Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2021

26 truyện ngắn Sơn Nam 2

26 truyện ngắn Sơn Nam 2

Anh hùng rơm

Thời pháp thuộc, làng Bình An, tỉnh Rạch Giá được nổi danh là sung túc. Ruộng đất quá phì nhiêu, chẳng cần bón phân, mỗi công đất (một ngàn thước vuông) thâu hoạch hơn hai chục giạ. Qua tháng mười một, mãn mùa gặt, dân chúng còn hưởng thêm mùa dưa hấu trồng ngay trên ruộng. Nếu trúng mùa dưa thì rõ ràng là vốn một lời mười. Họ tha hồ mà ăn xài suốt tháng Giêng cờ bạc, đờn ca vọng cổ lai rai đến lúc tháng Ba, sa mưa.
Nhịp sống của đoàn nông phu cứ trôi qua đều đều. Nhưng đến năm 1937, một biến cố khá quan trọng xảy ra khiến dân chúng... nghẹt thở. Hầu hết những kẽ tay lấm chân bùn trong làng đều bị lên án là ... kẻ ăn trộm trâu.
Tiên cáo là một ông lạ mặt, người Việt Nam, mặc âu phục, tay xách cặp da, hút ống vố.
Ông ta đến nhà thầy phó hương quản:
- Có ai ở nhà không?
Thầy phó hương quản ngơ ngác:
- Xin lỗi, ông là ai? Xin cho biết quí danh.
Ông ta nói:
- tôi muốn nói chuyện...
Thầy phó hương quản mời ông khách vào nhà. Ông ta mở cặp da, đưa ra một tấm danh thiếp:
" Nguyên Hưu Henri,
Domaine agricole de Saigon."
Sau khi đọc sơ qua, thầy phó hương quản lấy làm bối rối:
- Thưa ông. Xin ông vui lòng"thông ngôn" cho tôi được hiểu.
Thông ngôn có nghĩa là thông dịch. Ông khách cứ hút thuốc, chưa chịu làm công việc ấy. Hồi lâu, ông trợn mắt:
- Tấm"cạc" nầy nói nhiều rồi. Quyền hạn thanh tra... toàn Nam Kỳ thuộc địa của tôi như thế nào, chú phó hương quản dư hiểu.
Khổ quá! Thầy phó hương quản đành nài nỉ, thú nhận sự dốt nát của mình:
- Dạ, tấm"cạc" của quí ông... toàn là chữ Tây. Chắc là ở Sài Gòn!
Khách cười nhếch mép:
- Khá lắm. Còn hai chữ nữa"Nguyễn Hữu" tôi không thèm bỏ dấu cho đúng mẹo luật Lang Sa. Tôi thường giao thiệp với quan chủ tỉnh mà. Ðây, tôi tạm"thông ngôn " cho chú hiểu: Tôi là Nguyễn Hữu Hăngri, thanh tra đồn điền Sai Gòn. Tôi vô dân Tây nên giữ chữ Nguyễn Hữu. Mới đây, sau khi tiếp xúc xa giao với quan chủ quận tôi ăn cơm ở nhà quan chánh sở mật thám. Bậy quá, chắc quan chủ quận phiền giận tôi...
- Thưa ông sao vậy?
- Ổng là anh em bạn học.
Lần đầu tiên từ thưở nhỏ đến từng tuổi này. Thầy phó hương quản mới được vinh dự đón rước một nhân vật quan trọng. Lập tức, thầy gọi vợ ra chào khách, bắt gà làm thịt. Ông khách Hăngri nói, giọng bí mật:
- Tánh tôi bình dân lắm. Tôi ưa làm quen với người chất phác như chú. Vừa vừa thôi, đừng bày tiệc tùng, tốn kém lắm.
Thầy phó hương quản suy nghĩ hồi lâu rồi giả bộ như mình cũng rành tất cả lề lối làm việc của người cầm giềng mối trị dân:
- Ông nói chí lý quá. Các quan chủ quận đều rành chữ Tây. Ðọc sơ qua tấm"cạc" của ông, mấy ổng hiểu liền. Chẳng dám nào, ông cho phép...
- Chú nói đi. Chỗ quen biết với nhau mà.
- Ông cho tôi xin một tấm"cạc" như vầy để lộng kiếng, làm kỷ niệm. Hễ có khách quí tới nhà là tôi nhắc nhở, giới thiệu... lúc ông vắng mặt.
Ông Hăngri cau mày:
- Ðây! Chú giữ tấm"cạc" này. Nhưng mà chú phải dè dặt. Ðừng phô trương quá sớm. Tôi muốn giữ bí mật. Chờ đôi ba ngày nữa, xảy ra nhiều việc lạ lùng lắm, có lợi cho chú... trong tương lai.
Thế là ông Hăngri nghiễm nhiên trở thành vị thượng khách của thầy phó hương quản. Thầy bắt đầu xa lánh bà con chòm xóm, vì lý do riêng. Trong lúc ông Hăngri nằm trên bộ ván gõ, đọc báo Lục Tỉnh Tân Văn thì thầy phó hương quản trèo cây dừa xiêm hái xuống trọn quày.
Nhớ đến câu"gái ngoan làm quan cho chồng," thiếm phó hương quản thắt lưng buộc bụng... sẵn sàng đi tiệm mua nào càri, củ hành, tiêu, tỏi đem về để thanh toán bằng bầy gà bầy vịt.
Tối hôm ấy, ông Hăngri mở đầu câu chuyện:
- Này chú phó hương quản. Chú là người đáng tin cậy, xứng danh là người làm việc nước. Tôi nhờ chú giúp tôi một vấn đề quan trọng. Chừng mãn nhiệm vụ thanh tra, tôi sẽ gặp quan chủ quận, gởi gắm để thăng chức chú lên chức chánh hương quản.
- Dạ, may phước cho đời tôi quá!
- Vợ chú ngủ chưa? Ðừng cho đàn bà hay biết. Họ ưa chộn rộn.
- Dạ, để tôi coi thử.
Rồi chú trở ra:
- Nó ngủ rồi.
- Chú nên giữ bí mật hoàn toàn. Nếu hư hỏng công việc truy tầm của tôi, chú sẽ bị trừng phạt theo phép nước luật quan. Chừng đó mặc dầu thương mến chú, tôi cũng chẳng tài nào cạy gỡ dùm được.
Dưới ánh đèn toạ dăng, trong khi sương mù mịt, bất chấp tiếng chó sủa ma trong xóm vắng, ông Hăngri mở cặp da, đem ra một mớ giấy có đóng dấu đỏ. Thầy phó huơng quản đếm thử: chừng ba chục tấm giấy cứng, màu xanh, lớn gấp đôi cái giấy thuế thân.
Ông Hăngri lẩm bẩm:
- A lo! A lo!
Thầy phó hương quản giật mình, bước ra xa, vấn thuốc hút. Thầy càng tò mò, liếc qua xấp giấy xanh của ông Hăngri. Thầy sực nhớ đến loại giấy mà thầy có đôi ba tấm trong nhà.
Thời thực dân, dân chúng gọi nôm na là đó là"bài kía" trâu bò, trên mỗi tấm, hài rõ tên chủ của gia súc, tên con gia súc, tuổi tác, dấu riêng... và số thuế đã nạp.
Nhà thầy phó hương quản có hai con trâu và một con bò. Thầy đã lãnh"bài kía," xác nhận thầy làm chủ ba con gia súc đó. nếu bị trộm cắp, thầy đem"bài kía" để nhìn nhận của đã mất.
Ông Hăngri thừa hiểu rằng từ nãy giờ cặp mắt tò mò của chủ nhà đan xăm xoi về phía mình.
- Chú phó hương quản. Lại đây tôi dạy việc.
- Dạ, tôi sẵn sàng.
Ông Hăngri lật đật đem xấp..."bài kía" trâu bò ấy bỏ vào cặp da rồi đưa cho thầy phó hương quản xem một tấm giấy trắng có chữ đánh máy, chữ Pháp.
Ông giải thích:
"Số là đồn điền chúng tôi - ở chi nhánh Sóc Trăng - từ lâu thường bị ăn trộm trâu. Theo tin riêng của sở mật thám Sài Gòn cho biết thì bọn bất lương đem số trâu bất hợp pháp ấy về bán tại làng Bình An này. Vì vậy, thừa lệnh quan trên..."
Thật là đất bằng sóng dậy. Thầy Phó hương quản cố gợi lại trí nhớ. Thỉnh thoảng vài người ở xóm này mua trâu, nhưng là trâu tơ, sanh đẻ tại làng. Lúc nhậu nhẹt, nhiều người chế nhạo lẫn nhau:"mầy là chủ phồn ăn trộm trâu!" nhưng đó là tiếng thường lệ cũng như"đồ mặc dịch! đồ ma bắt." Nó không có ngụ ý gì ráo.
Thầy lẩm bẩm:
- Té ra hổm rày ông làm nhiệm vụ mật thám.
- Tôi là thanh tra!
Phó hương quản bắt đầu e ngại:
- Dạ, quan thanh tra muốn"ăn kết" theo cách nào? Theo ý tôi thì dân chúng ở xóm này toàn là người lương thiện. Trâu bò của họ nuôi đều có"bài kía," đóng thuế đầy đủ, do quan trên thừa nhận.
- Nhưng họ mua ở đâu? Mua của ai?
- Dạ, mua ở Châu Ðốc, hoặc mua ở mấy xóm gần đây.
- À! À!
Ông Hăngri vừa gõ cái ống điếu vào gốc cột:
- Phó hương quản đừng che dấu tội lỗi của họ mà chịu chung số phận. bây giờ, việc đầu tiên của phó hương quản cần thi hành là tới cái chuồng trâu nào gần đây nhứt, biểu họ trình cho tôi coi mấy cái"bài kía" của trâu bò trong chuồng để tôi kiểm soát.
Trưa hôm sau, phó hương quản trở về:
- Ðây! Nhà của Trần Văn Lén, tất cả bốn con trâu tên là trâu Pháo, trâu Bướm, trâu Ðiệu, trâu Mẫm.
Ông Hăngri nói nhanh:
- Tôi muốn kiểm soát dấu riêng của mỗi con trâu. Nếu nó trúng dấu với mấy con đã ghi trong tờ cớ của tôi thì đó là trâu gian. Tôi cần làm việc cẩn thận. Phó hương quản cứ tới nhà mấy người khác, từ nhà tên Trần Văn Lén này dài đến cuối xóm, tom góp tất cả"bài kía" đem cho tôi xem xét lại.
Cả xóm nhốn nháo lên vì nguồn tin bất lành ấy. Vốn làm ăn chất phác, tin tưởng nơi công lý, các chủ trâu đều ngoan ngoãn tuân lịnh.
- Vàng thiệt không sợ lửa, - họ tự an ủi.
°   °
°
Nhưng trò đời diễn ra khá phức tạp.
Sáng hôm sau, phó hương quản đổ ;mồ hôi trán, đi thất thểu đến mời mấy người chủ trâu:
- Nguy quá. Ông thanh tra mật thám mời bà con tới"hầu." Tôi e đã xảy ra điều gì bất trắc. Nhớ tới nhà tôi cho đủ mặt, bằng không thì ông Hăngri lên án khiếm diện.
Các đương sự lần lượt đến ngồi chồm hổm tại hàng ba, nhà thầy phó hương quản.
Ông Hăngri nâng ống vố lên, rít một hơi dài rồi nói từng tiếng một:
- Trần Văn Lén! Ai tên Trần Văn Lén?
Người tên Trần Văn Lén"dạ" một tiếng nhỏ rồi chạy tới, đứng trước mặt ông Hăngri để nghe lời dạy.
- Bốn con trâu Pháo, trâu Bướm, trâu Ðiệp, trâu Mẫm của chú đều là trâu ăn trộm.
Trần Văn Lén trợn mắt:
- Làm sao có chuyện đó? Xin quan lớn... coi lại. Trâu nhà của tôi mà!
- Chú mua hồi nào?
- Dạ, hồi năm ngoái, 1936.
- Tôi cho biết: hồi năm 1935, đồn điền tôi bị mất trộm, có tờ cớ hẳn hoi. Cái tấm"bài kía..."của chú giữ ghi vô bộ năm 1936. Nhưng"bài kía" của đồn điền tôi vô bộ 1934. Dấu riêng của con trâu Bướm y hệt: sừng cong, hai xoáy ở chân trước bên mặt.
Tên Lén hơ hãi, kêu nài:
- Xin quan thanh tra cho tôi thấy cái"bài kía" của đồn điền...
- Ðừng lẻo lự. Này đâý Tờ cớ rành rành."Bài kía" của tôi cũ hơn... Chứng tỏ rằng kẻ trộm đem trâu của đồn điền tôi đến làng Bình An này bán lại cho chú. Hoặc là chú có nhúng tay vô...
Tên Lén trố mắt."Bài kía" (bài chỉ) của ông Hăngri vô bộ trước, có đóng dấu đỏ và chữ ký tên...
Ông Hăngri giựt cái "bài kía" trở lại:
- Tôi tịch thâu con trâu Bướm của chú. Chú ngồi đó suy nghĩ. Nếu cự nự tôi giao cho quan chủ quận, truy tố ra toà.
Sau tên Trần Văn Lén, lần lượt bốn năm khổ chủ khác đều bị cật vấn. Trâu của họ trùng dấu riêng với những con trâu mà đồn điền bị mất trộm, cách đó vài năm có ghi rõ torng tờ cớ. Kèm theo tờ cớ, ông Hăngri nên ra mấyh cái"bài kía" vô bộ sổ quá trễ mà dân chúng trong làng Bình An đang giữ.
Bằng một giọng nhỏ nhẹ, ông Hăngri giải bày:
- Tôi chảng muốn đưa mấy chú ra toà làm gì. Tội nghiệp cho vợ con mấy chú. Nếu mấy chú ăn năn hối cải, tôi ém dùm. Tôi hứa chạy tờ về ông chủ đồn điền... Với điều kiện là mỗi người cho tôi năm chục đồng. Bằng không thì...
Ai nấy cúi đầu, áy náy. Năm chục đồng đâu phải là số tiền nhỏ.
Day qua phó hương quản, ông Hăngri tiếp lời:
- Thế nào? Phó hưong quản dám bảo lãnh dùm họ không? Tới trưa mai họ phải chạy tiền đầy đủ.
Phó hương quản gải đầu:
- Tôi xin bảo lãnh. Ðể họ về vay nợ, đền ơn quan thanh tra. Nếu ai trốn, tôi chịu trách nhiệm.
Ðã quá mười hai giờ trưa.
Tại tiệm chạp phô ở cuối xóm, dân chúng tụ họp lại, bảo vây thầy phó hương quản. Hai ba chai rượu để trên bàn đều cạn. Ai nấy đều say ngà ngà. Người này sừng sộ:
- Rõ ràng hương quản a tòng với ông Hăngri làm tiền bọn tôi. Trâu nhà, trâu hgé nuôi lớn lên rành rành vậy mà ông ta dám quả quyết là trâu ăn trộm. trời đất làm chứng dùm.
Kẻ khác khóc mùi mẫm:
- Rũi bề gì, mình mất trâu, lại ở tù oan mạng. Phó hương quản sao lại chấp chứa hắn?
Phó hương quản trợn mắt:
- Tôi hổ lắm rồi. Bà con yên tâm. Ta hãy tìm cách gỡ rối, lấy độc trừ độc... bà con giúp tôi vài cơ mưu...
Một người nói xen vào:
- Tôi biết trồi. Thừa dịp này, mình nên sửa dấu riêng trên trâu bò mình để chạy án. Theo kinh nghiệm ông bà còn để lại, mình cứ nướng sắt cho đỏ rồi đót ngay xoáy của con trâu để nó ... bớt xoáy. Hoặc chặt một khúc chuối cây hơ lửa cho nóng rồi đút sừng trâu vô mà uốn bộ sừng của nó cho bớt cong...
Phó hương quản gật gù, nhìn xuống mé sông. Thầy ta reo to:
- Hay quá. Vợ tôi tới thăm tôi kìa!
Có người nổi nóng:
- Vợ tới thăm mà cũng"hay quá"! Thầy sung sướng trong lúc bà con chòm xóm đang tán gia bại sản.
Sau khi ra sân nói chuyện rù rì với bà vợ, phó hương quản trở vào tiệm, nói khẻ:
- Mời anh em tụ họp lại, nghe tôi nói rõ đầu đuôi. Số là tên Hăngri nó nhiều hành động dian dối. Hổm rày, vợ tôi theo dõi hắn. Hắn dự trữ trong cặp da môt số"bài kía," đóng dấu giả: Hắn coi"bài kía" của trâu bò lối xóm rồi sao y, điền vô khoảng trống trong "bài kía" giả của hắn. Xong xuôi, hắn... ăn gian ngày tháng. Thí dụ như trâu bò của bọn mình vô bộ năm 1935 thì hắn ghi là 1934. Vợ tôi htấy rõ ràng hắn đang"sao y bổn chánh" , lúc tôi vắng mặt. Hắn tưởng vợ tôi dốt.
Một nạn nhân nổi giận:
- Tôi chém nó mới được.
Phó hương quản nói:
- Ðừng! Chém ruồi ai dùng gươm vàng làm chi. Tôi tính như vầy: đêm nay tôi ăn cắp cái cặp da đựng "bài kía" của hắn. Rồi tôi tri hô rằng ăn trộm đã lẻn vào nhà tôi. Tất nhiên bà con mình nên sắp xếp sẵn. Một người nào đó cứ chạy phía trước, giả như kẻ trộm xách cái cặp da. Rồi bà con xúm nhau đuổi phía sau. Tên Hăngri cũng rượt theo để giựt cái cặp da trở lại. Thừa dịp đó, mình dùng củi khúc mà ném cho hắn ta u đầu, què cẳng.
Nửa giờ sau, kế hoạch được thi hành. Tên Hăngri hốt hoảng, yêu cầu dân làng giúp hắn giựt lại cái cặp da:
- Tôi hứa trọng thưởng. Tôi hứa tha tội cho bà con!
Nhưng ai nấy cứ hò hét, chạy dồn về phía hắn, hươi gậy gộc... Hắn hốt hoảng chạy. Dân làng đuổi theo mãi.
Riêng thầy phó hương quản thì dè dặt hơn. Thầy ngồi núp trong bụi chuối, đề phòng trường hợp tên Hăngri là thanh tra... thứ thiệt. Hắn sẽ rút súng bắn thầy và truy tố thầy là kẻ chủ mưu.
Thầy thất vọng vì quả thật hắn không có súng.
Và dân làng hơi thất vọng, mất hào hứng. Cuộc rượt bắt diễn ra quá nhanh. Chạy được chừng trăm thước, tên Hăngri quẹo xuốngmé kinh xáng rồi té quỵ, rơi tòm trong bóng tối.
Có lẽ hắn biết lội, nên sáng hôm sau không ai thấy"anh hùng rơm" trở lại làng Bình An, và dân chài lưới tuyệt nhiên chẳng gặp cái thây ma chết trôi nào!
Bức tranh con heo
Gia đình ông hương trưởng Neo rất nổi danh ở làng Thạnh Hòa. Rồi mới đến lập nghiệp, ông hương trưởng chuyên nghề đốn củi trong rừng, bà thì bày ra sáng kiến nuôi heo nọc - heo đực, không thiến - dành để gây giống. Phương châm của hai vợ chồng trẻ thưở ấy là:"đại phú do thiên, tiểu phú do cần." Ông hưởng trưởng tỏ ra bảo thủ, giữ cái búi tóc và trung thành với chánh phủ thuộc địa, đến mức chẳng bao giờ đốn củi lậu thuế. Bà hương noi theo thôn lệ cổ truyền. Hễ ai có heo để nái, muốn cho nhảy đực lấy giống thì bà dẫn con heo nọc tới, kiểm soát cẩn thận, để phòng trường hợp thân chủ lợi dụng con heo nọc nọ"nhảy" liên tiếp hai con heo nái, thay vì một con. Ðến ngày heo sinh đẻ, nhơn danh là là chủ heo nọc, bà được quyền "ưu tiên," lựa chọn con heo nào khoẻ khoắn nhứt, đem về nuôi hoặc bán lại cho kẻ khác.
Lần hồi, gia đình trở nên khá giả, ông hương trưởng bỏ nghề đốn củi, mua đất, lập vườn. Theo sáng kiến của bà, ông cũng cho hương chức đình, liên tiếp ba năm liền, một số tiền khá to khi tổ chức lễ kỳ yên hàng năm. Lẽ dĩ nhiên, ông được ngồi mâm trên tham dự phần xôi thịt hơi nhiêù và hơi ngon. Việc gì đến phải đến. Ông được chức hội tề phong cho làm hương trưởng, cai trị dân làng bằng cách suốt ngày ở không. Thỉnh thoảng đi nhậu nhẹt hoặc mặc ái dài khăn đóng trong dịp đón rước quan chủ quận, chủ tỉnh thời Pháp thuộc. Thật ra, ông không có quyền hạn gì ráo. Ông muốn như thế để có thời giờ rảnh rỗi lo việc chăn nuôi, lập vườn.
Nhưng có tiền nhiều để làm gì? Trong làng Thạnh Hoà, từ mấy năm qua, thiên hạ đàm tiếu:
- Vợ chồng hương trưởng Neo Khờ khạo quá. Có tiền mà sống như người nhà quê, thời"đàng cựu." Không chừng ổng bả chưa thấy đèn điện hoặc chiếc xe hơi.
Bà hương trưởng đã nhiều lần tỉ tê với chồng:
- Bữa nào mình ra chợ... một lần cho thiên hạ biết mặt. Tôi sợ tốn tiền.
Ông gật đầu:
- Lâu lâu cho nó tốn môt lần. Hơi đâu bà ngán miệng lằn lưỡi mối của thiên hạ. Mấy người kiêu ngạo vợ chồng mình, bà thử nhớ mặt họ. Nè, thằng Tám Theo, làm cu li xe kéo ở chợ rồi thất bại, trở về xóm này để làm ruộng. Nó tưởng làm ruộng dễ lắm. Ruộng thất, nó sạt nghiệp. Lại còn thằng Tư Mít, vừa bán hủ tiếu, vừa cờ bạc. Nó bị"tổ trác" phần vì thua cờ bạc, phần vì nấu hủ tiếu không ngon. Nó thấy vợ chồng mình làm ăn khá giả rồi nó ganh tỵ.
- Đâu phải! Nó khinh vợ chồng mình hạ tiện.
- Mà bà hà tiện thiệt! Họ nói không oan đâu!
- Hứ! lâu lâu tôi cũng dám xài tiền một lần. Ông đừng hùa theo người hàng xóm mà chê bai tôi. Bây giờ tôi nhứt định đi chợ Rạch Giá một chuyến cho... phỉ tình. Tôi sợ điều này...
- Ðiều gì? Ðàn bà đâu có đóng thuế thân mà bà sợ lính bắt. Cònt ôi thì năm nào năm nấy, đóng đầy đủ. Tôi là người"chức việc" trong làng.
Bà hương trưởng nói khẽ:
- Ở nhà thì tôi biết khôn biết dại, ngặt ra chợ ra búa, đi làm sao, đứng làm sao, mua sắm làm sao, tôi chưa từng biết.
Ðể tỏ rằng"ta đây xứng đáng làm chồng." Ông hương trưởng quả quyết:
- Bà đừng lo. Tôi chỉ dẫn cho bà từng đường đi nước bước. Tuy chưa ra chợ lần nào nhưng tôi giao thiệp nhiều với mấy người đã từng đi chợ. Bà tin tôi đi.
- Tôi sợ ông xài lãng nhách, tốn kém nhiều quá.
Ông hương trưởng Neo cằn nhằn:
- Hà tiện gì dữ vậy? Chừng năm chục đồng đủ rồi.
- Làm gì tới năm chục đồng... Tính ra là một con heo đúng tạ, hàng trăm con gà mái. Mình đi sáng sớm hoặc hừng đông, cho kịp chuyến đò. Tới chiều, mình đi tàu trở về. Ðể"thằng bạn" ở nhà, cho nó coi chừng trộm cướp. Tôi nghĩ cách: chèo ghe ra chợ. Ngặt tốn thêm một miệng ăn. Nghe đâu ở chợ, mỗi bữa ăn tốn kém bằng năm, bằng mười ở nhà quê.
Ông hương trưởng thở dài:
- Ra tới chợ, mình phải ăn, phải uống. Xuống tàu đò, mình phải ăn, phải uống.
Bà hương trưởng như chợt nảy ra sáng kiến:
- Ă uống dễ quá, tôi lo cho ông... ăn cành hông. Ðể coi! Tiền tàu mỗi người bảy cắc, hai người là một đồng tư, bận đi bận về là hai đồng tám cắc. Mình đem theo năm đồng đủ rồi. Năm đồng là một phần mười của số tiền mà ông dự định. SÁng mốt mình ra chợ, cho thiên hạ đừng khinh, ông chịu không?
Chiếc tàu đò Phước Sanh tách bến từ lâu rồi - kiểu tàu xưa, không có tần trên - tất cả hành khách ngồi chen chúc nhau trên hai hàng"băng" đóng sát be tàu. Hành khách bắt đầu mệt mỏi: máy tầu nổ quá to, hơi xăng nhớt toả ra ngùn ngụt. Tim và phổi của hành khách đều sống chung trong tình trạng bất bình thường.
Ông hương trưởng Neo đã khéo léo chen lấn, giành chỗ ngồi ở khoang giữa. Lẽ dĩ nhiên, bà ngồi kế bên ông. Ông cười tủm mãi vì tàu đò ít nhảy sóng. Nhiều người cho rằng hễ đi chưa quen thì hành khách có thể ụa mửa. Ông nói với bà:
- Sướng hơn đi bằng ghe biển. Vậy mà thiên hạ đồn đãi lung tung.
Bà đáp:
- Chật chội quá. Làm sao ông nói với người kế bên... Xét dùm. Mỏi cái bắp đùi...
Bây giờ ông mới sực nhớ đến mớ hành lý quan trọng mà bà vợ cụ bị mang theo. Ðó là mớ gà rô tiểu nhân, vịt luộc gói khéo léo trong tờ giấy nhựt trình. Bên ngoài, có hai ba sợi dây buộc chặt. Bà vợ lãnh phần gìn giữ, ôm sát vào mình. Lúc mới xuống tàu, ông đã chỉ dạy:
- Cứ để bên"băng" còn trống. Nhưng dọc đường, hành khách tăng thêm. Bà hương trưởng đành ôm gói hành lý vào lòng, đặt trên đùi. Dưới tàu, vài em bé đi tới lui, bán đậu phộng rang, nước cam, nước xá xị.
Bà nói khẽ với chồng:
- Mấy thứ đó ăn uống vào sanh bịnh! Ðồ ăn thiếu gì, trong gói nè. Cái gì... gái đậu phộng nhỏ xíu, bán năm cắc!
Ông hương trưởng bắt đầu áy náy. Kế hoạch tự túc của bà vợ tuy khôn khéo nhưng hơi khác thiên hạ. Bà nói:
- Ăn được chưa?
Khó xử quá! Nếu mở gói"hành lý" ăn tại chỗ thì thiên hạ cười chê. Ngược lại, nếu bắt buộc bà ôm cái gói khá nặng ấy vào lòng thì lại tội nghiệp. Ông nhớ rõ: đêm rồi, bà vợ thức từ hồi canh tư, bắc nước nhổ lông gà, lông vịt rồi thì luộc, rô tiểu nhân, bay mùi thơm phức. Bà lại còn thắp đèn, ra sau vườn hái thêm mớ rau sống: "rau tốt quá! Bao nhiêu đây, nghe đâu ở ngoài chợ họ bán tới giá hai đồng bạc. Tội tình gì mình không hái đem theo".
- Ăn chưa! Tôi đói bụng rồi!
Nghe bà vợ thúc hối, ông hương trưởng bắt đầu hơi mệt. Ông cũng đói như bà. Ông rất thông cảm. Ở nhà quê, vào khoảng chín giờ sáng là ai nấy bắt đầu ăn cơm trưa, tức là buổi ăn lót lòng sáng và buổi cơm trưa nhập một. Nhưng trong lúc tất cả bộ hành đều tỉnh táo, chẳng lẽ hai vợ chồng ăn riêng, coi hơi kỳ.
Ông nói nhỏ:
- Chờ lát nữa. thiên hạ chưa ăn mà!
Nói xong, ông ho lên một tràng. Bên hàng ghế đối diện, một người gọi thằng bé bán dạo, mua chai xá xị, nút ở nghe cái bốp. Nước ngột chảy từ từ vào cái ly, sôi bọt, ông hương trưởng không còn nhịn thêm được nữa:
- Bà có đem nước theo không? Tôi thèm nước trà quá. Uống được rồi. Thiên hạ uống kìa!
Gói giấy từ từ mở ra, rất lâu, theo ngón tay khéo léo của bà hương trưởng. Bà tháo gút dây cẩn thận rồi cuốn sợi dây lại, để dành.
- Quăng bỏ đi! Ông nói.
- Ðể buộc lại chớ. Gà tới hai con. Vịt luộc cũng vậy. Ăn sao hết, để ngoài gió, rủi bụi bặm vào hoặc có con dời nó bò, dính vào thịt gà. Ăn nhằm con dời là chết! Ông quên rồi sao?
- Ðem làm gì nhiều dữ vậy! Tôi tưởng bà làm thịt một con gà, một con vịt, dè đâu tất cả tới bốn con...
- Ăn sáng rồi còn bận về, mình ăn chiều. Mấy chục năm qua, mình sống bằng nghề nuôi gà vịt, bữa nay ăn một bữa thoả thuê. Tốn kém gì? Cây nhà lá vườn mà!
Mấy người bên cạnh đều trố mắt, lắng tai nghe tâm sự của bà bộ hành đặc biệt ấy. Họ cố gắng che giấu nụ cười. Bà hưởng trưởng ngỡ mình có duyên, nói tiếp:
- Hay là ông nhớ thịt heo! Nhà mình còn hai con heo đúng tạ, bán sớm quá, hơi uổng. Tôi biết tánh ông ưa ăn thịt heo luộc nên mua hồi hôm qua tới nửa cân thịt ba rọi.
Ông hương trưởng nhăn mặt:
- Nhiều quá, ai ăn cho hết?
Bà vợ vẫn chưa hiểu:
- Tôi xắt từng miếng nhỏ rồi. Tôi hiểu mà. Dọc đường như vậy, dễ gì mượn tấm thớt với cây dao.
Ðể chấm dứt sự hiểu lầm ấy, ông gật đầu:
- Lát nữa hãy ăn. Tôi muốn uống hà.
Bà hương trưởng đưa ra chai nước, xung quanh chai có quấn giấy nhựt trình để khỏi dính mùi thịt gà:
- Cái chai sạch thiệc sạch. Ông uống đi!
- Bà gói lại đi. Ðể cái chai này ở ngoài.
- Vậy hả?
Thấy ông chồng hơi lúng túng vì chẵng lẽ đưa miệng chai vào miệng mà nốc, bà chắt lưỡi:
- Tôi quên đem theo cái ly, cái chén. Hồi hừng sáng, tôi nhớ kỹ, đem theo hai đôi đũa để gắp thịt, nhè quên cái ly uống nước.
- Ðược rồi!
Vừa nói, ông vừ anâng chai, uống ừng ực mớ nước trà nguội ngắt trao cho bà. Bà uống, hạ chai xuống, thở ra khoan khoái.
- Như vậy đỡ tốn một đồng bạc. Ủa! Hai đồng bạc chớ. Một chai xá xị là một đồng. Hai chai là hai đồng. Chai gì mà nhỏ xíu cái ruột. Mình coi kìa!
Ông hương trưởng ngồi im, không dám gợi chuyện thêm. Tàu cứ chạy. Hành khách bắt đầu uể oải vì đường còn khá xa. Vài người dựa đầu vào vách mui tàu mà ngủ hoặc bàn tán chuyện riêng tư, chẳng còn ai chú ý tới sự thắc mắc của hai vợ chồng người đồng hành.
Ông hương trưởng hỏi người kế bên:
- Gần tới chợ Rạch Giá chưa?
Người nọ đáp:
- Chừng hai giờ nữa.
Ông buồn rầu. Như vậy là đúng ngọ tàu mới cặp bến. May thay, tiếng rao lanh lảnh của thàng bé bán hàng rong đã mở cho ông một lối thoát kỳ diệu:
- Ai ăn cơm sườn không?
Nó bưng hai đĩa cơm nghi ngút. Ði tới lui. Bà vợ mừng quýnh:
- Chừng này ăn được rồi. Mình đem thịt gà thịt vịt ra ăn. Tệ quá. Coi đĩa cơm kìa! Bán năm cắc, đâu chừng một chén cơm với nửa miếng sườn. Tôi đói quá.
Ông đáp:
- Ăn hấp tấp quá, người ta cười. Mình cứ chờ.
- Kìa! Có người mua cơm. Họ ăn kìa.
- Nãy giờ tôi suy nghĩ điều này, bà có nhớ hay quên? Ăn thịt gà thịt vịt với món gì? Ðể tôi biểu thằng nhỏ đó bán một cắc bạc cơm, cơm không rẽ tiền. Chẳng lẽ mình ăn thịt gà thịt vịt trừ cơm!
Bà cười tủm tỉm, như kẻ đắc thắng, thắng một ván cờ khá gay go, với chồng:
- Tôi nấu cơm nếp đem theo. Nhiều lắm.
- Sao tôi không hửi mùi?
- Hửi làm sao được. Hồi khuya, rô tiểu nhânxong con gà, tôi thấy nó chảy mỡ quá nhiều. Tôi tiếc hùi hịu, nên nấu cơm nếp, trộn với mỡ gà. Cơm nếp đó nằm trong gói này. Nó thơm như thịt gà vậy!
Thế là hành khách lại chứng kiến một cảnh vui vui: gói hành lý, lương thực được mở ra. Bắp đùi của ông và của bà kề sát lại, trở thành cái mâm cơm. Họ ngồi kề vai nhau; bà tặng cho ông một cái đùi gà, ông nói lẩm bẩm:
- Bậy quá! thiếu rượu đế!
- Hí! Uống rượu say sưa, thiên hạ phiền. Nè, nem sống thiếu gì! Cây nhà lá vườn. Rau răm, rau húng cây, rau húng lủi... nè dưa leo, nè ớt.
Hành khách đổ dồn hàng chục đôi mắt về hía đôi vợ chồng già. Bà nói với ông:
- Mời họ ăn không? Mình nên mời một tiếng.
- Theo tục lệ, không ai mời ai cả. Ra đường, mạnh ai nấy lo, tiền ai nấy xài. Thí dụ như chiếc tàu này gặp dông bão, rủi chìm thì mạng ai nấy lội. Chết ai nấy chịu. Mình mời lung tung, thiên hạ không ưa. Bộ mình khinh khi, cho rằng thiên hạ đói hay sao? Họ no hết rồi. Họ không ăn như mình chì vì... họ no hoặc họ chưa muốn ăn. Mình cứ tự nhiên, đừng mắc cỡ.
°   °
°
Hai vợ chồng lên bờ sau chót. Bầu không khí nóng nực quá. buổi trưa, chọ vắng teo. Hầu hết các tiệm phố đều đóng cửa hoặc hép bớt cửa cái.
Bà hương trưởng sửng sốt vì đường đá quá rộng và quá cứng! Chỗ này đá trồi lên lởm chởm, đau chân, chỗ kia, mặt đường đen thui, nhão nhoẹt mớ dầu hắc tráng đường chảy ra như dầu sôi. Ông hương trưởng cắm đầu, bước tới, sát bên lề:
- Mình cứ đi theo tôi! Cứ theo đường thẳng từ đây tới mé sông. Rồi từ mé sông trở lại bến tàu này, kẻo lạc lối. Buồn quá!
Ông hương trưởng không muốn che giấu nỗi buồn vô tận của mình. Người quá lại khá nhiều nhưng chẳng một ai chịu khó nhìn ông, chào hỏi như ở thôn quê. Rõ ràng chợ búa là chốn buồn tẻ, buổi trưa, muốn tìm bóng mát, đâu phải dễ. Vào quán thì sợ tốn tiền. Còn đi như vầy hoài, thiệt là hành hạ tấm thân.
Nhưng bà vợ phía sau đã nêu vấn đề:
- Kiếm chỗ nào nghỉ chân một chút.
- Nãy giờ tôi cũng như bà. Mỏi quá. Mình vô quán ăn.
- Bộ ông còn đói hả?
- Mình mượn cái ghế mà ngồi... tạm. Họ tính bao nhiêu thì mình trả. Vài cắc bạc, chớ không lẽ nhiều.
- Phải à, mình kiếm một cái quán nào nho nhỏ, uống bậy chén nước trà Huế, không chừng rẽ hơn.
- Ông bà đi chợ! Chào ông bà! Hân hạnh cho tôi quá.
Lần đầu tiên tù khi lên đường xa xứ, vợ chồng hương trưởng Neo nghe giọng nói ấm áp, mát rượi như vậy.
Người ấy ngồi trên chiếc chiếu hơi rách, đang ăn bữa cơm đạm bạc: một đĩa cá kho, một dĩa dưa cải. Ăn một mình, dựa lưng vào vách.
Ông hương trưởng nói:
- Chaò ông! Xin lỗi, ông quen với vợ chồng tôi hồi nào?
Người ấy vuốt mái tóc, vuốt hai cái tay áo cho thẳng thớm:
- Chưa quen, nhưng tôi biết ông bà là người khá giả ở trong làng. Mấy khi ông bà ra chợ chơi. Ông bà làm trong ban hội tề. làm tới chức...
Bà vợ mừng quýnh, buột miệng nói:
- Chức hương trưởng làng Thạnh Hoà.
- Mời ông bà ngồi, dùng cơm với tôi.
Người ấy vừa nói, vừa liếc nhìn cái gói hành lý mà bà hương trưởng đeo trong cánh tay.
Ông liếc về phía vợ, như để hỏi ý kiến:
- Mình ngồi cho khoẻ chân.
Bà gật đầu:
- Rồi ăn luôn với ông này.
Bữa tiệc... khai mạc khá sôi nổi ấm áp.
Ông bà ăn chiếu lệ vì còn hơi no. Nhưng anh nọ ăn hơi nhiêù, vừa ăn vừa hỏi han về tình hình mùa màng trong làng Thạnh Hoà. Ăn hết con gà, con vịt, anh ta không ngần ngại gắp mấy miếng thịt ba rọi heo, nhai ngấu nghiến với rau sống, nhai liền miệng:
- Ngọn quá! Heo ngoài chợ ăn không mấy ngọt bằng heo của ông bà.
Bà vợ gật đầu:
- Nhà tôi nuôi heo nhiều lắm. Chừng nào rảnh ông vô Thạnh Hoà mà xem. Còn một chuồng... Ông cứ ăn cho hết đi.
- Cám ơn ông bà. Nhưng tôi biết lấy gì làm kỷ niệm. À... Xin thú thật với ông bà, tôi làm nghề.. thầy thuốc, chuyên bán thuốc nuôi heo mau lớn. Ngặt thuốc bán không đủ, thiên hạ mua nhiều quá rồi. Phải chi ông bà tới sớm một chút. Chờ xem.
Nói xong, anh ta đứng dậy, chạy vào ngõ kêu đem ra... một bức tranh: con heo khá to, đuôi cong lên, mình heo có điểm vòng tròn âm dương:
- Ông đem về, dán ngay cửa nhà, làm ăn phát đạt lắm!
Bà hương trưởng ngắm nghía bức tranh, gật đầu. Trong lùng khi đó, ông hương trưởng nghĩ ngợi xa xôi hơn. Anh nọ lạnh lùng gói mớ thịt heo, thịt gà... để làm của riêng, đặt trong góc vách. Trông anh ta đói quá. Còn đói, còn thèm nhưng anh ta muốn để dành cho buổi ăn chiều.
- Ngộ quá!
Anh nọ gật đầu, đứng dậy như để ... đuổi khách.
- Cám ơn ông bà. Hẹn ông bà lát nữa hoặc tối nay đi ăn cao lầu... đi coi hát!
Lại một sự tốn kém mới. Ông hương trưởng chợt hiểu: nếu hắn không là kẻ hoàn toàn bất lương thì hắn cũng đang sống trong tình trạng... ghiền á phiện hoặc thất nghiệp. Ông lật đật nắm tay vợ:
- Thôi mình về!
Rồi day lại chào anh nọ.
Bà vợ còn mân mê bức tranh heo:
- Ngộ quá! Ðem về dán trước của nhà. Vui quá! Làm ăn tấn phát, thiệt vậy hả ông?
- Mình về, đủ rồi.
- Cái hình ngộ quá. Mình thấy không! Bữa nay toàn chuyệnmay mắn, không tốn đồng xu. Coi hình tốt quá.
Ông nói cho bà vợ được hưởng trọn niềm vui trong ảo mộng xa vời:
- Tốt lắm. Ðem về dán trước cửa. Hễ gà vịt hoặc heo mà đau ốm thì mình van vái cái hình đó. Gà đẻ ra nhiều trứng, heo mập như thổi, vài ngày đúng tạ... mình làm giàu, cái tờ cử hương trưởng của tôi đem danh, cái hình này đem lợi... Ðủ danh đủ lợi rồi.
Ðảng xăm mình
Ông Tây Lơ Pheo vừa được"nhà nước thuộc địa Nam Kỳ" cấp cho một phầnd dất hoang vu, sình lầy ở rạch Xẻo Quao, làng Ðông Hưng, sát mé biển vịnh Xiêm La.
Sau khi hay tin ấy, mấy ông điền chủ Việt Nam ở gần không ngớt bàn tán:
- Bộ thằng Tây đó muốn tán gia bại sản sao chớ? Thứ đất khô không ra khô, ướt không ra ướt, tràm mọc vài cụm xơ rơ... Biết chừng nào mới làm ruộng được. Cỏ mọc cao hơn đầu người.
Có người đáp lại:
- Ông Lơ Pheo không ngu dại gì đâu, ông làm tới chức"bác vật," ông có vốn liếng nhiều. Vài chục năm nữa, đất phèn, mùa nàng thạch mậu nhờ ổng mướn người xẻ kinh, đào mương cho rút bớt chất phèn.
- Vô lý. Vài chục năm sau, ông Lơ Pheo chết ngắt. Biết đâu Tây rút lui về chánh quốc trước khi đất này trở thành "đất thuộc" có huê lợi. Ông Trạng Trình tiên đoán rằng... thầy tăng trở về... gì đó, bà con mình quên rồi sao?
Nhưng Sấm Trạng Trình, năm ấy, chưa ứng nghiệm. Co bộ còn hơi lâu Tây mới rút về nước họ. nhà nước Tây còn mạnh lắm. Quan chủ quận vừa gời trát xuống cho thầy hương quản"tuân cứ" là hôm sau cả ban hội tề Ðông Hưng mặc chỉnh tề, khăn đóng, áo dài đen, chầu chực đón rước vị điền chủ mới.
Ông Lơ Pheo nói sành sỏi tiếng Việt Nam, không cần ai làm thôn ngôn. Ông không mang theo khí giới, súng đạn, khi người ta là một tay lịch lãm, dám bỏ quê xứ để qua thuộc địa miền nhiệt đới, khi người ta có bộ óc khá to, có cái trán sói sọi vì quá suy tư.
Nghe trình bày những khó khăn trong công việc làm ăn, ông Lơ Pheo mỉm cười:
- Hèn gì... Ngành canh nông ở đây kém phát triển, thua Nhật Bổn, Miến Ðiện, Nam Dương. Ðất nào mà không sanh ra huê lợi. Vậy chớ mấy ông điền chủ"An Nam" ở gần đất của tôi sanh sốn bằng nghề gì?
Thầy hương quản nói:
- Dạ, họ không làm ruộng.
Ông Lơ Pheo trố mắt:
- Tại sao họ xưng là người trồng tỉa lúa gạo. Họ khai trong giấy tờ làRi-di-cun-tưa (Riziculteur).
Thầy hương quản gãi đầu:
- Họ sống bằng nghề nuôi cá.
- Ồ!Phọt-mi-đáp . Nuôi cá là chuyện khác với làm ruộng. Bây giờ, thầy hương quản cứ cho tôi biết. Mỗi mùa nuôi bao nhiêu... con cá? Loại cá gì? Cho cá ăn mồi gì? Làm sao có đủ thức ăn cho cá lớn? Lúc cá đẻ, phải săn sóc cá mẹ cá con ra sao? Mỗi ngày, cá ăn mấy lần? Mỗi năm, bán được bao nhiêu tiền?...
Thầy hương quản nói tóm tắt:
- Dạ, theo chỗ tôi biết thì mỗi người chủ đều bán ra vài chục ngàn kí lô cá. Ðó là cá lóc, cá trê, cá rô do trời sanh, trời dưỡng. Từ hồi... tạo thiên lập địa, cá kiếm ăn một mình. Mình cứ ở không, uống rưọu mà chờ mùa nắng để bắt cá một lần. Gọi tắt là mấy ông điền chủ"An Nam" đắp vuông nuôi cá. Nuôi cá trong cái"vuông" .
- Vuông là cái gì? Sao tôi chưa nghe sách vở nói tới. Cái hình bốn góc bằng nhau. Làm sao cá ở trong đó?
Thật vô cùng bối rối cho thầy hương quản. Làm sao giải thích rõ ràng cho ông Tây thuộc địa nghe được. Thầ ngỏ ý muốn đưa ông Lơ Pheo ra ngoài vuông để ông ta quan sát tận nơi. Trời nắng chang chang, đổ sao. Ông Lơ Pheo lắc đầu, nghĩ đến những vụ ám sát, bắt cóc. Phía chân trời, dường như có một dẫy rừng chạy dài.
Rốt cuộc, thầy hương quản nói:
- Dạ, đó là một khoảng đất rộng từ bảy chục, tám chục hoặc hai ba trăm mẫu. Trong khoảng đất hoang vu, người ta đào nhiều đường mương nhỏ, như bàn cờ, cho cá ở. Bên ngoài có bờ bao ngạn như vòng thành khá cao. Cao hơn một thước tây. Vì vậy cá lội quanh quẩn trong vùng đất bao la bên trong. Làm sao cá nhảy ra khỏi bờ bao ngạn được. Cái vuông ấy không nhứt thiết hình vuông. Nó méo mó, hoặc theo hình chữ nhựt.
Ông Lơ Pheo thích chí:
- Tôi hiểu rồi. Giỏi quá! Nhưng mà... làm sao gom cá lại một chỗ, bắt cá đem lên. Chẳng lẽ dùngmáy bơm để hút nước ra ngoài. Muốn bắt cá, phải tốn bao nhiêu nhân công?
- Dạ bẩm, quan lớn... Qua mùa hạn bao nhiêu cá đều rút xuống mương, tự nhiên. Chừngmương cạn thì thì cá rút lui từ từ, dẫn vào một cái đìa khá to, ở sát bờ bao ngạn. Mình cất nhà ở bên cái đìa đó, để coi chừng kẻ trộm. cứ tát đìa. Cá lớn thì bán. Cá nhỏ thì để dành làm giống cho mùa tới.
Ông Lơ Pheo gật đầu lia lịa, khoát tay ra dấu nhận lời thầy hương quản. Chẳng lẽ người Pháp lại thua trí người nông phu"An Nam" ? ông ta nói nhanh:
- Tôi hiểu rồi. Mấy người nuôi cá theo kiểu... cái Biển Hồ trên xứ Cao Miên. Mùa mưa cá lên rừng, lên ruộng, sanh đẻ trong lồng cỏ. Mùa nắng, cá gom xuống ao hồ. Tôi làm bài toán rồi. Mỗi năm, một cón cá mẹ sanh ra chừng mười ngàn cá con, hay quá.
- Như vậy nghĩa là quan lớn thấy xa hiểu rộng hơn tôi nhiều. Sáng mai, tôi dẫn quan lớn đi thăm mấy cái ruộng của điền chủ"bổn xứ" , gần đây...
- Cám ơn. Tôi đắp một cái ruộng, lớn bằng hai bằng ba... cho điền chủ An Nam noi theo. Ờ, tại sao mấy người điền chủ ở đây không làm giàu. Cá nưôi không cần mồi. Tiền bạc ở đâu? Tại sao không ai cất nhà lầu, mua tàu bè, lập nhà máy xay lúa. Tại sao ông chủ ruộng nào cũng nghèo xơ xác?
Thầy hương quản mỉm cười bí mật. Thầy ta cũng là một người chủ vuông, luôn cả những người trong ban hương chức hội tề:
- Thưa ông, khó nói quá.
- Sao vậy? Tại vì mấy người chủ vuông hút á phiện, mê cờ bạc?
- Dạ, khó nói quá.
°   °
°
Ông Lơ Pheo lấy làm hài lòng khi ông đích thân đến quan sát vùng đất, ông phác hoạ kế hoạch tương lai.
Này, cái bản đồ với bón góc A,B,C,D có thể chứa hàng triệu con cá.
Này, cái trại vuông, lợp bằng thiếc, nền lát gạch, vách ván, có cửa sổ che lưới sát mịn để ngừa loại muỗi đòn xóc gây bịnh rét rừng.
Này, cái phòng khách. Bên góc, có bình lọc nước, thư viện nghiên cứu. Và trước sân là một cái hồ nhỏ, cẩn xi măng để nuôi thử vài loại cá lóc, cá trê. mấy loại này sẽ lai giống, gây ra vài thứ cá mau lớn, dễ nuôi hơn, ăn ngon hơn.
Ngày đắp xong cái vuông, ông khen thưởng bọn"culi" một con heo quay.
Rồi suốt ngày, ông nằm trong trại, theo dõi tình hình nuôi cá.
Vài người đàn ông đen đúa, ở trần, tóc dài tới ót đi qua đi lại gần trại nuôi cá của ông Lơ Pheo.
Họ chào ông, ông chào họ. Họ tự xưng là người"làm ăn lương thiện" ở ngoài mé biển. Họ hút điếu thuốc của ông Lơ Pheo thân tặng rồi họ nheo mắt, khều nhau.
Họ nói nói, cười cười như âm mưu chuyện gì.
Ông Lơ Pheo cau mày, linh tính như báo trước chuyện bất an. Ngực của mấy kẻ"làm ăn lương thiện"ấy xâm đầy chữ Tàu, chữ quốc ngữ, luôn cả chữ Pháp. Bí mật quá.
Chờ khi họ khuất dạng, ông Lơ Pheo đến nhà hương quản:
- Mấy người ở đâu vậy? Tên họ gì? Có đóng giấy thuế thân không? Hay là dân bất lương?
Thầy hương quản nói:
- Họ ngoài mé biển, làm nghề câu cua, đốn củi, gài bẫy chim. Mấy nghề đó, nhà nước Lang Sa đâu cấm đoán. Còn về giấy thuế thân thì... khó quá. Tôi chua dam1 hỏi thử vì làm vậy sợ mất cảm tình. Ðể tôi hỏi thầy xã trưỡng xem thử họ có ghi tên trong bộ sỗ không.
Ông Lơ Pheo lắc đầu:
- Họ còn làm gì khác không? Coi bộ họ rảnh rang hơn tôi. À, họ biết chữ Tây không?
- Dạ, làm sao biết được Ở làng này, chẳng ai biết chữ Tây hết.
- Nè, thầy hương quản. Họ xăm mấy chữ Pháp quá vô phép:"Plutôt la mort que la honte"(thà chết hơn chịu nhục). Họ lại ở trần cho tôi đọc.
Thầy hương quản hơi bối rối:
- Họ xăm mình từ hồi nào lận kìa! Vả lại, chữ nho cũng vậy"Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục."đã xăm vào da vào thịt rồi thì làm sao bôi xoá được. Chữ Tây mà. Chữ Tây ngụ nhiều ý nghĩa quá.
Ông Lơ Pheo lẩm bẩm:
- Câu đó để dành cho người Pháp bên chánh quốc. Hoặc cho tôi. Ở xứ Nam Kỳ này, không nên nhắc lại câu đó, sợ dân tình bắt chước. Ngoài mé biển, còn chừng bao nhiêu người sống lang thang rảnh rổi như vậy?
- Dạ, để tôi hỏi thầy phó hương quản. Phó hương quản lo trị dân ngoài đó.
- Phó hương quản là ngườ nào? Mặt mày ra sao? Kêu lại cho tôi biết mặt.
Thầy hương quản im lặng. Ngưòi xăm mình, xoay mấy chữ ngạo nghễ khi nãy chính là phó hưong quãn chó còn ai đâu xa lạ. Thầy che giấu:
- Dạ, phó hưong quản giờ này đi câu cua ngoài biển.
- Dân ngoài mé biển hiền hậu không? Uống rượu nhiều không? Họ uống rượu với... thịt chó hả? Ở vùng đồng bằng sông Hồng...
Thầy hương quản gật đầu để chấm dứt câu chuyện rắc rối.
- Dạ, uống rượu với thịt chó.
Rồi thầy ra về với nụ cưòi bí mật. Sự thật là dân miền biển ưa nhậu rượu với cá, loại cá nước ngọt, nuôi trong vuông. Cá đồng ngon hơn loài cá biển. Nay mai, đến mùa nước cạn, họ sẽ nhậu với cá trong vuông của ông Lơ Pheo và ăn trộm cá để mua rượu. Họ ăn cá, thay cho cơm.
Ông Lơ Pheo vào trại, tỏ thái độ cương quyết. Ông vừa thắng một trận giặc lòng. Lương tâm ông chẳng còn cắn rứt nữa. Ông quyết tâm vượt những khó khăn đầu tiên mà cuộc kinh doanh nào cũng vấp phải. Kế hoạch đối phó của ông như thế này: Về chợ Rạch Giá, tìm một tay võ sĩ, đánh lộn hay, chém lộn giỏi, rồi phong cho hắn làm chức quản lý vuông cá. Ấy là lấy độc trị độc. Mỗi tháng, cứ tăng lương đều đều cho hắn.
°   °
°
Mấy tháng qua, Tư Liệt lấy làm vui thích. Với trách nhiệm to tát, chú tư còn được quyền hạn khá rộng do ông Lơ Pheo giao cho.
Sáng sớm, vừa thức giấc là chú Tư Liệt dạo vòng quan bờ ruộng, đi hơn một tiếng đồng hồ mới giáp bốn phía bờ bao ngạn. Chẳng có kẻ bất lương nào ẩn náu trong vùng cấm địa cả! Ông Lơ Pheo đã la hoảng, vậy thôi. Trong vuông, chú Tư Liệt thấy nào chi, cò, trích, cúm núm. Hàng trăm con le le bay lên từng chặp, từ mấy cái lung đầy sen bạch, nở muộn. Gió chướng thổi hiu hiu. Mấy giề rong đuôi chồn tan rã, chìm xuống. Mắt nước lềnh bềnh, đầy bông súng.
Mấy tấm bảng"Vuông này là của riêng của ông Lơ Pheo, Cá có chủ! Coi chừng! Nếu trộm cắp sẽ bị nghiêm trị!"đứng trơ trẽn lạnh lùng trưóc cơn gió biển. Thỉnh thoảng, vài con cò quắm đáp xuống, đâu thử trên đầu bảng. Nhưng chặp sau, vì tấm bảng quá mỏng, nên cò quắm đau chân. Cò vỗ cánh, phóng uế, bay về phía rừng mắm xanh rì để đậu. Cành mắm tròn đậu êm ngón chân hơn.
Tư Liệt ngáp dài, trở về trại, uống viên ký ninh, đúng theo lời căn dặn của ông Lơ Pheo, và uống với nước lọc, những giọt nước mát lạnh nhểu xuống từ cái"phít" bằng đất sét trắng. Buổi chơm chiều, chú ăn chậm rãi. Nhà đóng kín, muỗi không lọt vào được. Ông Lơ Pheo đã trở về Sài Gòn từ tháng trước. Tư Liệt nghiễm nhiên trở thành chủ nhà, chủ vuông cá. Còn năm ngày nữa, ông Lơ Pheo mới trở lại Xẻo Quao này.
Chú nằm trên giường lắng tai. Bên ngoài có những tiếng động lạ thường.
Trong cái đìa sau trại, cá quậy nước nghe ầm ầm. Hàng ngàn con cá to đã gom vào đó. Im một chặp, lại nghe tiếng"chép chép," "lụp bụp," "lào xào" ... cứ như thế, mỗi lúc một náo nhiệt.
Chú xách cây đèn"pin" , chạy ra ngoài rọi xuống đìa. Nước đục ngầu pha trộn với bùn đen. Hằng hà sa số cá lóc, cá trê cố vùng vẫy, toan lội trở ngược. Chú dạo một vòng, chung quanh bờ vuông. Cá gom xuống mương rồi. Cá muốn lội dài theo dòng nước đục, gom vào cái đìa lớn. Chú rọi đèn"pin" ... Vài con cá choá mắt, nhảy dựng đứng để trốn ra ngoài bờ bao ngạn khá cao. "Cá ở đâu mà nhiều quá vậy?" Tư Liệt hỏi thầm.
Sau cuộc tuần tra ấy, Tư Liệt vào nhà mừng thầm vì nay mai ông Lơ Pheo sẽ hài lòng.
Hừng sáng, chú thúc dậy sớm, dạo một vòng trên bờ vuông. Ðằng kia, đôi ba người lực lưỡng đưa tay ngoắt chú. Bên cạnh họ, đống lửa cháy vàng lườm. Khói bay cuồn cuồn, đưa màu cá nướng thơm phức. Thấy họ đông đảo và mạnh khoẻ hơn mình, Tư Liệt dừng lại. Có tiếng kêu réo:
- Lại đây nhậu chơi nè. Chẳng lẽ ba người ráp đánh một người. Anh hùng một thứ với nhau mà.
Tư Liệt cười gượng, đến gần. Ô hô! Nãy giờ, và có lẽ từ mấy ngày trước, họ ăn hằng hai ba chục con cá lóc, cá trê, bỏ xương bỏ thịt một đống to. Dường như chưa thoả mãn, họ đang chuẩn bị cặp vào gắp tre chừng mười con cá trê mà nướng tiếp theo.
- Lại đây đại chúng ta. Uống một hớp cho tỉnh táo để thính lỗ tai, nghe tụi tôi hạch tội.
Tư Liệt ngạc nhiên:
- Hổm rày, tôi đã làm gì khiến bà con hờn giận?
Một người trong bọn nói:
- Hồi tối, đại ca đi đâu. Rọi đèn"pin" để rình bắt tụi tôi hả? Rình ban ngày chưa đủ sao? Lại đây ăn no rồi kéo tay sơ sơ coi ai mạnh, ai yếu. Nè! Cá lóc Xẻo Quao ngon lắm, ngốn một miếng cho biết mùi. Ăn lớn miếng mới biết ngon.
Cực chẳng đã, Tư Liệt phải ăn và uống. Bọn người cười vang:
- Cha nội này tiếc của dùm cho ông Lơ Pheo. Cá này là cá của mình mà. Tại sao đại ca lại trung thành"bất tử" với ổng?
Tư Liệt hỏi nhanh:
- Cá ở đây vậy?
- Cá ở trong vuông trốn ra chớ ở đâu.
- Cá biết trốn à? Làm sao nó nhảy qua bờ bao ngạn, cao hơn một thước tây.
- Nó đào hang, đào ngách. Ðất mềm lắm. Kìa! Thí dụ, như mấy bụi sen bạch này. Nó mọc phía ngoài nhưng nó trổ ngó, mọc thêm vài bụi phí trong vuông của ông Lơ Pheo. Hai bụi sen dính liền với nhau. Thử đào đất lên thì biết. Lời tục thường ví:"Ðất có con mắt" .
Hôm sau, ông Lơ Pheo từ Sài Gòn về Xẻo Quao để... bán cá. Ông hơi buồn phiền vì Tư Liệt cứ vắng mặt. Chỉ còn người bạn tâm giao của ông ta là thầy hương quản.
Thầy hương quản nói:
- Xứ này khó làm giàu lắm. Bởi vậy, mấy ông điền chủ Xẻo Quao chỉ lo nhậu rượu rồi làm hương chức hội tề cho vui. Làm sao phân biệt cái hang tự nhiên với cái hang của tụi nó đào. Tôi biết. Gây gỗ với tụi nó vô ích.
Ông Lơ Pheo nói giọng chán ngán:
- Chắc thằng Tư Liệt theo đảng xăm mình rồi. Còn thầy có xăm mình không?
Thầy hương quản mỉm cười:
- Ôi thôi. Cá nước chim trời mà.
Cái va li bí mật
Ở đây là hòn Móng Tay, cách bờ biển hơn hai mươi cây số ngàn. Tàu ngoại quốc thỉnh thoảng chạy qua lại ngoài xa xa. Ghe đánh lưới, ghe buôn lậu ít khi nào ghé vì trên hòn chỉ có một ngọn suối quá nhỏ, cạn khô khi trời vừa trở nắng.
Ấy thế mà Hai Khoánh ra đây, sống lây lất từ bốn tháng trường. Anh ta kéo chiếc ghe lên bãi, che giấu cẩn thận trong bụi cây đầy gai. Cái ngày trở lại đất liền, sống chung với xã hội loài người còn xa lơ xa lắc. Kẻ tù vượt ngục dường như sẽ được ân xá, nếu hắn trốn thoát vòng tập nã của nhà nước Pháp suốt hai mươi năm. Hồi bị giam ở khám đường Rạch Giá, Hai Khoánh nghe một bạn tù giảng giải như vậy. Hai Khoánh chưa vội tin vì người bạn ấy nào phải quan toà hay thầy kiện mà rành luật lệ.
- Tại sao nhà nước ân xá nếu mình trốn được hai chục năm?
Người bạn đáp:
- Vì suốt thời gian ấy mình ân hận, ăn không ngon, ngủ không yên. Nếu mười bảy, mưòoi tám năm trôi qua mà mình còn hung bạo, cố lỳ thì tới năm thứ mười chín, hai mươi mình cũng sám hối...
Nghe lời hữu lý ấy, Hai Khoánh cương quyết tẩu thoát. Thừa lúc bọn lính mã tà dẫn đi nhổ cỏ trong vườn bông của ông chánh chủ tỉnh, anh ta cảm ơngiò, chạy nhanh ra bãi biển, cưới chiếc ghe lưới, xổ buồm... nhờ gió đưa ra hòn Móng Tay. Lâu ngày sanh buồn bực, anh ta lén vô bờ, ăn trộm gà vịt, xúc gạo của dân miền duyên hải để rồi trở ra hòn Móng Tay, nơi hoang vu chẳng một bóng người.
Một sáng, khi thức dậy, Hai Khoánh nằm trên vồ đá khá cao chợt thấy có một chiếc ghe chạy thẳng vào bãi. Từ dưới ghe, một người cao lớn, mặc quần áo đen bước lên, tay xách vật gì giống như cái va li. Người nọ day lại, vẫy tay, tức thời chiếc ghe nọ quay mũi chạy trở về mất dạng phía đất liền. Hai Khoánh rất đỗi vui mừng. Ngưòi nọ nhứt định không phải là mật thám hay lính mã tà theo dõi tung tích của mình! Chắc hắn ta buôn lậu, bị tàu"đoan" rượt nên lên hòn Móng tay để ẩn thân, giấu mớ vàng hoặc á phiện. Không bỏ lỡ cơ hội, Hai Khoánh lập tức theo dõi kẻ lạ mặt. Hắn theo con đường mòn duy nhất mà Hai Khoánh đã dọn sẵn. Ðộ nửa giờ sau, nhờ rình núp sau tảng đá khá to, hai Khoánh nghe tiếng lá khô xào xạc. Hắn lú ra, gương mặt mệt nhọc, đưa hai bàn tay ôm cái va li trước ngực.
- Phải là vật nắng đôi ba chục kí lô! Hắn trông lạ quá, mắt xếch, cườm tay xăm mình con rồng. Từ hồi nào tới giờ, mình chưa gặp hắn lần nào!
Bỗng dưng khách lạ dừng bước. Hai Khoánh nín thở, ngỡ rằng hắn đã đánh hơi, hồ nghi có kẻ đang rình! Nhưng Hai Khoánh lầm to. Khách lạ cúi mặt, bước vòng quanh để khỏi đạp lên một con cuốn chiếu. Con cuốn chiếu thu mình, khoanh tròn như khu ốc. Hắn nhặt nó, đưa lên mũi hửi rồi khom lưng thả nó trên chiếc lá khô.
Hắn leo lên ngọn cây thao lao, một tay vịn nhánh cây, một tya nắm quai chiếc va li. Hai Khoánh hiểu rằng hắn quan sát địa thế, tìm nơi an toàn nhứt. Rồi hắn trở xuống đất, cố sức trèo lên gành Ðá Trắng.
- Ðược rồi! Mình đi nom theo, hắn sẽ giựt mình. Hắn như con cọp hoang. Trước khi đánh cọp, mình nên biết cọp làm ổ chỗ nào rồi mới"điệu hổ ly sơn."
Chờ khi hắn khuất dạng, Hai Khoánh trở về động đá dưới sườn đồi, lục lạo mớ cơm nguội còn sót trong nồi đất. Ðêm đến, anh ta nằm co chịu lạnh, không dám đốt lữa...
Hôm sau, Hai Khoánh mặc quần rách, ở trần, lên bờ suối hái mớ rau má, chặt ống tre lồ ô để đựng nước.
Từ phía sau lưng, Hai Khoánh chợt nghe tiếng gọi:
- Chú em ơi!
Ngưòi vừa gọi chính là"hắn" . Hắn cũng ở trần, ngồi dựa lưng vào bó củi khô. Hai Khoánh hỏi nhanh:
- Ủa! Ai đó?
Rồi lộ vẻ sợ sệt, để khách lạ đừng chạy đi chỗ khác. Hắn đưa tay ngoắc, với thái độ đàn anh kẻ cả, nói đúng hơn là hắn tự phong chức chúa đảo.
Khách lạ mỉm cười:
- Vậy mà tôi tưởng ở hòn Móng Tay này chẳng có ai, trừ tôi ra.
Hai Khoánh gật đầu:
- Tôi cũng nghĩ như"đại ca" vậy. Dè đâu còn người thứ hai là"đại ca" . Ðại ca tới đây hồi nào? Lập nghiệp bao lâu năm ở sườn đồi phía mặt trời lặn hay phía mặt trời mọc? đại ca có vợ con gì chưa?
Khách lạ bèn móc trong túi đem ra gói thuốc rê, vét mớ thuốc nát, chia cho Hai Khoánh một điếu. Khách giới thiệu:
- Tôi vừa giết vợ...
Rồi lẩm bẩm, nhìn chòng chọc vào mắt Hai Khoánh:
- Giết vợ rồi giết luôn con...
Hai Khoánh kêu lên:
- Ngán quá! vợ con của ai?
- Của tôi chớ của ai? Ông già vợ tôi đánh mõ, tri hô... Nửa đêm, xóm giềng xách gậy, xách hèo tới vây bắt. Tôi ra bờ biển, mướn ngưòi đưa ra ngoài hòn để ở tù theo ý muốn của mình. Còn chú em?
- Dạ, tôi ăn cắp vặt trong xóm vì túng tiền, thua cờ bạc, nợ nần kêu réo. Chủ nợ thưa tôi. Tôi ở khám Rách Giá, chạy ra đây.
Khách lạ nhướng mắt:
- Giỏi thiệt. Nhưng khi trốn, chú em có giết bạn tù hoặc lính của tù không.
- Không.
Khách đưa tay vỗ nhẹ lên đầu Hai Khoánh:
- Xin lỗi. Thế là chú em... phải là em nuôi của tôi. Tội của chú em nhẹ quá. Bất quá, nhà nước Tây chồng án. Hồi đó chú em bị kêu án mấy tháng?
- Hai năm.
- Mai chiều, rủi ro bề gì chú em ở bốn năm, chồng án gấp đôi. Còn tôi đây thì...
Bấy giờ, Hai Khoánh tung ra luận điệu: nếu trốn thoát suốt hai mưoi năm thì kể như trắng án. Khách lắc đầu:
- Chú em ở đâu?
Hai Khoánh đáp thật tình, cố ý mời khách lạ đến hang đán của anh ta để rồi sau đó, anh ta đến thăm viếng xã giao, dò xét cái xào huyệt... có chiếc va li quá nặng của khách. Vừa bước vào hang khách mừng rỡ quá mức, thấy món gì cũng thèm.
- Chuối chín hả? Cho vài trái coi! Chuối ở đâu vậy? Tôi mới trốn ra đây vày bữa, cơm gạo, áo quần, thức ăn.... món gì cũng thiếu. Còn thứ gì ăn được nữa không?
Hai Khoánh cố che giấu sự khinh bỉ đối với anh chàng"đại ca"nhỏ nhen ấy. Nhưng gây gổ, giảng luân lý với kẻ giết đàn bà, giết con nít là điều ngu xuẩn, hơi đâu khảy đờn vào tai trâu, múc nước đổ lá môn. Phải tương kế tựu kế, áp dụng triệt để câu quân tử tham tài, tiểu nhân tham thực:
- Dạ, tôi vừa gài bẫy, bắt được một con gà rừng, buộc giò nó ngoài gốc cây...
- Cho tôi mượn luông.
Hai khoánh chẳng tài nào chịu đựng nổi con người khả ố đó nữa:
- Ðể tôi ăn chớ! Nếu thèm, đại ca chia nửa con.
- Tôi muốn ăn bộ đồ lòng gà.
Vừa nói, khách lạ vừa bước tới, vặn họng con gà rừng, rút trong lưng quần đem ra một"cây dao con chó," mổ bụng gà, cắt gan, ruột và thịt nạc ở đùi.
Khách từ giã. Hôm sau khách lại tới viếng Hai Khoánh:
- Còn gạo không? Chừng nào chú em vô trong bờ mua gạo?
Hai Khoánh đáp:
- Dạ, sáng mai.
- Nhớ kiếm cho tôi một hộp sữa bò, một cân bột nấu chè ăn chơi.
Hai Khoánh cau mày:
- Dạ, tôi ăn cắp gạo của thiên hạ. Sữa bò và bột là những món phải mua tại tiệm quán, lúc ban ngày, với tiền bạc sòng phẳng.
Khách lạ gãi lưng sột sột:
- Dễ quá. Tôi chỉ chỗ dùm chú em... Ở xóm Rạch Giồng, tiệm quán bán tới khuya, tư bề vắng vẻ. Tôi thèm sữa bò quá chừng quá đỗi. Chú em phải đi gấp. Bằng không thì đừng vác mặt trở về hòn Móng Tay này. Cực chẳng đã, tôi phải nhờ chú em. Chẳng lẽ tôi lén về để họ nhìn mặt, bắt bỏ tù mãn đời. Tôi muốn sống chừng... mười lăm năm nữa... Ờ! Ðúng mười lăm năm nữa là đũ.
°   °
°
Hai Khoánh xuống ghe, trương buồm... bao nhiêu công chuyện quan trọng to tát mà anh ta cần thực hiện! Rõ ràng"khách lạ" nọ là kẻ gian mà không ngoan. Hắn thú nhận đã giết vợ con, quê quán ở Rạch Giồng, người ở Rạch Giồng có thể nhìn mặt hắn. Va Li của hắn chứa một số vàng bạc hoặc á phiện lậu dù cho cho hắn... ăn chơi đến mưòi lăm năm ròng rã.
Vừa tới Rạch Giồng. Hai Khoánh đến tiệm tạp hoá, uống liên tiếp hai chén rượu. Việc sát nhơn của"khách lạ" còn nóng hổi, dân chúng bàn tán xôn xao. Ðại khái,"khách lạ" nọ tên là Nguyễn Văn Hi, làm mướn cho ông chủ Tân, nhờ ăn nói có duyên, tên Hi tư tình với cái gái chủ nhà. Cô gái nọ mang thai. Ðể cứu vớt danh giá cho dòng họ, chủ Tân đem con gái gả cho một phú thương, tuổi hơn năm chục, đã chết vợ. Tên Hi buồn rầu, bỏ xứ đi bặt tăm tích.
Bốn năm sau, tên Hi lại xuất hiện, giết người tình và đứa bé.
Hai Khoánh hỏi người chủ tiệm:
- Nhà ông chủ Tân gần hay xa?
- Cái nhà ngói ba căn hai chái kia kìa!
- Thằng Hi hèn hạ quá.
Chủ quán nói:
- Nó hèn nhưng nó có tài cao bay xa chạy nên nó cứ sống nhăn hoài. Nghe đâu ông chủ Tân đặt giải thưởng năm trăm đồng cho ai điểm chỉ nơi nên Hi ẩn náu.
Thế là Hai Khoánh vững bụng. Anh ta sẽ điểm chỉ tên Hi để lãnh thưởng, để loại trừ một kẻ giết vợ giết con, để thanh toán một người bạn quá tham ăn, bóc lột kẻ yếu thế. Hai Khoánh lẩm bẩm:
- Nếu không mang tội giết người, tên Hi còn hung dữ gấp mười. Mình làm một việc... nhơn đạo, đoái công chuộc tội.
Ðến nhà ông chủ Tân. Hai Khoánh lân la, tự giới thiệu rồi trình bày kế hoặch. Chủ Tân mừng quýnh vì Hai Khoánh tả rất đúng hình dáng kẻ sát nhân, mắt xếch, có xăm nơi bắp tay. Chỉ có một chi tiết khó hiểu: chiếc va li đựng vàng hoặc á phiện lậu, đã cho tên Hi sống trên nhung lụa suốt mười lăm năm.
Chủ Tân nói rỉ vào tai Hai Khoánh:
- Tôi hứa chia phần nửa cái va li á phiện đó với chú em. Hạ được thằng hi, tôi hả dạ rồi. Ðiều quan trọng là đừng cho ai biết nó mang cái va li kẻo thấu tai chủ quận, chủ tỉnh. Tôi gởi chú em đi Châu Ðốc, cuốc rẫy tại Núi Dài, nơi nhà người bà con. Ở Núi Dài, dân trên núi sống thảnh thơi, Tây tà chẳng bao giờ dám tới xét giấy thuế thân. Với phân nửa va li á phiện, chú em sẽ mua đất, trở thành điền chủ.
Hai Khoánh cau mày:
- Tôi chỉ buồn buồn... Thiên hạ sẽ đàm tiếu, họ khinh khi cho tôi là đứa phản bạn!
Chủ Tân cười dòn dã:
- Chú em kết bạn, uống máu, ăn thề với nó hồi nào mà sợ thần thánh... Hoặc lương tâm cắn rứt? Dễ quá, lúc về già, chú em cất một cái am ở Núi Dài, tha hồ ăn năn xám hối. Vả lại, đạo Phật, đão Lão đều dạy mình trừng trị kẻ gian tà. Nhà nước Tây bắt tư Hi bỏ từ vài mươi năm chớ đâu chặt đầu, xử bắn nó.
Tối hôm ấy, Hai Khoánh vạch ra một kế hoạch khá tinh vi. Tên Hi luôn luôn đứng trên gành Ðá Trắng để theo dõi những người lạ mặt bước chân lên hòn Móng Tay. Hai Khoánh về hòn trước một mình, mang theo đậu xanh, sữa hộp và thuốc hút.
- Nó là đứa ham ăn. Gặp đồ ăn, nó mừng quýnh. Sẵn dịp, tôi lên chốt hòn, thăm viếng sào huyệt của nó. Ông dẫn bọn gia nhân tới sau, cho ghe cặp bãi lúc ban đêm. Ông cứ tới hang đá của tôi. Dọc đường, hễ đi được năm sáu bước là tôi bẻ một vài đọt cây để làm dấu. Phải tìm cho được cái va li của nó.
Chủ Tân nói:
- Nghĩa là tối mai tôi ra hòn. Sáng mốt, tôi theo dấu, tới hang của chú em rồi lên gành Ðá Trắng, sào huyệt của thằng Hi... Tôi nói thêm một điều này cho chú em vui mừng: Thằng Hi không biết võ nghệ. Nó chỉ có tài phóng dao mà thôi. Phóng dao chỉ có kết quả khi nào hai người đứng cách xa. Chú em nhớ coi chừng cây dao nó giấu đ6au đó. Tôi mang theo hai người võ sĩ, bạn cũ của thằng Hi. Hồi xưa, thằng Hi đánh lộn, vật lôn thua xa hai người đó.
°   °
°
Hai Khoánh ngồi trong hang mà chờ đợi. Anh ta đoán chừng: ông chủ Tân và bọn gia nhân đã có mặt tại hòn Móng Tay từ hồi hôm. Tại sao tên Hi chưa rời gành Ðá Trắng xuống đây? Hay là cơ mưu đã bị tiết lộ?
Ngoài cửa hang, kia... tên Hi đứng thấp thoáng. Hai Khoánh mừng quýnh, kêu to:
- Anh Hi!
Tên Hi trợn mắt trong một thoáng rồi giữ vẻ mặt hồn nhiên bước vào. Hai Khoánh nghe trống ngực đánh thình thịch, nhận rằng mình đã vô ý, gọi hắn đích dạnh, hắn có thể nghi ngờ.
Vừa vào hang, hắn hỏi nhanh:
- Sữa bò đâu? Tôi thèm thứ đó quá.
Hai Khoánh trao cho hắn hai hộp sữa:
- Lát nữa mình khui ra, uống mỗi đứa một chén, bổ khoẻ lắm.
- Ðâu được. Mình đem sữa bò lên gành Ðá Trắng dự trữ phòng khi đau ốm. Sữa bò là vị thuốc. Sao! Ở Rạch Giồng, thiên hạ làm ăn vui vẻ chớ? Có ai nhắc tới tên tôi không?
- Dạ, tôi lén ăn trộm rồi về, sợ ngoài này đại ca nóng lòng trông đợi. Ðói bụng quá. Ðại ca có món gì ăn sốt dẻo không?
- Có gì đâu! Bây giờ mời chú em lên gành Ðá Trắng thăm mấy"nhà cửa" của tôi một lần cho biết. Tụi mình sẽ uống một vài hớp sữa cho khoẻ.
Hai Khoánh mừng ra mặt. Anh ta đi theo sau tên Hi. Thỉnh thoảng, Hai Khoánh với tay, ngắt một vài đọt cây, bỏ lại sau lưng để làm dấu cho chủ Tân theo dõi.
Ðến cách gành Ðá Trắng chừng mười bước, tên Hi ngồi xuống:
- Chú em mệt chưă?
Hai Khoánh sanh nghi "phải chăng hắn rủ mình lên thủ tiêu cho gọn?"
Tên Hi xăn tay áo, cầm hai hộp sữa bò, nhìn nhãn hiệu rồi cười giòn:
- Chú em đừng sợ sệt. Lát nữa tôi chết.
Hai Khoánh hốt hoảng:
- Dạ, đại ca đừng nói bậy.
- Chú em ngồi xuống. Chú em làm gì mà biết tôi tên Hi? Ðừng nói dối với kẻ sắp chết như tôi. Chú em phản tôi, kêu thằng cha chủ Tân ra đây hả?
Nói xong, tên Hi lắc đầu, tiếp lời:
- Sao, chủ Tân nói sao? Nó nói tôi giết ai?
Hai Khoánh cúi mặt, im lặng.
Tên Hi rút cây"dao con chó" nạt to:
- Nói thiệt đi. Chủ Tân nói tôi giết ai?
- Dạ... dạ... nó nói đại ca giết vợ rồi giết luôn đứa con mới ba tuổi.
Tên Hi cười sặc sựa:
- Chú em là ... đồ con nít, bày mưu điệu hổ ly sơn, để chiếm đoạt cái va li hả? Chừng nào chủ Tân tới đây? Nói mau...
- Dạ, lát nửa ổng tới.
Rồi Hai Khoánh chắp tay lạy:
- Em có tội đáng chết. Xin đại ca trốn tránh đi. Em chịu trách nhiệm với chủ Tân. Thà là nhà nước Tây bắt em bỏ tù chồng án. Em đâu dám để họ bắt sống đại ca.
Tên Hi chẳng cần nghe lời năn nỉ của Hai Khoánh. Hắn trèo lên gành đá, nép mình rồi trở xuống:
- Nó tới bây giờ, nó đi với hai thằng thầy nghề võ. À! Lát nữa chú em dẫn nó qua cái hang của tôi. Ðây nè!
Hai phút sau. Hai Khoánh trố mắt, thấy một đứa bé mạnh khoẻ chừng bốn tuổi đang bú tay. Trong hang, có manh chiếu nhỏ, cái gối nhỏ.
Thằng bé chạy lại ôm chân Hi.
Tên Hi hôn nó rồi trao cho Hai Khoánh.
Hai Khoánh run tay:
- Trời!
- Ðừng cãi lời tao. Nó nằm trong cái va li của tao đó. Nó là cục vàng, là cục á phiện lậu của tao đó. Ðem nó trả lãi cho chủ Tân. Nó ăn cực không được. Nó đòi ăn chuối chín, ăn gan gà. Suốt đêm, nó dứt sữa rồi mà còn đòi bú...
Nói xong, tên Hi chép miệng:
- Hai Khoánh mầy tệ quá.
Hai Khoánh ôm mặt khóc. Tên Hi tiếp lời:
- Khóc làm gì? Mỗi lần mầy học khôn như vầy là một phen giết hại thiên hạ. Tao đi đây...
°   °
°
Ðoàn người trở xuống sườn núi. Ông chủ Tân bồng đứa cháu ngoại, hai tên võ sĩ cúi đầu. Hai Khoánh nhìn dáo dác ra phía sau.
Bỗng nhiên, Hai Khoánh ôm ngực, ngã xuống.
Chủ Tân la hoảng:
- Nằm xuống! Nó tấn công.
Tên võ sĩ thứ nhứt đỡ Hai Khoánh:
- Thằng Hi trổ tài phóng dao bay! Giỏi thiệt.
Chủ Tân nói gắt:
- Thằng Hi! Nó là đồ chó chết. Trời hại nó.
Tên võ sĩ thứ nhì trợn mắt:
- Ðừng chửi thằng Hi. Kìa... Nó chứ ai?
Từ trên gành Ðá Trắng, một bóng người lảo đảo rơi tỏm xuống biển sâu thẳm.
Yêu cho được
Cặp rằng Hực ngồi uống trong quán, tại chợ Ngã Năm. Bỗng đâu từ ngoài cửa, một thanh niên bước vào, kéo ghế ngồi, gọi hủ tiếu. Như bẽn lẽn, sợ sệt, thanh niên nọ day mặt vào vách.
Cặp rằng Hực nhận ra: đó là thằng Cưng, thuộc vào hàng thanh niên đa tình, đẹp trai, đắt mèo nhứt trong xóm. Thằng Cưng đã nhiều lần đến tò vè cô Huệ, con gái cặp rằng Hực. Ðôi bên dường như tâm đầu ý hiệp lắm.
Ðể chận đứng những hậu quả có thể xảy ra, cặp rằng Hực nói đổng, với giọng hách dịch thường lệ:
- Bọn hậu sinh quá dở...
Rồi uống thêm một hớp rượu, nhìn thẳng vào mặt Ba Lự, người chủ quán:
- Phải vậy không ông chủ? Tôi nói chuyện... đầu trúng, đầu trật, ông cu;4ng nên trả lời với tôi chớ?
Ba Lự đành nén giận, tránh mọi việc gây gổ với cặp rằng Hực. Hắn là tay cường hào nhứt nhì tại chợ này.
- Dạ phải. Ông nói đúng.
Cặp rằng Hực quắc mắt:
- Cái gì mà phải, cái gì mà đúng. Tôi không ưa kẻ nịnh hót, tôi muốn làm bạn với người ăn ngay nói thẳng.
Ba Lự nói tiếp, giọng thản nhiên:
- Ông cặp rằng nóng quá, tôi nói chưa hết lời. Bọn hậu sanh quá dở vì... chúng nó thiếu kinh nghiệm trường đời. Tuy nhiên, chúng nó hay hơn người lớn tuổi. Thí dụ, chúng nó biết cầm lái xe hơi, biết đánh nghề võ, biết...
Lời nịnh hót ấy khiến cặp rằng Hực khoái chí. Sẵn dịp ông ta tấn công thằng Cưng, gọi là cảnh cáo để nó sợ, không dám ve vãn con gái ông ta nữa:
- Nhiều thằng hậu sanh bày mưu kế để o mèo. Tụi nó muốn qua mặt người trưởng thượng...
Ông ta chỉ vào ngực mình, nói tiếp:
- Cặp rằng Hực này hồi đó o mèo đủ trăm cách. Tụi hậu sanh làm sao o mèo bằng... thằng này.
- Nghĩa là sao?
- Nghĩa là đám hậu sanh quá dở. Hễ o mèo dở thì có ngày bị trói, đóng gông hoặc bị đánh lỗ máu đầu.
Rồi cặp rằng Hực gọi to.
- Phải thẳng Cưng ngồi ăn hủ tiếu đó không? Lại đây uống rượu cho vui mậy...
Vốn là tay giàu bản lĩnh, thằng Cưng đứng dậy, đến gần cặp rằng Hực. Từ bốn tháng qua, nó tư tình với cô Huệ, nói chuyện riêng được bốn lần, gởi tho tình được năm lần và nắm tay người đẹp hàng chục lần. May thay, chưa lần nào cặp rằng Hực bắt gặp quả tang, thằng cưng nghĩ thầm:
- Bắt quá ông ta nói bóng nói gió, mắng chó mắng mèo. Nếu muốn hành hung hoặc bắt bớ, ông ta đã hành động kiểu khác.
Cặp rằng Hực ra vẻ ta đây là bậc cha chú, rót rượu vào ly, thúc giục từng chặp:
- Uống đi mầy Cưng. Ðừng e ngại. Bữa nay, tao dạy mầy cách o mèo. Mầy còn non tay ấn lắm. Hồi còn nhỏ, tao khôn khéo hơn mầy nhiều.
Thế rồi cắp rằng Hực kể lại một giai thoại gay cấn nhứt do ông ta đóng vai chánh, hồi hai mươi năm về trước. Ông ta có người tình nhân trẻ đẹp. Cô ấy bị gả ép làm vợ bé của viên cai tổng già nua nhưng nhiêù tiền nhiều bạc. Khi rước dâu, cắp rằng Hực đứng chàng ràng trước mặt người yêu. Viên cai Tổng mắng nhiếch: "Mầy là đồ con nít." Cặp rằng Hực đáp: "Tôi không chịu thua ông đâu, mặc dầu tôi trẻ tuổi." Viên cai tổng cười gằn: "Tao đố mầy..." Về nhà, cặp rằng Hực thức liên tiếp năm sáu đêm, hình vóc ốm o, cặp mắt sâu hoẳm theo kiểu Câu Tiễn nằm gai nếm mật để tìm cách... trả mối thù... tình!
Thuật đến đó, cặp rằng Hực uống thêm rượu rồi vỗ vai thằng Cưng:
- Mày biết tao làm cách nào để ăn nằm với vợ bé của ông cai tổng không?
Thằng Cưng đáp:
- Dạ, cháu chưa gặp cảnh đau xót ấy.
- Nếu gặp mầy làm sao? Thí dụ như nay mai con mèo của mầy bị gả ép cho người khác.
Thằng Cưng nổi giận, nói lầm bầm:
- Một là tôi trốn bỏ xứ. Hai là tôi... đâm cho chết người tình địch.
Ba Lự giựt mình: Người chủ quán nên tránh chuyện gây gổ trong quán. Ông ta đỡ lời dùm thằng Cưng:
- Mầy ăn nói nghe sanh tử quá! Làm thế nào mầy không bỏ xứ, không đâm chém mà gần gũi được người yêu cà. Nếu chịu thua thì mầy xin thọ giáo với ông cắp rằng... cho vui!
Thằng Cưng đáp:
- Tôi chịu thua.
Lại thêm một cơ hội để cặp rằng Hực khoe tài khoe trí. Ðại để, viên cai tổng bố trí cẩn thận, theo dõi mọi hành động của cô vợ trẻ tuổi. Ban đêm, ông cai lắng nghe từng tiếng chó sủa, từng tiếng khua động ở mái ngói, ở nhà bếp và nhà... tiểu tiện. Bất cứ khách lạ nào muốn nói chuyện với cô vợ đều phải trình diện với ông cai, và nói thật lớn tiếng cho ông cai nghe rõ. Ngày qua tháng lại, ông cai tổng vẫn... canh phòng nghiêm ngặt. Ðến hôm đó, có người chị ruột của cô vợ bé đến kêu cửa:
- Xin ông cai cho cô Tư về thăm nhà. Con Năm đau nặng lắm, sợ chị không nổi đêm nay.
Cô Tư - vợ bé ông cai - liền thỏ thẻ với chồng:
- Mình cho em về thăm con Năm. Nó là em út trong gia đình. Từ hồi về ăn ở với mình tới nay, emc hưa gặp mặt nó. Bây giờ, nó đua nặng, dầu gì đi nữa, em cũng phải về gặp mặt nó lần chót.
Thế là ông cai đồng ý cho vợ về thăm với điêù kiện có ông đi theo... bén gót.
Ðến nơi, cô vợ trẻ đẹp vào buồng để nói chuyện, rót nước an ủi đứa em gái. Ông cai tổng ngồi ngay cửa buồng, day mặt ra ngoài để canh chừng. Cửa buồng khép he hé. Ông cai tỏ ra đứng đắn, chẳng muốn nhìn cô Năm - Cô em vợ - đang nằm sóng sượt. Nhưng hỡi ơi! Cô vợ bé bèn thừa cơ hội ấy mà chun xuống gầm giường của cô em.

Ba Lự cười vang:

- Thế là cô vợ bé được phỉ nguyền ước ao với chàng trai đa mưu, đa tình đang nằm dưới gầm giường, chờ sẵn.
Cặp rằng Hực gật đầu:
- Ðúng vậy! Tôi bố trí kế hoạch đó. Tôi năn nỉ cô Năm đến gãy lưỡi, tôi đòi tự tử nên cô Năm đồng ý cho tôi rình sẵn. Tôi nói rõ: từ năm sáu đêm trước, mỗi đêm tôi nằm sẵn dưới gầm giường để chờ đợi... một vài phút trả thù ấy. Thật ra, tôi đâu có ăn nằm với người yêu cũ. Tôi muốn giữ thể diện làm trai, thực hiện lời thách đố hôm trước. Vì vậy gia đình cô Năm không là khó dễ...
Nói xong câu chuyện, cặp rằng Hực đứng dậy:
- Mầy Cưng. Có giỏi như tao thì hãy có mèo. Nếu ngu ngốc hơn, mầy nên trốn đi xứ khác.
Rồi ông ta day lại chủ quán:
- Ba Lự à! Nhớ ghi tiền rượu, thủng thỉnh tôi trả. Rượu bữa nay uống... "hét," gắt cổ quá.
Ba Lự nhìn theo cặp rằng Hực rồi lật sổ: tổng cộng số nợ của tên "ác bá" đó đã lên tới mười lằm đồng cộng thêm hai cốc nữa là mười lăm đồng hai cắc, một số tiền to tát hồi bấy giờ.
Vì số tiền ghi sổ đã lâu tới mức to tát mà câu chuyện lại tiếp tục như sau: Ba Lự gọi thằng Cưng đến nói rỉ vào tai:
- Mầy làm như vầy, như vầy... cho bõ ghét. Nhà cặp rằng Hực trống hoang, ban đêm chỉ có con Huệ ngủ phía gần nhà bếp. Ta bố trí rồi.. Mầy ráng chờ ngày lành tháng tốt rồi làm như vầy, như vầy... cho thàng cha cặp rằng đó hiểu rằng: hậu sinh khả úy, đám con nít đời nay o mèo giỏi hơn thằng chả gấp bội.
Ðã tám giờ tối. Thằng Cưng trèo rào, chạy đến cửa nhà bếp của cặp rằng Hực. Tư bề vắng lặng. Bầy cho săn đã chạy ra ngoài vườn, giành nhau miếng da trâu... thủm thủm mà thằng Cưng đã buộc vào gốc dừa.
Tuy hay biết trước. Huệ vẫn phập phồng trong dạ, mở cái ống khoá rồi kéo nhẹ cánh cửa. Thằng Cưng bước vào buồng của người yêu. Huệ xanh mặt, không dè chàng trai trẻ này táo bạo đến mức ấy. Mẹ nàng ngủ chưa say, cha nàng bận việc, đi thăm lẫm lúc hồi trưa.
Rủi cha về thình lình, nàng ăn nói thế nào? Lại còn tánh mạng người yêu. Nhứt định cha nàng sẽ đánh chàng gãy xương sống rồi quăng cho xhó xé, nhu lời ông đã hăm he trước.
Huệ khoát tay làm dấu đuổi người yêu ra ngoài.
Thằng Cưng lạnh lùng cúi mình, khom lưng bò xuống gầm giường. Nó muốn nói thầm với người yêu:
- Nếu ổng về bất tử, anh sẽ chun xuống sàn. Hồi xưa, ổng o mèo, ngủ trộm với người yêu bằng cách đó.
Chàng chun trở ra nhưng Huệ vẫn chưa hiểu tất cả những gì chàng muốn nói.
bỗng nhiên, bà cặp rằng ho khúc khắc. Rồi bà im lặng. Quá nóng ruốt, thằng Cưng toan... hành động gấp. Nó nghiêng mình sát vai người yêu... Huệ chợt rú lên nhưng nàng ngạc nhiên vì thằng Cưng nghiêng mình để thổi tắt ngọn đèn con cóc.
Hốt hoảng nàng chạy ra sau hè.
Thằng Cưng mừng thầm, bước ra, nắm tay Huệ. Huệ dừng dằng nhưng rốt cuộc, thằng Cưng cõng nàng lên vai mà chạy ra sau vường, giống hệt những chàng trai đa tình, liều lĩnh ở vài bộ lạc còn theo chế độ mẫu hệ.
Nó ngồi xuống, kéo tay Huệ:
- Em đừng sợ.
Huệ nói hơ hãi:
- Thôi, em vô nhà.
- Kỳ quá vậy. Hồi ở trong nhà, em đòi chạy ra vườn. Ra tới vườn, em lại đòi trở vô.
Huệ lắc đầu:
- Ðiều này, chắc em chết quá. Em đâu muốn ra tới ngoài vườn như vầy.
- Vậy em muốn đi đâu?
- Em muốn ra ngoài sau hè để năn nỉ anh. Ba em về bất tử lắm. Nhiều khi, ổng về vào lúc chín, mười giờ khuya.
Thằng Cưng ngồi vuốt ve người yêu rồi giải thích sơ qua kế hoạch. Vừa rồi, ở lẫm lúa Na Rộn, trâu bò mắc toi, chết khá nhiều. Cặp rằng Hực tới đó xem xét tình hình để báo cáo lại với điền chủ là Tây Rôbe.
Huệ vẫn thắc mắc:
- Anh đừng... làm ẩu! Thôi, em muốn vô nhà. Ở ngoài này muỗi cắn gần chết. Hồi nào tới bây giờ, ba em đi Na Rộn coi lẫm lúa rồi về nhà nội trong đêm đó. Ổng ngán đám tá điền.
Thằng Cưng chẳng biết nói sao. Ba Lự đã căn dặn, khuyên nó đừng tiết lộ bí mật, dẫu là với người yêu. Ðêm về khuya, đôi uyên ương vẫn thề non hẹn biển ở ngoài vườn.
Phía mé sông, lâu lâu có một chiếc ghe thương hồ lướt qua bạn ghe hò hát, chúng tavọng cổ nghe não ruột. Huệ giựt mình.
- Coi chừng ổng về.
Thằng Cưng cãi lại:
- Ổng còn ở Na Rộn.
- Sao anh biết?
- Xưa nay, hễ mang bệnh toi bệnh dịch thì trâu bò chết liên tu bất tận suốt tuần lễ. Khi có con trâu hoặc con bò nào chết, luôn luôn người cặp rằng ra lệnh xẻ thịt, phân phát cho đám tá điền.
Huệ vẫn chưa hiểu:
- Rồi ông Tây Rôbe ở Sài Gòn sẽ kiện thưa, cách chức ba em.
- Anh nói chưa hết. Thịt trâu, thịt bò thì tá điền được quyền ăn nhưng cặp rằng phải giữ lại miếng da và cặp sừng để làm bằng chứng, trình cho chủ điền thấy rõ.
- Nếu chủ điền vắng mặt?
- Thì hương chức làng lập vi bằng. Ba của em vẫn đưa tờ vi bằng đó cho ông Tây Rôbe xem. Ðiệu này, ba của em còn ở Na Rộn chừng vài ngày... và vài đêm nữa.
Huệ thở dài. Theo sự hiểu biết của nàng, bầy trâu gần hàng trăm con. Qua trận mắc toi mắc dịch này, ít lắm cũng hao bớt một phần ba. Tây Rôbe vốn là kẻ gắt gỏng, hà tiện, tiết của. Ông ta sẽ khiển trách hoặc cách chức mấy người cặp rằng... Nàng lẩm bẩm:
- Vái trời cho trâu bò chết vài con thôi.
Thằng Cưng cười dòn:
- Nếu chết vài con thì ba em đã về rồi. Anh vái trời cho trâu bò chết hết... để chúng ta mỗi đêm mỗi gặp nhau... Nhưng làm sao có chuyện đó được.
- Anh này nói bậy bạ quá. Thôi, em vô nhà.
- Vô làm gì? Ở nói chuyện chơi mà em.
- Em mệt lắm. Hay là nãy giờ, ba em đã về tới, ổng rình trong nhà. Buông tay em ra.
Dưới ánh trăng tà, mãi đến đầu canh tư, đôi uyên ương vẫn còn dan díu. Thằng Cưng thỉnh thoảng chạy vào nhà rồi trở ra ngoài vườn:
- Em đừng sợ, ổng chưa về. Ai biểu em ra ngoài này cho muỗi mòng đỉa vắt nó cắn. Hồi nãy anh tắt đèn...
Cặp rằng Hực chưa về thật.
Sau khi hay tin trâu bò ở lẫm bờ Na Rộn chết toi chết dịch, ông ta hoảng sợ đến tận nơi điều tra sự thật. Từ Ngã Năm đến Na Rộn, đường không xa lắm nhưng sông rạch quanh cảm ơn, hai bên đầy lau sậy. Thằng Trạo chèo vất vả suốt hai tiếng đồng hồ. lúc tới lẫm Na Rộn, bọn ta điền cho hay:
- Có một con trâu bỏ ăn, sắp chết.
Cặp rằng Hực mừng thầm vì tai hoạ xảy ra không to tát như lời đồn đãi. Ông ta lên bờ, tìm nơi uống rượu, nói đổng với bọn tá điền:
- Chết hai con càng tốt. Chết một con xẻ thịt ra ít quá. Tá điền thì đông, ai ăn, ai nhịn! Chết một hai con trâu, ông Rôbe chẳng rầy rà gì đâu?
Côn trâu mắc toi vẫn chưa chết. Cặp rằng Hực cằn nhằn, ngồi uống rượu suông. Trong khi đó, thằng Trạo dựa lưng vào vách ngủ khò.
Vào khoảng sáu giờ chiều, con trâu mắc toi mới chịu chết. Ðám tá điền bu lại, xẻ thịt, lột da. Cặp rằng Hực ngồi chờ đợi để nhậu cho kỳ được một đĩa thịt trâu xào lăn.
Nhậu xong, ông ta bỗng áy náy. Con mắt bên trái giựt lia lịa:
- Cái gì vậy kìa?
Rồi thúc hối thằng Trạo:
- Về mầy! Về gấp!
Thằng Trạo trố mắt:
- Về... uổng quá!
- Trước sau gì mình cũng về, thôi thì về phứt. Mầy tiếc mớ thịt trâu hả. Ðể tao biểu tụi nó xẻ cho mầy một thẻo.
Ðến mười giờ khuya, thằng Trạo bắt đầu gay chèo, khoát nước. Cặp rằng Hực nằm trong chiếc tam bản mui ống, ông ta chép miệng... Hơi rượu xông lên mặt, ông ta buồn ngủ nhưng làm sao ngủ được. Trong phút giây, ông ta ngồi ngổm dậy, bò ra trước mũi tam bản. Nguy rồi, có lẽ vụ trâu chết toi ở Na Rộn là một âm mưu đen tối của bọn thằng Cưng, để thừa cơ hội... Ông nghĩ thầm:
- Tương kế tựu kế. Nó tưởng mình đi vắng nhà suốt đêm. Mình về bất thình lình cho nó biết mặt.
Rồi thé to:
- Mầy Trạo! Chèo mau lên!
Chiếc tam bản phóng tới. Sau mỗi nhịp chèo, thằng Trạo nhún chân, mũi tam bản ngóc lên cao rồi hạ xuống... Bầu trời đen nghịt như sắp chuyển mưa.
Cặp rằng Hực tìm cách thúc hối:
- Bữa nay mầy chèo giỏi hơn mọi lần. Ráng lên. Tao cho mầy năm cắc nếu mầy chèo về tới nhà vào khoảng đầu canh tư.
Thằng Trạo đáp:
- Dạ, ông vững bụng. Tôi dư sức.
Cặp rằng Hực vào trong mui nằm, suy nghĩ. Ðúng rồi! Sau trận thách đố ở quán rượu Ba Lự, thằng Cưng tìm cách trả thù. Giờ phút này có lẽ nó tư tình với con Huệ. Nhưng nó lầm to. Trong vòng một tiếng đồng hồ nữa, ông bắt tại trận. Thằng Cưng sẽ bị đóng trăn, bị đánh bầm mình mẩy. Ông sẽ vu cáo là ăn trộm.
Nhưng từ sau lái, bỗng nhiên thằng Trạo la hoảng:
- Trời ơí ghe phá nước!
Nước chảy ào ào...
Thằng Trạo buông chèo, kê bàn chânv ào ván để chận lại. Nếu chậm trễ, chiếc tam bản sẽ chìm.
Cặp rằng Hực la hoảng:
- Sao vậy?
Thằng Trạo đáp:
- Dạ, chắc tụi tá điền nó phá. Lúc mình sơ ý, nó khoan cho lái tam bản lủng lỗ rồi lấy đất sét trét sơ sài. Bây giờ, ông lên bờ cho tam bản nhẹ bớt. Nó gần chìm rồi!
Tức tối làm sao! Cặp rằng Hực ngồi chồm hổm trên bờ rạch. Ông ta muốn chạy bộ về chợ ngã Năm nhưng địa thế không cho phép. Ðường bộ quá sình sụp. Còn ngồi ở đây mà chờ thì biết tới giờ phút nào.
Chiếc tam bản từ từ chìm xuống, thằng Trạo hì hục đỡ, rinh lái tam bản vô bờ... chờ khi trời sáng rõ, vả lại vì chiếc tam bản bị khoang tất cả... năm sáu lỗ, ở khoảng giữa. Nó ướt loi ngoi nhung cười thầm trong bụng.
Nó là cháu của chủ quán Ba Lư.
Ba Lự hứa tặng cho nó một đồng bạc. Và trước khi lên đường, thằng Cưng năn nỉ nó:
- Ráng dùm tao, nghe Trạo. Tao thương con Huệ quá chừng. Ráng... ở dọc đường suốt đêm. Nếu ông cặp rằng Hực đuổi mầ, mầy cứ theo tao đi núi Sập kiếm nghề khác, sướng hơn. Thí dụ như nghề bắn đá, đập đá. Mầy sẽ khoét lỗ trong đá, nhét thuốc nỗ vô như bây giờ mầy khoan ghe, trét đất sét.
Con Rắn
Con rắn ấy vừa nhỏ vừa dài, giống như chiếc đữa ăn cơom. Nó bờ tới, bò lui trên nệm rồi kéo dài thân hình ra, vặn ngược, vặn xuôi. Cặp mắt rắn đỏ ngầu như tóc lửa, lưỡi le dài thòng. Chập sau, bụng rắn tươm ra hai giọt máu long lanh như hai giọt nước mắt... Bụng rắn lại xé ra, hàng chục con rắn nhỏ nhô đầu phá bụng mẹ rồi nhảy lên chiếc mền của bà cai tổng Bá.
Bà cựa quậy nhưng tay chân đều tê liệt. Bầy rắn con chui xuống mền, bò lăng nhăng, lạnh ngắt trên bụng bà cai tổng. Bà ú ớ, co tay, duỗi chân, đôi mắt mở thao láo trong bóng đêm. Từ trong gan ruột bà lửa bốc phừng phừng... bầy rắn con ấy bò tới bò lui, cắn lộn nhau để giành thức ăn, giành chỗ ở.
Ngọn đèn chong lu dần trên đầu giường. Gà gáy văng vẳng, báo hiệu đầu canh năm. Bà cai tổng vặn tim đèn lên cao, bước ra khỏi phòng ngủ...
Mụ Hai đang ngủ ở giường ngoài lồm cồm ngồi dậy:
- Thưa bà, bà làm gì mà thức quá khuya vậy?
Bà cai tổng đáp:
- Mệt quá. Nhưng cũng may. Như vầy là tôi dậy sớm.
Ðến bộ ván, bà cai mở nắp ô trầu, đem chai dầu cù là, xoa trên bụng. Mụ Hai im lặng. Từ ba tháng qua, cứ thỉnh thoảng là bà cai tổng lên cơn đau, một thứ đau đớn... không thể tả được. Bà hồ nghi rằng từ khi ông cai tổng mãn phần đến giờ, bà con bên chồng toa rập nhau để ám hại bà, hòng chia gia tài. Ðứng về mặt pháp lý mà xét, bà là người chánh thức được quyền thừa hưởng tài sản cò bay thảng cánh ấy. Tuy vợ chồng ăn ở với nhau không con nhưng xưa kia giữa hai người có làm giấy hôn thú. Bà đã nhiều lần nghe bà con bên chồgn hăm doạ sẽ giết, sẽ thuốc, sẽ thư... Bao nhiêu kế hoạch đề phòng dường như gãy đổ. Bà mang chứng đau bụng kỳ lạ. Mấy ông thầy thuốc ta trong xóm bảo rằng bà đau máu. Thầy thuốc tây ở Rạch Giá nói ngược lại: bằng chẳng đau đớn gì cả.
Hai khoa Tây y và Ðông y đều vô lý. Bà linh cảm rằng mình đã bị "thư" một vật gì trong bụng. Và vật đó là một con rắn hoặc một bầy rắn. Giấc mơ kinh khủng hồi nãy là bằng chứng tuy mơ hồ nhưng đáng tin cậy nhứt.
Mụ Hai thừa hiểu tâm bịnh của chủ nhà:
- Thưa bà, trước sau gì bịnh cũng hết. Bà ăn ở hiền lành, tu nhân tích đức. Kẻ gian manh không dám hại bà đâu!
Bà cai tổng lắc đầu:
- Chắc nó thư một con rắn vô trong bụng tôi.
- Xin bà đừng nói nhảm mà hao gầy thân thể. Thưa bà, nếu bà tin cậy thì con sẽ chỉ cách.
- Kiếm người mở bùa, mở thư à? Tốn kém bao nhiêu, bà không tiếc. Bà chỉ sợ tiền mất tật còn. Nhứt là tiếng đồn đãi xấu xa của thiên hạ. Con Hai biết không? Tụi nó trông cho bà chết, nếu không chết thì bà phải có chữa hoang để tụi nó chia gia tài.
Mụ Hai nhớ tơói người tình nhân của mình, giờ phút này đang ngủ chèo queo trong lò gạch cũ hoang vắng của cậu Ba Chiêu. Anh ta tên là thầy Ngọc, chuyên nghề xem địa lý, xem tử vi và đánh bài gian lận. Mấy lần rồi, mụ đến gặp thầy Ngọc để vấn kế. Thầy Ngọc một mực từ chối: "Dục tốc bất đạt, Bà cai tổng ưa nghi ngờ." Mụ Hai thúc hối: "để quá trễ, bà cai tổng chết thì sao." Thầy đáp: "Trước sau gì, trái cây chín cũng phải rụng nhưng bây giờ nó còn hơi xanh."
Trời tờ mờ sáng, bà cai tổng nằm lim dim trong khi mụ Hai lui cui nấu nước pha trà. Bà lại dụi mắt:
- Thôi! Mệt lắm. Con Hai biết cách nào trị bịnh cho bà không?
Mụ Hai nhớ tới Thầy Ngọc nên trả lời:
- Dạ, có ông thầy này mở bùa hay lắm. Ðể con tới nhà ổng, nói rõ chứng bịnh của bà rồi thỉnh thuốc về.
- Thỉnh thử coi. Nhớ dặn thầy đừng tiết lộ cho ai biết. Bà hồ nghi tron bụng... có con rắn sống nhăn đang cựa quậy. Ban đêm, thỉnh thoảng bà nằm chiêm bao thấy bầy rắn hiện về, chun vô bụng.

Nảy giờ, ngồi nói chuyện với thầy Ngọc hơn nửa tiếng đồng hồ, mụ Hai ấm ức quá chừng:
- Mình hãy cố gắng. Nếu trị dứt bịnh, bả dám đền ơn năm bảy trăm hoặc một ngàn đồng.
Thầy Ngọc ngồi chồm hổm, đôi mắt lấp lánh trong khung cảnh tối om:
- Tiền bạc, ai mà không ham. Tôi đâu ngu dại bỏ lỡ cơ hội. Ði chơi ngoài đường, gặp ai bỏ rơi một hai xu tôi còn cúi xuống lượm huống chi số bạc to tát. Thôi, em mang gói thuốc này về, nói rằng bả bị thư như vầy, như vầy... chớ không phải bị thư bầy rắn. Ðừng cãi lời tôi mà hư hỏng đại sự.
Mụ Hai ra về, tức giận vô cùng. Tại sao thầy Ngọc chỉ biểu những việc lạc đề, gãi không trúng chỗ ngứa của bà cai tổng.
Mụ vừa vào tới sân, bà cai tổng chạy ra hỏi:
- Xong không?
Mụ đáp:
- Tôi đem gói thuốc này về cho bà. Thầy giảng nghe hay lắm. Vô nhà, tôi nói đầu đuôi căn bệnh cho bà rõ.
Ðể giữ bí mật, mụ Hai đóng cửa ngõ, đóng cửa cái rồi trình bày dông dài về kỹ thuật "thư, ếm" do một ông thầy vô danh nọ tiết lộ:
- Thầy đàng hoàng lắm, muốn làm việc nghĩa, cứu dân độ thế chớ không cầu danh, cầu lợi. Vì vậy thầy giấu tên thầy và chẳng bao giờ tọc mạch hỏi tên tuổi của bệnh nhân.
Bà cai tổng thích chí, khen tấm tắc:
- Con Hai mầy khôn lanh quá. Ðùng nói cho bất cứ ai biết rằng bà mang bệnh. Bà con của ông cai tổng hay không, họ đàm tiếu hoặc tìm cách"thư" loại bùa khác, độc hại hơn.
Bằng một giọng bí mật, mụ Hai cho biết: Mấy thầy"thư" thường bỏ thuốc vô thức ăn hoặc nước uống. Sau khi ăn uống nhằm thuốc, bệnh nhân chẳng bao giờ hay biết. Nhiều người bị thư từ hai ba năm rồi sau đó ăn nhằm thịt gà, thịt bò, thịt ngỗng... bệnh mới phát ra. Nếu muốn tìm thủ phạm bệnh nhân chẳng còn nhớ là vào dịp nào, do ai thuốc.
- Ông thầy bí mật suy luận rất lâu, phân biệt mấy kiểu thư, nào thư cây đinh, nào thư con rùa...
Bài cai tổng hỏi nhanh:
- Con gì trong bụng của bà đây?
Mụ Hai nói e dè:
- Dạ, con muốn nói nhưng sợ bà không tin.
- Cứ nói. Ai giận hờn mà sợ.
- Dạ, thầy nói trong bụng của bà có một miếng da trâu. Lâu ngày miếng da trâu ấy dày lên, nở lớn, lông trên bụng mọc ngày càng dài.
Bà cai tổng lắc đầu:
- Thầy nói bậy! Con rắn. Nó thư hàng chục con rắn con, trong bụng bà.
Mụ Hai vẫn trả lời đúng theo lời dặn riêng của thầy Ngọc:
- Dạ, đó là miếng da trâu, cắt miếng nhỏ dài nên nó nhút nhít giống như con rắn. Bà còn nghi ngờ sao? Thầy nói, da trâu phơi khô, tán ra nhuyễn như bột, nếu bỏ vô nước thì nó nở ra.
Bà cai tổng sực nhớ tới bao nhiêu"điều tai nghe mắt thấy" liên quan tới thịt trâu. Loại thịt trâu ngâm trong nước lạnh, chẳng bao giờ hôi thúi hoặc rã xác, trái lại nó cứ tươi thêm. Khi gặp xác trâu nổi lềnh bềnh trên sông, nhiều người bơi xuồng ra, cầm dao lóc mớ thịt khuất dưới mặt nước đem về ăn ngon lành. Lại còn sự mầu nhiệm khác: thịt trâu khó tiêu, có người mới nằm chỗ, ăn thịt trâu rồi trúng mà chết trên giường với miếng thịt còn nằm ngoài cuống họng.
Bà gật đầu:
- Cũng có lý. Bao tử của mình đầy nước và nóng hổi. Da trâu nở ra, còn tươi xanh. Ðể bà uống thử một phen. Thuốc đâu rồi?
Mụ Hai trao cho bà cai tổng gói thuốc bọt của thầy Ngọc rồi khuyên bà nên uống lúc còn đói và nhịn ăn để chờ đợi lúc miếng da trâu nọ xổ ra.
Sáng hôm sau, bà cai tổng thở dài. Mụ Hai đã đoán trước những lời bà cai tổng sắp phiền hà. Và mụ cứ im lặng, hồi lâu mới dám thưa với chủ nhà:
- Thuốc dở quá! Nếu vậy, phải tìm thầy khác. Nếu thuốc công hiệu, miếng da trâu đã tuôn ra ngoài rồi.
Bà cai đáp:
- Nhớ kiếm ông thầy thuốc khác. Thằng cha thầy da trâu này bói lạc quẻ. Báo hại bà đói bụng rồi"trả nợ" muốn thụt con mắt, đứt hơi. Ðấy, cầm năm cắc bạc... đền ơn tạm cho thằng cha da trâu đó... Nhớ ăn nói khéoléo, kẻo nó giận rồi thư vô bụng bà một miếng da trâu thứ thiệt khổ quá! Trời ơi... bầy con rắn cứ quậy trong bụng bà hoài... Hồi tối, bà nằm mê...
Mụ Hai lẩm bẩm:
- Một con rắn đủ nguy hại rồi, nói chi tới mười con rắn. Bà rán chờ đợi. Ðể con kiếm thầy khác.
Ðang nằm lim dim trong lò gạch, thầy Ngọc chợt thấy mụ Hai bước vào. Mụ cằn nhằn:
- Mình báo hại quá. Bà cai tổng đòi thứ thuốc khác, thứ nào xổ ra nguyên bầy rắn con trong bụng bả.
Thầy Ngọc mỉm cười:
- Bà ta là tay đa mưu, đa nghi. Dục tốc bất đạt. Cái trái cây mới chín nhưng chưa mùi. Hái quá sớm, thất bại, uổng lắm.
Rồi hút thêm điếu thuốc, thầy gật gù:
- Nhứt là trái này vừa bổ, vừa ngon. Em Hai ơi! Mình ơi! Lại nằm gần anh để nghe anh làm bài toán thứ nhì. Ráng chịu cực với anh chừng một hai ngày nữa. Em về thuật lại như vầy... như vầy... rồi cho bả uống gói thuốc này.
Nói xong, thầy Ngọc tiễn người yêu ra ngoài cửa lò gạch:
- Phải kiên nhẫn, ban đầu mình dở rồi sau đó mới trở thành hay. Nhớ nghe không! Em cưng nhớ nói rằng em đã bỏ ông thầy thứ nhứt và đó là gói thuốc của ông thầy thứ nhì.
Trưa hôm ấy, mụ Hai tường thuật việc gặp gỡ với ông thầy"mở thư" thứ nhì. Theo lời mụ, ông thầy này đã lớn tuổi, đầu rậu tóc bạc, mới xem qua ngỡ như ông tiên trên núi Tà Lơn. Ông"tiên" này cho rằng gia chủ bị thư một con đĩa trong bụng.
Bà Cai tổng sáng mắt lên:
- Có lý hơn ông thầy thứ nhứt. Con đỉa nó dài, nó cựa quậy, sanh đẻ ra đỉa con. Hèn chi trong giấc chiêm bao bà thấy nó dài... như con rắn. Nhưng xưa nay bà đâu có ra ngoài vườn hoặc ra ngoài ruộng mà bị đĩa chun vô bụng.
Mụ Hai cười dòn:
- Bà nói nghe chưa xuôi. Con đỉa sống dai lắm. Tụi bất lương đem con đỉa phơi khô... vài ngày sau đem ngâm xuống nước, nó sống nhăn. Ông"tiên" còn cho biết: Ðỉa sanh con đẻ cháu bằng trứng và bằng da... tụi bất lương cắt một khúc da đỉa, đemphơi, tán ra thành bột rồi bỏ vô lu nước. Bà uống nhằm thứ nước đó. Miếng da đỉa vô bao tử, nở ra, trở thành đỉa mẹ. Rồi da của đỉa mẹ sanh ra đỉa con.
Lý thuyết ấy hơi khó tin nhưng bà cai tổng cố gắng dung nạp, như kẻ chết đuối ngoài biển khơi, tình cờ vớ được một cái phao nhỏ xíu, một thứ phao không phải là phao, vì bản thân của nó cũng sắp chìm.

Nhưng thà có còn hơn không! Ðêm ấy, bà cai tổng uống liều thuốc thứ nhì với thái độ gượng gạo... để đi tới kết quả là nghe con vật gì cấu cào trong bụng nhưng chẳng bao giờ thấy nó bị tống ra. Bà nằm thiêm thiếp, trong giấc mơ kinh khủng lại thấy con rắn nhỏ màu vàng hiện về. Rắn ta níu đầu níu đuôi vào góc giường như giăng võng rồi xé tét cho bụng nứt ra... Hàng chục con rắn nhỏ nhảy xuống mền, chui vào bụng bà. Rắn ấy càng ngày càng to dần, trở thành hàng chục con rắn mẹ, mỗi con rắn mẹ lại đẻ hàng chục rắn con khác. Bà tưởng tượng bầy rắn khổng lồ đang nô đùa, bò tới lui, le lưỡi, phun hơi độc vào tim, gan, phổi phèo...

Mụ Hai chạy vào:
- Thưa bà...
Bà cai tổng ngừ ngừ như con thú bị thương:
- Chết rồi... Con Hai mầy kiếm dùm bà một ông thầy khác. Bụng của bà có con rắn, thứ gì nho nhỏ chớ đâu phải miếng da trâu hay con đỉa... Phải kiếm ông thầy biết"mở thư" .
Mụ Hai sực nhớ lời căn dặn của thầy Ngọc:
- Dạ. thầy"mở thư" bây giờ khó kiếm lắm. Bà cho con xin chút ít tiền để con đi vài ngày ở bên Giồng Riềng...
- Tiền đây. Con Hai nhớ đi cho nhanh rồi về cho gấp nghe... Bà trông cậy vào một mình mầy mà thôi. Bà khổ lắm, chỉ còn là cái xác chết để cho bầy rắn con rúc rỉa. Tốn kém bao nhiêu, bà chẳng tiếc. Bán nhà bán đất, bà không màng... miễn là đem con rắn mẹ với bầy rắn con ra khỏi bụng... Ác độc quá.
°   °
°
Sau một đêm ân ái với thầy Ngọc, mụ Hai khoan khoái nghĩ tới số tiềncúng tổ khá to:
- Mình nên cẩn thận.
- Em đừng dạy tôi điều ấy. Em về trước đi.
Thầy Ngọc lắc đầu:
- Em ngu quá vậy? Em phải về trước, bảo cho bà cai tổng biết. Hai đứa mình là kẻ xa lạ... Anh tới sau.
- Mình nói đúng. Ðể em về.
Thầy Ngọc nói gắt:
- Mắc dịch! Có cái đó, anh căn dặn kỹ mà em vẫn quên.
Mụ Hai trở vào lò gạch, nhận lãnh một cái ống trúc khá nhỏ rồi giấu trong ngực. Thầy Ngọc nói rỉ vào tai mụ vài câu, mụ đưa ống trúc lên tai để nghe rồi nhướng mắt.
°   °
°
- Thưa bà. Thầy sắp tới. Ông thầy này khó lắm. Ông hứa bảo đảm sẽ mở thư cho bà thấy nhãn tiền.
Bà cai tổng mừng quýnh:
- Thiệt vậy không?
- Dạ... ổng tới kìa!
Thầy Ngọc được bà cai tổng đón rước trọng thể. Thầy xem sắc mặt bà cai rồi nói khẽ:
- Xin phép bà cho tôi xem mạch và coi mấy lằn gân xanh nổi trên bụng:
Bà cai tổng nói:
- Nhưng... xin thầy vô buồng của tôi mà xem mạch, kẻo thiên hạ dị nghị. Hai à! Con vô đây với bà...
Thầy Ngọc sờ vào cườm tay bà cai tổng. Mụ Hai đứng đó để đóng vai tuồng của người thứ ba. Bà cai tổng nói:
- Hai à... con ra ngoài, khép cửa cho kỹ. Hễ có ai tới thăm thì nói là đang mệt. Ðừng để họ vô nhà rồi đàm tiếu.
Thầy Ngọc gật đầu:
- Ðàm tiếu thì tôi không sợ. Tôi chỉ sợ... là bùa của tôi mất linh nghiệm.
Mụ Hai bước ra khỏi phòng. Trong này, thầy Ngọc tiếp tục bắt mạch ở cườm tay rồi xem gân trên bụng của bà cai tổng.
Thầy mỉm cười:
- Ðêm nay là biết... Thôi, để tôi ra ngoài, lo bào chế thuốc cho bà uống. Cỡ chín hay mười giờ khuya là xổ ra. Nhớ kêu đứa ở để nó coi chừng kẻo... con thú đó còn sống. Tôi cũng thức tới giờ phút đó...
Sau khi uống mớ thuốc tán, bà cai tổng nằm liệt giường, nhịn đói. Giây lâu, thầy Ngọc vào phòng của bà để xem lại bộ mạch, rót nước cho bà uống rồi đưa ra các lý luận tràng giang đại hải về rắn trung, rắn nạp dưa, rắn Xiêm, rắn Ấn Ðộ, rắn Tà Lơn.
Trời đã tối. Thầy Ngọc nói ta:
- Ðứa ở đâu rồi? Tôi muốn uống trà.
Mụ Hai đến gần tình nhân, mắng yêu:
- Mình dám kêu tôi bằng đứa hả?
Thầy Ngọc nói:
- Chừng bảxổ bùa em giấu cái ống tre trong áo rồi la hoảng, gọi anh tới. Nó còn sống không? đừng sợ gì ráo.
Từ trong buồng, bà cai tổng kêu rú lên:
- Hai ơi! Bà mệt quá. Hai ơi. Vô đâytiếp sức với bà. Trời ơi... cái gì nôn nao trong bụng quá!
Mụ Hai dạ thật to, chạy tất tả, tay sờ vào cái ống tre.
Ngoài này, thầy Ngọc lắng nghe... chờ hiệu lịnh.
bỗng nhiên, mụ Hai quát to:
- Bà ơi! Con gì sống nhăn đây nè! Ðể con đem cây đèn chong lại coi cho kỹ... Úy trời đất ơi!
Bà cai tổng rú lên:
- Con rắn hả? Thầy ơi! Vô coi dùm thử coi. Thuốc hay quá... Từ rày về sau...
Thầy Ngọc đốt thuốc hút rồi đến cửa phòng, gõ vài tiếng xin phép vào để tỏ rằng ta đây là người đứng đắn, tôn trọng thuần phong mỹ tục... Chập sau, mụ Hai mở cửa:
- Thầy coi thử... Con rắn ghê quá. Nó nằm lờ đờ...
Thầy Ngọc nói lông bông, để đùa với mụ Hai:
- Bị nhốt trong... bụng, nó ngộp thở.
Rồi day qua bà cai tổng, thầy nói:
- Bà thấy khoẻ khoắn chưa? Bà đói bụng không?
Bà cai tổng nói nhanh:
- Hai à? Con ra ngoài, lo nấu cháo cho bà ăn.
Mụ Hai bước ra. Trong phòng, chỉ còn bịnh nhân và thầy bùa. Ai nấy đều thoả mãn, vui ra mặt. Kẻ thì mừngđược hết bệnh, kẻ thì mơ ước xa xăm hơn:
- Bà cai à! Tôi muốn về gấp nhưng... bà đã thấy, mỗi lần uống thuốc chỉ có xổ ra một con rắn thôi. Trong bụng bà, còn chừng mười con rắn khác... Mười ngày nữa, mỗi ngày xổ một con.
Bà cai gật đầu:
- Tôi hiểu rồi. Thầy chịu phiền thức với tôi mười đêm nữa, tại đây chớ gì?
- Nếu bà hiểu... tấm lòng của tôi, tôi đâu ngại thức khuya dậy sớm.
Vài tháng sau, bà cai tổng bỗng lớn bụng. Rồi sau tháng Giêng, bà xổ ra một đứathầy rắn con , giống hết gương mặt láu cá của thầy Ngọc.
Hồn người trong ly rượu
Trong gian phòng hơi tối, Hùng chăm chú nhìn mấy con số thâu xuất trong quyển sổ"công nho" của làng Tây Yên:
- Ðinh Văn Mão đóng thuế điền 2 đồng biên lai số 00217.
- Quách Yến đóng thuế thủy lợi Kinh Dài 65 đồng, biên lai số 00218.
- Tu bổ trường làng ngày 21 - 1 - 1937, xuất 6 đồng 8 cắc 6 xu...
Chàng buông viết xuống, đi nhanh đến vách để tìm cái bàn toán. Từ hồi nhận chức vụ biện làng, làm việc tại nhà ông Tư đến nay chàng mới sáng mắt: người Trung Hoa bày ra cái bàn toán thật tiện lợi, để sử dụng, khi lắc mấy con toán, âm thanh vang lên đều đều, vui vui.
Cái bàn toán treo hơi cao, kế bên tấm lịch. Chàng với tay lên chợt rùng mình vì từ trong phòng, một bàn tay trắng muốt đưa ra, nắm chặt bàn tay chàng. Chàng suýt kêu to vì ngạc nhiên, vì sợ hãi:
- Ai... vậy?
Người chủ của cái bàn toán ngà vẫn chưa chịu xuất hiện. Nàng nói lanh lảnh:
- Anh này giả ngộ hoài! hổm rày tôi biết... anh mê tôi lắm nhưng anh sợ, anh không dám nói ra. Phải vậy không?
Hùng định thần, tìm cách gỡ rối. Cô Huệ, người vợ mơn mởn của ông xã Tư đang trêu ghẹo, thử thách chàng. Huệ là người ở cùng xóm. Năm mười bảy tuổi, hồi năm ngoái, nàng vâng lịnh cha mẹ để làm lễ vu qui, làm vợ ông xã Tư. Ông xã tuổi hơn năm mươi, lớn hơn nàng những bốn chục cái xuân xanh, và ông ta cũng giàu có hơn gia đình nàng gấp trăm lần! Hùng lẩm bẩm:
- Trời! Tội nghiệp tôi, bà ơi.
Huệ cười dòn, lú mặt ra, bàn tay nàng vẫn bám chặt cổ tay Hùng:
- Hễ anh keu tôi bằng bà thì nắm chặt như vầy hoài.
Hùng lắc đầu, mấy giọt mồ hôi tươm ra như sưong trên vầng trán đau khổ:
- Rủi ông xã về thình lình, chắc ông giết tôi quá!
- Bây giờ anh muốn chết hay muốn sống?
- Dạ, muốn sống.
Mấy ngón tay huệ như bắt đầu mở vòng vây.
Nàng nói:
- Sống để làm gì?
- Dạ, sống để... làm biện làng, giúp việc cho ông xã.
Huệ buông tay xuống cười khanh khách rồi tát yêu vào má Hùng:
- Anh này nói dóc quá. Tôi nói cho anh mừng, sáng nay nhà tôi đi hầu quan chủ quận, tới chiều mới về. Trong nhà, chẳng còn ai. Con nhỏ ở dưới bếp là đứa thân tín.
Dứt lời, Huệ bước ra khỏi phòng. Hùng cầm cái bàn toán, đặt trên bàn rồi ngồi ghế giả bộ như say sưa làm việc... Ngoài hiên, cơn gió nhẹ thổi qua, vô tình đẩy cánh cửa khép lại he hé. Ấm áp quá. Nhưng Hùng vẫn chưa yên tâm. Mấy năm trước, chàng gặp Huệ nhiều lần qua mấy dịp cúng đình làng, hai người cùng nhau trao đổi những cái liếc tình tứ. Thế thôi. Rồi nàng ngoan ngoãn vâng lệnh cha mẹ, làm vợ ông xã Tư. Hôn nhân trái cựa ấy khiến dân làng bàn tán không ngớt. Ða số cho rằng Huệ ham tiền, muốn chiếm đoạt gia tài ông xã Tư trong mai hậu. Nhưng lại còn giả thuyết:
- Ông xã Tư có bùa, có ngải, Huệ đã uống nhằm bùa của lão ta chuộc từ núi Tà Lơn huyền bí.
Huệ đứng dậy, bước khoan thai đến gần bàn giữa, rót tách nước đêm lại dâng cho Hùng với dáng điệu trịnh trọng:
- Mời anh... Anh nhát quá.
Bấy giờ, Hùng bắt đầu tỉnh táo. Bao nhiêu khí phách bừng sôi mạnh trong huyết quản của chàng trai yêu dời. Huệ là gái có chồng, đang sống trong vòng áp bức của ông chồng già, nghiêm khắc mà nàng còn đủ can đảm huống chi chàng... Nếu ông xã đuổi, chàng đi tìm sanh kế nơi khác và rủ Huệ trốn theo.
Chàng nâng tách nước uống một hơi. Nàng cười:
- Thủng thẳng mà uống. Coi chừng phỏng miệng.
Chàng đáp:
- Chết cũng không sợ, miễn là...
Rồi hai người tha hồ trò chuyện, kể lể cho nhau bao nỗi nhớ nhung uất hận. Nàng an ủi Hùng:
- Em nói với ba má gả Lan cho anh.
Lan là em gái của Huệ, siêng năng hơn Huệ nhưng kém lộng lẫy hơn. Hùng cau mày:
- Anh chỉ yêu Huệ mà thôi.
Huệ đáp:
- Anh này bướng quá, lì quá. Em hiểu lòng anh từ mấy tháng nay. Nhưng từ rày về sau, anh nên cẩn thận. hôm trước, anh vô tình vẽ lại mái tóc của em trên tấm giấy chậm. Chồng em đã chú ý rồi đó...
Từ đó về sau, mỗi dịp ông xã Tư đi hầu quan chủ quận mỗi tháng hai lần, để nạp thuế, hai người tha hồ ân ái. Hùng đánh bạo, vào phòng của Huệ, nằm trên chiếc gối thêu rồn thêu phụng bấy lâu chỉ dành cho ông xã Tư.
Huệ càng đẹp, càng xinh thêm.
Hùng thỉnh thoảng ca vọng cổ trước mặt ông xã Tư. Ông xã cười gằn, liếc lên vách, nhìn bàn toán treo sát cửa phòng. Và cách cái bàn toán chừng vài tấc là thanh đoản đao bén ngót mưa từ miền cao nguyên.
°   °
°
Hồm ấy, sau khi rảnh việc, Hùng về nhà trọ ở xóm vàm. Chàng đang sờ vào túi, đếm thử mấy đồng bạch chợt nghe tiếng gọi to, phía sau:
- Chú biện!
Ðó là ông xã Tư. Ông ta gọi lần nữa, giọng rắn rỏi hơn.
- Hùng! Mầy đứng lại.
Nghĩ rằng xã Tư là kẻ đa mưu, chẳng lẽ ông ta dám giết mình lúc ban ngày, gần xóm đông đúc nên Hùng mạnh dạn đứng lại:
- Thưa ông...
- Mầy đi đâu vậy?
- Dạ về nhà.
- Tao hỏi mầy đi về... âm phủ hay muốn ở lại dương gian. Mầy nghe rõ chưa?
Hai người bước chậm rãi bên cạnh nahu. Hùng chú ý một điều: ông xã không mang khí giới... gương mặt cau có chứng tỏ ông ta ghen bóng ghen gió chớ chưa nắm được bằng cớ nào cụ thể. Ðể tỏ rằng ta đây là anh hùng, chàng nói thẳng:
- Tôi đã nói chuyện riêng với... bà nhiều lần, lúc ông vắng mặt.
- Tại sao mầy không nói lúc tao có mặt? Chuyện riêng là chuyện gì? Nói thật đi, tao tha tội cho. Tao biết mầy quen với gia đình bên vợ tao, từ lâu...
Mấy tiếng gia đình bên vợ giúp Hùng tỉnh táo, sáng trí. Chàng xoay sang vấn đề khác:
- Thưa ông, tôi quen với gia đình bên ông... Xóm giềng ai cũng biết...
Rồi chàng cố tình ngưng c;6au nói, chờ ông xã Tư thúc hối:
- Mầy muốn làm rể hả? Tao cưới con Huệ, mầy tức hả?
Thấy xã Tư đã lọt vào quỉ kế của mình. Hùng nói:
- Xin ông đừng nóng giận. Tôi muốn làm rể và khi ông cưới cô Huệ, tôi tức giận thiệt đó...
Rồi chàng dang xa vài bước, thủ thế:
- Nhưng... tôi muốn cưới Lan, em cô Huệ. Tôi tức giận vì mình nghèo túng. Phải chi tôi có chức phận làm được hương thân, hương hào thì đâu đến nỗi thất vọng vì tình.
Ông xã Tư gật đầu từng chập, bán tin bán nghi. Có lẽ thằng Hùng thổ lộ tâm tình chân thành của nó vì Huệ còn đứa em gái khá đẹp mà ông xã toan đem về làm... tỳ thiếp trong mai hậu. Tuy nhiên, câu trả lời của Hùng vẫn chưa đánh tan sự ghen tương:
- Mầy nói với vợ tao chuyện gì? Nói mấy lần? Nói tại đâu?
- Dạ, nói nhiều lần. Tôi nhờ cô Huệ trình bày hoàn cảnh tôi với ba má cô. Tôi muốn nhờ ông giúp dùm, nói vô vài tiếng ngặt tôi chưa dám.
- Ờ... Ðể tao coi lại.
Ðến xóm trên, ông xã Tư ghé vào quán, uống rượu liên miên, tìm cách ứng phó. Hùng nhanh trí, bơi xuống thẳng về phía Kinh Dài, nơi trú ngụ của Huệ. Chàng thuật đầu đuôi tai nạn đã xảy ra rồi quỳ xuống lậy.
Ông Hương Kiểm Lưu, cha của Huệ ban đầu tức giận nhưng ông nghĩ đến tương lại Huệ, thở dài. Hùng nài nỉ thống thiết:
- Ông xã Tư đa mưu túc trí, dám giết tôi để trả thù, giết cách này hoặc cách khác... Xin bác bình tĩnh giúp đỡ cháu. Cháu hiểu phận mình chưa xứng đáng làm con rễ trong gia đình.
Ông Hương Kiểm bỗng giật mình:
- Xã Tư bây giờ ở đâu?
- Dạ, ổng uống rượu ở quán, tại xám Vàm.
- Nguy lắm. Lan ơi!
Lan bước tới, khép nép cúi chào Hùng. Ông Hương Kiểm day lại Hùng:
- Mầy đi cho khuất, kẻo thiên hạ sanh nghi.
Hùng trố mắt, bước ra về, nghe ông Hương Kiểm căn dặn Lan:
- Con tới nhà chị Huệ, nói như vầy, như vầy... Kẻo người nói một đàng, người cung khai một nẻo. Ði cho gấp kẻo... xã Tư về trước. À! Ðem nải chuối cau này, gọi là mượn cớ thăm viếng.
Năm ba hôm sau, Hùng cúi đầu làm việc, chẳng dám nhìn Huệ hoặc ông xã Tư. Thái độ ông ta thật khó hiểu, thỉnh thoảng vào phòng nói chuyện rù rì với Huệ rồi trở ra. Hùng mừng thầm hy vọng tai qua nạn khỏi vì chàng đã đánh lạc hướng xã Tư một cách khéo léo.
Xã Tư mở tủ, trao cho Hùng mười đồng bạc.
Hùng trố mắt:
- Thưa ông, chưa tới ngày lãnh lương.
- Tao cho mầy mượn.
- Dạ, làm sao tôi có tiền trả lại.
Xã Tư nói:
- Tao biểu điều gì, mầy đừng cãi. Ngày mốt, mầy cưới vợ.
- Dạ, cưới ai?
Câu hỏi vặn ngược khiến ông Tư càng nghi ngờ. Tại sao biện Hùng thú thật rằng nó yêu Lan nhưng nó lại không biết... Cưới ai làm vợ? Ông ta nói:
- Cưới con Lan. Tao nói với con Lan rồi. Ông Hương Kiểm đồng ý. Mầy cầm số tiền này may sắm quần áo. Ngày mốt ông Hương Kiểm làm đám nói cho mầy có thể xuống nhà ổng ăn cơm, ở lại đó để làm rể. Hàng ngày, mầy được quyền nói chuyện tình với con Lan. Ban đêm mầy... tự do ra vào phòng của nó.
Quả thật ông xã Tư là đối thủ lợi hại. Ông ta xuất ra số tiền ấy để làm kế ly gián khiến cô vợ trẻ nghi ngờ mốit ình son sắt của Hùng. Hùng đau xót nhưng chẳng biết nói sao... Ðôi mắt chàng long lanh ngấn lệ:
- Tôi chưa muốn cưới vợ.
Xã Tư cười, đắc chí:
- Thằng này lạ quá. Muốn cưới vợ lại không muốn. Mầy giỡn với ta hả? Người ta cưới vợ rồi cười, mầy lại khóc hận. Mua sắm quần áo đi. Từ giờ phút này, tao cấm mầy nói chuyện riêng với vợ tao, hiểu chưa. Nếu bắt gặp, tao giết mầ. Xứ này, thiên hạ nghe oai danh tao quá nhiều. Tao giết bất cứ ai, nếu tao muốn. Tao không sợ ở tù đâu... Và hễ giết kễ gian thì lương tâm tao không bao giờ ăn năn hối hận gì ráo.
Hùng ngoan ngoạn cúi đầu. Bơ vơ quá. Bỗng dưng chàng yêu Huệ hơn bao giờ hết. Ngày mốt, chàng làm lễ hỏi Lan. Vô lý quá. Chẳng biết khi hay tin này, thái độ của Huệ ra sao? Xã Tư độc ác thật. hắn ghen tuông, trả thù, bày kế ly gián để giết lần giết mòn cuộc đời Hùng và Huệ.
Nhưng khối óc non nớt của Hùgn chưa suy luận, tiên đoán nổi những chuyện sắp xảy tới.
°   °
°
Ngày mười lăm dương lịch, xã Tư đi hầu quan chủ quận như thường lệ. Huệ nằm rũ rượi trong phòng. Từ khi làm lễ hỏi Lan tới giờ, xã Tư bắt buộc Hùng nghỉ việc mười hôm. Ông ta bảo với vợ:
- Em đừng hiểu lầm. Anh cho thằng Hùng nghỉ tạm để vợ chồng nó hưởng tuần trăng mật. Sau đó, nó về đây làm sổ sách như trước.
Huệ ngơ ngác:
- Mình nói sao? Hùng hưởng tuần trăng mật?
- Nó ngủ chung một phòng với con Lan.
Huệ đập tay xuống bàn, giận dữ. Xã Tư liếc thấy sự ghen tuông đang hiện rõ trên mặt vợ. Huệ còn yêu Hùng. Huệ không muốn Hùng... nhập phòng với Lan.
Ông ta cười gằn:
- Em giận ai?
Huệ lanh trí, tìm được câu trả lời:
- Em giận tất cả mọi người, mới làm đám hỏi mà nhập phòng à? Tục lệ nào cho phép chuyện bất lương đó?
Ông ta đáp:
- Tôi muốn như vậy để thằng Hùng khỏi làm chuyện bất lương khác.
Nói xong, ông ta xuống ghe, ra lịnh cho mấy thằng trạo chèo đi dinh quan chủ quận ở tận chợ Gò Quao.
Gian nhà trống trải lạ thường. Hồi lâu, nàng thấy Hùng và Lan bước vào. Lan rưng rưng nước mắt khi gặp chị:
- Chị đừng hiểu lầm.
Huệ vội đóng cửa phòng:
- Về đi! Về hết đi! Tao muốn chết.
Hùng chạy tới, xô cửa phòng, nói nhanh:
- Huệ, em đừng dại dột. Hễ anh nói, chắc em không tin. Hôm nay, anh dẫn Lan tới đây. Lan sẽ trình bày cho em biết tất cả sự thật.
Bây giờ, Huệ mới bắt đầu yên tâm. Hai chị em Huệ và Lan ôm nhau khóc nức nở. Lan nói nghẹn ngào:
- Ông xã bắt buộc Hùng và em phải ngủ chung một phòng để gây dư luận xấu. Thiệt ra anh Hùng là người tốt. Ðêm đó, anh Hùng ngủ dưới đất, em thì ngủ một mình trên giường.
Hùng nghiến răng:
- Khổ quá. Tại sao ba má không cản ngăn.
- Dạ, ông xã hăm he. Nếu ba má từ chối thì ông xã sẽ làm lớn chuyện, giết chị lập tức. Ông nói chị tư tình với anh Hùng...
- Chị hiểu rồi... Vợ chồng em về đi!
Hùng và Lan vô cùng bối rối. Cuộc thăm viếng này sẽ làm cho Huệ uất ức đến mức tự tử. Chàng nàn nỉ Huệ:
- Lan đến thăm để nói sự thật. Huệ à, anh thề chung thủy, sống chết với Huệ. Anh chỉ sợ Huệ thay lòng đổi dạ thôi.
Rồi chàng lau nước mắt cho Huệ. Nàng nắm tay chàng:
- Anh nhớ giữ lời hứa. Em sợ rằng...
- Thôi, em đừng nói nhảm! Lan cứ về một mình. Anh ở lại đây làm sổ sách...
Khi xã Tư trở về nhà. Huệ và Hùng đều sợ sệ.
Mọi khi ông ta về vào khoảng bảy giờ tối. Phen này, mười hai giờ trưa, ông ta về để làm gì? Phải chăng Hùng và Huệ vừa sa vào cạm bẫy ông ta?
Hùng đứng dậy chào:
- Ủa! Ông không đi dinh quận sao?
Xã Tư vỗ vai Hùng:
- Ðùng gọi tôi bằng ông! Hai đứa mình là bạn rể với nhau. Cứ gọi tôi bằng anh.
Rồi ông ta hạ giọng:
- Hay gọi thân mật... bằng thằng, thằng xã Tư cũng được.
Huệ đỡ lời:
- Mình nói khó nghe quá. Hay là bữa nay mình uống rượu nhiều?
- Mới uống rượu chút ít. Tôi mới mua được một con khỉ nên lật đật trở về làm tiệc. Mình ăn thịt khỉ chớ. Ðể Hùng xuống ghe, đem con khỉ lên.
Nói xong, ông xã Tư nắm tay, dắt vợ vào phòng.
Ngoài này, Hùng bước lững thừng ra sân, xuống ghe với hai thằng trạo thân tín của ông xã. Chiếc ghe rời bến, vào mương nhỏ khuất lá um tùm.
Xã Tư đem cái ly to lớn để trên bàn nói rối rít với Huệ:
- Máu khỉ uống bổ lắm. Hổm rày, em xanh xao...
Huệ trợn mắt. Linh cảm như báo trước điềm không may:
- Ừ! uống bổ lắm.
Cánh cửa hé mở. Một thằng trạo bước vào, nâng một tô rượu đỏ ngầu. Xã Tư cười hề hề:
- Em uống đi.
Huệ nâng tô rượu lên... Trong đáy tô rượu đỏ ngầu, tanh tanh, dường như ẩn hiện một dáng người... Nàng run rẩy, buông tay. Tô rượu đổ xuống bàn, văng vào áo ông xã.
Xã Tư hỏi:
- Em chóng mặt hả?
Huệ nói gắt:
- Em muốn mửa. Uống rượu như vầy, dã man quá! Dã man!
Xã Tư hiểu rằng Huệ đang chửi mắng mình. Ông ta nắm tay vợ:
- Em buồn mửa thì ngoài nầy... Mửa ở đây, dơ dáy nhà cửa.
Ông ta đưa Huệ đến cái mương sau vườn rồi dắt nàng xuống chiếc ghe, nơi Hùng nằm sóng sượt tắt thở trong vũng máu linh láng.
Huệ chạy trở vào nhà, rút thanh đoản đao - thanh đoản đao treo gần cái bàn toán, ngay cửa phòng - Nàng chờ đợi, đứng nép bên cửa.
Nàng đâm ngay bụng xã Tư rồi đâm vào ngực mình ngã gục.
Từ đó về sau, thiên hạ đồn rằng Huệ trở thành ma quỷ linh thiêng, gọi là cô Huệ, cô Huê ở cây dương đình làng Tây Uyên. Huê chính là Huệ, nói theo giọng kỵ húy.
Con trích ré
Ðêm ấy, ngôi nhà lầu của cai tổng Báu rộn rịp khác thường. Hàng chục cây đèn măng xông cháy sáng rực ở ngoài sân và trong phòng khách. Từ bốn hôm trước, bọn gia nhân phải thức khuya dậy sớm để treo bông kết tuột, chuẩn bị ngày gắn huy chương Nông Nghiệp (Mérite agricole) do quan phó tham biện cử hành.
Các thân hào, hương chức hội tề đã tề tựu từ hồi bốn giờ chiều.
Ông tổng Báu mặc áo dài khăn đóng đứng ngoài cửa bắt tay từng người. Mặt trời xuống dần, cảnh vật trở nên âm u. Ông tổng chạy tới lui, quát tháo từng chập:
- Xong chưa! Nhớ un muỗi bốn phía sân. Quan phó tham biện là người Lang Sa. Ổng sợ muỗi lắm. Muỗi cắn... tức là chích nọc vi trùng sốt rét. Hôm trước, ông căn dặn làm thế nào đừng cho muỗi cắn ổng!
Rồi ông tổng nói với tên tổng khậu (đầu bếp):
- Sửa soạn cho xong đi! Chừng một giờ nữa...
Tên tổng khậu đáp:
- Dạ, đâu đó xong xuôi rồi. Bữa này, nhứt định quan phó tham biện hài lòng. Món này đặc biệt... ngon hơn đồ Tây.
Rồi anh tổng khậu chạy vào phòng khách. Anh ta trở ra, mặt mày hơ hãi:
- Chết cha! Ông cho phép tôi sửa soạn ngay giữa sân này... Phải đốt lửa trước để có than...
Ông tổng Báu gật đầu:
- Cứ dọn ngay giữa sân. Nãy giờ, tao nói trừ hao... Còn sớm mà.
Dưới ánh đèn măng xông sáng trưng còn hơn ban ngày, bọn gia nhân hì hục làm việc dưới sự điều khiển của anh tổng khậu. Họ chất hàng bảy tám chục khúc củi, đốt cháy rực trời, theo kiểu... hướng đạo đốt lửa trại, có điều khác là đống lửa ấy dài như hình chữ nhựt. Hồi lâu lửa ngọn hạ xuống, họ đem tới năm ba cần xé đựng đầy vỏ dừa, lolại vỏ dừa tươi, phơi khô.
Mấy ông hương chức hội tề khen nức nở:
- Than vỏ dừa đượm lắm.
Mớ vỏ dừa được tung vào đống lửa. Một mùi thơm thơm bay ra... Trong khi ấy anh tổng khậu đến phía sau nhà, truyền lịnh:
- Ðập đầu con bò con cho mau. rồi cạo lông sơ sơ. Nhớ mổ bụng, đem bộ đồ lòng ra cho sạch. Phải giữ nguyên hình dạng con bò: đuôi, móng, lưỡi, lỗ tai... Mất một món là bọn mình... mất danh dự.
Bọn gia nhân đốt đuốc, đập đầu con bò con. Anh tổng khậu vào nhà bếp thúc hối:
- Nhớ chưa! Bàn thứ nhứt đầy chuối chát; bàn thứ nhì, khế chua; bàn thứ ba, bánh hỏi; bàn thứ tư, bánh tráng; bàn thứ năm, mắm nêm; bàn thứ sáu, muối tiêu.
Mấy chỉ ở nhà bếp cười dòn!
- Ðầy đủ hết rồi. Còn bàn thứ bảy?
Anh tổng khậu nói:
- Bàn thứ bảy thì dành riêng để uống rượu. Cứ khiêng lên sau, khi tôi ra lịnh...
Ðống lửa than đã ngún đỏ rực giữa sân.
Hai tên gia nhân cắm sẵn bốn cây nọc, mỗi đầu hai cây tréo lại. Ông tổng Báu cười hì hì:
- Món này đặc biệt lắm, bò gác tréo! Bên Tây, họ chưa ăn uống sang trọng như ở xứ mình.
Một ông hương chức hội tề nói phụ họa:
- Hồi nào tới bây giờ, tôi nghe nói thịt bò gác tréo nhưng chưa nếm lần nào. Ðêm nay, dịp may hiếm có...
bỗng dưng mọi người đều nhảy nhổm. Từ phòng khách có tiếng con chim gì kêu to:
- Ré... ré... ké... ké...
Ông tổng Báu đứng dậy, giận xanh mặt:
- Bà Hai đâu? Tôi căn dặn mấy bữa rày mà cứ để như vầy. Con trích phá đám. Ðêm nay, coi chừng...
Cử toạ cười vang lên. Con trích vừa nhảy vừa bay sập sận ra sân. Nó to bằng con gà tre, lông xanh mướt như lông chim sa sả (chim chả). Cái mồng con trích cứ đưa qua đưa lại, đỏ hói... Ðôi chân đỏ đậm nhảy tới, quơ móng nhọn lễu, bén như dao cạo. Ông Tổng Báu la tiếp:
Bà Hai chính là người vú già nuôi bé Kiều, đứa con gái út của ông tổng. Bà cố sức chạy theo... Con trích cứ"ré" lên, bay vòng quanh đống lửa. May quá, bà Hai chận đầu con trích, ôm vào lòng, nói khẽ với ông tổng như để giải thích, xin lỗi:
- Dạ, cô bé Kiều mở cửa thình lình.
Vừa dứt lời, bé Kiều chạy tới, khóc thút thít:
- Ba ơi! Con trích đâu rồi? Ba rầy con hả?
Ông tổng báu vuốt tóc con:
- Thôi nín đi. Ba rầy bà Hai chớ đâu có rầy con, con lên lầu mà ngủ đi.
Bé Kiều nũng nịu:
- Con không ngủ đâu. Tại sao ba nhốt con trích trong lồng. Nó kêu hoài, tội nghiệp nó lắm.
Từ ngoài sân, đứa gia nhân chạy vào, nói giọng nghiêm trang:
- Thưa ông! Ca nô ông phá tham biện tới rồi!
Ông tổng Báu giật mình, nói với bà Hai:
- Ðược rồí Bà thả con trích ra khỏi lồng. Cho con trích vô ở trong phòng với bé Kiều nghe không?
Rồi ông nài nỉ:
- Bé Kiều! Ðêm nay, ba mắc công chuyện. Con ở trong phòng mà chơi với con trích. Kẹo bánh thiếu gì ở trong đó.
Bà Hai ôm con trích, vào phòng khách rồi lên lầu, bé Kiều chạy theo bà. Nó mừng rỡ, ông tổng không nhốt con trích nữa. Nó tha hồ đùa giỡn, bẻ bách bích qui cho con trích ăn...
°   °
°
Con trích, gọi nôm na là"trích ré" thuộc vào loại chim rừng đẹp nhứt. Nói đúng hơn, nó là loại chim sống ở nơi đồng cỏ hoang dại. Trích bay rất thấp, lủi trong cỏ rất khéo một khi lâm nguy, bay không kịp. Thịt trích ăn khá ngon, nào kém thịt gà.
Qua lúc sa mưa, nếu lội bộ qua vùng cỏ mênh mông, ta có thể gặp hàng chục ổ trích, trong mỗi ổ có năm sáu trứng. Như người, trích cất cánh bay bổng hoặc chui xuống cỏ, đứng như chết.
Trích lại có tài đá lộn như gà. Nhiều người nuôi trích để giữ nhà. Mỗi khi gặp người lạ, trích"ré" lên inh ỏi để báo động, rồi chạy tới, vừa cắn, vừa đá, vừa bay... Bị tấn công thình lình, khách lạ khó bề xoay trở, thường chịu rách quần áo, trầy da hoặc đui mắt.
Bé Kiều là con gái út của ông tổng Báu. Ông tổng có đưa con trai lớn, chết vì bịnh ban đen hồi năm ngoái. Bé Kiều là đưá con gái duy nhất còn lại trong gia đình. Mẹ bé Kiều mất khi bé Kiều được đầy tháng. Vì vậy, bé Kiều là hòn ngọc trong gia đình.
Một hôm, lúc dạo xóm với ông tổng, bé Kiều gặp con trích nuôi trong nhà người tá điền. Bé Kiều khóc lóc, đòi đem con trích ấy về nhà nuôi cho bằng được. Ông tổng chiều con, sắm chiếc lồng sơn son để nuôi trích. Nhưng bé Kiều giận lẫy, không muốn nhốt con trích vào lồng.
Con trích trở thành con búp bê được bé Kiều nân niu... Hễ bé Kiều đi đâu là cont rích chạy theo đó như hình với bóng.
Thỉnh thoảng, con trích phóng uế nơi phòng khách. Bà Hai đành phải làm công việc lau chùi... và lau chùi không hở tay nếu con trích ăn uống không tiêu. Những lúc ấy, bé Kiều khóc lóc, đòi kiếm thuốc cho con trích uống... Ông tổng Báu đành xuống nước nài nỉ con, hứa mai hứa mốt. Ban đêm bé Kiều để cont rích ngủ bên giường, sợ kẻ trộm lẻn vào nhà bắt con trích cưng.
Ông tổng lắm lúc bực mình và tỏ ra thông cảm với nỗi khổ nhọc của bà Hai:
- Bà đừng phiền, bé Kiều thiếu tình thương của mẹ. Nó gắt gỏng khó tánh, tội nghiệp nó. Vái trời cho con trích sống hoài. Rủi con trích chết, chắc nó mang bịnh theo.
°   °
°
Buổi gắn huy chương Nông Nghiệp đã cử hành xong. Ông tổng Báu đứng im như một người lính, ưỡn ngực, nín thở. Sau đó, ông xin phép với quan phó tham biện:
- Mang huy chương lúc ăn uống là điều thất lễ với... chánh phủ Lang Sa. Tôi muốn đem cái huy chương này cất trong tủ thờ...
Quan phó tham biện cười nhếch mép rồi gật đầu, vỗ tay... Tất cả cử toạ đứng dậy, vỗ tay phụ hoạ hồi lâu mới dứt.
Cai tổng Báu bước ra sân, nói khẽ với anh tổng khậu:
- Ðem món ăn ra giữa sân!
Quan phó tham biện hơi ngạc nhiên. Ban nãy ông tổng Báu giới thiệu món ăn duy nhất: thịt bò con. Bây giờ, bốn đứa gia nhân đặt con bò con lên kiệu, khiêng ra sân, gác lên mấy cây tréo, trên đống lửa than đỏ rực.
Trông con bò ngỗ nghĩnh, ngây thơ và nên thơ quá! Nhờ tài khéoléo của anh tổng khậu, con bò như sống lại, nhăn răng cười trên đống lửa hồng! Ban nãy, anh ta đã dùng hai khúc cây nhỏ, chỏi mí mắt khiến con bò vẫn thức tỉnh trong cái chết, đôi mắt tròn xoe, trao tráo!
Anh tổng khậu khoát tay làm dấu hiệu với mấy người nhà bếp.
Họ xúm nhau khiêng bàn, mấy cái bàn riêng biệt đầy chuối chát, khế chua, mắm nêm. Ðâu đó xong xuôi, ông tổng Báu trịnh trọng đứng dậy.
- Thưa quan phó chủ tỉnh, thưa quí anh... hương chức hội tề. Hôm nay là ngày vui, chúng tôi xin đãi tiệc mọn. Muốn ăn món thịt bò gác tréo này, xin quý vị chịu phiền dời gót ngọc dạo chung quanh con bò. Lời tục thường nói: Ngồi một chỗ ăn ít, trái lại, nếu vừa đứng vừa ăn thì ta ăn nhiều hơn...
Quan phó chủ tỉnh nhờ hiểu chút ít tiếng Việt nên gật đầu, vỗ tay. Chờ khi tràng pháo tay chấm dứt, quan phó chủ tỉnh nói to:
- Ông cai tổng là chủ nhà, chủ tiệc. Vậy thì mời ông ăn trước cho mọi người bắt chước theo...
Ông tổng Báu cúi đầu:
- Cám ơn quan lớn.
Quan phó chủ tỉnh rót ly rượu chát để tán thưởng:

- Ông cai tổng uống, uống cạn ly...

Uống xong ly rượu, ông tổng Báu càng cao hứng, nói thao thao bất tuyệt:
- Món ăn này ăn bằng cây dao và đôi đũa. Trước tiên mình cầm dao, đâm lụn vào da con bò...
Quả đúng như lời, mũi dao vừa xắn vào da bò là một lỏi thịt đỏ tươi từ từ vọt ra. Ông tổng Báu cắt khúc thịt nửa sống nửa chín ấy, gắp trong đũa.
Ðến bàn thứ nhứt, ông lượm một miếng chuối chát, kế đến, miếng rau sống, miếng bánh tráng rồi ông gói lại, đem chấm tại bàn có mắm nêm. Tràng pháo tay nổi lên... Ông tổng đưa miếng thịt bò vào miệng. Rồi ông đến bàn rượu, nâng lên chén rượu đế!
Cử toạ lần lượt vào tiệc.
Họ sáp hàng một, lụi mũi dao vào hông con bò, cắt thịt rồi đi dạo vòng quan con bò, từ bàn chuối chát đến bàn rượu... theo cái vòng lẩn quẩn thú vị. Ðêm càng khuya, bao tử của đám thực khách càng đầy thịt rượu... Lần đầu tiên, được thưởng thức món ăn đầy đủ hương vị "bản xứ thuộc địa miền nhiệt đới," quan phó chủ tỉnh uống rượu say mèm... Ông ta nói:
- Uổng quá! Phải chi ở chợ... mình mở ra dạ hội khiêu vũ.
Ông tổng Báu chắp tay, kiếu lỗi:
- Dạ, chốn này quê mùa, thiếu gái đẹp...
Ðâu được. Ðàn ông có thể khiêu vũ với đàn ông... Nãy giờ, ăn thịt bò hơi nhiều, ăn chỉ có một thứ.
Bỗng dưng, từ trong phòng khách có tiếng "Ké! Ké! Ré! Ré!" lanh lảnh!
Cử t giựt mình và ông tổng Báu như sống trong cơn ác mộng! Trời ơi! Con trích ré của bé Kiều lại chạy xuống, vừa chạy vừa vỗ cánh, vừa vỗ cánh há mỏ, hươi móng.
Tất cả quan khách đều là kẻ lạ! Bản năng con chim rừng ấy thúc dục nó phải liều mạng để báo động, hành hung đánh đuổi... quân thù! Và trong đám quan khách ấy, người xa lạ và khó thương nhất chính là kẻ lớn con, ăn mặc lạ lùng mà hồi nào đến giờ nó chưa từng thấy.
Ông tổng Báu la lên:
- Bà Hai! Tôi giết bà bây giờ. Bộ bà ngủ gục ở trển hả?
Cử toạ xô ghế, đứng dậy... ông phá tham biện cứ ngồi lì một chỗ. Ông ta khòm xuống thấp, dang hai tay ra để chào đón cho chim quá đẹp.
Con trích nhảy tới, đá túi bụi... Ông phó tham biện chủ tỉnh cố gắng chụp nó vào lòng để vuốt ve...
Ông tổng Báu la hoảng:
- Quan lớn coi chừng!
Ông tổng vừa dứt lời, quan phó tham biện cau mày, rút khăn mù soa chùi mấy vết máu tươm ra trên làn da tay vừa bị đâm, bị mổ.
Con trích thối lui, thủ thế.
Từ phía sau, bé Kiều la lên:
- Trích! Trích! Mầy chạy đi đâu vậy? Nãy giờ tao thức dậy kiếm mầy gần chết! Lạ lắm hả?
Con trích lại phóng tới, mổ vào mặt quan phó tham biện. Tức giận, quan phó tham biện đứng dậy, đá mạnh. Trúng mũi giày da, cont rích đau điếng, té nhào vì mất thế quân bình.
Ông tổng Báu đổ mồ hôi hột vì linh tính như báo trước điềm không may. Ông chạy tới, chụp con trích rồi xin lỗi:
- Quan lớn đừng phiền. Nãy giờ tôi nhốt con trích này ở trên lầu. Chẳng qua lạ sự sơ sót. Ðể tôi lấy thuốc thoa cho quan lớn.
Nhưng... đường đường một đấng thượng quan, lẽ nào quan phó tham biện lại chịu thua một con chim nhỏ bé... Ông ta nói:
- Ðưa cho tôi coi!
Tổng Báu run rẩy, nghĩ đến phản ứng của bé Kiều. Con trích ré lên thật to, mổ vào mắt ông phó tham biện.
Lầnnày ông đề phòng trước, chụp mỏ nó rồi vặn cổ.
Bé Kiều khóc thét lên:
- Trả cho tôi! Trả lại cho tôi!
Ông phó tham biện đắc thắng, mặt mày vênh váo như vừa giết được kẻ thù. Bé Kiều là đứa con nít quèn, đâu xứng mặt đối thoại với ông ta. Ông ta tiếp tục làm công việc của kè chiến thắng:
- Ðể tôi"rô ti" con trích này, thịt nó ngon lắm.
Vừa dứt lời, ông ta quăng xác con trích vào đống than đỏ rực. Bé Kiều từ nãy giờ theo dõi mọi hành động của ông Tây tàn ác. Nó chạy tới để cấu xé ông Tây lạ mặt. may thay, bà Hai chận lại, nài nỉ:
- Tội nghiệp tôi, cô ơi!
Mùi lông trích bay lên khét lẹt, bé Kiều cắn tay bà Hai để giải vây rồi chỉ ngón tay vào mặt quan phó tham biện:
- Chết mẹ mầy! Mầy nướng...
Nhanh như chớp, ông tổng Báu tới bên cạnh bé Kiều, bụm miệng con rồi giả vờ đóng kịch:
- Bà con xem... Thấy con trích cắn quan lớn, bé Kiều nổi giận, đòi nướng con trích, đòi giết con trích cho hả giận... À! Thôi, lên phòng nằm, sáng mại ba kiếm cho con một con trích khác.
Rồi ông nói với bà Hai:
- Ðem bé Kiều lên tầng lầu trên. Còn bà thì đứng lẩn quẩn gần đây, coi chừng nó chạy trở xuống, nói bậy, ở tù cả đám.
Bé Kiều, nổi điên lên. Hai bàn tay bà Hai nhấc nó khỏi mặt đất, bồng nó lên tầng lầu. Rồi bà Hai trở xuống ngồi chận ngay thang lầu.
Bé Kiều nhớ tới con trích khôn ngoan hằng đêm ngủ với nó, hằng ngày ăn uống đùa giỡn với nó. Trời! Con trích này chết rồi! Giận quá. Thủ phạm lại là cha nó. Nếu cha nó không trao cho ông Tây thì con trích vẫn sống nhăn. Bé Kiều quyết trả thù. Phải làm một việc mà cha nó khi hay tin sẽ khóc... như nó đã khóc. Nó sực nhớ đến cái hồ nước ở gần nhà bếp. Mọi khi cha nó căn dặn, ngăn cấm không cho nó lại gần. Ðêm nay, lát nữa, nó sẽ bắc ghế, rình lúc người ở nhà bếp sơ ý... Nó nhảy vô hồ nước để trốn. Hồ nước mát lắm. Nhảy vào đó như nhảy xuống sông. Tại sao cha nó ngăn cấm không cho nó tắm dưới sông...
°   °
°
Tàn bữa tiệc, sau khi quan khách ra về, ông tổng Báu đến tủ thờ, đem cái huy chương Canh Nông ra gắn trước ngực. Rồi ông ta chạy lên lầu để an ủi bé Kiều, khoe khoang với bé Kiều rằng cái huy chương quý hơn con trích. Nếu cần, ông sẵn sàng cho bé Kiều mang cái huy chương để ngủ đêm nay.
Ông trố mắt:
- Bé Kiều đâu? Bà Hai.
Bà Hai đáp:
- Dạ, cô bé ở đâu đó mà!
Bọn gia nhân đốt đuốc, chạy lăng xăng. Hồi lâu, công việc tìm kiếm được chấm dứt vì một đứa gia nhân đã sực nhớ tới cái hồ nước. Anh ta cầm đuốc, dựa bên thành hồ, trố mắt... bàn tay rụng rời buông ngọn đuốc...
Ðơn Hùng Tín chào đời
Thời Pháp thuộc, đồng bàơỏ miền Tiền Giang, Hậu Giang đều nghe danh... Ðơn Hùng Tín. Anh ta thuốc vào hàng"đại ca," điều khiển một số tay anh em giết người cướp của không ớm tay. Lời nói và việc làm của Ðơn Hùng Tín luôn luôn đi đôi. Trước khi đánh cướp, Ðơn Hùng Tín báo trước ngày giờ để cho gia chủ đề phòng. Khi quân cướp rút lui, chẳng ai dám hó hé tố cáo hoặc truy nã. Du đãng Ðơn Hùng Tín thường vượt ngục phá khám hoặc được quan trên..."tha bổng." Vì vậy, dư luận cho rằng có nhiều ông hương chức hội tề hoặc ông cò Tâyd dã bí mật làm tay chân cho Ðơn Hùng Tín vì sợ anh ta, vì tham của hoạnh tài.
Xưa kia, Ðơn Hùng Tín chưa lấy biệt danh ấy. Anh ta còn là kẻ vô danh, đọc truyện Ðường, nuôi chí lớn và chờ thời...
Vùng núi Tà Lơn nổi danh là nơi ẩn nấp của lắm tay siêu phàm. Lúc phiêu bạt đến đó Ðơn Hùng Tín chỉ là một hột cát bé bỏng. Anh ta thường dạo khắp mấy hang đá cheo leo, hôm ấy gặp một thanh niên ốm o gầy mòn. Thanh niên hỏi:
- Anh là ai?
Ðơn Hùng Tín hỏi ngược lại:
- Còn anh... anh là ai?
Chàng thanh niên bèn mời Ðơn Hùng Tín vào hang đá mà nói:
- Ở đây, người nào cũng như người nấy. Ðứng về võ nghệ mà phê phán thì có hơn chục người sành sỏi, bóp viên đá ra như cám hoặc nhảy như bay qua miệng hố. Chẳng hay anh bạn giỏi về môn nào?
Ðể che giấu cái tài hèn đức kém của mình, Ðơn Hùng Tín lại dùng thủ đọan cũ, nghĩa là hỏi vặn:
- Còn anh bạn?
Thanh niên mỉm cười:
- Tôi mới biết sơ qua vài"ấn." Nè anh bạn tới thăm tôi trể, gặp dịp, tôi"triệt" bà cố cho bạn xem mãn nhãn.
Ðơn Hùng Tín đâm ra nghĩ ngợi:"bà cố" là vị thần mạnh nhất, huyền diệu nhứt so với các cô, các cậu đang bay bổng, phiêu du khắp cõi càn khôn. Người biết bắt ấn, triệt được"bà cố" hẳn phải là tay dày công luyện tập. Thanh niên nọ cứ day mắt vào vách đá, miệng đọc bùa chú lâm râm. Ðể tỏ rằng mình đầy đủ bản lĩnh. Ðơn Hùng Tín cố ý khuấy rối sự yên tĩnh:
- Anh bạn hơi đâu mà luyện tập thứ ấn thấp kém đó. Tôi đây biết bùa phép và thường triệt"bà cố. " Chẳng hay anh bạn triệt kiểu nào?
Theo danh từ nhà nghề,"triệt" tức là kéo níu."Bà cố"bay phiêu diêu như chiếc xe mạnh bằng chục mã lực. Triệt"bà cố," chẳng khác nào kẻ vận dụng sức lực để níu lại một chiếc xe đang mở máy phóng tới. Thanh niên nọ vẫn mỉm cười đưa chân mặt ra phía trước rồi cong lưng, dùng tay trái mà nắm lấy một ngón chân:
- Ðại để... tôi làm như vậy. Bà cố thường vân du, như bánh xe xoay tròn, muôn màu muôn sắc. Lúc tôi bắt ấn, mình mẩy tôi rêm nhức, đầu óc nóng bừng bừng... Gần đây, còn một lão tổ sư khác thường tới lui thăm tôi, lão chê tôi làm trò chơi kiểu con nít.
Ðơn Hùng Tín bắt đầu e ngại. Trên dãy núi Tà Lơn này anh ta rõ ràng là bất tài, chưa xứng đáng làm để tử của chàng thanh niên, nói chi đến lão tổ sư. Chàng thanh niên hiểu rõ nhược điểm của người bạn đang ngồi trước mặt.
Ðơn Hùng Tín trố mắt như lao vào một thế giới vô hình. Từ đây tới điện Cán Dù, mỗi khi trời mưa lắc rắc, ngoài dấu chân heo rừng hoặc hươu nai, đôi khi thiên hạ gặp ngoài dấu chân nhỏ nhỏ của một người con gái. Nàng là ai? Càng khó hiểu hơn là những bước chân ấy được in trên cát xa cách nhau. Dấu chân mặt và dấu chân trái nàng giống hệt dấu của kẻ đi với đôi hài... bảy dặm.
Mưa bắt đầu rơi, Ðơn Hùng Tín rùn mình hỏi kỷ:
- Thật vậy không?
Chàng thanh niên đáp:
- Nhiều tay tổ sư lập đàn để"triệt" vong hồn kẻ khuất mặt nhưng nàng vẫn chưa chịu về. Anh bạn mà triệt được nàng, ắt nổi danh.
- Tôi chưa học tới thứ ấn đó... Ðơn Hùng Tín đáp.
Chàng thanh niên đắc ý, hiểu rằng người khách lạ có thân hình to lớn ấy đã lọt vào cạm bẫy tâm lý của mình. Chàng nói tiếp:
- Ở đàng kia, còn một ông lão tài ba lỗi lạc. Lão ta đang nắm giữ bộ sách"Thiên thư bí quyết." Anh bạn đọc qua bộ đó chưa?
Ðơn Hùng Tính đáp:
- Tôi nghe sơ qua cái tựa chớ chưa đọc.
Chàng thanh niên cố ý giữ thể diện dùm cho người khách lạ. Theo lời thuật của anh ta thì ông lão kia học được vài phép mầu nhiệm trong bộ"Thiên thư bí quyết." Lão nuôi một con khỉ, mỗi ngày cho khỉ uống một lá bùa. Uống đến lá bùa thứ bảy thì con khỉ nọ tự nhiên ngã lăn ra chết. Lão đem xác con khỉ bỏ trong cái hộp bằng cây trầm hương. Ðúng trăm ngày, lảo mở hộp ra, cho con khỉ uống lá bùa thúu tàm. Khỉ mở mắt, bắt đầu chạy nhảy lanh lẹ như xưa. Và mỗi ngày khỉ chạy đến chân núi, ăn cắp đúng hai đồng xư về nạp cho ông lão.
Ðộng lòng tham, Ðơn Hùng Tín nói:
- Mưa kế đó mầu nhiệm, nhưng mỗi ngày có hai xu, ít quá. Con khỉ tuy khôn lanh ngặt nó hành đồng theo thói tiểu nhơn, trộm cắp lén lút. Tôi đây muốn làm cách nào... lấy của giữa ban ngày.
- Nghĩa là... ăn cướp:
Ðơn Hùng Tín gật đầu:
- Nhưng ăn cướp đâu có nghĩ là làm chuyện bất lương thất đức. Mình ăn cướp đường đường, bắn súng cho chủ nhà cướp hay tin trước. Mình ăn cướp tiền bạc của Tây tà, đem phân phát cho kẻ bần hàn...
Luận điệu dối trá, giả nhân giả nghĩa ấy bỗng nhiên được chàng thanh niên tán đồng. Thật ra từ bốn năm trường nay, chàng thanh niên lên núi với hy vọng lập nghiệp. Hồi ở Châu Ðốc, chàng ta làm nghề dạy học rồi bị sa thải vì tội cờ bạc và hút thuốc phiện.
Lên ở ẩn trên núi, chàng ta không đủ can đảm để luyện phép, tu tiên nhưng vẫn nuôi mộng được làm quân sư cho một kẻ anh hùng. Hôm nay, gặp kẻ anh hùng"vai năm tấc rộng, thân mười thước cao" như kẻ đang viếng động, chàng mừng khấp khởi.
Năm sáu ngày ròng rã, Ðơn Hùng Tín ăn ngủ tại nhà chàng thanh niên. Chàng ta giới thiệu:
- Tôi là Giáo Phép,đại ca cứ gọi tôi bằng em.
Ðơn Hùng tín đáp:
- Gặp được chú Giáo, tôi mừng như cá gặp nước, như rồng gặp mây. Xem qua truyện Tống, truyện Ðường, tôi thích có một người... Ðó là Ðơn Hùng Tín, người tận trung với chúa. Mai chiều mình làm giàu, cùng nhau chia cơm xẻ áo.
Giáo Phép nói rỉ vào tai Ðơn Hùng Tín, mặc dầu chung quanh hang đá chẳng có người thứ ba nào rình nghe trộm:
- Mấy ông già tiên ở trên núi... nhứt định đâu thèm làm đệ tử cho anh em mình. Muốn lập đảng cướp, mình nên qui tụ bọn người đốn củi dưới chân núi.
Ðơn Hùng Tín cau mày:
- Làm sao thu phục họ được? Mình không biết"triệt" bà cố, ngồi đàn bắt buộc cô gái ma xuất hiên hoặc... nuôi khỉ?
- Dễ quá. Ðời vật chât văn minh. Tây cai trị nước mình được là vì Tây có súng. Mình nên dùng súng để trị súng!
Ðơn Hùng Tín lắc đầu:
- Làm soa lập đạo binh chống với Tây tà được? Thú thiệt với chú Giáo, tôi có mang lên đây một khẩu súng"mút cơ tông" với ba viên đạn mà thôi.
Giáo Phép mừng quýnh, nói rỉ vào tai Ðơn Hùng Tín ba điều bốn chuyện rồi xin phépđại ca xuống núi vài ngày để mua sắm vài thứbùa phép cần thiết, chờ khi phất cờ gióng trống, chiêu quân mãi mã. Nghe qua, Ðơn Hùng Tín cười dòn, vỗ đùi bôm bốp...
Giáo Phép từ Châu Ðốc trở về núi Tà Lơn.
Ðơn Hùng Tín mừng rỡ sau khi nghe giải thích vài chi tiết trong quyển sách khá dày, đóng bìa da:
- Thiệt vậy hả cháu Giáo? Ngày mai chú xuống chợ Cần Giọt truyền rao, ngày mốt tôi xưng vương, chánh thức ra mắt. Mười ngày sau nữa, tôi... làm giàu, công ơn chú, chẳng bao giờ tôi quên.
Giáo Phép đắc ý, lật qua lật lại mấy trang sách:
- Ðúng là bộThiên thư bí quyết viết bằng chữ Tây. Bên Tây họ thí nghiệm nhiều lần rồi, ở họi chợ phiên... thiên hạ kéo tới đông nghẹt, nhiều người ngất xỉu vì ngột hơi thở, vì quá sợ sệt. Huống chi ở xứ Tà Lơn khỉ ho cò gáy này.
Từ đó đến chiều. Ðơn Hùng Tín uống rượu khá nhiều. Anh ta đem khẩu súng ra chùi cho bóng láng và đếm tới đếm lui mấy viên đạn. Với chiếc kềm sắt, anh ta tháo đầu đạn, ráp vào rồi lại tháo ra. Hồi lâu, như chưa vừa ý, anh ta đốt đèn sáp để lấy chất khói đèn...
Giáo Phép xuống núi, truyền rao với các anh hùng tứ chiến:
- Sáng mai, mời anh em tới điện Cán Dù xem Ðơn Hùng Tín... thổi bùa.
Ai nấy tỏ vẻ lạnh lùng:
- Chán bùa phép quá rồi. Tụi tui muốn tìm thứ bùa phép nào... đem lại cơm gạo hoặc tiền bạc để nuôi vợ nuôi con. Chẳng lẽ tụi tôi lưu lạc tới xứ này để học bay nhảy trên gành đá, tranh tài với loài khỉ, loài vượn.
Giáo Phép đáp:
- Bùa phép của Ðơn Hùng Tín nhứt định đem cơm gạo vàng bạc cho tất cả các đệ tử.
- Làm bạc giả à? Liệu Ðơn Hùng Tín ăn thua với lính mã tà được không? Ðơn Hùng Tín là ai? Ở xứ núi non, tụi tui nghe nhiều cái danh hiệu nghe điếc con ráy, rốt cuộc gặp toàn nhữngđại ca thuộc vào hàng"khôn nhà dại chợ."
Ðể chứng tỏ mình là kẻ khiêm tốn. Giáo Phép ngồi xuống, nghe đám anh hùng tứ chiến thuật lại nhữgn trận"hô phong hoán võ " thất bại, lỡ cười lỡ khóc. Nào là Tiết Ðinh San... chạy bò càn khi đánh cướp, bị chủ nhà vây bắt. Chủ nhà nào có tài ba gì đâu cho cam? Ðám gia nhân chỉ hò hét, đốt pháo tre, liệng chai đựng đầy nước mắm. Miểng vẻ chai bể, dính nước mắm mà ghim vào da thịt thì phải biết! Nó gây thương tích nhức nhối vô kể.
Lại còn chuyện Tiết Nhơn Quí tự xưng biết"thăng thiên độn thổ" nhưng khi biểu diễn thì"thăng " lập tức! Một người trong đám cử toạ đưa ra"cây dao con chó," yêu cầu Tiết NhơnQuí nghim vào da thịt. Tiết Nhơn Quí ngáp rồi ụa mửa, đôi mắt ngơ ngác, hẹn sẽ lóc từng miếng thịt của mình cho cử toạ xem... vào dịp khác thuộc ngày lành hơn, tháng tốt hơn và giờ khác linh thiêng hơn.
Giáo Phép lắc đầu:
- Xưa nay, những người giả thì nhiều mà những người thiệt thì ít. Tôi là người có ăn học, anh em dư biết... Tôi chẳng bao giờ sùng bái ai, vậy mà tôi đành thọ giáo với Ðơn Hùng Tín. Ông này ghê gớm lắm...
Bọn anh hùng tứ chiến đáp:
- Ghê tới mức nào? Ông thuộc vào hạng người siêu phàm, súng bắn vào không nổ chứ gì?
- Ông giỏi hơn một bậc. Súng bắn nổ rầm rầm không chết!
- Súng gì?
- Súng"mút cờ tông" của Tây.
- Tại sao ổng không chết?
- Nhờ đọc bộ"Thiên thư bí quyết." Ổng luyện tập... mười mấy năm trường ròng rã. Sau khi súng nổ, ổng cười"hề hề." Ngày mai đúng vào giờ ngọ, tại điện Cán Dù... Bà con nhớ tới xem cho biết.
Nguồn tin Ðơn Hùng Tín sắp hạ san khiến bọn anh hùng tứ chiến xôn sao. Họ nói chuyền miệng, kéo tới điện Cán Dù. Ðã từng lưu lạc giang hồ, sống ngoài vòng pháp luật, họ dư hiểu: Nếu phò tá cho một kẻ súng bắng không chết dĩ nhiên họ sẽ làm giàu. Ðơn Hùng Tín sẽ kéo... toàn đảng, dạp khắp đó đây, từ thôn quê tới thị thành, tha hồ bao vây nhà mấy ông cai tổng, chận xe đò... hoặc bắt cóc, thủ tiêu vài ông Tây cho biết mặt.
°   °
°
Ðơn Hùng Tín mặc quần cụt ở trần, mình mẩy xăm toàn... rồng và chim phụng hoàng. Ngay giữa ngực anh ta, còn có hàng chữ Pháp, nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc phá khám Bách Ti 1789 ở mẫu quốc xa xôi...Tự Do - Bình Ðẳng - Bác Ái.
Anh ta đứng sẵn trên miệng hố:
- Nếu chết thì tôi bỏ xương dưới cái hố oan nghiệt này để đền tội nói láo với bà con. Tôi biết bà con chưa tin.
Rồi anh ta khoác tay:
- Chú Giáo! Ðem cây súng với viên đạn cho bà con coi trước. Xưa nay, bà con thuờng gặp nhiều vụ bắn súng giả, nào họ dũa"con cò" súng hoặc xài súng giả, đạn giả.
Giáo Phép trao cây súng"mút cơ tông" bóng láng cho từng người xem. Và điều này rất quan trọng. Chàng ta đưa ra một viên đạn bằng đồng. Ðầu đạn sáng choang nhọn lễu. Bọn anh hùng tứ chiến rất kiêng oai loại súng"mút cơ tông." Nghe đâu hồi giặc Âu Châu đại chiến 1914 - 1918, Pháp quốc thắng Ðức quốc nhờ loại súng thần tốc này. Và anh hùng Phan Xích Long đòi phá khám Sài Gòn cũng đã bó tay chịu phép khi nhà cầm quyền Pháp cho nổ chỉ thiên vài phát.
Giáo Phép xin lại cây súng rồi nói:
- Súng thứ thiệt, đạn thứ thiệt. Bà con còn thắc mắc gì không? Và đằng kia là Ðơn Hùng Tín đang ở trần.
Ðơn Hùng Tín quát to:
- Cứ bắn cho mau. Tôi đứng cách họng súng chừng năm thước. Bà con cứ xáp lại gần, cách tôi chừng một thước.
Giáo Phép nạp đạn vào lòng súng trong khi hàng chục cặp mắt đổ dồn về mấy chữTự Do - Bình Ðẳng - Bác Ái ... Lồng ngực của Ðơn Hùng Tín phồng lên, xẹp xuống...
Ðơn Hùng Tín nhép miệng như đang đọc thần chú...
- Ðùng!
Mùi khói thuốc bay nồng nặc.
Cử toạ rú lên?
Ðơn Hùng Tín vẫn đứng sững, sống nhăn. Và anh ta đang nhe răng cắn viên đạn đồng!
Ai nấy im lặng...
Ðơn Hùng Tín nhả ra, viên đạn đồng rớt xuống đá nghe tiếng"bốc" lăn tròn...
Giáo Phép chạy tới lượm viên đạn, trao cho cử toạ:
- Thấy chưa! Ðơn Hùng Tín... đớp viên đạn. Viên đạn còn nguyên không móp!
Trong đám cử toạ, có kẻ... như đang hồ nghi điều gì. Kẻ ấy cầm viên đạn, đưa qua đưa lại để quan sát.
Nhanh như chớp, Giáo Phép nạp viên đạn thứ nhì, nhắm ngay đầy kẻ ấy mà bắn:
- Chát!
Máu tuôn ra từng giọt trên vách đá. Kẻ ngạo mạn ấy nghiêng đầu, từ từ ngã gục. Giáo Phép chỉ tay vào mặt hắn:
- Tao bắn... cái vong hồn của mầy cho mầy thấy! Kìa! Trên vách... mấy giọt máu tươi của mầy. Mầy chưa chết đâu! Day mặt mà xem...
°   °
°
Từ đây oai danh của Ðơn Hùng Tín nổi như cồn. Bọn đệ tử vững bụng rằng"đại ca" của mình thuộc vào hàng"súng bắn không chết." Ðơn Hùng Tín trở thành vị hung thần của đất Nam Kỳ thuộc địa, gây nhiều sự bận rộn cho nhà cầm quyền Pháp.
Là kẻ sanh sau đẻ muộn, người viết bài nầy chỉ nghe thuật giai thoại kể trên. Bộ"Thiên thứ bí quyết" là loại sách gì? Tại sao anh ta cắn được viên đạn vào miệng?
Lão quân sư Giáp Phép bây giờ ở đâu để giải đáp?
Tình cờ, chúng tôi đọc được quyển sách ảo thuật của Yvon Yva, một người Pháp. Sách ấy giải đáp toàn vẹn kỹ thuật súng bắn không chết của các tay gian đạo sĩ Âu Châu đang áp dụng.
Ðại khái, họ nạp vào nòng súng một viên đạn có cái đầu"ban" giả, đúc bằng sáp. Ðầu đạn sáp ấy nhuộm khói đèn nên giống màu đồng đen. Súng nổ, đầu dạn sáp chảy ra. Và Ðơn Hùng Tín đã ngậm sẵn trong miệng một đầu đạn thứ thiệt, trưng ra sau khi súng nổ. Phát súng thứ nhì... đổ máu. Ðó cũng là viên đạn có đầu"ban" bằng sáp, trong lòng đầu"ban" chứa son tàu, giống hệt máu.
Có điều chắc chắn là Ðơn Hùng Tín và quân sư Giáo Phép chẳng bao giờ đọc sách của Yvon Yva, sách này mới xuất bản từ vài ba năm nay. Có thể là Giáo Phép đọc một quyển sách khác rồi nghiệm thêm, đem ra thực hành với sự góp ý của Ðơn Hùng Tín.
Quả thật những người sống"nhàn cư" ở núi Tà Lơn là những kẻ lợi hại, thông minh hơn... người Pháp.
Ông Bang Cà Ròn
Mặt trời vừa ló dạng là ông Bang Lình bừng mắt. con đường từ chợ Rạch Giá đến xóm Sóc Xoài quá gồ ghề, chiếc xe lôi nhảy lưng tưng từng chập, ấy thế mà ông Bang ngủ ngon lành. Anh đạp xe thỉnh thoảng day lại cười thầm:
- Người ta nói cũng phải, người Tàu ngủ ngồi giỏi lắm, vì từ thuở lọt lòng, họ đã ngủ ngồi trong cái đai sau lưng mẹ.
Mặt trời lên khỏi chưn trời quá nhanh. Ông Bang bo sù sụ vài tiếng rồi hỏi:
- Tới chợ chưa?
Anh đạp xe lôi nói:
- Dạ! thấy dạng cây sao ở chùa Miên đằng kia rồi. Chừng mười phút nữa... Ông Bang lạnh không?
- Ráng đạp đi, tôi thưởng chú thêm vài cắc. Lạnh chớ, trời mưa dọc đường. Chú mệt không?
Anh đạp xe lôi cứ khóm lưng, nói không day lại:
- Mệt thì ít mà sợ thì nhiêù. Sợ dọc đường bị tụi nó chận xe, tiền bạc mất mát, ông Bang buồn thì tôi đâu có vui.
Chiếc xe lôi cứ tiến tới một mình. Con đường lộ Rạch Giá - Hà Tiên chạy dài sát bờ kinh xáng, bên kia đường là rừng tràm lưa thưa và đồng cỏ hoang vắng. Xa xa mới có một xóm nhà, đa số là người Miên. Ðất thấp, nhiều phèn. Nhiều người cày ruộng thử, nhưng họ thất vọng vì lúa bị háp, bỏ nắm lúa vô thau nước thì mười hột, nổi lêu bêu có tới bảy. Nhiều khi tới mùa chẳng ai thèm gặt cho tốn công, chuột từ đâu kéo tới cắn luột sáp, lúa ngã xuống như gặp giông bão. Con lộ này hồi quan toàn quyền tới ăn lễ khánh thành thì khá bằng phẳng, như qua trận lụt năm ngoái, nước tràn ngập, cuốn phăng mớ đá trải đường ra tận ngoài biển vịnh Xiêm La, uổng công mấy anh lục lộ cán tới, cán lui suốt mấy tháng trường.
Chợ Sóc Xoài khá phần thịnh, như hòn đảo xanh tươi nổi lên giữa biển cỏ vàng úa. Xe dừng lại trước nhà ông Bang trong khi tiệm cà phê bên cạnh sửa soạn mở cửa. Ông nhảy xuống gọn gàng.
- Tôi bao cuốc xe này năm cắc, thêm cho anh một cắc, là sáu.
Sáu cắc là số tiền to tát. Năm đó, năm 1937, mỗi giạ lúa bán tại chọ là hai cắc rưỡi. Ông Bang gõ cửa. Bà Bang dáng người mập mạp như chồng , mở cửa rồi vặn đèn lên cho cao:
- Sao ông về sớm vậy! Chờ sáng, đi xe đò ít tốn tiền hơn. Ông bao trọn chiếc xe lôi? Tốn bao nhiêu vậy?
- Sáu cắc!
Bà Bang hơi sốt ruột:
- Ông xài lớn quá, bốn cắc là vừa!
Ông Bang không trả lời. Trong khi bà nấu nước pha trà, ông đến cái bàn viết, ngồi xuống, lật sổ ra, lắc bàn toán nghe lắc cắc. Ðôi mắt ông sáng rực lên. Mấy người bạn hàng gánh gồng nào gương sen, bông súng, cá lóc đi ngang qua cửa. Ông Bang hớp chén trà rồi gọi khẽ:
- Bà lại đây, có chuyện vui, đừng cho ai biết.
Bà Bang đến sát bên chồng, nghiêng tai. Ông nói:
- Cà ròn bán có giá. Họ chịu mua tám xu một cái, ngày mốt, mình chở ra Rạch Giá bốn ngàn cái, còn sáu ngàn cái, bảy tám ngày nữa mình chở luôn, cho kịp chuyến tàu đi Bạc Liêu.
Còn gì mừng rỡ cho bằng! Bấy lâu nay, bà Bang giúp chồng một tay đắc lực. Công việc duy nhất của bà là mua cà ròn, do người Miên trong sóc đang thật kỹ và thật khéo, với giá bốn xu một cái. Khi túng thiếu, họ đến gặp bà, nài nỉ mượn tiền trước với giá rẻ mạt là hai đồng bạc một trăm cái, tức là mỗi cái hai xu! Vốn hai xu, bán lại tám xu. Như vậy mà ông Bang làm giàu thật mau và gây được cảm tình với tất cả dân chúng trong sóc Miên. Mỗi gia đình trong soc đều thiếu nợ của ông bà, người nào ít thì năm đồng, gia đình nào đông con thì bà dám ứng lực, con nít trên mười tuổi có thể tiếp tay đươn cái mình cà ròn. Khó nhứt là bẻ miệng và bẻ đít cho cà ròn đừng sút mối, công việc này là của người lớn. Cà ròn đươn bằng cọng bàn, nhẹ và mềm như cọng lác.
Xóm Sóc Xoài cung cấp phần lớn cà ròn cho miền Hậu Giang: dạo ấy bao bố phải nhập cảng từ Ấn Ðộ, cà ròn là cái bao rẻ tiền nhất để đựng lúa gạo, đậu xanh, đường cát.
Bà Bang hỏi kỹ:
- Trong nhà kho, còn tồnt rữ hơn sáu ngàn cái cà ròn, như vậy là dư chuyến đầu tiên, mình chở ra giao đúng hạn rồi hãy lo bốn ngàn cái kia.
Ông Bang lật sổ, coi lần chót:
- Tôi lắc bàn toán nãy giờ, trong kho có tới tám ngàn năm trăm bảy chục cái. Bà nấu cháo trắng, nấu một nồi lớn cho tôi ăn với lạp xưởng. Cháo nóng ăn khoẻ, dễ tiêu hơn hủ tíu, tôi đi nhà kho, nhắc nhở ông già Lanh.
Nhà kho cất bằng cột tràm, lợp lá, nền cao ráo, dài đến bốn căn. Ông già Lanh là người Miên lai, tuổi hơn sáu mươi, lãnh trách nhiệm giữ kho, ăn ngủ tại chỗ. Khi ông Bang đến thì ông già Lanh ngồi ung dung hút htuốc, bên cạnh sáu, bảy cái rập chuột. Chuột bị đề giập xác, ông Lanh giả vờ như sốt sắng với công việc do ông Bang giao phó nên quên chào.
- Chuột hả! Nhiều không?
Ông già Lanh ngẩng đầu lên:
- Ông Bang ơi, mỗi đêm tôi thăm rập chuột ba lần, mỗi lần bảy con. Phải chi ông mua thêm vài chục cái rập nữa cho đủ dùng, một cái rập, một đêm tôi cũng thức hai ba lần, mười cái rập cũng đâu tốn công thêm.
Nhưng ông Bang Lình méo mặt, chạy nhanh vô nhà kho. Cà ròn bó kỹ lưỡng, mỗi bó mười hai cái, nằm ngay ngắng từ nền lên cao tận mái nhà. Năm bảy con chuột chạy sột soạt, mùi ẩm ướt xông lên khiến ông Bang nhảy mũi lia lịa. Ông kêu lên:
- Hư hết rồi! Chuột là ổ trong đống cà ròn. Một con chuột cắn một đêm hư cả trăm cái. Một trăm con cắn bốn đêm thì còn gì? Chuột nhiều sao ông không cho tôi biết. Trời đất ơi!
Ông Bang quăng từng bó cà ròn ra sân. Chuột cứ chạy vì động ổ. Năm ba con chuột đỏ hói nằm ngo ngoe, chó hoang đằng xóm chạy tới, sủa ỏm tỏi. Trẻ con xúm lại, rồi đi dang xa. Càng lục lạo, ông Bang càng tối tăm mặt mày vì cà ròn bị chuột khoét có đến hàng ngàn cái, hễ bị lủng thì coi như bỏ luôn. Quá tức giận, ông chạy tới trước mặt ông già Lanh:
- Mướn ông giữ kho mà ông cứ ngủ, uổng tiền quá. Năm nay tôi tàn mạt, tại ông.
Rồi ông Bang bước nhanh về nhà. Ông Lanh ôm từng bó cà ròn đem ra sân, lành để một bên, rách một bên. Thỉnh thoảng, ông vấn điếu thuốc, nghỉ tay. Một người đi qua nói giọng khôi hài:
- Như con trâu rụng cái lông đuôi, thấm tháp gì! Ông Bang Lình hồi mới tới nghèo khó, làm giàu nhờ cà ròn. Lâư lâu trời hại ổng một năm. Bà Bang tới kìa!
Ông già Lanh lẩm bẩm:
- Bả tới thì cũng vậy thôi. Tôi ở mướn, giá rẻ mạt. Bọn trai tráng thì trốn thuế thân, đứa nào dám ngủ tại nhà kho này. Cái phận sự của tôi như vậy thì tôi làm như vậy. Tây cònt rừ không nổi chuột bọ, huống gì thằng già này. Hiền như Phật, như ông Ðịa vậy mà chuột còn phá rối bàn thờ.
Bà Bang tới, dùng thủ đoạn thường lệ là sự ăn nói ngọt ngào với kẻ ăn người ở. Biết rằng lỗi không hoàn toàn ở ông già Lanh, bà an ủi khéo léo:
- Ông lựa giùm cho kỹ, chuyện qua rồi. Ðể tôi đi vô sóc thúc hối mấy người còn thiếu tiền cho họ đươn cà ròn thật mau, trễ ngày thì cà ròn xuống giá. Ông hơi tệ, tại sao chuột cắn năm, mười ngày rày mà không hay biết? Từ rày về sau, tôi mướn thêm một người coi chừng đuổi chuột.
Từ trên nóc nhà kho, con mèo nhảy xuống kêu ngao ngao. Như sực nhớ điều gì, bà cằn nhằn:
- Nuôi mèo thiệt vô ích. Tại sao nó không bắt chuột. Hôm trước có tới sáu bảy con?
Ông Lanh cố ý nói đùa:
- Chuột đông quá, chuột rượt mèo để ăn thịt. Chuột cắn tôi bấy mình, bà coi mấy đầu ngón chân của tôi đây nè! Người ta nói hễ chuột rúc trong nhà là tiền bạc vô đầy đủ. Chuột rúc là chuột túc, mà túc là lúa, phải không bà Bang? Tại sao xứ này nhiều chuột mà không có lúa?

Hơi sức đâu mà nghe ông già khùng đó. Cãi vã thêm mất lòng, tốt hơn hết là mình vô xóm để thúc hối mấy người còn thiếu nợ để họ đươn cà ròn suốt ngày đêm cho kịp. Thời giờ gấp rút lắm. Bà Bang an ủi chồng như vậy.
Tuy không ghi sẵn trên giấy trắng, bà Bang Lình nhớ rõ danh tánh đầy đủ của con nợ. Ðầu tiên là vợ chồng Sa Ðơn, ở gần miếu ông Tà. Bà đứng dưới chân thang, trông lên sàn nhà:
- Ai ở nhà không?
Chị Sa Ðơn nghiêng mình trả lời:
- Bà Bang đi chơi! Chồng tôi uống rượu với anh em rồi!
- Làm cái gì đó?
- Chí cắn ngứa đầu, con tôi bắt chí cho tôi. Ở không buồn quá không biết làm cái gì.
Gia đình Sa Ðơn thiếu của bà Bang tám đồng bạc, tức là bốn trăm cái cà ròn, thế mà cô vợ lại nằm ngáp dài, anh chồng cứ uống rượu. Bà cằn nhằn:
- Sao không đươn cà ròn? Chị làm giùm cho gấp. Chị giúp tôi thì mùa tới tôi mới giúp chị được. Như vầy thì hiếp tôi quá.
Chị Sa Ðơn trố mắt:
- Trời ơi! Ðươn cái gì bây giờ?
- Ðươn cà ròn! Chị quên nợ của tôi sao chớ?
- Không phải! Mời bà Bang lên nhà, tôi nói cho bà nghe. Bàng không một cọng, cắt cỏ ngoài đồng đem về nhà để đươn cà ròn sao chóo. Người ta nhổ bàng chưa về . Lâu lâu mới đem về một lần. Tiền mượn của bà, tôi chia với người nhổ bàng.
- Nhưng chừng nào về?
Chị Sa Ðơn chỉ về phía đầu xóm:
- Nhà Tứ Én, một mình ở gần cây mù u đó. Hễ Tư Én đem bàng về là xóm này xúm nhau đươn cà ròn trả nợ cho bà.
Câu trả lời ấy gẫm lại hữu lý. Sau khi ghé qua thăm vài con nợ, bà Bang nhảy qua cái mương nhỏ để đến gốc cây mù u. Hai đứa bé trần truồng đang bốc cơm nguội ăn ngon lành, đứa khác lớn hơn thì lo nắn con trâu nhỏ bằng đất sét. Nó đẩy con trâu tới, miệng nhái tiếng nghé ngọ... Ðể tin rằng nó nói sự thật, bà Bang ngồi xuống cho nó hai xu. Mầy là con của Tư Én hả?
Lần này thằng bé nâng con trâu gọn trong lòng bàn tay, chạy lên sàn nhà như sợ sệt. Hai đứa kia ngậm búng cơm, quên nhai.
Sau bữa cơm trưa, ông Bang nói với ông già Lanh:
- Chuột cắn cà ròn, đó là chuyện rủi, tôi hơi nóng nảy, ông đừng buồn. Dân trong sóc nói rằng Tư Én nhổ bàng chua về. Ông chịu khó bơi xuồng, đừa tôi kiếm nó. Hễ nó đem bàng về thì mọi việc đều xong xuôi. Mình đi liền, chiều nay, đi tới Ðường Bàng.
Thật là chuyến đi du lịch bất ngờ. Từ Sóc Xoài tới Ðường Bàng, đường hơi gần nhưng ngặt một nỗi là muỗi mòng, đỉa vắt. Ðáng lý thì ông già Lanh từ chối, viện lý do già yếu để xin thêm chút tiền công lao chèo chống. Ông là người giữ kho, được quyền ở nhà. Nhưng hôm nay là dịp để trả thù ông Bang Lình.
- Ði thì đi. Mình đem theo dầm chèo, sào dài để chống cho mau tới Ðường Bàng. Ông Bang tới đó lần nào chưa?
Ông Bang Lình nói như thành thạo lắm:
- Biết chớ! Năm kia, tôi đi Vàm Răng, thấy họ nhổ bàng ở Ðường Bàng, phải không?
Trả lời lúc chưa đến nơi là quá sớm và nhất là mất thú vị. Bởi vậy, ông già Lanh cứ im ỉm. Trước tiên, ông gay chèo. Nhờ nước xuôi, chiếc xuồng trôi nhanh. Lát sau, ông Bang Lình ngủ ngồi, ngáy khò khè. Ðể hưởng trọn vẹn lạc thú của chuyến du lịch, ông già Lanh ngồi xuống, bỏ cây chèo xuôi theo lái xuồng rồi đẩy ra đẩy vào để giữ phương hướng. Mặt trời xế dần. Gió thổi mạnh qua vùng đất phèn, đầy năn và lác, một thứ âm thanh huyền bí từ lòng đất trồi lên, lác và năn giống như những sợi tóc dây cước vàng lườm, run rẩy không nên lời. Núi Ba Thê hiện ra ở chân trời, xéo về hướng bắc, dẫy Thất Sơn chạy dài qua khỏi biên giới Cao Miên, chót núi tiếp với vầng mây bạc đang chuyển sang màu cam. Vài chiếc xe lôi di chuyển trên lộ xe. Từ phía Vàm Răng chiếc ghe củi nhô lên sừng sững, trên chót cột buồm. Nước ngược và gió ngược, sức người chỉ có hiệu quả là giữ cho chiếc ghe nặng nề kia khỏi trôi ngược.
Ông Bang Lình vụt thức dậy:
- Tới đâu rồi?
Ông già Lanh đáp:
- Dạ, khỏi Vàm Răng.
- Sao không ghé lại Ðường Bàng?
Bấy giờ ông già Lanh mới chịu giải thích:
- Ðường Bàng là con nước nay đổi mai dời. Ba năm trước, ở Vàm Răng nhiều bàng nhưng năm nay thì hết. Dân nhổ bàng phải lên trên này, lập một cái đường khác. Chỗ đèn đuốc sáng trưng đằng kia kìa!
Bóng tối đổ quá mau. Giữa khoảng đồng không mông quạnh, xóm nhà hiện ra, như hội chợ nho nhỏ với hàng chục ánh đèn. Toàn là quán rượu, quán hủ tíu. Khi bước lên bờ, ông Bang Lình nhận ra người quen. Ðó là Xìn Phóc, chủ quán. Xìn Phóc hỏi:
- Ông Bang ăn cơm chưa? Tới đây làm gì cho cực khổ?
Bếp un muỗi không đuổi được bầy muỗi bay ào ào. Vừa đập muổi, ông Bang Lình vừa trả lời:
- Xìn Phóc biết Tư Én ở đâu không? Nó lên đây nhổ bàng, lâu quá chưa thấy về.
Xìn Phóc nheo mắt, đưa tay ngoắc như làm dấu hiệu cho ông Bang Lình lại gần để nói chuyện riêng:
- Nó đánh bài cào ở sau hè nhà tôi. Sòng bài lớn lắm.
Bang Lình cau mày. Khi vừa quay mặt thì gặp Tư Én từ ngoài cửa bước vào. Anh ta ở trần, cười dòn:
- Ông Bang kiếm tôi? Hổm rày tôi nhổ bàng nhiều lắm, nhưng chưa đủ. Ðánh bài thua mấy đồng, tôi ngồi hút thuốc, tình cờ thấy ông.
Ông Bang Lình lại gần Tư Én:
- Cỡ này ở Sóc Xoài thiếu bàng đươn cà ròn. Chú đem bàng về cho mau.
Tư Én hơi giận vì nhổ bàng đâu phải là chuyện dễ dàng, nhanh chóng. Chú muốn tặng cho ông Bang Lình, nổi danh là ông Bang cà ròn này, một bài học đích đáng. Ch1u đã chuẫn bị xuống xuồng đi nhổ bàng từ lúc nãy, nay gặp dịp, tại sao không mời ông Bang đi luôn một chuyến cho biết mùi đắng cay?
Ông già Lanh ở lại, ông Bang Lình ngồi trong chiếc xuồng độc mộc, Tư Én cầm cây sào dài, đứng chống sau lái. Chú ra lịnh;
- Ông Bang ngồi nắm hai bên ghe cho vững. Tôi chống mạnh lắm.
Chiếc xuồng độc mộc rời khỏi bờ kinh xáng, tiến sâu vào đồng cỏ âm u. Xuồng lướt re re trên cỏ, hồi lâu, ông Bang hỏi:
- Chống xuồng đi đâu?
- Năm ngoài, nhổ bàng tại chổ nãy, năm nay, bàng mọc không kịp, nhổ ở trên kia, giữa đồng hoang, chừng vài cây số nữa là tới.
- Xuồng lướt tới, mất hút trong bóng tối. Ông Bang Lình giựt mình ngoảnh lại, chỉ còn thấy vài đốm sáng chập chờn, lu dần, phía quán hủ tíu. Lát sau, Tư Én la lên:
- Tới rồi!
Xuồng tiến vào khu vực đầy bàng bàng mọc dày đặc, cao khỏi đầu Tư Én, ông Bang cứ nhắm mắt, ngỡ mình chun vào cái bụng vô tận, đen ngòm. Bàng ngã rạp xuống, xuồng lấn tới. Ông Bang la hoảng:
- Bàng ở đâu!
Tư Én thích chí:
- Ở đây chớ ở đâu! Tôi nhổ rồi, hơn bảy chục bó, đúng trăm rưỡi bó tôi về Sóc Xoài.
Mặt nước phản chiếu vài ánh sao thưa. Mấy bó bàng nằm dầm trên đất bùn, như cây to cưa ra từng khúc đều đặn. Ông Bang Lình khen ngợi:
- Ráng nhổ thêm rồi ngày mai về Sóc Xoài.
- Thì tôi nhổ đây!
Lập tức Tư Én nhảy xuống nước. Nước sâu ngang gối, chú lội bì bõm đến cụm bàng dày kịch trước mặt. Ðột nhiên ông Bang Lình kêu rú:
- Muỗi cắn! Trời ơi, muỗi ở đâu nhiều vậy! Sao hồi nãy không có muỗi?
- Bàng nhiều thì muỗi nhiều. Hồi nãy, xuồng chống lẹ, muỗi bụ theo không kịp.
Thấy Tư Én cứ đi tới, ông Bang sợ sệt:
- Trở lại, đưa tôi về! Ðưa tôi về!
- Dạ, tôi nhổ sáng đêm nay rồi luôn cả ngày mai mới đủ một trăm năm chục bó. Ngày mốt tôi mới về được, còn buộc mấy bó bàng cho nó nối đuôi sau lái chiếc xuồng, ra ngoài kinh xáng, bàng nổi lên mặt nước, xuồng sẽ kéo theo dễ dàng.
- Muỗi cắn quá! Ải ô! Mọi lần tôi ngủ dễ lắm, ngồi như vầy, đêm nay tôi ngủ không được. Ðưa tôi về. Tư Én ơi! Tôi mệt vì mấy con chuột. Chú mệt vì mấy con muỗi. Nhổ bấy nhiêu đó đủ rồi, về gấp tôi trừ nợ cho. Chuột với muỗi làm hại xứ này, phải không?
Tư Én lên sau lái xuồng, cứ im lặng. Vì con người xứ này đã quen chịu khổ nhọc? Hay có lẽ vì lý do khác. Chú ngồi xuống, vấn điếu thuốc mời ông Bang. Ông Bang không hút. Chú hút một mình.
Một kiểu anh hùng
Cái câu"được kiện như sọ trâu khô, thất kiện như mồ cha chết" dường như không đúng với trường hợp tranh chấp giữa hai ông điền chủ ở làng Vĩnh Hoà thời Pháp thuộc. Về tên tuổi của hai ông, kẻ viết bài nầy xin tạm dấu. Ðể dễ bề theo dõi, chúng tôi gọi ông thứ nhất là hội đồng Hai, ông thứ nhì là cai tổng Ba.
Về điền sản, hai ông đều làm chủ những khoảnh đất cò bay thẳng cáh, rộng tới đôi ba ngàn mẫu tây. Con cái của hai ông đều ăn học thành tài, nếp sống theo hình thức nửa tây nửa ta,"trên ô tô dưới thời ca nô." Ðiều đáng nói là hai ông này khách nhau ở vóc dáng: hội đồng Hai quá ốm yếu nhu người nghiền thuốc phiện, cai tổng Ba thì khoẻ mạnh, giỏi võ.
Từ lâu, hai ông tranh chấp một miếng nhỏ, ở bên ranh. Vụ kiện cáo dài bảy - tám năm, mỗi ôn gđều mướn thầy kiện riêng. Mãi đến tháng rồi toà tuyên bố hội đồng Hai bị thất kiện, bồi thường sở tổn cho cai tổng Ba, kèm theo mười quan danh dự.
Bà hội đồng Hai thường cằn nhằn với chồng:
- Tại sao không chống án lên toà trên. Cai tổng Ba rêu rao rằng nó sắp vật heo ăn mừng, kêu gánh hát bội về làng, hát thí cho đám tá điền coi chơi.
Dòng máu oanh liệt của ông hội đồng Hai bừng sống lên:
- Vậy hả? làm thịt heo ăn mừng! Ừ! Việc đó tôi bỏ qua. Nhưng còn việc kêu gánh hát về làng, rõ ràng là điều sỉ nhục. Chừng nào gánh hát tới?
- Mười lăm ngày nữa. Phải rồi, bữa hăm mốt tháng Chạp.
- Bà đừng lo. bữa đó, vợ nó làm đám ma cho nó. Bọn đờn cò, bọn đánh trống cơm... hoà bản Nam ai, Xuân nữ. Con cái nó bận đồ tang... trắng nhà.
Nghe qua, bà hội đồng áy náy. Hiểu đưọoc nỗi lo âu của vợ, ông hội đồng nói rù rì bên tai rồi kết luận:
- Chẳng bao giờ ở tù. Bà khéo lo thời thôi! Tôi bắt đầu giết nó, kể từ hôm nay. Bà nhắn tin cho thằng Hùng, thằng Cứ lo tập dượt, chờ ngày dụng võ. Tôi đang chờ tin tức.
Lập tức, ông hội đồng ra sân, ngắm nghía mấy chậu kiểng. Con nhền nhện hùm buông mình lơ lửng từ ngọn cây tùng, chưa rơi xuống sát đất. Nó cố gắng cựa quậy, rút trở lên. Ông nói lẩm bẩm:
- Vì sợi tơ mà nó té, vì sợi tơ mà nó trở lên ngọn cây, như cũ.
Ông cười thíchthú, tự hào rằng mình đã tìm ra một cách ngôn mới, không kém cách ngôn thánh hiền. Cánh cửa sắt từ từ mở. Một bóng người bước vào:
- Thưa ông!
Ông giựt mình:
- À! Công việc ra sao? Tiến! Mầy nói đầu đuôi cho tao nghe. Hả? Day mặt lại coi. Nó đánh mầy bầm mặt hả?
Lát sau, chủ và tớ ngồi trên chiếc băng bằng cẩm thạch. Thằng Tiến - đứa ở của ông hội đồng - từ từ cất giọng:
- Thưa ông, tôi đi ngang qua nhà cai tổng Ba, theo lời ông dạy. Tôi đi qua rồi tôi trở lại. Cai tổng Ba kêu tôi vô nhà, hạch hỏi, cho tôi là đứa dọ thám. Lẽ dĩ nhiên, tôi cãi lại.
- Rồi sao nữa?
- Cai tổng Ba vu oan, cho tôi muốn rình nhà để vô ăn trộm. Ổng đòi đánh tôi. Tôi cự nự. Rốt cuộc, tôi chịu thua, mặc tình cho bọn lâu la của ổng sỉ vả, đấm đá. Ổng thách đố: "Giỏi thì vô đây!" Rồi thì ổng hỏi tôi ở đâu tới, đi rình nhà theo lịnh của ai. Tôi trả lời: "Theo lịnh của ông hội đồng Hai."
Nói xong, thằng Tiến ôm mặt khóc, không phải vì đau đớn nhưng vì quá xấu hổ. Qua tiếng nấc của nó, ông hội đồng đoán chừng: nó sẵn sàng đổ máu để rửa hận. Ông nói:
- Vô nhà nghỉ cho khoẻ, đây, mười đồng bạc.
Thằng Tiến hỏi:
- Chừng nào ông ra tay?
- Chưa thuận tiện. Mình mới dàn trận sơ sơ vậy thôi. Tao làm bài toán thứ nhì, trong nay mai. Giết thì phải giết cho chết. Ðừng lo. Thể diện của tao lớn hơn thể diện của mầy mà.
Cai tổng Ba thích chí sau khi ban trận đòn nên thân cho thằng Tiến. Ông sai mua rượu về, gọi bọn gia nhân đến để khao thưởng:
- Thằng cha hội đồng Hai thua em, gỡ bài cào. Nó thất kiện nên tìm cách trả thù, mướn ăn trộm cạy tủ sắt của tao. Thằng cha đó đê hèn quá.
Một đứa gia nhân nói;
- Thưa ông cả, tôi sợ nó mướn ăn cướp tới đánh nhà này, giết hoặc bắt sống gia chủ, cho chuộc lại với số tiền lớn.
- Võ nghệ như tao đây, một trăm đứa cướp tao cũng không sợ. Tao có sắm một cây súng, tụi bây dư biết. Lúc nguy nan, tụi bây sẵn sàng sống chết với tao không? Nhà này phòng thủ đầy đủ. Uống cạn chén đi. Rồi lên lầu xem xét lại. Tụi bây nói có lý. Thằng cha hội đồng Hai muốn bắt sống tao.
Lũ gia nhân theo ông cai tổng Ba, lên tầng lầu trên. Nóc xây bằng xi măng cốt sắt, bằng phẳng, bốn phía có vách hơi cao nhô lên, khoét từng lỗ nhỏ.
Một đứa gia nhân hỏi:
- Ông khoét vách để bắn xuống cho dễ, phải không?
Ông cai tổng Ba cười, giọng bí mật:
- Coi kìa!
Vừa nói, ông vừa chỉ tay về phía bên phải. Hàng trăm cái ve chai dựng đứng đậy nút thật kỹ lưỡng, phía trên có miếng bao bố tời đậy lại. Theo lời yêu cầu của một đứa gia nhân, ông xách một cái chai đặt trước mặt mở nút ra...
Ngoài cổng có tiếng nói vang:
- Cai tổng... bờ a ba? Ba con cá, ba con cua, ba con...
Cai tổng Ba quát to:
- Ðứa nào chịu khó xuống dưới, ra ngoài bắt sống nó đem lên đây trị tội.
Ðứa gia nhân chạy xuống. Cai tổng Ba cau mày, nuốt nước miếng ừng ực. Tất cả bọn tá điền, bấy nay đều phải"kỵ úy," tránh tiếng"ba" là tên của ông, khi đếm số, khi đong lúa họ nói"tam" thay vì ba.
Lát sua, đứa gia nhân dẫn một chàng thanh niên lên tận nóc lầu. Ông Cai nói:
- Mầy ở đâu? Mầy chửi tao hả? Mầy coi tao như loài thú vật, như đồ dơ dáy hả?
Sau trận đòn nhừ tử, chàng thanh niên khai thật: hắn là tá điền của ông hội đồng Hai, lãnh trách nhiệm dọ thám để hiểu rõ tổng số gia nhân của nhà này ước chừng bao nhiêu người.
- Chi vậy?
Hắn trả lời:
- Dạ, để đánh cướp.
Một đứa gia nhân nói:
- Nguy quá. Tôi trót lỡ lầm, dắt nó lên trên này.
Ông cai vẫn bình tĩnh, nói với chàng thanh niên:
- Nè, đống ve chai. Nè! Cái chai này mầy hửi thử rồi về cho chủ mầy biết mùi vị.
Chàng nọ hinh hỉnh lỗ mũi, nghiêng đầu về phía sau:
- Thúi quá! Giống như nước mắm hạng bét.
- Tao để dành, chờ bọn cướp. Một trăm cái ve chai đầy nước mắm này sẽ quăng xuống, trúng ai thì nấy chịu. Miểng chai nát ngướu, dính nước mắm. Nó cắt da thịt thì... voi cọp cũng té quị xuống. Chừng đó sân nhà đầy miểng ve chai, mầy hiểu chưa?
Chàng nọ thở dài, quỳ xuống lạy, xin tha tội. Bấy giờ ông cai mới sực nhớ:
- Ai dạy mầy câu nói hồi nãy?
- Dạ, ông hội đồng.
- Ổng có tới đây chịu đòn thay thế cho mầy không? Tướng mạo của ổng như con nhái, tao bóp một cái là dẹp lép.
Và để chứng minh tài năng của mình, cai tổng Ba đến gần nơi tận cùng nóc lầu, dụm chân, nhảy phóc xuống đất. Bọn gia nhân chắt lưỡi:
- Tài nghệ siêu quần! Một trăm đứa võ sĩ vô đây cũng chết.
Từ phía dưới, ông cai gọi vọng lên:
- Dẫn nó xuống đây!
Chàng thanh niên xám mặt, chưa hiểu ông cai sẽ hăm doạ hoặc trừng trị bằng phương cách nào. Ông cai nắm lấy tay chàng ta, dẫn đến mé sông. Gió thổi hiu hiu. Mấy cây dừa trồng dài theo ven đường như xoã tóc rối. Ông cai đến cái nhà mát, cất gie ra trên sông. Ðó là kiểu nhà thủy tạ, hình tròn, chung quanh có đóng băng ngồi.
Ông nói:
- Mầy chờ tao. Ðáng lý ra, tao bắt mầy nhốt lại rồi cắt lỗ tai mầy, gởi cho hội đồng Hai... làm kỷ niệm. Nhưng thôi, tao là người văn minh. Ðừng hòng mướn bọn trộm cướp tới đây. Uổng tiền lắm. Tao đâu sợ.
Chàng thanh niên cúi mặt, hổ thẹn như con chuột lặn hụp trong vũng bùn:
- Xin ông cho tôi về. Tôi hứa nói lại với ông hội đồng.
- À! Ông kêu tụi ăn cướp tới chưa?
Chàng thanh niên sực nhớ lời căn dặn của ông hội đồng Hai, nói nhanh:
- Dạ tới rồi. Chắc đêm nay hoặc đêm mai, tụi nó ra tay. Ông hội đồng muốn trả thù theo kiểu ném đá dấu tay. Ổng giúp tụi bất lương về mặt dọ thám. Tụi kia tha hồ vơ vét, bắt sống gia chủ, đốt nhà...
- Vậy hả?
Cai tổng Ba hơi sợ, ông dư hiểu rằng tên thanh niên này sẽ thuật lại cho hội đồgn Hai tất cả những điều tai nghe mắt thấy tại đây. Một cây dừa trồng sát mé sông khiến ông nảy ra một kế: "chẳng lẽ kẻ vừa thắng kiện như mình đây lại mưới trộm cướp trả thù hội đồng Hai. Trẽ quá rồi. Bây giờ chỉ còn cách thị oai, hăm doạ để hội đồng Hai thối chí, từ bỏ kế hoạch." Gió thổi ngày càng mạnh. Cai tổng Ba chú ý, gốc dừa lung lay khi mớ lá trên ngọn quật quá mạnh, chỉ chờ một cơn gió là gốc dừa tróc lên.
Bọn gia nhân kêu rú lên:
- Ông cai! Làm gì vậy?
Ông cai cứ tiếp tục làm công việc riêng, đứng ưỡn ngực, tấn bộ chữ dinh như bọn Sơn Ðông mãi võ. Chàng thanh niên ngờ rằng ông cai sắp ban cho trận đòn quì xuống van nài:
- Con hứa từ rày về sau...
hai tay ông cai vươn ra, xoay tròn như hai cánh chim phụng hoàng rồi rơi thẳng trước mặt, ngón tay co quắp lại:
- Tại bây biết đây là miếng gì không?
Gia nhân đáp:
- Dạ không! Thế võ của ông, xem lợi hại quá.
- Miếng"Song long thủ châu."
- Dạ khó hiểu quá. Mấy chữ nho đó nghĩa gì?
- Là hai con rồng giành một trái châu, ôm và cắn hai trái châu trong miệng. Khi xáp trận, người ta dùng miếng"Song long thủ châu" để móc mắt kẻ thù. Nay mai, tao móc cặp mắt hội đồng Hai, kẹp giữa hai ngón tay như hai trái nhãn.
Ðôi mắt cai tổng Ba nhìn trừng trừng phía mé sông. Từ xa, trận gió kéo tới, rặng dừa nước lả ngọn. Ðọt cây dừa xoay tròn, thân cây nghiêng nghiêng. Nhanh như chớp, ông cai chạy tới, hai tay ôm gốc dừa, hai chân nhảy lên một lượt. Cây dừa nghiêng xuống, ngã ầm trong khi ông quay mặt, nhún chân, nhảy trở lại phía sau cho khỏi té xuống sông. Chàng thanh niên trố mắt.
Ông cai đã chứng tỏ tài năng vô song dùng sức người mà đá tróc gốc cây dừa!
°   °
°
Sau hai lần khiêu khích ấy, ông hội đồng gọi gia nhân đến, quyết định:
- Tao hại thằng cha cai tổng Ba gần tới ngaỳ rồi. Tụi bây nghe nói chừng nào nó mời gánh hát bội về làng để... chửi tao!
Thằng Tiến đáp:
- Dạ, hai ngày nữa.
- Cai tổng Ba mượn tiếng trống tiếng kèn của hát bội để chọc tức tao. Làm sao tao nhịn được.
Hùng và Cứ - hai tên võ sĩ thân tín - đã đến ngụ tại nhà ông hội đồng từ bốn ngày rày. Chúng nó vừa thắng mấy độ võ đài ở hội chợ Phước Thiện, ngoài Rạch Giá. Hùng và Cứ tỏ vẻ nóng nảy:
- Ông hội đồng cho phép chúng tôi giết cai tổng Ba là xong...
- Thủng thỉnh đã ...
- Trong lúc chờ đợi, tụi tôi đốt cháy đình làng hoặc là tìm ông bầu gánh hát bội, hăm doạ.
- Ðừng làm vậy. Thần thánh quở phạt. Phải trị cho tận nọc. Cai tổng Ba giỏi lắm. Nó dám nhảy từ trên lầu xuống đất. Nhà của nó phòng thủ kiên cố, hàng trăm cái ve chai, đầy nước mắm, quăng xuống thì tụi bây phải biết. Hơn nữa nó biết mấy thế võ"Song long thủ châu" để móc mắt. Và cái thế... đá tróc gốc cây dừa gọi là...
Thằng Hùng nói nhanh:
- Hơi đâu mà sợ mấy chữ nho đó. Họ bịa thế này, thế kia. Thí dụ như"Phong xuy trịch liễu"hai chân người ví như hai con rắn giành gốc liễu, liễu là... cây dừa. Hoặc cai tổng Ba nói dóc là thế võ"Nhứt tiên quá hải. " Xưa kia, tám ông tiên cỡi trên khúc gậy trầm hương, ngao du miền biển đông. Giờ đây, cai tổng Ba cỡi trên gốc dừa, khi gốc ấy ngã ầm xuống sông. Vậy thôi...
Hội đồng Hai cau mày:
- Hùng, Cứ ơi! Tao còn nóng ruột hơn tụi bây nữa. Tóm lại, mình không thể giết cai tổng Ba ban lúc ban đêm... Nha trảo của nó quá đông, nhà của nó phòng thủ chắc chắn, mình khó bề phá cửa xông vào. Nếu vào được cũng chẳng làm gì ra trò trống. Rủi mấy em bị bắt rồi thì uổng mạng quá. Bây giờ chỉ còn cách này: giết nó giữa ban ngày.
Thằng Cứ đáp:
- Hổm rày, con tới đó vài lần, cai tổng Ba ngồi dưới cầu mát, sát mé sông lim dim hút thuốc.
- Nó đá giỏi lắm! Coi chừng - hội đồng Hai nói.
Hùng và Cứ nhìn nhau. Ăn cơm chúa thì phải múa tối ngày. Hai đứa nó gọi thằng Tiến:
- Mầy lại nhà cai tổng Ba, dọ thám cho kỹ. Mình không cần dùng kế"điệu hổ ly sơn" mà nó đã mắc kế rồi.
Mười phút sau, thằng Tiến chạy về cho biết:
- Cai tổng Ba đang ngồi dưới cầu mát đọc nhựt trình.
Thằng Hùng nói:
- Nó có mang vũ khí gì không?
- Dạ không.
- Sao mầy biết? Bộ mầy rờ vô mình nó hả? Mấy tay võ nghệ cao cường thường dấu dao trong mình.
Thằng Tiến đáp:
- Dạ, hai bữa rày, cai tổng Ba mặc cái xà rông ở trần trùi trụi. Thứ xà rông của người Miên.
Hùng và Cứ đứng dậy, tát tai thằng Tiến:
- Vậy mà mầy không cho tụi tao biết.
Rồi day qua ông hội đồng Hai:
- Chừng năm phút nữa, cai tổng Ba phải chết. Thằng cha đó chưa biết mặt tụi con lần nào.
- Sao? Hai em nói giỡn hả? Nó đá giỏi lắm. Hai em đánh nó giữa ban ngày, nơi trống trải... Khó bề có kết quả.
- Ông đưa cho thằng Tiến một cái bao là đủ...
Cai tổng Ba mặc xà rông ngồi trên cầu mát, đọc báo Lục Tĩnh Tân Văn.
Từ xa, thằng Tiến bước lại:
- Thưa ông, ông chủ tôi dạy tôi đem cái thư này.
Cai tổng Ba trợn mắt:
- Thư từ gì đó? Ðưa đây.
Ông cia cúi mặt, xé phong thư. Một chiếc xuồng bơi đến gần cầu mát. Từ dưới xuồng, thằng Hùng thằng cứ nhảy lên, hươi đao.
Trễ quá rồi!
Cai tổng Ba giựt mình, thối lui. Nhưng sau lưng ông ta là khoảng trống, lui thêm bước nữa là té xuống sông. Chạy trở về sân chăng? Một đứa lạ mặt đã chận đường. Ông sực nhớ đến sở trườn của mình. Cái thế đá - ngọn đá ngàn cân mà ngày trước ông ta quật tróc gốc dừa.
Ông toan hươi chân. Nhưng cái xà rông quá chật, bó hai chân lại. Giống như mấy cô đầm mặc cái"củng." Cái xà rông bằng tơ quá chắc. Tuột ra để chết loã lồ chăng? Thiên hạ cười chết. Nhảy xuống sông chăng? Hơi trễ. Hai đứa sát nhân này sẽ nhảy theo, đâm chết dưới sông. Dòngmàu"yên hùng" sôi lên bừng bừng. Cai tổng Ba nói:
- Tụi bây muốn giết tao hả! Tao sẵn sàng đưa ngực cho tụi bây đâm. Tao đâu phải là đứa tiểu nhân. Thà đổ máu trên cầu mát này còn hơn sống lõa lồ thân thể hoặc loi ngoi dưới nước. Giết tao đi!
Hùng và Cứ nhìn nhau. Rõ ràng là cai tổng Ba là kẻ đáng sống. Chúng nó từ từ xuống xuồng, bơi về. Thằng Tiến co chân chạy tuốt.
Từ đó về sau, suy nghĩ sao không biết, hội đồng Hai và cai tổng Ba chẳng còn khiêu khích nhau nữa, tuy họ tránh gặp mặt nhau.
Thơ núi Tà Lơn
Ðêm đó, đã quá mười một giờ. Khách du ngoạn trên cầu chữ Y đã thưa thớt. Quá nực nội không ngủ được, tôi đi rong đi rểu trên cầu chờ mong một làn gió mát. Cảnh vật hầu như im lặng, chiếc xích lô máy vượt qua rồi mất hút. Tôi thơ thẩn ngắm ánh đèn điện nơi xa rồi cúi đầu theo dõi đường nước đen ngòm phía dưới.
Một chiếc tàu hiện ra đằng kia, loại tàu kéo ghe. Tàu chạy chầm chậm vì nước đổ ngược. Tàu chạy dưới gầm là chuyện thường nên tôi không muốn để ý. Vì vậy tôi hơi ngạc nhiên khi thấy người khách bên cạnh cứ nhìn mãi chiếc tàu. Tàu đã khuất dạng, khách lặng lẽ thở dài.
Tôi tò mò nói để gỡi chuyện:
- Tàu dòng ghe gì vậy bác?
- Ghe chở than. Bảo đảm than Cà Mau. Hồi nãy tôi thấy rõ ràng than gốc lớn bằng cây cột nhà.
Sực nhớ lại, ở Sài Gòn cột nhà bằng cây không có thứ nào to bằng gốc cây đước Cà Mau như khách đã nói, tôi mỉm cười:
- Sài Gòn có hai thứ cột. Cột gạch thì mỗi bề ba tấc. Cột cây dầu thì chừng một tấc vuôgn. Ðằng nầy gốc than có khác.
Khách nhìn tôi với đôi mắt sáng rực:
- Ông anh nói đúng. Gốc đước hầm than lớn bằng cây cột nhà miệt dưới.
Tôi hỏi:
- Miệt nào?
Khách ra vẻ bực bội:
- Thì miệt Cà Mau, tôi nói nãy giờ. Xin lỗi ông anh có biết miệt đó không?
Tôi trả lời rằng biết. Khách chưa tin nên gạn hỏi:
- Cũng là ở Cà Mau nhưng làng của ông anh cách làng tôi hai ngày đường. Ðể tôi hỏi câu này: Tam Giang ở đâu?
- Dạ Tam Giang ở chỗ sông cửa Lớn đổ ra cửa Bồ Ðề. Từ Tam Giang tới mũi Cà Mau chừng ba mươi cây số.
Khách vỗ vai tôi, mời hút thuốt rồi hỏi tiếp:
- Tại sao kêu là xóm Năm Căn?
- Tôi nghe nói hồi xưa, nơi đó có năm miệng đáy. Sông sâu, nhiều sấu người ta không đóng cột xuống sông. Cứ neo sáu chiếc ghe cách khoảng đồng đều nhau. Giữa hai chiếc ghe, họ giăng miệng đáy. Căn có nghĩa là gian, là miệng...
Ông Tư đến Sài Gòn độ hai mươi năm rồi. Ðiều ân hận nhất của ông là không được dịp trở về quê cũ.
- Cha mẹ tôi mất hết rồi, còn người anh hiện giờ trên năm mươi tuổi đã có cháu nội ở Tam Giang. Anh tôi là người lang bạt kỳ hồ. Năm đó anh bỏ nhà trốn nợ tận núi Tà Lơn bên Cao Miên. Không hiểu ảnh làm gì ở bển, không hiểu ảnh tới núi không. Năm sau, ảnh trở về với cái quần xà lỏn dính da. Hỏi công chuyện làm ăn, ảnh cười. Lúc uống rượu, ảnh đọc thuộc lòng vè gọi làvè Tà Lơn.
Ông Tư nhướng mắt như hỏi tôi biết bài vè đó chưa. Tôi trả lời chưa biết. Ông đọc cho tôi nghe một hơi.
Tà Lơn xứ rày tạm con ở.
Làm lưới chài ngày tháng náu nương.
Gởi thơ về cho cha mẹ tỏ tường.
Cùng huynh đệ đặng cho hãn ý.
Kể từ thưở bôn trình vạn lý.
Ðến bây giờ hơn bảy tháng dư.
Nghiêng mình nằm nhóo tới mẫu từ.
Ngồi chờ dậy ruột tằm quặn thắt.
Nhớ huynh đệ lụy tuôn nước mắt.
Cam phận em ruột thắt từng hổi.
Vận bất tề nên phải nổi trôi.
Thời bất đạt nên con xa xứ.
Tôi hỏi:
- Bài về ai đặt ra. Cảm động quá. Ai lại không từng sống trong cảnh cô độc, xa nhà vì sinh kế.
Ông tư đáp:
- Của tác giả vô danh, phần đầu tả tình, phần sau tả cảnh tiếp theo như vầy:
Xứ lạ lùng con có một mình.
Cơn nguy hiểm lấy ai phò trợ.
Bởi thiếu thốn bao nhiêu đồng nợ,
Nay thân con phải chịu hoành hành.
.............
Việc ăn ở nhiều nỗi đắng cay,
Vái trời phật xin về quê cũ.
Xứ hiểm địa chim kêu vượn hú,
Dế ngâms ầu nhiều nỗi đa đoan.
Ngó dưới sông con cá mập lội dư ngàn,
Nhìn trên suối sấu nằm như trăm khúc.
Tôi cật vấn ông:
- Nhớ hơi quá. Không lẽ núi Tà Lơn âm u nguy hiểm như vậy.
Ông Tư cười:
- Có tích mới đặt tuồng. Còn nữa...
Nay con tới nguồn cay nước đục,
Loại thú cầm trông thấy chỉnh ghê,
Giống chằng tinh lai vãng dựa xó hè.
Con gấu ngựa tới lui gần xó vách.
Bầy chồn cáo đua nhau lúc nhúc,
Lũ heo rừng chạy giỡn bát loạn thiên.
Trên chót núi, nai đi nối gót,
Cặp giả nhân kêu tiếng rảnh vang.
Ngó sau lưng, con kỳ lân mặt đỏ như vàng,
Nhìn phía trước, ông voi đen huyền như hổ.
Hướng đông bắc, con công như tố hộ.
Cõi tây nam, gà rừng gáy ó o...
Bài vè Tà Lơn, ông Tư đọc còn dài lắm. Ðoạn sau tả các loài ong độc, loài rắn, loài kiến hùm. Tóm lại, toàn là loài thú dữ ở trong sở thú Sài Gòn. Chấm dứt bài còn mấy chữcẩn ký nay thì. Ông Tư Khuyên tôi nên chép bài đó để học thuộc nằm lòng, xem như lá bùa hộ mạng. Ông còn khoe nhờ ông mà bài vè này được phổ biến khá sâu rộng trong xóm nhỏ.
Ông nói:
- Khi quá vui thì mình đọc nó để cho tâm hồn bình tĩnh trở lại! Nhớ tới công lao cực nhọc của ông bà khi xưa. Khi nào túng tiền, mình nhớ xứ Cà Mau, bài vè này sẽ gợi chút ấm áp. Cũng như trời lập đông, mua chút rượu để mà uống.
°   °
°
Hai ba năm sau.
Từ ngày dời nhà lên vùng Phú Nhuận, tôi không còn hoàn cảnh thuận tiện để thăm viếng ông Tư, hoặc lên cầu chữ Y hóng mát nữa.
Thỉnh thoảng gặp dịp đi qua, ghé hỏi thăm thì ông không có ở nhà. Mãi đến buổi chiều nọ, trời chuyển mưa to, tôi chạy ghé vào nhà ông. Bà vợ ông nói:
- Ôi thôi! Hơi đâu mà hỏi tới ổng. Só là người anh ruột của ổng chết từ hai tháng nay. Ổng buồn, ổng uống rượu, tối ngày không nói không rằng. Hồi nào hễ rảnh là ổng đi đằng xóm dạy thiên hạ học bài vè thơ Tà Lơn. Ai không học thì ổng giận. Bây giờ ổng thủ khẩu như bình. Ai nhắc lại thơ Tà Lơn, ổng day mặt chỗ khác. Chú em nghĩ coi! Anh của ổng, năm nay già sáu mươi tuổi. Ðời người hưởng được bao nhiêu năm như vậy nghĩ cũng là thọ. Tội tình gì mà quá than khóc! Hôm trước, ổng biểu tôi vay nợ để ổng về Cà Mau. Chừng chạy đôn chạy đáo mượn được tiền, ổng không thèm về. Khó hiểu quá.
Tôi hỏi:
- Ổng đâu rồi, tôi muốn gặp để thăm. Hèn lâu không gặp.
Bà đáp lại:
- Chú em cứ lên cầu Chữ Y, chạng vạng là có mặt ổng ở trển tới khuya. Ổng dòm trời, dòm đất. Mấy ngày đầu, tôi sợ ổng buồn rầu mà tự tử...
Ðường lên cầu Chữ Y chiều hôm đó cũng rộn rịp ngựa xe như năm nào, đèn điện sáng rực lên, từng đoàn người đứng cười cười nói nói dựa theo lan can. Tôi đi suốt đầu này qua đầu kia, tìm ông Tư. Ông đứng đó, kìa. Mái tóc bạc phếu, khác hẳng ngày nào. Mắt ổng nheo nheo nhìn về phía chợ Sài Gòn, môi ổng mấp máy.
Nói với ai? Nói chuyện gì hở ông lão? Tôi muốn hỏi lớn như vậy. Phải chăng là đoạn thơ Tà Lơn"Nhớ huynh đệ lụy tuôn nước mắt, cảm phận em ruột thắt từng hồi, vận bất tề nên phải nổi trôi?"hay là đoạn"Cõi tây nam gà rừng gáy ó o, hướng đông bắc, con công kêu tố hộ?"
Nhưng mà thôi. Tôi đành đứng lại, không dám khuấy sự yên lặng của ông. Nhìn chung quanh rõ ràng cầu Chữ Y này cao quá, cao bằng cái nhà lầu hai tần. Gió trên cầu giống như gió núi Tà Lơn, đem lại cho người đời đôi phút tiêu diêu thoát tục? Tại sao lòng ông Tư lại chứa chất nhiều bí ẩn như thế? Bài thơ núi Tà Lơn do một nông dân vùng Cà Mau soạn ra tại sao lại đủ khả năng quyến rũ, trở thành một món nợ đối với ông lão ở kinh thành ánh sáng này như ông là một?
Có lẽ nhờ mang nặng khối nợ đó nên ông không nhào đầu xuống sông khi ý nghĩ tự tử len lỏi vào tim óc. Ðêm đó, mãi đến mười giờ khuya mà ông còn đứng tren cầu cúi xuống dòng sông đen thui, lốm đốm những bọt nước trắng.
Sơn Nam
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...