ống tre đựng mấy ngọn mun bịt sắt, tôi nói nhỏ:
- Ðem ngọn mun theo chớ?
- Khỏi cần. Chắc ăn lắm rồi. Nó đó. Nhất định là nó.
Con sấu tiến lần về cái ổ trứng - đúng nơi tôi bị bầy sấu con bao vây hôm nọ. Bầy sấu con hoảng chạy... Sấu đực lướt tới đớp con. Nhanh như chớp, ông Năm Hên nhảy lên sấu mà cỡi... Ông cúi đầu xuống, hai tay cựa quậy... Sấu day mũi xuống nước rồ8i quẹo lên bãi, trở mình, vật ông Năm Hên nằm ngửa dưới bải... Trong phút giây, người và sấu chỉ là một đống đen thui. Khói từ bó đuốc thổi tạt ngang mặt tôi... Gió thổi hù hù. Ông Năm Hên hò hét, làm vang động khu rừng tràm sau hè. Tôi đứng không vững vì dường như mặt đất rung rinh. Bỗng dưng ông Năm Hên đứng dậy, chạy bò càn lên bờ đến bên cạnh tôi rồi quỵ xuống, thở hổn hển:
- Nó gần chết rồi kìa.
Dưới bãi bùn lấp lánh ánh trăng, con sấu đen ngòm nằm im. Tôi hỏi:
- Tại sao bác không kéo xác nó lên. Hay là... để cháu tiếp sức với bác.
Ông khoát tay:
- Kìa! Con sấu cái với bầy sấu đực bữa hổm trườn lên đó. Tụi nó kéo xác con sấu chết, ngâm vùi dưới đáy sông rồi chia phần với nhau. Mình giành cái xác đó làm gì?
Lão nhìn trưòng trừng vào mắt tôi:
- Bộ cháu tiếc hai lượng vàng trong bụng của nó hả?
Tôi im lặng, cúi đầu:
- Xin lỗi bác.
- Lỗi phải gì? Bác giải nghệ rồi. Cháu tưởng bác vì tham hai lượng vàng mà liều mạng, cỡi trên lưng sấu hả? Thôi mình vô nhà, nói vài lời nữa rồi ai về nhà nấy.
Ánh đuốc tàn rụi dần. Ông Năm Hên nói:
- Sợ ma không? Nếu sợ thì cháu cứ dỡ cái nóc nhà lá này mà bó lại làm đuốc.
Ánh lửa tắt. Tôi lính quýnh chưa biết ứng phó ra sao. Thật ra tôi sợ ma, vì sực nhớ tới hai khúc xương chânchôn vùi sau hè. Giọng ông Năm Hên trổi lên trong bóng tối, ghê rợn như giọng nói của ma:
- Ông cai tổng Hy hiểu lầm. Bữa nay, bác ra nghề lần chót... Ồ, sức bác còn dẻo lắm, cháu thấy không? Bác cỡi lên lưng sấu, lật hai cái chân trước của nó cho trở ngược lên lưng rồi bác điều khiển như người cầm cương ngựa. Nó phải quẹo lên bãi như ý muốn của bác. Rồi bác thọt cho nó đui hai con mắt. Kỳ sau, nếu muốn bắt sấu, cháu làm theo cách đó. Bốn mươi năm kinh nghiệm của đời bác!
- Dạ, cháu không dám. Ðể cháu thuật lại cho ông cai tổng Hy biết đầu đuôi.
Ông Năm Hên nói gắt:
- Ðừng cho ổng biết gì ráo. Hồi cỡi trên lưng sấu bác đâu nhớ tới hai lượng vàng? Bác ra nghề lần chót đâu phải vì ông cai tổng Hy mà vì lý do khác. Nếu tiếc hai lượng vàng, ổng cứ mướn thợ chài tới đó mà vãi... mò lên. Trời đất chứng minh cho bác.
Bầu không khí trở nên nặng nề. Dưới mé sông, sấu quậy đùng đùng, con sống giành xác con chết. Ông Năm Hên vụt đứng dậy:
- Cháu ở đây ngủ, bác về liền bây giờ. Tới đây là dứt.
- Trời đất! ban đêm, bác đi đâu? Tội nghiệp cháu.
Ông Năm Hên ra khỏi cửa, mắt đăm đăm hướng về phía bãi bùn:
- Nhắn với ông cai tổng: cứ cúng cơm trên bàn thờ, vì người chết đã ngậm cười.
Tôi lính quýnh, tìm cách cầm chân ông Năm:
- Thưa bác, còn cái ống tre đứng mấy ngọn mun nè!
Nhưng ông Năm mất dạng trong bóng tối. Tiếng nói của ông, ngày càng nhỏ rí nói vọng về căn chòi:
- Bỏ đi. Hay là cháu muốn giữ làm kỷ niệm để khoe khoang với bà con rằng ta đây... dám bắt sấu như ai kìa. Nếu muốn kỷ niệm, tốt hơn cháu nên ra về, im lặng, với hai bàn tay không, trong bóng tối.
Xóm Cù Là
Xin tạm giải thích cái địa danh ấy. Dân trong xóm sống vui vẻ tập trung tại Ngã Tư, nơi gặp gỡ tự nhiên của hai con rạch cong queo và dùng đến ba thứ tiếng: tiếng Việt, tiếng Miên, tiếng Triều Châu.
Các vị bô lão cho biết: xưa kia, vài người mộ đạo đã cất ngôi chùa tại Ngã Tư. Một vị tướng nhà Nguyễn có tá túc tại chùa, dâng cho chùa một tượng Phật nhỏ mà ông đã thỉnh tại xứ Cù Là, lúc bôn ba hải ngoại. Các vị bô lão còn nói rõ: gọi là Cồ Là mới đúng sách vở, Cồ Là tức là xứ Miến Ðiện giáp ranh Xiêm La.
Nhân vật nổi danh nhứt ở xóm Xù Là tên là Trần Hanh. Ông ta là chức cai tổng, có ruộng đất khá nhiều. Ðiền đất được giao cho người khác bao thầu, với số lúa phỏng định là mười ngàn giạ. Do đó, ông không tiếp xúc trực tiếp với đám tá điền. Vợ lớn của ông chết sớm để lại cậu Hai và cô Ba. Ông cai tổng Hanh ít khi có mặt tại xóm Cù Là. Dường như ông thăm viếng luân phiên ba bốn nàng hầu thiếp ở những vùng xa cách xóm Cù Là hàng ba bốn chục cây số.
Về mặt khai phát đất hoang, giúp đỡ dân chúng thì ông cai tổng Trần Hanh đã ghi thêm vài nét hơi đậm trên bản đồ xóm Cù Là. Ông mướn người đào kinh, xẻ ngang thửa ruộng, giúp tá điền chở lúa dễ dàng từ đồng rượng đến lẫm lúa: đó là"kinh Thầy Cai Hanh" . Lại còn con lộ gọi nôm na là"lộ Thầy Cai Hanh" . Só là vào năm 1936, thầy Cai mua được chiếc xe hơi du lịch hiệuÐờlahay . Ðiều ấy làm hãnh diện cho toàn thể dân chúng trong vùng. Trong lúc thầy cai còn do dự, chưa biết làm cách nào đem xe đến tận nhà tại ngã tư Cù Là, dân chúng thúc hối:
- Thầy cứ mua. Tụi tôi sẵn sàng ra sức đắp con lộ từ đường xe của nhà nước vô tới nhà thầy.
Chỉ trong vòng bốn hôm, con lộ bề ngang hai thước, bề dài hơn tám thước được hoàn thành, cao nghệu như bờ đê. Chiếc xeÐờlahay trông oai vệ làm sao! Nó giống hệt chiếc xe bò, với bốn bánh có từng cây căm tua tủa. Thùng xe hình vuông trước mũi có chưng hình đầu con đầm mọc cánh, màu bạc, khi đổ xăng là vặn con đầm ra. Ngày nay, xe hơi biến hoá tiến đến những hình dáng huê dạng hơn, giống như con rùa, con chim, con cá nược. Các bạn dưới hai mươi tuổi cứ tra các quyển tự điển là gặp kiểu xe cổ lỗ"vang bóng một thời" ấy.
Chiếc xe ấy bị hư, trước khi thầy Cai Hanh chết. Và thầy cai Hanh chết tại xóm Cù Là, trước khi việc tống táng người chết được nâng lên hàng tiểu công nghệ với những cửa hiệu chuyện nghề bao thầu quan tài, tẩn liệm. XeÐờla hay hư máy, nằm tại nhà, không được ai mua theo kiểu "ve chai" . Và việc tống táng thầy cai Hanh - lúc bấy giờ - trở nên rắc rối. Nếu hồi còn sống thầy cai đào kinh, đắp lộ điểm tô nét nhỏ trong bức địa đồ xóm Cù Là thì lúc chết - sau khi tắt thở - được vài phút, thầy cai bắt đầu đóng vai trò lịch sử trong xóm nhỏ, với cái xác nặng hơn bảy mươi ký lô (chi tiết này rất quan trọng). Muốn mô tả lại, không gì tốt hơn là dùng phương pháp..."chép sử" ngày qua ngày mà các phóng viên mặt trận hồi Ðệ Nhị Thế Chiến thường áp dụng.
Ngày thứ nhứt: Vào khoảng bốn giờ chiêù, cai tổng Trần Hanh tắt thở. Già thì chết, con người ai cũng chết một lần. Ông mang bệnh nan y - bệnh đau ruột - từ lâu, ông hy vọng được kéo dài thời gian sống, nhờ kỹ thuật điều trị của các bác sĩ Tây và ta ở Sài Gòn. Ðến giờ chót, cái chết ấy quá đột ngột, một sự đột ngột nho nhỏ nằm trong cái phạm vi bình thường to lớn.
Ông nhắm mắt, sau khi làm"xung" chừng ba phút. Chẳng ai khám nghiệm thi hài ông, nhưng cậu Hai (con trưởng nam) quả quyết:
- Ổng bị đứt ruột. Năm ngoái, ông bị cắt khúc ruột, bác sĩ Tây ở Sài Gòn nối hai khúc bằng một ống cao su. Vì mệt mỏi và quên thay ống nên cái ống ấy tuột ra, hai khúc ruột không nối liền được. Trễ rồi!
Cậu Hai leo lên cái giường nệm, sờ vào ngực cha. Ngực đã lạnh ngắt. Cậu đánh diêm quẹt và đốt ngọn đèn sáp giữa ban ngày.
Cô Ba cằn nhằn:
- Làm gì vậy? Chưa tẩm liệm tại sao anh đốt đèn cúng vái? Nên giữ đúng tục lệ ông bà, kẻo xảy ra...
Cậu Hai nói gằn:
- Mầy đừng làm bộ. Lát nữa mầy biết. Mầy là em tao, chưa khôn hơn tao đâu.
Cô Ba gạt nước mắt:
- Anh đừng nói vậy! Anh đuổi tôi hả?
Nói xong, cô Ba bước ra khỏi phòng, khóc thật to, khóc quá to. Bọn gia nhân an ủi cô với những câu thường lệ. Cô vào phòng riêng lấy xâu chiềa khoá mở tủ, lục lạo rồi khoá tủ. Ðâu đó xong xuôi, cô ra khỏi cổng, hơi bí mật.
Bên giường nệm của cha, cậu Hai đi tới đi lui, tay cầm ngọn đèn sáp. Cậu đốt vào đầu ngón tay, vào lòng bàn chân của cha. Hỡi ơi! Da thịt người chết... đã chết thật. Nó không phồng lên, giộp da, chứa đựng nước giữa da và thịt. Bàn chân người chết không cựa quậy, mất tất cả cảm giác khi ngọn lửa châm vào.
Cậu Hai tắt ngọn đèn sáp. Ông đại hương cả đến, gương mặt thiểu não. Lẽ dĩ nhiên, ông đại hương cả sẵn lòng giúp đỡ cậu Hai trong việc tẩn liệm và tống táng. Trong một phút xúc động, cậu Hai ngỏ ý rót rượu dâng cho ông hương cả và lạy tạ, cám ơn ông trước khi ông ban ơn. Ông đại hương cả nói:
- Cậu Hai nên lo"giàn ngoài". Lúc bình sinh, ông cai tổng giao thiệp rộng, quen biết nhiều người, có ơn nghĩa qua lại. Ðây là đám tang của người làm"chức việc". Tất cả hương chức hội tề mười làng trong tổng sẽ tới bái điếu, quan chủ quận, quan chánh tham biện chủ tỉnh nữa.
- Cháu hứa... báo hiếu tận tình.
Nói cong, cậu Hai trao cho ông đại hương cả một số tiền để mua sắm các dụng cụ cần thiết. Cậu ra khỏi cổng, trong khi cô Ba từ ngoài cổng bước vào sân nhà. Hai anh em lườm nhau, không nói.
Tư Tề là người chuyên lo tống táng ở xóm Cù Là. Năm ấy, Tư Tề gần năm mươi tuổi. Tư Tề lo tống táng, không lấy tiền thù lao. Dưới quyền ông ta, có gần hai mươi cậu thanh niên lực lưỡng, bọn này được tập dượt kỹ lưỡng về kỹ thuật khiêng quan tài ra khỏi nhà, đưa quan tài lên nhà vàng rồi hạ huyệt... một cách êm thắm.
Tư Tề mừng rỡ, đến nhà bọn đệ tử, thúc hối:
- Tụi bay chiều nay tới nhà tao để tập dượt. Ông cai tổng Hanh là người quá mập. Tụi bây dư hiểu: khi chết rồi, vài ba ngày sau, cái xác con người nặng thêm gấp đôi, gấp ba. Lại còn cái quan tài bằng cây trai Phú Quốc. Nặng lắm phải đủ mười sáu đứa mới mong khiêng nổi. Nếu làm xong phận sự, bọn mình được thưởng và được tiếng... thơm lây. Quan chủ quận, quan chánh tham biện và hương chức hội tề của mười làng trong tổng này tới chứgn kiến đó. Cô Ba tới gặp mặt tao, nhờ tao lo dùm. Chôn thật gấp. Chắc là ngày mai, ngày mốt.
Bọn đệ tử của Tư tề chưa phải làđô tuỳ (đạo tỳ) chuyên nghiệp. Tư Tề muốn bắt chúng nó tập dượt suốt đêm. Trước khi thực hiện kế hoạch, ông ta vào quán mua năm lít rượu đế, đưa ra tấm giấy bạc"con công" - năm đồng - số tiền to tát thời bấy giờ. Bỗng nhiên, cậu Hai bước vào quán, nói to:
- Tư Tề! Tiền đâu nhiều dữ vậy?
Tư Tề hơi sửng sốt. Mọi khi, cậu Hai tỏ ra rộng lưỡng đối với kẻ dưới.
Tư Tề đáp, thật thà:
- Dạ, của cô Ba gởi cho tôi. Tôi mua rượu để anh em đạo tỳ tập dượt gấp.
Cậu Hai bỉu môi, cười dòn:
- Cô Ba ngu dại quá, xài tiền không nhằm chỗ.
Người trong quán ngồìm. Tại sao cậu Hai tỏ ra keo kiệt lúc tang gia bối rối? Số tiền năm đồng bạc này chưa phải là nhiều, chưa xứng đáng với công lao của Tư Tề. Cậu Hai nói tiếp, không nhìn vào mặt Tư Tề:
- Cho nó uống rượu, ăn vài miếng thịt vụn là nó khiêng dùm. Tụi dưng quan, tụi đô tùy ưa rượu thịt. Hễ thấy có đám ma là mừng như kiến, như ruồi thấy mật mỡ. Không mời, tụi nó cũng năn nỉ mà bò tới...
Bị chạm tự ái. Tư Tề nói bâng quơ:
- Vậy thì tụi nầy nằm nhà ngủ chơi...
Cậu Hai bước ra khỏi quán.
Chờ khi cậu Hai khuất dạng. Tư Tề lắc đầu nói ba hoa với cử tọa:
- Ðể cho xác cai tổng Hanh hôi thúi tại nhà... mới hả giận tôi. Bà con nghĩ coi. Cô Ba tử tế bao nhiêu thì cậu Hai phách lối bấy nhiêu.
Lão chủ quán mỉm cười:
- Rắc rối lắm. Cậu Hai có tâm sự riêng. Thôi, ông về đi. Chừng nào họ cần tới mình thì mình tới.
Ngày thứ nhì: Xác cai tổng Trần Hanh còn nằm trên giường trong khi ông đại hương cả đi ra đi vào, thúc hối:
- Cậu Hai đừng làm vậy! Ông cai nhắm mắt rồi, con cháu nên sống thuận thảo. Không khéo, ông cai trở mình dưới mộ. Ổng trở mình, cậu ơi!
Cậu Hai đáp:
- Tức mình lắm, bác ơi. Trước khi nhắm mắt, ba tôi còn giấu hai mươi lưỡng vàng trong tủ, do con Ba giữ chìa khoá. Hồi khuya này, con Ba cho biết: trong cái hộp vàng không còn... lưỡng nào cả. Tôi hỏi tại sao? Con ba gẫy gỗ với tôi...
Cô Ba chạy vào:
- Anh đừng nói bậy. Anh là con trưởng nam. Ba để tất cả của cải cho anh. Em là gái, nào biết chuyện gì?
- Mầy không đưa vàng ra thì tao không đồng ý tẩn liệm.
Cuộc trang chấp kéo dài cho đến hừng sáng. Cậu Hai đành nhượng bộ. Mãi xế chiều, bao nhiêu nguyên liệu tẩn liệm đã chuẩn bị đầy đủ. Cái quan tài bằng cây trai đã nằm giữa nhà, nơi phòng khách. Ông đại hương cả thở dài:
- Khổ quá. Chờ đợi quá lâu, bác e rằng nó bay mùi.
Cậu Hai thấy ngoài sân, nơi che rạp, đã xuất hiện quá nhiều thân hào. Họ chờ đợi để phúng điếu bằng... tiền bạc. Số tiền nầ, nhứt định cậu nắm giữ. Cậu nói:
- Xin bác điều khiển tẩn liệm.
Ông đại hương cả nói:
- Phải tẩn liệm cẩn thận. Bác coi rồi... Ðiệu này khó xong.

Bên cạnh quan tài, một số gia nhân lo quết một mớ ổ muối, quết thành bột mĩn, đem trộn với cháo nếp. Họ dùng thứ "xi măng" ấy trét vào đáy quan tài, nơi mấy tấm ván ráp với nhau. Trong đáy hòm, còn đổ thêm một lớp tòng chỉ (nhựa thông). Hằng trăm cái kèn đã cuốn sẵn chất đống. Kèn là những gói giấy bên trong chứa gòn. Gòn là chất rút nước, thứ nước từ xác chết xảy ra khi bị biến chất...

Ông đại hương cả lật quyển lịch để xem ngày, xem giờ. Ðã từng sống nhiều năm, ông đại hương cả dư biết sự tranh chấp giữa hai đứa con ông cai tổng Trần Hanh. Cô Ba muốn làm lễ tống táng thật sớm để rồi sau đó, cô ra chợ Rạch Giá, với số vốn hai chục lượng vàng và khá nhiều bạc mặt do ông Cai tổng để lại. Cậu Hai muốn kéo dài thời gian, để quàn cái quan tài lại nhà hòng làm áp lực với cô Ba. Ðồng thời, vì phương tiện giao thông và phương tiện báo tin khó khăn, cậu Hai tin chắc: "nếu quàn suốt nửa tháng thì vẫn còn vô số thân bằng quyến hữu đến điếu. Tổng cộng số tiền ấy... tính đổ đồng mỗi người năm đồng..."
Theo phe nào bây giờ? Ông đại hương cả nói, lưỡng lự:
- Ngày nào cũng tốt, ngày nào cũng xấu. Khi nào cậu Hai và cô Ba đồng ý thì tôi xem giờ để chôn cất. Bởi vì trong ngày tốt có giờ xấu, ngày xấu nhưng nếu động quan nhằm giờ tốt thì mọi sự bằng an.
Xác ông cai tổng đã buộc lại, tấn ém kỹ lưỡng. Số kèn bông gòn dường như dư dùng vì xác ông cai choán gần trọn cái lòng quan tài. Bọn gia nhân trèo lên nắp quan tài, nhún nhảy để ém xuống, trước khi đóng bốn cái khoá sắt: nó giống như bản lề cửa. Nắp quan tài trở thành cái cửa không bao giờ mở ra được vì có đóng bản lề ở hai bên. Ðinh đóng thật chắc, được kiểm soát cẩn thận. Rồi thì nhang đèn cháy không dứt. Dưới quan tài ngay đầu và chân ông cai tổng, bọn gia nhân thay phiên nhau ngồi, đốt liên miên nào vàng bạc, nào bạch đàn, huỳnh đàn. Trước quan tài, đỉnh lư trầm toả khói, bức ảnh ông cải tổng được chưng trên bàn thờ. Qua làn khói người ta thấy dường như bức ảnh biết cười, biết nhăn nhó... mờ mờ nhân ảnh.
Ngày thứ ba: Cô Ba rót rượu mời ông đại hương cả ngõ ý thúc hối:
- Ðể như vầy, cháu đau khổ quá. Thấy cái quan tài, cháu cầm lòng không đậu... Anh Hai của cháu muốn quàn cái quan tài chờ khi nào cháu đem mấy chục lượng vàng ra chia với ảnh, chừng đó ảnh mới cho động quan. Làm sao có đủ vàng? Ba cháu đâu thương con gái bằng con trai...
Ông đại hương cả gật gù:
- Cháu đừng lo. Chôn sớm mà!
Cô Ba chắp tay, cảm tạ tấm lòng ông đại hương cả. Ðến trưa, ông đại hương cả ngủ lim dim chợt nghe tiếng gọi. Ông mở mắt nhìn. Đó là thầy hương quản làng Giục Tượng. Thầy ta đến làm lễ điếu, mặc áo dài, đội khăn đen trông thật chỉnh tề nhưng gương mặt tái mét:
- Ông đại hương cả! Mệt quá. Tôi nín thở mà lạy. Nó... có mùi rồi.
- Thôi đừng nói, thầy có thể qua nhà khác mà ở tạm cho khỏe khoắn, chờ ngày du dua đám...
- Chừng nào lận?
- Ðừng lo. Cũng gần ngày rồi.
Ðột nhiên, bọn gia nhân nói lên một lượt rồi rời bỏ phòng khách.
- Ðứt néo!
Cậu Hai lắc đầu, đến cầu cứu với ông đại hương cả:
- Bác... giúp cháu. Ðứt néo là làm sao! Tụi gia nhân này... chó chết quá.
Vừa lúc ấy, cậu Hai bắt gặp một thứ mùi khó chịu. Ông đại hương cả lấy khăn che mũi:
- Ðứt néo là cái quan tài xì hơi.
Cậu Hai cằn nhằn:
- Tại trét không cẩn thận.
- Cháu đừng nói bậy mà anh em chòm xóm họ giận. Xưa nay hễ lúc quàn quan tài trong nhà mà anh em xích mích gây gỗ để chia của thì người chết trở mình trong quan tài, sanh ra chuyện đứt néo. mấy cái bản lề còn nguyên nhưng nó xì hơi ở dưới đáy quan tài, nó xì hơi và nó xì ra... nước!
Cậu Hai bước tới nghiêng mình lên bên quan tài. Nước nhểu nhểu từ đáy quan tài xuống nền gạch, thứ nước xanh lè và sôi bọt.
- Trời! Làm sao bây giờ bác? Tất cả mười làng, hai ngày rày, mới có năm làng tới điếu. Còn năm làng nữa, ở xa xôi. Nhứt là mấ người bà con ở ngoài Hòn Tre, sóng gió bất thường, làm sao họ vô trong đất liền được? Ðứa em gái tôi thì ngỗ nghịch. Hổm rày tốn hao khá nhiều. Tiền mua quan tài, tiền rượu thịt... Nếu không gom góp tiền bà con đi điếu thì khó bề xoay xở...
- Cậu đừng lo. Người ta chạy tứ tán hết rồi. Ở đây thanh vắng. Cậu lại gần quan tài kiếm cái nùi giẻ, chùi cho khéo léo. Cậu nhớ nghiêng mình, lom khom... cho thiên hạ tin lời của tôi.
Ðám khách khứa ăn uống đã kéo nhau đến gần mé sông để đổi gió. Ông đại hương cả gọi:
- Bà con ơi! Hế rồi! cứ vào đây cho ấm cứng. Bà con dư biết: hễ xảy ra chuyện đứt néo thì con cái le lưỡi mà liếm để chịu tội với người trong quan tài. Cậu Hai là đứa con chí hiếu dám làm chuyện ấy.
Các quan khác vào trong. Họ thấy cậu Hai và cô Ba đang quỳ lạy, xin lỗi cha. Theo lệnh ông đại hương cả, bọn gia nhân đem thêm bạch đàn, huỳnh đàn, cây tóc... quăng vào lư đồng. Khói bay cuồn cuộn, trở thành bức trường thành ngăn cản luồng ám khí từ quan tài bốc ra. Tuy màn khói khá dày, khá thơm nhưng thỉnh thoảng vài người"thính hơi" đã nín thở. Dường như luồng ám khí tuôn ra từng đợt.
Ðêm ấy, quan khách chạy tán loạn, đâu vào khoảng canh tư. Ông đại hương cả giải thích với cậu Hai:
- Hễ đứt néo một lần thì nó đứt hoài, độ ba giờ đứt một chập. Ðốt trầm hương là chuyện tạm thời, có lỡi gần nhưng có hại xa. Mùi trầm hương đánh tan, che khuất làn hơi ô uế, đã đành. Ngặt nó nóng quá, làm cho người trong quan tài mau"trở mình" . Cháu lo liệu là vừa. Ngày mai này, nếu đốt trầm hương tới xế trưa thì hơi lửa, hơi nắng dồn lại, ắt không chịu nổi.
Ngày thứ tư: Tư Tề nằm trằn trọc, đau khổ như kẻ có tài nhưng chưa được dịp thi thố. Ông ta uống rưọu khan, một mình. Nếu cậu Hai đừng ăn nói hỗn hào thì ông ta đã tình nguyện biểu diễn, là lễ động quan. Ông ta nhớ những giờ phút oai hùng đã qua: đám đô tùy cắm cây nhang trong miệng quỳ xuống lậy như con ếch, theo hiệu lịnh. Rồi ông ta xung phong phá quàn. Cái quan tài quàn trong nhà lâu ngày thì luôn luôn có ma quỉ kéo níu. Ông ta làm phận sự"dưng quan," tức là giành giựt cái quan tài, chống bọn ma quỉ, để đem quan tài ra khỏi nhà. Trên nắp quan tài ông ta yêu cầu chủ nhà đặt một miếng vàng bạc, trên miếng vàng bạch, có chén rượu tràn đầy. Dưới sự điều khiển âm thầm của ông ta, bọn đô tùy khiêng quan tài , khiêng ngay ngắn, không lắc qua lắc lại. Chén rượu không bao giờ nghiêng, rượu nằm im trong chén, miếng giấy bạc vẫn khô ran. Khó nhưng mà dễ! Cứ rót rượu đầy chén vì chén đầy thì ít lúc lắc. Và lúc cầm ngọn đèn sáp để múa men đánh với bọn ma quỉ, ông ta đã khéo léo cho nhểu một giọt sáp vào chén. Giọt sáp ấy đóng vai trò những nhánh cây mà ngưòi gánh nước giếng thường bỏ vào thùng, để nước ít xao động.
Phèn la và trống nổi lên inh ỏi!
Tư Tề thức dậy, tức giận:
- Úy! Mình tẩy chay đám ma này rồi! Ai dám lãnh công việc động quan...
Vài người đi rộn rịp trước nhà Tư Tề. Họ bàn tán:
- Hay lắm. Bà con lối xóm dám liều mạng, bất chấp bịnh tât, tới nhà ông cai tổng lo dùm cậu Hai. Ðể lâu ngày, hơi độc bay ra, cả xóm phải mắc dịch. Ở đầu xóm, cách xa năm bảy trăm thước mà ... mùi bay nhức đầu. Cái hòm bị đứt néo liên miên, chảy nước vàng nước xanh... linh láng.
Tư Tề chạy ra sau hè đi xem "người ta không mời mình tới làm gì." Trên con đường lộ xe, tức là con lộ mang tên thầy Cai, hàng chục thanh niên xỏ đòn ngang, đòn dọc để khiêng quan tài. Mỗi cây đòn dài chừng năm sáu thước, xỏ qua xỏ lại trên vòng dây. Cái quan tài trở thành cái bánh xe, mỗi cây đòn là một cây căm tua tủa. Gió thổi mạnh. Bọn người khiêng quan tài và bọn người đưa đám đều tỏ ra khôn ngoan, hiểu tình thế.
Cái quan tài di chuyển theo hướng gió xuôi, vì vậy, mùi ô uế luôn luôn bay về phía trước. Ðôi khi gió trở ngọn, bọn đô tùy dừng chân, xoay tròn một chỗ. Ðám quan khách cũng xoay tròn để tránh hơi ô uế. Hễ đi được vài chục bước, bọn dod6 tùy như bịn rịn, để quan tài xuống đất. Quan tài bằng cây trai, chứa đựng một người to xác đâu phải là nhẹ. Khi quan tài vừa dudụng mặt đất là bọn đô tuỳ và quan khách chạy dang xa. Cái quan tài nằm cô độc như cục đá, thiếu bóng cây tùng, con cò còn hạc. Lát sau, bọn đô tùy xáp vô, khiêng quan tài lên. Gió lại thổi. Bọn đô tùy xoay trở theo hướng gió. Họ di chuyển theo đường gãy đường con để tránh các hiểm hoạ mất vệ sinh. Lúc thì đầu quan tài đi trước, lúc thì chân quan tài đi trước.
Sau rốt, gần tới huyệt. Cái quan tài được di chuyển theo bề ngang, như con cua bò. Một tràng pháo nổ đì đẹt, vài tiếng súng nổ, ấy là mấy người lính mã tà do làng sở tại phái đến làmlễ hạ gộng .
Từ Tề lủi thủi đến nhà ông cai tổng Trần Hanh, không vui, không hối hận. Gian nhà vắng vẻ quá. Tại gian nhà để xe hơi, Tư Tề nghe tiếng lụp cụp. Năm sáu đứa bé xúm nhau trèo vào xe, cầm tay lái, lúc lắc. Chúng nó bắt chước ông cai tổng hồi thời nào: đạpga xăng , bóp kèn nhưng ga xăng không rồ, kèn thì kêu te te. Tư Tề quát to:
- Tụi bây không sợ ổng bắt hả?
Khi lũ trẻ chạy tán loạn. Tư Tề đến nhà xe, nhìn trước nhìn sau rồi vặn cái nắp đậy bình xăng, cái nắp có gắn hình đầu con đầm mọc cánh. Tư Tề nhủ thầm:
- Xe hư rồi, để cái hình này cũng vô ích. Mình đem về để dành, lén lén coi chơi. Vài chục năm nữa, mình gắn nó lên hòn non bộ, coi cũng sướng.
Hai viên ngọc
Ông hội đồng Tần khi trở về già sống quanh quẩn trong gian phòng thiếu cửa sổ, suốt ngày sờ mó mấy cái tô, cái chén đời Khang Hy, Càn Long. Và mỗi đêm, trước khi ngủ, ông mở tủ sắt, đem ra chiếc hộp nhỏ cẩn xả cừ.
Sau khi đóng kín cửa phòng, ông từ từ mở nắp hộp, kiểm soát một lần chót mấy viên ngọc xanh, ngọc vàng, ngọc tím. Ông nâng một viên ngọc trắng tuyệt, tròn như chiếc nhẫn, để gần dod6i mắt tèm hem. Trong kho tàn của ông chỉ món ấy là quý nhứt.
Tục truyền đó là viên ngọc phòng thân của tướng Tôn Thất Hiệp - vị quan võ đàng cựu, thuộc hoàng tộc - được lệnh vua Tự Ðức kéo binh từ Bình Thuận tới đánh chiếm đồn Khải Tường - Ngoại ô Sài Gòn - Ðã lọt vào tay thực dân Pháp.
Trong một trận xung phong mãnh liệt, tướng Tôn Thất Hiệp tử thương. Nhiều người tỏ vẻ bi quan, cho rằng viên ngọc ấy chẳng có giá trị, thay vì hộ vệ chủ, nó trở thành sát chủ.
Tuy nhiên nhờ viên ngọc phòng thân ấy mặt của ông Tôn Thất Hiệp vẫn tươi rói, xác ông cứ điềm nhiên như người đang ngủ mê. Mãi đến bốn ngày sau, quân sĩ liệu chừng vị tướng soái khó bề hồi sinh nên đành tẩn liệm di hài, chở về Huế để mai táng. Một gia đình quí tộc ở An Nhơn đã thừa chơ hội lén trộm viên ngọc ấy.
Rồi kẻ trộm đã khoét vách vào phủ thờ của kiến họ nói trên. Dịp may. Ông hội đồng Tần mua lại với giá cao, tương đương với một trăm giạ lúa vào khoảng năm 1940.
Bàn tay ông hội đồng đặt nhẹ viên ngọc quý ấy lên miếng gấm lót đáy hộp. Ông gật đầu, mỉm cười một mình với hy vọng xa xôi. Vài năm nữa, trước khi mãn phần, ông sẽ nuốt viên ngọc vào bụng (nếu đeo trước ngực thì biết đâu có kẻ sẽ đánh cắp). Xác của ông nhờ vậy mà bền vững với thiên thu...
Ngoài cửa có tiếng động.
Ông hội đồng giựt mình, nghĩ đến trường hợp bọn gian phi xông vào nhà, cướp giựt mấy món cổ ngoạn.
Ông hỏi:
- Ai làm gì vậy?
Người lão bộc nói khàn khàn:
- Thưa ông, khách tới.
Giọng của lão bỗc vẫn tự nhiên. Nhưng ông hội đồng nghiêm mặt, chưa vội tin.
Như đoán được ý của chủ, người lão bộc lại lên tiếng:
- Thưa ông, ông chủ Hai ở Hà Tiên mới tới.
Ông Hội đồng vững bụng, bước lại mở cửa thật nhanh. Ông chủ Hai vốn là người bạn cố tri của ông. Từ Hà Tiên, ông bạn già chịu khó tới đây, ắt có chuyện quan trọng, lý thú.
- Ông anh ở Hà Tiên mới tới hà? Chờ tôi một chút.
Giọng ông chủ Hai trả lời:
- Tôi đây mà! Xe đò hư máy, bể vỏ nên tới trễ. Tôi lật đật lại đây...
Ông hội đồng vặn cái hột xoài ngay ở khoá rồi bước ra:
- Mời ông anh lại xa lông uống nước trà, chờ bầy trẻ lo cơm nước.
Chủ Hai lẩm bẩm nhìn xéo về phía người lão bộc:
- Ồ! Ðể ông già này xuống bếp lo cơm nước. Tôi hơi mệt muốn nằm trong phòng cho ấm cúng hơn. Vả lại, công việc này hơi dài dòng...
Cửa phòng khoá chặt trở lại như trước. Ông hội đồng đề phòng"tai vách, mạch rừng." Ðôi bạn già nheo mắt:
- Chuyện gì dài dòng, quan trọng dữ vậy? Uống tách nước trà này rồi ông anh nói cho tôi nghe gấp. Chuyện ở Hà Tiên hả?
Ông chủ Hai cười khẽ:
- Tôi đố ông anh đoán ra. Bạn già với nhau, giống nhau ở điểm đó...
- Ðiểm gì? Nói mờ ớ hoài. Thôi, tôi chịu thua. Chắc là tôi chén đời Khang Hy.
- Trật rồi. Món đồ quý giá vô ngần, đông tây kim cổ...
- Chắc là ông đã gặp một viên ngọc quý giá?
Ông chủ Hai gật đầu lia lịa:
- Ông anh đoán tài tình lắm. Người ta vừa điềm chỉ cho tôi một viên ngọc trường sinh kỳ kiệu. Ông anh chẳng bao giờ nghĩ tới công dụng lạ lùng của nó. Công dụng rõ rệt, thiết thực không phải mơ hồ như mấy loại ngọc kỵ phong, kỵ thuốc độc hoặc bắn không lủng da thịt.
Bàn tay ông hội đồng Tần mải mân mê điếu thuốc Gò Vấp vấn chưa xong. Vừa rồi, ông chủ Hai cố ý hài hước, nhắc đến viên ngọc phòng thân của tướng Tôn Thất Hiệp. Ðể chứng tỏ sự hiểu biết khá rộng rãi của mình, ông hội đồng Tần cố vận dụng trí nhớ, nói thao thao bất thuyêt về con đường gay go mà mấy nhà chơi đồ xưa đã trải qua. Ngọc quý ở Việt Nam gồm nhiều loại...
Nào là ngọc như ý, loại đá cẩm thạch màu xanh, chạm nổi hình con giao long, hình dáng ngọc như ý giống như cây cù ngoéo để các vị vua chúa dùng gãi ngứa sau lưng.
Nào là ngọc lam quỳnh, tròn cỡ ngón tay cái, trong ruột khét bộng, chứa thuốc độc. Thời xưa, các vị đại thần hoặc sứ giả thường đeo nó ở ngực, phòng khi cần hy sinh, giữ tiết tháo. Gặp trường hợp khẩn cấp, các ngài đem viên ấy ra, mở nút mà uống để quyên sinh thung dung trực nghĩa.
Sau rốt, ông hội đồng Tần lắc đầu:
- Thôi, tôi chịu thua ông anh. Viên ngọc quý mà ông anh nói tới thuộc vào loại gì? Tôi suy nghĩ không ra. Ai có loại ngọc đó? Liệu chừng họ bán cho tôi không?
Ông chủ Hai bắt đầu trình bày:
- Gần đây mấy ông Tây tới núi Ba Thê để bòn vàng tại gò Óc Eo, đền vua hồi xưa, cách đây mấy ngàn năm.
- Tôi biết tin tức đó rồi. Sao nữa?
- Ở núi Ba Thê, người ta tìm trong ngôi mộ xưa, gặp viên ngọc trường sinh.
Ông hội đồng Tần hơi thắc mắc:
- Ai dám bảo đ3m giá trị của viên ngọc đó. Nếu trường sinh thì tại sao chủ nhân lại chết trong ngôi mộ cổ đó?
- Xin ông hội đồng bớt nóng nảy. Ở xóm Lê Trì, có người Miên đi núi Ba Thê để bón vàng. Năm sáu ngày liên tiếp, anh ta chẳng gặp móng gì ráo. Ðến chừng nghe đồn rằng thiên hạ đã gặp một ngội mộ xưa, anh ta đến quá trễ, chỉ còn lượm được viên ngọc màu trắng, lọt trong lòng ngực của người chết. Chắc chắn xưa kia viên ngọc được chủ nhân đeo trước ngực, đến chừng thịt nát thì nó lọt vào trong.
Cúi cùng, anh nọ lượm viên ngọc, đem về xóm Lê Trì, bỏ lăn lóc trong cái chén trên bàn thờ.
- Rồi làm sao ông anh gặp? Nó trường sinh ở điểm nào?
- Một người hương ấp ở Lê trì lên Hà Tiên làm công tại lò vôi của ông Bang Sầm đến mách bảo riêng cho tôi hay. Lập tức, tôi đến nơi xem tận mắt.
Nó tròn cỡ ngón tay cái, khuyết một bên nhưng điêù ấy không quan hệ. Thấy viên ngọc nó có tì vết, móp méo, tôi xin phép chủ nhà đi rửa ráy cho sạch.
Trời ơi! Nó cứng hơn đá. Tôi mài thử vào nắp lu. Nắp lu bị hao mòn. Tôi rưới nước vào, hy vọng rằng làm viên ngọc sẽ mềm "ăn" vào chất nhám. Nhưng tôi thất vọng, đem trả cho chủ. Chập sau, tôi nằm ngủ dưỡng sức, chờ chuyến xe lôi để về Hà Tiên. Ngủ xong, tôi thúc dậy.
Ông hội đồng tần chẳng còn bình tĩnh được nữa.
- Chuyện ngủ, chuyện thức của ông sao mà dài dòng vậy? Thế gian này ai ngủ mà không thức, trừ người chết.
Ông chủ Hai cười dòn:
- Cái việc thức giậc của tôi thật là mầu nhiệm, phi phàm, đáng giá ngàn vàng. Sau khi thức, tôi đi rửa mặt. Tôi đứng bên cạnh lu nước, cầm cái gáo dừa. Bỗng nhiên, hai chân tôi ngứa ngáy khó chịu. Tôi dòm xuống, thấy một bầy kiến lửa; nó bụ vàng lườm ngay chỗi tôi mài thử viên ngọc lúc nãy, nó sắp hàng bò tới bò lui, từ nắp lu tới ngoài vườn. Kiến lửa ơi là kiến lửa. Tôi sanh nghe, trở về nhà mượn viên ngọc của gia chủ để trong chén rồi rót nước mưa vào. Rõ ràng hạt ngọc méo mó nọ có chất ngọt, uống vào thì mát mẻ, bổ khỏe như nước dừa xiêm Bến Tre.
- À! May quá...
Sau bữa cơm thịt gà xé phay, ông chủ Hai và hội đồng tần nằm kề nhau, rù rì như dod6i tri kỷ quá tương đắc. Lát sau, chủ Hai ngủ khò. Nhưng ông hội đồng Tần khó dỗ giấc ngủ. Lâu lâu, ông đánh thức người bạn già, dọ hỏi về cách thức ngoại giao với người chủ viên ngọc, phỏng định giá cả. Rốt cuộc, hai người đồng ý tranh thủ thời gian lên đường vào ngày mai, theo chuyến xe đò sớm nhứt.
Ông hội đồng hỏi:
- Nhà của nó ở đâu? tới hay chưa? Nó tên gì? Nó giàu hay nghèo? Tôi hồ nghi nó sẽ làm giá thật cao. Hoặc có kẻ nào đến đó phổng tay trên thì mình hụt đỏi.
Chủ Hai gật đầu từng chập:
- Ðừng lo xa. Bữa hổm, tôi căn dặn kỹ lưỡng rồi. Chủ nhà là người đã từng chịu ơn tôi hồi chầu xưa.
Hai người qua cây cầu khỉ, đến miếu ông Tà rồi theo đường mòn giữa hai hàng tre già mát rượi. Ông hội đồng vô cùng sung sướng, vì mình như kẻ"đạp tuyết tầm mai" mùa đông. Ông tưởng tượng đến những giờ phút mãn nguyện khi"viên ngọc nước dừa" nọ lọt vào tay mình. Chắc chắn là vị thuốc bổ khoẻ cứ mỗi buổi trưa nóng nực, ông chỉ cần bỏ viên ngọc vào chén, đổ nước lạnh vào để bào chế ra thức nước dừa, hiếm có nước cam lồ thứ thiệt.
- Ðây rồi. Nhà này - ông chủ Hai vừa nói vừa nắm tay ông hội đồng.
Sau vài câu xã giao thường lệ, ông chủ Hai đi thẳng vào vấn đề:
- Chú em? Cục ngọc bữa trước còn không?
Chủ nhà lặng thinh, gài nút cổ áo cho ra vể khiêm tốn, lễ phép. Ðôi mắt ông hội đồng Tần cứ nhướng lên, hướng về phía bàn thờ đê tìm cái chén to, trong đó có viên ngọc quí giá. Lạ quá. Mái nhà thấp chủn, trời tối om om. Cái lư nhang nằm đó trơ trẽn. Có tiến thằn lằn chắt lưỡi. Dưới bếp, mùi mắm bò hóc xông lên, khó thở.
Hồi lâu, chủ nhà mới khai khẩu:
- Cục ngọc nào? À, tôi nhớ rồi. Phen đó tôi đã thuât đầu đuôi cho ông nghe đó hả? Rồi chủ nhà nhìn về ông chủ Hai:
- Ờ... Ờ... để coi. Một người bạn của tôi mượn nó, đem về Mỹ Lâm. Tôi chờ ông lâu quá. Vài ngày nữa, chắc người bạn đem về đây...
Ông Hội đồng Tần hỏi gắt:
- Vài ngày là bao lâu?
- Dạ, đường xá xa xôi...
Ông hội đồng nghĩ đến thủ đoạn làm già nên mở lời:
- Trời! Sao không để dành cho tôi xem. Tôi biết mà"ngọc lành chờ đợi giá cao," người xưa thường nói. Tôi đến đây xem thử và sẳn sàng chuộc nó với bất cứ giá nào. Ông chủ nhà cứ nói thiệt đem cho tôi xem thử liền bây giờ. Tôi là bạn thân của anh chủ Hai chớ nào phải kẻ xa lạ mà ngại ngùng.
Chủ nhà như không lưu ý đến lời thỉnh cầu tha thiết ấy. Ông ta thong thả xuống nhà bếp, thúc hối vợ con bắt gà làm thịt, đãi khách qúi.
Ông chủ Hai gật đầu:
- Thiệt mất công quá. Dường như chủ nhà muốn đãi khách để tống khứ, phải không ông anh? Hay là mình đi qua Mỹ Lâm, cách đây chừng chục cây số thôi.
Rồi ông gọi chủ nhà:
- Tại sao chú không chờ tôi tới?
- Dạ, tôi không ngờ. Người bạn nọ dường như muốn xem thử để... so sánh.
Ông hội đồng trố mắt:
- So sánh cái gì? Người đó cũng có một viên ngọc khác nữa à? Bòn ở núi Ba Thê?
Chủ nhà thở phào, nhẹ nhõm:
- Dạ... anh bạn đó tiểu nhântìm vàng ở núi Ba Thê một lượt với tôi. Anh ta ghé nhà người quen để ăn cơm. Ăn cơm xong, trời sẫm tối, chuyển mưa đông. Vì nóng lòng muốn tới núi Ba Thê cho kịp với thiên hạ, anh bạn bất chấp mưa gió, đội nón lá, mặc áo tơi ra sân. Bỗng đâu, anh ta thấy nhiều tia sáng chóp loè, từ dưới đất chớp ngược lên trên trời. Ảnh đi phăng tới, gặp trong bụi tre gai một viên ngọc. Quí giá vô song...
Chủ Hai nói:
- Ủa! Mầu nhiệm quá vậy? Nó quý như viên ngọc nước dừa không?
Chủ nhà nheo mắt:
- Dạ, thứ khác. Tại gọi là"ngọc chớp" !
Miệng ông hội đồng Tần há hốc: dè đầu ở thế gian này còn nhiều loại ngọc kỳ dị, có công dụng thiết thực hơn ngọc lam quỳnh, ngọc như ý mà ông gìn giữ trong cái hộp cẩn xa cừ. Ông hỏi gắt:
- Nó chớp thiệt hay không?
Chủ nhà mỉm cười:
- Dạ, chớp thiệt. Tôi xin lấy một thí dụ. Từ khi gặp viên ngọc chớp, gia đình người bạn tôi sanh thêm tật ăn cơm chiều hơi trễ nải. Cơm dọn ra, gia đình ngồi chung quanh mâm, không cần đốt đèn cho sáng. Vì họ để cục ngọc đó ở mâm. Ánh sáng do viên ngọc đó chớp ra... nào kéo ngọn đèn con cóc!
Hôm sau, hai người cám ơn gia chủ, lên đường tìm ngọc nước dừa và ngọc chớp ở tận Mỹ Lâm, theo địa chỉ rõ rệt.
Người chủ nhà ở Mỹ Lâm tỏ vẻ thản nhiên, chẳng thèm mời hai ông khách quí vào nhà. Vừa cắt cỏ cho trâu ăn, ông ta vừa nói:
- Anh sui của tôi ở chợ Rạch Giá tới đây, mượn hai viên ngọc đó đem về coi chơi.
Nhà anh sui dễ kiếm lắm. Tại xóm Bánh Tằm, Cầu Ðúc, hỏi tên Năm Hến.
Nỗi thất vọng hiện rõ rệ trên gương mặt ông hội đồng Tần. Thế rồi, ai lo phận nấy. Mối tình tri kỷ dường như sứt mẻ. Ông hội đồng cảm tạ chủ nhà rồi day qua ông chủ Hai:
- Cám ơn anh bạn đã có công điềm chỉ. Coi bộ gay go quá. Thiệt là"kỳ nhông là ông kỳ đà, kỳ đà là cha cắc kè, cắc kè là mẹ kỳ nhông..."
Ông chủ Hai nói, giọng buồn buồn: - tôi nói bằng sự thật. Tiếc vì tuổi già sức yếu, công việc làng xã còn bề bộn. Tôi cần về Hà Tiên, ông anh chịu phiền vậy...
Hội đồng Tần nói gắt:
- Tôi đi tới cùng cho biết đá biết vàng. Một mình tôi, tôi đi. Thử xem thời thế ra sao?
Ðây, chợ Rạch Giá, xóm Bánh Tằm, gần Cầu Ðúc, nhà lão Năm Hến. Trước còn bỡ ngỡ, sau đến chỗ thân mật. Ông hội đồng nài nỉ hết lời:
- Giấu giếm làm gì? Tôi muốn coi cho biết mặt hai viên ngọc đó chớ chẳng muốn mua hoặc tịch thâu. Tội nghiệp tôi. Phen này mà thất bại ắt thiên hạ cười dữ lắm.
Lão Năm Hến lắc đầu:
- Uổng quá. Ðối với tôi, hai viên ngọc đó cũng qúi những gìn giữ mà làm gì? Ðời này, ngoài chợ bán thiếu gì nước xá xị, nước dừa tươi. Ðường phố sáng trưng bao nhiêu đèn điện. Tôi cất hai viên ngọc chớp và ngọc nước dừa đó trong cái hộc tủ. Mấy đứa cháu nội của tôi đi học về, lục lạo, lúc tôi ngủ trưa. Tôi hỏi lại mới hay ràng tụi nó dùng ngọc mà bắn"cu li," rớt xuống kinh xáng trước nhà từ lâu rồi!
Bỗng dưng ông hội đồng Tần cười ha hả. Chẳng lẽ đi năn nỉ mấy đứa cháu nội của lão Năm Hến này. Rõ ràng là kẻ thất phu, giá áo túi cơm đang đùa giỡn với ông từ mấy ngày qua. Khó sống quá. Ông hội đồng tự so sánh với một sứ giả thời xa xưa. Nếu có đem theo kiểu hột ngọc đựng thuốc độc, chắc là ông đã uống để quyên sinh, giữ giá trong tiết sạch. Ông nhớ tới cái hộp cẫn xa cừ ở trong phòng. Hay là chủ Hai đã dùng quỉ kế, bày chuyện cho ông đi xa nhà -điệu hổ ly sơn - để thừa cơ hội ấy bó trí tên lão bộc làm nội ứng. Chẳng lẽ chủ Hai lại tàn nhẫn đến thế. Ôi thôi, cái nghề sưu tầm đồ cổ ngoạn mục để làm của riêng, để sống dai, sống khoẻ, để cái xác của mình chết khôn, không bao giờ hôi thúi... là cái nghề bạc bẽo, tuyệt vọng vậy thay!
Ông đứng dậy, nói với Năm Hến:
- Biết tôi cười chuyện gì không?
Lão Năm Hến trợn mắt:
- Làm sao tôi biết được? ông cười cho cái lão, người đời muôn sự của chung hả? Tôi ăn học ít oi lắm.
- Ha ha... Tôi cười vì tôi sẽ làm giàu to.
Lão Năm Hến chưng hửng;
- Ông nói điều gì? Tôi chưa hiểu?
Hội đồng Tần lại mở gói thuốc Gò Vấp hút phì phà, nhìn dòng nước cuồn cuộn dưới kinh, chảy vội vào chân Cầu Ðúc ra biển gần đó.
- Tôi sẽ xin phép quan chánh tham biện chủ tình đấu thầu khúc kinh xáng trước mặt nhà này. Tôi mưới người ta đắp đập ở hai đầu kinh, chận lại đừng cho nước chảy, uổng lắm.
Lão Năm Hến trợn mắt:
- Bộ ông muốn tát nước lên để tìm hai viên ngọc chóp, ngọc nước dừa? Tốn kém lắm. Vô ích. Như mò kim đáy biển.
Ông hội đồng lắc đầu, buồn dùm cho những kẻ phàm tục:
- Mò lên làm chi. Tôi để nó nằm tại đó. Viên"ngọc nước dừa" sẽ pha vào nước. Tôi múc nước lên vô chai, đậy nút bán hàng vạn chai, cạnh tranh với"xá xị," "li mô nách." Còn viện"ngọc chớp" thì cứ chớp hoài suốt đêm, gió thổi không tắt, tốn xăng nhớt chạy máy. Công ty nước ngọt và công ty nhà đèn của Tây phải phá sản vì tôi cạnh tranh với họ mà.
Bầu không khí trở nên trầm lặng. Lát sau, lão Năm Hến nói một câu xa xôi để đuổi ông khách lẩm cẩm nọ:
- Vậy thì đâu có gì lạ. Nước dưới sông bao giờ cũng ngọt xớt, nước Hậu Giang chảy về đây mà. Còn ban đêm, bữa rằm, trăng sáng soi bất cứ nhà ai. Ôi thôi! để tôi lo làm ăn... Ai mà rảnh rỗi như ông!
Cao Khỉ U Minh
Tôi ngả lưng vào gốc cột, nằm lim dim. Mùi rượu đế xông lên khiến mắt tôi lờ đờ, hơi thở bắt đầu nóng như sắp nhiễm bịnh cảm cúm. Ông Tư Huỳnh nói to:
- Thầy Hai bỏ cuộc rồi sao? Ăn thêm nữa chớ. Rừng U Minh thiếu gì cá.
Tôi đáp:
- Dạ, ngán quá. Ăn nhiều sanh bịnh.
- Thầy nói vậy đâu được. Ăn nhiều để trừ bịnh tật. Xưa nay, kẻ ăn ít thường chết sớm.
Ông Tư Huỳnh với tay ra sau lưng đập muỗi, xoè bàn tay lốm đốm máu tươi cho tôi xem rồi tiếp lời:
- Mỗi ngày mình mất bao nhiêu máu, nếu không ăn nhiều để tẩm bổ thì chết luôn. Hơn nữa, mùa này mà nhịn thì đợi bao giờ mới ăn!
Lý luận của ông Tư Huỳnh khiến tôi ngồi dậy, ăn thêm, ăn mãi. Từ phía nhà bếp con gái ông Tư Huỳnh lui cui nướng cá. Chúng tôi đã ăn tuốt năm con cá lóc to, gọi là cá lóc nái, mỗi con nướng chín thơm phức, nằm trên miếng lá chuối tươi. Sau khi dùng đũa xẻ một lằn dưới bụng cá, chúng tôi trải con cá ra, gáp chừng ba bốn đũa là quăng bỏ cái xương sống cá, mặc dầu trong xương còn dính khá nhiều thịt. Ông Tư Huỳnh lãnh phần thanh toán bộ ruột, nuốt gan và mật cá:
- Ồ! Cái mật cá đắmng thiệt nhưng vị đắng đó ngọt xớt, trị bịnh yếu mật. Còn cái đầu cá, ngon lắm, thầy Hai ăn đi. Cứ gắp hai cục thịt ở gò má con cá là đủ. Nghe đâu ở Biển Hồ Nam Vang, người ta đem thú gò má ấy phơi khô, nhậu rượu ngon lắm.
Chập sau, tôi ngán ngẫm, sợ mang chứng trúng thục. Ông Tư Huỳnh nói:
- Chưa hết. Bây giờ mình ăn qua món cá sặc rằn...
Mỗi gắp là bốn hoặc năm con cá, mỗi con sặc to bằng bàn tay xoè, tươm mỡ. Ông Tư Huỳnh mời mọc:
- Ăn thêm nữa đi.
Tôi cầm đũa, chưa gắp miếng cá nào chợt nghe ông nói to với đứa con gái;
- Nướng thêm một chục con cá nữa. Nghe chưa con!
Tôi vội cản ngăn:
- Thưa ông, đủ rồi.
- Chưa đủ đâu, thầy Hai. Ăn nhiều cho đủ sức lực. Bà con xứ này nhờ ăn cá mà khỏi chết vì bịnh rét rừng. Muỗi cắn sanh bịnh rét. Nhưng nhờ muỗi mà cá được mập mạp. Cá U Minh lớn con nhờ ăn muỗi. Tóm lại, vì muỗi mà mình mang bịnh, vì muỗi mà mình có đủ cá để ngừa bịnh...
Vừa rồi, ông Tư Huỳnh vừa dạy tôi cách ăn cá sặc rằn nướng,"mỗi con ăn hai đũa." Ta cứ cầm đũa, giẻ một bên, đưa vào miệng rồi thì trở con cá, giẻ thêm đũ anữa, giẻ xong, cứ quăng cái xương cá... Tôi ngậm ngùi nhìn đống xương cá vun lên khá cao, nếu rỉa cho kỹ, trong đống xương đó còn dính chừng một ký lô cá.
- Mình lãng phí quá, thưa ông.
Ông Tư nheo mắt:
- Ăn theo kiểu ông bà để lại. Ở sau hè này, còn một cái nền nhà xưa, từ đời nào không ai biết. Tôi đào nền nhà đó, tìm vàng bạc. Biết đâu hồi xưa, Gia Long tẩu quốc đã hạ trại đó rồi bị quân Tây Sơn rượt, bỏ quên nhiều món ngọc ngà châu báu. Rốt cuộc tôi gặp từng đống xương cá. Thầy hai hiểu chưa? Hồi xưa, họ ăn như bọn mình từ nãy giờ.
Tôi mang tật hiếu cổ nên mừng quýnh:
- Vậy hả ông? Lát nữa, nhờ ông dẫn tôi ra nền nhà đó.
Ông Tư Huỳnh nói:
- Cỏ mọc um tùm như trước sân nhà này, vậy thôi.
- Nghĩa là rắn ở đó chớ gì!
- Rắn thì không đáng ngại. Chỉ ngại một điều khó nói trong lúc đang ăn...
- Thưa ông, chuyện gì quan trọng?
Ông Tư ghé miệng sát bên tai tôi, nói thật khẽ:
- Mấy cha nội giăng câu, đón củi thường tới cái nền nhà xưa đó mà ... phóng uế. Hôi hám lắm.
Tôi thất vọng, buột miệng nói một câu sầu thảm:
- Uổng quá. Nếu ở xứ khác, có lẽ cái nền nhà xưa đó trở thành nơi quan trọng, được các nhà bác học chiếu cố tới.
- Thầy Hai nói thiệt hay nói chơi đó?
- Dạ, nói thiệt chớ. Mấy đống xương cá vụn đống là những"sử liệu biết nói." Nó ghi lại hình ảnh oai hùng của người... di khai hoang. Và biết đâu, nói đánh dấu những nơi của loài người ở rừng U Minh từ ngàn năm về trước. Ở xứ Ðan Mạch, các nhà khảo cổ đã gặp nhiều đống võ sò vỏ ốc quến cục với nhau, chôn vùi trên bờ biển. Bên cạnh mớ vỏ sò ốc đó còn nhiều thanh củi, tro bếp. Họ phỏng định: xưa kia hồi thời cổ sử, loài người tới đó cư trú... Lại còn nhiều món đồ gốm thô sơ nữa. nếu tìm cho kỹ, biết đâu cái nền nhà sau hè này là...
Ông Tư Huỳnh cười dòn:
- Thầy Hai điên chữ rồi? Thầy muốn nói đó là dấu tích của người Bàn Cổ hả? Ăn cá là kiểu săn bắn, hái trái cây chớ gì?
- Dạ, ông nói đúng. Ở xứ sình lầy, phù sa mộ địa, ngưòi Bàn Cổ bắt cá ăn thay thịt nai, thịt chồn và hái rau rừng ăn thay cho trái cây...
Hồi lâu, ông Tư Huỳnh nói:
- Dễ lắm. Ở xóm này có Hai Khị là người già nua, hiểu rành chuyện xưa tích cũ, ăn nói có đầu có đuôi. Nếu muốn biết về những Bàn Cổ ở rừng U Minh, thầy Hai nên tới thăm Hai Khị một phen. Như vậy chắc ăn hơn là đào cái nền nhà sau hè. Nhưng tôi căn dặn thầy một điều: Hai Khị nói hơi nhiều... Thầy ráng mà nghe một lần. Tôi nghe nhiều lần quá rồi...
Tôi nài nỉ ông Tư Huỳnh:
- Nhờ ông dẫn tôi tới nhà Hai Khị. Ông Hai Khị chắc già lắm rồi hả? Ông tới đây lập nghiệp từ bao giờ?
- Thời giờ rảnh rang, tôi sẳn sàng... Hai Khị đã lớn tuổi... Ừ! Cha nội đó rành lắm, ăn nói nghe mà mê. Làm nghề săn khỉ!
Từ nhà ông Tư Huỳnh đến nhà Hai Khị, chúng tôi bơi xuồng, qua nhiều con rạch quanh cảm ơn. Mùa mưa, lá tràm xanh biếc, xa xa có vài gốc cây đước, cây vẹt. Muỗi rừng bay ra khá nhiều, tôi chăm chú nhìn lên trời, tìm vơ vẫn...
Ông Tư Huỳnh nói:
- Muỗi cắn no tròn trên mặt thầy Hai kìa! Kiếm cái gì ở trên ngọn cây?
- Dạ kiếm khỉ.
- Trời đất ơi! Rừng này đâu còn khỉ nữa.
- Hồi nãy, ông nói rằng Hai Khị sống bằng nghề săn khỉ mà.
- Ðó là chuyện đời xưa. Lát nữa, thầy Hai mặc sức mà nghe. Bây giờ, nói sớm quá, hết vui. Vả lại, Hai Khị tới rừng này trước tôi. Tôi là kẻ vong gia thất thế, từ Tân An xuống đây làm ăn...
Tại sao ông Tư Huỳnh đố kỵ với Hai Khị tới mức đó? Ông đề cao Hai Khị, đồng thời ông lại hạ địa vị mình một cách quá đáng. Hay là hai lão già này có mối cựu thù. Vô lý quá. nếu thù hằn nhau thì ông Tư Huỳnh đâu sẵn sàng tới nhà Hai Khị. Hai Khị là ai?
Chiếc thuyền rẽ nước khá nhanh. Vò trời mỡ rộng. Tôi ngạc nhiên, chẳng hiểu tại sao giữa rừng mà lại có ngôi nhà ngói ba căn hai chái, cất theo kiểu xưa, giống như nhà mấy ông cai tổng ở vùng Cần Thơ. Mái ngói tuy đóng rêu đen nhưng vẫn giữ dáng điệu cong cong. Trước nhà có cửa ngõ và vài chậu kiểng. Chó sủa vang dậy. Ông Tư Huỳnh nói nhanh:
- Hai Khị ngồi hút thuốc đó! Bên gốc cột...
Hai Khị đứng dậy, ngó xuống bến, miệng cười tươi. Ông ta dường như còn tươi trẻ hơn ông Tư Huỳnh.
- Anh Tư tới đó hả?
- Ừa! Sẵn có thầy Hai này muốn biết chuyện cổ tích, tôi đưa thẩy tới đây.
Hai ông lão nói chuyện khá nhiều, nào là mùa màng, thời tiết, ong, mật, rùa, rắn, cá tôm. Hồi lâu, ông Hai Khị mới ngỏ lời:
- Ờ... Thầy Hai đây hả!
Tôi cúi đầu:
- Dạ, cháu ở Sài Gòn, lâu lâu về đây chơi một lần.
Cả ba người vào nhà. Mặt trời lên quá cao rồi, bầu không khí bên trong dường như ẩm ướt. Mái nhà thấp, che khuất ánh nắng. Vách nhà đóng bằng ván, đóng kín, chẳng khoét một cái cửa sổ nào hết.
Ông Hai Khị mời ngồi nhưng cứ tần ngần, như lạc vào một thế giới nào xa lạ. Trên cái bàn khá to, bốn con khỉ đang ngồi - Những con khỉ chết khô - rụng hết lông, thịt da đen ngòm, thịt bám chặt vào xương giống như... xác ướp Ai Cập. Có một con to xác nhứt, ngồi lum khum trên nhánh cây, chân thòng xuống đụng vào mặt bàn, hai tay đặt trên đầu gối, hố mắt sâu hoắm, ra dáng suy tư. Tôi vừa sợ, vừa buồn cười:
- Khỉ ở đâu vậy ông? Ðể trong nhà như vầy coi ghê quá!
Ông Hai Khị im lặng, đi thẳng đến tủ kiếng, mở cửa tủ, đem ra một ngọn đèn sáp, đốt lên. Ông nói mơ hồ:
- Nhà này cất theo kiểu xưa ở ngoài... Huế, ban ngày cũng như ban đêm...
Mặc dầu chưa đến xứ Huế lần nào, tôi cũng cải lại:
- Thưa ông, ở ngoài Huế nhà cửa sáng sủa... theo tân thời.
Ông Hai Khị vừa thắp ngọn nến, vừa nói:
- Thầy Hai còn trẻ quá. Tôi muốn nói tới kiểu nhà xưa của mấy ông quan đại thần, của vua chúa. Suốt ngày suốt đêm, đèn sáp cháy không dứt. Nếu tắt đèn thì tối om om. Mấy ông vua cũng vậy. Lúc đọc sách, lúc ngâm thơ, mấy ổng thắp đèn sáp giữa ban ngày.
Ông Tư Huỳnh nheo mắt, che miệng, cười. Thừa lúc ông Hai Khị xuống nhà bếp. Ông Tư nói với tôi:
- Ngán chưa! Thầy Hai thấy chuyện lạ chưa? Mấy con"khỉ khô" đó. Tôi dặn thầy điều này: đừng cãi với ông Hai Khị. Ổng ghét bất cứ kẻ nào dám cãi. Thầy cứ thưa thưa dạ dạ. Lát nữa, ổng nói chuyện sự tích mấy con "khỉ khô" đó, vui lắm.
Ông Hai Khị trở lại bộ ván, mời chúng tôi uống trà. Tôi ngỏ ý muốn hiểu vì sao ông chưng bày mấy bộ xác khỉ trong nhà rồi nói tiếp:
- Khỉ này đâu có lớn con! Ở Sở Thú Sài Gòn, tôi gặp nhiều thứ lạ hơn. Hay là con... xà niên, con đười ươi?
Ông Tư Huỳnh đưa tay khều nhẹ tôi. Tôi chợt nhó lại lời căn dặn ban nãy nên nói vuốt ve trở lại:
- Thưa ông, chác mấy con khỉ này có nguồn gốc lạ lùng...
Ông Hai Khị gật đầu:
- Quý lắm đó thầy Hai... Bởi vậy, tôi ít khi nói chuyện xưa cho người khác nghe.
Ông Tư Huỳnh nói xen vào:
- Thầy Hai này hơi bịnh. Thầy chưa hiểu tại sao ở đây thiên hạ sống hoài ăn cá quá nhiều. Thầy muốn tìm thuốc bổ đó.
- À! Hồi xưa, ông bà mình tới rừng U Minh này, mang bịnh nhưng cố gắng mà sống."Bịnh ở đâu thì thuốc ở đó." Ông bà mình nói nghe thậm phải.
Rồi thì ông Hai Khị bắt đầu kể chuyện. Xưa kia, thời ông Mạc Thiên Tứ - con của Mạc Cửu, một người Trung Hoa sang tị nạn ở Việt Nam vùng chợ Hà Tiên - thì sung túc nhưng rừng U Minh còn sầm uất, khỉ sống từng bầy đôi ba chục con. Người Việt Nam đến rừng U Minh tìm huê lợi thiên nhiên. Họ chê cá tôm vì cá tôm bán rẻ hơn cọp và khỉ. Bấy giờ, cọp, khỉ và rừng rậm nuôi dưỡng cho nhau. Khỉ ăn trái rừng, lớn lên khỉ làm mồi cho cọp; cây sanh trái làm thức ăn cho khỉ.
Ông Hai Khị nói:
- Cách đây một trăm năm, ông cai Thoại đến U Minh, ra tài đánh cọp. Cọp chết quá nhiều hoặc chạy trốn về phía núi Tà Lơn, bên Cao Miên.
Tôi chợt nghĩ ra một ý:
- Thưa ông... Thế là khỉ sanh sản nảy nở quá nhiều.
Ông Hai Khị gật đầu lia lịa:
- Ðúng vậy. Ðúng vậy. Xưa kia, thiên địa tuần hoàn theo luật riêng. hết cọp, khỉ sống hoài trở thành... chúa sơn lâm. Ông cai Thoại đã vô tình là thay đổi luật trời đất. Nhưng may quá, người Việt Nam đến rừng U Minh, tìm cách để bắt khỉ.
Tôi hỏi:
- Bắt để làm gì? Ăn thịt khỉ à? Nhiều quá, làm sao ăn hết... Hay là ông bà mình hồi đời xưa bắt khỉ... làm khô, hoặc phơi khô nguyên xác khỉ, đem bán qua bên Tàu cho mấy người giàu có chưng bày trong phòng khác như vầy...
Vừa nói, tôi vừa liếc qua mấy cái xác khỉ.
Ông Hai Khị lắc đầu:
- Ông bà mình hồi xưa khôn ngoan hơn nhiều. Họ bán khỉ qua bên Tàu, bán cái"tinh túy" của con khỉ.
Theo lời ông Hai Khị, người tiền phong khai hoang ở U Minh đã bày ra nhiều cách lạ lùng để săn khỉ. Họ dùng lưới, mỗi tấm lưới to bằng cái nhà, lưới đang bằng dây gai thật chắc. Thợ săn khỉ vào rừng một mình, mang theo tấm lưới và vài nải chuối chín. Ðến nơi nào có nhiều khỉ, họ chọn khoảng đất trống, trải lưới ra, phủ trên cỏ.
Ðâu đ1o xong xuôi, họ leo lên cây mà ngồi, chờ đợi, nắm trong tay sợi dây buộc dính liền với bốn góc tấm lưới.
Từ trên cao um tùm, họ quăng xuống từng trái chuối chín, quăng vào tấm lưói vô hình ấy.
Bọn khỉ thấy chuối thì ham, xúm nhau chạy tới, con này gọi con kia, mỗi lúc một đông. Ngưòi thọo săn cứ quăng chuối để làm mỗi nhử. Ðến lúc nào đó, người thợ săn bèn giựt bốn sợi dây. Lũ khỉ mê ăn bị tóm lại, gói trọn trong tấm lưới. Lẽ dĩ nhiên, nhờ lanh chân nên vài con khỉ chạy thoát kịp, nhưng đa số đành ở lại, chờ chết.
Thợ săn đem khỉ về nhà. Rồi họ tiếp tục đi săn mãi mãi.
Tôi hỏi:
- Thưa ông, săn nhiều quá, làm cách nào tiêu thụ. Mỗi ngày, phải tốn bao nhiêu trái cây để nuôi khỉ. Rủi bán ế thì làm sao?
- Thầy Hai chớ lo xa. Ông bà mình hồi xưa bày ra nhiều cách: nấu khỉ làm thuốc cao.
Vẫn theo lời ông Hai Khị, thợ săn đem khỉ về, đập đầu lột da, mỗ bụng, lóc thịt để lấy xương khỉ làm thuốc. Họ bỏ xương khỉ vào một cái chảo thật to, nấu với nước, nấu ngày nấu đêm, thỉnh thoảng, họ cầm muỗng mà vớt màng màng, đổ bỏ. Năm bày ngày, năm bảy đêm trôi qua, xương khỉ trở thành mềm mại như"xí quách." Họ quăng bỏ xương ấy. Dưới đáy chảo, còn sót lại môt thứ keo sền sệ. Ðó là"cao khỉ" theo kiểu cao hổ cốt. Cao hổ cốt"sọ khỉ" tuy yếu hơn"cao cọp" nhưng bổ về đường khí huyết.
Ông Hai Khị cho biết: mỗi người chỉ có thể uống một miếng cao khỉ mỏng như đồng xu mà thôi; uống quá độ lượng thì sanh bịnh. Hồi thuở còn nhỏ, ông Hai Khị đã rắn mắt, cắn vào cục cao khỉ. Sau đó, ông nằm mê man, ngủ li bì, mình mẩy nóng ran, sắp chết. May thay, cha của ông h;ay kịp, đem ông lên trên bộ ván rồi đốt lửa phía dưới. Lửa sưởi ấm bộ ván và hơi ấm ấy truyền qua cơ thể ông Hai. Nhờ vậy, ông toát mồ hồi sống lại đến... giờ này, đến tuổi sáu mươi mà sức khoẻ vẫn còn đầy đủ.
Tôi hỏi:
- Lúc uống cao khỉ quá nhiều, chắc ông chết giấc?
- Ừ! Hồi đó, tôi mới có mười ba, khi tỉnh dạy, mình mẫy tôi ê ẩm, tứ chi bải hoải...
Rồi ông ghé miệng vào tai tôi mà nói khẽ:
- Giống như người thừa sức lức... Chất"cao khỉ" gồm tinh túy của loài khỉ đó thầy Hai.
- Dạ, bây giờ rừng U Minh còn lai rai vài con khỉ già, chắc nghề nấu cao khỉ không còn nữa phải không ông?
Ông Hai Khị chỉ vào mấy cái xác khỉ khô:
- Tôi còn chút cí cao khỉ của ông bà để lại. Nếu thầy Hai muốn hiểu sự tích khai hoang rừng U Minh, nếu thầy Hai muốn sống dai, ngừa bịnh rét rừng, sanh con để cháu nhiều hơn thiên hạ thì...
Nói xong, ông Hai Khị mở tủ, đem ra một cục cao khỉ đen thui, gói trong giấy hút thuốc. Tôi hửi thử: mùi cao khỉ hơi thum thủm, giống mùi a dao vậy thôi.
Bây giờ, ông Tư Huỳnh khều nhệ tôi, nói nhỏ:
- Mình về, đủ rồi. Ðừng thèm mua.
Tôi nói to giọng:
- Thứ cao này ngộ quá. Thôi, hẹn với ông Hai sáng mai tôi trở lại...
Ông Hai Khị nói:
- Tôi chờ thầy Hai. Sáng mai, tôi cho thầy Hai uống thử một lát cao khỉ...
Tôi đứng dậy, cáo từ. Trước khi ra về, tôi đến gần mấy con "khỉ khô" sờ thử và nắm tay từng con. Có một con khỉ mới ướp xác ngồi chết đó, xòe bàn tay. Tôi nhướng mắt nhìn kỹ. Trong lòng bàn tay khỉ có nào là đường trí đạo, đường vận mạng giống hết bàn tay con người. Và đường sạnh đạo của con khỉ đó lại đứt khúc, hèn gì nó... chết sớm.
- Về cho kịp nước ròng, thầy Hai!
Ông Tư Huỳnh nhắc nhở một lần nữa. Tôi với ông xuống xuồng. Ông Tư Huỳnh bơi sau lái, cười to:
- Ðó, sự tích rừng U Minh huyền bí như vậy đó. Nói theo kiểu ông Hai Khị thì chắc là chung quanh nền nhà của ông có ... hàng ngàn khúc xương khỉ, của ông bà hồi xưa nấu cao rồi quăng bỏ.
Tôi hỏi:
- Ông Hai Khị nói thiệt không vậy ông Tư?
- Phần đầu, chuyện săn khỉ bằng lưới, ổng nói đúng sự thật. Nhưng tới phần sau, chuyện nấu cao khỉ rồi... chuyện nằm mê mang, ổng nói dóc để bán cao khỉ! Thức cao đó làm giả mạo. Nếu muốn bổ khoẻ, thầy Hai cứ ăn cá cho nhiều như mình ăn hồi nãy là đủ. Nói thiệt với thầy Hai, ba năm rồi, Hai Khị bán cao khỉ ế ẩm lắm vì bà con trong xóm đều chán ngán. Cha của Hai Khị hồi xưa săn khỉ giỏi lắm. Tới đời Hai Khị thì khỉ đã hết, thợ săn khỉ trở thành thợ... nói chuyện đời xưa giữa ban ngày mà đốt đèn sáp trong nhà!
Chiếc xuồng trôi từ từ theo nước suối. Trong rừng sâu, vài người đốn củi ca vọng cổ nghe văng vẳng.
Sơn Nam
Theo https://vietmessenger.com/ 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...