Nhịp sống của đoàn nông phu cứ trôi qua đều đều. Nhưng đến năm 1937, một biến cố
khá quan trọng xảy ra khiến dân chúng... nghẹt thở. Hầu hết những kẽ tay lấm
chân bùn trong làng đều bị lên án là ... kẻ ăn trộm trâu.
Tiên cáo là một ông lạ mặt, người Việt Nam, mặc âu phục, tay xách cặp da, hút ống
vố.
Ông ta đến nhà thầy phó hương quản:
- Có ai ở nhà không?
Thầy phó hương quản ngơ ngác:
- Xin lỗi, ông là ai? Xin cho biết quí danh.
Ông ta nói:
- tôi muốn nói chuyện...
Thầy phó hương quản mời ông khách vào nhà. Ông ta mở cặp da, đưa ra một tấm
danh thiếp:
" Nguyên Hưu Henri,
Domaine agricole de Saigon."
Sau khi đọc sơ qua, thầy phó hương quản lấy làm bối rối:
- Thưa ông. Xin ông vui lòng"thông ngôn" cho tôi được hiểu.
Thông ngôn có nghĩa là thông dịch. Ông khách cứ hút thuốc, chưa chịu làm công
việc ấy. Hồi lâu, ông trợn mắt:
- Tấm"cạc" nầy nói nhiều rồi. Quyền hạn thanh tra... toàn Nam Kỳ thuộc
địa của tôi như thế nào, chú phó hương quản dư hiểu.
Khổ quá! Thầy phó hương quản đành nài nỉ, thú nhận sự dốt nát của mình:
- Dạ, tấm"cạc" của quí ông... toàn là chữ Tây. Chắc là ở Sài Gòn!
Khách cười nhếch mép:
- Khá lắm. Còn hai chữ nữa"Nguyễn Hữu" tôi không thèm bỏ dấu cho đúng
mẹo luật Lang Sa. Tôi thường giao thiệp với quan chủ tỉnh mà. Ðây, tôi tạm"thông
ngôn " cho chú hiểu: Tôi là Nguyễn Hữu Hăngri, thanh tra đồn điền Sai Gòn.
Tôi vô dân Tây nên giữ chữ Nguyễn Hữu. Mới đây, sau khi tiếp xúc xa giao với
quan chủ quận tôi ăn cơm ở nhà quan chánh sở mật thám. Bậy quá, chắc quan chủ
quận phiền giận tôi...
- Thưa ông sao vậy?
- Ổng là anh em bạn học.
Lần đầu tiên từ thưở nhỏ đến từng tuổi này. Thầy phó hương quản mới được vinh dự
đón rước một nhân vật quan trọng. Lập tức, thầy gọi vợ ra chào khách, bắt gà
làm thịt. Ông khách Hăngri nói, giọng bí mật:
- Tánh tôi bình dân lắm. Tôi ưa làm quen với người chất phác như chú. Vừa vừa
thôi, đừng bày tiệc tùng, tốn kém lắm.
Thầy phó hương quản suy nghĩ hồi lâu rồi giả bộ như mình cũng rành tất cả lề lối
làm việc của người cầm giềng mối trị dân:
- Ông nói chí lý quá. Các quan chủ quận đều rành chữ Tây. Ðọc sơ qua tấm"cạc"
của ông, mấy ổng hiểu liền. Chẳng dám nào, ông cho phép...
- Chú nói đi. Chỗ quen biết với nhau mà.
- Ông cho tôi xin một tấm"cạc" như vầy để lộng kiếng, làm kỷ niệm. Hễ
có khách quí tới nhà là tôi nhắc nhở, giới thiệu... lúc ông vắng mặt.
Ông Hăngri cau mày:
- Ðây! Chú giữ tấm"cạc" này. Nhưng mà chú phải dè dặt. Ðừng phô
trương quá sớm. Tôi muốn giữ bí mật. Chờ đôi ba ngày nữa, xảy ra nhiều việc lạ
lùng lắm, có lợi cho chú... trong tương lai.
Thế là ông Hăngri nghiễm nhiên trở thành vị thượng khách của thầy phó hương quản.
Thầy bắt đầu xa lánh bà con chòm xóm, vì lý do riêng. Trong lúc ông Hăngri nằm
trên bộ ván gõ, đọc báo Lục Tỉnh Tân Văn thì thầy phó hương quản trèo cây dừa
xiêm hái xuống trọn quày.
Nhớ đến câu"gái ngoan làm quan cho chồng," thiếm phó hương quản thắt
lưng buộc bụng... sẵn sàng đi tiệm mua nào càri, củ hành, tiêu, tỏi đem về để
thanh toán bằng bầy gà bầy vịt.
Tối hôm ấy, ông Hăngri mở đầu câu chuyện:
- Này chú phó hương quản. Chú là người đáng tin cậy, xứng danh là người làm việc
nước. Tôi nhờ chú giúp tôi một vấn đề quan trọng. Chừng mãn nhiệm vụ thanh tra,
tôi sẽ gặp quan chủ quận, gởi gắm để thăng chức chú lên chức chánh hương quản.
- Dạ, may phước cho đời tôi quá!
- Vợ chú ngủ chưa? Ðừng cho đàn bà hay biết. Họ ưa chộn rộn.
- Dạ, để tôi coi thử.
Rồi chú trở ra:
- Nó ngủ rồi.
- Chú nên giữ bí mật hoàn toàn. Nếu hư hỏng công việc truy tầm của tôi, chú sẽ
bị trừng phạt theo phép nước luật quan. Chừng đó mặc dầu thương mến chú, tôi
cũng chẳng tài nào cạy gỡ dùm được.
Dưới ánh đèn toạ dăng, trong khi sương mù mịt, bất chấp tiếng chó sủa ma trong
xóm vắng, ông Hăngri mở cặp da, đem ra một mớ giấy có đóng dấu đỏ. Thầy phó
huơng quản đếm thử: chừng ba chục tấm giấy cứng, màu xanh, lớn gấp đôi cái giấy
thuế thân.
Ông Hăngri lẩm bẩm:
- A lo! A lo!
Thầy phó hương quản giật mình, bước ra xa, vấn thuốc hút. Thầy càng tò mò, liếc
qua xấp giấy xanh của ông Hăngri. Thầy sực nhớ đến loại giấy mà thầy có đôi ba
tấm trong nhà.
Thời thực dân, dân chúng gọi nôm na là đó là"bài kía" trâu bò, trên mỗi
tấm, hài rõ tên chủ của gia súc, tên con gia súc, tuổi tác, dấu riêng... và số
thuế đã nạp.
Nhà thầy phó hương quản có hai con trâu và một con bò. Thầy đã lãnh"bài
kía," xác nhận thầy làm chủ ba con gia súc đó. nếu bị trộm cắp, thầy
đem"bài kía" để nhìn nhận của đã mất.
Ông Hăngri thừa hiểu rằng từ nãy giờ cặp mắt tò mò của chủ nhà đan xăm xoi về
phía mình.
- Chú phó hương quản. Lại đây tôi dạy việc.
- Dạ, tôi sẵn sàng.
Ông Hăngri lật đật đem xấp..."bài kía" trâu bò ấy bỏ vào cặp da rồi
đưa cho thầy phó hương quản xem một tấm giấy trắng có chữ đánh máy, chữ Pháp.
Ông giải thích:
"Số là đồn điền chúng tôi - ở chi nhánh Sóc Trăng - từ lâu thường bị ăn trộm
trâu. Theo tin riêng của sở mật thám Sài Gòn cho biết thì bọn bất lương đem số
trâu bất hợp pháp ấy về bán tại làng Bình An này. Vì vậy, thừa lệnh quan
trên..."
Thật là đất bằng sóng dậy. Thầy Phó hương quản cố gợi lại trí nhớ. Thỉnh thoảng
vài người ở xóm này mua trâu, nhưng là trâu tơ, sanh đẻ tại làng. Lúc nhậu nhẹt,
nhiều người chế nhạo lẫn nhau:"mầy là chủ phồn ăn trộm trâu!" nhưng
đó là tiếng thường lệ cũng như"đồ mặc dịch! đồ ma bắt." Nó không có
ngụ ý gì ráo.
Thầy lẩm bẩm:
- Té ra hổm rày ông làm nhiệm vụ mật thám.
- Tôi là thanh tra!
Phó hương quản bắt đầu e ngại:
- Dạ, quan thanh tra muốn"ăn kết" theo cách nào? Theo ý tôi thì dân
chúng ở xóm này toàn là người lương thiện. Trâu bò của họ nuôi đều có"bài
kía," đóng thuế đầy đủ, do quan trên thừa nhận.
- Nhưng họ mua ở đâu? Mua của ai?
- Dạ, mua ở Châu Ðốc, hoặc mua ở mấy xóm gần đây.
- À! À!
Ông Hăngri vừa gõ cái ống điếu vào gốc cột:
- Phó hương quản đừng che dấu tội lỗi của họ mà chịu chung số phận. bây giờ, việc
đầu tiên của phó hương quản cần thi hành là tới cái chuồng trâu nào gần đây nhứt,
biểu họ trình cho tôi coi mấy cái"bài kía" của trâu bò trong chuồng để
tôi kiểm soát.
Trưa hôm sau, phó hương quản trở về:
- Ðây! Nhà của Trần Văn Lén, tất cả bốn con trâu tên là trâu Pháo, trâu Bướm,
trâu Ðiệu, trâu Mẫm.
Ông Hăngri nói nhanh:
- Tôi muốn kiểm soát dấu riêng của mỗi con trâu. Nếu nó trúng dấu với mấy con
đã ghi trong tờ cớ của tôi thì đó là trâu gian. Tôi cần làm việc cẩn thận. Phó
hương quản cứ tới nhà mấy người khác, từ nhà tên Trần Văn Lén này dài đến cuối
xóm, tom góp tất cả"bài kía" đem cho tôi xem xét lại.
Cả xóm nhốn nháo lên vì nguồn tin bất lành ấy. Vốn làm ăn chất phác, tin tưởng
nơi công lý, các chủ trâu đều ngoan ngoãn tuân lịnh.
- Vàng thiệt không sợ lửa, - họ tự an ủi.
° °
°
Nhưng trò đời diễn ra khá phức tạp.
Sáng hôm sau, phó hương quản đổ ;mồ hôi trán, đi thất thểu đến mời mấy người chủ
trâu:
- Nguy quá. Ông thanh tra mật thám mời bà con tới"hầu." Tôi e đã xảy
ra điều gì bất trắc. Nhớ tới nhà tôi cho đủ mặt, bằng không thì ông Hăngri lên
án khiếm diện.
Các đương sự lần lượt đến ngồi chồm hổm tại hàng ba, nhà thầy phó hương quản.
Ông Hăngri nâng ống vố lên, rít một hơi dài rồi nói từng tiếng một:
- Trần Văn Lén! Ai tên Trần Văn Lén?
Người tên Trần Văn Lén"dạ" một tiếng nhỏ rồi chạy tới, đứng trước mặt
ông Hăngri để nghe lời dạy.
- Bốn con trâu Pháo, trâu Bướm, trâu Ðiệp, trâu Mẫm của chú đều là trâu ăn trộm.
Trần Văn Lén trợn mắt:
- Làm sao có chuyện đó? Xin quan lớn... coi lại. Trâu nhà của tôi mà!
- Chú mua hồi nào?
- Dạ, hồi năm ngoái, 1936.
- Tôi cho biết: hồi năm 1935, đồn điền tôi bị mất trộm, có tờ cớ hẳn hoi. Cái tấm"bài
kía..."của chú giữ ghi vô bộ năm 1936. Nhưng"bài kía" của đồn điền
tôi vô bộ 1934. Dấu riêng của con trâu Bướm y hệt: sừng cong, hai xoáy ở chân
trước bên mặt.
Tên Lén hơ hãi, kêu nài:
- Xin quan thanh tra cho tôi thấy cái"bài kía" của đồn điền...
- Ðừng lẻo lự. Này đâý Tờ cớ rành rành."Bài kía" của tôi cũ hơn... Chứng
tỏ rằng kẻ trộm đem trâu của đồn điền tôi đến làng Bình An này bán lại cho chú.
Hoặc là chú có nhúng tay vô...
Tên Lén trố mắt."Bài kía" (bài chỉ) của ông Hăngri vô bộ trước, có
đóng dấu đỏ và chữ ký tên...
Ông Hăngri giựt cái "bài kía" trở lại:
- Tôi tịch thâu con trâu Bướm của chú. Chú ngồi đó suy nghĩ. Nếu cự nự tôi giao
cho quan chủ quận, truy tố ra toà.
Sau tên Trần Văn Lén, lần lượt bốn năm khổ chủ khác đều bị cật vấn. Trâu của họ
trùng dấu riêng với những con trâu mà đồn điền bị mất trộm, cách đó vài năm có
ghi rõ torng tờ cớ. Kèm theo tờ cớ, ông Hăngri nên ra mấyh cái"bài
kía" vô bộ sổ quá trễ mà dân chúng trong làng Bình An đang giữ.
Bằng một giọng nhỏ nhẹ, ông Hăngri giải bày:
- Tôi chảng muốn đưa mấy chú ra toà làm gì. Tội nghiệp cho vợ con mấy chú. Nếu
mấy chú ăn năn hối cải, tôi ém dùm. Tôi hứa chạy tờ về ông chủ đồn điền... Với
điều kiện là mỗi người cho tôi năm chục đồng. Bằng không thì...
Ai nấy cúi đầu, áy náy. Năm chục đồng đâu phải là số tiền nhỏ.
Day qua phó hương quản, ông Hăngri tiếp lời:
- Thế nào? Phó hưong quản dám bảo lãnh dùm họ không? Tới trưa mai họ phải chạy
tiền đầy đủ.
Phó hương quản gải đầu:
- Tôi xin bảo lãnh. Ðể họ về vay nợ, đền ơn quan thanh tra. Nếu ai trốn, tôi chịu
trách nhiệm.
Ðã quá mười hai giờ trưa.
Tại tiệm chạp phô ở cuối xóm, dân chúng tụ họp lại, bảo vây thầy phó hương quản.
Hai ba chai rượu để trên bàn đều cạn. Ai nấy đều say ngà ngà. Người này sừng sộ:
- Rõ ràng hương quản a tòng với ông Hăngri làm tiền bọn tôi. Trâu nhà, trâu hgé
nuôi lớn lên rành rành vậy mà ông ta dám quả quyết là trâu ăn trộm. trời đất
làm chứng dùm.
Kẻ khác khóc mùi mẫm:
- Rũi bề gì, mình mất trâu, lại ở tù oan mạng. Phó hương quản sao lại chấp chứa
hắn?
Phó hương quản trợn mắt:
- Tôi hổ lắm rồi. Bà con yên tâm. Ta hãy tìm cách gỡ rối, lấy độc trừ độc... bà
con giúp tôi vài cơ mưu...
Một người nói xen vào:
- Tôi biết trồi. Thừa dịp này, mình nên sửa dấu riêng trên trâu bò mình để chạy
án. Theo kinh nghiệm ông bà còn để lại, mình cứ nướng sắt cho đỏ rồi đót ngay
xoáy của con trâu để nó ... bớt xoáy. Hoặc chặt một khúc chuối cây hơ lửa cho
nóng rồi đút sừng trâu vô mà uốn bộ sừng của nó cho bớt cong...
Phó hương quản gật gù, nhìn xuống mé sông. Thầy ta reo to:
- Hay quá. Vợ tôi tới thăm tôi kìa!
Có người nổi nóng:
- Vợ tới thăm mà cũng"hay quá"! Thầy sung sướng trong lúc bà con chòm
xóm đang tán gia bại sản.
Sau khi ra sân nói chuyện rù rì với bà vợ, phó hương quản trở vào tiệm, nói khẻ:
- Mời anh em tụ họp lại, nghe tôi nói rõ đầu đuôi. Số là tên Hăngri nó nhiều
hành động dian dối. Hổm rày, vợ tôi theo dõi hắn. Hắn dự trữ trong cặp da môt số"bài
kía," đóng dấu giả: Hắn coi"bài kía" của trâu bò lối xóm rồi sao
y, điền vô khoảng trống trong "bài kía" giả của hắn. Xong xuôi, hắn...
ăn gian ngày tháng. Thí dụ như trâu bò của bọn mình vô bộ năm 1935 thì hắn ghi
là 1934. Vợ tôi htấy rõ ràng hắn đang"sao y bổn chánh" , lúc tôi vắng
mặt. Hắn tưởng vợ tôi dốt.
Một nạn nhân nổi giận:
- Tôi chém nó mới được.
Phó hương quản nói:
- Ðừng! Chém ruồi ai dùng gươm vàng làm chi. Tôi tính như vầy: đêm nay tôi ăn cắp
cái cặp da đựng "bài kía" của hắn. Rồi tôi tri hô rằng ăn trộm đã lẻn
vào nhà tôi. Tất nhiên bà con mình nên sắp xếp sẵn. Một người nào đó cứ chạy
phía trước, giả như kẻ trộm xách cái cặp da. Rồi bà con xúm nhau đuổi phía sau.
Tên Hăngri cũng rượt theo để giựt cái cặp da trở lại. Thừa dịp đó, mình dùng củi
khúc mà ném cho hắn ta u đầu, què cẳng.
Nửa giờ sau, kế hoạch được thi hành. Tên Hăngri hốt hoảng, yêu cầu dân làng
giúp hắn giựt lại cái cặp da:
- Tôi hứa trọng thưởng. Tôi hứa tha tội cho bà con!
Nhưng ai nấy cứ hò hét, chạy dồn về phía hắn, hươi gậy gộc... Hắn hốt hoảng chạy.
Dân làng đuổi theo mãi.
Riêng thầy phó hương quản thì dè dặt hơn. Thầy ngồi núp trong bụi chuối, đề
phòng trường hợp tên Hăngri là thanh tra... thứ thiệt. Hắn sẽ rút súng bắn thầy
và truy tố thầy là kẻ chủ mưu.
Thầy thất vọng vì quả thật hắn không có súng.
Và dân làng hơi thất vọng, mất hào hứng. Cuộc rượt bắt diễn ra quá nhanh. Chạy
được chừng trăm thước, tên Hăngri quẹo xuốngmé kinh xáng rồi té quỵ, rơi tòm
trong bóng tối.
Có lẽ hắn biết lội, nên sáng hôm sau không ai thấy"anh hùng rơm" trở
lại làng Bình An, và dân chài lưới tuyệt nhiên chẳng gặp cái thây ma chết trôi
nào!
Bức tranh con heo
Gia đình ông hương trưởng Neo rất nổi danh ở làng Thạnh Hòa.
Rồi mới đến lập nghiệp, ông hương trưởng chuyên nghề đốn củi trong rừng, bà thì
bày ra sáng kiến nuôi heo nọc - heo đực, không thiến - dành để gây giống.
Phương châm của hai vợ chồng trẻ thưở ấy là:"đại phú do thiên, tiểu phú do
cần." Ông hưởng trưởng tỏ ra bảo thủ, giữ cái búi tóc và trung thành với
chánh phủ thuộc địa, đến mức chẳng bao giờ đốn củi lậu thuế. Bà hương noi theo
thôn lệ cổ truyền. Hễ ai có heo để nái, muốn cho nhảy đực lấy giống thì bà dẫn
con heo nọc tới, kiểm soát cẩn thận, để phòng trường hợp thân chủ lợi dụng con
heo nọc nọ"nhảy" liên tiếp hai con heo nái, thay vì một con. Ðến ngày
heo sinh đẻ, nhơn danh là là chủ heo nọc, bà được quyền "ưu tiên," lựa
chọn con heo nào khoẻ khoắn nhứt, đem về nuôi hoặc bán lại cho kẻ khác.
Lần hồi, gia đình trở nên khá giả, ông hương trưởng bỏ nghề đốn củi, mua đất, lập
vườn. Theo sáng kiến của bà, ông cũng cho hương chức đình, liên tiếp ba năm liền,
một số tiền khá to khi tổ chức lễ kỳ yên hàng năm. Lẽ dĩ nhiên, ông được ngồi
mâm trên tham dự phần xôi thịt hơi nhiêù và hơi ngon. Việc gì đến phải đến. Ông
được chức hội tề phong cho làm hương trưởng, cai trị dân làng bằng cách suốt
ngày ở không. Thỉnh thoảng đi nhậu nhẹt hoặc mặc ái dài khăn đóng trong dịp đón
rước quan chủ quận, chủ tỉnh thời Pháp thuộc. Thật ra, ông không có quyền hạn
gì ráo. Ông muốn như thế để có thời giờ rảnh rỗi lo việc chăn nuôi, lập vườn.
Nhưng có tiền nhiều để làm gì? Trong làng Thạnh Hoà, từ mấy năm qua, thiên hạ
đàm tiếu:
- Vợ chồng hương trưởng Neo Khờ khạo quá. Có tiền mà sống như người nhà quê, thời"đàng
cựu." Không chừng ổng bả chưa thấy đèn điện hoặc chiếc xe hơi.
Bà hương trưởng đã nhiều lần tỉ tê với chồng:
- Bữa nào mình ra chợ... một lần cho thiên hạ biết mặt. Tôi sợ tốn tiền.
Ông gật đầu:
- Lâu lâu cho nó tốn môt lần. Hơi đâu bà ngán miệng lằn lưỡi mối của thiên hạ.
Mấy người kiêu ngạo vợ chồng mình, bà thử nhớ mặt họ. Nè, thằng Tám Theo, làm
cu li xe kéo ở chợ rồi thất bại, trở về xóm này để làm ruộng. Nó tưởng làm ruộng
dễ lắm. Ruộng thất, nó sạt nghiệp. Lại còn thằng Tư Mít, vừa bán hủ tiếu, vừa cờ
bạc. Nó bị"tổ trác" phần vì thua cờ bạc, phần vì nấu hủ tiếu không
ngon. Nó thấy vợ chồng mình làm ăn khá giả rồi nó ganh tỵ.
- Đâu phải! Nó khinh vợ chồng mình hạ tiện.
- Mà bà hà tiện thiệt! Họ nói không oan đâu!
- Hứ! lâu lâu tôi cũng dám xài tiền một lần. Ông đừng hùa theo người hàng xóm
mà chê bai tôi. Bây giờ tôi nhứt định đi chợ Rạch Giá một chuyến cho... phỉ
tình. Tôi sợ điều này...
- Ðiều gì? Ðàn bà đâu có đóng thuế thân mà bà sợ lính bắt. Cònt ôi thì năm nào
năm nấy, đóng đầy đủ. Tôi là người"chức việc" trong làng.
Bà hương trưởng nói khẽ:
- Ở nhà thì tôi biết khôn biết dại, ngặt ra chợ ra búa, đi làm sao, đứng làm
sao, mua sắm làm sao, tôi chưa từng biết.
Ðể tỏ rằng"ta đây xứng đáng làm chồng." Ông hương trưởng quả quyết:
- Bà đừng lo. Tôi chỉ dẫn cho bà từng đường đi nước bước. Tuy chưa ra chợ lần
nào nhưng tôi giao thiệp nhiều với mấy người đã từng đi chợ. Bà tin tôi đi.
- Tôi sợ ông xài lãng nhách, tốn kém nhiều quá.
Ông hương trưởng Neo cằn nhằn:
- Hà tiện gì dữ vậy? Chừng năm chục đồng đủ rồi.
- Làm gì tới năm chục đồng... Tính ra là một con heo đúng tạ, hàng trăm con gà
mái. Mình đi sáng sớm hoặc hừng đông, cho kịp chuyến đò. Tới chiều, mình đi tàu
trở về. Ðể"thằng bạn" ở nhà, cho nó coi chừng trộm cướp. Tôi nghĩ
cách: chèo ghe ra chợ. Ngặt tốn thêm một miệng ăn. Nghe đâu ở chợ, mỗi bữa ăn tốn
kém bằng năm, bằng mười ở nhà quê.
Ông hương trưởng thở dài:
- Ra tới chợ, mình phải ăn, phải uống. Xuống tàu đò, mình phải ăn, phải uống.
Bà hương trưởng như chợt nảy ra sáng kiến:
- Ă uống dễ quá, tôi lo cho ông... ăn cành hông. Ðể coi! Tiền tàu mỗi người bảy
cắc, hai người là một đồng tư, bận đi bận về là hai đồng tám cắc. Mình đem theo
năm đồng đủ rồi. Năm đồng là một phần mười của số tiền mà ông dự định. SÁng mốt
mình ra chợ, cho thiên hạ đừng khinh, ông chịu không?
Chiếc tàu đò Phước Sanh tách bến từ lâu rồi - kiểu tàu xưa, không có tần trên -
tất cả hành khách ngồi chen chúc nhau trên hai hàng"băng" đóng sát be
tàu. Hành khách bắt đầu mệt mỏi: máy tầu nổ quá to, hơi xăng nhớt toả ra ngùn
ngụt. Tim và phổi của hành khách đều sống chung trong tình trạng bất bình thường.
Ông hương trưởng Neo đã khéo léo chen lấn, giành chỗ ngồi ở khoang giữa. Lẽ dĩ
nhiên, bà ngồi kế bên ông. Ông cười tủm mãi vì tàu đò ít nhảy sóng. Nhiều người
cho rằng hễ đi chưa quen thì hành khách có thể ụa mửa. Ông nói với bà:
- Sướng hơn đi bằng ghe biển. Vậy mà thiên hạ đồn đãi lung tung.
Bà đáp:
- Chật chội quá. Làm sao ông nói với người kế bên... Xét dùm. Mỏi cái bắp
đùi...
Bây giờ ông mới sực nhớ đến mớ hành lý quan trọng mà bà vợ cụ bị mang theo. Ðó
là mớ gà rô tiểu nhân, vịt luộc gói khéo léo trong tờ giấy nhựt trình. Bên
ngoài, có hai ba sợi dây buộc chặt. Bà vợ lãnh phần gìn giữ, ôm sát vào mình.
Lúc mới xuống tàu, ông đã chỉ dạy:
- Cứ để bên"băng" còn trống. Nhưng dọc đường, hành khách tăng thêm.
Bà hương trưởng đành ôm gói hành lý vào lòng, đặt trên đùi. Dưới tàu, vài em bé
đi tới lui, bán đậu phộng rang, nước cam, nước xá xị.
Bà nói khẽ với chồng:
- Mấy thứ đó ăn uống vào sanh bịnh! Ðồ ăn thiếu gì, trong gói nè. Cái gì... gái
đậu phộng nhỏ xíu, bán năm cắc!
Ông hương trưởng bắt đầu áy náy. Kế hoạch tự túc của bà vợ tuy khôn khéo nhưng
hơi khác thiên hạ. Bà nói:
- Ăn được chưa?
Khó xử quá! Nếu mở gói"hành lý" ăn tại chỗ thì thiên hạ cười chê. Ngược
lại, nếu bắt buộc bà ôm cái gói khá nặng ấy vào lòng thì lại tội nghiệp. Ông nhớ
rõ: đêm rồi, bà vợ thức từ hồi canh tư, bắc nước nhổ lông gà, lông vịt rồi thì
luộc, rô tiểu nhân, bay mùi thơm phức. Bà lại còn thắp đèn, ra sau vườn hái
thêm mớ rau sống: "rau tốt quá! Bao nhiêu đây, nghe đâu ở ngoài chợ họ bán
tới giá hai đồng bạc. Tội tình gì mình không hái đem theo".
- Ăn chưa! Tôi đói bụng rồi!
Nghe bà vợ thúc hối, ông hương trưởng bắt đầu hơi mệt. Ông cũng đói như bà. Ông
rất thông cảm. Ở nhà quê, vào khoảng chín giờ sáng là ai nấy bắt đầu ăn cơm
trưa, tức là buổi ăn lót lòng sáng và buổi cơm trưa nhập một. Nhưng trong lúc tất
cả bộ hành đều tỉnh táo, chẳng lẽ hai vợ chồng ăn riêng, coi hơi kỳ.
Ông nói nhỏ:
- Chờ lát nữa. thiên hạ chưa ăn mà!
Nói xong, ông ho lên một tràng. Bên hàng ghế đối diện, một người gọi thằng bé
bán dạo, mua chai xá xị, nút ở nghe cái bốp. Nước ngột chảy từ từ vào cái ly,
sôi bọt, ông hương trưởng không còn nhịn thêm được nữa:
- Bà có đem nước theo không? Tôi thèm nước trà quá. Uống được rồi. Thiên hạ uống
kìa!
Gói giấy từ từ mở ra, rất lâu, theo ngón tay khéo léo của bà hương trưởng. Bà
tháo gút dây cẩn thận rồi cuốn sợi dây lại, để dành.
- Quăng bỏ đi! Ông nói.
- Ðể buộc lại chớ. Gà tới hai con. Vịt luộc cũng vậy. Ăn sao hết, để ngoài gió,
rủi bụi bặm vào hoặc có con dời nó bò, dính vào thịt gà. Ăn nhằm con dời là chết!
Ông quên rồi sao?
- Ðem làm gì nhiều dữ vậy! Tôi tưởng bà làm thịt một con gà, một con vịt, dè
đâu tất cả tới bốn con...
- Ăn sáng rồi còn bận về, mình ăn chiều. Mấy chục năm qua, mình sống bằng nghề
nuôi gà vịt, bữa nay ăn một bữa thoả thuê. Tốn kém gì? Cây nhà lá vườn mà!
Mấy người bên cạnh đều trố mắt, lắng tai nghe tâm sự của bà bộ hành đặc biệt ấy.
Họ cố gắng che giấu nụ cười. Bà hưởng trưởng ngỡ mình có duyên, nói tiếp:
- Hay là ông nhớ thịt heo! Nhà mình còn hai con heo đúng tạ, bán sớm quá, hơi uổng.
Tôi biết tánh ông ưa ăn thịt heo luộc nên mua hồi hôm qua tới nửa cân thịt ba rọi.
Ông hương trưởng nhăn mặt:
- Nhiều quá, ai ăn cho hết?
Bà vợ vẫn chưa hiểu:
- Tôi xắt từng miếng nhỏ rồi. Tôi hiểu mà. Dọc đường như vậy, dễ gì mượn tấm thớt
với cây dao.
Ðể chấm dứt sự hiểu lầm ấy, ông gật đầu:
- Lát nữa hãy ăn. Tôi muốn uống hà.
Bà hương trưởng đưa ra chai nước, xung quanh chai có quấn giấy nhựt trình để khỏi
dính mùi thịt gà:
- Cái chai sạch thiệc sạch. Ông uống đi!
- Bà gói lại đi. Ðể cái chai này ở ngoài.
- Vậy hả?
Thấy ông chồng hơi lúng túng vì chẵng lẽ đưa miệng chai vào miệng mà nốc, bà chắt
lưỡi:
- Tôi quên đem theo cái ly, cái chén. Hồi hừng sáng, tôi nhớ kỹ, đem theo hai
đôi đũa để gắp thịt, nhè quên cái ly uống nước.
- Ðược rồi!
Vừa nói, ông vừ anâng chai, uống ừng ực mớ nước trà nguội ngắt trao cho bà. Bà
uống, hạ chai xuống, thở ra khoan khoái.
- Như vậy đỡ tốn một đồng bạc. Ủa! Hai đồng bạc chớ. Một chai xá xị là một đồng.
Hai chai là hai đồng. Chai gì mà nhỏ xíu cái ruột. Mình coi kìa!
Ông hương trưởng ngồi im, không dám gợi chuyện thêm. Tàu cứ chạy. Hành khách bắt
đầu uể oải vì đường còn khá xa. Vài người dựa đầu vào vách mui tàu mà ngủ hoặc
bàn tán chuyện riêng tư, chẳng còn ai chú ý tới sự thắc mắc của hai vợ chồng
người đồng hành.
Ông hương trưởng hỏi người kế bên:
- Gần tới chợ Rạch Giá chưa?
Người nọ đáp:
- Chừng hai giờ nữa.
Ông buồn rầu. Như vậy là đúng ngọ tàu mới cặp bến. May thay, tiếng rao lanh lảnh
của thàng bé bán hàng rong đã mở cho ông một lối thoát kỳ diệu:
- Ai ăn cơm sườn không?
Nó bưng hai đĩa cơm nghi ngút. Ði tới lui. Bà vợ mừng quýnh:
- Chừng này ăn được rồi. Mình đem thịt gà thịt vịt ra ăn. Tệ quá. Coi đĩa cơm
kìa! Bán năm cắc, đâu chừng một chén cơm với nửa miếng sườn. Tôi đói quá.
Ông đáp:
- Ăn hấp tấp quá, người ta cười. Mình cứ chờ.
- Kìa! Có người mua cơm. Họ ăn kìa.
- Nãy giờ tôi suy nghĩ điều này, bà có nhớ hay quên? Ăn thịt gà thịt vịt với
món gì? Ðể tôi biểu thằng nhỏ đó bán một cắc bạc cơm, cơm không rẽ tiền. Chẳng
lẽ mình ăn thịt gà thịt vịt trừ cơm!
Bà cười tủm tỉm, như kẻ đắc thắng, thắng một ván cờ khá gay go, với chồng:
- Tôi nấu cơm nếp đem theo. Nhiều lắm.
- Sao tôi không hửi mùi?
- Hửi làm sao được. Hồi khuya, rô tiểu nhânxong con gà, tôi thấy nó chảy mỡ quá
nhiều. Tôi tiếc hùi hịu, nên nấu cơm nếp, trộn với mỡ gà. Cơm nếp đó nằm trong
gói này. Nó thơm như thịt gà vậy!
Thế là hành khách lại chứng kiến một cảnh vui vui: gói hành lý, lương thực được
mở ra. Bắp đùi của ông và của bà kề sát lại, trở thành cái mâm cơm. Họ ngồi kề
vai nhau; bà tặng cho ông một cái đùi gà, ông nói lẩm bẩm:
- Bậy quá! thiếu rượu đế!
- Hí! Uống rượu say sưa, thiên hạ phiền. Nè, nem sống thiếu gì! Cây nhà lá vườn.
Rau răm, rau húng cây, rau húng lủi... nè dưa leo, nè ớt.
Hành khách đổ dồn hàng chục đôi mắt về hía đôi vợ chồng già. Bà nói với ông:
- Mời họ ăn không? Mình nên mời một tiếng.
- Theo tục lệ, không ai mời ai cả. Ra đường, mạnh ai nấy lo, tiền ai nấy xài.
Thí dụ như chiếc tàu này gặp dông bão, rủi chìm thì mạng ai nấy lội. Chết ai nấy
chịu. Mình mời lung tung, thiên hạ không ưa. Bộ mình khinh khi, cho rằng thiên
hạ đói hay sao? Họ no hết rồi. Họ không ăn như mình chì vì... họ no hoặc họ
chưa muốn ăn. Mình cứ tự nhiên, đừng mắc cỡ.
° °
°
Hai vợ chồng lên bờ sau chót. Bầu không khí nóng nực quá. buổi
trưa, chọ vắng teo. Hầu hết các tiệm phố đều đóng cửa hoặc hép bớt cửa cái.
Bà hương trưởng sửng sốt vì đường đá quá rộng và quá cứng! Chỗ này đá trồi lên
lởm chởm, đau chân, chỗ kia, mặt đường đen thui, nhão nhoẹt mớ dầu hắc tráng đường
chảy ra như dầu sôi. Ông hương trưởng cắm đầu, bước tới, sát bên lề:
- Mình cứ đi theo tôi! Cứ theo đường thẳng từ đây tới mé sông. Rồi từ mé sông
trở lại bến tàu này, kẻo lạc lối. Buồn quá!
Ông hương trưởng không muốn che giấu nỗi buồn vô tận của mình. Người quá lại
khá nhiều nhưng chẳng một ai chịu khó nhìn ông, chào hỏi như ở thôn quê. Rõ
ràng chợ búa là chốn buồn tẻ, buổi trưa, muốn tìm bóng mát, đâu phải dễ. Vào
quán thì sợ tốn tiền. Còn đi như vầy hoài, thiệt là hành hạ tấm thân.
Nhưng bà vợ phía sau đã nêu vấn đề:
- Kiếm chỗ nào nghỉ chân một chút.
- Nãy giờ tôi cũng như bà. Mỏi quá. Mình vô quán ăn.
- Bộ ông còn đói hả?
- Mình mượn cái ghế mà ngồi... tạm. Họ tính bao nhiêu thì mình trả. Vài cắc bạc,
chớ không lẽ nhiều.
- Phải à, mình kiếm một cái quán nào nho nhỏ, uống bậy chén nước trà Huế, không
chừng rẽ hơn.
- Ông bà đi chợ! Chào ông bà! Hân hạnh cho tôi quá.
Lần đầu tiên tù khi lên đường xa xứ, vợ chồng hương trưởng Neo nghe giọng nói ấm
áp, mát rượi như vậy.
Người ấy ngồi trên chiếc chiếu hơi rách, đang ăn bữa cơm đạm bạc: một đĩa cá
kho, một dĩa dưa cải. Ăn một mình, dựa lưng vào vách.
Ông hương trưởng nói:
- Chaò ông! Xin lỗi, ông quen với vợ chồng tôi hồi nào?
Người ấy vuốt mái tóc, vuốt hai cái tay áo cho thẳng thớm:
- Chưa quen, nhưng tôi biết ông bà là người khá giả ở trong làng. Mấy khi ông
bà ra chợ chơi. Ông bà làm trong ban hội tề. làm tới chức...
Bà vợ mừng quýnh, buột miệng nói:
- Chức hương trưởng làng Thạnh Hoà.
- Mời ông bà ngồi, dùng cơm với tôi.
Người ấy vừa nói, vừa liếc nhìn cái gói hành lý mà bà hương trưởng đeo trong
cánh tay.
Ông liếc về phía vợ, như để hỏi ý kiến:
- Mình ngồi cho khoẻ chân.
Bà gật đầu:
- Rồi ăn luôn với ông này.
Bữa tiệc... khai mạc khá sôi nổi ấm áp.
Ông bà ăn chiếu lệ vì còn hơi no. Nhưng anh nọ ăn hơi nhiêù, vừa ăn vừa hỏi han
về tình hình mùa màng trong làng Thạnh Hoà. Ăn hết con gà, con vịt, anh ta
không ngần ngại gắp mấy miếng thịt ba rọi heo, nhai ngấu nghiến với rau sống,
nhai liền miệng:
- Ngọn quá! Heo ngoài chợ ăn không mấy ngọt bằng heo của ông bà.
Bà vợ gật đầu:
- Nhà tôi nuôi heo nhiều lắm. Chừng nào rảnh ông vô Thạnh Hoà mà xem. Còn một
chuồng... Ông cứ ăn cho hết đi.
- Cám ơn ông bà. Nhưng tôi biết lấy gì làm kỷ niệm. À... Xin thú thật với ông
bà, tôi làm nghề.. thầy thuốc, chuyên bán thuốc nuôi heo mau lớn. Ngặt thuốc
bán không đủ, thiên hạ mua nhiều quá rồi. Phải chi ông bà tới sớm một chút. Chờ
xem.
Nói xong, anh ta đứng dậy, chạy vào ngõ kêu đem ra... một bức tranh: con heo
khá to, đuôi cong lên, mình heo có điểm vòng tròn âm dương:
- Ông đem về, dán ngay cửa nhà, làm ăn phát đạt lắm!
Bà hương trưởng ngắm nghía bức tranh, gật đầu. Trong lùng khi đó, ông hương trưởng
nghĩ ngợi xa xôi hơn. Anh nọ lạnh lùng gói mớ thịt heo, thịt gà... để làm của
riêng, đặt trong góc vách. Trông anh ta đói quá. Còn đói, còn thèm nhưng anh ta
muốn để dành cho buổi ăn chiều.
- Ngộ quá!
Anh nọ gật đầu, đứng dậy như để ... đuổi khách.
- Cám ơn ông bà. Hẹn ông bà lát nữa hoặc tối nay đi ăn cao lầu... đi coi hát!
Lại một sự tốn kém mới. Ông hương trưởng chợt hiểu: nếu hắn không là kẻ hoàn
toàn bất lương thì hắn cũng đang sống trong tình trạng... ghiền á phiện hoặc thất
nghiệp. Ông lật đật nắm tay vợ:
- Thôi mình về!
Rồi day lại chào anh nọ.
Bà vợ còn mân mê bức tranh heo:
- Ngộ quá! Ðem về dán trước của nhà. Vui quá! Làm ăn tấn phát, thiệt vậy hả
ông?
- Mình về, đủ rồi.
- Cái hình ngộ quá. Mình thấy không! Bữa nay toàn chuyệnmay mắn, không tốn đồng
xu. Coi hình tốt quá.
Ông nói cho bà vợ được hưởng trọn niềm vui trong ảo mộng xa vời:
- Tốt lắm. Ðem về dán trước cửa. Hễ gà vịt hoặc heo mà đau ốm thì mình van vái
cái hình đó. Gà đẻ ra nhiều trứng, heo mập như thổi, vài ngày đúng tạ... mình
làm giàu, cái tờ cử hương trưởng của tôi đem danh, cái hình này đem lợi... Ðủ
danh đủ lợi rồi.
Ðảng xăm mình
Ông Tây Lơ Pheo vừa được"nhà nước thuộc địa Nam Kỳ"
cấp cho một phầnd dất hoang vu, sình lầy ở rạch Xẻo Quao, làng Ðông Hưng, sát
mé biển vịnh Xiêm La.
Sau khi hay tin ấy, mấy ông điền chủ Việt Nam ở gần không ngớt bàn tán:
- Bộ thằng Tây đó muốn tán gia bại sản sao chớ? Thứ đất khô không ra khô, ướt
không ra ướt, tràm mọc vài cụm xơ rơ... Biết chừng nào mới làm ruộng được. Cỏ mọc
cao hơn đầu người.
Có người đáp lại:
- Ông Lơ Pheo không ngu dại gì đâu, ông làm tới chức"bác vật," ông có
vốn liếng nhiều. Vài chục năm nữa, đất phèn, mùa nàng thạch mậu nhờ ổng mướn
người xẻ kinh, đào mương cho rút bớt chất phèn.
- Vô lý. Vài chục năm sau, ông Lơ Pheo chết ngắt. Biết đâu Tây rút lui về chánh
quốc trước khi đất này trở thành "đất thuộc" có huê lợi. Ông Trạng
Trình tiên đoán rằng... thầy tăng trở về... gì đó, bà con mình quên rồi sao?
Nhưng Sấm Trạng Trình, năm ấy, chưa ứng nghiệm. Co bộ còn hơi lâu Tây mới rút về
nước họ. nhà nước Tây còn mạnh lắm. Quan chủ quận vừa gời trát xuống cho thầy
hương quản"tuân cứ" là hôm sau cả ban hội tề Ðông Hưng mặc chỉnh tề,
khăn đóng, áo dài đen, chầu chực đón rước vị điền chủ mới.
Ông Lơ Pheo nói sành sỏi tiếng Việt Nam, không cần ai làm thôn ngôn. Ông không
mang theo khí giới, súng đạn, khi người ta là một tay lịch lãm, dám bỏ quê xứ để
qua thuộc địa miền nhiệt đới, khi người ta có bộ óc khá to, có cái trán sói sọi
vì quá suy tư.
Nghe trình bày những khó khăn trong công việc làm ăn, ông Lơ Pheo mỉm cười:
- Hèn gì... Ngành canh nông ở đây kém phát triển, thua Nhật Bổn, Miến Ðiện, Nam
Dương. Ðất nào mà không sanh ra huê lợi. Vậy chớ mấy ông điền chủ"An
Nam" ở gần đất của tôi sanh sốn bằng nghề gì?
Thầy hương quản nói:
- Dạ, họ không làm ruộng.
Ông Lơ Pheo trố mắt:
- Tại sao họ xưng là người trồng tỉa lúa gạo. Họ khai trong giấy tờ
làRi-di-cun-tưa (Riziculteur).
Thầy hương quản gãi đầu:
- Họ sống bằng nghề nuôi cá.
- Ồ!Phọt-mi-đáp . Nuôi cá là chuyện khác với làm ruộng. Bây giờ, thầy hương quản
cứ cho tôi biết. Mỗi mùa nuôi bao nhiêu... con cá? Loại cá gì? Cho cá ăn mồi
gì? Làm sao có đủ thức ăn cho cá lớn? Lúc cá đẻ, phải săn sóc cá mẹ cá con ra
sao? Mỗi ngày, cá ăn mấy lần? Mỗi năm, bán được bao nhiêu tiền?...
Thầy hương quản nói tóm tắt:
- Dạ, theo chỗ tôi biết thì mỗi người chủ đều bán ra vài chục ngàn kí lô cá. Ðó
là cá lóc, cá trê, cá rô do trời sanh, trời dưỡng. Từ hồi... tạo thiên lập địa,
cá kiếm ăn một mình. Mình cứ ở không, uống rưọu mà chờ mùa nắng để bắt cá một lần.
Gọi tắt là mấy ông điền chủ"An Nam" đắp vuông nuôi cá. Nuôi cá trong
cái"vuông" .
- Vuông là cái gì? Sao tôi chưa nghe sách vở nói tới. Cái hình bốn góc bằng
nhau. Làm sao cá ở trong đó?
Thật vô cùng bối rối cho thầy hương quản. Làm sao giải thích rõ ràng cho ông
Tây thuộc địa nghe được. Thầ ngỏ ý muốn đưa ông Lơ Pheo ra ngoài vuông để ông
ta quan sát tận nơi. Trời nắng chang chang, đổ sao. Ông Lơ Pheo lắc đầu, nghĩ đến
những vụ ám sát, bắt cóc. Phía chân trời, dường như có một dẫy rừng chạy dài.
Rốt cuộc, thầy hương quản nói:
- Dạ, đó là một khoảng đất rộng từ bảy chục, tám chục hoặc hai ba trăm mẫu.
Trong khoảng đất hoang vu, người ta đào nhiều đường mương nhỏ, như bàn cờ, cho
cá ở. Bên ngoài có bờ bao ngạn như vòng thành khá cao. Cao hơn một thước tây.
Vì vậy cá lội quanh quẩn trong vùng đất bao la bên trong. Làm sao cá nhảy ra khỏi
bờ bao ngạn được. Cái vuông ấy không nhứt thiết hình vuông. Nó méo mó, hoặc
theo hình chữ nhựt.
Ông Lơ Pheo thích chí:
- Tôi hiểu rồi. Giỏi quá! Nhưng mà... làm sao gom cá lại một chỗ, bắt cá đem
lên. Chẳng lẽ dùngmáy bơm để hút nước ra ngoài. Muốn bắt cá, phải tốn bao nhiêu
nhân công?
- Dạ bẩm, quan lớn... Qua mùa hạn bao nhiêu cá đều rút xuống mương, tự nhiên.
Chừngmương cạn thì thì cá rút lui từ từ, dẫn vào một cái đìa khá to, ở sát bờ
bao ngạn. Mình cất nhà ở bên cái đìa đó, để coi chừng kẻ trộm. cứ tát đìa. Cá lớn
thì bán. Cá nhỏ thì để dành làm giống cho mùa tới.
Ông Lơ Pheo gật đầu lia lịa, khoát tay ra dấu nhận lời thầy hương quản. Chẳng lẽ
người Pháp lại thua trí người nông phu"An Nam" ? ông ta nói nhanh:
- Tôi hiểu rồi. Mấy người nuôi cá theo kiểu... cái Biển Hồ trên xứ Cao Miên.
Mùa mưa cá lên rừng, lên ruộng, sanh đẻ trong lồng cỏ. Mùa nắng, cá gom xuống
ao hồ. Tôi làm bài toán rồi. Mỗi năm, một cón cá mẹ sanh ra chừng mười ngàn cá
con, hay quá.
- Như vậy nghĩa là quan lớn thấy xa hiểu rộng hơn tôi nhiều. Sáng mai, tôi dẫn
quan lớn đi thăm mấy cái ruộng của điền chủ"bổn xứ" , gần đây...
- Cám ơn. Tôi đắp một cái ruộng, lớn bằng hai bằng ba... cho điền chủ An Nam
noi theo. Ờ, tại sao mấy người điền chủ ở đây không làm giàu. Cá nưôi không cần
mồi. Tiền bạc ở đâu? Tại sao không ai cất nhà lầu, mua tàu bè, lập nhà máy xay
lúa. Tại sao ông chủ ruộng nào cũng nghèo xơ xác?
Thầy hương quản mỉm cười bí mật. Thầy ta cũng là một người chủ vuông, luôn cả
những người trong ban hương chức hội tề:
- Thưa ông, khó nói quá.
- Sao vậy? Tại vì mấy người chủ vuông hút á phiện, mê cờ bạc?
- Dạ, khó nói quá.
° °
°
Ông Lơ Pheo lấy làm hài lòng khi ông đích thân đến quan sát
vùng đất, ông phác hoạ kế hoạch tương lai.
Này, cái bản đồ với bón góc A,B,C,D có thể chứa hàng triệu con cá.
Này, cái trại vuông, lợp bằng thiếc, nền lát gạch, vách ván, có cửa sổ che lưới
sát mịn để ngừa loại muỗi đòn xóc gây bịnh rét rừng.
Này, cái phòng khách. Bên góc, có bình lọc nước, thư viện nghiên cứu. Và trước
sân là một cái hồ nhỏ, cẩn xi măng để nuôi thử vài loại cá lóc, cá trê. mấy loại
này sẽ lai giống, gây ra vài thứ cá mau lớn, dễ nuôi hơn, ăn ngon hơn.
Ngày đắp xong cái vuông, ông khen thưởng bọn"culi" một con heo quay.
Rồi suốt ngày, ông nằm trong trại, theo dõi tình hình nuôi cá.
Vài người đàn ông đen đúa, ở trần, tóc dài tới ót đi qua đi lại gần trại nuôi
cá của ông Lơ Pheo.
Họ chào ông, ông chào họ. Họ tự xưng là người"làm ăn lương thiện" ở
ngoài mé biển. Họ hút điếu thuốc của ông Lơ Pheo thân tặng rồi họ nheo mắt, khều
nhau.
Họ nói nói, cười cười như âm mưu chuyện gì.
Ông Lơ Pheo cau mày, linh tính như báo trước chuyện bất an. Ngực của mấy kẻ"làm
ăn lương thiện"ấy xâm đầy chữ Tàu, chữ quốc ngữ, luôn cả chữ Pháp. Bí mật
quá.
Chờ khi họ khuất dạng, ông Lơ Pheo đến nhà hương quản:
- Mấy người ở đâu vậy? Tên họ gì? Có đóng giấy thuế thân không? Hay là dân bất
lương?
Thầy hương quản nói:
- Họ ngoài mé biển, làm nghề câu cua, đốn củi, gài bẫy chim. Mấy nghề đó, nhà
nước Lang Sa đâu cấm đoán. Còn về giấy thuế thân thì... khó quá. Tôi chua dam1
hỏi thử vì làm vậy sợ mất cảm tình. Ðể tôi hỏi thầy xã trưỡng xem thử họ có ghi
tên trong bộ sỗ không.
Ông Lơ Pheo lắc đầu:
- Họ còn làm gì khác không? Coi bộ họ rảnh rang hơn tôi. À, họ biết chữ Tây
không?
- Dạ, làm sao biết được Ở làng này, chẳng ai biết chữ Tây hết.
- Nè, thầy hương quản. Họ xăm mấy chữ Pháp quá vô phép:"Plutôt la mort que
la honte"(thà chết hơn chịu nhục). Họ lại ở trần cho tôi đọc.
Thầy hương quản hơi bối rối:
- Họ xăm mình từ hồi nào lận kìa! Vả lại, chữ nho cũng vậy"Ninh thọ tử bất
ninh thọ nhục."đã xăm vào da vào thịt rồi thì làm sao bôi xoá được. Chữ
Tây mà. Chữ Tây ngụ nhiều ý nghĩa quá.
Ông Lơ Pheo lẩm bẩm:
- Câu đó để dành cho người Pháp bên chánh quốc. Hoặc cho tôi. Ở xứ Nam Kỳ này,
không nên nhắc lại câu đó, sợ dân tình bắt chước. Ngoài mé biển, còn chừng bao
nhiêu người sống lang thang rảnh rổi như vậy?
- Dạ, để tôi hỏi thầy phó hương quản. Phó hương quản lo trị dân ngoài đó.
- Phó hương quản là ngườ nào? Mặt mày ra sao? Kêu lại cho tôi biết mặt.
Thầy hương quản im lặng. Ngưòi xăm mình, xoay mấy chữ ngạo nghễ khi nãy chính
là phó hưong quãn chó còn ai đâu xa lạ. Thầy che giấu:
- Dạ, phó hưong quản giờ này đi câu cua ngoài biển.
- Dân ngoài mé biển hiền hậu không? Uống rượu nhiều không? Họ uống rượu với...
thịt chó hả? Ở vùng đồng bằng sông Hồng...
Thầy hương quản gật đầu để chấm dứt câu chuyện rắc rối.
- Dạ, uống rượu với thịt chó.
Rồi thầy ra về với nụ cưòi bí mật. Sự thật là dân miền biển ưa nhậu rượu với
cá, loại cá nước ngọt, nuôi trong vuông. Cá đồng ngon hơn loài cá biển. Nay
mai, đến mùa nước cạn, họ sẽ nhậu với cá trong vuông của ông Lơ Pheo và ăn trộm
cá để mua rượu. Họ ăn cá, thay cho cơm.
Ông Lơ Pheo vào trại, tỏ thái độ cương quyết. Ông vừa thắng một trận giặc lòng.
Lương tâm ông chẳng còn cắn rứt nữa. Ông quyết tâm vượt những khó khăn đầu tiên
mà cuộc kinh doanh nào cũng vấp phải. Kế hoạch đối phó của ông như thế này: Về
chợ Rạch Giá, tìm một tay võ sĩ, đánh lộn hay, chém lộn giỏi, rồi phong cho hắn
làm chức quản lý vuông cá. Ấy là lấy độc trị độc. Mỗi tháng, cứ tăng lương đều
đều cho hắn.
° °
°
Mấy tháng qua, Tư Liệt lấy làm vui thích. Với trách nhiệm to
tát, chú tư còn được quyền hạn khá rộng do ông Lơ Pheo giao cho.
Sáng sớm, vừa thức giấc là chú Tư Liệt dạo vòng quan bờ ruộng, đi hơn một tiếng
đồng hồ mới giáp bốn phía bờ bao ngạn. Chẳng có kẻ bất lương nào ẩn náu trong
vùng cấm địa cả! Ông Lơ Pheo đã la hoảng, vậy thôi. Trong vuông, chú Tư Liệt thấy
nào chi, cò, trích, cúm núm. Hàng trăm con le le bay lên từng chặp, từ mấy cái
lung đầy sen bạch, nở muộn. Gió chướng thổi hiu hiu. Mấy giề rong đuôi chồn tan
rã, chìm xuống. Mắt nước lềnh bềnh, đầy bông súng.
Mấy tấm bảng"Vuông này là của riêng của ông Lơ Pheo, Cá có chủ! Coi chừng!
Nếu trộm cắp sẽ bị nghiêm trị!"đứng trơ trẽn lạnh lùng trưóc cơn gió biển.
Thỉnh thoảng, vài con cò quắm đáp xuống, đâu thử trên đầu bảng. Nhưng chặp sau,
vì tấm bảng quá mỏng, nên cò quắm đau chân. Cò vỗ cánh, phóng uế, bay về phía rừng
mắm xanh rì để đậu. Cành mắm tròn đậu êm ngón chân hơn.
Tư Liệt ngáp dài, trở về trại, uống viên ký ninh, đúng theo lời căn dặn của ông
Lơ Pheo, và uống với nước lọc, những giọt nước mát lạnh nhểu xuống từ
cái"phít" bằng đất sét trắng. Buổi chơm chiều, chú ăn chậm rãi. Nhà
đóng kín, muỗi không lọt vào được. Ông Lơ Pheo đã trở về Sài Gòn từ tháng trước.
Tư Liệt nghiễm nhiên trở thành chủ nhà, chủ vuông cá. Còn năm ngày nữa, ông Lơ
Pheo mới trở lại Xẻo Quao này.
Chú nằm trên giường lắng tai. Bên ngoài có những tiếng động lạ thường.
Trong cái đìa sau trại, cá quậy nước nghe ầm ầm. Hàng ngàn con cá to đã gom vào
đó. Im một chặp, lại nghe tiếng"chép chép," "lụp bụp,"
"lào xào" ... cứ như thế, mỗi lúc một náo nhiệt.
Chú xách cây đèn"pin" , chạy ra ngoài rọi xuống đìa. Nước đục ngầu
pha trộn với bùn đen. Hằng hà sa số cá lóc, cá trê cố vùng vẫy, toan lội trở
ngược. Chú dạo một vòng, chung quanh bờ vuông. Cá gom xuống mương rồi. Cá muốn
lội dài theo dòng nước đục, gom vào cái đìa lớn. Chú rọi đèn"pin" ...
Vài con cá choá mắt, nhảy dựng đứng để trốn ra ngoài bờ bao ngạn khá cao.
"Cá ở đâu mà nhiều quá vậy?" Tư Liệt hỏi thầm.
Sau cuộc tuần tra ấy, Tư Liệt vào nhà mừng thầm vì nay mai ông Lơ Pheo sẽ hài
lòng.
Hừng sáng, chú thúc dậy sớm, dạo một vòng trên bờ vuông. Ðằng kia, đôi ba người
lực lưỡng đưa tay ngoắt chú. Bên cạnh họ, đống lửa cháy vàng lườm. Khói bay cuồn
cuồn, đưa màu cá nướng thơm phức. Thấy họ đông đảo và mạnh khoẻ hơn mình, Tư Liệt
dừng lại. Có tiếng kêu réo:
- Lại đây nhậu chơi nè. Chẳng lẽ ba người ráp đánh một người. Anh hùng một thứ
với nhau mà.
Tư Liệt cười gượng, đến gần. Ô hô! Nãy giờ, và có lẽ từ mấy ngày trước, họ ăn hằng
hai ba chục con cá lóc, cá trê, bỏ xương bỏ thịt một đống to. Dường như chưa
thoả mãn, họ đang chuẩn bị cặp vào gắp tre chừng mười con cá trê mà nướng tiếp
theo.
- Lại đây đại chúng ta. Uống một hớp cho tỉnh táo để thính lỗ tai, nghe tụi tôi
hạch tội.
Tư Liệt ngạc nhiên:
- Hổm rày, tôi đã làm gì khiến bà con hờn giận?
Một người trong bọn nói:
- Hồi tối, đại ca đi đâu. Rọi đèn"pin" để rình bắt tụi tôi hả? Rình
ban ngày chưa đủ sao? Lại đây ăn no rồi kéo tay sơ sơ coi ai mạnh, ai yếu. Nè!
Cá lóc Xẻo Quao ngon lắm, ngốn một miếng cho biết mùi. Ăn lớn miếng mới biết
ngon.
Cực chẳng đã, Tư Liệt phải ăn và uống. Bọn người cười vang:
- Cha nội này tiếc của dùm cho ông Lơ Pheo. Cá này là cá của mình mà. Tại sao đại
ca lại trung thành"bất tử" với ổng?
Tư Liệt hỏi nhanh:
- Cá ở đây vậy?
- Cá ở trong vuông trốn ra chớ ở đâu.
- Cá biết trốn à? Làm sao nó nhảy qua bờ bao ngạn, cao hơn một thước tây.
- Nó đào hang, đào ngách. Ðất mềm lắm. Kìa! Thí dụ, như mấy bụi sen bạch này.
Nó mọc phía ngoài nhưng nó trổ ngó, mọc thêm vài bụi phí trong vuông của ông Lơ
Pheo. Hai bụi sen dính liền với nhau. Thử đào đất lên thì biết. Lời tục thường
ví:"Ðất có con mắt" .
Hôm sau, ông Lơ Pheo từ Sài Gòn về Xẻo Quao để... bán cá. Ông hơi buồn phiền vì
Tư Liệt cứ vắng mặt. Chỉ còn người bạn tâm giao của ông ta là thầy hương quản.
Thầy hương quản nói:
- Xứ này khó làm giàu lắm. Bởi vậy, mấy ông điền chủ Xẻo Quao chỉ lo nhậu rượu
rồi làm hương chức hội tề cho vui. Làm sao phân biệt cái hang tự nhiên với cái
hang của tụi nó đào. Tôi biết. Gây gỗ với tụi nó vô ích.
Ông Lơ Pheo nói giọng chán ngán:
- Chắc thằng Tư Liệt theo đảng xăm mình rồi. Còn thầy có xăm mình không?
Thầy hương quản mỉm cười:
- Ôi thôi. Cá nước chim trời mà.
Cái va li bí mật
Ở đây là hòn Móng Tay, cách bờ biển hơn hai mươi cây số ngàn.
Tàu ngoại quốc thỉnh thoảng chạy qua lại ngoài xa xa. Ghe đánh lưới, ghe buôn lậu
ít khi nào ghé vì trên hòn chỉ có một ngọn suối quá nhỏ, cạn khô khi trời vừa
trở nắng.
Ấy thế mà Hai Khoánh ra đây, sống lây lất từ bốn tháng trường. Anh ta kéo chiếc
ghe lên bãi, che giấu cẩn thận trong bụi cây đầy gai. Cái ngày trở lại đất liền,
sống chung với xã hội loài người còn xa lơ xa lắc. Kẻ tù vượt ngục dường như sẽ
được ân xá, nếu hắn trốn thoát vòng tập nã của nhà nước Pháp suốt hai mươi năm.
Hồi bị giam ở khám đường Rạch Giá, Hai Khoánh nghe một bạn tù giảng giải như vậy.
Hai Khoánh chưa vội tin vì người bạn ấy nào phải quan toà hay thầy kiện mà rành
luật lệ.
- Tại sao nhà nước ân xá nếu mình trốn được hai chục năm?
Người bạn đáp:
- Vì suốt thời gian ấy mình ân hận, ăn không ngon, ngủ không yên. Nếu mười bảy,
mưòoi tám năm trôi qua mà mình còn hung bạo, cố lỳ thì tới năm thứ mười chín,
hai mươi mình cũng sám hối...
Nghe lời hữu lý ấy, Hai Khoánh cương quyết tẩu thoát. Thừa lúc bọn lính mã tà dẫn
đi nhổ cỏ trong vườn bông của ông chánh chủ tỉnh, anh ta cảm ơngiò, chạy nhanh
ra bãi biển, cưới chiếc ghe lưới, xổ buồm... nhờ gió đưa ra hòn Móng Tay. Lâu
ngày sanh buồn bực, anh ta lén vô bờ, ăn trộm gà vịt, xúc gạo của dân miền
duyên hải để rồi trở ra hòn Móng Tay, nơi hoang vu chẳng một bóng người.
Một sáng, khi thức dậy, Hai Khoánh nằm trên vồ đá khá cao chợt thấy có một chiếc
ghe chạy thẳng vào bãi. Từ dưới ghe, một người cao lớn, mặc quần áo đen bước
lên, tay xách vật gì giống như cái va li. Người nọ day lại, vẫy tay, tức thời
chiếc ghe nọ quay mũi chạy trở về mất dạng phía đất liền. Hai Khoánh rất đỗi
vui mừng. Ngưòi nọ nhứt định không phải là mật thám hay lính mã tà theo dõi
tung tích của mình! Chắc hắn ta buôn lậu, bị tàu"đoan" rượt nên lên
hòn Móng tay để ẩn thân, giấu mớ vàng hoặc á phiện. Không bỏ lỡ cơ hội, Hai
Khoánh lập tức theo dõi kẻ lạ mặt. Hắn theo con đường mòn duy nhất mà Hai
Khoánh đã dọn sẵn. Ðộ nửa giờ sau, nhờ rình núp sau tảng đá khá to, hai Khoánh
nghe tiếng lá khô xào xạc. Hắn lú ra, gương mặt mệt nhọc, đưa hai bàn tay ôm
cái va li trước ngực.
- Phải là vật nắng đôi ba chục kí lô! Hắn trông lạ quá, mắt xếch, cườm tay xăm
mình con rồng. Từ hồi nào tới giờ, mình chưa gặp hắn lần nào!
Bỗng dưng khách lạ dừng bước. Hai Khoánh nín thở, ngỡ rằng hắn đã đánh hơi, hồ
nghi có kẻ đang rình! Nhưng Hai Khoánh lầm to. Khách lạ cúi mặt, bước vòng
quanh để khỏi đạp lên một con cuốn chiếu. Con cuốn chiếu thu mình, khoanh tròn
như khu ốc. Hắn nhặt nó, đưa lên mũi hửi rồi khom lưng thả nó trên chiếc lá
khô.
Hắn leo lên ngọn cây thao lao, một tay vịn nhánh cây, một tya nắm quai chiếc va
li. Hai Khoánh hiểu rằng hắn quan sát địa thế, tìm nơi an toàn nhứt. Rồi hắn trở
xuống đất, cố sức trèo lên gành Ðá Trắng.
- Ðược rồi! Mình đi nom theo, hắn sẽ giựt mình. Hắn như con cọp hoang. Trước
khi đánh cọp, mình nên biết cọp làm ổ chỗ nào rồi mới"điệu hổ ly
sơn."
Chờ khi hắn khuất dạng, Hai Khoánh trở về động đá dưới sườn đồi, lục lạo mớ cơm
nguội còn sót trong nồi đất. Ðêm đến, anh ta nằm co chịu lạnh, không dám đốt lữa...
Hôm sau, Hai Khoánh mặc quần rách, ở trần, lên bờ suối hái mớ rau má, chặt ống
tre lồ ô để đựng nước.
Từ phía sau lưng, Hai Khoánh chợt nghe tiếng gọi:
- Chú em ơi!
Ngưòi vừa gọi chính là"hắn" . Hắn cũng ở trần, ngồi dựa lưng vào bó củi
khô. Hai Khoánh hỏi nhanh:
- Ủa! Ai đó?
Rồi lộ vẻ sợ sệt, để khách lạ đừng chạy đi chỗ khác. Hắn đưa tay ngoắc, với
thái độ đàn anh kẻ cả, nói đúng hơn là hắn tự phong chức chúa đảo.
Khách lạ mỉm cười:
- Vậy mà tôi tưởng ở hòn Móng Tay này chẳng có ai, trừ tôi ra.
Hai Khoánh gật đầu:
- Tôi cũng nghĩ như"đại ca" vậy. Dè đâu còn người thứ hai là"đại
ca" . Ðại ca tới đây hồi nào? Lập nghiệp bao lâu năm ở sườn đồi phía mặt
trời lặn hay phía mặt trời mọc? đại ca có vợ con gì chưa?
Khách lạ bèn móc trong túi đem ra gói thuốc rê, vét mớ thuốc nát, chia cho Hai
Khoánh một điếu. Khách giới thiệu:
- Tôi vừa giết vợ...
Rồi lẩm bẩm, nhìn chòng chọc vào mắt Hai Khoánh:
- Giết vợ rồi giết luôn con...
Hai Khoánh kêu lên:
- Ngán quá! vợ con của ai?
- Của tôi chớ của ai? Ông già vợ tôi đánh mõ, tri hô... Nửa đêm, xóm giềng xách
gậy, xách hèo tới vây bắt. Tôi ra bờ biển, mướn ngưòi đưa ra ngoài hòn để ở tù
theo ý muốn của mình. Còn chú em?
- Dạ, tôi ăn cắp vặt trong xóm vì túng tiền, thua cờ bạc, nợ nần kêu réo. Chủ nợ
thưa tôi. Tôi ở khám Rách Giá, chạy ra đây.
Khách lạ nhướng mắt:
- Giỏi thiệt. Nhưng khi trốn, chú em có giết bạn tù hoặc lính của tù không.
- Không.
Khách đưa tay vỗ nhẹ lên đầu Hai Khoánh:
- Xin lỗi. Thế là chú em... phải là em nuôi của tôi. Tội của chú em nhẹ quá. Bất
quá, nhà nước Tây chồng án. Hồi đó chú em bị kêu án mấy tháng?
- Hai năm.
- Mai chiều, rủi ro bề gì chú em ở bốn năm, chồng án gấp đôi. Còn tôi đây
thì...
Bấy giờ, Hai Khoánh tung ra luận điệu: nếu trốn thoát suốt hai mưoi năm thì kể
như trắng án. Khách lắc đầu:
- Chú em ở đâu?
Hai Khoánh đáp thật tình, cố ý mời khách lạ đến hang đán của anh ta để rồi sau
đó, anh ta đến thăm viếng xã giao, dò xét cái xào huyệt... có chiếc va li quá nặng
của khách. Vừa bước vào hang khách mừng rỡ quá mức, thấy món gì cũng thèm.
- Chuối chín hả? Cho vài trái coi! Chuối ở đâu vậy? Tôi mới trốn ra đây vày bữa,
cơm gạo, áo quần, thức ăn.... món gì cũng thiếu. Còn thứ gì ăn được nữa không?
Hai Khoánh cố che giấu sự khinh bỉ đối với anh chàng"đại ca"nhỏ nhen ấy.
Nhưng gây gổ, giảng luân lý với kẻ giết đàn bà, giết con nít là điều ngu xuẩn,
hơi đâu khảy đờn vào tai trâu, múc nước đổ lá môn. Phải tương kế tựu kế, áp dụng
triệt để câu quân tử tham tài, tiểu nhân tham thực:
- Dạ, tôi vừa gài bẫy, bắt được một con gà rừng, buộc giò nó ngoài gốc cây...
- Cho tôi mượn luông.
Hai khoánh chẳng tài nào chịu đựng nổi con người khả ố đó nữa:
- Ðể tôi ăn chớ! Nếu thèm, đại ca chia nửa con.
- Tôi muốn ăn bộ đồ lòng gà.
Vừa nói, khách lạ vừa bước tới, vặn họng con gà rừng, rút trong lưng quần đem
ra một"cây dao con chó," mổ bụng gà, cắt gan, ruột và thịt nạc ở đùi.
Khách từ giã. Hôm sau khách lại tới viếng Hai Khoánh:
- Còn gạo không? Chừng nào chú em vô trong bờ mua gạo?
Hai Khoánh đáp:
- Dạ, sáng mai.
- Nhớ kiếm cho tôi một hộp sữa bò, một cân bột nấu chè ăn chơi.
Hai Khoánh cau mày:
- Dạ, tôi ăn cắp gạo của thiên hạ. Sữa bò và bột là những món phải mua tại tiệm
quán, lúc ban ngày, với tiền bạc sòng phẳng.
Khách lạ gãi lưng sột sột:
- Dễ quá. Tôi chỉ chỗ dùm chú em... Ở xóm Rạch Giồng, tiệm quán bán tới khuya,
tư bề vắng vẻ. Tôi thèm sữa bò quá chừng quá đỗi. Chú em phải đi gấp. Bằng
không thì đừng vác mặt trở về hòn Móng Tay này. Cực chẳng đã, tôi phải nhờ chú
em. Chẳng lẽ tôi lén về để họ nhìn mặt, bắt bỏ tù mãn đời. Tôi muốn sống chừng...
mười lăm năm nữa... Ờ! Ðúng mười lăm năm nữa là đũ.
° °
°
Hai Khoánh xuống ghe, trương buồm... bao nhiêu công chuyện
quan trọng to tát mà anh ta cần thực hiện! Rõ ràng"khách lạ" nọ là kẻ
gian mà không ngoan. Hắn thú nhận đã giết vợ con, quê quán ở Rạch Giồng, người ở
Rạch Giồng có thể nhìn mặt hắn. Va Li của hắn chứa một số vàng bạc hoặc á phiện
lậu dù cho cho hắn... ăn chơi đến mưòi lăm năm ròng rã.
Vừa tới Rạch Giồng. Hai Khoánh đến tiệm tạp hoá, uống liên tiếp hai chén rượu.
Việc sát nhơn của"khách lạ" còn nóng hổi, dân chúng bàn tán xôn xao.
Ðại khái,"khách lạ" nọ tên là Nguyễn Văn Hi, làm mướn cho ông chủ
Tân, nhờ ăn nói có duyên, tên Hi tư tình với cái gái chủ nhà. Cô gái nọ mang
thai. Ðể cứu vớt danh giá cho dòng họ, chủ Tân đem con gái gả cho một phú
thương, tuổi hơn năm chục, đã chết vợ. Tên Hi buồn rầu, bỏ xứ đi bặt tăm tích.
Bốn năm sau, tên Hi lại xuất hiện, giết người tình và đứa bé.
Hai Khoánh hỏi người chủ tiệm:
- Nhà ông chủ Tân gần hay xa?
- Cái nhà ngói ba căn hai chái kia kìa!
- Thằng Hi hèn hạ quá.
Chủ quán nói:
- Nó hèn nhưng nó có tài cao bay xa chạy nên nó cứ sống nhăn hoài. Nghe đâu ông
chủ Tân đặt giải thưởng năm trăm đồng cho ai điểm chỉ nơi nên Hi ẩn náu.
Thế là Hai Khoánh vững bụng. Anh ta sẽ điểm chỉ tên Hi để lãnh thưởng, để loại
trừ một kẻ giết vợ giết con, để thanh toán một người bạn quá tham ăn, bóc lột kẻ
yếu thế. Hai Khoánh lẩm bẩm:
- Nếu không mang tội giết người, tên Hi còn hung dữ gấp mười. Mình làm một việc...
nhơn đạo, đoái công chuộc tội.
Ðến nhà ông chủ Tân. Hai Khoánh lân la, tự giới thiệu rồi trình bày kế hoặch.
Chủ Tân mừng quýnh vì Hai Khoánh tả rất đúng hình dáng kẻ sát nhân, mắt xếch,
có xăm nơi bắp tay. Chỉ có một chi tiết khó hiểu: chiếc va li đựng vàng hoặc á
phiện lậu, đã cho tên Hi sống trên nhung lụa suốt mười lăm năm.
Chủ Tân nói rỉ vào tai Hai Khoánh:
- Tôi hứa chia phần nửa cái va li á phiện đó với chú em. Hạ được thằng hi, tôi
hả dạ rồi. Ðiều quan trọng là đừng cho ai biết nó mang cái va li kẻo thấu tai
chủ quận, chủ tỉnh. Tôi gởi chú em đi Châu Ðốc, cuốc rẫy tại Núi Dài, nơi nhà
người bà con. Ở Núi Dài, dân trên núi sống thảnh thơi, Tây tà chẳng bao giờ dám
tới xét giấy thuế thân. Với phân nửa va li á phiện, chú em sẽ mua đất, trở
thành điền chủ.
Hai Khoánh cau mày:
- Tôi chỉ buồn buồn... Thiên hạ sẽ đàm tiếu, họ khinh khi cho tôi là đứa phản bạn!
Chủ Tân cười dòn dã:
- Chú em kết bạn, uống máu, ăn thề với nó hồi nào mà sợ thần thánh... Hoặc
lương tâm cắn rứt? Dễ quá, lúc về già, chú em cất một cái am ở Núi Dài, tha hồ
ăn năn xám hối. Vả lại, đạo Phật, đão Lão đều dạy mình trừng trị kẻ gian tà.
Nhà nước Tây bắt tư Hi bỏ từ vài mươi năm chớ đâu chặt đầu, xử bắn nó.
Tối hôm ấy, Hai Khoánh vạch ra một kế hoạch khá tinh vi. Tên Hi luôn luôn đứng
trên gành Ðá Trắng để theo dõi những người lạ mặt bước chân lên hòn Móng Tay.
Hai Khoánh về hòn trước một mình, mang theo đậu xanh, sữa hộp và thuốc hút.
- Nó là đứa ham ăn. Gặp đồ ăn, nó mừng quýnh. Sẵn dịp, tôi lên chốt hòn, thăm
viếng sào huyệt của nó. Ông dẫn bọn gia nhân tới sau, cho ghe cặp bãi lúc ban
đêm. Ông cứ tới hang đá của tôi. Dọc đường, hễ đi được năm sáu bước là tôi bẻ một
vài đọt cây để làm dấu. Phải tìm cho được cái va li của nó.
Chủ Tân nói:
- Nghĩa là tối mai tôi ra hòn. Sáng mốt, tôi theo dấu, tới hang của chú em rồi
lên gành Ðá Trắng, sào huyệt của thằng Hi... Tôi nói thêm một điều này cho chú
em vui mừng: Thằng Hi không biết võ nghệ. Nó chỉ có tài phóng dao mà thôi.
Phóng dao chỉ có kết quả khi nào hai người đứng cách xa. Chú em nhớ coi chừng
cây dao nó giấu đ6au đó. Tôi mang theo hai người võ sĩ, bạn cũ của thằng Hi. Hồi
xưa, thằng Hi đánh lộn, vật lôn thua xa hai người đó.
° °
°
Hai Khoánh ngồi trong hang mà chờ đợi. Anh ta đoán chừng: ông
chủ Tân và bọn gia nhân đã có mặt tại hòn Móng Tay từ hồi hôm. Tại sao tên Hi
chưa rời gành Ðá Trắng xuống đây? Hay là cơ mưu đã bị tiết lộ?
Ngoài cửa hang, kia... tên Hi đứng thấp thoáng. Hai Khoánh mừng quýnh, kêu to:
- Anh Hi!
Tên Hi trợn mắt trong một thoáng rồi giữ vẻ mặt hồn nhiên bước vào. Hai Khoánh
nghe trống ngực đánh thình thịch, nhận rằng mình đã vô ý, gọi hắn đích dạnh, hắn
có thể nghi ngờ.
Vừa vào hang, hắn hỏi nhanh:
- Sữa bò đâu? Tôi thèm thứ đó quá.
Hai Khoánh trao cho hắn hai hộp sữa:
- Lát nữa mình khui ra, uống mỗi đứa một chén, bổ khoẻ lắm.
- Ðâu được. Mình đem sữa bò lên gành Ðá Trắng dự trữ phòng khi đau ốm. Sữa bò
là vị thuốc. Sao! Ở Rạch Giồng, thiên hạ làm ăn vui vẻ chớ? Có ai nhắc tới tên
tôi không?
- Dạ, tôi lén ăn trộm rồi về, sợ ngoài này đại ca nóng lòng trông đợi. Ðói bụng
quá. Ðại ca có món gì ăn sốt dẻo không?
- Có gì đâu! Bây giờ mời chú em lên gành Ðá Trắng thăm mấy"nhà cửa" của
tôi một lần cho biết. Tụi mình sẽ uống một vài hớp sữa cho khoẻ.
Hai Khoánh mừng ra mặt. Anh ta đi theo sau tên Hi. Thỉnh thoảng, Hai Khoánh với
tay, ngắt một vài đọt cây, bỏ lại sau lưng để làm dấu cho chủ Tân theo dõi.
Ðến cách gành Ðá Trắng chừng mười bước, tên Hi ngồi xuống:
- Chú em mệt chưă?
Hai Khoánh sanh nghi "phải chăng hắn rủ mình lên thủ tiêu cho gọn?"
Tên Hi xăn tay áo, cầm hai hộp sữa bò, nhìn nhãn hiệu rồi cười giòn:
- Chú em đừng sợ sệt. Lát nữa tôi chết.
Hai Khoánh hốt hoảng:
- Dạ, đại ca đừng nói bậy.
- Chú em ngồi xuống. Chú em làm gì mà biết tôi tên Hi? Ðừng nói dối với kẻ sắp
chết như tôi. Chú em phản tôi, kêu thằng cha chủ Tân ra đây hả?
Nói xong, tên Hi lắc đầu, tiếp lời:
- Sao, chủ Tân nói sao? Nó nói tôi giết ai?
Hai Khoánh cúi mặt, im lặng.
Tên Hi rút cây"dao con chó" nạt to:
- Nói thiệt đi. Chủ Tân nói tôi giết ai?
- Dạ... dạ... nó nói đại ca giết vợ rồi giết luôn đứa con mới ba tuổi.
Tên Hi cười sặc sựa:
- Chú em là ... đồ con nít, bày mưu điệu hổ ly sơn, để chiếm đoạt cái va li hả?
Chừng nào chủ Tân tới đây? Nói mau...
- Dạ, lát nửa ổng tới.
Rồi Hai Khoánh chắp tay lạy:
- Em có tội đáng chết. Xin đại ca trốn tránh đi. Em chịu trách nhiệm với chủ
Tân. Thà là nhà nước Tây bắt em bỏ tù chồng án. Em đâu dám để họ bắt sống đại
ca.
Tên Hi chẳng cần nghe lời năn nỉ của Hai Khoánh. Hắn trèo lên gành đá, nép mình
rồi trở xuống:
- Nó tới bây giờ, nó đi với hai thằng thầy nghề võ. À! Lát nữa chú em dẫn nó
qua cái hang của tôi. Ðây nè!
Hai phút sau. Hai Khoánh trố mắt, thấy một đứa bé mạnh khoẻ chừng bốn tuổi đang
bú tay. Trong hang, có manh chiếu nhỏ, cái gối nhỏ.
Thằng bé chạy lại ôm chân Hi.
Tên Hi hôn nó rồi trao cho Hai Khoánh.
Hai Khoánh run tay:
- Trời!
- Ðừng cãi lời tao. Nó nằm trong cái va li của tao đó. Nó là cục vàng, là cục á
phiện lậu của tao đó. Ðem nó trả lãi cho chủ Tân. Nó ăn cực không được. Nó đòi
ăn chuối chín, ăn gan gà. Suốt đêm, nó dứt sữa rồi mà còn đòi bú...
Nói xong, tên Hi chép miệng:
- Hai Khoánh mầy tệ quá.
Hai Khoánh ôm mặt khóc. Tên Hi tiếp lời:
- Khóc làm gì? Mỗi lần mầy học khôn như vầy là một phen giết hại thiên hạ. Tao
đi đây...
° °
°
Ðoàn người trở xuống sườn núi. Ông chủ Tân bồng đứa cháu ngoại,
hai tên võ sĩ cúi đầu. Hai Khoánh nhìn dáo dác ra phía sau.
Bỗng nhiên, Hai Khoánh ôm ngực, ngã xuống.
Chủ Tân la hoảng:
- Nằm xuống! Nó tấn công.
Tên võ sĩ thứ nhứt đỡ Hai Khoánh:
- Thằng Hi trổ tài phóng dao bay! Giỏi thiệt.
Chủ Tân nói gắt:
- Thằng Hi! Nó là đồ chó chết. Trời hại nó.
Tên võ sĩ thứ nhì trợn mắt:
- Ðừng chửi thằng Hi. Kìa... Nó chứ ai?
Từ trên gành Ðá Trắng, một bóng người lảo đảo rơi tỏm xuống biển sâu thẳm.
Yêu cho được
Cặp rằng Hực ngồi uống trong quán, tại chợ Ngã Năm. Bỗng đâu
từ ngoài cửa, một thanh niên bước vào, kéo ghế ngồi, gọi hủ tiếu. Như bẽn lẽn,
sợ sệt, thanh niên nọ day mặt vào vách.
Cặp rằng Hực nhận ra: đó là thằng Cưng, thuộc vào hàng thanh niên đa tình, đẹp
trai, đắt mèo nhứt trong xóm. Thằng Cưng đã nhiều lần đến tò vè cô Huệ, con gái
cặp rằng Hực. Ðôi bên dường như tâm đầu ý hiệp lắm.
Ðể chận đứng những hậu quả có thể xảy ra, cặp rằng Hực nói đổng, với giọng hách
dịch thường lệ:
- Bọn hậu sinh quá dở...
Rồi uống thêm một hớp rượu, nhìn thẳng vào mặt Ba Lự, người chủ quán:
- Phải vậy không ông chủ? Tôi nói chuyện... đầu trúng, đầu trật, ông cu;4ng nên
trả lời với tôi chớ?
Ba Lự đành nén giận, tránh mọi việc gây gổ với cặp rằng Hực. Hắn là tay cường hào
nhứt nhì tại chợ này.
- Dạ phải. Ông nói đúng.
Cặp rằng Hực quắc mắt:
- Cái gì mà phải, cái gì mà đúng. Tôi không ưa kẻ nịnh hót, tôi muốn làm bạn với
người ăn ngay nói thẳng.
Ba Lự nói tiếp, giọng thản nhiên:
- Ông cặp rằng nóng quá, tôi nói chưa hết lời. Bọn hậu sanh quá dở vì... chúng
nó thiếu kinh nghiệm trường đời. Tuy nhiên, chúng nó hay hơn người lớn tuổi.
Thí dụ, chúng nó biết cầm lái xe hơi, biết đánh nghề võ, biết...
Lời nịnh hót ấy khiến cặp rằng Hực khoái chí. Sẵn dịp ông ta tấn công thằng
Cưng, gọi là cảnh cáo để nó sợ, không dám ve vãn con gái ông ta nữa:
- Nhiều thằng hậu sanh bày mưu kế để o mèo. Tụi nó muốn qua mặt người trưởng
thượng...
Ông ta chỉ vào ngực mình, nói tiếp:
- Cặp rằng Hực này hồi đó o mèo đủ trăm cách. Tụi hậu sanh làm sao o mèo bằng...
thằng này.
- Nghĩa là sao?
- Nghĩa là đám hậu sanh quá dở. Hễ o mèo dở thì có ngày bị trói, đóng gông hoặc
bị đánh lỗ máu đầu.
Rồi cặp rằng Hực gọi to.
- Phải thẳng Cưng ngồi ăn hủ tiếu đó không? Lại đây uống rượu cho vui mậy...
Vốn là tay giàu bản lĩnh, thằng Cưng đứng dậy, đến gần cặp rằng Hực. Từ bốn
tháng qua, nó tư tình với cô Huệ, nói chuyện riêng được bốn lần, gởi tho tình
được năm lần và nắm tay người đẹp hàng chục lần. May thay, chưa lần nào cặp rằng
Hực bắt gặp quả tang, thằng cưng nghĩ thầm:
- Bắt quá ông ta nói bóng nói gió, mắng chó mắng mèo. Nếu muốn hành hung hoặc bắt
bớ, ông ta đã hành động kiểu khác.
Cặp rằng Hực ra vẻ ta đây là bậc cha chú, rót rượu vào ly, thúc giục từng chặp:
- Uống đi mầy Cưng. Ðừng e ngại. Bữa nay, tao dạy mầy cách o mèo. Mầy còn non
tay ấn lắm. Hồi còn nhỏ, tao khôn khéo hơn mầy nhiều.
Thế rồi cắp rằng Hực kể lại một giai thoại gay cấn nhứt do ông ta đóng vai
chánh, hồi hai mươi năm về trước. Ông ta có người tình nhân trẻ đẹp. Cô ấy bị gả
ép làm vợ bé của viên cai tổng già nua nhưng nhiêù tiền nhiều bạc. Khi rước
dâu, cắp rằng Hực đứng chàng ràng trước mặt người yêu. Viên cai Tổng mắng nhiếch:
"Mầy là đồ con nít." Cặp rằng Hực đáp: "Tôi không chịu thua ông
đâu, mặc dầu tôi trẻ tuổi." Viên cai tổng cười gằn: "Tao đố mầy..."
Về nhà, cặp rằng Hực thức liên tiếp năm sáu đêm, hình vóc ốm o, cặp mắt sâu hoẳm
theo kiểu Câu Tiễn nằm gai nếm mật để tìm cách... trả mối thù... tình!
Thuật đến đó, cặp rằng Hực uống thêm rượu rồi vỗ vai thằng Cưng:
- Mày biết tao làm cách nào để ăn nằm với vợ bé của ông cai tổng không?
Thằng Cưng đáp:
- Dạ, cháu chưa gặp cảnh đau xót ấy.
- Nếu gặp mầy làm sao? Thí dụ như nay mai con mèo của mầy bị gả ép cho người
khác.
Thằng Cưng nổi giận, nói lầm bầm:
- Một là tôi trốn bỏ xứ. Hai là tôi... đâm cho chết người tình địch.
Ba Lự giựt mình: Người chủ quán nên tránh chuyện gây gổ trong quán. Ông ta đỡ lời
dùm thằng Cưng:
- Mầy ăn nói nghe sanh tử quá! Làm thế nào mầy không bỏ xứ, không đâm chém mà gần
gũi được người yêu cà. Nếu chịu thua thì mầy xin thọ giáo với ông cắp rằng...
cho vui!
Thằng Cưng đáp:
- Tôi chịu thua.
Lại thêm một cơ hội để cặp rằng Hực khoe tài khoe trí. Ðại để, viên cai tổng bố
trí cẩn thận, theo dõi mọi hành động của cô vợ trẻ tuổi. Ban đêm, ông cai lắng
nghe từng tiếng chó sủa, từng tiếng khua động ở mái ngói, ở nhà bếp và nhà...
tiểu tiện. Bất cứ khách lạ nào muốn nói chuyện với cô vợ đều phải trình diện với
ông cai, và nói thật lớn tiếng cho ông cai nghe rõ. Ngày qua tháng lại, ông cai
tổng vẫn... canh phòng nghiêm ngặt. Ðến hôm đó, có người chị ruột của cô vợ bé
đến kêu cửa:
- Xin ông cai cho cô Tư về thăm nhà. Con Năm đau nặng lắm, sợ chị không nổi đêm
nay.
Cô Tư - vợ bé ông cai - liền thỏ thẻ với chồng:
- Mình cho em về thăm con Năm. Nó là em út trong gia đình. Từ hồi về ăn ở với
mình tới nay, emc hưa gặp mặt nó. Bây giờ, nó đua nặng, dầu gì đi nữa, em cũng
phải về gặp mặt nó lần chót.
Thế là ông cai đồng ý cho vợ về thăm với điêù kiện có ông đi theo... bén gót.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét