Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2021

40 gương thành công 2

40 gương thành công 2

Chương 14
Walt Disney

Hai chục năm trước, Walt Disney, người đã tạo ra hình con chuột Mickey và Ba con heo nhỏ, có được biết tên tuổi gì đâu. Bây giờ ông được sắp vào hạng danh nhân trên thế giới mà ông mới bốn mươi tuổi. Tự điển Who's Who có ghi tên ông.
Hai mươi mốt năm trước Walt Disney làm chật vật mà không kiếm đủ ăn. Bây giờ thì từ những vườn trà ở Ceylan tới những làng đánh cá ở miền Bắc băng giá, ai cũng biết tên và yêu ông. Cả những người thổ dân ở gần Bắc cực cũng thích những phim hoạt họa về con chuột Mickey chiếu ở Juneau, ở Alaska, đến nỗi họ lập một hội, kêu là hội Mickey.
Hai mươi mốt năm trước, Walt Disney nghèo rớt mùng tơi, bây giờ ông triệu phú. Ông có thể ngồi trong một chiếc xe Rolls Royce lộng lẫy nếu ông muốn, nhưng ông không thích vậy, chỉ thích dùng những xe cũ ông mua lại. Kiếm được bao nhiêu, ông cho vào công việc của ông hết bấy nhiêu. Ông bảo rằng làm được những phim đẹp thích hơn là cóp nhặt cả triệu bạc.
Hồi trước Walt Disney ở Kansas, muốn thành một nghệ sĩ cho nên có lần lại hãng Kansas City Star xin việc. Ông giám đốc đó coi những bức vẽ của ông, bảo ông không có tài, không thâu nhận ông, làm ông thất vọng, đau đớn vô cùng.
Sau ông xin được việc vẽ hình cho các nhà thờ. Tiền công ít quá, nên không mướn được phòng vẽ, phải vẽ trong nhà chứa xe của cha. Hồi đó ông cho vậy là cực, nhưng bây giờ ông nghĩ rằng nhờ làm việc trong không khí hôi mùi dầu mỡ ở trong nhà chứa xe đó mà ông nảy ra một ý đáng giá cả triệu bạc.
Việc xảy ra như vầy: Một hôm một chú chuột cao hứng dạo chơi trên sàn. Ông ngừng vẽ, ngó nó, rồi vô nhà lấy mấy miếng bánh mì vụn nuôi chú ta.
Dần dần quen thuộc, chú chuột dám leo lên bàn vẽ của ông.
Sau đó ít lâu, ông ôm một chồng hoạt họa vẽ con thỏ Owald trên giấy dày, đem lại Hollywood để bán, nhưng chẳng có ma nào mua cả, thành thử ông lại thất nghiệp mà không đồng nào dính túi.
Một hôm, ông đang kiếm ý để vẽ thì sực nhớ đến con chuột nó thường leo lên bàn vẽ của ông ở Kansas.
Tức thì ông vẽ ngay con chuột, và hôm đó con chuột Mickey ra đời, sau thành kép hát nổi danh nhất thế giới.
Mỗi tuần Walt Disney tới vườn Bách Thú để nghiên cứu các loài vật và tiếng kêu của chúng vì trong phim ông muốn cho những con vật đó kêu.
Bây giờ ông không còn vẽ cũng không đặt lời và nhạc cho các phim của ông. Ông có một trăm ba mươi bốn người giúp ông trong những chi tiết đó, để ông rảnh óc tìm ý cho phim và khi ông tìm được một ý nào, ông đem ra bàn với mười hai chuyên viên về truyện phim.
Một hôm, cách đây mười bốn năm, ông đề nghị vẽ một phim hoạt họa diễn một truyện trẻ em mà thân mẫu ông đã kể cho ông nghe hồi nhỏ, tức chuyện Ba con heo và con chó sói.
Các cộng sự viên của ông lắc đầu, Ông bèn thôi ý định, quên ý đó đi. Nhưng ông quên không được lại đề nghị nhiều lần nữa, mà lần nào, các cộng sự viên cũng lắc đầu.
Sau cùng họ nhượng bộ, bảo "Được, để làm thử coi" chứ không tin gì thành công.
Phải mất chín chục ngày mới làm xong phim về chuột Mickey, nhưng phim ba con heo nhỏ thì họ cho là không đáng tốn công như vậy làm gấp chỉ trong sáu chục ngày là xong. Không ai tin rằng nó được hoan nghênh. Vậy mà nó làm vang động thế giới, thực là thành công kỳ dị. Từ những ruộng đồng bông vải ở Georgia, cho tới những vườn trồng táo ở Devon, tới đâu cũng thấy vang lên tiếng ca bài:"Ai thèm sợ con Chó Sói lớn, dữ, con Chó Sói lớn, dữ, con Chó Sói lớn, dữ?".
Có rạp chiếu phim đó ông lời được sáu trăm ngàn Anh kim nhưng Walt Disney nói chỉ lời được hai vạn rưỡi thôi.
Những phim hoạt họa sống được lâu. Hiện nay trong nhiều rạp còn chiếu con chuột Mickey vẽ từ mười năm trước.
Walt Disney tin rằng hễ yêu công việc mình làm thì tất thành công. Ông bảo không bao giờ ông chỉ nghĩ tới việc kiếm tiền. Ông làm việc say mê lắm.
Chương 15
Mark Twain
Hollywood đã tiêu 400.000 Anh kim để quay một phim kể đời một trong những người tài giỏi nhất cổ kim của Hoa Kỳ. Ông là văn hào nổi danh nhất thời này và là một cây bút hài hước có nhiều độc giả nhất từ trước đến nay.
Ông học trong một trường làng cất bằng cây cho tới 12 tuổi. Sự học của ông chỉ tới mức đó, vậy mà hai trường đại học Oxford và Yale đã tặng ông những học vị danh dự và những học giả bậc nhất thế giới cầu được vào hàng bạn hữu của ông. Ông viết sách kiếm được hàng triệu Anh kim, có lẽ hơn hết thảy những văn hào mọi thời. Mặc dầu ông đã mất ba mươi bốn năm rồi, mà tiền tác giả của ông về sách, phim và phát thanh vẫn chảy như suối vào tủ sắt người thừa kế ông.
Văn hào đó tên thật là Samuel Langhorne Clemens, nhưng ký bút hiệu là Mark Twain.
Đời Mark Twain là một cuộc phiêu lưu. Ông sống trong một thời đại ly kỳ, đẹp đẽ nhất của lịch sử Hoa Kỳ. Ông sanh một trăm lẻ mười năm trước trong một làng nhỏ ở Missouri, một làng thiêm thiếp ngủ gần bờ sông Mississipi. Hồi đó đường xe lửa ở Mỹ mới cất xong được bảy năm, và Abraham Lincoln còn làm một anh cày ruộng, đi chân không, đẩy một cái cày lưỡi bằng gỗ do một cặp bò kéo.
Mark Twain sống bảy mươi lăm năm sung sướng và mất năm 1910 ở Connecticut. Ông viết hai mươi ba cuốn sách: nhiều cuốn ngày nay đã quên tên, nhưng có hai cuốn: Huckleberry Finn và Tom Swayer sẽ bất hủ và được trân tàng hàng thế kỷ nữa. Hễ trên đời còn thanh niên thì người ta còn đọc hai cuốn đó mà ông đã viết do kinh nghiệm của bản thân ông. Ông viết nó ư? Không? Nó phát từ đáy lòng ông ra.
Mark Twain sanh tại một căn nhà có hai phòng nhỏ ở Floride, xứ Missouri. Phòng ông ở tồi tàn đến nỗi một chủ trại tân thời ngày nay cũng không chịu nuôi bò hoặc gà trong đó. Tám người sống trong hai phòng tối: bảy người trong gia đình và một người tớ gái. Mới sinh ra ông rất yếu ớt. Rồi khi ông lớn lên lần lần, thân mẫu ông phải lo lắng cho ông nhiều hơn hết thảy những người khác trong gia đình họp lại. Ông rất ưa khôi hài, ghét học, chỉ thích ra bờ sông Mississipi nhìn những cù lao bí mật, những bè mảng từ từ trôi và dòng nước cuồn cuộn chảy ra biển. Có khi ông ngồi trên bờ sông mơ mộng hàng giờ.
Ông suýt chết đuối chín lần. Trong khi chơi với bạn, giả làm mọi, làm ăn cướp, trong khi vô coi những cái hang, ăn trứng rùa, ngồi trên mảng trôi theo dòng sông, ông đã thu thập được những kinh nghiệm vô giá về cảnh vật và tính tình để sau này trứ tác.
Ông được di truyền tài hài hước của thân mẫu (...) Năm ông mười hai tuổi, thân phụ ông mất. Ông hối hận vì đã không nghe lời cha, lêu lổng chứ không chịu học, rồi ông khóc, tự trách mình.
Thân mẫu ông rán an ủi ông. Ít hôm sau ông tập sự trong một nhà in để vừa kiếm tiền vừa học thêm.
Hai năm sau, ông thành một ấn công. Một buổi chiều, đi ngoài phố ở châu thành Hannibal, ông lượm được một trang xé trong cuốn sách và bay trên đường.
Việc tầm thường đó đã thay đổi hẳn đời ông. Trang giấy đó kể chuyện Jeanne d'Arc bị quân Anh giam trong ngục ở Rouen. Đọc xong, lòng ông rung động vì sự tàn nhẫn của quân Anh. Ông không hề biết Jeanne d'Arc là ai, chưa hề được nghe tên đó. Nhưng từ hôm ấy, ông đọc bất kỳ sách báo nào nói về vị nữ anh hùng ấy. Trong già nữa đời, ông nghiên cứu về Jeanne d'Arc, rồi viết một cuốn nhan đề là Hồi tưởng Jeanne d'Arc. Các nhà phê bình cho cuốn đó kém xa những cuốn khác của ông, nhưng ông coi nó là một tác phẩm hay nhất ông đã viết. Ông biết rằng nếu ký tên thật, độc giả sẽ tưởng lầm là một tác phẩm hài hước, nên ông phải ký tên khác.
Ông rất vụng về trong việc hùn vốn làm ăn, bỏ tiền vào đâu thì lỗ đó, cho nên năm năm mươi tám tuổi nợ đìa ra. Mà ông lại đương đau nữa, sức đã suy. Ông có thể tuyên bố là phá sản rồi khỏi phải trả nợ, vì hồi đó khắp xứ bị nạn kinh tế khủng hoảng, nhưng không, ông nhất định trả hết nợ bằng cách viết sách và đi khắp thế giới diễn thuyết trong năm năm. Tới đâu công chúng cũng hoan nghênh ông nhiệt liệt, phòng diễn thuyết ông rộng tới mấy cũng không đủ chứa hết thính giả. Khi đã trả hết nợ, ông viết: "Bây giờ tinh thần tôi mới được yên lại không bị như có vật nặng đè lên nó nữa. Bây giờ làm việc mới thích, chứ không thấy là một cực hình nữa".
Ông cưới được một thiếu nữ mà ông yêu ngay từ lúc mới trông thấy tấm hình của cô. Hai ông bà thương nhau lắm. Sách ông viết đều do bà xuất bản. Ban ngày viết được trang nào thì tối đến, ông đặt trên một cái kệ gần đầu giường bà để bà đọc trước khi đi ngủ. Bà sửa cho văn nhã hơn và hoàn toàn tinh xác, ông luôn luôn theo ý bà.
Ông rất sợ làm thất lạc bản thảo nên cấm người ở gái lau bàn viết của ông. Ông thường lấy phấn vạch một đường trên sàn để ngăn một khu vực không cho chị ở bước vào.
Đây là bốn hàng chữ ông khắc lên mộ chí cô Susy con gái ông, mà nếu đem khắc lên mộ chí ông thì cũng rất hợp.
Một trời ấm áp mùa hè, chiếu dìu dịu ở đây nhé.
Gió ấm áp phương Bắc, thổi nhè nhẹ ở đây nhé.
Cỏ xanh phủ lên, êm ái ngủ đi, êm ái ngủ đi!
Xin chúc ai an giấc, an giấc, an giấc.
Chương 16
Andrew Carnegie
Song thân ông Andrew Carnegie nghèo tới nỗi khi sanh ông không có tiền mời y sĩ hay cô mụ. Ông bắt đầu kiếm ăn, lãnh mỗi giờ có hai xu, sau gây được một gia tài là bốn trăm triệu Mỹ kim.
Một lần tôi có cơ hội lại thăm nơi chôn nhau cắt rốn của ông ở Dunfermline, xứ Ecosse. Nhà chỉ có hai phòng: phòng dưới là xưởng dệt của thân phụ ông, phòng trên gác nhỏ xíu, tối tăm, thấp, sát mái, làm chỗ ăn ngủ cho gia đình.
Khi gia đình Carnegie tới Châu Mỹ, thân phụ Andrew dệt khăn trải bàn và đem bán dạo từng nhà. Bà thân ông giặt mướn tại nhà và khâu giày cho một người thợ giày. Andrew chỉ có mỗi một chiếc áo sơ mi mà bà thân ông giặt rồi ủi mỗi tối, khi ông đi ngủ rồi. Bà cụ làm việc từ mười sáu đến mười tám giờ mỗi ngày, và Andrew rất yêu quý cụ. Khi ông hai mươi hai tuổi ông hứa với mẹ rằng mẹ còn sống thì ông không lấy vợ. Ông giữ được lời hứa đó. Ba chục năm sau khi cụ quy tiên rồi, ông mới lập gia đình. Lúc đó ông đã năm mươi hai tuổi, và năm sáu mươi hai tuổi ông mới sanh cậu con một. Hồi nhỏ ông nói hoài với bà cụ:
- Má, sau này con sẽ giàu có để má có áo lụa bận, có người ở để sai và có riêng một chiếc xe để đi.
Ông thường bảo nhờ bà cụ mà ông thông minh, có nhiều khả năng và lòng yêu mẹ đã là nguyên động lực giúp ông thành công rực rỡ. Khi cụ mất, ông đau khổ trong nửa tháng, mỗi lần nhắc đến tên cụ là ông nghẹn ngào, không nên lời. Một lần ông trả hết nợ cho một bà già xứ Ecosse để bà này lấy lại được căn nhà đã cầm cố cho người khác, chỉ vì bà giống bà cụ thân sinh ra ông.
Ai cũng cho rằng Andrew Carnegie là ông vua thép mà ông không biết chút gì về sản xuất thép. Hàng trăm ngàn người làm việc cho ông chắc chắn hiểu kỹ thuật đó hơn ông. Như ông biết dùng người, và đức này đã làm cho ông hóa ra giàu có. Ngay từ hồi nhỏ ông đã tỏ ra có thiên tư xuất chúng, trong nghệ thuật tổ chức và lãnh đạo, làm cho người khác vui lòng giúp mình.
Có lần ở Ecosse, hồi còn bé ông bắt được con thỏ cái. Ít lâu sau thỏ cái sinh được một bầy con, nhưng ông không có gì để nuôi chúng. Ông nảy ra một ý tài tình: ông bảo trẻ con hàng xóm hễ kiếm đủ rau để nuôi thỏ thì ông lấy tên mỗi đứa đặt cho một con thỏ. Kế hoạch đó kết quả lạ lùng.
Về sau, Carnegie dùng thuật tâm lý đó trong công việc làm ăn. Chẳng hạn ông muốn bán đường rầy cho công ty xe lửa Pennsylvania Railroad. Hội trưởng công ty hồi đó là J. Edgar Thomson. Andrew Carnegie cho cất ở Pittsbung một xưởng lớn dát mỏng thép mà ông đặt tên là "xưởng thép J.Edgar Thomson". Tất nhiên là ông Thomson khoái chí và bằng lòng mua liền những đường rầy của xưởng mang tên mình.
Hồi đầu, Andrew Carnegie làm một anh đưa điện tín ở Pittsbung. Mỗi ngày lãnh được năm cắc mà ông đã lấy làm mãn nguyện lắm. Nhưng ông không biết châu thành Pittsbung và sợ mất việc nên phải học thuộc lòng tên và địa chỉ của tất cả các hãng trong khu vực buôn bán.
Ông chỉ thèm làm điện tín viên thực thụ, thèm muốn chết đi, và buổi tối ông học chữ moóc, sáng tới sớm để tập đánh tin. Một buổi sáng có tin quan trọng đặc biệt. Ở Philadelphie người ta gọi Pittsbung, gọi mấy lần mà chưa có điện tín viên nào tới. Andrew Carnegie chạy lại, nhận tin, chuyển tin và tức thì được nhắc lên chân điện tín viên, lương gấp đôi. Sau này ông thích kể lại lần thành công đầu tiên đó. Một bạn thân của ông tóm tắt luân lý trong truyện thành một câu ngộ nghĩnh dưới đây mà chúng ta nên ngẫm nghĩ kỹ:
"Muốn trở nên một người ra sao thì phải hành động như đã là con người ấy".
Nghị lực không có gì thắng nổi và lòng cao vọng phóng túng của Andrew Carnegie làm cho nhiều người để ý tới ông. Công ty Pennsylvania Railroad dựng một đường dây thép tư, Andrew Carnegie được công ty dùng làm điện tín viên rồi ít lâu sau lãnh chức thư ký riêng của Giám đốc phân khu.
Một ngày nọ, một việc bất ngờ đưa ông lên con đường giàu sang. Một người ngồi bên cạnh ông trong toa xe lửa đưa cho ông coi bản đồ một kiểu toa mới, có chỗ nằm mà người đó mới vẽ xong. Hồi đó ghế nằm chỉ là những băng dài đóng vào hai bên hông toa chở hàng. Bản đồ mới giống kiểu toa ngày nay. Carnegie có óc sáng suốt đặc biệt của người Ecosse. Ông hiểu rằng sáng kiến đó hứa hẹn được nhiều. Ông vay tiền, hùn thêm một phần vốn quan trọng vào xí nghiệp, được hưởng những số lời lớn và năm ông hai mươi lăm tuổi, nội việc hùn vốn đó đã đem cho ông năm ngàn Mỹ kim mỗi năm.
Một làn khác, một chiếc cầu cây trên đường hỏa xa cháy và sự giao thông phải ngưng trệ trong nhiều ngày. Lúc đó Andrew Carnegie làm giám đốc một ngành trong công ty. Ông hiểu rằng những cầu cây sẽ bị loại và thép sẽ là vật liệu trọng dụng. Ông vay tiền, lập một công ty làm những cầu sắt, và tiền lời ùn ùn vô mau quá, làm ông gần hoa cả mắt.
Ông mó cái gì là cái đó biến thành vàng. Ông lên như diều. Vận may, một vận may không thể tưởng tượng được bám riết lấy ông. Ông với vài người bạn mua một cái trại giá bốn chục ngàn Mỹ kim, ở giữa một khu có mỏ dầu lửa, tại Pennsylvanie và chỉ trong một năm lời được một triệu Mỹ kim. Khi con người quỉ quyệt đó hai mươi bảy tuổi thì lợi tức mỗi tuần đã được ngàn Mỹ kim rồi, mà mười lăm năm trước chỉ kiếm được hai cắc rưỡi mỗi ngày.
Việc dưới đây xảy ra năm 1862, Lincoln đương làm Tổng Thống. Nội chiến đương dữ dội. Sắp có nhiều sự thay đổi lớn. Biên giới mở rộng ra. Miền Tây xa xôi bắt đầu được khai phá. Những đường xe lửa sẽ đặt khắp trong nước. Nhiều thành thị lớn sẽ dựng lên. Châu Mỹ lảo đảo trước một kỷ nguyên mới mê hồn.
Và Andrew Carnegie, với những lò nấu thép phun khói và lửa của ông, bị lôi cuốn trong ngọn thủy triều đương dựng đó, ông dựng được gia tài khổng lồ ngoài sức tưởng tượng.
Vậy mà ông không phải là hạng người làm chết bỏ, Ông thích la cà. Ông bảo rằng những người cộng tác với ông biết nhiều hơn ông, và chính những người đó kiếm tiền cho ông. Người Ecosse có tính biển lận. Ông là người Ecosse mà lại không biển lận khi chia lời. Ông để các cộng tác với ông hưởng chung, và chắc chắn ông là người đã gây cho nhiều người nhất thành triệu phú. Trong đời ông, ông chỉ được học có bốn năm, vậy mà ông viết tám cuốn sách về du ký, tiểu sử, cảo luận và biên khảo kinh tế. Ông tặng sáu chục triệu Mỹ kim cho các thư viện công cộng và sáu mươi tám triệu nữa cho công việc cải thiện giáo dục.
Ông thuộc hết thảy những bài thơ của Robert Burns và có thể đọc thuộc lòng trọn bộ những kịch Macbeth, Vua Lear, Romeo và Juliet, Nhà buôn ở Venice của Shakespeare.
Ông không theo một tôn giáo nào cả mà tặng bản ngàn đàn ống cho các giáo đường.
Ông đã tặng tới ba trăm sáu mươi lăm triệu Mỹ kim. Các nhật báo tổ chức những cuộc thi và thưởng người nào chỉ được cho ông cách hữu ích nhất để tiêu hết đống vàng của ông, vì ông đã tuyên bố rằng chết giàu là chết nhục.
Chương 17
Enrico Caruso
Khi Enrico Caruso mất năm 1921, hồi bốn mươi tám tuổi, hàng triệu người buồn rầu, vì giọng hát của thời đại đã bặt hẳn từ ngày đó. Ông đã tắt nghỉ trong tiếng vỗ tay khen ông ở khắp thế giới văng vẳng bên tai ông. Ông làm việc quá sức, bị cảm hàn nhẹ, nhưng ông coi thường không thèm chữa, và suốt sáu tháng ông can đảm chống cự với thần chết, trong khi một triệu tín đồ yêu ông cầu nguyện cho ông qua khỏi.
Giọng hát mê hồn của Caruso không phải là do trời cho mà là phần thưởng của nhiều năm gắng sức, kiên nhẫn luyện tập, giữ vững quyết định.
Mới đầu giọng ông nhỏ quá, nhẹ quá đến nỗi thầy dạy hát bảo ông:"Anh không thể hát được. Anh không có giọng. Anh hát như tiếng gió thổi vào cửa lá sách vậy".
Trong nhiều năm giọng ông vỡ ra và một lần ông bị thính giả huýt còi. Ít người đã được uống cạn ly rượu thành công như ông, vậy mà hồi danh thịnh nhất, nhớ lại ngày xưa đã thất bại, ông thường đau đớn đến sa lệ.
Má ông mất khi ông mười hai tuổi và từ đó, bất kỳ đi đâu, ông cũng mang theo một tấm hình của bà cụ.
Bà cụ sanh hai mươi mốt lần mà chỉ nuôi được có ba người con. Vốn quê mùa cụ có biết gì khác ngoài sự làm ăn khó nhọc và nhẫn nhục đau khổ, vậy mà cụ có linh tính bảo rằng một người con trai của cụ có thiên tài, danh tiếng sẽ vang lừng, và không có việc nào ích lợi cho con, mà cụ không làm, dù phải hy sinh rất lớn. Caruso thường vừa khóc vừa nói: "Má tôi nhịn mua giày dép, đi chân không, để tôi có tiền học hát".
Hồi ông mới mười tuổi, thân phụ ông bắt ông thôi học, cho ông vào làm trong một xưởng. Mỗi tối, sau khi làm việc xong, ông học đàn, nhưng mãi đến năm hai mươi mốt tuổi, ông mới được vui vẻ ca hát từ giã xưởng.
Người ta cho ông hát trong một quán cà phê, không chịu trả công ông mà chỉ cho ông ăn bữa tối. Ông vồ ngay lấy cơ hội ấy.
Sau cùng ông được hát trong một nhạc kịch trường. Lần đó mới thực là lần may mắn đầu tiên của ông. Trong lúc diễn thử, ông bị kích thích quá, thành thử giọng ông bể ra như những mảnh kính. Ông thử đi thử lại mấy lần, nhưng kết quả chỉ tai hại, ông khóc mướt, chạy về nhà.
Lần đầu ra sân khấu, ông lảo đảo, tới nổi thính giả huýt còi phản đối. Lần đó ông chỉ đóng một vai tạm để thay thế vai chánh. Một tối, vai chánh thình lình đau mà ông không có mặt ở rạp. Người ta bảo đi tìm ông khắp đường phố. Sau cùng người ta thấy ông trong một tiệm rượu, gần say khướt. Hay tin, ông chạy một mạch về rạp, tới nơi ông hết hơi, người nóng bừng vì rượu và vì không khí trong phòng thay quần áo. Rồi thình lình trái đất quay như chong chóng. Và khi Caruso bước ra sân khấu, ông hát bậy bạ như điên, cả rạp nhao nhao lên phản đối.
Sau buổi hát đó, ông bị đuổi. Hôm sau ông đau lòng quá, thất vọng quá, muốn tự tử.
Trong túi chỉ còn mỗi một đồng, đủ để mua một chai rượu. Ngày hôm đó ông nhịn đói. Và đúng lúc ông đương nghĩ nên tự tử cách nào thì một người nhạc kịch trường sai tới đẩy cửa bước vào, la:
- Caruso! Về rạp ngay đi! Thính giả không muốn nghe ca sĩ đó nữa. Họ huýt còi đuổi hắn ra khỏi sân khấu rồi. Họ la đòi anh ra. Đòi anh cho kỳ được!
Caruso đáp:
- Đòi tôi! Họ khùng hở? Tại sao lại đòi tôi? Họ có biết tên tôi là gì đâu mà đòi tôi?
- Họ không biết tên anh thật. Nên họ bảo gọi cái anh say rượu hôm qua ra. Thì là anh chứ còn ai nữa!
Khi Enrico Caruso mất, ông có mấy triệu bạc. Chỉ riêng một việc hát để người ta thu thanh vào đĩa, ông cũng kiếm được bốn trăm ngàn Anh kim rồi. Nhưng vì nhớ lại cảnh nghèo hồi bé, nên ông mới cần kiệm ghi hết thảy những chi phí bất kỳ lớn nhỏ vào một cuốn sổ cho tới khi ông chết.
Có lẽ phút vui nhất trong đời ông là lúc ông được bồng đứa con gái ông lần đầu. Ông nói đi nói lại hoài rằng ông chỉ cần đợi khi nào con gái ông lớn một chút, chạy lăng xăng trong nhà, và mở được cửa phòng ông mà vô là ông mãn nguyện rồi. Và một hôm, ở Ý, ông đứng bên cạnh chiếc dương cầm, thì sở nguyện của ông thực hành được: con gái ông chạy vô, ông bồng nó lên, rồi nước mắt dòng dòng, ông nói với vợ: "Mình còn nhớ không, anh chỉ mong mỏi được thấy lúc này?".
Không đầy một tuần sau ông mất.
Chương 18
Dorothy Dix
Theo ý bạn, ký giả nào có nhiều độc giả nhất? Tôi thì cho rằng ký giả đó là một người đàn bà sung sướng nhất Hoa Kỳ, vì đã giúp cho đủ hạng người giải quyết những vấn đề tình cảm của họ. Đã bao lâu nay, bà là người mẹ, là giáo sĩ rửa tội cho hàng triệu người đau khổ, cả đàn ông lẫn đàn bà. Chưa có ai đã tránh cho đồng bào được nhiều vụ li dị, đã cứu vớt được nhiều gia đình như bà.
Tên bà là Elizabeth Meriwether Gilmer. Bạn chưa nghe nói về bà ư? Có chứ! Đã nghe nói nhiều lần rồi, nghe tên Dorothy Dix nhiều lần rồi chứ! Dorothy Dix chính là bà. Hồi mới cầm viết, bà lựa bút hiệu đó vì bà thích nó, mà cũng vì bà muốn kỷ niệm một người mọi tên là Dix đã hầu hạ gia đình bà lúc bà còn nhỏ.
Vậy bà ký tên Dorothy Dix dưới những bài đăng trong hai trăm tờ nhật báo, để cho hàng triệu độc giả khắp thế giới đọc, từ Luân Đôn tới Châu Úc, từ Nữu Ước tới Nam Mỹ và Nam Phi Châu.
Cách đây ít lâu, tôi hân hạnh được uống trà với bà ở New Orleans, bà kể chuyện về tuổi thơ, về sự giáo dục của bà trong mười năm, sau cuộc nội chiến. Thân phụ bà có một trại nuôi ngựa giống ở biên giới Tennessee và Kentucky. Gia đình bà là một gia đình cổ ở phhương Nam vì chiến tranh mà sa sút. Bà nói:
- Chúng tôi sống kỳ cục lắm, nghèo không ra nghèo, sang không ra sang. Ngôi nhà cũ của chúng tôi đẹp lắm, chung quanh có những cánh đồng cỏ mơn mởn, bò và cừu mập ú, nhởn nhơ bên cạnh những cánh đồng trồng lúa và bông vải. Ăn thì chén dĩa bằng bạc. Như tiền thì không có.
Bà bận những đồ bằng len nhà, dệt ở hàng xóm. Bà thích kể rằng vú nuôi của bà là một con ngựa cái để đua, vì già và bệnh tật nên được thả ở trước nhà. Bà nói thêm:
- Tôi biết cưỡi ngựa trước khi đi học. Ba tôi đặt tôi lên lưng ngựa, tôi níu chặt bờm ngựa trong khi nó ăn cỏ. Khi nào nó luồng qua một sợi dây thừng mắc quần áo hoặc một cành cây là tôi bị hất xuống đất. Tôi la hét cho tới khi có người chạy ra bồng tôi lên, đặt tôi trên lưng ngựa.
Một chị vú da đen dạy cách ăn nói cư xử cho bà và chị em bà. Trong bữa cơm, chị ta đứng sau lưng bà, rình như một tên lính gác. Vô phúc mà láu ăn hoặc bốc đồ ăn hoặc khóc thì, cốp! Bị cú trên đầu liền.
- Ăn uống cho đàng hoàng. Đừng làm như những thằng nhỏ mất dạy da trắng đó nữa!
Ba đứa nhỏ phải chơi một mình, làm lấy đồ chơi mà chơi. Nhưng chơi với chó và ngựa, thú vị biết bao! Bà nói:
- Chúng tôi được tự do như chim trên trời vậy. Không bị bó buộc gì hết. Muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm. Chúng tôi thắng yên cương rồi cho ngựa chạy phi vô rừng, đằng sau là một bầy chó sủa vang trời. Chúng tôi biết hết cả những bí mật của rừng, những chỗ chim cùn cút trốn ở đâu, chim ưng làm tổ ở đâu, thỏ giấu con ở đâu. Chúng tôi cũng biết chỗ nào có trái lý dại và mùa thu tới, chỗ nào có những hạt dẽ ngon nhất. Lòng tự tin của chúng tôi tăng lên rất mau, vì chúng tôi biết xoay sở lấy, biết biển báo khi gặp nỗi khó khăn.
Đây là một điều lạ lùng nhất về bà. Chính một ông cụ già gần như điên, đã dạy bà được nhiều điều rất quí. Ông cụ đó là bạn cũ của ông nội bà và sống trong nhà bà như người thân. Không những cụ dạy bà tập đọc mà còn hướng dẫn bà yêu những sách quí trong tủ sách nhà nữa. Bà nói:
- Chưa đầy hai mươi tuổi, tôi đã thuộc lòng Shakespeare, Scott, Dickens, tôi đã đọc Smollet, Fielding và Richardson. Không có sách để trẻ em đọc, tôi đành nhai đại những sách khó tiêu nhất nhưng bổ ích của người lớn. Và lúc nào tôi cũng thấy sung sướng được đọc những sách đó.
Bà đi học trường nhà nước rất ít.
Cha tôi cho tôi lại học trường cô Alice hay cô Jenny không phải vì các cô ấy dạy giỏi mà chỉ vì thân phụ các cô ấy đã có công lao với xứ sở, hoặc làm đại tá dưới quyền chỉ huy của tướng Beauregard, hoặc đã tử trận ở Gettysburg. Làm sao được? Đó cũng là một cách giúp các cô ấy sống.
Trước khi biết bảy lần bảy là bốn mươi chín, bà đã leo cây giỏi như một con sóc và cưỡi ngựa tài như một chú nài. Sự thật bà chỉ được học trong những sách cũ của thân phụ để lại.
Rồi năm mười tám tuổi, bà về nhà chồng, tính sống cuộc đời yên ổn như mọi thiếu phụ khác trong trường hợp đó. Nhưng một bi kịch xảy ra, vùi bà trong một tai biến về hai phương diện gia đình và tài chánh. Mới cưới nhau được ít lâu, chồng bà thành một người tàn tật, một phế nhân. Bà phải săn sóc chồng, nuôi chồng cho tới khi chồng chết, trong ba mươi lăm năm đằng đẳng. Lúc đó bà không biết làm sao kiếm đủ nuôi thân mình, đừng nói là nuôi chồng nữa. Bà lo lắng quá, hóa đau, phải tới Gulf Coast ở Mississipi để dưỡng sức.
Lần đi xa nhà đó đã làm thay đổi hẳn đời bà. Trong khi nghỉ ngơi trên bờ biển, bà viết một truyện ngắn kể một việc xảy ra trong gia đình bà hồi nội chiến. Song thân bà sợ những đồ quí bằng bạc bị lính phương Bắc cướp mất, sai một tên nô lệ đem chôn ở bên mộ tổ tiên. Hắn chôn xong còn làm phép phù thủy yếm cho kẻ trộm khỏi tới gần. Bà bán truyện đó cho một bà hàng xóm làm chủ nhiệm một tờ nhật báo lớn nhất miền Nam, tờ Picayune ở New Orléans. Người ta trả bà ba Mỹ kim và dùng bà làm phóng viên trong tòa soạn. Như vậy bà chỉ kiếm được năm Mỹ kim mỗi tuần, vừa đủ cho hai ông bà sống, nhưng nhờ viết phóng sự mà sau này bà nổi danh khắp trong nước.
Công việc đầu tiên của bà là mỗi chủ nhật viết một bài dài khuyên bảo phụ nữ về đời tình cảm của họ đối với chồng con.
Phần đông nữ sĩ viết một lối văn cầu kỳ. Họ rán dùng một bút pháp có vẻ thông thái, độc đáo để tỏ ra mình hơn người, họ muốn tự tạo một tư cách "thượng đẳng". Dorothy Dix trái lại, viết rất giản dị, thành thử nữ độc giả thích ngay. Bà không cần tự tạo một tư cách giả tạo, chính bà đã có một tư cách chân thực, mạnh mẽ của một phụ nữ Mỹ sống giữa thiên nhiên và những truyền thống của một gia đình cổ phương Nam. Một xã hội càng rập theo đời sống mới nhất luật bao nhiêu thì lại càng trọng những người còn giữ được cái ý nhị, tự nhiên của cổ nhân bấy nhiêu. Ở thời đại này, nhiều người nhờ bí quyết đó mà thành công trong nghề viết văn, nghề làm báo, truyền thanh, hát bóng, diễn kịch...
Những bài của Dorothy Dix được hoan nghênh nhiệt liệt. William Rodolp Hearst luôn luôn tìm những tài ba mới, tặng bà những số tiền lớn để bà viết cho tờ Evening Journal ở Nữu Ước. Bà cần tiền lắm nhưng không bỏ chủ báo cũ, vì chính nhờ tờ Picayune mà bà đã học được nghề viết báo. Vả lại lúc đó chủ tờ Picayune đau, cần bà ở lại giúp việc. Vì vậy bà không nhận lời William Rodolp Hearst, nhưng năm 1901, khi chủ báo cũ mất, bà qua viết tờ Evening Journal. Trong hai chục năm sau chẳng những bà giữ mục Tâm tình mà còn viết nhiều bài phóng sự lớn để đứng về phương diện nhân đạo mà phê bình những tin tức kích thích nhất, như vụ xử lớn về hình sự. Chẳng hạn bà viết phóng sự vụ xử Harry K. Thaw, nhà triệu phú ở Pittsburg đã giết kiến trúc sư nổi danh nhất Nữu Ước là Stanford White(...) Bà thuật lại vụ Hall Mills, một tội đại hình bí mật nhất của thế kỷ XX.
Thành thử một thiếu nữ rất giản dị, mà hồi hai mươi tuổi còn quê mùa, chưa đi xe lửa quá sáu lần, chưa đi coi hát hoặc ra thành thị quá hai lần, sống trong một trại hẻo lánh ở Kentucky, nay đã thành một ký giả nổi danh nhất Nữu Ước.
Người ta thường hỏi bà có phải chính bà viết những bức thư ký tên độc giả rồi lại tự đáp trên mục "Thư tâm tình" không. Bà đáp:
- Đâu có vậy! Cần gì phải thế? Mỗi ngày tôi nhận được từ một trăm tới một ngàn bức thư của độc giả mà!
Những bức thư đó là những tài liệu lạ lùng về lòng người. Người ta không giấu giếm gì cả, cởi hết lòng với bà. Đọc nó, bà biết được hơn ai hết những thắc mắc của con người thời này.
Bà được các trường Đại học Tulane và Oglethorpe tặng nhiều vinh hàm, nhưng vì bà không có con, nên những vinh hàm đó không làm cho bà vui bằng khi nhận được những hàng chữ như vầy của thanh niên đau khổ, hoang mang: "Tôi trọng bà hơn má tôi, tôi biết rằng bà hiểu tôi..."
Chương 19
Zane Grey
Zane Grey đã chiến đấu với cơ hàn và thất vọng để chiếm được một địa vị trong hàng những tiểu thuyết gia nhiều độc giả nhất đương thời. Và ông chiến đấu như vậy khi ông sống trong một ngôi làng nhỏ.
Các nhà báo ngày nay trả ông vạn rưỡi Anh kim để ông viết cho một truyện, mà hồi đầu thì mỗi cuốn của ông bán không được ba đồng. Các nhà xuất bản nói rằng luôn ba năm nay mỗi năm trung bình bán được trên một triệu cuốn của Zane Grey, nhưng hồi mới viết, ông thất bại phải sống trong cảnh đói rét.
Thân phụ ông chỉ muốn ông học nghề nha y mà ông thì cho làm nha y chẳng hơn gì thợ mỏ. Nhưng lệnh cha, ông đâu dám cãi, cho nên ông phải học nghề nhổ răng, và mở một phòng nhổ răng cho thiên hạ trong nhiều năm.
Trong khi tay ông nhổ răng cấm, răng nanh thì óc ông chỉ nghỉ đến công việc khác, đến việc viết truyện.
Năm tháng trôi qua, ông càng thấy không chịu nổi bi kịch hàng ngày của ông. Ông khinh tởm nghề của ông mà cứ sáng sáng phải đánh xe tới phòng nhổ răng, như một tên nô lệ bị người ta quất, bắt phải chèo thuyền tới ngục tối vậy.
Sau khi quyết định làm một nhà văn, ông bỏ nghề nha y, dọn về một làng nhỏ để có thể sống kiệm tiện, vừa săn bắn, câu cá kiếm ăn, vừa tập viết.
Ông khó nhọc hàng tháng, có khi trọn một năm để viết một truyện, sửa đi sửa lại, đổi tình tiết, đổi nhân vật. Viết xong, ông đọc lớn tiếng từ đầu tới cuối, giọng hăng hái. Ông thấy hay lắm, tin chắc rằng mình sắp thành một văn hào. Khốn nỗi, ngoài ông ra, chẳng ai tin như vậy cả. Trong khắp xứ, không một nhà xuất bản nào chịu mua truyện của ông.
Ông đem hết tâm trí và thì giờ để viết luôn trong năm năm đằng đẳng, và trong năm năm ấy ông không kiếm được lấy một xu. Chơi dã cầu trong một đội nhà nghề thì thỉnh thoảng lại kiếm được ít nhiều, còn viết tiểu thuyết thì tuyệt nhiên không.
Một hôm ông đương tìm cách bán một tiểu thuyết thì gặp đại tá Buffalo. Đại tá muốn kiếm một người biết viết lách đi theo qua miền Tây để chép du ký. Zane Grey vồ ngay lấy cơ hội, nghĩ sắp được sống một cuộc đời phiêu lưu mà mê mẫn cả tâm thần.
Sống sáu tháng với bọn cao bồi và các bẫy ngựa rừng ở miền Tây, ông trở về nhà, viết tiểu thuyết nhan đề The last of the Plainsmen. Lần này ông chắc chắn có người mua bèn gởi bản thảo cho nhà xuất bản Harper và đợi hai tuần, không thấy tin tức gì, ông nóng lòng quá, chạy lại hỏi nhà đó.
Người ta trả bản thảo, nói: "Chúng tôi ân hận lắm, nhưng đọc hết cuốn mà không thấy chút gì chứng tỏ rằng ông có thể viết tiểu thuyết được". Lòng ông tan nát. Ông choáng váng. Cuốn đó là cuốn thứ năm bị từ chối. Có ai cầm gậy đập mạnh vào đầu ông, cũng không làm ông điếng người bằng. Loạng choạng xuống thang gác, ông phải bíu chặt một cột đèn cho khỏi té, và bản thảo kẹp ở nách, ông dựa cột nước mắt chảy dòng dòng.
Ông về nhà, đau đớn thất vọng. Ông đã sống nhờ bà vợ có chút của riêng, nhưng sau năm năm hết nhẵn tiền rồi mà nhà lại thêm một đứa con thơ nữa. Hai vợ chồng chán nản quá. Nhưng bà vợ cũng rán khuyến khích ông thử viết thêm một truyện nữa. Lúc đó vào cuối đông. Lò sưởi nhỏ quá, không đủ ấm, tay ông cóng lại, cứ viết được năm phút lại phải mở lò, đưa hai bàn tay lại gần ngọn lửa để sưởi.
Suốt mùa đông đó và cho tới mùa hè năm sau, ông cặm cụi viết tiểu thuyết đó, và khi viết xong, ông lại mang đến nhà xuất bản Harper. Cuồng loạn vì thất vọng, ông yêu cầu ông giám đốc nhà đó đem về nhà và đích thân đọc giùm cho ông. Hai ngày sau, Zane Grey trở lại, ông giám đốc cười, nói: "Nhà tôi thức gần trọn đêm hôm qua để đọc tiểu thuyết ông, khen là hay. Vậy chúng tôi xuất bản cho ông".
Nhan đề truyện đó là Heritage of the Desert. (Di sản của sa mạc). Sách ra được hoan nghênh nhiệt liệt.
Vậy sau mấy năm nghèo khổ và thất bại. Zane Grey đã thành một nhà văn kiếm được nhiều tiền nhất và một tiểu thuyết gia được nhiều người đọc nhất đương thời. Vì từ hồi đó, ông đã xuất bản khoảng sáu chục truyện và độc giả đã mua của ông trên mười lăm triệu cuốn.
Chương 20
F.W. Woolworth
Năm hai mươi mốt tuổi, Barbara Hutton làm một tiệc đãi khách. Không khí trong nhà đầy âm nhạc du dương và các danh ca bực nhất hát lên những bài tình tứ. Nàng mới hưởng được một gia tài khoảng hai chục triệu Mỹ kim thì ngại gì mà không tiếp tân một cách sang trọng?
Hai chục triệu Mỹ kim đó ở đâu ra? Thưa, do chứng chi tiêu lặt vặt của hàng triệu người Mỹ.
Nàng là cháu nội ông Frank Woolworth và mỗi lần một người Mỹ tiêu một cắc trong một cửa hàng "giá độc nhất của Woolworth" thì một phần số tiền đó vào trong túi của thiếu nữ mỹ miều tóc hung hung đó.
Frank Woolworth đã làm cách nào để gây gia tài đồ sộ đó? Thưa bạn, là nhờ ông được một điều may từ hồi mới khởi sự làm ăn: điều may đó là ông nghèo. Nghèo làm cho bước đầu khó khăn. Muốn có một tài sản trung bình thì tất nhiên là sinh trong một gia đình giàu lợi hơn là sinh trong một gia đình nghèo. Nhưng nếu muốn có một tài sản phi thường, một gia sản khổng lồ, thì vấn đề lại khác. Cần phải có một óc thực tế, một nghị lực, một lòng hăng hái đặc biệt, mà những đức tính đó rất ít khi thấy trong hạng người khởi sự làm ăn một cách dễ dàng.
Cho nên phần đông các nhà tỷ phú đều có bước đầu gian nan. Frank Woolworth sống trong một trại ruộng gần Watertown và nghèo khổ tới nỗi mỗi năm phải đi đất sáu tháng: mùa đông gió bấc lạnh như cắt mà không có tiền mua một chiếc áo bành tô nữa.
Cảnh nghèo giúp ông được nhiều việc lớn: nó gây cao vọng cho ông và làm ông nhiệt tâm muốn tiến tới. Ông ghét đời sống trong trại ruộng, muốn đi buôn. Cho nên năm hai mươi mốt tuổi, ông đóng một con ngựa cái già vào một chiếc xe chạy trên tuyết rồi tới Carthage ở tiểu bang Nữu Ước, ngừng trước mỗi cửa hàng để xin việc. Nhưng không ai muốn mướn ông hết. Ông cục mịch quá, chậm chạp quá. Ai lại tóc không hớt mà áo thì để hở ngực.
Sau cùng, một nhân viên hỏa xa chịu dùng ông. Nhân viên đó ngoài việc sở ra, còn trử đồ tạp hóa trong một cái kho. Frank Woolworth chịu làm không công để học nghề.
Sau ông xin một chân trong một tiệm bán đồ trang sức. Mặc dầu đã hai mươi mốt tuổi, chủ tiệm không tin rằng ông có đủ tư cách để tiếp khách. Người ta muốn giao cho ông việc dậy sớm đốt lửa, quét cửa hàng, lau kính, và đi giao đồ. Ông không có quyền đứng bán, trừ những giờ đông khách, như buổi trưa, lại thêm chủ tiệm không muốn trả công cho ông trong sáu tháng đầu. Ông đáp rằng, trong mười năm làm mướn ở trại ruộng, ông đã dành được năm chục Mỹ kim, tất cả gia tài của ông chỉ có bấy nhiêu thôi, nhưng ông bằng lòng làm không công trong ba tháng đầu vì có số tiền đó đủ ăn rồi, từ tháng thứ tư trở đi thì ông xin được lãnh mỗi ngày năm cắc. Chủ tiệm bằng lòng, tới khi ông được lãnh mỗi ngày năm cắc thì người ta bắt ông làm việc mười lăm giờ một ngày, tính ra mỗi giờ vào khoảng ba xu.
Sau cùng ông kiếm việc trong một hãng khác, tiền công mỗi tuần mười Mỹ kim, và ông phải ngủ dưới hầm, với một khẩu súng lục ở dưới gối để coi chừng kẻ trộm. Đời ông lúc đó như một cơn ác mộng. Chủ tiệm hành hạ ông, đánh đập ông, mắng ông là đồ vô dụng, rút tiền công xuống và dọa tống cổ ra cửa. Frank Woolworth hoàn toàn thất vọng. Tin rằng không sao thành công được, ông về trại ruộng, thần kinh suy loạn và suốt một năm chẳng làm được việc gì cả.
Bạn thử tưởng tượng. Con người sau này thành nhà buôn lớn nhất thế giới đó, thất vọng tới nỗi bỏ ý định làm ăn mà đi về ruộng nuôi gà.
Rồi một hôm, ông ngạc nhiên vô cùng, một người chủ cũ sai người kiếm ông, muốn giao việc cho ông. Hôm đó là một ngày tháng ba, lạnh buốt, ở cuối thế kỷ trước. Mặt đất phủ tuyết dày tới non một thước. Ông thân sinh ra ông chở khoai tây ra chợ bán, ông leo lên xe, ngồi trên đống khoai, ra Watertown, ông sắp bước vào một nghề nó đưa ông tới cảnh giàu sang, quyền thế ngoài tất cả những hy vọng hão huyền nhất của ông.
Bí quyết thành công của ông ở đâu? Trước hết, ông có một ý, một ý mới mẻ. Ông mượn ba trăm Mỹ kim và lập một cửa hàng ở Nữu Ước tại đó không có một món gì bán quá năm xu. Mới đầu thất bại hoàn toàn. Mỗi ngày không lời được trên hai Mỹ kim rưỡi. Ông mở bốn tiệm thì phải đóng cửa ba tiệm.
Nhưng lần đầu ông thành công. Ý đó hay, cách thực hành cũng đúng, bấy nhiêu đủ cho ông tin chắc rằng ông sẽ thịnh vượng. Nhưng bấy nhiêu chưa đủ cho ông thành một tỷ phú, bí quyết thành tỷ phú của Woolworth cũng như bí quyết thành tỷ phú của Rockefeller, là gom góp vốn mà không phải đi vay, nói một cách khác là kiếm được lời thì đập cả vào vốn.
Nhất định không chịu mang nợ, ông cứ khuếch trương rất từ từ công việc làm ăn, trong mười năm đầu chỉ mở mười chi nhánh thôi. Rốt cuộc, ông thành một trong những người giàu nhất Hoa Kỳ.
Ông cất một ngôi nhà cao nhất thời đó làm phòng giấy. Ông trả tiền mặt ngôi nhà đó mười bốn triệu Mỹ kim, mua một cái đàn ống giá năm trăm ngàn Mỹ kim, và bắt đầu sưu tầm những di vật của Nã Phá Luân.
Hồi ông trẻ và nghèo, chịu bao nỗi thất bại đến hết tin ở tài mình nữa, thì bà cụ thân sinh ra ông quàng vai ông bảo:
- Cứ vững chí, con, thế nào con cũng sẽ thành công.
Chương 21
Đề Đốc Byrd
Năm 1910 một thiếu niên ở Winchester (tiểu bang Virginia) chép nhật ký. Đọc truyện đề đốc Peary hùng tâm gắng sức để tiến tới Bắc cực, em nhỏ mười hai tuổi đó cao hứng viết vào trong tập:
- Tôi đã quyết định sẽ là người thứ nhất tới được Bắc cực.
Và tức thì em dự bị cho một cuộc mạo hiểm gay go đó. Em vốn sợ lạnh, để tập chịu lạnh, em mặc những quần áo mỏng hơn và bỏ luôn chiếc bành tô. Sau em nhỏ tới được bằng phi cơ và là người thứ nhất tới Nam cực. Tên của em như bạn đã đoán được, là Richard Evelyn Byrd.
Đề đốc Byrd nghĩ rằng những khoảng băng tuyết mênh mông ở Nam cực lần lần thu lại và hằng trăm ngàn mẫu đất hoang hiện nay băng phủ, một ngày kia có thể thành một miền phú nguyên dồi dào vô cùng. Vì vậy ông quyết tâm cắm cờ Hoa Kỳ trên đất đó và chiếm nó cho xứ sở ông. Ý kiến của ông có thể đúng. Chính tôi đã thấy những mỏ than ở cách Bắc cực sáu trăm cây số và phần đông các nhà địa chất học tin rằng có những mỏ than vĩ đại và có lẽ cả những mỏ dầu lửa nữa ở gần Bắc cực.
Đời Đề đốc Byrd là một tấm gương rực rỡ của một em nhỏ có lòng cao vọng không hề lay chuyển, và thắng được những trở ngại nhiều vô kể để làm được những việc lớn.
Nó cho ta thấy rõ giá trị thực tế của một mục đích độc nhất. Kẻ nào ngay từ nhỏ đã vạch một mục đích lớn và suốt đời không rời bỏ quyết định chủ yếu đó thì có việc gì mà làm không được!.
Trước hết, Byrd du lịch để coi các miền xa lạ. Hồi mười bốn tuổi ông đã đi vòng quanh địa cầu, mà đi một mình! Rồi ông trở về nhà, vô trường đại học, nhưng học thì ít mà luyện các môn đấu quyền, vận lộn, đá banh thì nhiều. Ông chơi hăng quá đến nỗi gãy một chân, bể xương mắt cá, thành tàn tật mà thủy quân cho ông là không hợp cách nên miễn dịch ông. Bạn thử tưởng tượng: chưa đầy ba chục tuổi bị miễn dịch vì không đủ sức... biết bao người trong địa vị ông đã chán nản, tự cho là đời mình bỏ đi rồi!
Nhưng Byrd không chịu thua. Ông tuyên bố rằng một người không cần đứng được mới lái nổi phi cơ, và dù chân ông có tật, mắt cá gãy nát, ông vẫn có thể lái phi cơ như thường. Nghĩ vậy, ông tập lái phi cơ, bị ba tai nạn, có lần máy bay của ông đâm vào một chiếc máy bay khác, nhưng rốt cuộc ông cũng lấy được bằng cấp phi công.
Luôn luôn khao khát mạo hiểm, ông nóng lòng được bay trên những khoảng băng tuyết ở Bắc cực, nơi mà từ trước chưa phi công nào dám bay tới. Nhưng ông bị người ta từ chối mấy lần.
Trước hết, ông định thám hiểm bằng một khí cầu máy, chiếc Shenandoah khi bay thử, chiếc khí cầu đó đâm bổ xuống đất, tan nát. Rồi ông xin chính phủ cho phép bay thử để hoàn thành một phi cơ có thể vượt Đại Tây Dương. Chính phủ từ chối vì ông tàn tật.
Ông lại năn nỉ người ta cho phép ông cầm lái một chiếc trong đoàn phi cơ mà Amundsen tính dùng để bay trên miền băng gần Bắc cực. Người ta lại từ chối nữa, lần này vì lý do ông đã có gia đình. Mấy lần thất vọng liên tiếp như vậy rồi cuối cùng lại thêm cái tin rằng Thủy quân miễn dịch ông lần nữa, cũng vẫn vì cái chân có tật của ông.
Chắc chắn là sở Thủy quân không thể lầm được, nhưng Byrd có quan niệm lố lăng này, là óc sáng kiến, lòng can đảm và trí thông minh quan trọng hơn một cái chân lành mạnh. Ông vận động, kiếm được những nhóm tư nhân chịu bỏ tiền giúp công việc thám hiểm của ông và tức thì ông phiêu lưu, làm cả thế giới ngạc nhiên. Ông vượt Đại Tây Dương, lên tới Bắc cực, liệng một chiếc cờ Hoa Kỳ xuống, rồi xuống Nam cực, cắm một chiếc cờ Hoa Kỳ khác.
Và khi ông trở về xứ sở thì hai triệu người hoan hô ông cuồng nhiệt có phần hơn dân La Mã hoan hô César thắng Pompée nữa.
Và rốt cuộc, chính phủ Hoa Kỳ tặng chức Đề đốc cho con người mà mười bốn năm trước bộ Hải quân đã chê là tàn tật và cho miễn dịch.
Chương 22
Winston Churchill
Tôi luôn luôn ngạc nhiên về điều này, nhiều việc xảy ra nghe chẳng có gì quan trọng cả mà sau lại làm thay đổi cả lịch sử. Chẳng hạn, bốn năm trước khi Nội chiến bộc phát, trong năm kinh khủng 1857, một người tên là Leonarl Jerome đầu cơ ở Wall Street mà kiếm được một trăm ngàn Anh kim. Việc đó trừ Leonard Jerome, có ai cho là quan trọng đâu. Vậy mà bây giờ nhớ lại, ta thấy nó ảnh hưởng rất lớn đến lịch sử hiện đại. Vì nếu người đó Leonard Jerome không đầu cơ được số tiền lớn đó, thì có lẽ Winston Churchill không sinh ra đời: Leonard Jerome chính là ông nội của Churchill.
Được số tiền một triệu hai trăm ngàn Anh kim, Loenard Jerome mua một phần hùn lớn trong tờ Times ở Nữu Ước, lập hai trường đua lớn ở Mỹ, du lịch khắp thế giới, giao du với hạng quí tộc Anh. Và kết quả là người con gái mỹ miều, có duyên của cụ, cô Jenny Jerome cưới nhà quí phái Randolph Churchill. Và do cuộc hôn nhân đó mà Churchill ra đời vào ngày 30 tháng mười một năm 1874, trong một lâu đài nổi danh nhất ở Anh, lâu đài Benheim.
Đời của Winston Churchill mới hoạt động, kỳ dị làm sao!
Trên hoàn vũ tôi không thấy một người nào khác mà cuộc đời gồm được nhiều kích thích, nhiều mạo hiểm, nhiều nỗi vui và hứng thú như đời ông. Trên một phần ba thế kỷ, ông nắm quyền hành ghê gớm trong tay, ảnh hưởng lớn vô cùng. Năm 1911, ông là quan văn đứng đầu Hải quân Anh. Trên một phần ba thế kỷ, ông tạo nên anh hùng và thời thế.
Ngay từ hồi bé, Winston Churchill đã muốn là một quân nhân, suốt ngày bày trận. Sau ông tốt nghiệp trường võ bị Sandhurt. Trong mấy năm ông đăng lính, chiến đấu với kỵ binh cầm thương của Bengale (Ấn Độ), chiến đấu với Kitchener ở sa mạc Soudan, chiến đấu với quân FuzzWuzzies.
Từ năm 1900, ông đã nổi danh vì liều lĩnh, can đảm, nổi danh tới nỗi mới hai mươi sáu tuổi đã được bầu vào nghị viện.
Việc xảy ra như vầy: Năm 1899, ông xung phong qua Nam Phi, làm thông tin viên lấy tin tức về chiến tranh Boer cho tờ Morning port, lương hai trăm rưỡi Anh kim mỗi tháng. Lương đó cao, nhưng ông lãnh nó cũng đáng, vì ông là một thông tin viên nổi danh nhất trong lịch sử Anh. Không những ông chép tin gởi về, mà ông còn tạo ra tin tức nữa, nghĩa là tiến sâu vào khu vực của địch, trong một toa xe võ trang bị tấn công bằng đại bác, rồi bị quân Boer bắt, nhốt khám, rồi ông vượt ngục, làm cho quân Boer phát điên lên, vì để một tù binh trong hàng quí phái Anh trốn thoát.
Ra khỏi ngục, ông còn phải vượt mấy trăm cây số trên địa phận của địch có lính Boer gác các đường xe lửa và cầu, ông đi bộ hoặc trốn trong các toa chở hàng, ngủ trong rừng, trong đồng lúa hoặc mỏ than, ngụp trong đồng lầy, qua sông. Ông đi qua những cánh đồng Châu Phi, trong bầy kên kên bay lượn trên đầu chỉ đợi ông mệt quá, gục xuống là chúng tha hồ mổ, rỉa.

Truyện vượt ngục của ông đã là tuyệt hay rồi. Mà ông lại còn viết cho độc giả mê nữa. Bài ông đăng trên tờ Morning post năm 1900 có tiếng vang dữ dội, người Anh nào cũng hăm hở, thành kính đọc. Ông được họ coi là vị anh hùng của dân tộc. Có người đem truyện ông đặt thành lời ca: hàng vạn người bu lại nghe ông diễn thuyết, và ông được nhiệt liệt bầu vào Nghị viện vì hoạt động và danh tiếng của ông.
Châm ngôn của ông là: "Không bao giờ chạy trốn nguy hiểm". Năm 1921, ông qua Mỹ để diễn thuyết bốn mươi lăm lần, mỗi lần được hai trăm hai mươi Anh kim. Nhưng công ty Công an Scotland Yard thấy có thể nguy tới tính mệnh ông, cho ông hay có một bọn người bất mãn ở nhiều nơi trong đế quốc Anh đã họp nhau ở Mỹ thành một hội mà ty Công an gọi là Hội Ám Sát, ông tượng trưng cho các nhà cầm quyền Anh, rất có thể bị chúng bắn trong khi đi khắp nơi diễn thuyết ở Mỹ. Mặc dầu được ty Công an cho hay như vậy, ông cũng cứ đi. Khi tới một tỉnh miền Tây Hoa Kỳ, có người báo cho ông rằng vài hội viên trong Hội Ám Sát đã mua giấy vào nghe. Trưởng ty Công an đó hoảng, ra lệnh bãi bỏ cuộc diễn thuyết, nhưng người tổ chức cuộc diễn thuyết không chịu. Churchill bảo người này:"hành động như ông là phải. Thấy nguy hiểm, không bao giờ được quay lưng chạy. Nếu chạy thì nguy hiểm tăng lên gấp đôi, còn nếu như mạnh bạo xông lại nó, thì nó giảm đi được một nữa. Đừng bao giờ trốn cái gì. Bất kỳ cái gì!"
Đã không trốn nguy hiểm, Churchill còn thường tìm nó. Khi ông đứng đầu Hải quân Anh, ông có được khoảng mười hai chiếc máy bay vừa lớn vừa nhỏ. Hồi đó vào năm 1911, máy bay mới xuất hiện được tám năm, cho nên lái phi cơ không khác gì giỡn với tử thần, vậy mà Churchill cũng nhất định đòi lái lấy, mấy lần bị tai nạn suýt chết. Chính phủ phải ra lệnh cấm, ông không nghe. Ông thích cái nguy hiểm đó và muốn biết rõ về phi cơ vì ông tiên đoán rằng phi cơ sẽ cách mệnh chiến thuật. Hải quân Anh có không lực mạnh mẽ là nhờ công của ông.
Một đức tính siêu phàm của ông nữa là tính quả quyết gang thép, nhờ vào giáo dục của ông. Hồi trẻ ông là một sinh viên rất tầm thường. Ông ghét tiếng La- tinh, tiếng Hy Lạp, ghét Toán học, và Pháp văn. Ông tin chắc rằng trước hết phải thông tiếng Anh đã rồi mới học ngoại ngữ, và tất nhiên là ông có lý. Nhưng vì ông khinh Ngoại ngữ, và toán pháp, nên ông ngồi gần cuối lớp trong ban dự bị vào đại học. Và đây mới là điều lạ: con người ghét toán sau làm giám đốc ngân khố quốc gia, giữ nền tài chánh của Anh trong bốn năm.
Ba lần thi vô trường võ bị Sandhurst rớt cả ba. Lần thứ tư mới đậu.
Rồi một hôm, sau khi tốt nghiệp hai trường Harrow và Sandhurst - hai trường lớn nhất ở Anh, ông thấy một điều - mà nhiều sinh viên tốt nghiệp ở đại học ra đã thấy - là mình thực ra chẳng biết chút gì cả. Lúc đó ông hai mươi hai tuổi, làm sĩ quan trong quân đội Anh ở Ấn Độ, tức thì ông quả quyết tự học, viết thư về cho thân mẫu ở Anh, xin người gởi qua những sách về tiểu sử danh nhân, lịch sử triết lý và kinh tế. Trong khi các bạn sĩ quan ngủ để tránh cái nóng nung người ban trưa, thì ông nghiến ngấu đọc đủ các sách từ Platon tới Gibbon và Shakespeare. Ông bỏ mấy năm luyện lối văn sáng sủa và bóng bẩy mà ta thấy trong các diễn văn và tác phẩm của ông, một lối văn hùng hồn và du dương. Vốn ăn nói vụng về, ông đã tự luyện cho thành một nhà hùng biện hạng nhất cổ kim.
Khi giữ chức thủ tướng, ông làm việc từ mười bốn tới mười bảy giờ mỗi ngày, mỗi tuần ông thường việc cả bảy ngày. Ngay bây giờ ông còn làm việc hăng hái, và các thư ký của ông không được nghỉ tay. Ông làm việc được như vậy nhờ vừa làm vừa nghỉ, và nghỉ trước khi mệt. Mười giờ rưỡi sáng ông mới dậy, nhưng ba giờ trước khi dậy, ông ngồi dựa lưng ở giường, miệng ngậm một điếu xì gà lớn, kêu điện thoại, đọc thư cho thư ký chép, đọc báo, các bản phúc trình và điện tín. Rồi ông mới đứng dậy đi cạo râu bằng một con dao cạo kiểu cũ.
Một giờ trưa ông ăn cơm, ngủ một giờ, rồi làm việc. Năm giờ lại leo lên giường, ngủ nữa giờ. Ăn bữa tối xong, ông thường làm việc tới nữa đêm.
Một loạt diễn văn của ông đã gom vào một cuốn nhan đề là Trong khi nước Anh ngủ. Trong mấy năm, khi mà phần nhiều chính khách Anh ngủ, hoàn toàn quên đại chiến nó sắp chìm đắm thế giới, thì ông cảm thấy nguy cơ Hitler. Trong sáu năm, từ 1933 đến 1939, gần như ngày nào ông cũng la rằng Đức quốc đương tái võ trang, rằng Hitler đương đóng xe tăng, chế đại bác, phi cơ, dự định thả bom xuống nước Anh, đánh đắm tàu Anh và chiếm thế giới. Ông đã thấy trước tất cả những điều đó: nếu nước Anh nghe lời tiên đoán của ông mà tăng binh bị để sẵn sàng đương đầu với nguy cơ thì đại chiến thứ nhì có lẽ chỉ là một ảo mộng của một kẻ điên.
Chương 23
Henry J. Kaiser
Nhà kinh doanh đã xuất đầu lộ diện mau nhất trong đại chiến vừa rồi là Henry J. Kaiser. Không phải là quân nhân mà giúp cho quân đội Hoa Kỳ chiến thắng, thì công đó, ít ai hơn ông. Trước chiến tranh, tên tuổi ông có mấy ai biết tới, nhưng chỉ trong vài năm, những xí nghiệp mênh mông của ông phát triển lạ lùng. Ông có tới bảy xưởng lớn đóng tàu, làm việc đêm ngày không nghỉ để cung cấp cho quân đội những tàu chở hàng, tàu dầu, khu trục hạm và hàng không mẫu hạm. Ông cũng có một xưởng chế tạo máy bay khu trục và nhiều bộ phận rời.
Ông xây cất và điều khiển một xưởng lớn sản xuất rất nhiều ma- nhê- di, thứ kim thuộc cực nhẹ, trọng yếu bực nhất trong thời chiến tranh đó.
Khi ông không kiếm ra được số thép cần dùng nữa, ông dựng ngay một xưởng nấu thép, xưởng đầu tiên ở phía tây dãy núi Đá, có đủ lò luyện sắt và máy dát kim loại. Rồi ông mua một mỏ sắt để có đủ quặng dùng, lại mua nhiều mỏ than để có đủ than đốt lò.
Ông và các hội viên của ông dự vào công việc vớt các tàu Nhật đánh đắm ở Trân Châu Cảng, xây nhiều căn cứ hải quân cho phi cơ ở Wake Island, Midway và Guam, lại xây một phần đại lộ quân sự tiến về Alaska lập ở xứ này nhiều phi trường cho nhà binh, nhiều đài phát thanh, đào nhiều giếng dầu, dựng một nhà máy lọc dầu. Đặt sáu trăm cây số ống dẫn dầu ở miền cực Bắc, và xây nhiều cống ngăn trên kinh Panama.
Ông có xưởng chế tạo xi măng lớn nhất thế giới. Ông đã lưu lại một công trình lớn là xây ba cái dập quan trọng nhất thế giới: đập Boulder trên sông Calorado, đập Bonneville trên sông Columbia ở Oregon (nhiều kỹ sư cho rằng không thể nào xây đập này được), và cũng trên sông đó, đập vĩ đại Grand- Coulee.
Henry Kaiser thành một trong những chủ nhân ông có danh nhất Châu Mỹ. Nhưng vì ông thân mật với mọi người nên người thường đều coi cái con người lớn, mập và hói đó như bạn bè vậy. Người ta yêu ông vì ông giản dị, vui vẻ và hăng hái.
Trước chiến tranh ông chưa hề đóng một chiếc tam bản nào gọi là có. Vậy mà chỉ trong bốn năm ông thành một nhà đóng tàu nhiều nhất và lớn nhất từ xưa tới nay.
Ông đã cách mạng hẳn một trong những kỹ nghệ cổ nhất của loài người: kỹ nghệ đóng tàu. Hồi đó người ta phải mất sáu tháng mới đóng xong một chiếc tàu, mà xưởng Oregon của ông chỉ mười ngày là giao được một chiếc Liberty Ship. Khi các thợ của ông ở Californie hay tin đó, họ thề với nhau phải phá kỷ lục ấy cho được. Họ can đảm bắt tay vào việc, và chiếc Robert E. Peary mà lườn được lắp đúng nữa đêm chủ nhật, hoàn toàn đóng xong và thả xuống nước chiều thứ năm. Vậy, một công việc hồi trước làm trong sáu tháng, có khi trọn một năm, thì bây giờ chỉ làm trong bốn ngày rưỡi.
Tất nhiên, lần đó chỉ là một thí nghiệm, một sự ganh đua, chứ không thể bắt thợ tuần nào cũng gắng sức như vậy được, nhưng hãng của ông cũng tiếp tục đóng được những chiếc Liberty Ship trong một tháng là xong, từ khi lắp lườn đến khi thả xuống nước.
Ông thích làm tận lực như vậy, sống mãnh liệt trong cơn lốc bất tận. Ông rất ham bắt tay vào những việc mà các nhà chuyên môn cho là thực hành không được.
Khi ông đề nghị đóng tàu theo cách dây chuyền, ông có biết chút gì về cách đó đâu. Từ trước ông chỉ được thăm mỗi xưởng đóng tàu, nhưng ông nghĩ rằng. Không biết chút gì về những khó khăn trong nghề đó có lẽ lại là cái lợi nhất cho ông. Ông nhất định không chịu theo lối cổ truyền là lắp lườn trước rồi mới lắp những bộ phận khác của tàu lên cái lườn đó. Trong thời chiến tranh cần phải làm mau hơn. Ông ra lệnh cho các kỹ sư sửa soạn một xưởng lớn gấp ba những xưởng thường, đủ chỗ cho hàng ngàn thợ cùng làm tại đó một lúc, và cả ba phần của tàu, tức mũi, đuôi và thân tàu phải đóng cùng một lúc ba chỗ khác nhau.
Khi đóng mọi bộ phận rồi, một cái máy cổ hạc vĩ đại lớn hơn những máy dùng từ trước tới nay rất nhiều, kẹp mỗi bộ phận, đem lại đặt vào chỗ của nó ở trong tàu. Rồi người ta hàn kỹ những bộ phận đó với nhau. Ông dùng rất ít đinh tán vì cách đó chậm. Một sáng kiến nữa của ông là lắp các bộ phận của tàu theo cách dây chuyền như lắp xe hơi vậy. Ông và đội kỹ sư của ông lại có ý phóng ngược nhiều bộ phận, như cái mui tàu chẳng hạn, để thợ có thể làm ở dưới, đỡ mệt hơn là cứ phải đưa tay lên trời mà làm việc. Đóng xong thì một máy cổ hạc sẽ lật úp nó lại rồi đưa đi, đặt vào chỗ của nó trong tàu.
Ngay từ hồi nhỏ, Henry J. Kaiser đã có tài tưởng tượng, đức nhiệt thành và một tham vọng bền bĩ nó làm cho ông giàu có và nổi danh. Tổ tiên ông là người Đức, cha ông làm thợ giày, khó nhọc mà không đủ nuôi một gia đình bốn con. Vì ông là con trai độc nhất trong nhà, ông phải thôi học từ hồi mười một tuổi để kiếm tiền giúp cha. Ông xin được một chân giao hàng trong một cửa hàng lớn ở Nữu Ước. Ban ngày làm cho người, nhưng ban đêm thì làm theo sở thích: hồi đó ông mê chụp hình. Thấy sách nào ở thư viện công cộng ông cũng đọc nghiến ngấu. Rồi ông xin được một chân giúp việc cho một tiệm chụp hình tại ngoại ô Lake Placid. Ông không coi công việc ông làm là một công việc mà cho nó là một trò vui, một trò chơi, một nỗi thích thú. Ông đem cả tấm lòng hăng hái của tuổi xanh vào việc bán máy ảnh, việc rửa hình cho các nhà chơi ảnh. Ông lại in cả bưu thiếp có dán hình Lake Plaud để bán. Sau ba năm ông hoàn toàn làm chủ cửa tiệm. Sau năm năm ông mở thêm nhhững tiệm chụp hình khác ở Palm Beach và Daytona Beach tại Floride. Bây giờ thì ông không có tới một cái máy chụp hình nữa.
Muốn kinh doanh những xí nghiệp lớn hơn, ông bỏ nghề luôn và bổ nhào tới miền duyên hải tây bắc Thái Bình Dương hồi đó mới bắt đầu khai thác. Ông đi chào hàng cho công ty Hawkeye Sand and Gravel ở Spokane, rồi thành hội viên của công ty vì hùn một phần tiền lương vào công việc làm ăn.
Một hôm ông đi thăm một xí nghiệp ở Chicago khởi sự nhiều công việc quan trọng cho thành phố Spokane. Ông muốn bán một món hàng cho xí nghiệp, món hàng đó là sự hợp tác của ông: xí nghiệp dùng ông liền.
Khi ông hai mươi chín tuổi, ông bỏ địa vị làm công ra kinh doanh. Vốn ông chỉ vỏn vẹn vài cái xe bù ệt cũ, ít cái máy trộn xi măng và bốn con ngựa, hết thảy đều là mua chịu. Nhưng ông còn những số vốn khác không hiển hiện bằng, song quan trọng nhiều hơn, là tinh lực kinh nghiệm, trí phán đoán, lòng hăng hái và một nghị lực bất biến, luôn luôn muốn tiến tới. Sau hai tháng, ông lãnh việc lát đường, khoảng hai trăm năm chục ngàn Mỹ kim. Lúc này ông bắt đầu giàu có. Chỉ trong vài năm xí nghiệp của ông lát cả ngàn cây số đại lộ trên bờ biển Thái Bình Dương.
Nhưng ông vẫn thường nói rằng ông không thích tiền. Thực vậy. Ông còn thì giờ đâu để tiêu tiền? Ông rất ít khi rảnh để đọc sách, coi hát bóng hoặc đi nghỉ mát, thì giờ làm việc của ông còn thiếu kia mà! Và ông làm việc rất hăng, càng làm được nhiều càng thích. Ông có một căn trong một khách sạn ở Hoa Thịnh Đốn, một căn trong một khách sạn khác ở Nữu Ước, ngày nào ông cũng mất hằng giờ hội họp, tiếp điện thoại ở xa. Từ Đại Tây Dương tới Thái Bình Dương, tất cả những phòng giấy quan trọng của xí nghiệp ông đều mắc điện thoại vào chung một mạch điện để cho những người cộng tác với ông có thể theo dõi và dự vào những cuộc thảo luận bàn tính của ông trong công việc làm ăn. Phí tổn tất nhiên lớn lắm, mỗi năm tới hai trăm ngàn Mỹ kim tiền điện thoại. Điện tín của ông gởi tới các công sở tới tấp như mưa, hoặc để biện hộ cho ông, hoặc để hăm dọa chính phủ, hoặc để xin việc này việc khác. Ít khi ông ngủ suốt đêm quá năm giờ. Người ta tự hỏi sống đời hoạt động cuồng nhiệt như vậy mà sao ông không chết vì đau tim hoặc vi trùng phong.
Ông đã cất một ngôi nhà nghỉ mát ở bờ hồ Tahoe, trong dãy núi Sierra Nevada, tại trên cao hai ngàn thước. Cách thức xây cất đặc biệt là của ông. Ông hấp tấp chở những xe ủi đất, những máy đào đất, những máy cổ hạc tới hồ Tahoe, ông bắt những kíp thợ làm việc ngày đêm dưới ánh đèn giọi, để phá rừng, vỡ đất, lắp vũng. Ông cất một ngôi nhà lớn bằng đá, bốn biệt thự cho khách khứa và một cái ụ để tàu, chỉ trong có hai mươi tám ngày, cất nóng nảy, hấp tấp như là sợ nền văn minh sắp lâm nguy vậy. Đó con người của ông như vậy.
Trong suốt kỳ đại chiến vừa rồi, ông chỉ sản xuất cho chính phủ, nhiều người nghĩ rằng ông tiến lên được như vậy nhờ chiến tranh thì sau chiến tranh, do sự cạnh tranh của các xí nghiệp và sự đảo lộn của các điều kiện kinh tế, ông khó giữ được địa vị, nhưng ông vẫn hy vọng giữ được. Ông đã lập một phòng tìm tòi nghiên cứu gồm nhiều kỹ sư, bác học, sáng chế gia, kỹ thuật gia, chuyên môn gia, nhà nào cũng có óc làm lớn, trông rộng, và cũng có đủ tài tưởng tượng để chế tạo những hóa phẩm mới, xây dựng những kỹ nghệ mới, cho công nhân sau chiến tranh còn được dùng tới một mức cao.
Ông nghĩ rằng nếu dùng những vật liệu nhẹ hơn thì có thể đóng được những tàu chạy nhanh hơn, phí tổn chở chuyên nhẹ hơn và cả ngàn người chưa đi du lịch bao giờ sẽ có thể vượt biển được.
Còn về ngành xe hơi thì ông nói:"Thấy một chiếc xe nặng một ngàn năm trăm kí lô mà chỉ chở một người nặng bảy mươi lăm kí lô, tôi ngao ngán lắm". Ông tính dùng một kim thuộc cực nhẹ và những chất dễ nặn để đóng những chiếc xe hơi chỉ nặng bằng một phần ba những xe hơi hiện thời, còn máy thì ông cho chạy bằng dầu xăng chạy máy bay.
Ông cũng hy vọng chế tạo được nhiều phi cơ chắc chắn cho những bà già cũng dám leo lên và cực rẻ cho các ông già cũng dám bỏ tiền ra mua.
Quả thật ông là người lạc quan. Ông nói: Kỹ thuật tiến mãnh liệt, như một cái nồi sôi sùng sục. Không thể ngồi đè lên nắp của nó được, nó sẽ văng ta ra bốn phương trời, tan tành như pháo.
Chương 24
Charles Dickens
Cách nay gần đúng trăm năm, và gần đúng vào ngày lễ Giáng Sinh, một cuốn sách nhỏ được xuất bản ở Luân Đôn, một tiểu thuyết sau này thành bất hủ. Nhiều người cho cuốn đó là "cuốn sách nhỏ có giá trị nhất thế giới". Khi cuốn đó phát hành, những người Anh quen nhau mà gặp nhau trên đường Strand hoặc Pall Mall đều hỏi nhau: "Ông đã đọc cuốn đó chưa?". Và ai cũng đáp:"Có, tôi đọc rồi, cầu Trời phù hộ cho ông ấy".
Nội ngày đầu, sách đã bán được một ngàn cuốn. Trong nữa tháng, sách bán được mười lăm ngàn cuốn. Rồi từ đó sách tái bản không biết bao nhiêu lần, được dịch ra gần đủ các thứ tiếng. Ít năm sau, J.P. Morgan mua bản thảo bằng một giá không tưởng tượng được; và hiện nay bản thảo ấy nằm chung với những bảo vật vô giá khác, trong phòng triển lãm mỹ thuật của ông ở Nữu Ước mà ông gọi là thư viện của ông.
Cuốn sách nổi danh khắp thế giới đó là cuốn gì? Là cuốn Christmas Carol (Bài hát lễ Giáng Sinh) của Charles Dickens.
Charles Dickens thành nhà văn viết nhiều nhất và được độc giả thích nhất trong văn học sử Anh; vậy mà khi ông bắt đầu viết, ông sợ bị người ta chế nhạo tới nỗi phải lén lút đi bỏ bản thảo đầu tiên của mình vào thùng thư trong đêm tối để không ai thấy sự cả gan của mình.
Khi truyện ông viết được xuất bản, ông hai mươi hai tuổi, ông vui sướng quá đỗi, đi lanh thang không mục đích trong phố phường, lệ chảy ướt đầm mặt.
Người ta không trả cho ông một xu nhỏ nào về truyện đó. Và tám truyện sau đem cho ông được bao nhiêu tiền, bạn thử đoán xem? Không có một đồng nào hết. Hoàn toàn không. Nhưng ông vẫn cố gắng viết, lấy sự sáng tác làm lẽ sống ở đời. Sau cùng khi người ta chịu trả tiền, thì ông cũng chỉ được lãnh một ngân phiếu là một Anh kim cho mỗi truyện. Vâng, ông chỉ được lãnh một Anh kim về truyện đầu; nhưng truyện cuối của ông đã đem lại cho người thừa kế ông ba Anh kim một chữ tức cái giá cao nhất từ hồi khai thiên lập địa đến nay, chưa tác giả nào được lãnh! Ba Anh kim mỗi chữ!(#1)
Phần đông nhà văn, chết rồi thì chỉ trong vòng năm năm là không ai biết tới, nhớ tới tên tuổi của mình nữa.
Còn Dickens mất đã sáu mươi ba năm mà các nhà xuất bản vẫn trả cho người kế thừa ông trên bốn vạn Anh kim về truyện Đức Chúa Jesus, một cuốn sách nhỏ ông viết riêng cho các con ông đọc.
Trong khoảng trăm năm nay, tiểu thuyết của Charles Dickens bán mạnh một cách kỳ dị. Chỉ thua tác phẩm của Shakespeare và Thánh Kinh. Cả trên sân khấu lẫn trên màn ảnh, những tiểu thuyết đó luôn luôn được hoan nghênh.
Trong suốt đời ông, ông chỉ đi học không đầy bốn năm, vậy mà ông viết mười bảy tiểu thuyết có danh nhất bằng tiếng Anh. Song thân ông điều khiển một trường học, nhưng ông không hề tới trường đó, vì trường mở cho thiếu nữ, và treo một bảng đồng có hàng chữ: "Trường của bà Dickens" nhưng sự thực thì trong cả thành Luân Đôn chẳng có lấy được một thiếu nữ nào lại đó học.
Mà số nợ thì mỗi ngày một cao, một tăng lên. Chủ nợ kiện, rủa, đập bàn. Rốt cuộc, bất bình quá, họ làm cho thân phụ Dickens phải vào khám.
Tuổi thơ của Dickens thực là nghèo khổ và thương tâm, thương tâm cũng chưa đúng, phải nói là bi thảm. Mới mười một tuổi đầu thì cha bị nhốt khám, gia đình túng quẫn quá, không có gì ăn; cho nên mỗi buổi sáng, chàng phải lại tiệm cầm đồ cầm vài đồ lặt vặt còn lại trong nhà. Chàng phải bán cả những cuốn sách chàng nâng niu, bán mười cuốn mà chỉ có những cuốn đó là làm bạn với chàng thôi, ngoài ra không ai chơi với chàng hết. Sau này chàng nói:"Khi tôi bán những cuốn đó, tôi thấy muốn đứt ruột".
Sau cùng bà thân của Dickens dắt theo bốn người con vào khám ở với chồng. Mỗi buổi sáng, khi mặt trời mọc chàng vào khám ở với gia đình suốt ngày. Đến tối chàng về căn phòng ảm đạm ở gác thượng, sát nóc nhà, ngủ với hai đứa nhỏ khác. Cảnh của chàng lúc đó như cảnh địa ngục. Sau chàng xin được việc dán nhãn lên những ve thuốc nhuộm đen trong một kho đầy những chuột. Tháng đầu lãnh được ít đồng, chàng mướn một phòng khác, một cái hang nhỏ tối tăm cũng ở gác thượng sát nóc với một đống màn gối dơ ở trong một góc; vậy mà Dickens bảo rằng cái hang đó đối với chàng"không khác gì cảnh thiên đàng".
Dickens tả nhiều cảnh linh động về đời sống hoàn toàn hạnh phúc trong gia đình. Nhưng hôn nhân của ông là một sự thất bại, một sự thất bại buồn rầu, bi thảm.
Ông sống hai mươi ba năm với một người vợ mà ông không thương. Bà vợ sanh được mười người con. Cảnh nghèo khổ cứ mỗi năm một tăng. Khắp thế giới ngưỡng mộ ông mà trong nhà ông, toàn là cảnh đứt ruột. Sau cùng, đau khổ quá lắm, không chịu nỗi nữa, ông phải làm một việc mà hồi đó coi là động trời: Ông đăng ngay trên mặt báo của ông một tờ bố cáo nói rằng hai vợ chồng ông không sống với nhau nữa (...)
Dickens là người được nhiều người yêu, ngưỡng mộ nhất thời ông. Lần thứ nhì ông qua thăm Mỹ, dân chúng sắp hàng, đứng run rẩy mấy giờ trong gió để đợi mua giấy vô nghe ông diễn thuyết.
Ở Brooklyn, dân chúng đốt pháo mừng, và trải đệm trên đường ngồi suốt đêm, không sợ bị cảm phong, cảm hàn, không sợ bị sưng phổi, để đợi mua vé. Và khi vé bán hết, hàng trăm người phải về không, bất bình lắm, làm náo động cả lên.
Văn học sử đầy những danh nhân tính tình trái ngược nhau, nhưng xét kỹ thì Charles Dickens có lẽ là người lạ lùng nhất trong giới nhà văn.
Chương 25
Connie Mack
Bạn đã nghe tên Cornelius Mc. Gillicuddy? Chắc chắn có, vì về môn dã cầu, ông là người nổi danh nhất. Từ năm 1883, ông thành một nhà nghề, lúc thì chơi, lúc thì điều khiển. Người ta gọi ông là Connie Mack, và trong giới dã cầu, ai cũng mến ông.
Ông là người có công nhất với môn dã cầu. Khi ông vô nghề thì môn đó là một trò chơi tàn nhẫn, ồn ào, xấu xa. Nhờ những quy tắc và gương tốt của ông nó biến thành một môn thể thao lương thiện, có ích, một môn thể thao toàn quốc của một trăm rưởi triệu người.
Ông sanh năm 1862, hồi mà Lincoln làm Tổng thống. Hiện nay ông còn chơi banh hay hơn nhiều thanh niên, mặc dầu ông đã chơi từ... năm nào, chính ông cũng không nhớ nữa, chỉ biết là trên bảy chục năm rồi.
Trong một cuộc phỏng vấn, ông bảo tôi rằng đời ông chỉ là một vụ nghỉ dài hạn. Luôn luôn ông ngạc nhiên tại sao người ta lại trả tiền cho bọn người lớn chơi một trò chơi rất vui, là trò dã cầu kia chứ.
Năm ông hai mươi tuổi thì thân phụ ông mất, ông phải vô làm trong một xưởng đóng giày để nuôi gia đình. Mỗi tuần ông lãnh được mười Mỹ kim và ông phải đi bộ năm cây số sáng chiều để tiết kiệm một cắc xe đem về đưa cho mẹ.
Ông ghét đóng giày và chỉ thích dã cầu, và ông đã quyết định một cách khôn là làm cái gì mình thích để kiếm ăn. Nhưng bà cụ không muốn vậy, bà cụ tức giận, mà không phải vô lý vì cả gia đình trông cậy ở ông, mà ông đóng giày còn có tiền công nhất định, chứ chơi dã cầu thì có ai trả cho ông xu nào không? Không, tuyệt nhiên không. Vậy thì trong nhà lấy gì chi tiêu? Ngày nay mỗi lần nhớ lại hồi đó, ông Connie cũng tự hỏi mình sao lại liều lĩnh như vậy.
Mới đầu nhập đội East Brookfield trong liên đoàn Massachusetts. Không người nào trong đội được lãnh lương vì đội không kiếm được tiền đều đều. Lại coi khỏi phải trả tiền. Họ chơi trên một khu đất hoang và khi chạy họ thường đạp nhầm những vỏ hộp, mảnh sắt, yên ngựa quá rách. Chơi xong họ xin tiền khán giả nhưng họ chưa chìa nón ra thì đám đông đã tan như tuyết dưới ánh nắng. Mỗi chiều thứ bảy, Connie cũng chia được ít cắc bạc mà khán giả thương tình liệng vào nón. Chỉ được vậy thôi. Khi nào quĩ của đội nghèo quá thì đội tổ chức một hội đồng quê vào coi phải trả tiền.
...Vậy thì bí quyết thành công của Connie Mack trong việc điều khiển dã cầu là ở đâu? Eddie Collins người đã chơi lâu năm trong đội của ông, biết rõ bí quyết đó. Collins bây giờ là phó hội trưởng và nhà dìu dắt Liên đoàn Boston, bảo rằng Connie thành công không nhờ sự hiểu biết rộng thuật chơi dã cầu mà nhờ hiểu lòng người. Ông biết hướng dẫn, khuyến khích bạn đồng đội. Khó mà kiếm được một người trên khắp thế giới có tài giúp người khác dùng hết khả năng của họ như ông.
Ông gốc gác ở Ái Nhĩ Lan, cho nên người ta có thể ngờ rằng đó là một thiên tư của ông. Nhưng sự thực thì ba năm đầu trong nghề, ông đã thất bại thảm hại. Đội của ông đứng hàng thứ sáu, rồi thụt xuống hàng thứ bảy, sau cùng xuống hàng cuối. Connie Mack khác người ở chỗ không cho rằng thất bại là tại các bạn chơi dở. Ông tự nhận lỗi về mình, vì ông không biết điều khiển. Sau ba năm dìu dắt một đội dã cầu rất quan trọng ông xin thôi, trở về chơi trong đội Milwaukee để có thì giờ và cơ hội nghiên cứu vấn đề này: làm sao cho người trong đội chơi như ý muốn của ông.
Rồi ông lại vào những đội quan trọng hơn, khéo dìu dắt và lập được những đội chơi hay nhất thời đó. Trước khi đội danh tiếng New York Yankees ra đời, thì không đội nào chiếm được nhiều giải vô địch trong xứ và giải vô địch thế giới như của ông.
Tài lớn nhất của ông là gợi được lòng hăng hái của người khác. Bạn hỏi tôi bằng cách nào ư? Có gì đâu? Ông bẩm sinh có lòng yêu người. Ông rất tự nhiên. Mỗi lời ông đều phát từ đáy lòng ra. Ông nói với tôi:
- Luôn luôn tôi rán tìm một lời để khen mỗi bạn.
Không khi nào ông làm cho các bạn ông thất vọng. Ông rán dùng lời khuyên, như khuyến khích, chứ không chỉ trích, rầy la, để họ chơi hay hơn. Đây là một thí dụ: Khi Eddie Collins mới ở trường ra nhập đội Athletics thì chưa biết gì về thuật nhào vào banh, Connie bảo Eddie:
- Anh đã thấy Cobb nhào vào banh chưa? Hắn nhào khá đấy phải không?
Eddie đã thấy lần nào đâu, nhưng từ đó để ý nhận xét, tập tành mỗi ngày, mỗi giờ cho được như Cobb và rốt cuộc thành ra chơi giỏi vào hạng nhất.
Connie cũng cho biết một quy tắc rất quan trọng nữa trong việc dìu dắt người là không bao giờ vạch lỗi của ai trước mặt những bạn khác hoặc người lạ. Ông nói:
- Chỉ trích ai trước mặt người khác thì không gây được thiện chí mà chỉ gây lòng phản động.
Lại thêm kinh nghiệm dạy ông rằng phải đợi ít nhất là hai mươi bốn giờ rồi mới nên vạch lỗi lầm cho các bạn đồng đội. Mới đầu ông không hành động như vậy, hễ trận nào thua thì ông chỉ trích bằng giọng chua chát ngay khi các bạn mới chơi xong và đương thay đồ. Sau ông thấy rằng mới ở sân banh ra, ông khó giữ được miệng lắm, nên quyết định chơi xong về nhà liền, đợi hôm sau mới gặp các bạn và thảo luận.
Ông cũng tránh sự bắt người khác làm theo ý ông mà để các cầu thủ già tự giải quyết vấn đề của họ tùy ý họ. Ông nhận thấy rằng điều tốt cho người này không nhất định tốt cho người khác.
Chẳng hạn năm 1913, sau khi ăn giải vô địch trong xứ rồi mà còn lâu mới mãn mùa chơi, ông định cho hai cầu thủ, Plank và Benoder nghỉ ngơi trước khi dự vào cuộc tranh giải vô địch thế giới. Ông cho họ nghỉ mười ngày để họ tự ý muốn làm gì thì làm.
Mà họ làm gì? Benoder vẫn luyện dã cầu, ngày nào cũng tới sân tập dợt hoặc dạo chơi chung quanh sân. Plank trái lại, không mò tới trái banh, về trại ruộng ở gần Gettysburg để câu cá và thơ thẩn. Hai người đó là những cầu thủ lão luyện, họ biết nên làm cách nào thì có lợi cho họ. Nhờ vậy khi tranh giải vô địch thế giới, họ rất sung sức, chơi rất hay.
Mặc dầu ông là nhà dìu dắt vẻ vang nhất trong lịch sử dã cầu, cũng đã có nhiều lần ông chịu nỗi cay đắng thất bại: trong tám năm liền, đội ông đứng hạng chót, chưa có nhà dìu dắt nào như vậy mà cũng chưa có nhà nào trong tám năm thua tám trận.
Ông có lo lắng về điều đó không? Bây giờ thì không, nhưng ông thú rằng hồi mới vào nghề, mỗi khi thua liên tiếp là ông mất ăn mất ngủ. Rồi một hôm ông hết lo, hôm đó cách đây hai mươi lăm năm. Tôi tò mò muốn biết ông làm cách nào. Ông đáp:
- Có gì đâu. Tôi thấy rằng lo lắng hoài như vậy sẽ có hại cho nghề dìu dắt của tôi. Tôi tin rằng nếu tôi cứ tiếp tục lo lắng như hồi đó thì bây giờ tôi đã ngoẻo rồi. Tôi đã hiểu như vậy là điên, và tôi rán sức tập trung tư tưởng vào việc tìm cách thắng trong những cuộc đấu sau đến nỗi không còn thì giờ nghĩ ngợi về những thất bại đã qua nữa. Nhiều người tới bốn chục tuổi là sa lầy vào ao tù thói quen; mà Connie Mack tới tám chục tuổi còn rán tránh tật đó, đến nổi mỗi ngày ông đổi đường đi tới phòng giấy, không chịu dùng quen một con đường nào. Ông cho rằng sở dĩ ông sống lâu, không tàn tật mà sung sướng là nhờ nhiều yếu tố:
Ông được di truyền một thể chất mạnh mẽ.
Ông lại nghỉ ngơi nhiều. Đêm ngủ mười giờ mà chiều vẫn ngủ thêm một giấc ngắn nữa. Nếu đội banh của ông chơi trên sân nhà thì ông về phòng giấy riêng, khóa cửa lại, cắt điện thoại ngủ nửa giờ.
Sau cùng ông ăn uống rất điều độ, rán giữ cho đừng ốm quá hoặc mập quá. Đôi khi ông cũng uống rượu. Nhưng có lần trong một cuộc hội họp gia đình, có đông đủ người con và mười sáu đứa cháu, ông vui vẻ uống hai ly "cốc tay"; người nhà trách đùa ông quá chén, ông cầm ly la ve ở trên bàn, nói:
- Các người coi này, lão uống ly này là ly cuối cùng đây.
Năm đó là năm 1937. Từ hồi ấy ông không hề nhấp một chút rượu nào nữa.
Sanh từ hồi nội chiến(#1) mà bây giờ Connie Mack vẫn chưa tính chuyện nghỉ ngơi. Ông bảo:
- Tôi không giàu có gì. Tôi chưa thể nghỉ được, còn phải tiếp tục làm việc. Nhưng khi nào mà tôi lẩn thẩn, kể lại hoài một chuyện thì tôi sẽ về vườn. Lúc đó, tôi biết rằng tôi đã già rồi.
Chương 26
Howard Thurston
Cách đây nửa thế kỷ, trong một đêm lạnh, một đám đông khán giả từ trong rạp Mc.Vicker ở Chicago ùa ra đường. Họ vui vẻ, cười nói vì đã được coi nhà ảo thuật danh tiếng Alexander Herrmann làm trò.
Một em nhỏ đứng trên vỉa hè, lạnh run lên, rao bán tờ Chicago Tribune. Thực tội nghiệp cho em: không có áo lạnh, không có nhà, mà cũng không có tiền để mướn một cái gường nữa. Đêm đó, khi khán giả đã về hết, em lấy báo quấn vào người rồi ngủ trên một cái rá lò bằng sắt để hưởng nhờ một chút hơi nóng của lò đặt dưới hầm, trong một lối đi phía sau rạp.
Vừa đói vừa lạnh, em nằm, tự nguyện sau này sẽ thành một nhà ảo thuật. Em mơ ước được khán giả vỗ tay khen, được mặc áo lót bằng lông thú và được những thiếu nữ đứng đợi em ở cửa rạp. Và em thề rằng khi nào đã thành một nhà ảo thuật nổi danh, em sẽ trở về diễn ở rạp đó.
Em nhỏ đó là Howard Thurston và hai chục năm sau em thực hành được đúng sở nguyện. Khi diễn xong, Thurston đi vòng ra sau rạp và tìm được tên mình khắc tại đó hồi còn là một trẻ bán báo đói, không nhà không cửa.
Lúc chết, vào năm 1936, Thurston đã thành ông vua trong nghề ảo thuật. Trong bốn chục năm cuối cùng, ông mấy lần đi khắp thế giới, tới đâu cũng làm khán giả say mê vì tài ông. Hơn sáu chục triệu người coi ông diễn và ông kiếm được gần 400.000 Anh kim.
Hồi ông gần mất, tôi được coi ông diễn một lần. Diễn xong, ông vô phòng thay đồ và kể cho tôi nghe hàng giờ về đời sống đầy chuyện ly kỳ lạ lùng không kém những ảo thuật của ông.
Lúc nhỏ, có lần ông bị cha đánh đập tàn nhẫn vì ông cho ngựa chạy mau quá. Ông tức giận, bỏ nhà ra đi. Cha mẹ ông tưởng ông chết, mãi năm năm sau mới được tin tức về ông.
Mà lạ lùng là sao ông không bị giết, vì ông đi lang thang, đeo vào những xe chở hàng, ăn xin, ăn cắp, ngủ trong lẫm lúa, trong đống cỏ khô hoặc trong những nhà hoang. Ông bị bắt mười hai lần, bị săn đuổi, chửi rủa, đánh đập, liệng từ trên xe xuống đất, có lần người ta nhắm ông mà bắn nữa.
Ông thành một chú nài, một tên cờ bạc. Năm mười bảy tuổi, ông trôi tới Nữu Ước, trong túi không có một xu mà không quen thuộc một ai. Rồi một việc xảy tới. Ông len lỏi vào một đám đông nghe một nhà truyền giáo giảng đạo.
Ông cảm động quá, từ hồi nhỏ chưa lần nào kích thích như lần đó. Ông thấy những tội lỗi của ông. Và ông bước lại bàn thờ, nước mắt ròng ròng trên má, ông xin vô đạo. Hai năm sau, tên du thủ du thực hồi trước đã đứng ở một góc đường tại Chinatown để giảng đạo.
Hồi đó ông sướng vô cùng, vừa làm việc vừa học đạo. Ông mười tám tuổi. Trước kia ông chưa được đi học trên sáu tháng; nhờ coi những chữ ghi trên các xe chở hàng, và trên đường xe lửa, rồi hỏi bạn cách đọc mà lần lần biết đọc. Nhưng ông không biết viết, không biết toán, cũng không biết đánh vần. Thành thử bấy giờ, ngày thì ông phải học đạo ở trường Bible School, và học tiếng Hi Lạp, học môn vạn vật, đêm thì phải học đọc, học viết, học toán.
Sau ông quyết định làm một nhà truyền đạo chuyên về y học, và sắp vô trường đại học Pennsylvania thì một việc nhỏ xảy ra làm đời ông thay đổi hẳn.
Đi từ Massachusetts tới Philadelphia, ông phải đổi xe lửa ở Albany. Trong khi đợi xe, ông vô một rạp hát coi Alexander Herrmann diễn trò ảo thuật. Ông từ trước vẫn thích ảo thuật, nên lần đó muốn được nói chuyện với Herrmann. Ông lại khách sạn, mướn một phòng sát phòng của Herrmann, ông đặt tai vào lỗ khóa nghe ngóng, đi đi lại lại ở hàng lang, rán thu hết can đảm để gõ cửa, nhưng không dám.
Sáng hôm sau, ông theo nhà ảo thuật ra ga, và đứng trân trân ngó Herrmann, vừa kinh, vừa sợ. Herrmann đi Syracuse; ông thì phải tới Nữa Ước, và đáng lẽ mua giấy đi Nữu Ước, thì ông lại mua lầm giấy đi Syracuse.
Sự lầm lộn đó thay đổi đời ông, làm ông đáng lẽ là một nhà truyền giáo thì thành một nhà ảo thuật.
Hồi ông đương thịnh, ông làm trò mà kiếm được mỗi ngày hai trăm Anh kim (...)
Ông bảo rằng nhiều người biết về ảo thuật cũng bằng ông. Vậy, ông thành công là nhờ cái gì?
Nhớ ít nhất là hai điều. Điều thứ nhất, ông có tài đem cá tính của ông lên sân khấu. Ông hiểu bản tính của con người, và ông cho rằng đức đó cũng quan trọng như sự hiểu biết về ảo thuật. Mỗi cử động của ông cả khi ông đổi giọng hoặc khi ông ngước mắt, đều được ông tính toán kỹ lưỡng từ trước, và làm đúng lúc, không sai một phần giây.
Điều thứ nhì là ông yêu khán giả. Trước khi kéo màn, ông nhảy nhót ở hậu trường sân khấu, cho thêm phần hăng hái... Và luôn luôn tự nhủ: "Tôi yêu khán giả, tôi muốn làm họ vui. Tôi sung sướng. Tôi sung sướng".
Ông biết rằng nếu ông không sung sướng thì không làm cho người khác vui thích được.
 Dale Carnegie
Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...