Ông cười dòn:
- Giỏi quá! Ra đây, nó gáy tới ba cốt.
Tư Hưng hỏi:
- Dạ, cốt là cái gì?
- Theo tiếng lóng của nhà nghề, mấy tiếng cúc cú cu, gọi là tiếng cốt. Con cu mồi
này gáy ba cốt. Bảnh quá! Cháu nghe lại thử. Nó gáy kìa!
Từ ngọn cây gáo, con cu mồi cất tiếng thảnh thót:
- Cúc cù cu... cu! Cu! Cu!
Ông Hai Kiểm nhướng mắt!
- Ðó... Nó gáy đủ bốn cốt. Loại cu nào nhiều cốt thì được cu mái say mê. Lúc
lúa chín, cu rừng bắt đầu"phân đồng" mỗi con cu trống, chiếm một khu
vực riêng biệt, từ cây này qua bờ tre bên kia. Nó tha hồ ăn lúa chín và tìnht ự
với bọn cu mái. Nếu con con cu trống nào toan vào khu vực của nó, nó sẽ đánh đuổi,
đá và cắn tơi bời. Thí dụ như khu vực này, từ cây gáo qua bờ tre, đã có sẵn một
con cu trống làm bá chủ. Mìnhd dem con cu mồi này tới để xâm chiếm. Lát nữa,
con cu trống sẽ ra tranh cắn, đánh đuổi con cu mồi này để rồi bị lưới chụp xuống.
Thời khắc trôi qua chậm chạp. Tư Hưng bắt đầu nản chí, muốn xin phép rút lui về
nhà để... nuôi heo trả nợ đám cưới. Bỗng đâu từ phía bờ tre đối diện có giọng
gáy thanh tao:
- Cúc cù cu... cu cu!
Ông Hai Kiểm ngồi nhốm tới, nép sát vào bụi cây mua, mang kiếng, nhìn qua kẽ
lá:
- Ðó! Con cu rừng lên tiếng, đòi đá lộn với con cu mồi của bác.
- Sao nó chưa qua?
- Cháu nên bền chí. Cu rừng khôn ngoan lắm. Nó hồ nghi điều gì... bất an. Nhiều
con cu rừng đã bị lưới chụp hụt vài trận rồi. Nó còn dè dặt, dò xét tình hình.
Trên ngọn cây, cu mồi gáy lên, thúc giục:
- Cú cù cu... cu! Cu! Cu!
Từ phía bờ tre, cu rừng bay nhanh qua cây gáo, đảo hai ba vòng, toan đáp xuống.
Tư Hưng nói:
- Nó tìm kẻ thù hả bác?
- Nói chuyện nho nhỏ một chút. Coi chừng nó nghe. Nó tìm kẻ tình địch. Cu rừng
này cho rằng con cu mồi trong bụi là kẻ từ nơi xa lạ đến xâm chiếm cánh đồng
lúc để ăn no và chiếm đoạt người yêu của nó.
- Tại sao nó bay qua đây! Hồi nãy bác nói con cu rừng này đầy đủ kinh nghiệm,
chết hụt nhiều lần nên khôn ngoan....
- Lời tục thường nói: Biết chết nhưng cũng nhào vô. Con chim ghét nhau vì tiếng
gáy. Cu rừng gáy hai cốt ghét con cu mồi gáy tới bốn cốt. Nó cho rằng có kẻ bảnh
trai hơn, toan chiếm đoạt sự sống của nó... Im đi.
Qua kẽ lá, Tư Hưng thấy rõ ràng con cu rừng. Nó thuộc loại cu cườm, mớ lông
chung quanh cổ nhuộm màu hường dợt, lấm tấm những điểm trắng tuyết, mỏ và đôi
chân đỏ sậm, nhứt là con mắt tròn xoe, sáng ngời lấp lánh như giọt máu tươi.
- Nó khôn quá. Nó nhảy trên nóc lụp chớ không thèm nhảy trước cái sàn để vướng
vào bẫy!
- Cháu nói đúng. Nhưng con cu mồi của bác còn khôn hơn!
Con cu mồi nhảy nhót, vỗ cánh ngược lên trời... nhưng bầu trời của nó quá hẹp,
nó té xuống. Nó bước tới sát lưới, quơ chân. Cu đá nhau như gà, dùng mỏ mà cắn,
đưa chân mà quào. Con cu rừng cứ bay quanh quẩn rồi đứng trên lụp mổ xuống, để
khỏi Sa trại chủ vào cạm bẫy. Lát sau, nó bay lên trên cao... trở qua bờ tre
gáy inh ỏi, thứ tiếng gáy kém đẹp, có hai cốt "cu, cu" khi chấm dứt.
Ông Hai Kiểm đưa tay lên miệng, nhái tiếng gáy để thúc giục cu mồi. Cu mồi lại
gáy, khoe giọng thiên phú, đến bốn cốt. Nắng lên cao. Cu rừng dường như còn
phân vân, chưa chịu xáp chiến.
Tư Hưng thở dài:
- Chừng nào nó bay qua đây...
Ông Hai Kiểm đáp:
- Bữa nay không xong thì chờ ngày mai, ngày mốt không xông thì ngày nọ, ngày
kia... Gác được một con cu rừng khôn ngoan, mình vui hơn là gác con cu rừng thứ
dại dột. Cháu mệt mỏi rồi hả?
Tư Hưng ngáp dài:
- Ðể cháu về nhà, lo cái chuồng heo.
- Cháu muốn về thì cứ về. Bác không dám cản cháu.
Nghe vậy, Tư Hưng lật đật cầm cây sào, bước ra khỏi lùm cây. Ông Hai Kiểm kêu
lên thất thanh:
- Làm gì vậy? Cháu về thì về một mình. Ðể bác ở lại...
Bảy ngày sau, Tư Hưng đã quên hẳn chuyện gác cu của ông Hai
Kiểm. Hàng ngày, anh ta lo nuôi heo, quét nhà, sửa sang bồ đựng lúa. Vợ chồng đối
xử với nhau êm ấm.
Lúc vợ chồng Tư Hưng đang ăn cơm chiều, bà Hai Kiểm chạy vô sân, nói hơ hãi:
- Tư! Mầy thấy bác Hai mầy ở đâu không?
Trời mưa lất phất, lạnh lẽo. Trận mưa bấc dai dẳng, còn rơi rớt. Tư Hưng nhìn
bà Hai Kiểm, thương hại:
- Chuyện gì mà bác gái dầm mưa? Lâu rồi, cháu không gặp bác trai.
- Ổng đi gác cu với mầy mà! Mỗi ngày mỗi đi, từ bữa đi chung với mầy đó.
- Dạ, cháu theo bác trai có một buổi đầu mà thôi...
- Kiếm bác trai mầy dùm tao! Tao hồ nghi quá.
Lập tức, Tư Hưng buông chén đũa, chạy ra sau vườn. Trời vẫn mưa. Mặt trời khuất
đâu mất, cảnh vật tối om. Cây gáo đứng trơ vơ giữa đồng như bóng ma trơi. Tư
Hưng lục soát bụi cây, chẳng có cái lụp nào cả. Tư Hưng thất vọng, trở về. Bỗng
dưng, anh ta nhớ tới cái bờ tre bên kia, đối diện với cây gáo. Anh ta chạy qua,
nhướng mắt: giữa bụi tre, cái lụp gác lơ lửng, trên đó có con cu mồi và một con
cu rừng bị lưới chụp.
Cu rừng và cu mồi đều cú rũ, bất phân thắng bại vinh nhục, lông cánh lù xù vì dầm
mưa quá lâu. Nhưng ông Hai Kiểm ở đâu? Tư Hưng toan kêu lên nhưng sợ làm lộ bí
mật nhà nghề. Anh ta bèn đưa hai tay lên miệng, bụm lại, nhái tiếng cu kêu:
- Cúc cù cu... cu! Cu! Cu!
Bỗng nhiên, bụi nhãn lồng nhúc nhích. Có tiếng rên hừ hừ. Tư Hưng ngỡ là ma
nhát, sửa soạn co chân tẩu thoát. Nhưng giọng run rẩy của ông Hai Kiểm vang ra
từng đợt:
- Cứu... tao... tao gần chết... á khẩu...
Tư Hưng cõng ông Hai Kiểm vào nhà, đốt lửa hơ, cạo gió, mua thuốc cảm mạo, nấu
cháo thương hàn... vài phút sau, ông Kiểm mới tỉnh táo, nói thân mật:
- Tao chờ đợi... mắc mưa suốt buổi. Con cu mồi bay quá. Rốt cuộc con cu rừng chịu
đá lộn, mặc dù bị gài bẫy nhưng cũng đá. Vui quá... Ừa! Ngu quá. Con cu rừng
đó, tao cho vợ chồng bây nướng ăn. Hồi xưa, nhiều người đi gác cu như tao, ngồi
rình mò dè đâu phía sau lưng có con cọp đang chờ ăn thịt họ. Gác cu không đem lợi
lộc gì ráo mà mình ham. Cái thói phong lưu đó nguy hiểm lắm. Nếu mày không ra
ngoài cứu kịp thì tao á khẩu, chết luôn ngoài bụi tre rồi. Ðó là cái ngu thứ
ba: "Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu mà!"
Tư Hưng mỉm cười, nhờ đến cái ngu thứ nhứt, thứ nhì:
- Dạ, hai vợ chồng cháu cỡ này đề huề lắm. Ba con heo nái đang có chửa, món nợ
mà bác bảo lãnh hồi cháu sửa soạn cưới vợ...
- Tao hiểu rồi. Ráng mà làm ăn. Thôi tao về kẻo bác gái mầy trông đợi.
- Dạ, trời còn mưa lai rai. Ðể cháu nhắn tin cho bác gái hay... Còn cái ngu thứ
tư nó ra làm sao bác?
- Cầm chầu hát bội. Rằm tháng giêng, cháu sẽ thấy. Hễ mình ít"chầu" bọn
đào kép cho rằng mình là thằng già cầm chầu khó khăn, phách lối, khinh khi kẻ
xướng ca vô loại. Nhưng nếu mình đánh chầu đúng điệu thì có kẻ giềm siểm, cho rằng
mình là thằng già dê, cứ định chấm khen ngợi mấy cô đào trẻ mà quên mấy cô đào
già.
Tư Hưng nắm bàn tay gân guốc của ông Hai Kiểm:
- Bác tử tế quá.
- Sao mầy biết? Ðừng nịnh tao. Vợ chồng mầy nên ăn ở thuận thảo đi.
Giọng Tư Hưng như ngậm ngùi:
- Bác dám lãnh đủ bốn cái ngu trên đời... Không màng tiếng bấc, tiếng chì. Cái
tiêu khiển của bác không làm hại cho ai. Và bác dám gánh trách nhiệm để cho kẻ
khác vui sướng. Cháu phục mấy ông già xưa quá trời.
Đồng thanh tương ứng
Xóm Tà Lốc nằm trơ vơ gần khu rừng tràm, trên khoảng đất
hoang dài gần năm chục cây số ngàn, giữa chợ Rạch Giá và Hà Tiên, theo vịnh
Xiêm La .
Thời Pháp thuộc, dân chúng xóm ấy sống biệt lập: bắt cá, đốn củi đủ ăn ngày nào
hay ngày ấy . Nếu cần mua sắm vài vật dụng cần thiết, họ ngồi tại nhà mà chờ đợi
một chú Huê kiều . Chú ta quảy gánh gióng, bán nào kim chỉ, lưỡi búa, đường thẻ,
thuốc rê . Đặc biệt nhứt là loại kéo tàu, rèn tại chợ Rạch Giá . Ai không tin
thì cứ mua thử một cây kéo đó, để dành trong rổ may . Kéo sống dai hơn kiếp người,
và từ thưở cô gái mới về nhà chồng, cho tới khi có con có cháu, chết vô hòm mà
kéo vẫn chưa lụt - nếu cây kéo đó không bị đánh mất .
Cách vài ngày, chú Huê kiều đi qua xóm một lần. Tuy chú ta bán hàng với giá đập
đổ, dân trong xóm Tà Lốc chẳng ai than phiền. Thưở ấy, đường giao thông dường
như không có. Chú ta đi bộ suốt hai mươi cây số, qua vùng đất phèn đầy muỗi
mòng rắn rít và đầy kẻ lương thiện - những kẻ lương thiện nhưng nổi máu bất
lương từng chập . Lắm khi, chú Huê kiều bị gãy gánh giữa đường thương
mãi: hàng hóa và tài sản bị tịch thâu, thân xác chú ta còn chịu thêm trận đòn
nhừ tử, kêu trời thì không thấu, kêu làng lính ở tận đâu đâu. Thà là nhịn nhục
để ngày mai tiếp tục hành nghề. Dân trong xóm lần hồi thương mến chú Huê kiều. Khi đi qua xóm, chú ta rao hàng nghe lơ lớ, não ruột:
- Kéo tàu! Ké ....éo tàu!
Trẻ con bu lại, cười giỡn. Chú Huê sẵn sàng cho mỗi đứa một cục kẹo nhỏ rồi rảo
bước, để lại giọng rao:
- Kéo tàu! Ké ... éo tàu!
Nhưng ánh sáng văn minh lần lần soi rọi bên hè xóm Tà Lốc. Vào những năm kinh
tế khủng hoảng, chính phủ thuộc địa đã cố gắng biểu dương uy thế bằng cách cho
xáng múc, đào con kinh thẳng tắp dọc theo duyên hải vịnh Xiêm La, nối liền chợ
Rạch Giá lên chợ Hà Tiên, phía bắc. Lần hồi, khi đào xong xuôi, lịnh của quan
chánh tham biện chủ tỉnh truyền ra, quan chủ quận liền chạy tờ về
làng, làng chạy trát xuống ấp Tà Lốc .
Đại ý như sau:
Trát cho hương ấp Tà Lốc tuân cứ: Tới ngày... tháng... năm... nhà nước
làm lễ ăn khánh thành con kinh quản hạt Rạch Giá - Hà Tiên. Quan Toàn Quyền
Đông Pháp đích thân đi trên tàu, theo con kinh này. lần đầu tiên, con dân ấp
Tà Lộc được ddón rước trọng thể quan Toàn Quyền Đông Pháp đại thần. Vậy đúng hừng
đông nói trên, dân đinh trong ấp phải tề tựu ngay bờ kinh xáng, tại chợ, gần chỗ
bàn hương án của hương chư'c hội tề đặt ra. Hương ấp phải truyền rao cho dân
trong xóm được rõ rồi phúc bẩm cho làng biết. Nếu bất tuân sẽ bị khiển trách.
Nhận được trát nọ, hương ấp Thum đi tới lui thăm viếng từng nhà để vừa uống rượu,
vừa làm công tác. Chú ta mở đầu câu chuyện:
- Ngày mốt, mình nên đón rước quan Toàn Quyền đại thần. Bà con thấy làm sao?
Ai nấy nhao nhao phản đối, trình ra nhiều bằng cớ xác đáng:
- Tụi tôi quần áo lem luốc, tay lấm chơn bùn. Vả lại, chưa đóng giấy thuế thân. Rủi có bề gì thì... phải làm sao?
Hương ấp Thum cười khì:
- Hỏi thử cho biết vậy thôi. Một mình tôi thay mặt tất cả bà con, đủ rồi . Nói
chí tình, nếu bà con kéo nhau ra bờ kinh xáng, đứng khoanh tay gần bàn hương án
để đón rước thì chắc thiên hạ cũng đuổi bà con trở về xóm, trước khi quan đại
thần đến .
Nhưng dường như bà con trong xóm Tà Lốc hơi buồn phiền điều gì mơ hồ:
- Tụi tôi chưa được thấy mặt "tây u" và tàu bè tối tân của
nước Pháp . Ai cũng muốn đi cho vui ngặt còn món nợ ... quần áo và thuế thân .
Chẳng hay quan Toàn Quyền đại thần có ghé lại xóm mình để uống nước trà .... lấy
thảo hay không ?
Hương ấp Thum đáp:
- Ghé làm gì ?
- Bộ thầy rảnh lắm sao ? Mục đích của ông là tới chợ Hà Tiên cho mau . Nếu mỗi
xóm mỗi ghé thì chừng nào mới tới nơi tới chốn ?
Thế là đêm đó xong xuôi, ai về nhà nấy . Dân chúng nói một câu thòng:
- Thầy hương ấp cứ vui đi . Tụi tôi leo lên nóc nhà, hoặc trèo lên ngọn cây để
coi tàu của Tây chơi, cho biết ....
Hương ấp Thum quày quả trở lại:
- Tôi không dám bảo đảm à . Đừng thậm thò thậm thụt như vậy . Ở dưới tàu, có ống
dòm . Họ thấy xa lắm .
Một người trả lời:
- Thầy đừng lo . Từ đây ra tới kinh xáng, xa hơn hai chục công đất . Vả lại, tụi
tôi núp sát mái nhà, hoặc đeo dính trên ngọn cây . Ở dưới tàu dòm lên quan Toàn
Quyền đại thần cho rằng tụi tôi là rùa bò trên mồ mả, hay là con dơi, con quạ
đeo nhánh cây .
Đến nhà việc làng Sóc Sơn, hương ấp Thum nhờ chú biện thảo tờ phúc bẩm. Đại ý,
hương ấp cho rằng dân xóm Tà Lộc bận việc đốn cây, mò cua v.v... Hương chức
làng chẳng mảy may phiền hà.
Trong thâm tâm, họ chẳng bao giờ muốn cho dân trong xóm Tà Lốc đi nghinh đón
quan trên. Đó là hạng người không kỷ luật trật tự gì ráo. Dân chúng xóm chợ gần
công sở cũng khá đông rồi. Thêm vào đó, mỗi tiệm phố đều sẽ treo cờ tam sắc.
Ai cần gì mời số người ở xóm Tà Lốc, không mợ chợ cũng đông . Trời vừa rực sáng
.
Dân chúng xóm Tà Lốc đã kêu réo nhau inh ỏi:
- Thức dậy, anh em ơi!
- Tàu chưa tới mà . Thức thì thức .
- Tụi mình là "phó thường dân" xứ Nam kỳ, lâu lâu chào mừng
quan trên: Chắc còn lâu lắm . Chừng này mặt trời mới ló dạng . Chắc quan Toàn
Quyền đại thần đang ăn uống tại chợ Rạch Giá . Cỡ bốn giờ, mới tới .
Một ông lão khôi hài:
- Thiệt là dị hợm, kinh xáng đào rồi thì ... là rồi . Còn bày đặt ăn khánh
thành giống như nhà vua làm lễ hạ điền . Làm như không có ông Toàn Quyền đi thử
thì nước không chảy .
Có người hô to:
- Phía chợ vui quá hé ?
- Nóc nhà của tôi mới lợp, cột kèo bằng cây danh mộc ... lậu thuế . Ai muốn dưỡng
già thì trèo qua nóc nhà tôi cho vui .
- Bậy nè! Lớn đầu mà còn dại . Ngồi trên nóc nhà, rồi hút thuốc, nguy hiểm lắm
. Tại sao mình không ngồi trên cháng ba của cây xoài, cao hơn nóc nhà!
Chờ lâu quá nhiều người đâm ra nản chí . Họ tuột xuống đất, vô nhà uống nước
cho thấm giọng rồi lại trèo lên . Đám trẻ càng xông xáo hơn . Chúng nó ở truồng,
lén ra ruộng, cỡi trâu, đánh thẳng tay cho trâu sãi tới sãi lui. Rồi mòn mỏi,
chúng nó nằm ngửa, phơi nắng trên lưng trâu để chờ đợi, sát kinh xáng trở về
xóm.
Chuyện gì đến là đến! Vào khoảng tám giờ rưỡi sáng, đoàn tàu ăn lễ từ từ tiến tới. Dân xóm Tà Lốc hò reo, chỉ trỏ. Họ hối tiếc vì đã ngồi nhà. Tàu quá nhiều,
chạy giăng hàng dài treo bông treo tụi đủ màu sắc . Đếm kỹ thì thấy hơn mười
cái ống khói đen ngòm, tức là mười chiếc tàu .
Pháo đại, pháo tre, pháo trống ... nổ vang rền tại chợ . Nổ suốt năm mười phút
mà chưa dứt ... Sau một hồi lẹt đẹt thì pháo lại rộ lên như con thú sắp đứt hơi
cố gắng rống lên những tiếng cuối cùng vừa to, vừa dài ....
Một người nghĩ ra sáng kiến:
- Mấy đứa chăn trâu ơi! Tụi bay thử cỡi trâu, cho trâu sãi thật lẹ, coi họ làm
gì ở ngoài chợ.
Vài đứa trẻ le lưỡi:
- Ngán lắm. Họ bắt tụi tôi không?
- Tụi bây là... con chó gì mà bắt. Thứ con nít ở truồng mà tưởng mình như người
lớn .
Bọn trẻ bàn bạc:
- Mấy ông Tây ưa bận quần áo trắng, đội nón trắng . Tụi mình sợ trâu nó ghét
màu trắng . Nhè trâu chém ông Chánh soái thì nguy .
Một người lớn quát to:
- Nói tầm phào hoài . Làm như tụi bây quan trọng lắm . Chưa ra tới đó là thiên
hạ đuổi tụi bây rồi . Cứ ở gần lấp ló, coi lén vậy mà . Hơn nữa, chưa chắc Ông
Toàn Quyền Chánh Soái chịu lên bờ uống rượu đế với ông đại hương cả . Tàu chạy
qua rồi chạy luôn ... Không lẽ tàu chạy ngã khác .
Thế là bọn trẻ mục đồng được yên tâm: "Tụi tôi ham lắm" . Mấy
người lớn nhìn theo, căn dặn:
- Về cho gấp, nói đầu đuôi cuộc lễ cho mấy thằng già này nghe chơi .
Hơn năm bảy con trâu xóm Tà Lốc sãi nhanh ra công sở, mang trên lưng những sứ
giả bé bỏng .
Đột nhiên, tiếng "súp lê" nổi lên inh ỏi:
- Tu ... tu ... Tu! .... uuu ....
Dân xóm Tà Lốc khoái chí, vỗ tay:
- Đó là quan Toàn Quyền Chánh Soái chào mừng bà con xóm Tà Lốc ? Hay quá! Trời
ơi! Khói lên từng cuộn đen thui .... Coi mê quá .
Tiếng tu tu ... cứ vọng rền .
Một anh chàng có vẻ thông thạo:
- Luật quốc tế mà! Họ chào mình theo luật quốc tế là cứ súp lê hoài ...
Chiếc tàu dẫn đầu ngừng lại . Mấy chiếc sau cũng ngừng, dường như chẳng dám qua
mặt .
- Đúng rồi! Tàu của quan Toàn Quyền Chánh Soái . Ổng ghé lại chợ ....
Một ông lão thở dài:
- Các cha ơi . Quan Chánh Soái chào mấy ông hương chức hội tề chớ nào chú ý tới
bọn mình . Đừng hí hởn mà buông tay, té gãy giò nghe các cha . Con nít quá vậy
.
Nhưng bọn người háo thắng vẫn bàn bạc . Họ nghĩ mơ màng đến mấy ông hương chức
hội tề . Nào ông cả Bon, ông chủ Xìa, Ông Xã Mực, ông thầy giáo Kiết, ông ban
trưởng Huê kiều - Ông ban Xinh . Tất cả đang cúi đầu, lưng hơi khom, hột tay
đưa ra để đón bàn tay ông Tây . Còn tay kia thì sờ lên ngực, ngay quả tim già,
như để tỏ tình ... Pháp - Việt đề huề!
Vài phút sau, tàu "súp lê" vang dội như để tạm biệt . Từng
chiếc một từ từ di chuyển . Mặt kinh xáng lấp lánh ... Mỗi chiếc tàu là một ống
khói đen, phun làn khói mỗi lúc một mỏng mịn . Khói vương vít, bay chập chờn
trên nền mây trắng, che khuất từng chập vài bóng diều quạ .
Bỗng nhiên một người quát to:
- Thấy mẹ rồi! Còn một chiếc Ở lại . Neo luôn tại chợ . Hay mấy ổng dòm thấy tụi
mình trong này làm điều vô lễ ! Vô lý quá . Kìa ....
Từ phía chợ, bầy trâu phóng nước sãi, trở về xóm Tà Lốc .... Ai nấy phập phồng
chờ đợi. Tin mừng hay tin buồn! Chẳng lẽ quan Toàn Quyền nghe ngóng được tiếng
nói xa xôi của bọn người vô danh núp trên nóc nhà, trên ngọn cây, như rùa bò,
như quạ đậu . Lạ thật . Trên con trâu dẫn đầu, có tới hai người . Một thằng bé
và một người lớn .
Kìa! Trâu đã tới. Người lớn ấy ngồi vênh váo, như quen như lạ, chưa ai nhìn được
hắn là ai!
Đúng rồi! Hương ấp Thum. Thầy ta trở về xóm để làm gì mà hấp tấp như vậy. Giống
như mấy ông tướng Tây cỡi ngựa phi báo, cấp báo!
Mồ hôi tuôn ra nhễ nhãi đầy mặt hương ấp . Vừa nhảy xuống lưng trâu, thầy ta la
lớn:
- Đánh mõ lên cho dân chúng tụ họp . Chuyện sanh tử lắm . Đợi cho đủ mặt, tôi mới
nói, đâu phải chuyện giỡn . Tài sản của nhà nước!
Ai nấy đều ngơ ngác, tuột xuống đất, ngồi chồm hổm, sắp hàng hai để chờ lệnh .
Gương mặt hương ấp Thum trông vừa đáng ghét vừa tội nghiệp . Bỗng dưng mà thầy
ta lên giọng đàn anh .
Có người hỏi:
- Có gì vậy ?....
Hương ấp Thum im lặng, thở hổn hển . Một ông kỳ lão với giọng đàn anh kẻ cả:
- Cái gì vậy mầy Thum ?
- Dạ ... Dân xóm Tà Lốc chưa làm phận sự .
Ông kỳ lão quát:
- Phận sự gì ? Hay là ông Chánh Soái giận tụi tao, chỉ tụi tao vô lễ, ngồi trên
ngọn cây ....
Hương ấp Thum nói:
- Dạ, dân xóm Tà Lốc phải ra sức ... kéo tàu .
- Tàu gì mà kéo ? Ai nấy giương mắt tròn xoe .
- Để người ta nói hết cho mà nghe . Số là đoàn tàu của quan Toàn Quyền đại thần
bị trục trặc . Một chiếc bị tắt máy dọc đường, nhờ chiếc khác quăng đổi giòng tới
đây rồi bỏ lại . Chẳng lẽ họ dòng chiếc tàu bịnh hoạn đó lên tới Hà Tiên thì mất
thể diện cho "máy móc" của quan lớn quá, thiên hạ sẽ dòm
hành chê bai. Bởi vậy, chiếc tàu họan nạn đó nằm tại chợ. Thầy hương quản
giao cho tôi nhiệm vụ kéo chiếc tàu đó...
- Ủa! Sao lại dân xóm Tà Lốc!
Hương ấp Thum đáp:
- Dân xóm chợ đã góp tiền, đốt pháo và đóng thuế đầy đủ . Mấy chục năm nay dân
xóm Tà Lốc chưa làm gí ích lợi cho nhà nước . Vậy thì ...
- Kéo lên bờ hay kéo đi đâu ? Chiếc tàu đó bao lớn ?
- Dạ ... Kéo về chợ Rạch Giá . Bà con nghĩ dùm . Sức một mình tôi làm sao kéo nổi
chiếc tàu sắt về chợ Rạch Giá, xa hơn mười lăm cây số .
- Bậy nè! Ai hơi đâu mà làm chuyện bá láp . Tại sao mình không kéo chiếc tàu đó
vô bờ mời mấy ông bác vật tới sửa máy . Hoặc chuyến về, mấy ổng dòng tàu về ...
- Dạ, nghe đâu quan Toàn Quyền đại thần đi tuốt lên Nam Vang, về theo nẻo khác
. Bà con nghĩ dùm .
Ai nấy suy nghĩ: Kéo thì cứ kéo, ngại gì! Nhưng còn cái tội trốn thuế thân, từ
nhiều năm . Nhiều tay tiều đốn củi quá lâu, nhiều chàng thanh niên một vợ ba
con ... chưa được hân hạnh ghi tên vô bộ sổ của nhà làng .
- Dễ quá . Tôi bảo lãnh dùm! - Hương ấp Thum nói.
Thế là bọn trai tráng sắp hàng, ra bờ kinh xáng để kéo tàu,
trước là xem tàu của quan trên cho biết nó nặng nề đến mức nào, sau là để làm
phận sự con dân thuộc địa .
Chiếc tàu quá nặng . Mấy sợi dây đỏi sắt cũng không nhẹ . Nước chảy ngược . Gió
thổi ngược .
Hơn năm chục người nai lưng "hố bụi" , đưa chiếc tàu liệt
máy nọ về chợ Rạch Giá. Mệt và đói quá chừng. Kéo tàu sắt khác hẳn chèo ghe.
Làm sao thảnh thơi mà ca vọng cổ. Đến canh một, canh hai đêm ấy, chiếc tàu mới
xê dịch được hai phần ba lộ trình. Cũng may, hương chức hội tề đã chú ý....
ban cho dân ấp Tà Lốc năm đồng bạc để mua bánh tét, bánh lá dừa . Ăn tạm no .
Nhưng làm sao tìm nước uống ? Nước dưới kinh xáng mặn đắng, chua chát quá chừng
. Hễ ghé vô là chủ nhà hoảng sợ . Năm chục người uống hết nửa lu nước!
Nhứt là chuyến đi bộ trở về .
Dưới ánh trăng thanh, họ ca hát lai rai . Ai đủ sức thì cứ đi cho nhanh, về nhà
cho vợ con mừng . Ai yếu đuối thì ngủ bờ ngủ bụi . Vài người mang bịnh cảm mạo,
bắt gió vần công . Khổ thay! Mười lăm cây số bận về là cả một điều khổ nhục .
Muỗi cắn quá chừng . Hồi ra đi, họ quên mang theo cái nóp .
Rốt cuộc, chẳng ai ngủ mê hoặc chết dọc đường . Suốt đêm, họ đi lang thang nhắm
hướng Tà Lốc . Chốn quê hương đẹp hơn cả! Đúng vậy. Vài người chửi rủa hương ấp
Thum, cho rằng thầy ta muốn lập công đầu với nhà nước Pháp . Khi tàu tới chợ Rạch
Giá, hương ấp Thum cút mất, vô quán ăn hủ tíêu một mình . Và lúc kéo tàu, thầy
ta ngồi trên tàu, hò hét, ngồi bên cạnh coi người lái . Khoẻ quá .
Đêm ấy, vì mình mẩy rêm nhức, dân kéo tàu đánh một giấc ngon lành trên giường
thê nhi .
Nhưng lúc bình minh vừa ló dạng, từ đầu xóm vang lên tiếng mơ hồ:
- Kéo tàu! Ké ...éo tà ...àu!
Ai nấy nhẩy nhổm, mở cửa sau mà chạy, sau khi ... trăn trối với vợ con:
- Trời! Mới kéo một chuyến mà mệt đuối . Kéo thêm chuyến nữa chắc chết luôn .
Má bầy trẻ nhớ nói rằng tôi đi đốn củi rồi nghe . Tổ cha ... thằng hương ấp
Thum!
Tiếng gọi mơ hồ cứ lan xa, rõ rệt trong sương sớm:
- Kéo tàu .... Kéo tà ...àu!
Ngồi sau khe cửa, các bà hiền phụ nín thở, quan sát, chờ bóng dáng của hương ấp
Thum . Tại sao hắn không đánh mõ ?
Nhưng hỡi ôi! Các bà cười vang . Tiếng "kéo tàu" nọ xuất
phát từ cổ họng của anh Huê kiều quen thuộc, bán kéo tàu, kim chỉ và tặng kẹo
ngọt cho trẻ con . Hắn ngơ ngác, thấy các thân chủ đều đóng cửa, ngủ trưa . Tại
sao các thân chủ "tẩy chay" đột ngột như vậy ? Nhứt là các
thân chủ ấy còn thiếu chịu của hắn một số tiền ngày càng to . Hắn bực dọc khi
nghe tiếng cười, tiếng chửi thề . Nhưng hắn trung thành với nghề tổ, hắn cứ rao
to, rao cho hả giận để đánh thức lương tâm dân chúng xóm Tà Lốc!
- Kéo tàu! Kéo tàu ....àu!.....
Cái tổ ong
Vừa bước lên sân, việc đầu tiên của cậu Minh là phóng mắt vào
nhà rồi liếc nhanh phía sau sàn nước để tìm hình bóng cô Kim Em. Hổm rày, cậu
mang bịnh tương tư. Nhưng khi đến đây cậu gặp sự thất vọng.
Ông Tư hỏi:
- Lâu quá, không gặp cháu. Cháu vắng hổm rày, chắc lo học hành...
Cậu Minh đáp:
- Dạ, cháu không có chuyện chi. Bãi trường rồi, rảnh rang lắm. Chừng một tháng
nữa, cháu mới lên chợ Rạch Giá nhập học lại.
Thằng Thích chạy tới, nói xen vào:
- Ba ơi! Cậu Minh đọc sách để coi kiểu nuôi ong lấy mật ở bên Tây! Hôm qua, con
lại nhà cậu, cậu lật sách cho con coi mấy cái hình ăn ong. Ở bên tây hễ muốn lấy
mật, người ta bận áo mưa, đội mão, mang bao tay bằng da bò. Hèn gì họ... mình đồng
da sắt, không sợ ong đánh. Cậu Minh nói với con: Hễ con dạy cách ăn ong ở xứ
mình cho cậu... ăn được thì cậu mua cho con một cáibê hê , một cây đènpin .
Ông tư lườm thằng Thích:
- Ai hỏi mà mầy lên tiếng. Bỏ cái tật nói hớt của mầy nghe không? Xuống bếp, lo
dọn cơm.
Rồi ông day qua cậu Minh:
- Nhằm bữa, cậu ăn luôn với tôi. Hổm rày nhằm cỡ ong"dàn trận." Lui
cui tối ngày với ba cái mật, cái sáp...
Cậu Minh vô cùng thắc mắc: "Cô Kim Em đi đâu vắng rồi? Sao ban nãy thằng
Thích rủ mình tới chơi, nó quả quyết rằng chị Hai nó có ở nhà."
Phía nhà dưới, nào thấy bóng hồng thấp thoáng. Gió phăng phắc nhưng mùi mật ong
xông lên nồng nực khắp nhà. Ruồi bay từng bầy, bu lại gần mấy cái thùng thiếc đầy
tàn ong mới"xắn" về. Mấy con ong non ngày non tháng như luyến tiếc ổ
cũ, bò ra chung quanh miệng thùng, quạt cánh nhưng chẳng tài nào bay được. Cậu
Minh nói hơi to:
- Chà! Ong nhiều quá. Mật thơm quá.
Rồi cậu đi lững thững xuống nhà bếp để xem cách nấu sáp, vắt mật, luôn dịp, tìm
bóng giai nhân.
Trong buồng, vọng ra giọng chanh chua của thằng Thích. Nó đấu khẩu với chị nó:
- Ai biết cơm nước ra làm sao mà dọn? Sao chị nằm trong mùng hoài vậy? Ra dọn
cơm cho người ta ăn. Kỳ cục quá.
Giọng cô Kim Em trả lời:
- Tao bịnh. Lâu lâu nhờ mầy dọn chén ra mà mầy cằn nhằn hả? Hết nói.
- Chị bịnh hả? Hổm rày sao không bịnh. Chờ khách tới thì chị bịnh... Tôi biết rồi.
- Ðừng om sòm cái miệng. Nhớ đem con cá nướng trên bếp xuống, cạo sơ sơ cho
tróc cái lớp khét cháy ở ngoài da cá.
Thằng Thích trở giọng khôi hài:
- Ờ phải. Ta biết rồi. Vậy hả? Cha chả...
Mâm cơm đã dọn ra. Cậu Minh ngần ngại, leo lên bộ ván nhưng chẳng dám ngồi đối
diện với ông Tư. Ông Tư mời mọc đôi ba lần mà cậu vẫn rụt rè, nói nhỏ nhẹ như
con gái:
- Dạ, bác cầm đũa trước, cháu mới dám.
"Thiệt cái thằng ăn học theo thời bấy giờ mà còn giữ được lễ phép thời
xưa." Ông Tư khen thầm như vậy. Bấy lâu nay, ông nghe thiên hạ đồn đãi: cậu
Minh yêu mến con gái ông. Lúc đầu, ông chưa tin. Không lẽ cậu Minh lại muốn cưới
con gái nhà bần h; àn, dốt chữ nghĩa. Dư luận ngày càng phồng lên, gia đình cậu
Minh dường như chẳng lên tiếng đính chánh. Ông Tư tin là chuyện có thật. Gia
đình cậu Minh thuộc vào hạng"có tiếng mà không có miếng" vì đã phá sản.
Gia đình ông tuy vô danh nhưng đủ ăn nhờ nghề ăn ong mật ở góc rừng này. Con
gái ông được nhiều người khen ngợi nhan sắc và nết na.
Nếu may mà hai đứa nó kết tóc với nhau; âu cũng là vinh hạnh lớn cho ông. Dường
như cậu Minh ưa rủ thằng Thích đi chơi để"giả đò mua khế bán chanh" ,
viện cớ hợp lý tới lui thăm người đẹp. Ngoài ra, cậu Minh bắt đầu nghiên cứu về
sinh hoạt của loài ong mật.
Ông Tư lên giọng:
- Bữa nay ăn uống sơ sài quá. Cá lóc nướng trui mà thiếu rau dấp cá, mất ngon.
Nước mắm thì mặn đắng, thiếu me chua, ớt thì để nguyên trái. Thằng Thích mầy
sao tệ quá.
Thằng Thích cãi lại:
- Ðâu phải tại tôi. Tại chị Hai đó. Hồi sáng, chỉ còn mạnh cùi cụi. Vậy mà chỉ
vô mùng nằm, đắp mền, không biết đau chứng bịnh gì. Ba hỏi coi!
Nắm lấy cơ hội ấy, cậu Minh vào đề:
- Dạ thưa bác, cô Hai đau nặng nhẹ ra sao?
Ông Tư nín cười không được:
- Ối! Ðau đớn gì. Vô ý vô tứ thì ong vò vẽ nó đánh, nóng lạnh một buổi là hết. Ổ
ong ngay nóc chuồng heo. Thứ ong vò vẽ bất nhơn, không có mật vô ích. Lát nữa mầy
đốt ổ đó cho xong, nghe Thích. Bữa nào nó đánh tới tao nữa.
Thằng Thích mừng quýnh. Nó muốn trổ tài, giúp cậu Minh thấy tận mắt thói ăn nết
ở của bầy ong. Nhứt định cậu Minh sẽ vui mừng mua tặng cho nó cáibê rê và cây
đènpin, theo lời hứa. Nó ăn lua láo cho mau hết chén cơm rồi từ từ lui ra sau
hè.
Còn lại ông Tư và cậu Minh. Cậu cố hướng dẫn cho cuộc đàm thoại đi sâu vào vấn
đề... con ong. Hổm rày cậu chịu khó đọc qua một quyển sách khảo cứu in tại Ba
Lê. Cậu hơi to giọng cố ý cho cô Kim Em trong buồng nghe ngóng.
- Thưa bác, sách Tây nói rằng ong mật là lại côn trùng có cánh, rất hữu ích cho
loài người tự cổ chí kim.
Ông Tư trố mắt:
- Vậy hả? Nếu vậy thì sách Tây đâu có hay ho gì. Con ong có cánh để bay lẽ dĩ
nhiên, ai cũng biết. Nhưng còn thiếu ...
- Thưa bác thiếu điểm nào?
- Ðiểm ích lợi... ong mật có ích cho loài người mà cũng cần thiết cho loài thú.
Con gấu trong rừng sống nhờ mật ong.
Cậu Minh đáp:
- Ðúng vậy. Rồi mấy hãng kẹo bên Tây thường lấy con gấu làm nhãn hiệu. Và mỗi
hãng kẹo đều có mướn nhiều ông kỹ sư, nhiều ông khảo cứu. Họ nhìn nhận mật ong
bổ ích cho loài người. Lịch sử của loài người làm nên...
- Khó hiểu quá. Ăn thua gì với con ong.
- Dạ thưa hồi thời Bàn Cổ sơ khai, càn khôn hỗn độn, trước khi tìm ra lửa để nướng
thịt thú rừng, con người đã nhờ mật ong mà tẩm bổ qua ngày qua tháng, chịu đựng
sương tuyết. Ðó lànền văn minh mật ong (civilisation du miel), trước khi có nền
văn minh dùng búa dao bằng đá, bằng sắt.
Liền khi ấy, ông Tư thích thú, rót rượu đầy chén mời cậu Minh:
- Hay quá. Hồi nhỏ tới lớn, bác mới nghe cháu nói. Mới nghe qua thì hơi dở
nhưng ngẫm lại thì hữu lý.
Cậu Minh hớp chút rượu, trình bày tiếp, trong khi đó cô Kim Em ho húng hắng...
- Thưa bác, xin nói qua các nhà chép sử phương Tây. Họ bảo rằng thời xưa mật
ong là vậy quí. Ong là loài côn trùng oai hùng chẳng kém loài sư tử. Bên Do
Thái dây gian còn truyền tụng tích chàng dũng sĩ Săm Sông đi tìm nàng Ða Li La.
Chàng ta gặp con sư tử cản đường nên ra tay giết sư tử. Vài ngày sau trởi lại
chốn cũ thì ô hô! Có một ổ ong khá to đóng trong lồng ngực con ác thú, khoét gần
hết xương thịt.
Ông Tư lắc đầu:
- Cháu nói hơi trật chìa rồi! Chắc đó là loài ong lỗ, ong vò vẽ, thứ ong đóng ổ
ở sau chuồng heo. Loài ong mật thì ăn bông thôi, tinh khiết lắm. Còn gì lạ nữa
không?
- Thưa bác, nhà kiến trúc sư khen loài ong đã biết cất nhà lầu. Ổ ong là tòa nhà bốn trăm hoặc tới năm trăm tần. Loài người ở thời văn minh chưa làm chuyện
đó. Mùa nực, ong xúm nhau quạt cánh cho mát bầy con. Mùa lạnh, ong nằm xo rút
liền với nhau để sưởi ấm. Nhờ vậy không khí được tinh khiết điều hoà, chẳng
khác gì lò sưởi hay quạt máy.
Ông Tư bắt đầu chán nản vì ở rừng Cà Mau chỉ có hai mừa mưa nắng và mùa nào
cũng nực, ở trần. Ông hy vọng chắm dứt câu chuyện khá dài.
- Bác ít đi chợ búa nên chưa rành cái quạt máy, lò sưởi... Thiết là lắm chuyện.
- Dạ còn nữa, bác ơi. Nhà chính trị khen loài ong biết tổ chức thành những quốc
gia, có vua, có tôi, có thần dân. Nhà y học công nhận rằng nọc độc của loài ong
trị được bịnh tê bại. Họ khen mấy người ăn ong trong rừng vì người ăn ong giỏi
như mấy ông thầy Chà thổi ống sáo để chỉ huy loài rắn bàn nạo.
- Hơi lạ. Ăn ong với bắt rắn là hai nghề khác nhau.
- Thưa bác, đó là cách bào chế thuốc ngừa thiên thời, trái giống. Thầy rắn Chà
Và đùa giỡn với rắn hổ con, rắn cắn không sao hết vì nọc còn non. Rắn lớn lên,
nọc càng ngày càng độc. Máu huyết của thầy rắn cũng quen lần lần với nọc độc. Rủi
bị rắn cắn thầy ta vẫn cười tươi! Người ăn ong ở rừng nào khác thầy rắn. Lần hồi,
máu huyết người ăn ong trở thành lờn, ong đánh không đau đớn nữa...
Chén rượu thứ ba đã cạn. Ông Tư cười hề hề:
- Giống như uống rượu vậy thôi. Con nít uống rượu mau say, dân ghiền rượu thì
coi rượu hơi giống nước lạnh. Uống đi cháu. Uống cho quen. Rượu còn hiếm hiệm...
Cháu giỏi quá.
Cậu Minh cao hứng, uống lần hồi cạn nửa chén rượu đế. Mặt trời sắp lặn, đỏ khé
sau rừng nhưng cậu nào hay. Mặt mày cậu ta cũng hừng lên, đỏ khé như một cái mặt
trời nhỏ bé trong căn nhà ấm áp này.
- Còn nữa hết vậy cháu. Nhà kiến trúc, nhà y họ, nhà làm quốc sự đều khen con
ong. Còn nhà gì nữa không?
- Thưa bác, ong ong ngộ lắm... Nhà nghệ sĩ nói rằng hễ gặp bông đẹp, nhụy ngọt
thì con ong bay trở về ổ, báo cáo sự tình với đồng loại bằng một điệu vũ tức là
nhảy múa. Nhờ điệu vũ đó mà bầy ong xúm nhau tìm hoa, hút nhụy. Ðẹp làm sao! Ổ
ong tối mờ mờ như trong phòng ngủ. Con ong khiêu vũ trong bóng mờ. Khiêu vũ là
cách nói chuyện tâm tình của loài ong. Có nhà thi sĩ cho rằng sáp ong là kết
tinh bao nhiêu hương hoa của trời đất. Trong vũ trụ, đẹp nhứt là hoa. Nhụy hoa
được loài ong hút về, tạo ra chất tinh khiết, xứng đáng cho chúng ta... xe lại
làm cây đèn sáp để đọc sách hoặc cúng vái thần thánh. Con ong lại là... ông Tơ
bà Nguyệt là lá thắm chữ hồng, đem nhụy bông đực rắc vô lòng bông cái. Vì vậy,
bên Sa trại chủmạc Phi châu, cây chà là mới sanh trái được. Mấy người Ả Rập quí
trong con ong, nuôi ong gần vườn chà là để cho bông cái chà là đừng trở ra thứ
trái lép xẹp!
Ông Tư ngơ ngẩn vì... cậu Minh nói hơi nhiều lời, nói hết sách vở mà cũng chẳng
ích lợi gì ráo. Nói tới nói lui rồi cậu ta cũng loanh quanh trở lại chuyện ái
tình hơi thô tục.
Ngoài cửa sau, có bóng thằng Thích lấp ló. Ông tư hỏi:
- Gì vậy Thích?
Nó trả lời:
- Con muốn rủ cậu Minh ra ngoài này cho mát.
Ông Tư lắc đầu:
- Mầy giả ngộ hả? Muỗi mòng như trấu. Ra ngoài sau hè để làm gì?
Cậu Minh bắt đầu chán tiệc rượu vì cậu ta chẳng còn lý luận gì để phô trương cả!
- Thưa bác. Cháu muốn nói chuyện với thằng Thích. Cháu uống rượu hết vô rồi.
Hơi say.
Khi thấy cậu Minh đến cửa nhà bếp, thằng Thích reo lên:
- Ðiệu lắm. Không có chổ chê. Cậu Minh ơi! Xong rồi. Mời cậu vô mùng kẻo mất cơ
hội.
Ông Tư càng sửng sốt, nạt lớn:
- Mầy khùng rồi hả? Làm gì mà vô mùng? Ðừng nói bậy.
Thằng Thích nói khẽ:
- Dạ... con giăng mùng ở gần cái chuồng heo để cho cậu Minh coi cái ổ ong vò vẽ.
Cái ổ này kỳ cục lắm. Ba biểu con phá ổ đó cho xong. Cậu Minh thì muốn con
giúp... làm cách nào cho cậu thấy tận mắt con ong sống nhăn...
Ông Tư chép miện, muốn rầy thằng Thích nhưng sợ cậu Minh hiểu lầm:
- Ừ! Ðể tao coi mầy làm ăn ra thế nào!
Cậu Minh đứng ngoài hè., liếc thấy cái chuồng heo và cái mùng giăng trên bãi cỏ,
bốn sợi dây căng thẳng qua bốn cây chuối hột. Sợ làm phật ý ông Tư, cậu dò hỏi:
- Cháu vô đó với thằng Thích. Nhà xảy ra chuyện, gì nguy hại không bác?
Sực nhớ đến mớ lý thuyết mà cậu ta vừa nói lúc uống rượu, ông Tư lẩm bẩm:
- Ờ! Thuốc dạy thầy, cậy dạy thợ. Biết đâu cháu thấy chuyện lạ hơn mấy ông bác
vật! Ðây là ong vò vẽ, đóng ở góc chuồng heo của... rừng Cà Mau... Hiền lắm...
Bác đâu dè thằng Thích nó rắn mắt. Mặt trời còn chạng vạng, ong nó thấy đường....
Lần đầu tiên, cậu Minh đánh bạo chui vô mùng. Ngồi bên trong, vui sướng làm
sao. Vững như ngồi trong chiến bào. Ngoài kia, trời nhá nhem. Muỗi bay vo vo.
Ông Tư chống nạnh, ho từng chập và dường như cô Kim Em cũng rón rén đến sát ngưỡng
cửa.
Cậu Minh mỉm cười. Qua lớp vải mùng c3nh vật hiện ra mờ ảo, rung rinh. Mấy tàu
lá chuối phất phơ. Con ruồi, con muỗi còn bay không lọt vào mùng, huống gì con
ong vò vẽ. Một đoạn sách mà cậu đọc sơ qua cho biết: bên Âu châu, mấy nhà nuôi
ong đều sắm những thùng nhỏ, lọng kiếng hoặc lưới sắt để dễ bề quan sát.
Muỗi dưới mặt cỏ bay luồn lên, vo ve. Cậu Minh quên đập muỗi, mải nhìn theo hướng
ngón tay thằng Thích. Cái ổ ong vò vẽ lớn tròn, đen thui như cái trống, vừa một
ôm. Ghê quá, đất chung quanh ổ ong chấp chóa, trơn láng. Nắng thoi thóp nhưng
còn chiếu thẳng vào miệng ổ: một cái lỗ nhỏ, có hai ba con vàng bay loanh quanh
như canh gác.
Cậu Minh muốn chứng minh tinh thần hăng hái:
- Nó không ra, làm sao mình coi được. Xa quá! Mầy Thích ơi. Phải chi hồi nãy mầy
giăng mùng sát ổ ong.
Thằng Thích thở nhẹ:
- Nè anh! Tôi đem cây trúc này vô mùng để dành thọt.
- Làm sao mà thọt?
- Anh vén mí mùng, đưa cây trúc ra rồi đè mí mùng cho lẹ.
- Tao nghi ngờ quá.
- Ðể tôi!
Thằng Thích vén mí mùng, đưa cây trúc ra, nhắm ngay cái miệng ổ ong mà"chọt"
tới.
Lẹ như điện xẹt, ba bốn con ong bay ra, theo cây trúc, chui vào mí mùng trước
khi thằng Thích khép lại.
Hai người la hoảng:
- Chết tui. Anh ơi!
- Nó đánh tao. Ui da! Trời ơi! Thích ơi! Chạy ra được không?
Tình thế thật khó xử. Chạy sao kịp. Hàng ngàn con ong ào tới đậư ngoài mùng đen
thui tùng cục, từng dề... chớp cánh nghe lào xào. Vài con xung phong lách mình
xuống gốc cỏ; chui rèn rẹt vào mùng như con trùng, con kiến.
Bên ngoài, ông Tư kêu la ỏm tỏi:
- Dại quá vậy. Tại sao giăng mùng mà không trải chiếu cho sát mặt đất? Giăng
mùng lơ lửng như vậy đó. Rán chịu trận.
Cô Kim Em đứng nép vào bệ cửa, lỡ cười lỡ khóc: Thằng Thích và chàng trai thông
minh kia đang bị nhốt trong mùng.
Chập sau, mặt trời lặn khuất. Bầy ong gom về ổ. Ông tư bước tới, cầm một cái
bao bố, khom lưng rồi thừa cơ hội thuận tiện, gói trọn cái ổ ong vào bao, chạy
nhanh trở lại mương, nhận xuống nước: ong chết ngộp. Cô Kim Em tuân lời cha, xuống
mương đem cái bao lên. Cái ổ ong được phá ra. Ong non trắng phau, lúc nhúc, gom
hơn một thùng, đem lăn bột chiên ăn trong đêm ấy...
Cậu Minh uống rượu khá nhiều, ôm thằng Thích mà ngủ cho tới sáng...
Vài tháng sau, cậu Minh cưới cô Kim Em. Họ sống không mấy yên
ổn, vì thời cuộc. Lần hồi, họ tản cư lên Sài Gòn. Chàng làm thơ ký ở một tiệm
bán kem, nàng thì thủ phận đêm đêm gánh chè đậu kiếm thêm tiền để nuôi nấn bày
con sáu đứa. Càng tiếc mùi mật thơm lành của quê nhà, thuở ban đầu. Nhứt là những
đêm mưa gió, vợ chồng ngậm ngùi nhìn nhau không nói một cậu. Ngọn đèn điện mập
mờ gợi hình ảnh ngọn đèn sáp từ đâu lạc đến, để lệ hàng đêm, chẳng bao giờ lụn
để soi sáng trang sách của cuộc đời bao la: cuộc đời vừa xới mật vừa dễ hiểu
nhưng họ chưa bao giờ hiểu - như cái ổ ong bên cạnh chuồng heo.
Con heo khịt
Từ hồi tháng mười một năm ngoái, mấy người cuốc rẫy ở ven rừng
Ngã Bát không ngớt bàn tán xôn xao:
- Con heo Khịt về đây rồi. Nó lớn bằng con bò con lận mà.
- Phải! Tôi nghe danh nó từ lâu. Chú vợ của tôi ở Rạch Ruộng có nói lại: nội một
đêm, nó ủi phá gần hai chục công rẫy khoai mì. Củ lớn ăn đã đành, củ nhỏ cũng
không chừa.
- Sao không đâm nó? Thợ săn ở dưới Rạch Ruộng coi bộ dở quá, chưa xứng đáng là
thợ rừng. Rầu lắm. Coi chừng con heo Khịt phá hại mùa khoai ở xóm mình. Nó đâu
phải cọp mà mình sợ!
- Nói bậy đi. Chừng nào con heo Khịt phá hại, đụng chạm tới tài sản của mình
thì hãy hay. Nói trước, xui xẻo lắm. Thợ săn ở Rạch Ruộng giỏi lắm chớ. Một người
bị đổ ruột. Một người khác bị tét đùi. Phen đó, con heo Khịt mắc bẫy dây chì. Vậy
mà nó tẩu thoát được.
- Bằng cách nào?
- Nó cắn một khúc giò, bỏ lại coi chơi. Khúc giò còn dính trong cái vòng dây
chì. Coi mà phát ớn. Nó cắn giò nó cho đứt, một mình nó đánh chét bón con cho
săn. Tôi đoán chừng con heo Khịt này ít nhât đã bảy - tám tuổi, nanh dài trên một
tấc, mình mẩy nổi dấu chì. Thôi chuyện đâu còn đó. Nó chưa tới nhà mà bàn tán
hoài, ngán lắm. Cứ lo làm ăn cho vợ con nhờ.
Chuyện ấy thấu đến tai ông Hai Cháy và ông Năm Tự. Vốn là thợ
săn chuyên nghiệp, hai ông giữ vẻ mặt trầm tĩnh nhưng làm sao che giấu được bao
nhiêu nỗi lo âu áy náy trong lòng.
Tháng này nhằm mùa hạn, rừng khô nước, heo rừng không ngủ nơi nào nhất định,
chi bằng chờ lúc Sa trại chủmừa, nước nổi chừng ba tấc, heo rừng phải tìm nơi
gò đất cao ráo mà ngủ, dễ tìm tông tích nó. Nhưng phải đề phòng! Mặc dầu mình nặng
nề, chân nhỏ thó, heo rừng lội nước khá nhanh. Ðối phó lại, thơ săn nên tìm loại
chó săn biết lội nước. Ðã có người chống xuồng cản chận đầu con heo rừng đang lội.
Heo thản nhiên, hụp đầu xuống rồi hất lên như cõng vào chiếc xuồng nọ lên vai.
Ông Hai Cháy đến nhà ông Năm Tự mà nói:
- Mình ăn thịt hơn trăm con heo rừng. Nhung mà chuyến này coi bộ khó nuốt.
Năm Tự cau mày:
- Sao vậy? Tôi dọ kỹ rồi. Nó thành danh con heo Khịt vì nó dữ, khi dod63 quạu
là sôi bọt mồm, khịt lên một tiếng lớn. Vậy thôi. Mình chưa ngán nó...
Ông Hai Cháy đáp lại chậm rãi:
- Bà con ở Rạch Ruộng cho biết: nó là heo độc giác. Theo chữ nho, chẳng hiểu
nanh heo kêu bằng gì. Mình tạm kêu là"giác" đi. Trâu độc giác, voi một
ngà, heo một nanh và ... người một mắt đều là thứ dữ.
Năm Tự im lặng:
- Ờ! Nếu con heo Khịt lên tới xóm này, nên lo liệu...
- Ðánh nó cho chết chớ lo liệu cái gì. Tôi dám liều chết nếu nó là heo Khịt. Rủi
gặp heo nhỏ, tầm thường thì uổng công quá. Năm nay, gần sáu mươi tuổi rồi, tôi
làm biếng lắm.
Năm Tự nói nhanh:
- Miễn là ông anh đi theo để làm quân sư, thằng em này vui vẻ ăn thua. Ông Anh
cứ nhường cái bổn phận đó cho em. Em nhờ bà con dọ thám thử.
Giết heo là chuyện khó. Rình xem heo là chuyện dễ. Ðêm đó, theo lời yêu cầu của
Năm Tự và Hai Cháy, một đám con nít xúm nhau rình bên giồng khoai mì đã bị heo
phá hại đêm trước. Ðêm sáng trăng. Mù sương rắc xuống nhỏ từng hột trắng mỗi
lúc thêm dày. Biết chống muỗi, vắt, lũ trẽ xúm nhau ngồi quanh gốc cây tràm. Cảnh
rừng đêm mơ hồ. Ngồi hồi lâu không thấy gì lạ, lũ trẻ ngóng lên trời nhìn sương
mù đang trôi gờn gợn như chất gì lỏng lẻo. Thích chí quá. Như ngồi dưới đáy biển
sâu mà lớp sưong kia là sóng gió trôi trên đầu. Nhìn mãi sanh chán. Vài đứa ngủ
gục ngáy to tiếng.
Bỗng đâu sậy đế gãy nghe rôm rốp. Rồi một bóng đen lộ ra đứng sát bụi mì ngóng
mỏ rồi quay lưng, chạy về phía rừng tràm.
Lũ trẻ lập tức cho ông Năm Tự hay:
- Nó rồi! Nè ông Năm, nó như con bò con. Tưởng sao chứ vậy tụi tui đâu sợ. Nó
chạy cong đuôi.
Ông Năm cười:
- Tại tụi bây đứng trên gió, nó đánh hơi được. Nó đâu sợ, nó xáp tới nhưng nó
quay lưng vì sợ sụp nhầm bẫy hoặc hầm hố.
Nghe đến sáng kiến làm cần bẫy, bọn trẻ mừng quýnh. Vài đứa có kinh nghiệm lập
tức bơi xuồng ra chợ Thới Bình để mua dây chì làm vòng bẫy. Gặp thầy đội kiểm
lâm có mang súng, chúng nó mời thầy vô xóm Ngã Bát để bắn con heo Khịt. Nghe
tin ấy, ông Năm vô cùng mừng rỡ. Nếu bắn được con heo ghê tởm ấy, ông khỏi ra
tay. Vả lại, bắn sớm chừng nào hay chừng ấy. Từ bây giờ cho đến mùa mưa. Khi thời
cơ thuận lợi. Còn năm - sáu tháng nữa lận. Biết đâu tới chừng đó; con heo Khịt
sẽ bỏ xóm Ngã Bạt, sau khi phá hại mùa màng.
Trời chạn vạng.
Thầy đội kiểm lâm tới xóm. Ðêm đó, thầy ta hăng hái lắm vì mới vừa mượn được
cây đènpin, loại năm pin của ông xếp kiểm lâm. Dịp may để thầy ta luyện tập về
cách săn đèn!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét