Cho những mùa xuân phai
Lời mở
Trong hoàn cảnh hoàn toàn bế tắc của ngành xuất bản, tháng 1
năm 1966, Cơ sở Văn mạnh dạn tung ra thị trường chữ nghĩa một Tủ sách Phổ thông
với tôn chỉ: sách hay, in đẹp, bán giá hạ.
Việc làm có tính cách mở đường của Văn đã thâu hoạch được một số kết quả tốt -
đủ tốt để các nhà xuất bản bạn vững tin mà mở rộng ngành hoạt động của mình, đủ
tốt để các nhà xuất bản mới được thành lập khá nhiều trong hai năm 1966-1967.
Sang năm 1968, chúng tôi dự tính sẽ tạm ngưng ấn hành sách phổ
thông vì tự coi như nhiệm vụ mở đường đã hoàn tất. Nhưng, biến cố đầu Xuân Mậu
Thân đã lại đẩy ngành xuất bản vào một ngõ tắc. Phần lớn, nếu không muốn nói là
hầu hết, các nhà xuất bản đều tạm ngưng hoạt động, hoặc chỉ hoạt động cầm chừng.
Trước viễn ảnh đen tối đè nặng lên ngành xuất bản, chúng tôi lại cảm thấy cần
phải tiếp tục công việc đã làm đều đặn từ hai năm qua.
Tiếp tục với một hình thức mới, để thích ứng với tình thế mới.
Và Nguyệt san Văn Uyển được khai sinh.
Từ nay, tháng tháng Văn Uyển sẽ gửi tới bạn đọc những sáng tác chọn lọc của những
tác giả danh tiếng trong và ngoài nước.
Ước mong bạn đọc sẽ tiếp tục dành cho Văn Uyển mối cảm tình nồng nhiệt mà quý vị
đã dành cho Tủ sách Phổ thông do cơ sở Văn chủ trương từ mấy năm qua…
Giờ đây, Văn Uyển số ra mắt xin giới thiệu tuyển tập đoản thiên mới nhất của
Nguyễn Thị Hoàng: Cho những mùa xuân phai. Trân trọng mời bạn đọc hãy nhập vào
thế giới tràn đầy tình cảm của nhà văn phái nữ đang nổi tiếng nhất, có sách bán
chạy nhất hiện nay…
Văn Uyển
Cho những mùa xuân phai
Mélanie, đã ba hôm nay con chong đèn không ngủ, buổi sáng năm
giờ không lên nhà nguyện, tám giờ không đi phát thuốc cho các trại, buổi chiều
không sang phòng họp công tác, và buổi tối, trong giờ cầu kinh, con lơ đễnh
nghĩ ngợi đâu đâu đọc nhầm cả lời lẽ, sai nhịp với các soeur, con làm sao vậy,
còn đúng một tuần nữa là lễ phát nguyện của con rồi, con có nhớ như vậy không.
Buổi sáng nay con không phải đi phát thuốc nữa, phần việc con sẽ nhường lại cho
soeur Albertine, nhưng hãy ra đẩy xe rác xuống vườn, và trong lúc đi ngang qua
những vùng đất bẩn sau trại, con phải suy nghĩ lại, một lần cuối cùng, tự hỏi
chính mình về sự lựa chọn, và sau đó, mẹ khoan hồng cho con tìm lấy một cơ hội
nào đó để thử thách lại.
Một tuần, chỉ còn một tuần nữa là dứt khoát, là bắt buộc tôi phải can đảm và
thành thật chọn lựa quyết liệt thôi sao, một tuần nữa để tìm cho ra đời sống
đích thực mình giữa ngã ba ngã tư chằng chịt những ảo giác bồng bềnh, những sắc
màu hỗn loạn, những tiếng gọi kêu bất ngờ vang vang trỗi dậy khắp cùng bốn phía
tâm hồn tôi sao. Tôi muốn nói, đúng hơn là thú tội, những ý nghĩ thầm kín nẩy mầm
như đậu trong trí tôi từ ba hôm nay, từ buổi chiều Chủ nhật ở hàng hoa, nhưng
tôi không thể cúi đầu nói ra những điều đó, cũng như tôi không còn can đảm ngẩng
đầu lên nhìn thẳng vào hai mắt màu xám trong vắt của Mẹ Nhất lúc này. Tôi biết
dù có kể ra những xao xuyến, thao thức đó, dù rằng đối với ba năm ở nhà tập,
như thế là tội lỗi chăng nữa, bà vẫn tha thứ, vẫn dỗ dành để tôi lại trở về
ngoan ngoãn cúi đầu bước vào cửa hẹp sáng láng của bà. Nhưng tôi không nói ra.
Bởi tôi tiếc, tôi không muốn nói ra với bất cứ người nào, những điều tôi chỉ âm
thầm nói để mình nghe, với một nụ cười ẩn bóng trong gương soi, với tia nắng
lay lắt trong khung cửa chiều trên cao lầu chuông ấy, với những tiếng gọi mơ hồ
thầm kín ở đầu. Như vậy mới chính là tội lỗi mơ hồ, xa lạ vừa đủ để đánh thức
mùa xuân yên ngủ trong tôi, vừa đủ cho tôi bỗng bàng hoàng sợ hãi nhận ra tôi vừa
đắm mê, vừa chạy trốn cuộc đời bên ngoài những bờ tường cao đóng kín. Cuộc đời
ngoài kia, tôi rưng rưng trong lòng một tiếng khóc tủi mừng khi nghĩ đến những
con đường, những hàng cây lá bay, những tiếng còi xe reo vui lảnh lót, những
người qua lại, và phố phường tấp nập, những cửa hàng sáng rỡ, những bông hoa,
và khuôn mặt dịu dàng của một mùa xuân quá khứ. Tiếng pháo ran ran đâu đó những
bông hoa mai vàng, những màu áo mới. Tất cả thật đã vô cùng rộn rã, vô cùng xa
xôi, mùa xuân, cuộc đời, những bóng hình thân yêu ngày cũ.
Tôi đặt khay thuốc xuống mặt bàn và lẳng lặng đi ra. Mẹ Nhất bỗng gọi lại và vô
tình hai mắt tôi chạm vào mắt bà, và bước lên một bước, tôi bỗng cảm thấy nhẹ bỗng
thênh thang cả tâm hồn thể phách trong hai cánh tay bà êm dịu vây phủ bờ vai
tôi ba hôm rồi bỗng dưng lạnh lẽo. Tôi nói ấp úng, thưa, con sẽ cố gắng. Bà đặt
nhẹ ngón tay cái trên trán tôi như thường lệ, làm dấu thánh giá thong thả như
muốn khắc vào tâm hồn tôi vết sẹo muôn đời của đức tin không phai mờ, và bà dịu
giọng, thôi con đi đi. Tôi bỗng dưng muốn làm nũng với bà, nhưng thật ra là với
một người nào đó không bao giờ có trong đời tôi, mẹ cho con xuống thăm phòng số
bốn trước khi ra bãi rác.
Cái mụt ở cánh tay bà phòng số bốn đã căng phồng như tôi dự đoán. Tôi xoa cánh
tay trần bà ta, không đau đâu, chỉ ba hôm là khỏi hẳn, muốn lành thì phải chịu
đựng một thời gian đau đớn chứ, cái mụt đã cương lên, không làm cho nó vỡ ra, xẹp
xuống, sẽ kéo dài nhức nhối lâu hơn. Người đàn bà xắn cao tay áo cho tôi, vâng,
tôi cũng muốn cho xong cái mụt để còn về ăn Tết. Bà về đâu, tôi hỏi, không biết
nữa, nhưng ra khỏi đây là tìm thấy chỗ của mình rồi, đâu mà chẳng được, bà ta
trả lời giọng cao lên nao nức. Tôi nhúng cái tăm quấn bông gòn vào chai alcool
iodée ém cho khô bớt rồi nâng cánh tay tròn lẳn của người đàn bà thoa nhè nhẹ
quanh mụt một vòng tròn thuốc vàng nâu, đắp lên một miếng gòn kẹp vải gaze thưa
và dán vào da bằng hai đường chéo băng keo.
Thế này rồi làm sao nữa, bà ta hỏi. Khoảng ngày mai là cái mụt sẽ chín, cương mủ
lên dồn cả vào chính giữa, tôi chích mũi kim vào đó, ém cho mủ và máu độc ra thật
hết, cần nhất là cho lớp máu độc đen tím ra hết cho đến khi thấy tươm máu đỏ là
coi như sạch hẳn, rắc bột poudre dagénan vào miệng mụt, băng lại, và hôm sau nữa
là mụt khô, và tay bà lại liền như cũ, tôi giải thích tỉ mỉ cho bà ta, nhưng thật
ra là cho chính tôi, cho chính cái mụt trong tâm hồn không ai chữa khỏi, không
bao giờ lành, phải từ buổi chiều Chủ nhật tôi biết là không bao giờ lành. Như vậy
thì có gì đau đớn, bà ta ngạc nhiên hỏi. Có chứ, đau ngấm ngầm, khi cái mụt
cương mủ mà không có một chất thuốc nào nóng bỏng để dồn tất cả chất độc về một
chỗ làm cho mụt bung vỡ ra một lần. Tôi biết là lợi dụng bà ta để nói với mình
quá nhiều nên buông cánh tay bà ta, đi thoắt thoắt xuống hành lang qua bãi rác.
Trong sân, bọn lao công đã tụ tập đông đủ như thường lệ để chờ đi theo một
soeur lấy rác, gồm những máu mủ dính trong từng đống bông băng, những chất nhầy
không tên vung vãi giữa sàn nhà được chùi vào trong miếng giẻ rách, cùng tất cả
những rác rê và các thức ăn, đồ dùng phế thải của nhà thương, và hốt lên chiếc
xe đẩy nhỏ xíu hai bánh, có tay cầm, đẩy ra bãi rác. Thấy tôi có người hỏi sao
soeur Albertine không ra, tôi nói tôi thay thế hôm nay cho bà ấy, nhưng để tôi
làm một mình được rồi mấy người nghỉ đi. Họ nói hơn mười xe rác, nhiều lắm
không làm nổi một mình đâu. Tôi định nói là hãy để cho tôi, tôi cần làm như vậy,
nhưng yên lặng gạt mấy người phu đàn bà đi thẳng vào nhà bệnh. Bác sĩ đi tạt
ngang qua bảo tôi, cô mang băng miệng vào đi, dãy này bệnh nặng, tôi nói không
sao đâu, tôi cũng bệnh nặng mà, bác sĩ trố mắt nhìn tôi, và tôi tinh nghịch
nhìn đăm đăm ông thầy thuốc trẻ cố quên ba năm nhà tập, ông cũng bệnh nặng lắm
mà không biết đấy.
Bỗng dưng tôi choáng váng trong một cơn vui bất ngờ, huyên náo và cúi rạp mình
xuống những gậm giường, những ngõ ngách hôi hám tanh tưởi của nhà bệnh, lùa hết
tất cả những thứ dơ bẩn trong thùng, bê ra xe, đẩy phăng phăng qua khoảng sân
la liệt những người què quặt, nheo nhóc, những lũ trẻ ngồi chờ phát thực phẩm,
qua nhà xác, ra bãi rác lúc nhúc những ruồi xanh, trùn và sâu đất. Mùi hôi thối
xông lên ngạt thở đến buồn nôn. Tôi giơ cao càng xe để trút tất cả những mảng
rác bẩn ghê rợn xuống cỏ ướt. Một vài miếng gòn nhăn nhúm dính thuốc và máu bầm
còn vướng lại trong xe. Tôi xắn tay áo nhặt những thứ ghê gớm đó vứt ra bãi
rác, và trong phút giây tôi bỗng lặng người nhớ đến khuôn mặt rỡ ràng của Trí
buổi chiều Chủ nhật vừa qua, đến những ngày cần mẩn thử thách ở nhà tập, nhớ đến
sự kiên nhẫn lặng thinh những lần các bà phước bắt ra sân nhổ cỏ cú, trồng lại
cho ngay hàng, nhổ đi và trồng lại bốn năm lần trong một ngày dưới nắng. Mồ hôi
vã xuống má xuống cổ tôi. Mặt trời nồng nàn chiếu xuống, những vách tường vôi
trắng cao ngất quanh nhà trại sáng lên bỡ ngỡ. Và trời, trời như một ngày nào
trẻ thơ có Trí cao vút mênh mông trên đầu tôi, như một trang trải tuyệt vời của
mộng mơ và tình tự. Tôi buông xe, đứng ngẩn người nhìn trời, mỗi lúc một choáng
váng say ngây trong sóng nắng lớp lớp dâng lên ngập lụt người tôi và Trí lại trở
về, cùng với tiếng về râm ẩn mùa hạ nào xa lắc, bến sông im trong buổi chiều
tím, và những bông hoa huệ trắng nõn trong vườn đêm về quê thăm Trí. Tôi không
muốn nhắc những ngày xưa cũ đó. Những ngày đã qua, những ngày đã chết. Trí đã
qua, và Trí cũng đã chết trong đời tôi. Nhưng tôi đã tình cờ gặp lại Trí, gặp lại
tôi, gặp lại nỗi xôn xao trong sáng đầu đời. Chúng tôi cách nhau một hàng dài
những vòng hoa đã kết lấp lánh từng quả bóng xanh đỏ. Hình như có một thứ váng
sáp đóng cứng trên khuôn mặt tôi trong khoảnh khắc tình cờ đầu tiên, và cái
váng sáp một lúc lâu nứt nẻ, vỡ ra, rơi xuống và cũng đến đó, Trí nhìn thấy
tôi, nhìn thấy Phượng của những ngày chung học ở quê nhà. Trí. Tiếng gọi bật
lên đầu môi, và âm vang của tiếng gọi ngân dài trong lòng tôi những ngày có Trí
xa rồi.
"Bây giờ Phượng ra sao?" Trí hỏi.
"Ra sao là ra sao?"
"Nghĩa là mình muốn hỏi về tình trạng hiện tại của Phượng, giữa chúng mình
như có một khoảng cách thật mênh mông và mình khó dùng ngôn ngữ thế giới mình để
hỏi thăm chuyện trong thế giới Phượng mà khỏi phiền lòng Phượng. Nhưng có một
điều mình muốn hỏi Phượng là vì sao năm ngoái mình trông thấy Phượng trên xe
hàng, Phượng giấu mặt đi không cho mình nhìn thấy".
Tôi lặng người. Chuyến xe hàng đi Biên Hoà buổi đó. Hai con mắt Trí đăm đăm
trên kia vành nón tôi nghiêng che cái cổ áo vải thô, cái áo tôi đã cố hoá trang
cho bình thường khi đi thăm một người bà con dưới ấy đau nặng. Tôi lẩn tránh
Trí, lẩn tránh thật trôi về trên bờ tim dào dạt thủy triều, là bởi tôi không chắc
chắn gì con đường đi và chính những bước chân mình ngập ngừng trên đó. Tôi chỉ
có thể đến đích nếu dứt lìa, xa cách hẳn mọi tương giao, không bao giờ thấy một
le lói ánh sáng nào của đời sống. Nhưng mọi sự chỉ là một thử thách cay nghiệt,
và tôi chỉ là một con chim sâu trên một bờ rào vướng vít tơ hồng, hót và sợ
mình nghe thấy tiếng, sẵn sàng lao vút vào khoảng không, sẵn sàng sa xuống một
cửa lồng son êm ái. Tôi nói sao với Trí. Tôi tránh Tố Như bởi vì tôi muốn nhìn
thấy Trí. Chỉ vậy thôi.
"Phượng mua hoa cho ai?" Trí hỏi.
"Cho một bà phước mới chết".
"Mình muốn mua hoa cho Phượng".
"Ở đây làm gì có hoa lilas".
"Phượng vẫn còn thích hoa lilas?"
"Nhắc vậy thôi, mình không còn quyền thích cái gì cả. Không biết ở nhà bây
giờ lilas còn nở thơm không. Câu hát nào dội lên trong lòng tôi đông giá ba năm
trời, tay trong tay chúng ta về quê hương cũ… Tôi đã từng nghĩ vậy ngày xưa, lần
đầu tiên hai đứa không còn cách nhau bên này bên kia hàng rào vườn cây, mà hai
phương trời chia lìa, mỗi đứa theo học một phương, cùng mong một ngày đưa nhau
về nhà cũ. Mọi ước mong thật đã xa mù xa tắp rồi, và Trí đã khác, tôi đã khác,
cuộc đời cũng đã khác xưa. Bỗng dưng tôi lạnh ở hai vai, lạnh khắp châu thân, bỏ
Trí đứng ngẩn ngơ, băng mình qua đường, băng mình qua biển lớn lòng tôi dạt dào
sóng dội và khắp trời chiều Chủ nhật tôi chỉ còn nhìn thấy bóng dáng tôi áo
đen, như một cánh dơi khổng lồ sa xuống thấp, thấp mãi trên những ghềnh đá cheo
leo, thấp xuống mãi trên những bến sương mù vọng ngân tiếng chuông nhà thờ đổ dồn
thúc bách, và tiếng chuông dứt nối rạc rời của buổi lễ cầu hồn ru tôi trong giấc
ngủ nghìn thu lạnh lẽo. Trí ơi, Trí ơi, tôi gọi tuổi nhỏ xa xanh trôi xuôi thời
gian trùng điệp, Trí ơi, Trí ơi.
Lại tiếng kêu gào inh ỏi dưới bếp. Mụ điên lại thọc tay bẩn
vào các nồi thức ăn của người khác. Ngày nào cũng đúng ba lần như thế. Nếu mụ
ta điên thật để tôi góp nhặt bằng cớ đưa lên bà Nhất thì mọi chuyện đã trở nên
dễ dàng. Nhưng không điên, mụ ta còn làm kẻ khác điên đầu hơn bị một người điên
chính cống quấy rầy, và theo những lời báo cáo, có hôm bà Nhất, giám đốc cơ sở
từ thiện này đã đến thăm, nhưng trước mặt bà, mụ điên khôn ngoan tỏ ra bình thường
lễ phép. Tôi điên đầu hơn ai cả, bởi mọi chuyện ở đây, tôi đều phải giải quyết,
thay mặt bà Nhất, và mọi người trong nhà bất cứ xảy ra chuyện gì cũng níu lấy
tôi đòi xử kiện. Hàng trăm thứ để xử kiện trong một ngày. Nào người nọ giặt áo
quần ngay trong phòng. Nào người kia đến phiên không làm vệ sinh. Nào kẻ khác
ăn cắp xà phòng và than đỏ trong lò của người bên cạnh. Nhưng phiền phức nhất
là những vấn đề xung quanh mụ điên. Suốt ngày mụ ta ngồi lê lết ngoài sân, ngay
cửa ra vào, nói lảm nhảm không ngừng nghỉ, chờ có ai đi vào đi ra là níu lấy ống
quần kéo xuống doạ dẫm, cho tao tiền đi, không tao kéo. Không có ai bị kéo, mặc
dù không ai nạp tiền mãi lộ cho mụ, nhưng đều lo nơm nớp. Nhưng đến ai ăn cái
gì thì mụ ta không tha. Nếu không cho, thế nào mụ ta cũng đánh đổ. Cho không đủ
cũng vậy. Nhưng ai cũng ghét vì mụ quá tham lam và không ai muốn cho. Nên mỗi bữa
ăn, mụ ta rình thế nào cho được để quậy cả bàn tay bám đầy cáu ghét và mũi dãi
vào trong phần ăn của người khác. Cứ thế và rồi cả nhà này cùng đói. Và người
ta quật mụ điên xuống. Mụ chống chọi kịch liệt. Cả nhà huyên náo lên. Tôi so
sánh những giờ cầu kinh, những đêm lặng lẽ ở viện với sinh hoạt trong nhà này,
và phân vân, bên tám lượng bên nửa cân, tôi không biết cho bên nào hơn cả. Dù
sao thì tôi vẫn còn một triển hạn ngắn ngủi để thử thách một lần cuối cùng,
theo chỉ thị của bà Nhất, ở lại nhà này trông coi đám người ở trọ nghèo nàn này
và trong thời gian còn lại phải dứt khoát chọn lựa con đường sẽ tới. Sau một
ngày thắng mình, thắng đám đông ồn ào trong nhà, tôi kiệt sức buổi tối, trở nên
ích kỷ và hèn nhát, trốn tất cả mọi người, đuổi tất cả đi chơi, một mình chiếm
hết căn nhà rộng có khung cửa sổ lớn mở ra vườn đêm ngát mùi trái chín và nhang
thơm của nhà láng giềng. Có một cái gì kéo tôi lại cửa sổ, đứng lại ở đó hàng
giờ không biết mỏi. Ban đêm, nhìn xuyên qua bóng tối của vườn cây, tôi thấy nhấp
nháy một ánh đèn của một khung cửa mở xa lắc bên kia. Mãi rồi một buổi sáng tôi
nhìn sang và thấy hắn, đứa con trai. Trong khoảng cách cố định đó, tôi bỗng
dưng cảm thấy, trong một phút giây nào đó, hắn có mái tóc giống Trí. Cũng trẻ
và vui như Trí năm năm về trước. Thật tình tôi chú ý đến hắn chỉ vì vậy, thật
chỉ vì vậy thôi. Dần dần, hắn trở thành một con dã nhơn ngộ nghĩnh trong chuồng
sở thú, và tôi một kẻ ở ngoài, nhìn qua để giải buồn vơ vẩn. Một hôm tôi thấy hắn
cười, vô nghĩa. Tôi bỗng cảm thấy như bị trêu chọc, mạ lị, và bực tức quay vào,
khép cửa. Nhưng rồi tôi hối hận đã cho nó thấy tôi đóng cửa, tức là thấy hắn và
tỏ thái độ với hắn. Tôi đi trở ra, mở bung cửa. Hắn vẫn còn đó, nhăn răng cười,
tay cầm một khúc bánh mì. Hắn gật đầu và đưa bánh lên miệng. Tôi tức lộn ruột
nhưng đồng thời, cảm thấy một thoáng gió mát luồn vào trong tóc. Nắng buổi trưa
đầu mùa khô sáng lóng lánh trên những tàng lá dày xanh sậm. Cây đào ở cuối vườn
nhú lên từng chòm trái non. Bóng dáng mùa xuân phất phơ trong hơi thơm nồng nàn
của nắng lá. Tôi cảm thấy mình chớp nhẹ hai hàng mi, và trên môi tôi, đứa con
gái ngày xưa trở về, cười rạng rỡ. Tôi dúi đầu vào song cửa, tôi gọi, Trí, Trí
ơi, Trí.
Buổi chiều tôi chạy trốn tiếng ồn ào dưới bếp, bỏ đám người đánh lộn quật nhau
túi bụi tôi đi ra đường, không biết đi đâu, lòng hoang mang và trí bất định. Bỗng
muốn có một người nào trói chặt chân tay mình lại đánh cho một trận nhừ tử. Rồi
sau đó tôi sẽ tỉnh hẳn, sẽ dứt khoát mọi điều. Nhưng không ai đánh đập tôi,
không ai biết đến tôi đang chơ vơ lạc lõng như thế này cả. Và tôi đã nương nhờ
đám đông lặng lẽ bằng cách lên xe buýt ngoài đường. Cái đám đông lặng lẽ và di
chuyển, tôi nghĩ an ủi và ngồi xuống chỗ trống sau cùng. Xe chạy một quãng tôi
bỗng cảm thấy có người chạy theo xe và bám vào cửa, nhảy vào trong, và một chiếc
lá rơi vào trong tay tôi. Một chiếc lá xanh, với hàng chữ lờ mờ ghi vội, ra gặp
tôi không, ở cửa rạp Eden, người cầm chiếc lá. Hắn biến mất ở đàng mũi xe và nhảy
xuống ở một trạm gần. Tôi choáng người sợ hãi nhìn hai bên. Không ai nhìn tôi cả.
Nhưng tôi thấy rõ như đang đối diện, hai con mắt trong veo của bà Nhất, với cảm
giác của dấu tay bà quệt nét thánh giá lên trán tôi hôm nào. Xe ra đến phố. Tôi
cuống quít, tôi dở gương soi. Tôi đưa năm ngón tay run cào mớ tóc. Rồi như kẻ mất
hồn, tôi nhảy xuống một trạm ngừng, đi ngược đường, cố nghĩ là không đi tới
đâu, nhưng tôi đang đi ngược từ chợ Sài Gòn lên Lê Lợi, quẹo qua Tự Do. Và tôi
hoảng kinh thấy mình đi về phía rạp Eden.
Tôi dừng lại rất lâu trước một cửa hàng lớn và nhìn bóng mình lờ mờ in vào tủ
kính. Không hiểu vì sao tôi đã đến. Một cách thành thực, không vì một lý do nào
thúc đẩy cả, ngay một chút tò mò cũng không. Trong những lúc đứng nhìn qua khu
vườn cây từ khung cửa sổ, tôi tự hỏi nếu mình quen hắn, hắn sẽ là cái dây nối
tôi với cuộc đời bấy lâu cách xa ngoài đó. Nhưng rồi tôi sẽ cảm thấy gì. Điều
quan trọng là tôi có thực tâm cảm thấy gì không. Hay con người tôi đã là một tử
tế bào vô ích trước tất cả các cuộc thử thách, thí nghiệm. Mơ hồ, tôi nghĩ đến
Trí. Hay là tôi đến đây là vì nghĩ đến Trí. Trí ở đâu xa rồi, mất rồi và hắn
thì giống Trí. Tôi đang tìm đến tôi hay đang chạy trốn khỏi tôi khi bước chân tới
nơi người cầm chiếc lá đợi chờ.
Tôi hạ tầm mắt để không phải nhìn một khuôn mặt nào cả đến hắn. Tôi muốn tưởng
tượng hắn theo cách tôi nghĩ và gạt hắn thật xa ra khỏi tầm tay tôi, như Trí,
như những người chưa bao giờ tới trong đời con gái tôi. Tôi nhận ra chiếc lá ở
một bàn tay buông thõng, gần chỗ lấy vé.
Giọng người lạ:
"Trông cô khác hẳn người trong khung cửa sổ. Tôi cứ tưởng là cô khinh bỉ
và hiểu lầm tôi, không đến đây bao giờ. Điều tôi sợ nhất là bị cô nghĩ lầm về ý
định của tôi. Thật ra tôi, tôi… tôi không có một chỗ nào thiêng liêng yên tĩnh
và ngôn ngữ nào thích hợp để nói với cô những điều muốn nói. Đáng lẽ tôi không
nên xin gặp cô như thế, tôi muốn nuôi một vẻ đẹp nào đó hơn là… nhưng mà tự
nhiên khi thấy cô đi ra tôi bỗng tung cửa chạy theo. Mong cô hiểu là tôi không
cố ý xếp đặt như thế này. Và thật ra thì tôi cũng không đủ can đảm mời cô vào
trong ấy, nhưng thật không có một chỗ nào yên tĩnh để nói chuyện cho bằng rạp
hát cả".
Những ý nghĩ trước đó một phút về hắn của tôi tiêu tan đi hết, nhường chỗ cho một
cảm xúc dễ dàng bình tĩnh.
"Cô thường đi xem hát không?"
"Không, đã hơn ba năm nay".
"Hơn ba năm mà không vào rạp chiếu bóng một lần nào cả sao?"
"Anh không biết gì về tôi cả sao?"
"Một hôm tôi bỗng nhìn thấy cô nơi khung cửa sổ".
"Tôi tập đi tu, bị phạt đến săn sóc đám người đó, vì đã xao lãng bổn phận".
"Tôi không tin".
"Cái gì làm anh không tin?"
"Nụ cười của cô".
"Tôi cười, tôi có cười thật sao?"
"Tôi vẫn thấy cô cười với Trời ở khung cửa sổ".
Tôi nhắm hai mắt choáng váng trong cơn say không tên mênh mang hai con mắt màu
xám của bà Nhất xoá nhoà mờ mịt.
Như trong chiêm bao, tôi theo hắn lên những bậc cầu thang, đi lên cảm giác bồng
bềnh xa lạ chưa một lần tìm thấy. Ánh sáng hồng vừa tắt trong rạp khi tôi tìm
thấy chỗ ngồi mình.
"Chiều nay cô đi đâu vậy?" Hắn hỏi.
"Đi tìm xem tôi như thế nào".
"Cô thế nào bây giờ?"
"Nếu bây giờ không chỉ có nghĩa là phút giây này mà thời gian thường trực,
thì tôi nửa thiên thần nửa quái vật".
Tôi thoáng thấy hắn mỉm cười trong bóng tối, và những ngón tay hắn bứt rứt xoa
xoa trên thành ghế.
Tôi không muốn nữa điều tôi vừa chợt muốn. Tôi biết là tôi thành thật, nhưng
nói ra, tôi tiếc, thật tiếc, với hắn hay bất kỳ ai cũng vậy. Tại sao ta cứ làm
hoen ố tâm hồn mình bằng những lời nói ra với những con người không bao giờ,
không bao giờ cùng chung với ta một bờ đất sống. Bây giờ hắn biến thành một người
khác, một đứa con trai mời một người con gái. Hoặc tệ hơn, tìm cách rủ rê một đứa
con gái vào rạp chiếu bóng. Điều làm cho tôi có thể xao động, không phải hắn,
không phải chiếc lá hắn gửi vào tay mà khuôn mặt con người ở hắn tôi nhìn qua một
khoảng vườn cây. Hắn hiện hình là đời sống trong lúc tôi trong này cửa hẹp bỗng
dưng nhớ nhung đời sống thênh thang bên ngoài, đặt cho mình dấu hỏi đầu tiên và
cuối cùng để dứt khoát. Bây giờ bóng tối gờn gợn xung quanh, cùng với hơi thở nồng,
nhạt thơm mùi không tên của máy lạnh, vì cuộc biến động âm thầm cho mỗi đời người
chỉ gần gũi tấc gang. Nhưng tôi nhìn thấy tôi rồi. Dửng dưng, ráo hoảnh. Tất cả
những lung lay xao xuyến trong đáy lòng một phút trước chỉ là ảo giác, như một
bóng ma lây lất để thử thách can đảm tôi giữa bóng tối mênh mang đời sống. Tưởng
tượng nếu tôi nghiêng người qua bên kia một thoáng tích tắc đồng hồ thôi. Tưởng
tượng không có một ý nghĩ, một phán xét nào ngăn cản cả, tôi tự do và dứt khoát
hẳn với tất cả mọi ràng buộc, tôi sẽ đi tìm gì cho tôi. Gian phòng bít kín. Những
con đường thành phố rộn ràng. Những con mắt phù thủy nhìn nhau. Và những mong
muốn âm thầm. Tôi không cảm thấy gì hết, chẳng phải là chai đá, nhưng tất cả đối
với tôi lạ lùng và cách biệt đến ghê tởm. Nhưng tôi đã đến. Mẹ Nhất đã chẳng
cho tôi tự chọn một lần thử thách dứt khoát với con đường mình sao? Cánh tay hắn
trên bành ghế trong bóng tối lờ mờ bỗng vờn lên hình ảnh của bức tường hành
lang nhà nguyện. Tôi ngơ ngác không biết tôi-ở-đó bây giờ đi đâu. Tôi nhớ tôi.
Ý nghĩ bỗng vươn lên như một mầm đậu non đã đến ngày quấn đọt mềm vào cành khô
gần gũi. Tất cả thật đã quen thuộc, như từng hình ảnh, từng cử chỉ nhỏ ở đó đã
mọc rễ vào tâm hồn, số kiếp tôi, đến nỗi, dù nhọc nhằn, dù héo hon, dù bỏ quên
đi tất cả những mùa xuân con gái, nhưng xa đi, tách rời, hay nghĩ rằng rồi để dứt
khoát với đời sống đó, tôi rùng mình lạnh giá hai vai. Tôi đã đi từ một bức tượng
thần linh vào nhập lốt của một con quái vật. Tôi đang đi tìm mũi nhọn để đâm chết
con quái vật, thoát xa khỏi nó để trở về dâng hiến linh hồn cho bức tượng thần
linh đây. Hắn là gì bên cạnh tôi? Có phi con người không? Không. Chẳng ai là
con người cả. Ngồi mãi đây rồi tôi cũng như những kẻ xung quanh. Hình như ngoài
kia chiều dần xuống. Tôi nghe vang vang trong hồn tiếng chuông nhà thờ đổ khúc
ăn năn. Tôi đứng lên đột ngột khi phim bắt đầu. Lúc này tôi không thể biết tiếng
chuông ăn năn vì ánh mắt xanh xám của bà Nhất hay môi Trí cười buổi chiều Chủ
nhật nào đã xa.
Nghĩ là đám con trai đã tản ra nhường lối cho tôi bước tới. Nhưng không, chúng
nó càng tụ lại gần nhau thành một khối di chuyển theo tôi ở mỗi bước chân ngập
ngừng. Tôi nóng bừng cả mặt nhìn xuống màu áo mình xanh nhạt, cái áo cũ từ bốn
năm nay bỏ quên trong đáy va-li gởi ở nhà một người bà con, may bằng thứ hàng
láng và mỏng, bây giờ đã lỗi thời, nhìn xuống mũi giày màu bạc óng ánh lấp ló
dưới ống quần xa-tanh cũng láng mướt, mọi thứ diễn tả một sự đỏm dáng khác thường
gượng gạo trơ trẽn, diễn tả đúng quảng đời ngắn ngủi nửa vời tôi bước tới hôm
nay. Và tôi lạnh người nhận ra danh từ xác định đúng tình trạng của mình hiện tại:
tu xuất. Tu xuất. Là danh từ ngày xưa đi học tụi bạn thường tinh nghịch tàn nhẫn
gọi và trêu chọc những đứa nào trong lớp có vẻ khờ khao, thật thà đến đờ đẫn,
quê mùa. Bây giờ tôi đúng là tu xuất, một con tu xuất. Và con tu xuất đang mặc
áo quần chải chuốt, mặt mày trang điểm tỉ mỉ, đi tìm nhà một người con trai. Thật
như thế sao? Con đường tôi đang đi đây đưa tới một người con trai sao? Cái đám
đông tinh quái chờ cho tôi đến thật gần, không còn lối thoát mới dạt sang hai
bên, chỉ chừa một lối nhỏ cho tôi qua lọt. Tiếng nói chúng rát bỏng hai bên má.
Chắc đi tìm đứa nào, dám là thằng Trí. Tiếng một đứa khác, bồ thằng Trí đâu mà
bệt quá vậy, thằng đó chỉ toàn những em ca-nhe ca sĩ đến thăm. Tôi nhắm mắt đi
qua khỏi những lời rắn độc của chúng, Trí chúng nó nói không phải là Trí của
mình. Tôi an ủi, nhưng đồng thời, hình ảnh buổi chiều ở rạp chiếu bóng đi ra,
sau khi chạy trốn người con trai hò hẹn, buổi chiều lá me bay dưới trời gió trở,
ào trên vỉa hè bỗng tới tấp bay và Trí đi qua bên kia bờ đường trong cơn gió lốc
hồn tôi, với một người con gái đẹp. Tôi vò nát tờ giấy chương trình rạp chiếu
bóng trong tay, hai mắt mịt mờ như nhìn vào khói toả, nghiêng người đi lảng
sang bờ đường bên kia. Một thoáng tôi nghe có tiếng người con gái hỏi, xin lỗi,
chị có phải là chị Phượng, anh Trí muốn gặp chị. Tôi sững người, lòng đau quắt
một giây và hỏi ngớ ngẩn, Trí đi với cô, sao còn gặp tôi làm gì. Người con gái
nói, tôi chỉ là bạn qua đường vậy thôi, nếu chị buồn tôi sẵn sàng nhường lại
Trí, tôi thì không thiếu gì bạn, chị đừng lo cho tôi. Người con gái định bỏ đi,
nhưng Trí đã đến và níu cánh tay người con gái. Hai người thoáng nhìn nhau. Tôi
đọc thấy trong đáy mắt hai người lời hẹn hò lâu dài thầm kín và nóng bỏng. Như
họ đã qua gần gũi quen thuộc, chỉ cần một khoé mắt nhìn cũng đủ sống trọn vẹn
những khắc giây đắm đuối của đời người. Trí hỏi, bây giờ Phượng trở về đời rồi
sao. Tôi ấp úng với dòng nước mắt trong lòng, không biết nữa, nhưng chiều nay
thì trở về đời. Câu nói tôi vang ngân lên một niềm xót xa thương tiếc nào đó
làm cho nét mặt Trí bỗng buồn hẳn đi, mình đã tìm Phượng bao nhiêu lần trong những
năm qua nhưng không gặp được nhau. Tôi định nói, phải tìm không gặp nên chi Trí
đã bỏ cuộc. Nhưng tôi đã cảm nhận ra mình hoàn toàn vô lý, sự vô lý đáng thương
của kẻ thua cuộc thiệt thòi. Trí nhìn người con gái rồi nhìn tôi bối rối, Phượng
đi chơi với bọn mình không. Tôi nói dối để giúp cho Trí lối thoát, bằng một giọng
cao như kiêu hãnh mà thật ra để trám kín nỗi nghẹn ngào, không được đâu, mình
có hẹn, hai người đi chơi cho trọn buổi chiều đi. Bỗng Trí đưa tay ra bắt tôi,
từ biệt. Tôi choáng người trong cơn đau đớn bất ngờ, tức tủi lẫn với một nỗi
xao xuyến thương đau không cùng tưởng ngập lụt bầu trời cao xa trên ấy. Bàn tay
tôi chết ngất phút giây trong tay Trí. Cơn chết ngất ru hồn về những mùa tàn
thu cũ, con đường ẩm ướt bờ sương và hàng cây long não lá xanh ngời giao nhau
trên trời mờ đục. Cuộc rước đuốc tưng bừng nửa đêm và Trí đến thăm bất ngờ cùng
với cơn gió lạnh sắt se tuổi học trò mười sáu bâng khuâng. Lúc ra về Trí cũng
đã bắt tay tôi, tay tôi cũng đã từng chết ngất trong tay Trí cùng với nỗi rung
động thanh khiết thơ ngây đầu đời. Bây giờ tay Trí lạnh băng. Như giữa chúng
tôi đã xây lên một bức tường thép đúc. Và bức tường xua đuổi chúng tôi ra xa
nhau, mỗi người một nơi, tuyệt mù tăm tích từ đây. Tôi buông tay Trí đi mau qua
bên kia đường, nhưng qua bên kia đường tôi vẫn còn quay lại nhà Trí. Tay Trí
vòng qua lưng người con gái. Và bóng họ chìm trong sóng người của phố chiều chập
choạng đèn giăng.
Tôi nằm lì ở xó nhà người bà con từ buổi ấy nung nấu với ý nghĩ đi tìm gặp Trí.
Bởi tôi nghĩ nếu gặp nhau riêng tư, Trí sẽ trở về là Trí ngày xưa. Và Trí của
buổi chiều ngoài phố chỉ là nhân vật của một màn kịch ngắn. Màn đã hạ xuống và
tôi sẽ tìm thấy Trí, vẫn là của tôi sau hậu trường. Cho nên bây giờ mình đi tìm
Trí đây Trí ơi. Tôi dừng chân trước một căn nhà có cây trứng cá đọc bảng số.
Không phải số nhà Trí. Bỗng nhiên tôi cầu khẩn con đường còn dài ra mãi, dài
mãi cho tôi nuôi dưỡng dài lâu ảo tưởng bồng bềnh về mối liên lạc mơ hồ giữa
Trí và tôi. nhưng một lũ trẻ con ló đầu ra khỏi khung cửa xanh và tôi nhận ra
trên từng nét mặt tươi cười dấu hiệu quen thuộc của Trí. Tôi hỏi một đứa, phải
nhà Trí đây không em. Nó chạy tuốt vào trong, chú Trí ơi người ta hỏi kìa. Tôi
cắn môi ngăn một tiếng khóc không hiểu nguyên do bỗng bật lên. Nhưng rồi Trí
đó, Trí trong khung cửa xanh của những mùa xuân con gái tôi bây giờ tìm đến viếng
thăm.
"A Phượng!"
Ơi tiếng reo vui của những ngày đi học ngày xưa mỗi lần đến thăm nhau. Ơi tiếng
reo vui của những mùa hè hoa lilas tím ngát sau vườn khói. Ơi tiếng reo vui bây
giờ đã thật sự tan chìm như bọt sóng trên bờ thời gian mịt mù hai đứa nhìn
nhau.
"Tưởng là Phượng giận mình và không bao giờ còn gặp nhau".
Trong chữ nhau ngọt ngào, tôi nghe lại từng mùa xuân pháo đỏ ngập đường, những
ngày khai giảng nhìn nhau bên này bên kia khung sân trường biển rộng mênh mông,
những đêm họp bạn lửa cháy bập bùng, và chúng tôi đi với nhau, một quãng đường
mong manh từ sân cỏ ra cửa thường, đủ thắp sáng mộng mơ trong tâm hồn và bâng
khuâng trong trái tim. Tôi mỉm cười. Mỉm cười lại từ bao nhiêu năm nay hon héo
môi khô. Và bằng lòng mình đã đến. "Vào trong này đi Phượng", Trí
nói. Tôi bước qua khung cửa xanh, vào phòng khách rộng trải thảm màu vàng cam
và ngồi xuống một ghế nệm nhung cũng màu cam. Chúng tôi cách nhau một mặt bàn
vuông phủ ren trắng, với một khóm oeillet trắng nõn trong lọ thủy tinh thấp.
Trí giới thiệu khung cảnh, nhà này của anh chị mình đó, mình ở nhờ, cũng định
đi chỗ khác thích hơn. Tôi nói Trí sắp đi ở riêng sao. Trí nghịch ngợm, ở riêng
với ma. Tôi nhìn ánh nắng xuyên qua khung cửa nhỏ, và bóng tàng cây trứng cá
rung rinh in hình vào bức tường trắng trước mặt, nói vẩn vơ, hôm nay trời thật
đẹp, như trời tháng ba ở ngoài Huế. Câu nói bỗng tròng trành trong lòng tôi
chuyến đò sương buổi chiều tan học, khung trời tím trên đầu, và nỗi vui xôn xao
vừa nhìn thấy Trí thoáng qua bên kia bờ đường học trò tấp nập. Trí nói, có lẽ
mình nên đi chơi một vòng để tìm lại trời Huế ngày xưa. Tôi cúi đầu chớp mắt. Bỗng
Trí hỏi, năm nay Phượng bao nhiêu tuổi rồi. Tôi đáp nhỏ hai mươi mốt. Trí nói,
như vậy chúng mình đều còn quá nhiều thời giờ để bắt đầu lại. Tôi cười buồn, chỉ
mình mới bắt đầu lại, còn Trí thì việc gì đâu, chỉ là tiếp tục. Trí bỗng thoáng
nhìn tôi, rồi nhìn lâu, trong hai mắt trong sáng của người con trai, tôi tìm thấy
những năm tháng bỏ quên của nằm chết lạnh lùng.
Chúng tôi đi ra đường bằng một lối khác con đường tôi tìm đến. Ánh sáng bây giờ
lên cao, và ai bên đường, những cây trứng cá tỉa những tàng bóng mát xuống bước
chân đi chúng tôi ngập ngừng tìm kiếm thời gian đã mất.
"Bây giờ mình đi đâu Trí?"
"Tìm một chỗ nào không có người quen, không có không khí của Sài
Gòn".
Ngồi bên Trí trong xe tắc-xi, cảm giác lạ lùng bỡ ngỡ trở về, như lúc ngồi
trong rạp hát với đứa con trai lạ. Bây giờ tôi muốn nhìn thấy lòng sông, bóng
cây xanh trên bờ, khung trời ngói nâu, buổi chiều tan học. Muốn nhìn thấy Trí,
muốn nhìn thấy tôi, thấy Trí đúng hình ảnh và suy nghĩ ngày xưa. Nhưng tôi lạ
tôi, Trí lạ tôi, trên nụ cười như nở thắm cho những niềm vui xa lạ nào khác,
trên hai gò má bây giờ chớm hốc hác hình ảnh của những đêm đen nào tối tăm lầy
lụa. Một thoáng, tôi thấy lờ mờ qua hàng dây thép giăng trên cao cắt trời thành
những tảng xanh dài gầy gò song song thẳng tắp hai con mắt xanh xám của bà Nhất,
và cái nhìn buồn bã bây giờ lặng lẽ oán trách, lẫn với một thoáng kêu gọi não
nùng. Bỗng tôi nhớ không khí trang nghiêm quen thuộc của nhà nguyện lúc năm giờ
sáng, ánh đèn vàng lặng lẽ lan trải trên những bờ vai áo trắng im lìm như tượng
đá, và tiếng cầu kinh thanh thoát, đều đều như một điệp khúc xa xăm hư ảo. Tôi
bỗng muốn biết những gì đã xảy ra từ ngày tôi bỏ đi. Muốn biết bà Nhất dành cho
tôi những hình phạt nào. Tiếng Trí nóng bỏng như hơi ấm của lò sưởi gần:
"Phượng nghĩ gì vậy?"
"Đến nhà tu và bỗng muốn trở về".
"Nhưng sao lại còn đến thăm mình?"
"Không biết, mình muốn nhìn lại Trí lần cuối cùng".
"Làm như sắp chết đi".
"Biết đâu. Chết đi ở đời này để sống trở lại ở một đời khác".
Ngoài kia, con đường nhựa thênh thang thẳng tắp kéo dài về một chân trời hồng
thắm. Xe qua những quãng phố xá đông đảo, những cửa hàng rực rỡ màu sắc. Lác
đác một vài tiếng nổ bất ngờ, khô và ngắn. Gì vậy Trí? Tôi hỏi. Trí nghiêng vai
qua tôi nhìn ra mũi xe, pháo trẻ con đốt sớm đây, sắp Tết rồi, làm thế nào để Tết
này chúng mình cùng đi chơi thật vui với nhau. Tôi cười buồn trong gương chiếu
hậu, đối với mình hôm nay đã là Tết, ngày Tết cuối cùng.
Hình như xe dừng gần một ngã tư đèn đỏ, tiếng Trí bảo dừng xe, và tôi đi trong
chiêm bao theo Trí xuống bờ đường rực nắng. Ánh sáng chói chang của ngày gần đứng
bóng làm tôi cảm thấy cách xa cả cuộc đời, Trí, con đường và cả chính tôi.
Chúng tôi đi mải miết, từ đường này qua sang đường khác, và khi Trí nắm tay
tôi, dẫn qua một con đường rộng, tôi bắt đầu ngà ngà say, và tôi nói với Trí
chúng mình nên trở về ngay thành phố.
Tôi đi thẳng xuống hàng hoa, tần ngần đứng lại nơi hôm nào gặp lại Trí lần đầu.
Tôi cố hình dung lại hình ảnh lung linh ngọt ngào của ngày đó đã chết im lìm dưới
đáy thời gian. Bây giờ chỉ còn lại dư vang buồn bã của một ngày lang thang
trong nắng mùa xuân rạng ngời với Trí và cảm giác lờ mờ xót xa của khắc giây
mong manh và muôn trùng trong rạp hát tối mờ, lạnh lẽo, khi tay Trí ngập ngừng
tìm bàn tay tôi, áo Trí phảng phất mùi thơm nồng nàn ảo diệu của hoa huệ trắng
đêm trăng nào trong vườn xưa, hương thơm hay chỉ là ảo giác của một đời xót
thương quá khứ, hơi thở Trí ấm áp lạ lùng, rộn rã, và cuối cùng của một quãng đời
con gái trắng trong là đôi môi ngọt ngào của Trí xuống mặt tôi nước mắt không tên
lặng lẽ chảy dài. Tôi nói với Trí, cám ơn Trí về buổi sáng, về buổi chiều, về cả
ngày hôm nay, bây giờ thì để cho mình về. Trí buồn lại giọng, mình biết thế nào
rồi Phượng cũng trở về đó.
Tôi thong thả đi bộ ra trạm đón xe buýt chạy ngược ra xa thành phố. Chiều xuống
thấp trên những đỉnh cây bắt đầu nhoà sương. Trời thoang thoảng lạnh phủ trùm
xuống vai áo tôi gầy gò mỏng mảnh. Khi về đến cửa nhà nguyện trời tối hẳn. Tôi
len lén ra ngả sau, vào phòng tối, trút bỏ tất cả áo quần của một ngày lang
thang, mặc trở lại quần áo vải thô, rồi hấp tấp đi trở lên phòng bà Nhất. Tấm
màn đen phủ xuống im lìm. Tôi lẩm nhẩm một bài kinh quen thuộc trong lúc chờ lệnh
bà Nhất gọi vào cho lòng lắng dịu xuống. Nhưng sau lưng tôi, một bàn tay êm dịu
nào đã phủ xuống, như là sóng đêm tẩy xoá vết bẩn trên mặt cát chiều hôm, và giọng
bà Nhất đằm thắm dỗ dành, mẹ biết rồi con sẽ trở về.
"Nhưng con đã cắt ngắn mớ tóc rồi".
"Tóc con sẽ dài trở lại".
"Và lòng con cũng đã hoen ố rồi".
"Tiếng cầu kinh sẽ gột rửa cho con".
"Con không xứng đáng".
"Con tự biết là xứng đáng nên mới trở về. Bây giờ con hãy ra ngoài sân cỏ,
mẹ vẫn để dành cho con tặng phẩm cuối cùng, mẹ đã cho đem phơi sương, vì biết
là con sẽ trở về lúc trời tối".
Tôi thoăn thoắt ra hành lang, xuống thềm, ra sân. Ánh đèn từ bên kia dãy nhà
nguyện hắt xuống sân cỏ một vệt trắng mờ hư ảo. Và trong vệt sáng lờ mờ tưởng
như một dòng Ngân hà xa thẳm đi không bao giờ tới nơi, tôi trông thấy tấm áo
chùng trắng trải thênh thang, hình ảnh tôi sấp mình chuộc lỗi dưới trời, và
xung quanh, những tấm áo lót vải thô trắng nõn, những chiếc tất dài, cái mũ
cùng tất cả những hành trang cần thiết tiễn đưa tôi lên cuộc đời sáng láng trên
cao. Không phải là tôi trở về trong đêm nay đâu. Tôi ra đi. Vâng, mình sắp ra
đi, đi thật xa để đừng bao giờ thấy nhau nữa Trí.
Thành lũy hư vô
Tôi nốc ba ngụm bia thong thả, đắm đuối. Một ngụm cho cô đơn.
Một cho tình yêu. Một cho sự chết. Và cầu khẩn được một trong ba điều. Nhưng chẳng
điều nào đến, hoặc chỉ đến thoáng qua một lần nào đó xa vời, và mất hút vĩnh viễn.
Còn lâu lắm một trong những điều ấy mới trở lại, có lẽ là điều cuối cùng, có thể
là điều thứ nhất. không bao giờ điều thứ hai, không bao giờ là tình yêu. Nói vậy
chắc chắn không ai tin, tình yêu đã chẳng bao giờ đến trong suốt nửa đời bồng bềnh
vô định. Tôi nhìn thẳng vào gương, tìm uống ánh mắt mình trong đó cùng với cảm
giác lâng lâng ngọt ngào của hơi bia lạnh ngắt đầu môi, và thấy điều đó thật vô
lý. Tôi đẹp, tôi biết, ai cũng biết. Là thằng con trai đẹp, và bây giờ, gã đàn
ông đẹp, thật ngang tàng, phảng phất một thoáng lãng mạn âm thầm ở mái tóc, vầng
trán, và nhất là hai con mắt. Hai con mắt vốn liếng của tình yêu, của cô đơn,
và đến một lúc nào đó, rồi là của sự chết. Hai con mắt đưa tôi đến gần tôi và
nhìn thấy rõ chính mình. Đàn ông soi gương nhiều thật là hài hước. Nhưng sau mỗi
chuyến bay xa về, tôi vẫn cố kiếm tìm lại hai con mắt đen mở lớn của mình, bất
cứ nơi đâu, trong khung gương lớn của nhà hàng ăn, trong phòng rửa mặt của rạp
chiếu bóng, trong kính chiếu hậu của một xe nào bên cạnh thoáng qua. Không có dấu
hiệu gì thay đổi. Vẫn nỗi buồn đong đưa. Vẫn nỗi ngạc nhiên sờ sững. Vẫn một
tìm kiếm xa xăm không nguôi. Chúng nó cứ bảo là tôi diễn xuất. Có ai đâu mà diễn
xuất. Chán ngấy, như phải ăn mãi một món xúp tủy bò, những em chiêu đãi viên
óng ả, lượn lờ như rắn đêm. Không còn ai nữa. Thỉnh thoảng là một bóng dáng
hành khách mơ hồ. Họ đến và họ đi, với những người khác, thuộc về những chân trời
khác. Đôi mắt tôi mất hiệu lực từ ngày lấy vợ. Vì sao không biết. Trước kia
nhìn là một dấu hiệu bắt buộc họ dừng lại, ngã gục trong thuốc mê đằm thắm của
hồn tôi. Bây giờ họ lạnh lẽo bỏ đi. Tôi biết là cái nhìn đã trở nên mỏi mệt. Có
riêng gì đường bay xa, nhìn mãi những chân mây hun hút nên hai mắt lơ đãng ưu
phiền không còn linh động. Tôi chỉ dối trá vô ích với mình. Tất cả chỉ vì Loan.
Vâng, người đàn bà là vợ. Loan không có một khuyết điểm nào, không làm mất lòng
tôi bao giờ, nhưng chính điều đó làm ta dửng dưng, khô cạn. Phải cảm thấy người
kia sắp sửa bỏ đi để ta tìm kiếm, phản bội để ta giận hờn, xua đuổi để ta đớn
đau, buông rời để ta níu kéo, xấu xa để ta khinh bỉ, và tất cả tạo thành một
khát khao, một đeo đuổi, một phấn đấu âm thầm nào đó. Loan lại hoàn toàn quá
cho nên tôi cảm thấy nhẹ nhõm trống không. Mà tôi thì mong đuổi bắt, như ngày
trước, tôi cũng phải đuổi bắt hụt hơi để được Loan. Lần nào trở về cũng thấy
Loan bồng con đứng đón ngoài sân bay chói nắng hay dầm dề mưa phủ. Vẫn những âu
yếm nâng niu, những níu kéo vòi vĩnh đó. Nhiều thứ quá nên tôi không thiết tha
đến cái gì nữa. Lỗi của Loan là làm tràn ngập đời sống tôi, trong khi chính tôi
lại muốn trùm phủ hết đời sống và tâm hồn vợ. Nhưng tại sao vẫn không cảm thấy
cô đơn, cô đơn dịu dàng thân thuộc của những ngày phiêu bồng thuở trước. Đôi mắt
tôi trong gương bỗng rưng rức tủi buồn. Tôi cố nghĩ triền miên để tìm quên đây.
Quên đi. Không quên được. Cái gì vặn xoắn trong lòng, nóng bỏng thịt xương,
ngây ngất mặt mày. Đừng nhìn về phía đó nữa, đừng. Cố nghĩ tiếp tục cái gì nữa
đi. Không thể nghĩ đến điều gì khác. Bồi, cho thêm một băm ba. Hết rồi à. Sao vậy?
À hãng đình công. Thôi một bia hộp. Gì cũng được. Hamm’s đi. Phải hộp xanh. Cám
ơn. Một ngụm hai ngụm ba ngụm, nốc hết, nốc hết một lần tất cả cô đơn, tình yêu
và sự chết, tất cả đến dần dần rồi đây. Cái gì, say à, còn lâu, rồng la-ve mà
say, còn lâu. Nhưng sao chong chóng màu đen quay tít. Quay tít những vòng tròn
hun hút, dịu dàng. Bão lốc khô khan ùn ùn thổi tới. Hai mắt tôi khép kín, hai mắt
tôi mở ra. Và vẫn nhìn về phía ấy. Áo xanh, trời ơi, áo xanh sao?
Đó, người ta ngồi đó. Áo xanh xoã tóc qua bờ má đỏ. Áo xanh chống bàn tay ngón
nhỏ lên cằm. Áo xanh chớp hàng mi nhẹ, và áo xanh mỉm cười với khoảng không trước
mặt bâng quơ. Có phải khoảng không hay có ai ngồi trước mặt. Hàng cột che khuất
mất chỗ tôi muốn lao mắt nhìn tới. Áo xanh rời bàn tay khỏi cằm, nâng ly nốc một
ngụm, cũng bia, cũng Hamm’s xanh, và cười, ơi khéo môi tôi không thể nhầm lẫn với
một khoé môi nào khác, đúng là người, đúng là em, phải không người năm năm nhìn
thấy lại chiều nay.
Có nên đứng dậy và đi đến không? Tôi đốt một điếu thuốc và thở khói, tự hẹn sẽ
quyết định khi hút xong điếu thuốc. Điếu thuốc tàn bao giờ. Em lung linh bên
kia bàn, cách tôi một lối đi nhỏ, những dãy ghế chông chênh trống lốc. Tôi đứng
dậy và ngồi xuống. Vẫn nhìn qua bên ấy. Làm sao tôi biết tên người để gọi chiều
nay, gọi cuồng điên cho năm năm tìm kiếm mịt mù tăm tích. Cho tôi nói. Cho tôi
kể. Và cho tôi xin mười ngón tay người rẽ lối tóc đêm. Không bao giờ như thế
đâu. Nhưng cho tôi mê mù ao ước. Hãy ngồi lại, đừng xê dịch, đừng bước đi, cho
hồn tôi lại tỉnh trở về. Áo xanh đứng dậy, và rồi cũng như tôi áo xanh ngồi xuống.
Và nhìn ra. Cơn đau đớn bàng hoàng êm dịu phủ trùm xuống người tôi như một ngọn
sóng thầm lặng lẽ. Chúng mình nhìn ra nhau rồi phải không em? Nhìn ra nhau, vì
đã đi tìm nhau thầm kín phải không? Thành phố ngoài kia im tiếng. Những tiếng
xe chìm xuống hư vô. Buổi chiều phủ phục lặng ngắt trên những hàng cây trọi lá.
Nhạc chết ngất trong đáy ly này, và ào ào vô vàn những mảnh vỡ tới tấp rơi bay
của thời gian. Cho năm năm qua không còn. Cho hôm nay là ngày ấy. Và tôi lùi về
đêm tối nào xưa tìm áo xanh người.
Đến một ngã tư đèn xanh, tôi vẫn dừng xe lại, hơi lâu và khác
thường. Con đường vắng ngắt phía trước. Gió đêm quạt những chiếc lá lìa cành
qua kính xe. Rượu nồng và gió lạnh bốc lên tâm trí tôi những ám ảnh vừa buồn rầu
vừa nao nức. Người đàn bà hỏi, sao dừng ở đây. Tôi cố ghìm đầu thật thẳng để đừng
xoay lại đằng sau, hình như xe có gì trục trặc, để tôi xem lại. Tôi nói và mở cửa
nhảy xuống. Giọng bà ta trong vắt, xe ông nhà vừa mới mua đã hư rồi sao. Tôi
nói, xe này của chú tôi, tôi chỉ quen lái xe tôi. Hình như bà ta nói trong nhà
nhiều xe thế. Rồi im. Lúc tôi xem xong đầu máy mở cửa bước vào xe, bà ta ngồi lặng
ngắt như một xác chết. Hai con mắt mở trừng trừng nhìn lên vòm lá đêm xôn xao
trên kia vũng tối, tay khoanh trước ngực phập phồng, bà ta hỏi, con đường này
đi đâu. Tôi cảm thấy nước mắt mọng đầy như nước mưa căng trong không khí ẩm ướt
ở giọng nói người đàn bà.
"Về nhà bà, chú tôi bảo đưa bà về nhà".
"Lúc nãy, anh biết nhà tôi đi đâu?"
"Đi với chú tôi".
"Anh dối, không phải vậy đâu, tôi biết, và muốn người khác cũng san sẻ điều
đó, anh nói cho tôi nghe đi".
Tôi định nói thẳng thắn là đi theo cô ca sĩ, nhưng cảm thấy điều đó bẩn thỉu hạ
cấp, không xứng đáng để trả lời người đàn bà, tôi nói khác đi:
"Bà cũng quan tâm đến thế sao?"
"Tất nhiên, vì quan tâm đến việc nhà tôi là quan tâm đến tôi, tôi cảm thấy
bị xúc phạm, thế thôi. Tôi chỉ đau đớn khi bị xúc phạm, ngoài ra, mọi điều
không có nghĩa gì hết".
"Không đáng cho bà quan tâm?"
"Định khuyên tôi hay sao?"
"Không dám, nhưng tôi không muốn thấy bà như vậy".
"Chịu đựng là tình trạng của buổi tối này".
"Vậy ra cũng có người biết tôi sao?"
"Nhưng không phải tất cả đâu, chỉ mới một phần, một phần nhỏ thôi".
Tôi nhìn người đàn bà. Hai con mắt trong bóng tối bỗng nhìn lên tôi thảng thốt
nín câm. Và đôi con ngươi dịu dàng lắng xuống, chìm đắm trong một nỗi bồi hồi
nao nức. Tôi bỗng nói, hình như tôi có gặp bà ở nơi đâu một lần rồi. Bà ta nói,
tôi không nhớ, nhưng hình như vậy. trong nụ cười, đúng là người đàn bà đã nhớ
ra như tôi đã nhớ ra ngày đi chơi đập nước ở ngoại ô. Tôi đến tìm thằng em đang
làm việc tại đó. Ai vậy, tôi hỏi thằng em. À, nữ hoạ sĩ làm trong ban kế hoạch,
nó nói, ghê gớm lắm, không được đâu anh. Tôi hỏi cái gì mà ghê gớm, nó bảo em
thì chịu thua rồi, thành thử không dám nhìn bà ta nữa. Tôi vỗ vai thằng em, vậy
thì chú kém quá. Nhưng chính tôi cũng kém quá. Bởi sau đó tôi mất hồn, mất bình
tĩnh, đi qua đi lại trong phòng trống không biết mấy lần để nhìn nàng, nhưng
không còn thấy đâu nữa. Cho đến khi đi ra cửa tôi cảm thấy bị nhìn, nhìn xoáy lốc
theo một cơn gió thơm. Tôi đứng lại và không nhận ra nàng ở phía nào trong xưởng
đang xây cất. Xe chạy qua con đường mòn, tôi nhìn thấy nàng đứng sau hàng cột lớn
trông theo, hai con mắt đăm đăm. Tôi quay xe trở lại, thẳng về phía nàng. Qua lớp
bụi hồng ngun ngút của công trường, hai con mắt của người đàn bà sững sờ mở lớn,
nhắn gửi câm lặng của một nỗi gì nao nức bất ngờ. Chúng tôi nhìn nhau lâu, thật
lâu. Và tôi lái xe đi ngay, không hiểu sao. Hai con mắt người đàn bà ám ảnh tôi
đi qua sau đó. Đôi mắt đã tìm thấy một điều gì đó lạ lùng kinh ngạc sững sờ, và
đồng thời, tuyệt vọng vì điều đó ở trong một khoảng cách vô biên. Hai con mắt nồng
nàn và đau đớn. Những chuyến bay xô đẩy tôi xa thành phố, và đêm nay đôi mắt mở
lớn âm thầm trong xe tôi.
"Tôi đã nhận ra bà".
"Tôi cũng vậy".
"Bà ra ngồi đằng trước này".
"Không, nhất định không".
Chống đối với chính mình đấy phải không, tôi định hỏi, nhưng người đàn bà đã
yên lặng mở cửa xe, ngồi đằng trước, bên cạnh tôi. Tôi mở máy xe, quày trở lại
con đường tối vắng cũ.
"Hãy đưa tôi về!"
"Vâng, nhưng trước đó, nên đi một vòng cho mát".
"Ích gì đâu, hoặc trở về, hoặc đi thật xa không bao giờ trở về, cả hai đều
không ổn. Nhưng phải rồi, nên đi trước khi trở về, dù chỉ là một đoạn đường".
"Sao hôm đó bà nhìn tôi?"
"Anh giúp tôi nhìn rõ đời sống tôi".
"Không dám".
"Thật đấy mà, tôi nhìn thấy anh và nhận ra mình đi lạc đường, bao lâu nay.
Người nào cũng có một lúc cảm thấy thế. Dù sao tôi cũng xin lỗi, nhưng tôi quá
nặng lòng với ngày cũ, và anh đánh thức ngày cũ của tôi, anh biết không? Anh
còn nhớ con đường đầy hoa ăng-ti-gôn trắng, và tiếng hát trong đêm trắng… tiếng
động sau vòm lá".
"Đúng là bà phải không?"
"Tôi đến ở cạnh nhà anh từ lâu, dạo ấy, mà không biết, anh đàn cho cô gái
kia hát".
"Bà theo dõi tôi hồi đó?"
"Tôi chẳng có quyền đó sao?"
"Nhìn trộm kẻ khác?"
"Tôi không nhìn trộm, ngang nhiên là khác, nhưng anh không thấy, vì nhìn
đi nơi nào, thế thôi".
"Vậy ra chúng mình là người quen?"
"Phải, những người quen rất xa lạ, và cách biệt bây giờ".
Con đường đi đến đâu rồi tôi không biết. Phía trước chỉ còn một vùng sáng tròn
lờ mờ của đèn xe. Tôi tắt đèn.
"Tự nhiên tôi ghét tôi lạ lùng".
"Nghĩ bậy".
Hai tiếng buông ra không suy nghĩ lựa lời gieo vào chúng tôi âm thanh thân mật
đến bàng hoàng rợn người. Mùi thơm ngây ngất của mái tóc người đàn bà trong vòm
xe tối phả lên tâm trí tôi phiêu bồng lãng đãng cảm giác ray rứt xôn xao không
tên. Tôi cảm thấy người đàn bà nhìn tôi, đằm thắm và nồng nàn trong bóng tối,
như choáng ngợp trước một trời pháo bông và rực sáng. Tôi chỉ cảm thấy và không
nhìn lại. Cảm thấy do một linh giác nhạy bén, đến nỗi trong đám đông, mỗi lúc bị
nhìn, tôi có thể quay lại và tìm ra phương hướng của đôi mắt đăm đăm nào đó.
Nhưng phút giây tôi tiêu tan, tiêu tan hoàn toàn, chỉ nghe một vầng mây ấm lan
dần, bủa vây thân thể, và tất cả những hơi rượu nồng của bữa tiệc vừa tàn buổi
tối xông lên bát ngát trong đầu tôi hừng hực nóng. Và tôi nghiêng người qua bên
cạnh. Tiếng người đàn bà mơ hồ xa tắp.
"Chúng mình đi đâu đây?"
"Cuối cùng của một con đường tưởng tượng".
"Sau kia mút đường là gì?"
"Hoả ngục hay thiên thai".
"Chúng mình đến đâu?"
"Nếu tìm đến thiên thai sẽ rơi vào hoả ngục, và nếu chịu đựng hoả ngục sẽ
tìm thấy đường về thiên thai".
"Tôi chọn đường thứ hai. Hoả ngục ở đâu?"
"Ở đây".
Tôi nghiêng mặt xuống vũng tối lờ mờ không phiêu bạt ảnh hình màu sắc trong tầm
mắt ngất ngây mờ mịt. Ngón tay tôi vẫn vờn quanh đôi môi nóng bỏng của người
đàn bà. Hơi thở nàng thơm như sương khuya toả ngát từ cành ngọc lan trắng nõn.
Tôi không biết tên anh, muốn gọi, nhưng hãy đừng nói cho biết. Hình ảnh là hình
ảnh, chắc không tên nào đúng là tên anh. Còn bà, tôi hỏi. Tôi cũng vậy, hãy
quên tên, những danh từ riêng vô nghĩa, không diễn tả được gì. Vậy bà mặc áo
gì? Anh không thấy màu áo tôi sao? Không, tôi chỉ thấy màu con mắt bà. Áo xanh.
Áo xanh như buổi chiều ở công trường đó sao? Vâng, dấu hiệu để anh nhìn thấy
tôi. Gió khuya thả vầng tóc nhung của người đàn bà xuống bờ vai tôi nặng nề ám ảnh
về Loan.
"Xin đưa tôi trở về, trở về thật nhanh".
Tôi lao vút xe vào khoảng đường tăm tối cũ. Tôi rã rời nghĩ đến chuyến bay ngày
mai. Đến Loan đêm nay ở nhà. Đến người đàn ông chờ người đàn bà trong căn phòng
quen thuộc nào đó. Đến những ảo tưởng mong manh của đời người nổi trôi vô
nghĩa. Đến những đuổi bắt không đâu. Những xót xa kiên tâm. Những thao thức nhớ
mong. Đến tất cả những vẻ đẹp bất ngờ chợt đến chợt đi không báo trước. Rồi sẽ
chán ngấy hơn khi trở về cuộc đời, trở về nhìn hai con mắt tôi, sau mỗi chuyến
bay, sau mỗi đổi thay, mỗi tình cờ gặp gỡ. Tại sao băn khoăn. Tại sao xếp đặt
cho thật đẹp, tất cả, tất cả. Tại sao không liều lĩnh, không phá phách, như lệ
thường. Tôi đang mất thăng bằng hay tìm lại thăng bằng cho đời sống từ buổi tối
nay. Chúng tôi, tôi và người lặng câm ăn năn vô lý bên cạnh chỉ là những kẻ đói
khát hạnh phúc, những kẻ tìm kiếm rất cô đơn. Tôi tìm ra em. Và em cũng tìm ra
tôi, nhưng sao ta xa cách nhau thăm thẳm nghìn trùng. Tại sao? Tại sao? Trong
câu hỏi vẫn bao hàm muôn nghìn câu hỏi. Tôi chỉ có thể giải đáp nếu phút giây ảo
ảnh vừa rồi, tôi ghé xuống môi em, ghé xuống đời em. Nhưng chúng ta đã thả trôi
giây phút thiên thu đó. Như thả một chiếc lá theo dòng chảy xiết, gieo một giọt
nước vào biển cả vô cùng. Tất cả đã đến, chỉ một lần, và đã chìm tan. Động lực
làm mỗi chúng ta phải loay hoay khổ sở tuyệt vọng kiếm tìm cái ngoài đời ta hiện
có. Tôi hiểu vì tôi quắt quay vì hiểu tại sao em tìm kiếm hai con mắt tôi buổi
chiều nắng cát công trường. Vì sao buổi tối em gục đầu chống hai tay giữa tưng
bừng yến tiệc. Vì sao em bỗng vui bỗng buồn. Cũng như tôi hiểu từng nỗi niềm
riêng tư thầm kín của mỗi người ở đó. Hiểu vì mỗi một người đều phải đi qua đường
đời mình với chừng ấy cảm tình, tâm trạng đau khổ hay sướng vui. Tôi đã đi qua
rồi, đi qua khắp cùng rồi nên tôi hiểu đó em. Hiểu là người đàn ông yêu em
nhưng vẫn kiếm tìm một cái gì thấp kém và xa lạ để đổi thay cảm giác, đúng hơn
là không khí ngục tù hôn mê của đời sống đã quá cũ mòn. Hiểu là ông linh mục
trang nghiêm điềm tĩnh mỉm cười bao dung nhìn đám thực khách, nhưng trong lòng
cuồng điên nấu nung muốn chết, muốn chết chỉ bởi ý tưởng nọc độc là đời sống
quá tội nghiệp đáng thương đã dung chứa những con người nông nổi, tầm thường,
hưởng thụ ngu ngơ và sung sướng ngốc nghếch, bởi thấy mọi sự ngay cả hy sinh,
khổ hạnh, tất cả mọi hành vi cứu rỗi đều chỉ là hạt muối thả vào lòng biển sâu,
những bài kinh không làm nguôi dịu những tâm hồn điêu đứng. Và chân lý mặt trời
cũng không sáng tỏ bằng một miếng ăn ngon, hay một nụ cười chuôi chuốt của gái
đêm. Mọi sự thực tình đã đảo lộn hết ngôi vị và tính chất rồi. Những nếp nhăn,
những vết thương xâu xé sau vầng trán căng đầy của ông linh mục, không ai biết
không ai thấy. Bởi ông ta là kẻ xa lạ trong đời, luôn luôn là kẻ lạ cô đơn
nhưng chưa bao giờ đồng, và ông ta, cũng như mỗi người trong chúng ta, đều có
hai con người riêng biệt chống đối và quay lưng nhau vừa thoả hiệp bắt tay
nhau, một cho riêng mình, và một cho cuộc đời đối diện, cho những hiện tượng
bên ngoài. Hiểu là tên nhà văn nhăn nhó, vừa khinh bỉ bám víu lấy và lệch lạc
khó coi của bữa tiệc đời quá muộn. Hắn muốn bỏ đi mà không thể dứt lìa những hệ
lụy xung quanh. Hắn muốn chửi rủa nhưng phải tươi cười chúc tụng. Cho nên hắn
chịu đựng thường xuyên một bi kịch phức tạp trong lòng. Hiểu là ông bộ trưởng cố
tìm những câu hài hước để lấp đầy khoảng trống không trong lòng và trong đời.
Khoảng trống tạo ra bởi một tình yêu biến mất và một xác chết vùi chôn. Ông ta
đớn đau thường trực nên phải tươi cười không dứt để gượng gạo với đời. Ông ta
móc nối vô vọng bằng sự hài hước và tiếng cười ung dung của mình, những người đối
lập xa cách với nhau, và dẫn lối chính mình về với đám đông rạc rời ngao ngán.
Hiểu là người con gái mê tình nhân và đồng thời cũng có thể thổn thức vì một kẻ
hào hoa nào khác. Cho nên khi rót rượu vào cốc của người tình, nó vẫn không
quên chạm nhẹ tay mình vào vai áo của người kia. Tất cả là một thảm kịch, và em
lạc loài trong thảm kịch đó, suốt một buổi tối suốt một đời còn. Tôi xa lạ, tôi
bên ngoài, và hai con mắt em đã viết chúc thư vào hai con mắt tôi trao gởi hết
tâm hồn cô quạnh. Cho nên tôi đã tìm cách đưa em về. Tìm cách đưa em đi, tách rời
trong khoảnh khắc khối không gian đặc quánh của ưu phiền quen thuộc đến không
còn nhận ra, để nhìn thấy tôi, nhìn thấy em một lần, trước khi ta có thể nghĩ,
vĩnh viễn từ đây, trong tâm hồn, tôi có em và em có tôi. Đó là hạnh phúc mỏng
manh, là niềm an ủi thầm lặng cuối cùng ta không thể phá cho tan hoang những
ngày còn lại, cho nên trong một khoảng cách hoả ngục dày vò, môi anh đã ngừng
trên bóng môi em. Nếu không sau đó, bờ đê sẽ vỡ, con lụt sẽ tràn, và đồng bằng
ngày tháng ngày mai sẽ không còn xanh thắm nữa. Nhưng như thế là anh đã buông
tay. Mai anh đi rồi. Đi thật xa và không biết bao giờ về. Sẽ phải bỏ máy bay một
thời gian. Đi vì không thể sống mãi với Loan, và vì vậy, cũng không bao giờ còn
gặp lại em. Rồi em sẽ trở về đời sống đó. Đời sống sẽ dàn bày đầy đủ trong bữa
tiệc buồn đêm nay.
"Mai tôi đi xa".
"Sao lại mai mà không là một ngày khác?"
"Mọi chuyện đã sắp đặt như thế, tôi cũng không định".
"Thế cũng may…"
"Nếu mai tôi chưa đi, bà cho phép tôi gặp lại không?"
"Không. Tôi không cho tôi gặp lại anh đâu".
"Bà chọn đường đi từ hoả ngục đến thiên đường?"
"Không chọn, nhưng đành vậy, như thế này biết đâu là thiên đường đến hoả
ngục. Ngày mai chẳng phải là hoả ngục sao? Sắp đến nhà tôi rồi, anh cho quẹo
trái, đấy, cách ngã tư một quãng. Anh nghĩ gì nãy giờ?"
"Bữa tiệc, và bà trong bữa tiệc".
"Tôi sao?"
"Bà lạc lõng, kiếm tìm, và tìm thấy".
"Tìm thấy ở đâu anh?"
Tôi ngừng xe dưới một bóng cây không có đèn đường canh giữ, buông tay lái, níu
lấy bờ vai quấn vầng tóc thơm. Đêm im ru ngủ môi tôi trên môi nàng mặn nồng nước
mắt thầm trôi.
Bỗng bùng cháy lên trong tôi một ngọn lửa kỳ dị giây phút đó,
khi tôi nhìn thấy anh ở bàn bên kia. Tôi cố nghĩ không phải anh đâu, một người
khác, bởi bao nhiêu năm nay tôi chỉ sợ hãi mỗi một điều là còn nhìn thấy lại
anh một lần đâu đó. Bởi chỉ cần nhìn thoáng thấy anh thôi là tất cả sẽ phục hồi
trong tôi, và tôi sẽ phải chọn lựa, dứt khoát chọn lựa. Hoặc ở lại đời sống này
hoặc bỏ đi. Bởi vì anh là gương trong phản chiếu cho tôi nhìn thấy những sự thật
buồn rầu tương phản. Xin lỗi tôi đã tìm đến làm phiền và khuấy động yên lặng
chúng mình đã ngấm ngầm thoả thuận giữ gìn, kéo dài. Nhưng tôi không thể ngừng
lại được nữa khi ngọn lửa kỳ dị đã cháy lên. Nhưng tôi chỉ đến thăm rồi lại về,
tôi không chọn lựa, không bỏ đi đâu cả. Đời sống đã mọc rễ trong hoàn cảnh cố định,
và tôi sẽ cố gắng hoàn thành những ngày còn lại, như một kẻ tu hành phân vân giữa
thế tục và đức tin, đã chọn lựa phần khổ hạnh.
Buổi chiều mùa xuân phả nắng hồng non lên bờ cây đường phố. Tôi ngồi yên nghe
người đàn bà nói, nói một mình. Những âm thanh trơn tuột ra khỏi chú ý tôi. Lại
nỗi mỏi mệt không đâu ùn ùn như một tảng mây đen kéo đến phủ trùm. Sự mệt mỏi
khước từ tất cả những hình thức phức tạp và những vấn đề rắc rối của đời sống.
Người đàn bà ở trên bờ vực, sắp sửa buông tay, như tôi ở trong lòng trời ngày
hôm trước, không hiểu vì sao cũng đã muốn buông tay. Nhưng rồi cả nàng, cả tôi,
cả mọi người đều biết dừng lại đúng lúc. Và vì thế mà lẩn thẩn, vô nghĩa. Người
đàn bà đã tìm đến, sau buổi chiều nhìn thấy tôi ở nhà hàng. Tôi đã cuồng điên
muốn kiếm tìm cho thấy áo xanh. Nhưng khi nàng tìm đến, tôi không còn cảm thấy
gì hết, ở người đàn bà, ngọn lửa rơi xuống trong tâm hồn bình yên những tàn tro
lả tả. Khoảng không gian cách trở chẳng còn, chúng tôi đã nối liền và vì vậy
người ta mất nhau, đúng hơn là không còn cảm thấy thích nhau. Ở mắt nàng nhìn
tôi, và tôi nhìn nàng đã tố cáo điều đó. Không còn ánh sáng rực rỡ của sửng sốt
ngạc nhiên và nồng nàn của xôn xao rung cảm. Sự quen biết, và tệ hơn, sự gần
gũi cố ý đã giết chết ảo tưởng mong manh về người đối diện suốt nhiều năm đeo
đuổi không ngừng. Nàng đòi ra phố ngồi với tôi, thật ngang nhiên để thử tìm lại
xem cảm giác bồi hồi trong ngăn cách nhìn thấy nhau hôm nào ở nhà hàng còn
không. Bây giờ chúng tôi dửng dưng nhìn nhau. Con mắt không còn gì hơn là hàng
mi đen dài vây quanh một khối tròn màu đen màu trắng ướt át. Tiếng động bàng
hoàng, tiếng kêu thất thanh trong xương tủy đã chìm lắng xuống dần dần. Và
chúng tôi đã trở lại là những người lạ, những kẻ phủi tay vô ơn đi ngược chiều
nhau xuống con dốc đời bây giờ lạnh lẽo không cùng.
Mùa xuân trở về hấp tấp trên những tà áo mới của hè phố đông Chủ nhật. Nhôn
nhao những bọn người nao nức kiếm tìm niềm vui, hẹn hò, rủi may, bất ngờ, tình
yêu, hạnh phúc. Họ tìm thấy ở nơi đâu không. Họ đi như vội vàng sợ đến trễ một
cuộc lễ tưng bừng độc nhất trong đời ở cuối con đường, như chúng tôi cũng đi và
cuối đường không có gì hết. Nhưng họ say mê đi tới, say mê mù quáng đến tội
nghiệp. Mỗi người giành giật lấy hạnh phúc tối thiểu trên hè phố. Đứa con gái
diêm dúa kẹp tay hí hởn một người lính đồng minh. Thằng nhóc con cúi đầu bờm xờm
xuống má hai con nhóc con tán tỉnh liên hồi. Mụ đàn bà quá tuổi phấn son lòe loẹt
cố gò lấy một dáng đi dịu dàng. Tên đàn ông hấp tấp nhào lên xe hơi cửa mở đeo đuổi
một áp-phe. Người vợ mang thai mỏi mệt đi cạnh người chồng áo quần lệch lạc nhuốm
đầy bụi đất. Bọn sinh viên sĩ quan hối hả qua lại, muốn mua thật nhiều với số
tiền thật ít, muốn hưởng thật đầy phần thời giờ mong manh, để có thể mang về
quân trường tất cả phố phường reo vui chiều Chủ nhật. Để cuối cùng những chiều
Chủ nhật như thế là bãi chiến trường… Và tôi, và em ngồi đây nhìn sự sống chênh
vênh dàn trải bên ngoài trong chiều dần dần xuống, khỏa lấp những hy vọng cuối
cùng, và một ngày khác sẽ mọc lên, như một nấm mồ mới. Tất cả những thứ ấy, giả
tạo, mong manh, thương tâm, kỳ cục, sống sượng, hài hước đang diễn hành qua hè
phố đó em, như tất cả những trạng thái đó đã chảy trôi qua tâm hồn qua bao
nhiêu năm nay, từ khi con mắt em nồng nàn kêu gọi lòng anh, để dù sao cũng đã
xây đắp nên thành luỹ hư vô cho đời sống buồn rầu.
Dấu chân bãi cát
Cảm giác chìm nổi bồng bềnh trong dòng sông đen đặc quánh, Hiệp
bàng hoàng đọc lại không biết lần thứ mấy khoản tin tức bất ngờ trên báo, trong
khi buổi chiều đâu đó đã chập choạng buông màn xuống vùng không gian im vắng mê
man. Niềm xót xa lâng lâng lúc đầu dần dần biến thành một đau đớn gậm nhấm nhức
nhối trong tâm hồn, xô đẩy Hiệp vào giữa vùng bất định giằng co của ý muốn đi
thăm Nga, xin cho Nga trở về với mình, hay mặc Nga với màng lưới đen tăm tối đã
phủ xuống đời sống nàng đang bình yên, vĩnh viễn. Hiệp nghĩ mỗi người chỉ có thể
tự cứu lấy mình, trong bất cứ trường hợp nào, nhất là khi rắc rối vì một lý do
tinh thần hay tình cảm. Nhưng với người đàn bà thì không thể tự cứu lấy mình.
Nhất là người đàn bà đã liên hệ sâu xa với mình, dù một năm một tháng một ngày
nào đó gối chăn. Cho nên Hiệp phân vân. Phân vân và khổ sở giữa hai ý muốn đồng
thời và đối lập là đi tìm Nga, đưa nàng về hay làm ngơ, bỏ mặc. Cho đáng kiếp.
Có lẽ là Nga sẽ khóc. Nhưng nước mắt đàn bà chỉ là những hạt nước mưa trên ngọn
lá môn. Rồi Nga sẽ tủi nhục một thời gian, và sau đó, quên hết để bắt đầu một
trường hợp khác, tương tự, thản nhiên như ra chợ chọn một xấp hàng may áo. Một
cái áo. Rồi những cái áo. Nhưng mà không thể như thế được. Vì Nga đã là của Hiệp.
Của Hiệp trong đời sống, trong những ý nghĩ thiên thần trong sáng về một người
con gái ngày xưa. Bây giờ Nga đến thế. Tại sao? Có phải vì chàng? Vì những
nguyên nhân không ngăn ngừa đề phòng, và Nga bây giờ như thế. Với một người đàn
ông nào Hiệp chưa từng biết, cùng bị bắt, ở một căn phòng trên cao thành phố,
nhờ sự tố cáo của một người đàn bà khác. Hiệp chết điếng với bài báo đó. Phản bội
có nghĩa là mất mát. Cho nên niềm tức giận cũng là nỗi xót xa. Và đến khi mất rồi,
Hiệp mới khám phá ra giá trị của một báu vật. Nga và tình yêu cho chàng. Những
ngày với nhau quên trời đất. Vùng không gian diễm ảo không bóng hình kẻ thứ ba.
Bây giờ đã hết. Và có tìm đưa Nga về cũng chỉ như lần đầu tiên cuối cùng khâm
liệm một phần đời sống mình thôi. Nhưng Hiệp không thể không đi. Bài báo mô tả
đời sống bẩn thỉu nhục nhằn của nhà giam bọn đàn bà con gái nhơ nhuốc đó. Nga
đã bị lầm tưởng, đã bị đưa vào đó, và bây giờ, cúi mặt xuống vùng bóng tối, Nga
đang mong mỏi tuyệt vọng chàng tìm đến, như một biện minh với cuộc đời và tình
yêu còn rơi rớt lại trong tận cùng đáy lòng đã héo hon tủi nhục buồn phiền.
Hiệp mặc áo và ra đường. Đêm đã xuống. Con đường lập loà ánh đèn và bóng lá
trôi dần vào miền tối tăm vắng ngắt phía trước. Bóng Hiệp đổ dài trên mặt nhựa
đen, chàng đã tan biến trong một cơn gió lạ lùng nào, chỉ còn chiếc bóng này
lang thang trôi dạt về cuối đường thăm thẳm. Chàng chờ và gọi một chiếc xe hơi
đến vùng trại giam bọn đàn bà bất hạnh. Không một xe nào bằng lòng đưa chàng
đi. Chàng trả với bất cứ giá nào, tất cả đều từ chối. Ý muốn đi tìm Nga bây giờ
mãnh liệt nung nấu trong lòng chàng, nhưng Hiệp không thể nào đi bộ trong đêm,
hàng chục cây số. Đột nhiên, ở mỗi gốc cây bên đường, Hiệp choáng váng nhìn thấy
một bóng đàn bà tha thướt, người đàn bà cười khanh khách với người đàn ông. Những
cặp tình nhân đều giống nhau. Vì họ là Nga, với người đàn ông lạ. Hiệp sững sờ
vùng chạy. Những cặp tình nhân dời gốc cây lên xe. Mũi xe hướng về phía chàng.
Ánh đèn pha sáng rực gần mãi, gần mãi lại. Hiệp té sấp xuống đường. Chiếc xe
lao lên mình Hiệp, nhưng chàng bỗng có cảm giác êm ái khối nặng của chiếc xe tưởng
đã nghiền nát thân thể chàng thành một đống thịt bầy nhầy lao vút qua khỏi người
chàng, và Hiệp vùng tỉnh dậy. Có tiếng la hoảng hốt của một thằng bé con. Hiệp
quờ tay lên vớ được chân thằng bé. Nó vùng vằng cầu cứu một người nào ở đàng
xa.
"Mày làm cái gì đấy?"
"Tôi… không có làm cái gì đâu".
"Thế mày rình gì tao?" Hiệp vặn xoắn tay thằng bé.
"Tôi đổ nước".
Hiệp sờ tay lên cổ rồi nhổm người lên tát cái bốp vào mặt thằng bé:
"Ơ, thế mày đổ nước lên đầu lên cổ tao đấy".
Đứa bé ấp úng muốn khóc:
"Tôi có đổ nước lên ông đâu, vào bụi ấy mà, tại ông nằm trong bụi, không
nhúc nhích, trời tối, tôi có nhìn thấy ông đâu".
Hiệp buông thõng tay thằng bé. Có tiếng chân nhẹ nhàng rón rén đi đến sau Hiệp,
rồi tiếng đàn bà trong vắt:
"Gì đó, con?"
"Ông này khi không tát tai con".
Hiệp gắt; không nhìn người đàn bà vừa đi đến:
"Nó đổ nước lên người ta, còn bảo khi không sao được?"
Người đàn bà kéo tay thằng bé ra rồi cúi xuống phía Hiệp:
"Ấy chết, cháu nó lỡ ra, tôi xin lỗi ông".
Giọng nói bây giờ bỗng trầm xuống, như lời dỗ dành dịu dàng, lôi cuốn Hiệp vào
một hồi tưởng đột ngột, và chàng bỗng cảm thấy âm thanh quen thuộc này như tiếng
gọi của một quãng đời chìm ngập đã xa mờ trong ký ức và thời gian. Ánh đèn đường
bỗng dạt qua một tàn lá dừa xao động gió đêm và Hiệp nhận ra, trong vùng tranh
tối tranh sáng của bờ biển, khuôn mặt mơ màng của Diễm Châu một ngày nồng nàn
tháng hạ năm nào.
"Trời ơi, anh đấy ư?"
"Phải, anh chứ không một người nào khác, thằng con em nó đã chọn đúng chỗ
để đổ nước".
"Em đã xin lỗi anh. Và cũng tại anh nằm trong chỗ khuất thế này này".
"Nhưng nếu bố nó nằm cũng chỗ này thì nó chắc chắn không làm vậy
đâu".
"Anh Hiệp, anh giận em điều gì sao?"
"Châu dẫn thằng bé ra với bố nó đi, để cho tôi yên".
"Không có bố thằng bé ở đây. Mà sao phải ra với bố nó?"
Hiệp ngờ ngợ, Châu đã cười khúc khích:
"Nó không phải con em đâu, em chưa lấy chồng".
"Thế người đàn ông trên máy bay hôm nọ với em?"
"Vâng, em đi với hắn, nhưng không phải là chồng. Mình vào trong kia nói
chuyện dài hơn, nghe anh".
"Vào đâu?"
"Trong khách sạn".
"Em ở một mình trong khách sạn sao?"
"Vâng, còn biết thế nào hơn".
Giọng Châu chán chường buông xuôi nhói lên trong lòng Hiệp chút bùi ngùi thương
cảm.
Ngày mai hay ngày kia anh sẽ đến thăm Châu. Ngọn lửa đêm xưa đã tắt trong lòng
người đàn ông, Châu nghĩ giọng nói ơ hờ và thái độ chừng mực của Hiệp, và mình
níu kéo vô ích. Mỗi ngọn lửa chỉ cháy một lần. Và sau đó chỉ là những ánh hồng
le lói gượng gạo không còn đủ sưởi ấm một đêm dài băng giá.
"Hình như anh cần một mình, hôm khác chúng mình lại gặp nhau, em không xin
anh, nhưng tưởng tượng nếu chúng mình gặp lại nhau một lần, chỉ một lần
thôi".
Bước chân Châu đi im lìm không âm vang trên bãi cát. Trong bóng đêm, Hiệp nhìn
thấy lờ mờ trên dải cát mênh mông từng dấu chân nhỏ của người đàn bà rẽ đường
vào hiu quạnh.
Lên hết cầu thang xoắn ốc, Hiệp tần ngần dừng lại. Thật ra Hiệp
không hề muốn đến. Không có một cảm giác hay ý nghĩ nào đủ lôi cuốn chàng tới
vùng bóng tối đèn mờ trên kia. Nhưng Hiệp đã ra đường, đã đi đến, và phút này đến
nơi, Hiệp bỗng muốn trở về tức khắc, để giữ lại kịp trước khi đánh vỡ thêm lần
nữa cảm tưởng bình yên thanh thoát về những ngày hiện tại. Hiệp không muốn xao
động, không muốn thay đổi, không muốn làm gì hơn hay kém cho cuộc đời mình đã
như thế. Mấy hôm trước Hiệp nghĩ điều đó chỉ vì mình. Nhưng bây giờ đứng trên tận
cùng thang lầu xoắn ốc của một khách sạn xa lạ, Hiệp chợt nghĩ đến Nga, nghĩ đến
Nga và muốn trở về. Ích gì một phút giây lạc loài trên vùng đèn mờ ảo đó. Chàng
sẽ không cảm thấy gì hết. Với Châu hay bất cứ một người nào khác. Tất cả thật
đã nguội lạnh từ lúc có Nga, và với sự hiện diện thường trực của Nga trong đời.
Hiệp chịu đựng thường xuyên một niềm ray rứt về thân phận và cuộc đời Nga. Hiệp
đã cố gắng nghĩ là đời Nga kể như bắt đầu từ khi có Hiệp. Nhưng đời sống là một
chuỗi dài quá khứ hiện tại tương lai, không thể tách rời, không thể cắt bỏ một
phần thời gian đổ nát ném khỏi thực tại của đời sống. Những nỗi ray rứt lâu
ngày dựng lên trong tình yêu cho Nga một vạn lý trường thành cách ngăn điệp điệp
trùng trùng. Mà bây giờ, trong một lung linh nhớ nhung, tất cả bỗng sụp đổ xuống,
và Hiệp hối hận đã rời bỏ vùng bóng đêm thanh bình dưới đó để lên đây với một
người đã vô tri trong kỷ niệm và cuộc đời chàng vĩnh viễn.
Cửa phòng mở nhẹ nhàng và khuôn mặt Châu diễm ảo trong đèn hồng nồng nàn. Hiệp
đi vào và Châu khép cửa lại. Hiệp ngồi xuống ghế trong lúc Châu đứng im bên
khung cửa sổ mở lên vòm trời sao lờ mờ. Một lúc, Hiệp nghe có tiếng rào rào dưới
vườn cây.
"Gì thế Châu?"
"Hình như trời sắp mưa lớn".
"Anh phải về trước cơn mưa".
Châu đóng chặt cửa kính:
"Anh ngồi lại cho qua cơn mưa, ít ra, anh hãy cứu vớt em một lần. Chỉ một
lần này".
"Có gì là cứu vớt?"
"Anh đến, và ngồi như thế. Cho em cảm tưởng mình hãy còn như xưa".
"Đáng lẽ anh phải an ủi Châu. Nhưng anh chẳng còn lời lẽ để tự nói với
mình. Đêm rồi qua đi, ích gì khi tìm kiếm chút ảo tưởng mong manh trong bóng tối
này. Ngày sẽ soi rõ tất cả và sẽ xô đẩy mình vào nỗi đắng cay thường trực".
Gió phả cơn mưa bất ngờ dữ dội xuống vườn cây. Châu kéo kín các màn cửa và đặt
trước mặt Hiệp cốc rượu nồng. Hiệp nâng ly rượu lên rồi để xuống.
"Rồi một ngày, bỗng dưng anh không còn đến với em nữa".
"Anh đã gặp lại Châu nhiều lần, nhưng lơ đi. Không làm gì được cho Châu,
thà như vậy là hơn".
"Em không đòi hỏi gì hơn là thỉnh thoảng được nhìn thấy anh một lần, để
níu kéo chút liên hệ cuối cùng và độc nhất giữa em với cuộc đời. Nhưng rồi nỗi
mong ước đó cũng tan hoang".
"Em ở đây một mình?"
"Vâng, chỉ ghé qua đây vài hôm rồi đi".
"Đi đâu?"
"Em không biết".
Lòng Hiệp chùng xuống một thoáng xót xa lắt lay. Dù sao có một ngày nào xưa, với
Châu chàng đã qua một lần đằm thắm nồng nàn. Bây giờ người con gái làm củi rêu
lênh đênh trên nước lũ. Và Hiệp chỉ là người trên đường hờ hững đi qua, như Hiệp
đã hờ hững đi qua trên cuộc đời và thân phận chính mình, không còn một nỗ lực
nhỏ nhoi nào để níu lại sự thăng bằng cho tâm hồn, cho sự sống tàn héo dần dần
trong công việc, hành vi ngôn ngữ ý nghĩ lặp lại hằng ngày một điệp khúc bình
yên.
Hiệp nâng ly rượu lên môi uống cạn. Một lúc cảm giác cồn cào xoáy xuống ruột
gan, mí mắt căng căng niềm mỏi mệt bơ phờ, hai tay buông xuôi trong tay Châu,
chàng nằm xuống nệm giường như thả trôi xuống dòng nước chảy. Trong mắt Hiệp
nóng bừng khép kín, ánh đèn hồng bỗng như lu mờ hẳn lại, và tiếng Châu lẫn vào
trong tiếng mưa chìm chìm rơi.
Một lúc Hiệp tỉnh dậy và lạnh toát người với ý nghĩ đi đến chỉ là bước lên những
dấu chân vừa để lại đàng sau, đi hết vòng tròn đời sống chỉ là trở về thời điểm
và mỗi một người không thể thanh toán dứt khoát với quá khứ mình để thản nhiên
buổi chiều lại cuộc đời nên thường xuyên nặng trĩu trên vai hành trang khô héo
của những tháng năm nào không còn nữa. Ngày mai mỗi người vẫn ở nguyên vị trí
mình hôm nay, không xê dịch khỏi vòng vây mệnh số, và mong chờ tuyệt vọng một đổi
thay tốt đẹp không bao giờ tới. Cho nên đi xa hơn trong tình cảm và không gian
chỉ để làm rõ cảm giác lạc loài. Như Châu rồi sẽ cô đơn bên cạnh những người xa
lạ mới. Như Hiệp bây giờ phiêu du giờ phút với Châu, bỗng chênh vênh nỗi nhớ về
nguồn là Nga chờ đợi ở nhà thầm lặng.
Hiệp đứng lên, không nhìn Nga, không nói một lời, cúi đầu đi xuống cầu thang
trong cơn mưa vừa dứt dưới vườn cây ngủ. Bãi cát ướt dưới lưng, vòm trời đen
như một cái nắp tròn trên mặt, Hiệp nằm nhìn mông lung ra khơi. Trên những hòn
đảo xa, đèn của quân đội Mỹ chiếm đóng kết từng vành tròn thoai thoải cong xuống
gần mặt biển đưa mơ mộng Hiệp đến những vành lược óng ả trên mái tóc đàn bà Nhật
Bản. Tiếng sóng mỗi lúc một gần dưới chân, như tiếng rào rào mơ hồ của một bánh
xe khổng lồ sắp nghiến lên thân thể Hiệp. Chàng có cảm tưởng sắp bị vùi chồng,
và hoảng hốt muốn níu lấy bàn tay Nga đã buông rời theo năm tháng.
Giấc ngủ như còn chập chờn trên rèm mi cong loáng thoáng
chiêm bao, Nga thong thả đi ngang qua vùng nhà thờ, với ý nghĩ mơ hồ là mong mỏi
một nhân chứng vô hình thiêng liêng nào đón tiếp những phút giây thênh thang của
chuỗi ngày cô quạnh lại bắt đầu. Sáng Chủ nhật. Nắng hé dải một lụa vàng hanh
phơn phớt trên hàng cây còn ngây ngất hương mưa đêm. Tiếng chuông lễ sớm trong
giáo đường thánh thót. Những tà áo màu rực rỡ trong không khí phảng phất mùi
thơm của gió sớm và lá cây. Tiếng guốc reo vui trên khoảng lề đường sạch bóng.
Còi xe gởi tiếng cười gặp gỡ hồn nhiên xuống ngả tư đường nao nức. Và cuồn cuộn
như nước chảy, những bánh xe lăn rào rào trên mặt nhựa ngọt ngào nhẵn bóng của
buổi sáng cuối tuần rộn ràng thường lệ của Sài Gòn. Một bóng con gái áo trắng
đi ngược chiều thoảng lại mùi thơm dìu dịu của những tràng hoa nhài vừa nở. Mùi
hương và hình ảnh ứa trào trong lòng Nga kỷ niệm xót xa của một thời con gái
bình minh. Bây giờ buổi chiều cuộc đời đã xuống trong buổi mai huy hoàng thành
phố, và tôi không còn chút liên hệ nào, chút quyền hạn nào với sự sống vời vợi
dâng như thủy triều xung quanh. Cho ốc đảo đìu hiu ngậm ngùi thân phận lạc
loài. Tôi đã tự ý tách rời, từ khước đám đông cũng có nghĩa một phần nào là lảng
tránh. Tôi không có quyền cũng vì thế đồng nghĩa với tôi không chấp nhận xung
quanh, để không còn một tương quan nào nữa giữa tôi và ngày qua, giữa tôi và
khung cảnh bao giờ cũng nhắc nhở cũng vang rền hình ảnh thanh âm tôi không còn
muốn nhớ. Bởi như vậy là hết. Tôi từ bỏ tất cả chỉ được Hiệp. Và bây giờ Hiệp
cũng không còn thuộc về tôi, hay, đúng hơn là Hiệp vẫn mãi mãi là của tôi nhưng
trong sâu xa của tình yêu tôi linh cảm thấy điều gì không ổn, và bây giờ Hiệp
cũng bỏ đi rồi, không nói rõ lý do hoặc không có một lý do xác đáng nào để nói.
Cho nên tôi lơ lửng không trông cậy vào đâu và không thuộc về đâu cả. Buổi sáng
Chủ nhật gọi Nga ra khỏi nhà bằng khung cửa sổ chắn một vuông trời trong vắt.
Trong khung trời vuông xanh nhạt sợi mây dài như tóc thu đã bềnh bồng trôi qua
khoé mắt Nga khép hờ thao thức. Một ngày nào đó những ấn tượng bồi hồi của mỗi
người cưu mang nuôi nấng rồi cũng lê thê và đứt quãng như dải mây trôi. Và Nga
đã mặc chiếc áo màu buồn buông xuôi thể xác tâm hồn xuống phố.
Nhìn và không thấy gì trên hè phố bây giờ bắt đầu tấp nập, Nga mê man đi hết
quãng đường, đẩy cửa kính dày của một nhà hàng ăn uống giải khát, bước vào ngẩn
ngơ, ngồi xuống một chiếc ghế gần cửa kính, e dè như sợ động vỡ. Thoáng hình ảnh
xao xuyến bỗng nhói lên trong lòng khi đi qua khung cửa, Nga thoáng thấy bóng
mình trong gương soi. Cái thoáng hình ảnh như cơn gió lạnh đầu mùa đánh thức
trong lòng người con gái những cơn rùng mình ớn lạnh cho một quãng thời gian
đánh mất suốt đời, cùng với những cơ hội nao nức, những ước hẹn mông lung, những
đợi chờ vô vọng, những dang dở ngậm ngùi, và những lời thề nguyền trên trang
thư xanh màu thương nhớ xa khơi.
Cô dùng gì, người bồi hỏi từ thế giới của người đời xa lạ. Cho một trà đường.
Có bánh ngọt không. Có, cho hai cái, Nga nói lửng lơ với nhánh lá xanh vươn lên
trên mặt cửa kính trong suốt. Người bồi mang bình nước đến, với một cái chén, một
cái muỗng, rồi một cái đĩa, và khay bánh. Không, dọn hai phần kia mà, sao lại
chỉ có một đĩa, Nga hỏi. À, hai người, người bồi ngạc nhiên trả lời và đi lấy
thêm một phần chén đĩa.
Đối diện với tách trà vương khói của người vắng mặt bên kia, Nga nâng chén trà
mình uống từng ngụm nhỏ tiếng nhạc trầm trầm xoáy lên từ góc phòng. Anh, Nga gọi
thầm, cho tiếng nhạc bây giờ đắng chát. Đã mười năm rồi có phải không anh. Mười
năm em đã quên, không nhớ lại, không nghĩ đến một lần nào. Mà bỗng trong chiêm
bao anh về lãng đãng đêm qua. Khi tôi nhận ra mình đi lạc đường, bóng chiều đã
xuống thấp. Con đường dài sâu trũng ngoằn ngoèo giữa hai bờ cây cỏ hoang vu dần
dần sẫm màu, và bóng tối như một vầng khói đen khổng lồ từ trời cao xoáy lốc ào
ạt đổ xuống, lượn vòng từ đàng xa, xô dạt mỗi lúc một nhiều và một nhanh về
phía tôi. Bốn bề vắng ngắt, không một mái nhà, không một bóng người, không dấu
vết nhỏ nhoi nào của đời sống. Khối bóng tối bây giờ đã sụp xuống trên đầu tôi,
nhưng tôi không cảm thấy gì ngoài ý nghĩ tuyệt vọng là từ giây phút này, vĩnh
viễn không bao giờ nhìn thấy vòm trời trong suốt bao la ngoài kia nữa. Một lúc,
cái màn tối tăm đen đặc bỗng mỏng đi, và tôi nhìn thấy, như từ trời cao đổ xuống,
dòng thác trắng cuồn cuộn đổ xuôi xuống một vườn núi tím. Loáng thoáng bên kia,
xa tít tắp, hình ảnh nhạt mờ của một chòi lá chênh vênh bên chiếc cầu ván nhỏ.
Rồi giữa những màu sắc âm u của buổi chiều xám ngắt đó, tôi tìm thấy vết áo trắng
hiện hiện chìm chìm, bồng bềnh như một cánh chim trên sườn tôi, gần chiếc cầu
nhỏ. Tôi đi vương mắc trong màn bóng tối đến bên kia bờ đất hoang, hai chân
nâng bổng với cảm giác bàng hoàng nao nức. Cảnh vật bỗng quay tít một vòng, vòm
trời chợt sáng lên một giây, và tôi bay ở bên một bờ suối, với tiếng cười đùa
ríu rít của con gái con trai, tiếng đổ rào rào của thác nước, và giữa những âm
thanh lạ hoắc nổi trôi, tôi bỗng nhận ra tiếng nói của Hoài. Tiếng nói quen thuộc
của Hoài một ngày mùa hè ấu thơ xa lắc. Tôi đi vòng qua một vòm cây. Và Hoài
đó. Hoài đứng với một người đàn bà. Tôi muốn kêu lên cho lời mình vọng vang qua
suốt thời gian mười năm trôi mê mải. Nhưng Hoài nhìn tôi như nhìn một kẻ không
quen, trong khi người đàn bà xa lạ mỉm cười giới thiệu người đàn ông là chồng.
Hoài mỉm cười, nửa ngờ vực, nửa châm biếm xót xa. Tôi nói với người đàn bà chị
làm ơn chỉ hộ tôi đường về miền biển. Người đàn bà nói chị cứ đi dọc theo bờ suối,
qua bên kia cái thác, đến một vùng đất cao hoang vu, đi xuống một sườn đồi
thoai thoải, qua chuyến đò, đi về miền nam là đến nơi. Tôi lạc đường xa quá rồi,
tôi nói. Rất tiếc là chúng tôi đi ngược đường với chị, nếu không, chúng mình
cùng đi, nàng tươi cười. Tôi bảo, cùng đi thế nào được, chị đi thì tôi không đi
và chị không đi thì tôi đi, chúng mình không thể đi chung một con đường. Chị đi
đúng đường, còn tôi thì sai lạc từ đầu nhưng không biết. Hay là nhà tôi đưa chị
sang bên kia thác rồi trở về đây đón tôi, nàng hỏi. Không được đâu, tôi đi một
mình còn hơn đi vì lòng tử tế, chị phải đứng một mình, tôi nói với chính mình
và nhìn lên vùng bóng tối lan dài trên đỉnh núi. Ngọn thác trắng đã chìm trong
bóng tối, chỉ còn nghe tiếng chảy rì rào triền miên, điệp khúc không nguôi
ngoai của tháng ngày. Chị đi một mình qua núi nên mặc thêm áo ấm, tôi lấy áo
tôi cho chị mượn, người đàn bà nói và đi thoăn thoắt qua bên kia bờ cây. Trên đầu
hai người, vòm lá lao xao reo bay. Tôi nghe mơ hồ tiếng thở dài u uất của Hoài
trong hơi gió núi chiều hôm.
"Mười năm nay, anh vẫn nghĩ đến em, em biết không Nga?" Tôi đứng cách
xa Hoài thêm một bước.
"Vâng, nghĩ đến một người và sống với một người khác".
"Ngày mai em về biển phải không?" Hoài hỏi bùi ngùi.
Tôi bỗng dưng muốn khóc cho những tờ thư xanh Hoài gửi đến không bao giờ được hồi
âm một mùa hè mười năm trước:
"Vâng, em từ biển mà đi, giờ em lại trở về với biển".
"Nếu ngày xưa Nga trả lời thư anh, cuộc đời mình bây giờ đã khác thế
này".
"Vâng, và em đêm nay sẽ không phải một mình băng vời qua bên kia
núi".
Hoài tiến lên một bước. Áo Hoài chạm vào vai tôi mơ hồ như chỉ là một ảo tưởng.
Lòng tôi bỗng rưng rức đớn đau.
"Cho đến khi em bỗng muốn trả lời thư anh thì mọi chuyện đã lỡ làng rồi".
Tôi nói câu cuối cùng với Hoài và bỏ chạy trước khi người đàn bà mang áo đến.
Trong đáy nước lung linh, giọt nước mắt Nga âm thầm nhỏ xuống, nàng pha trà vào
tách, một muỗng đường quậy nhẹ cho tan tành trong đáy nước những hình ảnh cuối
cùng của giấc chiêm bao đêm qua. Vị trà bây giờ ngọt lịm trên môi, Nga đứng
lên, tiến về phía máy điện thoại. Nàng quay số, thật chậm rãi, muộn màng…
"Tôi không ngờ, không bao giờ có thể ngờ người đến lại là Nga".
"Cũng như tôi không ngờ người tôi tìm đến hôm nay lại là anh".
"Nga đã nghĩ thế từ mười năm về trước".
"Van anh, thôi đừng nhắc ngày xưa đó".
"Nga chết vì ngày xưa nhưng tôi chỉ sống vì ngày xưa".
"Lẽ ra tôi phải biết sống nhờ ngày xưa đó. Nhưng tôi dại khờ, lạc lối cho
đến bây giờ, và đôi khi tự hỏi vì sao ngày đó không một lần trả lời thư
anh".
"Nga còn nhớ những bức thư tôi ngày cũ đó sao?"
"Trong mười năm, thật ra không bao giờ em nghĩ đến. Nhưng đêm qua…"
"Thế nào, việc gì đã đến trong đêm qua?"
"Giấc chiêm bao".
"Giấc chiêm bao thì nhắc nhở được gì đến những ngày hoang đường xa lắc
đó?"
"Vâng, có nghĩa lý gì giấc chiêm bao. Nhưng trong giấc chiêm bao, tôi bỗng
thấy mình bé bỏng lại như mười năm về trước, như ngày đầu tiên anh đến thăm và
lạ lùng là tôi bỗng cảm thấy yêu, yêu và tiếc xót xa… Thôi tôi đi về. Tôi đến đột
ngột, liều lĩnh thế này chắc anh sẽ khinh, anh tha lỗi cho. Tôi chỉ cầu mong
tìm thấy anh lại một lần; để biết anh là người thật hay chỉ là hình ảnh chiêm
bao, và mười năm xưa đã đến, hay chỉ là ảo tưởng lu mờ".
"Sao Nga biết số điện thoại tôi?"
"Biết chứ, như biết nơi anh làm việc, con đường anh ở và mỗi lần đi mỗi lần
về của anh. Nhưng anh đừng lầm tưởng, những điều đẹp nhất chỉ là ảo tưởng và
chiêm bao. Ngoài đời sống thật thì chẳng có gì. Tôi biết chỉ vì tò mò, không gì
khác hơn. Tâm hồn tôi bây giờ nhẵn bóng, trơn tru một hòn cuội trắng. Nhưng đêm
qua giấc chiêm bao đánh lừa tôi. Tôi đến anh vì muốn biết chiêm bao phỉnh phờ
mình hay là…"
"Bây giờ xin em ngồi lại, giây lát thôi, uống với tôi tách trà buổi tối,
và hãy kể cho tôi nghe giấc chiêm bao đêm qua".
"Không được".
"Vì sao vậy?"
"Anh có thấy, những đám bèo đang trôi?"
Hoài ra đứng bên cửa sổ nhìn xuống. Con nước lừ đừ loang loáng bóng chiều sẫm
màu dâng đầy trên sông, cuốn theo những đám bèo bồng bềnh, và thỉnh thoảng giữa
những đám lá đen bỗng vươn lên như một cánh tay giã từ nhỏ bé, bông hoa bèo tím
nhạt lênh đênh. Mỗi ngày bèo vẫn trôi lênh đênh trên sông từ cửa sổ phòng chàng
mà Hoài chưa một lần nhìn thấy, và bây giờ thì bông hoa tím nhạt đã khuất xa dưới
kia chân cầu tràn ngập bóng đêm…
"Vâng, bèo trôi…"
"Thôi bây giờ Nga đi về".
"Nga ở một mình?"
"Không, cũng như anh vậy, nhưng không bằng anh, hoặc là hơn anh. Không có
đời sống nào bằng nhau và giống nhau".
"Hãy ngồi lại uống tách trà với anh, từ lúc đến Nga chưa ngồi xuống, như kẻ
đi đòi nợ".
"Đúng là đòi nợ, hãy trả cho em tách trà mười năm về trước đã pha cho anh.
Rồi giữa chúng mình như thế là nhẹ lòng".
Nga chớp mau mắt nhìn ra khung cửa sổ tìm một cánh bèo nhưng bóng tối đã xoá
nhoà con sông tội nghiệp. Rồi nàng ngồi xuống chiếc ghế da màu cặn rượu đối diện
Hoài. Hai người yên lặng nhìn nhau một giây. Người làm bưng khay trà lên rón
rén đặt trước mặt mỗi người một tách trà thơm ngát. Nâng chén lên môi, hai người
bàng hoàng nhìn nhau nhấp một ngụm trà. Đột nhiên, Nga bỗng mong mỏi thiết tha,
thành khẩn là Hoài sẽ nói một câu gì, phác một cử chỉ nào liều lĩnh với mình để
chắp nối lại, dù giây phút, dù mong manh thời gian hiện tại với ngày nào mười
năm về trước. Hiệp bỗng đứng lên. Chàng đi vòng sang chỗ Nga ngồi, và dừng lại,
trầm ngâm với chén trà trên tay. Trong một thoáng, Ngà bỗng sợ hãi chính điều
mong muốn vừa rồi, sợ hãi đến xót xa ngây ngất với niềm đau đớn lâng lâng.
Hoài đưa Nga ra khỏi phòng khách, xuống lầu, qua sân. Khi Hoài đưa tay mở cổng,
Nga đứng lùi lại dưới cánh tay nhấc cao của Hoài. Nàng ngẩn ngơ không tìm thấy
nổi xúc động dạt dào của đêm qua khi đứng bên Hoài trong giấc chiêm bao.
Trời nóng bức khô khan nao nức đợi chờ cơn mưa cuối cùng của
buổi chiều. Tiếng sấm động mơ hồ trong chân mây. Không gian thu nhỏ cho hai người
gặp nhau trong gian phòng âm u kín cửa. Hiệp hỏi làm thế nào lúc nãy em vào đón
anh tận trong phi trường. Nga cười cho hương hơi quen thuộc phả xuống tóc môi
Hiệp cảm giác buồn buồn rưng rức, em mua hẳn một vé máy bay, và đi theo xe hành
khách. Buổi chiều, căn phòng, khuôn mặt người đối diện, hơi thở nồng nàn và
cánh tay ôm quanh lưng, tất cả bỗng mới mẻ, và dịu dàng như lần đầu tiên họ đến
với nhau. Tiếng sấm càng lúc càng rõ và gần bên ngoài. Không gian bỗng lắng xuống
mát dịu với hơi gió bắt đầu ẩm ướt. Em cảm tưởng không phải là anh mà chính em
vừa đi đâu xa về, và từ đây không bao giờ đi nữa, Nga thoáng ăn năn. Hiệp dúi
cái tàn thuốc đang cháy dở trên bàn, chúng mình đã trở về. Cơn mưa rào rào chạy
nhanh trên những mái nhà cằn khô và cuối cùng dừng lại giăng màn mờ mờ trong mắt
Nga hình ảnh căn phòng quay tít, dâng cao và cảm giác bay bổng nhẹ tênh xoá mờ
trong tiềm thức tối tăm những mảnh vụn chiêm bao cuối cùng. Em nghĩ gì đó Nga.
Không, không có gì cả. Trời đã mưa và chúng mình đã trở về.
Bọt biển
Quần tây bó sát vào cặp đùi dài thuôn lẳn, áo lên đen cổ hình
trái tim khoét rộng xuống một phần ngực đầy, tấm khăn lụa buộc mớ tóc ngắn bồng
bềnh cũng màu đen chạy một đường viền cong từ chân tóc trước trán đến nét gáy
trắng lơ thơ tóc măng dâng lên phía trước nét mũi đều thanh tú và đường môi
cong vẽ xuống góc miệng khoé cười câm lặng gọi mời, Ngà đi thoăn thoắt từ bàn
này sang bàn khác, những né tránh nhảy nhót vươn đường cong mềm mại của thân
hình, những vẫy tay, những nhún chân gợi lên trong mắt nhìn tò mò ngạc nhiên của
đám khách ăn đông đảo hình ảnh của một vũ nữ luống tuổi trình bày những khúc điệu
cám dỗ nhất một lần cuối cùng trước khi gục xuống suốt đời sau màn sân khấu âm
u. Những người khách lạ ngẩn ngơ và kinh ngạc không ngờ giữa nơi xa xôi heo hút
nay lại có thể tìm thấy một bà chủ quán tuyệt diệu hơn bà chủ một hộp đêm sang
trọng của thành phố, những khách quen thắc mắc vì bất ngờ khám phá ra trong bà
chủ quán thầm lặng và lam lũ của những ngày tháng trước, bóng dáng một người
đàn bà khác, như vì một lý do nào đột ngột hôm nay bỗng dưng biến đổi cả người
đàn bà, quán cháo cá, cuộc đời tẻ nhạt ở góc biển đìu hiu này.
Nhưng khung cảnh vẫn không có gì thay đổi. Quán là một nhà sàn nhỏ chia làm hai
gian, gian trước đặt năm chiếc bàn gỗ tạp nhỏ bé, mười chiếc ghế băng dài đơn
sơ để khách ngồi ăn uống, ngắm biển, và ngăn sau là nhà bếp gồm một lò gạch xây
cao để hấp cá, nấu cháo, làm những món ăn bất ngờ thực khách dặn trước cho một
bữa tiệc, một cuộc hẹn hò lạ lùng của nhóm người phương xa tình cờ ghé lại, bên
cạnh là những bếp nhỏ, bắc bằng chín cục gạch chia làm ba chân, thường thường để
đun nước sôi pha trà, hâm những bình rượu do khách sành ăn quen thuộc với quán
đem lại khề khà nhấm nháp, và thỉnh thoảng sắc một siêu thuốc bắc cho lão già,
chồng bà chủ quán nhưng không phải là ông chủ quán, tất cả cơ đồ đó đều dựng
xây bấp bênh trên hai mươi chín cọc gỗ lớn cắm sâu xuống lòng bùn đen, với cơn
thủy triều vây phủ từ chiều đến suốt đêm và bãi đất đen sậm, nhão nhẹt, lầy nhầy
chơ vơ từ lờ mờ sáng cho đến khi mặt trời ngó xuống đỉnh đầu. Từ khung cửa liếp
nhỏ của căn nhà bếp nhìn ra, khách tò mò có thể trông thấy đìa nuôi cá của
quán. Đó là một khoảng đầm lầy, diện tích chừng sáu mươi thước vuông, bao bọc bởi
một hàng rào bằng nhánh cây tua tủa, những kẽ hở vừa đủ cho nước biển đen ngòm
len lỏi ngấm vào mỗi khi thủy triều lên, tắm mát đám cá ăn không bao giờ hết của
đám khách đường xa tìm đến.
Trước quán, ngay lối đi vào, một căn nhà mái hình lục giác rộng mênh mông, bên
trong kê vài ba chiếc ghế gỗ, do chính bà chủ quán tự tay đóng lấy bằng cây đẵn
ngoài rừng thưa, trải hai ba hàng chiếu trắng là nơi cho khách sau khi ăn uống,
kéo nhau ra nằm nghỉ ngơi trò chuyện, bên trên gió biển phơ phất quạt về, dưới
lưng qua những khe ván mỏng, ánh sáng sóng sánh mặt nước xanh rêu, thoảng lên
giấc ngủ khách hương vị nồng nàn của gió nắng, nước mặn trùng dương lẫn với mùi
tanh dìu dịu của rong rêu, đá ngầm và lũ cá lặng lẽ nhàn du không ngừng nghỉ.
Tiếp giáp với nhà mát lục giác là chiếc cầu gỗ chênh vênh dài hơn ba mươi thước,
uốn mình thon trên vùng biển cạn, từ quán cháo cá ra đến tận bãi đất khô ven
chân núi trẻ lơ thơ cây cỏ ôm sườn đá tím, và bên kia bãi đất khô là một rừng dừa
nước mênh mông soi mình xuống bờ biển cạn nước xanh màu túy ngọc tấp nập từng
đàn cá ngũ sắc, là nơi khách có thể bơi thuyền, tắm suốt ngày, hay đôi khi những
cặp muốn lánh xa mắt nhìn thiên hạ để trên trời dưới đất chỉ còn đôi ta, đem dụng
cụ cắm trại suốt ngày suốt đêm, hoặc hàng tháng hàng năm tùy thích.
Tuy nhiên, đây là giang sơn riêng biệt của bà chủ quán, từ đìa nuôi cá cho đến
rừng dừa bát ngát bên kia, từ bờ đất đen nơi hò hẹn của thủy triều và thời gian
cho đến mỏm đất vàng nhô ra bên kia eo biển. Giang sơn đó thuộc về bà chủ quán
và ngược lại, bà chủ quán cũng bị giam hãm trong giang san nhà mình.
Từ quán cháo cá ra đến con đường quốc lộ xa hơn một cây số theo một lối đi
quanh co ven sườn núi đá. Và ngoài kia, trên quãng đường quốc lộ quanh vùng
quán cháo cá không một hàng quán nhà cửa láng giềng nào làm nên chút tương quan
gần gũi với bà chủ quán. Khách ăn thường là những nhà giàu có, khách du lịch,
chạy từ hai mươi cây số đến, từ phía Phan Rang ra hay từ hướng Nha Trang vào,
và những cuối tuần, phần đông là khách Sài Gòn, Đà Lạt đến. Đặc điểm của quán
cháo cá là thức ăn tươi ngon, và có thể ăn bất cứ một món nào, làm theo cách kiểu
nào, miễn là thuộc về cá, gỏi, cháo, cá nướng trui, cá hấp, cá chưng cách thủy,
cá chiên ăn với xốt đặc biệt không phải Tây Tàu gì cả, mà do bà chủ quán chế biến
ra. Khách mê nhất là cá đút lò và cá quết chả. Món cá đút lò, nổi tiếng không
phải vì ngon, lạ, mà công phu nấu nướng, phải mất ròng rã ba ngày mới hoàn
thành, và khách phải đặt trước bốn ngày để chủ quán tìm chọn cá, tức là phải chờ
một tuần lễ mới được hân hạnh thưởng thức món ăn kỳ diệu, và khách đến tuần
này, vì món cá đút lò, phải hẹn hò cùng nhau trở lại vào tuần sau, và những
khách đến tuần sau, vì món cá đó, lại hẹn hò nhau đến tuần sau nữa, cứ thế mà
quán không bao giờ được một ngày yên nghỉ. Bà chủ quán có lần giải thích, khi
khách tò mò hỏi đến, vì sao món cá đút lò phải làm mất ba hôm mới hoàn thành được.
Bà chủ nói, mất một ngày để tìm khắp nơi cho được một con cá ngứa vừa cỡ cần
thiết, không lớn không nhỏ, để có thể rã ra từng dải mỏng và dài như quai nón,
ướp tất cả các đồ gia vị như tai đinh, tai hồi, sả, lá thơm, ớt, tỏi, hành,
băng sa, trải cá lên một cái vỉ mỏng bằng tre đan, đặt vỉ vào trên mặt một chậu
nước giếng thật mát, có nắp thông hơi đậy bên trên, để một đêm. Ngày thứ hai là
ngày làm phần nhân của món cá, bằng cua gạch, tôm hùm quết nhuyễn trộn với táo
tàu, hạt sen, vi cá, nấm hương cắt nhỏ, tất cả vo tròn từng viên và được cuốn
tròn vào trong một lát cá mỏng ướp đêm qua. Cả miếng cá cuốn nhân được phết bơ
và bỏ vào lò nướng. Cá đút là xong được sấy bằng nước sâm chưng đường phèn tán
nhỏ suốt một đêm, và qua ngày thứ ba là thời gian cuối cùng để làm nước xốt, nước
sốt nấu bằng tôm cua, thịt bò, hành tây cà chua trong nửa ngày, lọc lấy nước, nấu
lại lần nữa cho đến khi gần đặc quánh, và đến giờ khách ăn, nước xốt được tưới
lên cá đã được nướng lại một lần thứ hai trong lò, và lần này khác với lần trước,
lò được tráng một lớp mỏng quế bột. Khách có lần hỏi tại sao thức ăn rắc rối vậy,
bà chủ trả lời không phải thức ăn mà người nấu rắc rối, và nếu không rắc rối
thì không thể nào ngon.
Vậy mà, tất cả các thức ăn trong quán, bất cứ món gì và nấu nướng theo cách nào
đều được tính với giá rẻ ngoài sức tưởng tượng của khách. Cứ hai món là một
trăm đồng chẵn. Và mỗi món, nếu là cháo thì một tô lớn vừa cho ba người ăn, và
món cá thì một đĩa lớn đầy ăm ắp. Thành thử ba người có thể vào quán, no nê với
một trăm bạc mang theo. Tuy nhiên, nếu chỉ mang theo một trăm bạc, thì chỉ no
nê thôi, chưa chắc đã được trở về, hoặc không thể trở về với đầy đủ những đồ đạc
xe cộ khi mang theo. Bởi vì kèm theo giá tiền món ăn quá rẻ là tiền trả cho bà
chủ về các khoản đặc biệt khác, như ngồi trong nhà lục giác hóng mát, mỗi giờ một
trăm đồng cho mỗi người, nếu hai người thì giá gấp đôi cho mỗi người, nghĩa là
hai người thì mỗi giờ bốn trăm, và nếu hai người đó không phải là bạn bè, không
phải cùng đàn ông hay cùng đàn bà, hoặc đi cặp với nhau thì giá tăng lên không
phải gấp đôi mà gấp bốn. Tắm hay cắm trại ngoài bãi cũng chịu trả giá theo như
phương pháp tương tự, nhưng đắt gấp đôi và mỗi một giờ kéo dài, giá cao hơn lên
mãi. Bà chủ không kiểm soát, khủng bố bằng trí óc hay hành động, mà chỉ nhờ những
cái liếc mắt, những khoé cười bí ẩn, những câu nói mát mẻ có hiệu lực nhắc nhở
túi tiền khách gấp mấy lần một cái bông giấy kê chi tiết các khoản chi phí của
mỗi người khách.
Khách chỉ thường thấy bà chủ quán thấp thoáng sau bếp, vào gian trước rồi lại
biến mất ngay đàng sau, không tươi cười, không mời đón, bao giờ cũng lặng lẽ và
kín đáo, tất cả các công việc của một nhà hàng đều giao phó cho một con bé mười
sáu tuổi, lai Tây đem từ trại mồ côi về. Mà bây giờ bà chủ quán đó, hai con mắt
long lanh tươi cười, hai má đỏ hồng căng đầy, lúm xuống gần khoé môi nụ cười rỡ
ràng, không ngớt nói cười, mời mọc từng bàn từng người khách.
Khi tất cả mọi người đã có đầy đủ trong bàn mình món cá đút lò đặc biệt của
quán, Ngà thong thả đi ra khỏi đông đảo, đến tựa mình vào lan can khoanh tay
nhìn ra cửa biển. Nắng trưa dát vàng mênh mông trên mặt biển xa xanh, ngời lên
những dợn sóng bạc ánh. Ngoài xa tít, mấy vết buồm con như bướm trắng, bất động
trên đường thẳng chân trời tiếp nối mặt biển, chấm lên nền mây óng ánh những vẩy
trắng đậm. Dưới chân Ngà, những tia mặt trời khúc xạ xuyên qua màu nước trong
veo như những mũi dao vàng gay chới với đâm xuống bầy cá đỏ tung tăng qua những
tầng rong xanh. Và Ngà chợt nghĩ mình không được bằng là con cá, là mảng rong,
là một tảng đá ngầm ung dung dưới nước. Màn kịch đến đây là tận cùng, là hạ xuống.
Con cá cuối cùng trong đĩa đã vớt lên, đã quằn quại trong tấm thớt từ buổi
sáng. Lão già sắp sửa về, và sắp sửa thổi vào đời sống nàng một cơn lốc cuối
cùng, thật sự và dứt khoát là cuối cùng. Tôi đã thử, bằng đủ cách, để biết thật
con người tôi bây giờ có còn là gì không, có còn chút nhân tính nào không, có
còn chất đàn bà nào không, dù là hư đốn, là xấu xa, là phản trắc, là bất cứ gì.
Tôi đã thử bằng cách cuối cùng là uống hết ly rượu cay nồng nàn và ngồi đối diện
với gã đàn ông quen thường đến quán đăm đăm nhìn tôi. Tôi ngồi đối diện và nhìn
hắn. Nhưng thật hết. Như một xác chết không còn chút nhân diện nào, tôi không
còn cảm thấy gì hết, dù cố gắng đẩy mình vào một hoàn cảnh và cảm tưởng tội lỗi.
Tôi có còn cảm thấy gì nữa đâu mà tội lỗi với không tội lỗi. Đến thế sao? Đối với
tôi con người cũng bằng chiếc ghế gỗ cũng bằng tảng đá, người đàn ông đối diện
cũng chỉ là mặt biển là núi non là rừng dừa là đìa cá hay có thể còn tệ hơn tất
cả những thứ bao bọc quanh tôi, những thứ dù vô tri vẫn còn gây trong thâm tâm
tôi những mối cảm hoài thân phận, còn vò xé lòng tôi những bất mãn sâu xa. Tôi
đã gọi tôi, âm thầm nhưng khô hơi ráo cổ, một năm hai ba bốn năm năm tôi đi vắng
bặt không về. Và bãi biển cong, và hàng dừa nước, và khoảng trời xanh cao mênh
mông ôm lòng biển biếc, tất cả là nấm mồ thênh thang chôn vùi thân xác vô hồn.
Chẳng có gì để lãng khuây. Chẳng có gì để say đắm. Chẳng có gì để trở lại hình
hài tâm hồn cũ. Và cũng chẳng có gì để thay đổi một lần, cứ thế. Như nước thủy
triều trút xuống dâng lên tiết điệu muôn đời câm lặng. Cho đến một phút giây bỗng
nghe trong đáy óc tê mê năm tháng đắm chìm nổi lên một tiếng gọi mịt mù xa tít
chân mây. Tiếng gọi ma quái không biết từ đâu đến, tan biến về nơi nào. Chỉ vẳng
lên rồi tắt, như một dấu hiệu. Có lẽ bắt đầu từ khi nhận ra lão già chỉ là một
kẻ lừa dối. Có lẽ từ khi biết những con cá ở trong đầm chỉ là những cá đến từ
biển khơi, những con cá bị trục xuất ra khỏi miền thân yêu những ngày biển động.
Tại sao lão già có thể dối trá như thế, và trong nhiều năm nay, tại sao mình
không biết, không biết và cũng không mảy may nghi ngờ, và chỉ tin tưởng một
cách dại khờ là thật sự lão không bắt được một con cá nào, lão không làm nên
tích sự gì và tất cả công trình gầy dựng đời sống quán này trong bao nhiêu năm
nay là chỉ do một mình mình, là mồ hôi nước mắt, là niềm tủi nhục, là nỗi hy
sinh cuối cùng của đời mình. Vậy ra không phải lão ta mà chính mình là kẻ vô
tích sự. Một kẻ vô tích sự huênh hoang và rởm đời bằng lắm lối kiêu hãnh ngu ngốc
và trơ trẽn. Vậy ra quãng thời gian ta cắt đi trong một đời người quý giá dành
cho một công trình nào đó, đã tưởng là hy sinh, đã tưởng là gầy dựng, đã tưởng
là chắt chiu chút giá trị nghĩa lý cho thời gian, thật ra là vô nghĩa, vô ích
và trống trơn. Những con cá đã từ biển vào. Không phải là cá mua từ chợ về bằng
tiền của Ngà. Không một cái gì là do chính tôi làm ra cả. Mà ngấm ngầm bằng những
công lao, trợ lực của kẻ khác, của kẻ mà tôi đã khinh thường, đã coi rẻ, đã hiểu
lầm. Nhưng vậy chỉ làm tôi xa anh thêm thôi, lão già, và tôi càng mau đi trốn
cuộc đời đó thôi.
Gió bỗng lộng lên từng cơn từ rừng dừa nước, thổi dạt bờ lau trắng xóa bên kia
lối về quốc lộ. Trời thấp xuống nhợt nhạt như khuôn mặt đang tươi cười bỗng
dưng nhuốm bệnh. Mặt biển bạc màu xao động gợn lên những dải sóng trắng ào ạt
chạy vào bờ. Tiếng bàn ghế sau lưng Ngà lạch cạch xê dịch. Khách ăn buông đũa
ra lan can nhìn trời. Biển lại động, Ngà nói không quay lại. Thế này là phải
thu xếp về cho sớm, mấy người khách lao xao. Vâng, thu xếp về cho sớm, cho
nhanh, xéo tất cả đi, những khuôn mặt người, những đời sống quen, những dấu vết
cũ, cho mất hút tầm mắt tôi đã mỏi mệt lắm rồi. Cho mau đi, và trả lại tôi buổi
chiều heo hút bây giờ sắp sửa bủa vây, Ngà nghĩ và thong thả đi vào quầy tiền,
ngồi xuống chiếc ghế cao, uể oải với tay tìm ly rượu đỏ còn một nửa từ buổi
sáng và nốc hết. Khách ùa đến tính tiền. Ngà đặt cái ly không xuống xua tay nói
trổng, thôi, xin đãi tất cả, hôm nay quán tôi có việc vui mừng không tính tiền,
để dành cho những lần sau. Khách nhìn nhau cùng dò hỏi, thắc mắc. Miệng Ngà cười
dưới hai con mắt sâu hút ưu phiền, tôi nói thật đấy, hôm nay không thâu một đồng
nào cả, các bà các ông cứ tự nhiên và về cho sớm, biển động rồi và không chừng
buổi chiều cơn bão sẽ kéo tới. Ở đây bão thường đến bất ngờ như vậy. Một vài
người bỏ đi, băn khoăn. Một vài người đứng nấn ná hỏi thăm bà chủ quán. Ngà cười
hăng hắc, dạ tôi vẫn như thường ấy, có làm sao đâu, cám ơn, tôi không sao đâu
mà, lão già ấy à, lão cũng sắp về tới, lão mê biển động, vì sao ư, tôi không biết
nữa, tính lão ấy kỳ quặc như vậy, sao, tuần tới có cá đút lò hay không, chắc chắn
là không, tôi đâm lười và hết thích làm những trò công phu tỉ mỉ đó rồi, dạ, có
gì đâu mà độc đáo, cũng chỉ là cá thôi, tôi không làm thì thất truyền à, dạ,
ông nói như món cá đút lò là một món võ nghệ nào đó, a ha, ông nói đùa nghe thật
lạ, cá đút là của tôi là một chưởng lợi hại phóng chết bao tử ông…
Tiếng cười của Ngà ném xuống thinh không bây giờ xa hút tiếng xe người bỏ đi.
Chỉ còn tiếng sóng tấp bờ bãi hoang và tiếng gió bên kia rừng rào rào đáp lại.
Ngà nhìn qua những bàn ghế lổng chổng, những chén bát ngổn ngang, những cột nhà
bây giờ trong mắt mình xiêu vẹo trống lốc, và Ngà lừ đừ đứng dậy. Từ khung cửa
nhỏ, Ngà nhìn thấy lão già, không biết về từ lối nào và bây giờ đang lúi húi
nghiêng cái giỏ lớn thả cá vào trong đìa, những con cá trắng bạc, mập tròn bụng
mỡ quãy mạnh đuôi chìm lỉm trong màu nước đen quen thuộc. Lão ném cái giỏ không
xuống đất, hai tay chống sườn khoan khoái nhìn vào đìa cá. Bỗng mặt lão lạnh
đi, sững sờ một lúc lặng yên, rồi đùng đùng như người điên, lão chạy đâm sầm
vào cửa lều, hai mắt sáng quắc láo liêng tìm kiếm.
Và lão nhìn thấy Ngà, tóc rối bời trong gió, mặt đỏ bừng nhễ nhại mồ hôi, hai
tay băng băng lùa tất cả chén bát trên bàn ăn xuống đất, mảnh vỡ tung tóe, thức
ăn vung vãi, bàn ghế xô lệch lổng chổng trên lối đi, và cuối cùng, người đàn bà
đấm tay ầm ầm xuống mặt bàn. Lão già chụp lấy cánh tay Ngà vặn xéo về đằng sau.
"Bao nhiêu cá trong hồ đâu hết?"
"Đãi khách ăn không lấy tiền".
"Mà lại nổi cơn rồi phải không?"
"Thì nổi cơn, đã sao?"
Lão già tát bốp vào má vợ.
"Mày muốn làm trò gì tao?"
"Không gì cả. Muốn ông thả cá bao lâu nay ra biển".
"Tao có câu được con nào đâu?"
Ngà gân mặt, quắc mắt:
"Đến nước này ông còn dối tôi, ông đi đánh cá bỏ lén vào đầm và lấy tiền
tôi đưa, đáng lẽ là mua cá nấu cho khách, dành dụm mua đất vùng khác cho tôi,
ma quỷ nào xúi ông làm như vậy?"
"Mình biết rồi à?"
Ngà ngồi sà xuống đất:
"Ông lừa gạt tôi đủ cách, để tôi tưởng lầm ông, khinh bỉ ông, bằng lòng
mình, nghĩ là tôi gầy dựng ra tất cả trong khi ông không bao giờ bắt được một
con cá. Như vậy là tan nát hết, vô nghĩa hết, tôi đã trải qua đời sống giả với
ông, mình đã lừa lọc nhau".
"Mình hiểu rồi thì ta có thể bỏ đây về đất mới".
"Tôi sống ở đất tôi và chết ở đất tôi".
Cơn bão đã vội vàng kéo đến, vội vàng qua đi. Bây giờ dưới chân cầu nước dâng
lên cuốn theo những rong rêu bồng bềnh, những mảnh củi mục từ bãi thấp đến đầm
sau dung dăng ra chơi miền biển lớn, cá đã ngủ im dưới đáy nước buồn rầu mất
ánh sáng, và trời cao như một chiếc vung sắt tròn khổng lồ úp chụp xuống vùng
quán chênh vênh, nén xuống tâm hồn thể xác bải hoải ngán ngao của Ngà cảm giác
ngột ngạt tận cùng là thôi từ phút giây này không còn gì nữa, không còn một lối
thoát, một cuộc đời đổi thay nào có thể cứu vớt chắp nối lại được những mảnh vỡ
tan hoang trong lòng mình. Sau lưng nàng, trong một khoảng cách vô tận, ở thềm
hoang vung vãi những mảnh vỡ của chén bát và đồ đạc, lão già hai tay khoanh gối,
gục đầu xuống nhìn ngón chân mình ngơ ngác quệt từng đường ngoằn ngoèo vô nghĩa
xuống mặt đất ẩm ướt. Lão nhìn ra đầu cầu gỗ, áo quần, tóc tai, tất cả người
đàn bà vẽ lên nền trời chiều xám một nét đìu hiu thù oán muôn đời của thân phận,
lão muốn nói một cái gì, lão muốn làm một cái gì để gỡ chuộc lại, để thay đổi
đi. Nhưng lão không thể làm, như không thể tìm lại những con cá đã bắt từ biển
khơi bỏ lén vào đầm, đã làm thịt bán, và bỏ trở về biển khơi, để nói với Ngà là
thật lão suốt đời chưa đánh được một mẻ cá nào, chưa câu một con cá nào, và lão
vô dụng tàn phế hoàn toàn như Ngà vẫn tưởng. Lão đã tưởng chỉ có mình kỳ dị.
Nhưng kẻ khác cũng kỳ dị, kẻ khác đó là Ngà, người đàn bà gần gũi bao nhiêu năm
mà đến bây giờ lão chợt nhận ra là không hiểu nàng một mảy may nào cả. Lão
không hiểu nàng bằng một con cá dưới đáy biển sâu. Như vậy là mọi sự đã vuột mất
hết. Ngôi nhà miền xa một ngày nào đó được dựng lên đưa Ngà về, bỏ lều quán này
bỏ biển trời hiu hắt này cũng tan hoang trong dự định lão.
Ngà ngồi bệt xuống đất, hai chân buông thõng lửng lơ xuống khoảng giữa ván cầu
và mặt nước, đất trời bốn phía đục ngầu kín đặc những màn lờ mờ thoáng thấy
trong hai mắt nhắm nghiền quắt quay khoảng sân vuông nắng vàng những buổi sáng
Chủ nhật ở nhà chồng, những cô em, những bạn bè bà con liên hệ xa gần tíu tít.
Những ngày Vĩnh, người chồng cũ đã chết, những ngày trống lốc trở về căn phòng
tẻ nhạt chiếu chăn, những nỗi xót xa ngấm ngầm kéo dài cho đến ngày bỗng vỡ oà
trong lòng người đàn bà trẻ thứ ánh sáng chơi vơi của biển rộng trời dài. Và
Ngà đã bỏ đi, hai tay không buông xuôi xuống ngõ đời vực thẳm. Tại sao đến đây.
Tại sao cùng cắt đứt quãng đời chính mình tìm kiếm thấy và bắt đầu lại để đến
đây. Để lại hai tay không làm nên một cái gì, và cái gì đó thật ra, không phải
do chính mình làm như đã nghĩ. Lão già đã thắng. Tôi muốn khinh bỉ lão, và coi
như kẻ tàn phế, đồ vô dụng, để có ảo tưởng là mình không chỉ là những kẻ phung
phá, hư đốn mà có thể bằng hai tay không, tạo dựng biển trời. Lão đã đành hanh
giành làm lấy phần tôi. Nếu biết lão có thể mang cá từ biển khơi về, như mọi
người bình thường, tôi đã không bao giờ dừng lại ở góc trời khô khan này với
lão. Vậy mà tôi đã làm một cuộc thí nghiệm vô ích, thối tha, chán ngắt. Lão tưởng
như vậy là bắt đầu sao. Như vậy là hết. Lão đã đi sai một nước cờ, đi sai suốt
con đường dài đời sống. Tôi đã phí phạm nhiều năm, bao nhiêu năm không nhớ. Và
hỏng luôn cả đời sống. Không ai trụt xuống vững vàng con đường dốc mới trèo lên
để kịp ngăn giữ đừng sang bên kia, lao xuống.
Ngà chống tay dậy, thất thểu đi vào quán. Gió chiều quạt lạnh mặt nước dưới
chân cầu. Vòm cửa lều tối tăm thu hẹp như con mắt buồn rầu nhìn trời nín câm.
Ngà đi qua, đi lại, quanh quẩn trong những vùng tối tăm của căn nhà. Muỗi lao
xao châm lên từng mũi nhọn trên da Ngà lạnh ngắt. Bỗng thèm được một mình, một
mình hoàn toàn không một sinh vật nào nhìn thấy. Lão già ngồi đó, như một tên
cai ngục nhân từ. Và thèm hát lên, thật lớn, những tiếng hát tắt chìm bao giờ
trong đau nín buồn câm. Sống có phải là một lần sa sẩy rớt rơi vào nhịp đi ngao
ngán của ngày tháng không. Thử thắp lên ngọn nến để hỏi bóng mình. Ngà bật
diêm, đốt nến, cắm lên mặt bàn gỗ, ngồi xuống. Giữa chúng tôi, tôi và lão già, là
một chiến tranh ngấm ngầm khốc liệt, một cuộc tàn sát thầm kín đẫm máu, và nước
mắt. Ở bãi chiến trường câm lặng, bên địch ngạc nhiên tiến tới, ngang nhiên thối
lui thoả mãn với đắc thắng dễ dàng của mình, và bên này, tình cảm đã tử thương,
ảo mộng tan tành, những gắng gượng cuối cùng trở nên vô ích. Mặt trận hoàn toàn
đỗ vỡ, và tôi thể xác tâm hồn đời sống là một kẻ tù binh tàn phế. Kẻ tù binh
tàn phế đếm thời gian còn lại bằng những bữa ăn chưa bao giờ biết ngon, bằng những
đêm dài chưa bao giờ yên vui giấc ngủ, bằng những ngày mù tối lặng câm không
ánh mặt trời những đêm bít bùng lạnh lẽo không trăng sao. Bằng nỗi cô đơn mênh
mông cảm thấy mỗi lúc đối diện với kẻ đồng hành bây giờ xa lạ dửng dưng bên cạnh.
Ngà nhìn cây nến chảy. Ngọn lửa vàng lúc dài lúc ngắn vẫy lên một ngón tay đêm
đưa tiễn dịu dàng mặt trời đã chết cuối hoàng hôn. Tại sao cây nến sáng vàng mềm
dịu như vậy, sự cháy sáng dịu dàng, liên tục nhưng vô cùng mong manh. Ít ra đời
sống tôi cũng được bằng một phần ánh nến đó. Mà không. Không bao giờ. Không một
le lói nào hy vọng, một thấp thoáng nào vui tươi. Tôi đã lao mình xuống một
dòng nước trong xanh mênh mông sau những mùa hè đi qua sa mạc đời mình cháy khô
nóng bỏng, quên không dò dẫm những mỏm đá ngầm dưới đáy sâu cám dỗ. Những mỏm
đá ngầm mọc thêm nanh vuốt mỗi lúc một dày mỗi lúc một nhiều, mỗi lúc một nhọn
vắt sau những năm tháng gần gũi. Tôi biết và muốn xác nhận rõ ràng để đừng còn
hão huyền hy vọng vào một đổi thay ngẫu nhiên nào nữa tình trạng giữa hai chúng
tôi, rằng đời tôi đã vẽ tô như một bản đồ sông hồ, núi non, đồng bằng và châu
thổ. Rằng tôi đã biết thế nào là thời con gái, thế nào là hạnh phúc của một người
lớn lên nếm vị đời mọng ngọt đầu tiên trong hôn nhân, và bây giờ không biết thế
nào là đời sống, đời sống bình thường và tầm thường thôi, không sá gì hạnh phúc
của một đàn bà. Vậy tôi là gì, tôi là thế nào trong tương quan hờ hững với đời
sống, với gia đình có nghĩa là một nơi dung chứa hai người tìm đến với nhau để
bất cảm thông và làm đau khổ nhau thôi. Tôi hết lời nên không đủ trơ trẻn để gọi
lên lần thứ mấy trăm nghìn hai tiếng khổ đau. Bởi cảm thấy mình còn tệ hơn con
người nên không thể dùng một tĩnh từ để chỉ định tình trạng con người. Cũng chẳng
muốn nói gì với biển vây quanh, với trời cúi xuống, bởi bao nhiêu năm rồi tôi
là kẻ nín câm trước tủi khổ. Mày cứ chửi rủa đi, cứ dùng bất cứ ngôn ngữ nào
ném vào mặt mày đời sống tao đi, mày chẳng có tao đâu, tao cũng chẳng có lời
đáp lại. Có gì mà tra hỏi. Có gì mà kinh ngạc. Có gì mà khen chê. Chỉ là tiếng
chó tru. Tao tru lên như chó nỗi thống khổ muôn đời của đàn bà đây. Không ai biết
nghe và hiểu tiếng chó tru đâu. Chó tru bởi rừng đời quá tịch mịch và lòng đời
quá đìu hiu. Bởi gai nhọn đã mọc đầy trong tim và lửa khói đã ngút trời trong
óc. Tao chẳng còn danh từ tĩnh từ động từ để chỉ định về tao. Thôi tôi chẳng biết
nói gì nói sao, này biển sao không gào thét nữa như buổi chiều, mà im lìm thần
phục dưới chân trời hoang vu lặng ngắt. Sao vô cùng thê lương trong không gian,
vô cùng tịch mịch giữa thời gian, và tuổi tôi bây giờ, mấy mươi năm đã nghìn
thu hiu hắt. Trời đã vào đêm hay trời oà ánh sáng. Tôi biết nên khóc hay nên cười.
Bên ngoài gió hay bên ngoài mưa. Tôi không còn cảm thấy không còn nhìn thấy
không còn nghe thấy gì nữa hết. Cái gì vò xé trong gan, lùng bùng trong trí,
làm nóng bỏng, nổi điên. Và bắt tôi moi họng móc hầu cho mửa máu. Có nỗi căm hờn
nào không. Có nỗi ưu phiền nào không. Có điều gì mịt mờ uất ức không vén màn
cho trí cho tim cho đời nhìn thấy đó không. Sao tôi bỗng dưng chìm lỉm. Đáy nước
đâm đầu tìm xuống bây giờ mỗi lúc một sâu, và từ đây nếu còn ở lại, tôi sống với
gai, tôi sống bằng gai trên mỏm đá ngầm.
Ngà hút một điếu thuốc, hai điếu thuốc, ba điếu thuốc, chỉ để thấy quay quắt
hơn thôi, lòng rã rời như những mẩu tàn xám đen rụng xuống. Tôi uống thuốc tim
sau ba điếu thuốc. Một giọt hai giọt ba giọt ba mươi giọt. Một nghìn muôn giọt
cũng thế này, cũng vẫn thế này thôi. Ung thư đã lở lói trong đời sống, phong
cùi đã bắt đầu triệu chứng trong tình yêu trong tình ghét trong tình oán cừu
trong tuyệt vọng trong não nề con mắt tha ma. Ơi ngọn đèn. Sao ngọn đèn bỗng
dưng sáng thế này. Tôi mịt mù không nhìn thấy gì nữa hết. Tôi đã ở ngoài tôi
ngơ ngác đi tìm đời mình bỏ rơi quãng nào dưới dòng nước xanh chảy xiết. Đây là
đâu. Hình như đã tới bờ. Từ lênh đênh tôi mòn mỏi đợi bờ. Và tới bờ tôi xót xa
thèm một giọt nước mắt cô đơn. Ơi giọt cô đơn đã chín muồi rơi rụng cho hai mắt
suốt đời từ đây trống không ráo hoảnh. Gió còn thổi mãi ngoài khung cửa. Ngoài
kia là hư vô cô đơn thênh thang. Cô đơn trang trải mênh mông chan hoà mát rượi ở
ngoài đời tôi câm nít bít bùng. Nhớ một giọt cà-phê ở ngoài mùa hạ cũ nào không
tuổi. Nhớ một con đường dốc nắng mướt lá xuân xanh. Nhớ một vùng mù sương trắng
xóa mong chờ. Nhớ hai con mắt tôi mở lớn xuống đời sững sờ đón tiếp. Nhớ những
bước hoa hồng gửi dấu thời gian. Nhớ vô hình vô sắc vô danh cõi thinh không tôi
cô đơn vây bủa bốn mùa tuổi thắm. Bây giờ mình đi xa tít. Bây giờ tôi chạy trốn
giữa lòng biển khơi. Tiếng chó đã tru khắp xương da lạnh lẽo rồi mình. Mình không
có tôi đâu, mãi mãi không bao giờ mình nắm giữ được tôi đâu. Hãy ở lại với những
con cá, những con cá mang từ biển khơi về nhốt trong đầm. Tôi chẳng phải là con
cá. Hãy đừng thả hèm thả cám cho tôi ăn. Tôi đã lầm lẫn ngu ngốc nhiều năm. Đã
gầy dựng và ở lại đời sống này bởi tưởng là mình suốt đời không bắt được con cá
nào hết, mọi điều chỉ từ tôi, chỉ do tôi. Mà mình đã bắt cá lén bỏ vào đầm, đã
lấy tiền đi mua cá dành dụm bao nhiêu năm mua đất đồn điền cho tôi, lão già ngu
ngốc vô chừng. Vậy ra tất cả vùng đất đai này, tất cả công trình gầy dựng này
chẳng phải do tôi, mà chính mình. Vậy mà ta đã dày vò nhau, đã hành hạ tâm hồn
đời sống nhau. Mỗi chúng ta đều kiêu hãnh ngu ngốc với những dự trù thầm kín.
Mình đã quá giống nhau nên đành phải mất nhau. Thôi tôi đi đây, mình chẳng bao
giờ thả cá về với biển thì tôi thả tôi về với biển.
Ánh chớp đầu đêm loé sáng chân mây dài. Ngà chạy lên cầu gỗ, xuống bãi cát, với
tiếng chó sói tru nổi gai ốc khắp người, với âm thanh nào xa vút ngân nga ngoài
cõi lạ. Sóng tấp bờ lớp lớp mênh mang. Ngà khoan thai bước vào dải nước đen
nghe tiếng bọt sóng tan lao xao xa mãi trên bờ.
Cánh cửa đen
I. Một con dao bén ngọt lóc nhẹ trái tim ra khỏi lồng ngực, một cơn gió lạnh toát
cuốn tròn toàn thân, dìm xuống vùng nước xoáy sâu hun hút, những chiếc đinh vít
nhọn hoắt đâm sâu vào thái dương, hai tay hai chân cóng tê lạnh ngắt, tôi tỉnh
dậy trên bàn rộng, giữa những đống giấy rách nát, những cây cọ bê bết màu, những
ống thuốc loang lổ, những mảnh vải trắng tả tơi, những khung gỗ gãy nát, những
mảnh chai vỡ vụn, những vệt tàn thuốc nhớp nháp, toàn thể những thứ đó dính bê
bết vào áo quần đẫm ướt mồ hôi, mồ hôi, như một phát tiết cuối cùng của cơn đau
suốt đêm, suốt những tháng năm vực thẳm, những ngày dài tha ma, đã ứa ra, như một
loài máu trắng, từ những vết thương vô hình khắp cùng thân thể tôi, khắp cùng kẽ
da chân tóc, đầu những ngón tay ngón chân, khắp, khắp cả những mảng thịt da lạnh
ngắt không còn cảm giác, và thứ đầu tiên tôi nhìn thấy ở ngoài đời gởi đến sau
một đêm ác mộng mê man, đêm săn đuổi không ngừng ảo ảnh đã vút bay khỏi tầm tay
với trong cơn chiêm bao bùi ngùi không nguôi, là màu trời trắng xoá trôi qua
khe cửa, khoảng không gian bé bỏng và cuối cùng bỏ ngỏ cho tôi còn chút tương
giao âm thầm với cuộc đời vây bọc xung quanh, buổi sáng đã đến đúng giờ hẹn hò,
đánh thức tôi dậy, như thường lệ, nhưng sao lại đánh thức tôi dậy không để cho
tôi yên, không để cho tôi mê man, sao ngày lại đến tình cờ, cay nghiệt, mở bét
hai con mắt tôi ra, lôi thốc chùm ý thức nhức nhối ra khỏi cơn mộng mị ngập
chìm, không để cho tôi quên, sao những tiếng chân người lại qua ngoài ấy, sao
những tiếng sóng xé rào rào dâng lên ngoài bờ đường xa, sao có tiếng trẻ con
khóc cười trong xóm, sao tiếng nhạc vang vang một bài hát cũ ưu phiền, sao tiếng
những người đàn bà đi chợ gọi nhau, sao tiếng chim hót lên đầu cành lá mới, sao
nắng bắt đầu nhảy múa trên ngọn cây, và trời mở ra mông lung cao tít trong hồn
tôi đã đáy huyệt chôn vùi. Mà thời gian không gian nào thế. Buổi sáng hay buổi
chiều, buổi trưa hay nửa đêm. Tôi ở đâu. Tôi còn gì. Không, tôi không còn gì hết,
không còn gì ngoài thứ máu trắng ứa lên từ những vết thương vô hình. Lạy van
em, em yêu dấu, em đâu rồi hãy đến. Anh tỉnh ra rồi. Và ngó thấy rồi, tất cả những
mảnh vỡ. Những khoảng trống. Những không gian xa tắp. Những sai lỡ. Những mất
hút dấu tích, và bặt tăm hình bóng. Lạy van em, quỳ trên gai trên lửa trên bất
cứ cực hình đau đớn nào, khóc bằng thứ máu trắng đó và lạy van em đâu rồi hãy đến,
đâu rồi hãy về, một phút giây thôi, một thấp thoáng thôi, rồi anh trả con chim
trắng về trời cao, rồi anh nằm xuống yên vui địa ngục. Nỡ nào tàn ác thế. Tôi
là một kẻ điên si. Một kẻ tham lam ngu muội, thương yêu và đòi hỏi quá nhiều,
cái gì cũng quá nhiều nên tràn đổ cả. Lạy van em, lạy van em. Tôi còn có lời
nào, tôi còn có cái gì. Chẳng cái gì cả. Có cái gì xung quanh không, có cái gì
trong lòng không. Không, không, em đã mang đi theo hết, đời sống, sinh khí, tất
cả, như mặt biển đã rút về cơn thủy triều chiều hôm cho bãi hoang vu không còn
một dấu chân, không còn một cọng cỏ. Tôi thèm bóp dẹp đầu trong hai tay, phải rồi,
bóp dẹp đầu tôi trong hai tay điên cho em thấy niềm ăn năn của tôi. Và phá
phách hết căn phòng này, cái nhà này, tất cả những gì tôi đã ngu si miệt mài gầy
dựng, những ngày tháng dưới bóng hư không, bỏ quên tôi, bỏ quên em, bỏ quên hạnh
phúc gần gũi thân yêu của mỗi đời người chỉ đến một lần, chỉ có một lần. Nhưng
ích gì. Con sông đã mênh mông hai bờ rồi và chẳng có cầu qua. Tôi làm gì tôi ra
sao, ở đây cũng chẳng còn ai thấy chẳng còn ai biết ai hay nữa. Chỉ một mảnh trời
thì lạnh lẽo, xa xôi và câm nín chừng nào. Tôi lạy van vô ích, gọi kêu vô ích.
Có ai nghe đâu. Có gắn hàn gì được đâu. Nhưng tôi có làm gì đáng tội. Tội của
tôi là ngu dốt. Người nào cũng ngu dốt cả, bởi khi nằm xuống buông tay không ai
bằng lòng đời mình, phải hối tiếc một cái gì, phải ăn năn một điều gì, và tuyệt
vọng cho đến chết bởi đã ngu dốt làm hỏng đời mình, đánh rơi hạnh phúc tìm thấy,
và không có cách gì để sống lại đời mình một lần thứ hai. Ngu dốt bởi cơ hội
nào, hạnh phúc nào, tình yêu nào cũng là cuối cùng cả, cũng đến và đi mất không
trở lại hai lần bao giờ, mà vẫn lơ đãng, vẫn vô tình, vẫn lười biếng không nắm
giữ, không nuôi dưỡng không nâng niu. Lạy van em. Nhưng em đã ra khỏi đời tôi
bao xa. Không, hãy còn đâu đó, không thể nào vượt ra khỏi vòng săn đuổi tận tụy
của tôi đâu, cứ đi, cứ trốn, tôi sẽ hụt hơi đuổi theo, sẽ hụt hơi đợi chờ, còn
ba mươi năm năm mươi năm, còn một đời dài thê thảm để mong chờ.
Như một thứ quỷ nhập tràng, phải đợi một cái gì va chạm dữ dội mới ngã quay ra.
Tôi cũng đã ngã quay ra. Đến bây giờ mới ngã quay ra, đau đớn. Còn thì là cúi đầu
chạy tới, chạy tới, đuổi bắt mê say cái khoảng không trước mặt, khoảng không mỗi
con người si ngốc vẫn tưởng sẽ hiện lên một ráng cầu vồng cho riêng mình. Chẳng
có ráng cầu vồng nào cả. Ráng cầu vồng trên trán trên môi em những đêm dài im
ngủ. Ráng cầu vồng trong tóc trong da em những ngày vĩnh viễn đi qua. Tôi đui
mù. Phải rồi, đã đui mù và ngu dốt. Bây giờ thức giấc trong ngày trống trơn, em
mang theo ráng cầu vồng, ánh sáng soi đời mưa bão, tất cả. Có con đường nào đi
đến em không. Có tiếng gọi nào vọng đến em không. Không. Đã im lìm quạnh vắng.
Hoàng hôn đã lẫn chìm trong buổi sáng, và ban đêm đã phủ xuống ngày còn.
Tôi bò dậy quờ quạng. Bóng tối đêm dài còn đọng khắp căn phòng, ám ảnh rã rời của
thời gian vắng tanh. Tôi giơ bàn tay soi từng ngón gầy, những khúc rễ già cắt
khỏi vùng đất ấm bám víu. Tất cả thực sự đã vuột trôi đi sao. Những tin tưởng
xây đắp trong lòng. Đã biến tan rồi thật sao. Chứ còn gì nữa. Hoạ chăng là còn
lại cái thằng người khốn khổ, lệch lạc, mệt nhoài và bất lực nơi tôi. Cái thằng
dở sống dở chết. Cái thằng trời dành cho một nhúm rung cảm nghệ thuật, một nhúm
hiểu biết lăng nhăng, một chút xíu hoa tay để vẽ vời, và những kinh nghiệm đớn
đau về đời sống. Cái thằng người đó đang mải miết, đã mải miết chạy trốn thực tại
buồn rầu bất mãn, chạy trốn chính mình, chạy trốn mọi người mọi thứ. Cái thằng
mặc cảm chồng chất và phản ứng quằn quại của một con thú dữ cùng đường kiệt sức.
Cái thằng muốn hối hả chu toàn những nền móng, đổ đầy những hầm hố dưới chân đời
sống chính nó đã đào ra, để bằng ngang mặt đất, để xây lên núi non, để lên cao
trên trời. Thật vô ích và ngu ngốc. Tôi phải sống sót dưới những đáy hố sâu tôi
đã đào ra để tự chôn vùi. Tôi chẳng thoát được đâu. Càng vùng vẫy chỉ càng ngoi
ngóp thêm thôi. Sự cố gắng vùng vẫy chỉ làm sụp mau thêm những bờ đất ở quanh
miệng hầm sâu. Thật vậy sao? Đâu là điều đúng, đâu là điều sai? Lúc tôi cảm thấy
thế này, lúc tôi suy nghĩ khác đi. Lúc nào hình như cũng đúng và lúc nào hình
như cũng sai cả. Dù sao thì tất cả những căng thẳng đầu óc, những nỗ lực thường
xuyên, cái đà lao vút cuồng điên tới tận cùng đường sống đó là cũng để cho em.
Bởi tôi một mình tôi chẳng cần gì công cuộc, cần gì đắp xây cần gì tìm kiếm một
vùng trời xanh thẳm khác. Chỉ cho em đó thôi. Ít ra là cũng lên được ngang mặt
đối với em, không thể mỏi mòn quằn quại mãi hoài dưới thấp, làm sao giải thích
cho em hiểu khi em đã cố tình không muốn hiểu, đã tàn nhẫn không muốn hiểu. Và
nghĩ tham vọng, sự thành công đắc ý nào đó đã lôi kéo tôi chạy lếch thếch theo
con đường mòn. Say mê ư, tham lam kiêu hãnh ư? Có gì mà say mê, có gì mà kiêu
hãnh. Những vệt màu trên khung vải đó, những hình nét nghiêng chồng chất rối loạn
đó, những bài báo khen chê soi mói đó, và những mắt đời thờ ơ nhìn ngắm đó, những
đồng tiền cay cực nhục nhằn thu nhặt được đó. Có gì mà kiêu hãnh, có gì mà say
mê. Chỉ là một cách để trải qua đời. Một cách để tự vệ giữa đời. Chỉ là thứ khí
giới cũ mòn, hư hại nhất mà tôi có được để chống đối, để xoay trở trong lúc bao
nhiêu kẻ khác có muôn vàn thứ khí giới tối tân, sắc bén, thần diệu khác để bắt
buông hạnh phúc theo ý muốn. Nhưng tệ hơn nữa, tôi là kẻ sử dụng vụng về thứ vũ
khí tồi tàn và độc nhất của mình, đã phải bị thương với chính vũ khí mình. Có
phải thế không? Tôi miệt mài đeo đẳng trong cách của tôi, vì chẳng còn cách nào
khác, như vậy nào phải là vì tôi hài lòng và kiêu với cách đó, mặc dù đôi khi
cũng cảm thấy nguôi ngoai. Phải rồi, tôi cũng cảm thấy nguôi ngoai một thất vọng,
một căm hờn, một mỏi mòn nào đó khi mải mê pha màu vẽ. Nhưng đồng thời, tôi
cũng cảm thấy ê chề tuyệt vọng sau mỗi bức tranh. Càng vẽ càng thấy không diễn
tả được gì, đời sống chìm lỉm hơn, tâm hồn căng thẳng hơn, và bây giờ, hạnh
phúc mất mát nhiều hơn. Bao giờ cũng thế thôi, mỗi bức tranh là một lần loay
hoay chới với tìm kiếm, mỗi bức tranh là một niềm băn khoăn rộng lớn, một dấu hỏi
không mong cầu lời giải thích, một tiếng kêu không có ai đáp lại. Và giống
nhau, tất cả đều giống nhau và được diễn tả dưới những hình thức, sắc màu khác
nhau. Tôi chán ngấy những điều đã thực hiện. Và chán ngấy hơn khi thấy những điều
mình chán ngấy đó được lưu ý, chửi bới hay hoan nghênh. Nhưng đó có phải là tôi
đâu, cái tên mà người ta lôi ra khen chê chửi bới đó có phải là tôi đâu. Tôi đã
chọn em là đời sống và những thực hiện nông nổi kia chỉ là phương tiện cho đời
sống đó. Em lầm lẫn, tất cả mọi người đều lầm lẫn tôi trong những công trình thể
hiện đó và tôi đích thực trong những ấm ức không nguôi ngoai với tất cả những
nung nấu ước vọng không thể hoàn thành, bởi vì tôi này hay tôi khác cũng đều được
diễn tả bằng một hình thức đó thôi. Điều khốn khổ là tôi không có nhiều, ít ra
là hai cách, để phân biệt trong diễn tả hai con người tôi, và nhất là đã chịu
nhượng bộ để nghệ thuật chỉ còn là phương tiện trải qua đời sống. Em thất vọng
về công việc tôi, nhưng công việc đó không phải là toàn thể tôi, tôi là một phần,
một phần tôi nhỏ nhoi, biến thể, méo mó. Bởi tôi đã chọn em làm đời sống, làm hạnh
phúc độc nhất như ngày cô đơn đã chọn nghệ thuật làm hạnh phúc và đời sống tôi.
Người chỉ an vui với cái duy nhất kiếm tìm chọn lựa. Mà bây giờ cái duy nhất
cũng không còn, cũng bỏ đi.
II. Khi ra đến trường tôi vẫn không biết là tôi sẽ đi đâu đến đâu. Không thoáng
trong óc một ý nghĩ nào về những nơi có thể đến. Chỉ chắc chắn mỗi một điều là
không bao giờ trở về đó nữa, không bao giờ nhìn lại khuôn mặt đó nữa, không bao
giờ diễn lại tấn tuồng của buổi sáng nay một lần thứ hai nữa. Không có gì bất
thường hay đặc biệt cả. Điều đó thì gia đình nào mà chẳng có lần hay nhiều lần
kinh nghiệm. Giận hờn gây gổ, đổ vỡ và phân ly vì những chi tiết khởi đầu vô
nghĩa, những chi tiết vô nghĩa mang nặng tất cả những ấm ức nín câm, những bất
mãn lâu dài, những uẩn khúc khó nói của nhiều năm sống. Tưởng sẽ bị giây phút
căng thẳng nặng nề, khuôn mặt nhăn nhó đó ám ảnh theo từng bước chân đi, từng
phút giây từ đó, nhưng ra đến đường, đối diện với người, tiếng ồn, dòng sống
thác lũ luân lưu, vòm trời và những hàng cây lặng lẽ, mặt trời và ánh phản chiếu
trên những vũng nước mưa đêm, tất cả đã bị xoá phai tức khắc. Và tôi rơi trong
vùng trống không, trống không thực sự, chẳng còn là cảm giác mơ hồ như thỉnh
thoảng, sau cơn giận, sau nỗi chán, tôi bỏ đi xa vùng không gian quen thuộc của
đời sống hằng ngày. Bởi vì sau lưng thật chẳng còn gì, tôi không thể trở lại,
không thể tiếp tục chắp nối cứu vớt lại đời sống đã vỡ tan thành mảnh chén. Còn
trước mặt là miền xa lạ tôi đã từ chối suốt bao nhiêu năm nay. Vậy là tôi chẳng
có nơi nào dừng lại, nơi nào trú ngụ tạm thời. Nỗi khổ là nơi trú ngụ vĩnh cửu,
tôi đã chối từ. Không còn nỗi khổ, không còn lo âu, không còn ràng buộc, không
còn gì hết, tôi sống thế nào từ hôm nay.
Con đường bỗng rầm rộ xao xuyến với một đoàn xe chuyển quân ra ngoại ô. Những
trận đánh lớn sẽ xảy ra ở miền nào, làm sao tôi biết rõ được để tìm đến, nhìn
cho trí não lung lay, tâm hồn thay đổi. Chỉ còn cách là phải thay đổi đi để tiếp
tục sống. Tự tôi, tôi không thể thay đổi, bởi thời gian đã mọc rễ trong những
bình yên khuôn khổ đó. Ước ao một điều gì từ bên ngoài sẽ xảy đến để thay đổi
tôi, còn tôi, tôi bất lực với chính tôi rồi.
Tôi gọi xe đi xuống phố. Lần đầu tiên từ mấy năm nay tôi gọi xe một mình đi xuống
phố. Xe thả tôi xuống con đường chính của Sài Gòn. Rồi mình sẽ phải trải qua buổi
trưa ở đâu, và buổi chiều nay, rồi là những ngày kế tiếp, nếu không hàng phục
trở về, tôi nghĩ bâng khuâng hoảng hốt. Trong cơn giận không bao giờ tôi nghĩ
thế, không hề nghĩ chỉ cần bước ra khỏi bờ thềm quen thuộc là cảm thấy hụt chân
chết đuối ngay. Mà chỉ nghĩ đến những tháng ngày thênh thang, những vùng trời lồng
lộng bên ngoài khung cửa, và tiếc nuối đã tự giam cầm trong một nhà tù êm ái
bao nhiêu năm. Qua một tiệm nước sang trọng, tôi bước nhanh không dám nhìn vào.
Tôi sợ phải nhìn thấy tôi trong đó, những ngày yên vui cũ. Tôi với những màu áo
rỡ ràng những vây bọc xôn xao của đám đông, của những hỏi thăm tíu tít. Tôi sợ
thấy tôi ngồi trong đó, khi hai người. Khuôn mặt ở nhà vọng lên thành tiếng
nói, em đi thật đó sao, tôi cũng muốn trả lời trong câm lặng thật dửng dưng lạnh
lẽo, vâng đã đi thật rồi. Tôi không nhìn vào trong tiệm nước. Nhưng tôi vẫn
nhìn thấy, trong vùng hồi tưởng vô tình thầm lặng nào, hay ngón tay chàng bật
que diêm châm cho tôi một điếu thuốc. Những que diêm đã châm cho tôi những điếu
thuốc. Hơi ấm lan toả đầu môi và vừng khói cay cay phảng phất nụ cười buồn. Từng
giọt ngậm ngùi chảy xuống lòng tôi. Nhưng nhất định là không thể trở về đó nữa.
Tôi bước nhanh, thật nhanh theo ánh nắng reo bay hè phố, cố nghĩ đến những thời
gian vắng tanh trước khi có chàng. Mỗi một điều để phân biệt khác nhau giữa tôi
nay và tôi con gái là bây giờ, có chàng, tôi không thấy đời vắng ngắt trước
kia, tôi vẫn bùi ngùi xót xa nhớ tôi. Tôi vẽ tôi lại trên khuôn kính lờ mờ ký ức.
Nó hay đi ra phố những chiều hết nắng, giờ những người tan sở bắt đầu đi dạo,
con gái và con trai nô nức kéo nhau ra đường tìm kiếm xôn xao, những người lính
thủy kéo nhau xuống phố, mua quà tặng, ngắm nhìn đàn bà con gái qua đường, tán
tỉnh những cô bán hàng, và lính không quân biểu diễn cách nhìn để bắt một con mồi
xinh đẹp, cách đi để xao xuyến bước chân người nhìn theo, vẻ dửng dưng bất cần
của lối hất ngược mũ để làm thất vọng người gặp gỡ. Nó đi ra phố với khuôn mặt
trang điểm kín đáo và tỉ mỉ, với hồn lồng lộng như vòm trời mênh mông dồn đuổi
mây bay về ngoài biển lớn, với hai chân lao đao những bước kiêu hãnh vô cớ ngập
tràn, và niềm vui không biết vì sao, như một vầng trăng đầy toả sáng xuống lòng
chìm mộng ảo. Nó đi ra những đêm gió biển thổi tấp con phố dài hai bên tiệm ăn
cửa hàng đèn màu tấp nập bước chân vui với ý nghĩ cuồng điên ngu ngốc nếu vắng
mặt mình phố chẳng bao giờ rực rỡ về đêm đến thế. Nó ngồi bãi biển nửa đêm hai
chân vùi sâu cát ấm, nghe bọt sóng tan chìm những mộng mị của một đời người đắp
xây, và muốn bơi theo dòng trăng ra tới chân trời phiêu bồng sương khói. Tất cả
thật trẻ thơ khi ý nghĩa của sự sống nối liền với một cuộc phấn đấu âm thầm dai
dẳng, dưới những hình thức đơn giản tầm thường, những bề ngoài bình lặng ngầm
chứa một bề trong hỗn tạp bất an, và hạnh phúc không phải là sự thoả mãn một
khoa trương theo tự tôn tự ái của mình, không ở chiếm đoạt đắc thắng dễ dàng tự
nhiên những điều ước muốn, không ở bất cứ một cái đích nào đó ta bỏ hết nửa đời
để nao nức dưới theo, mà chỉ là trong tư thái hồn nhiên vắng lặng đón nhận một
nỗi khổ đích thực nào đó. Tôi đã lìa xa nỗi khổ, tôi không còn nỗi khổ nào
khác. Đã no đầy với một tuyệt vọng thì hạnh phúc còn lại chỉ là, chính ở nỗi khổ
đó. Nỗi khổ sáng ngời đức kiên nhẫn chịu đựng và lóng lánh ánh sáng của một sự
thật. Bởi sự thật độc nhất của con người là nỗi khổ. Chạy ra khỏi nỗi khổ là lạc
lõng và xa cách ngay với đời sống. Tôi đã nghĩ và đã cưu mang nỗi khổ, cưu mang
đời sống ảo tưởng nhiều năm. Mà bây giờ đi qua khung cửa hẹp ra vùng thênh
thang của tự do và cô đơn, để lại làm kẻ khất thực hạnh phúc. Sẽ không ai bỏ
vào bình bát của kẻ khất thực này một trái chuối, một vắt xôi, một thứ hoa quả
nào đâu, bởi tôi mang bình bát trống không với hai tay buông xuôi mỏi mệt và
hai chân bước mau cuống quít về nơi trú ẩn. Kẻ khất thực hạnh phúc nó chỉ có thể
ngửa bình bát trước chính tay mình. Tôi đã buông tay. Nỗi khổ đích thực đã rơi
ra ngoài bình bát khi tôi bước khỏi cửa đời sống rồi. Tôi chẳng xin ở ai, nếu
có trở lại nhà cũng không thể xin ở chàng, một tôi-thứ-hai.
Tôi bước vào tiệm giải khát nhỏ gọi một chai Coca. Khung gương gắn trên tường gởi
lại tôi một nét mặt sững sờ đau đớn, bơ phờ. Như một chiếc xe móp sau tai nạn bất
ngờ khủng khiếp. Sao có thể như vậy được. Sao việc đó lại có thể xảy ra, ở
ngoài, ở ngoài xa tít khỏi dự định chúng tôi. Có bao giờ nghĩ đến một chia lìa
ngăn cách nào đâu. Đã phác hoạ suốt đường dài đời sống, từ đây cho đến xế chiều.
Bao nhiêu chương trình dang dở. Mà điều đó đã xảy ra, bất ngờ, vô lý, và chúng
tôi trở thành những cái bóng nhạt mờ của nhau. Tại tôi. Và tại chàng. Tôi biết
là chàng không thể làm cách nào khác cho hai chúng tôi sinh sống, hơn là vẽ, vẽ
liên miên. Mà tôi thì thấy, càng vẽ chàng càng chết, và tôi trong đời sống
chàng càng vô nghĩa. Làm thế nào để chia sẻ thời giờ đầy đủ và nhất định cho
tôi, cho công việc chàng, mà đôi bên không làm lẫn lộn và thiệt hại cho nhau.
Tôi không muốn chia phần thời giờ với công việc chàng. Chỉ muốn hoặc người đàn
ông chọn công việc để bỏ rơi tôi. Hoặc chọn tôi để bỏ rơi công việc. Người đàn
ông đã chọn tôi, nhưng để có tôi trong đời sống thực tế, người đàn ông phải làm
việc. Tôi không thích điều tất nhiên hợp lý đó. Tôi chỉ muốn có một cách phi
thường nào đó làm người đàn ông chọn lựa tôi và đồng thời vẫn có công việc họ
mà không xao lãng tôi một phút giây nào. Tôi muốn điều không thể được. Có ai lại
không muốn ít nhất một điều không thể được trong đời sống tẻ nhạt của mình. Người
đàn ông thì vẽ mải mê, vì sức lôi cuốn kỳ dị, vì những đòi hỏi thúc bách của
công việc. Buổi sáng, buổi trưa, chiều và ban đêm triền miên, cả trong giấc ngủ
đôi khi chàng lảm nhảm nói đến những ý tưởng xếp đặt trong một bức tranh, đến sắc
màu và hiệu quả ảnh hưởng của sắc màu trong tâm hồn người thưởng ngoạn, cũng
như lúc ngồi không, lúc nhìn hay ôm tôi trong tay, hai con mắt người đàn ông
cũng vẫn nhìn thấy nơi tôi những nét hình ám ảnh cho tôi một trình bày mới lạ.
Tôi không đáng một vệt màu, một nét bút của người đàn ông, không là gì trong đời
sống đã lôi kéo tôi vào cả. Thế mà người đàn ông đôi khi, vì không thể hiện
đúng những ý tưởng, không diễn tả đầy đủ những khía cạnh tâm hồn hay đời sống của
cuộc đời, của chính mình ở trong tranh, vẫn trút tất cả thất vọng bực tức chán
ngán lên đầu tôi, kẻ chịu đựng gần gũi nhất. Nỗi cô đơn thê thảm của người đàn
ông đã kêu gọi tôi về đời sống ràng buộc. Nhưng trong cách miệt mài công việc bạc
bẽo vô ơn kia, nghệ thuật danh từ tốt đẹp phỉnh phờ, thật ra chỉ là một thứ ma
quái ám ảnh làm mờ trí hao thân, chẳng đi đến đâu và ru ngủ con người trong mộng
mị triền miên, chối bỏ tất cả mọi giá trị hồn nhiên của đời sống bình thường,
tôi cảm thấy người đàn ông không bao giờ cô đơn, hay đúng ra, cô đơn chỉ là tiếng
kêu thảng thốt khi mất đi một thực tại tầm thường gần gũi, thái độ hoảng hốt yếu
hèn của một nhân cách ích kỷ và tham lam. Vậy thì tôi chẳng là gì trong thế giới
đó. Chẳng là gì hơn một thùng rác chứa đựng tất cả những bất mãn, bực dọc, dày
vò từ cung cách đối xử của người đàn ông ném xuống. Tôi đau nỗi mất tôi. Tôi
đau cảm giác vô ích thừa thãi tôi. Và tôi chỉ còn là cái bóng, quanh quẩn lẽo đẽo
trong thế giới đầy đủ đến vênh váo kệch cỡm của người đàn ông. Không còn lý do,
không còn chút sức mạnh nào đủ ràng buộc, dù một khoảnh khắc thời gian vào đời
sống đó nữa. người đàn ông hẳn nghĩ tôi bỏ đi tức là tìm đến một nơi nào đó. Nỗi
thất bại lớn nhất vẫn là không giải thích bằng đời sống của mình được cho kẻ
khác khỏi lầm lẫn mình một cách sai lệch tầm thường. Nếu tôi có sẵn một nơi nào
để tìm đến mọi sự thật dễ dàng, và tôi cũng chẳng có gì đáng phải nói ra. Tôi
chỉ có một đời sống, đã chọn lựa, muốn sống đời sống đó, nhưng đời sống đó đã đẩy
xô tôi đi xa. Chỉ giản dị như vậy, mà không thể hiểu không chịu hiểu. Cho nên
cho cùng thì trong hai người, chính tôi chứ không phải người đàn ông, là kẻ cô
đơn.
Không gương soi thì không bao giờ có thể cảm thấy tận cùng nỗi cô đơn của mình,
tôi uống vội ly coca và đi ra trong mắt nhìn tò mò của những người xung quanh.
Buổi trưa duỗi dài trên đường phố vắng. Một trận đánh lớn, một tai hoạ khủng
khiếp nào đang âm thầm đe doạ quanh quất, tai hoạ vẫn thường lẩn trốn trong mỗi
đời sống bình yên, chỉ chờ một thoáng đổi thay, một nhích chân, một vươn tay tới
chiều hướng khác, tới ý nghĩ khác là vầng trời đen đổ xuống. Máy bay nổ rền trời.
Tôi chìm lỉm trong tiếng động dữ dội. Cảm giác chênh vênh hao hụt bắt đầu nhói
từng cơn trong tim. Tôi đi dọc con đường nắng. Con đường tới một bến xe chạy về
các tỉnh xa xôi. Tôi ngồi vào xe. Xe chạy. Tôi nghe tiếng kêu vang vang từ miền
thành phố. Tôi muốn trở về. Muốn lạc mất tôi trong đời sống đó còn hơn tan chìm
trong thế giới nào im lìm không ai nhìn thấy, không ai làm nhân chứng cho sự sống
sự chết tôi. Chiếc xe mang niềm hoảng hốt lo âu bất ngờ chạy băng băng qua những
quãng đường rừng im vắng, qua tôi, qua chàng, qua những ngày trôi xa quá khứ
bùi ngùi.
Vậy ra, đi chỉ là trở về thôi có phải không, tôi hỏi những tảng mây trắng ung
dung bay về ôm đỉnh rừng xanh.
III. Tưởng có thể đánh đổi bất cứ những gì có thể có, những gì còn lại, trừ những đống
vải nhòe nhoẹt màu sơn nát rách trong căn phòng đời tôi từ nay không bao giờ trở
về, một cánh tay, một ống chân, hoặc cho cùng thì cả một phần đời mênh mông còn
lại, với tất cả tự do và năng lực, nỗi hoan lạc cũng như niềm thống khổ, để
đánh đổi lấy một cảm giác vui vầy đầm ấm, một chút tương giao nào đó mong manh
và mơ hồ cách mấy với đời sống, đời sống làm bằng những buổi sáng như sáng nay
xe cộ luân lưu ung dung thanh thản trên đường, tiếng còi và giọng người trĩu nặng
những âm thanh linh hoạt và vang dội, quán phở mở ra đông đảo với những đĩa rau
xanh, chanh ớt tươi nồng, mùi mỡ bò béo ngậy, tiếng muỗng quậy lanh canh trong
ly cà-phê, người khách ăn xong xỉa răng chim chíp miệng như chim kêu sau cơn
mưa bất ngờ, đứa bé không thích đến trường ném cặp sách xuống lề đường nằm lăn
kêu khóc, thằng bé bán cà-rem ghếch chân để đỡ cái phích đếm lại những cây kem
lạnh ngắt bốc hơi còn lại, mấy người phu tiệm tống táng vui vẻ khênh một cái
hòm không mới toanh thơm mùi gỗ trầm và diêm bào đặt lên cái xe đen lua tua những
bức hoành trướng sặc sỡ, người đàn bà đón một chiếc xe xích-lô máy leo lên ngồi
dở gương con soi ngắm tô lại vành môi vừa ướt nhẫy nước mắm bánh bèo, tất cả đời
sống lăng xăng tươi vui đó ở hẳn ngoài tôi từ khi tôi còn bé, hay đúng hơn từ
ngày đầu tiên pha thuốc vẽ quệt lên bức tranh thứ nhất, bức tranh thành công một
cách thản nhiên và tàn nhẫn bằng nỗi đau đớn xót xa của một đời người mài dũa
tâm hồn, bằng tất cả những vặn xoắn nát tan của trí óc và trái tim, để được nhẩn
nha chỉ mỗi một cảm giác hụt hơi đuổi theo chuyến xe đi khuất, và niềm ao ước
không nguôi hạnh phúc của một kẻ vừa nhảy kịp lên một chiếc xe ba bánh trên đường
về, ngay lúc xe chạy vượt qua một ngã tư đèn xanh. Mọi sự thật đã trốn đi xa,
đã ở ngoài. Và cả đời sống đó đã thất lạc đi để được gì, những bức tranh, và tình
yêu của một người vĩnh viễn ở lại chia sẻ sự sống nỗi chết với mình, chẳng phải
là thứ tình yêu phù phiếm rỡ ràng và ngắn ngủi, mà tình yêu là bằng hôn phối giữa
địa ngục và thiên đàng, giữa sống và chết, giữa còn và mất, bay lên cao một niềm
vui trầm ấm dài lâu cho hai mắt chỉ nhìn lên mỏi mòn mây trắng, thứ tình yêu đượm
nồng hương vị của ớt cay và chanh chua, ngọt đường và xót muối, những gia vị
thiết yếu cho bữa cơm đời không nhạt nhẽo, tình yêu đó cũng rách nát, cũng tan
hoang theo hai bàn chân em về bến bờ nào xa xôi mù mịt, và như thế, tất cả rủ
nhau đồng loã tách rời bỏ đi, thù ghét khinh bỉ, lẩn trốn và giết chết tôi, tôi
hai tay trống trơn chụp xuống khoảng không lờ mờ lạnh lẽo của buổi đầu ngày thức
giấc.
Chẳng bao giờ đánh đổi được đâu mày, thằng khốn, tôi nhìn xuống đống rác dưới
chân, đầu một ngõ hẻm, nơi tôi đứng phân vân không biết chọn hướng nào để lánh
xa tôi. Tại sao lại đống rác này. Có phải đó là phần dành lại độc nhất cuối
cùng cho tôi không, mùi tanh và những ruồi nhặng vo ve, dấu tích u mê của đời sống.
Hai chân tôi đứng lún trong một phần đống rác. Tôi mê đi trong cảm giác lờ mờ
là bị chôn sống trong phần thưởng của tôi đó. Rồi những mảnh vải nhòe lên trong
căn phòng cũ, một lúc nào đó, cũng xây nhà cho lũ chuột con đỏ hỏn rớt từ trên
mái nhà cao xuống, và người ta sẽ bịt mũi mai táng tất cả cơ nghiệp buồn rầu
ghê tởm đó ra đường, vùi chôn trong một đống rác. Tôi đã đánh đổi tất cả, tất cả,
tương giao đầm ấm đời đời, tháng ngày giản dị yên vui, nỗi thanh thản bình lặng
của tâm hồn, cái giá hạnh phúc không thể đổi bằng bất cứ gì, một người không thể
tìm thấy người thứ hai trên trái đất, để được, suốt những năm tháng dài lạc
lõng tuyệt vọng miệt mài kia một đống rác sao. Có phải tôi đã lạc lầm sai lỡ
như vậy. Hay một thằng người nào khác, do ma quỷ đưa đường dẫn lối, ở trong
tôi. Có phải thực sự tôi đã làm công việc của một người khai phá rừng hoang tìm
lối rộng thênh thang tới miền hạnh phúc không? Hay hết khu rừng hoang này lại
là một rừng hoang khác, và hết một đời người, đến khi nằm xuống vẫn nghe đau đớn
khắp mình mũi nhọn của những rừng gai đó.
Ngày càng lên cao, càng bay mau, những tảng vàng mơ hồ trên đỉnh cây đã lan
tràn khắp thinh không vắng vẻ, tiếng vi vu của lặng yên một cõi nào tôi đắm
chìm mê ngất lay động trong hai mắt ngẩn ngơ những giải mây trắng mảnh dẻ chân
trời, tôi nghĩ thôi cứ đi chẳng biết là đâu cho đến khi rơi rớt xuống nỗi thất
vọng cuối cùng tăm tối. Tiếng chiếc xích-lô máy nổ rộn ràng vang lừng trong trí
óc lùng bùng nỗi hoảng hốt của người điên chợt tỉnh nhìn thấy chằng chịt những
ngã tư ngã năm đường trống lốc phía trước, nhưng vang vang chìm lẫn trong khắp
tất cả những tiếng động ồn ào có thể định danh định tính xung quanh là tiếng
tôi gào thét không nguôi lay van em, em ở đâu hãy về hãy về cho anh tập sống lại
đời sống tôi có phải không. Hãy cho kẻ tử tội một phương Tây trối trăn nhắn gửi.
Tại sao không. Một phút giây thôi, nhìn thấy lại em, đủ để đốt nến lên quan tài
về nghĩa trang heo hút. Đi đâu thầy Hai, tôi không biết trả lời người chạy xe
thế nào, cuối cùng tôi lừ đừ nói thứ giọng người còn tiếc giấc ngủ vùi, cứ chạy
lòng vòng đi đã, thầy cho thêm ba chục nghe thầy, hắn nói, mấy chục cũng được,
tôi nói, nếu còn. Còn? Còn gì? Nếu tôi tìm thấy em, tìm thấy đời sống trở về,
liệu có thể trả cho người chạy xe hạnh phúc mình được không, tiền thì hết nhẵn,
trừ khoản vẽ hình bìa cho các nhà xuất bản chưa lấy được, và tiền bán một bức
tranh cuối cùng, cũng chưa muốn nhận, liệu tất cả những thứ tiền khốn nạn đó có
đủ trả một cuốc xe vô tận chạy đuổi theo hạnh phúc bỏ đi không. Tại sao đêm qua
đã nghĩ tưởng những điều giản dị cho cuộc kiếm tìm. Sẽ đi thật sớm đến nhà người
bà con, gặp em vừa thức dậy, van xin em một phút để nói một lời, phải đi thật sớm
trước khi em có thể bỏ thành phố ra bến xe, lên máy bay và đi xa, làm tất cả mọi
cách có thể làm được, đưa em ra ngoài phố, mời em vào tiệm nước chúng mình vẫn
ngồi với nhau những giờ nhàn hạ, gọi cho em một tách trà đường, một cái bánh ngọt,
hay một cốc kem chantilly em thích, hay một tách cà-phê đen như sau giấc ngủ em
thức dậy buồn rầu, và nói với em, phải rồi, chúng ta đã câm với nhau suốt những
tháng năm gần gũi, đã buông thả thời gian quý báu vô ngần cho những đối thoại
nhạt phèo lười biếng, cụt ngủn, vô nghĩa, hãy cho anh nói thứ tiếng đã bỏ quên,
đã câm nín từ lâu, thứ tiếng em ước ao nghe, anh biết mà không bao giờ nói đến
trong những ngày buông trôi đó. Và câu chuyện chắp nối, một bản nhạc quen,
khung cảnh tiệm nước, những khuôn mặt bè bạn tình cờ bắt gặp, cũng đủ xóa nhòa tất cả mọi giận hờn của ngày hôm qua. Anh gõ nhẹ nhàng hồi hộp vào cánh cửa nhà
bà con, anh gõ nhẹ ba tiếng đớn đau nao nức vào tim em dịu dàng từ trong phòng
trong ra cửa ngoài, nét mặt em hờn dỗi, những lời trách móc xua đuổi tiếp theo,
cho anh lạy van em, cho anh làm bất cứ một công việc nào mà em đày đoạ, miễn là
em trở về, cho anh lại sự sống đã đã đánh mất ngu ngốc điên rồ dại vụng. Nhưng
cánh cửa mở với khuôn mặt người bà con thản nhiên hỏi mày đi đâu sớm vậy. Cánh
cửa, bức tường, người bà con, cả tôi nữa nhoà đi, quay lốc như rơi xuống đáy
sâu vô cùng. Tôi bước vào, nhìn những cái giường, những nơi em có thể nằm xuống
trong đêm. Những mặt giường ngăn nắp phẳng phiu không dấu vết, không một sợi
tóc, một vương vất chứng cớ tỏ ra em đã đến đã nằm ngủ ở đó. Người bà con nói đến
việc nhà, những áp-phe của họ trong lúc tôi chết điếng với nỗi sống chết của
tôi. Đã mất tăm rồi sao, mất tăm những tháng ngày yên ấm, những gầy dựng tương
lai, những hy vọng miệt mài rồi sao? Em không đến nhà này, thì không đến một
nhà bà con nào khác, không đến những nơi tôi quen biết, để theo đuổi, kiếm tìm.
Vậy ra em đã thực sự và cố tình chạy trốn khỏi miền săn đuổi hụt hơi của tôi.
Con đường khi tôi trở ra không còn giống như lúc đi vào. Một toán lính võ trang
hấp tấp bao vây khu phố để tìm bắt những tên địch vừa tẩu thoát. Tiếng súng nổ,
một rồi liên tiếp, đáp lời những tiếng dội ầm ĩ của đại bác nổ từ một vùng bất
an nào ngoài thành phố. Một bọn người đánh bạc, cầm cả bài và tiền nhốn nháo
phóng bừa ra đường, lướt qua những mũi súng còn nóng hổi. Hàng loạt người lếch
thếch tản cư, với tất cả những của cải góp nhặt có thể mang theo về nẻo chết.
Tôi cắm đầu chạy, với cảm tưởng nơi nào đó em cũng đang chạy, hụt hơi và lẻ
loi, không một cái đích trú ngụ đợi chờ. Con đường rộng bên ngoài thì bình thản,
sinh hoạt đối lập với ngõ hẻm trong kia. Chiếc xe chạy, dừng lại một nhà quen,
rồi tiếp tục cuộc kiếm tìm vô vọng. Cho đến chiều tối, tôi đến chỗ cuối cùng dự
đoán có em. Người ta đang bình yên xem ti-vi. Cảnh nhà cháy, giao tranh đẫm máu
giữa đôi bên một vùng ngoại ô. Những khúc cầu sụp. Từng loạt người lăn xuống
theo những tảng đất lở. Tiếng súng bắp rang, thỉnh thoảng ầm lên một cái pháo tống.
Tôi bỏ rơi chiếc xe tìm kiếm. Và đi ngốc nghếch lang thang trong đêm tối, cho đến
khi lạc vào một đám cháy. Những đám người tải thương ì ạch qua trước mặt. Tôi cố
nghĩ là mình giống gì, chẳng biết. Cố hình dung mình giống gì, chẳng thấy. Chỉ
hiện lên căn nhà cũ. Bốn bức tường im dáng dấp em những ngày đã khép cửa trong
đời. Sao ta không cùng chạy trốn? Lửa sắp đổ xuống trên đầu. Bom đạn sẽ bất ngờ
xoáy xuống đời sống. Không chắc gì cả ở những điều kiện bên ngoài vùng tình yêu
chúng ta cùng trú ngụ bao lâu nay, kể cả miếng đất bé bỏng để đặt hai bàn chân
đang ứa máu. Sao lại phân ly, tách rời một niềm lạc lõng, thành hai khối cô đơn
lạc lõng. Sao không cùng quay lưng lại miền lửa đạn này, giữa một thế đứng và
chạy về đàng trước. Sao hai bàn tay đáng lẽ dắt dìu ràng buộc lại chia lìa dứt
khoát bỏ đi.
Tôi vượt qua vùng có đám cháy và đến một ngã tư có rào cản bằng gỗ và những đường
tròn dây kẽm gai. Người lính Mỹ đứng gác trong một chiếc xe bò hư nát nói phía
trước đánh nhau, phải đi trở lại. Tôi nói tôi chẳng còn đường nào để trở lại. Hắn
nói sau lưng có ngả an toàn. Tôi nói tôi không thích an toàn một mình, trong lửa
đạn và đám cháy, trong cảnh hỗn mang đàng trước có đời sống tôi đang lang
thang, không biết tới đâu. Và tôi bước tới, người Mỹ hỏi, ê, điên sao, không trở
lại, tôi bắt buộc bắn. Tôi hỏi dửng dưng. Bắn thật à? Một loạt súng ào lên ở
toà nhà lầu xây dở nơi góc đường trước mặt. Tiếng trực thăng sè sè cấp bách
vòng vòng trên vùng bắn nhau. Một tốp năm người đổ bộ xuống trên một tầng nhà bằng.
Tiếng tiểu liên nổ ròn. Một rồi hai cây thịt không biết bên nào rơi xuống từ
khung cửa sổ mới lắp khung. Một tốp cảnh sát dã chiến đàng sau tôi tràn tới.
Tôi muốn chạy. Chạy tới hay chạy lui. Nhưng đã không nhúc nhích được, tôi rớt
xuống như cây chuối gãy. Tiếng súng, bom, ầm ĩ bốn phương trời. Tôi chìm tan
trong một cơn lốc khói đen. Tiếng xe cứu thương cấp bách vọng lại. Tôi nghe
trong tiếng còi có tiếng kêu của em. Không. Chẳng có tiếng kêu của một người
nào cả. Hình như người ta đến mang tôi đi, một giờ, nửa ngày, một tuần sau khi
ngã xuống, bao lâu chẳng biết, không hiểu để làm gì, lờ mờ cảm thấy là qua bao
nhiêu sông núi và đồng bằng, bao nhiêu thay đổi và nát tan, về một nơi cách xa
muôn trùng căn nhà cũ, bóng ngày xưa, và tất cả những di tích cuối cùng làm tiếng
gọi kêu thầm lặng cho một người trở lại.
IV. Chiếc xe ăn năn chở tôi về thành phố đã ngập chìm lửa đạn. Ý nghĩ phải tìm gặp
lại chàng, đồng thời linh cảm thấy là mọi sự đã sai lệch và lạc lõng hết rồi, bằng
bất cứ giá nào cách nào cũng bốc lửa trong trí óc tôi. Ta chỉ tỉnh thức sau một
biến cố kinh hồn nào đó, và chiến tranh thật ra cũng góp phần trong việc hoán cải
những con người, đổi thay những số phận, phải không, tôi nhìn vòi vọi cuối đường
nhốn nháo đám đông chạy qua chạy lại, như mắc nghẽn trong mạng lưới rộng và thầm
cám ơn cuộc biến động bất ngờ đã kêu gọi tôi trở về thành phố, tôi về tìm gặp
tôi, con đàn bà yếu đuối chỉ sống còn với che chở dù mơ hồ, thờ ơ của một đàn
ông. Người tài xế thả đám hành khách bụi bặm lạc lõng xuống con đường rộng, trước
những tầng hàng rào cản. Tiếng một người lính nói, đàn bà có thể đi bộ qua bên
kia, đàn ông đứng lại ở trạm chờ xét giấy. Tôi chạy băng qua một khoảng trống hẹp
giữa hai vòng dây kẽm gai, không dừng lại gỡ tà áo vướng, tuôn như thác lũ về
phía đám đông. Tiếng kêu khóc lẫn chìm trong tiếng súng réo bốn bề. Cột lửa
cháy sáng rực tung những đám tàn đen lả tả xuống đám người hỗn loạn tìm đường
thoát thân. Tôi chạy, dừng lại thở và chạy. Mọi sự vật bỗng sáng chói lên trong
mắt tôi như cột lửa cháy. Vòm trời, qua đám khói đen dày đặc bỗng hé lên một
vùng trắng trong vắt, như một hồ nước mát hiện lên trong sa mạc chói chang, và phía
xa, chân trời hé lên một giải vàng rớt rơi của mặt trời chiều sắp tắt, màu nâu
cũ kỹ trơn nhẵn của những mái nhà nhấp nhô sau cơn mưa, chòm cây xanh ngắt rung
rinh những tầng nước ngọc chưa rơi rụng, những tấm bảng quảng cáo xiêu vẹo một
góc đường, màu hồng của một cánh màn cửa phơ phất trong gió lay, tất cả bỗng hiện
lên, như mới lần đầu tiên tôi nhìn thấy trong đời, dịu dàng, ấm áp và trong
sáng, đều ẩn ngụ một ý nghĩa thầm kín của tình yêu và bình yên, một sự sống
tình cờ, lãng đãng nằm im trong những dấu hiệu hiền lành kia, như những phút
giây bình thường, bình thường đến độ ngán ngao trong mỗi gia đình, tôi đã hắt hủi
chối bỏ, bây giờ bỗng sáng lên, như cùng đến lúc này, tôi mới ra đời, và ý nghĩ
quay về, sống lại đời sống, bước lại từng bước nhỏ dè dặt quý báu. Những gì tôi
đã có và khước từ bỏ đi đều tương đối, khiếm khuyết, không toàn hảo. Nhưng ta
chỉ có thể chấp nhận những thiếu sót, bất mãn đó hoặc từ chối chỉ là chọn con
đường ngắn nhất để phóng đi về sự chết. Tôi đã thênh thang, tự do, nhưng đó chỉ
là sự gọi mời phỉnh phờ của cô đơn, cô đơn với cảm giác lạc lõng, không vùng
trú ẩn, không mối tương quan với đời sống, đứng ở ngoài đời, lạc lõng và xa lạ
nhìn vào và không có quyền tham dự những vấn đề xôn xao của đời sống đó. Tôi đã
trở về, hàng phục và công nhận là mỗi con người, dù đến thế nào, đều cũng phải
đi một con đường giống nhau, chỉ có một con đường, đi vào đó hay là chết, không
có người nào thực sự an toàn và đầy đủ đến trọn đời với lối riêng phiêu bồng của
mình. Tôi ngụp lặn dưới cái đáy ngột ngạt đá ngầm rong rêu đó, để xin cảm giác
luôn luôn ngoi ngóp kiên nhẫn và đợi chờ một ngày trồi lên mặt nước, hy vọng của
kẻ đắm tàu. Ra ngoài vùng lưới bủa vây của đời sống, tôi chẳng có gì chẳng là
gì cả. Nhưng làm sao em nói đầy đủ ý nghĩa của sự trở về, hành vi chắp nối, bám
víu hay là làm lại một lần thứ hai đời sống em. Em không thể nói, bởi không thể
giải thích điều mỗi người chỉ có thể chứng nghiệm suy nghĩ bằng hiểu biết đau đớn
riêng của mình, không một người khác nào có thể cảm thấy.
Tôi chạy vội vàng qua những quãng đường cuối cùng trước khi về tới đích, và
sung sướng nhận ra mình đang có cái đích để hối hả tìm về. Cái đích ở trong tôi
bao nhiêu năm tháng buồn rầu, bây giờ bỗng dưng tìm thấy. Khi đi vào chặng đường
cuối cùng của khu vực nhà cũ, tôi bỗng nhớ lại những hình ảnh quen thuộc bình
thường về chàng. Tôi thấy chàng đứng nghễnh cầm trước khung gương nhỏ tỉa râu
buổi sáng. Thấy chàng hai tay quàng chiếc khăn lông lau sàn sạt sau lưng mỗi lần
tắm xong. Thấy chàng đăm chiêu hàng giờ trước giá vẽ nhìn lại công trình hoàn
thành sau những ngày miệt mài. Rồi tôi sẽ chìu lụy tất cả mọi hành hạ cay nghiệt
của đời sống để được cảm tưởng bị săn đuổi bao vây trong một chuyến đi trắc trở
thường xuyên cho đến ngày nằm xuống đất im.
Tôi không tìm thấy một khuôn mặt quen nào trong xóm. Con đường đã bít kín với
những đống rác ngập đầu, ngổn ngang với gạch nám đen, đồ đạc gãy hư lỏng chỏng,
dấu hiệu của một đám cháy đã đi qua, chỉ còn lại yên lặng, yên lặng như một đáy
biển sâu nhận chìm tôi trong cảm giác hoang vu khủng khiếp. Tôi bước sâu vào
núi rác để tìm lối đi. Bước qua những dấu chân tháng ngày quen thuộc, bước qua
những mảnh vỡ tan hoang của đám cháy, qua những sườn nhà đã sụp mất nửa, qua
con đường hẻm nồng nặc đầy những con chó trơ sườn sục sạo kiếm ăn quanh những
xoong chảo móp méo lăn lóc quanh gạch vôi tan nát, và tôi hai đầu gối run, hay
tay buông thõng, bước những bước cuối cùng vào cổng nhà mình. Trên khoảng nền
nhà đen sạm bụi bặm tro than, chỉ còn lại chơ vơ một tảng tường vôi lởm chởm những
mảnh vỡ do bom đạn và đám cháy đục khoét. Cánh cửa cháy đen còn gắn cứng vào mảng
tường vỡ. Tôi đẩy cánh cửa, bước vào, với ý nghĩ lạ lùng là tất cả mọi người
sau đám cháy đã lũ lượt tản cư về một hành tinh khác. Và bây giờ, trong cánh cửa
đen, trong căn nhà không mái không tường không còn gì hơn những thước khối
không khí nồng nặc mùi than cháy và thuốc súng, tôi một mình đứng im. Một lúc
lâu, không biết bao nhiêu thế kỷ qua rồi, tôi cúi xuống ôm lấy một thanh gỗ
cháy thành than đen, và mỉm cười với màu trời vào tối trên đầu, có phải tôi đã
trở về, đã trở về đến nơi và đi qua cánh cửa.
Và trong cánh cửa tan hoang này, rồi đây…
Nguyễn Thị HoàngNguồn: talawas.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét