Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2021

40 gương thành công 3

40 gương thành công 3

Chương 27
Đại Tá Robert Falcon Scott

Tôi chưa thấy truyện nào kích thích hơn, có những nét anh hùng mà bi thảm hơn đời đại tá Robert Falcon Scott, người thứ nhì đã tới Nam cực. Cái chết của ông và hai bạn ông ở Ross còn làm cho nhân loại cảm động.
Tin ông mất tới nước Anh vào một buổi chiều nắng ráo tháng hai 1913. Cây ky phù lam nở đầy bông ở vườn Regent Park. Dân tộc Anh choáng váng như tin Nelson mất ở Trafalgar thời trước.
Hai mươi hai năm sau, nước Anh dựng một viện kỷ niệm Scott, một viện khảo cứu lưỡng cực, viện thứ nhất về loại đó trên thế giới. Ngay trên cửa viện có một hàng chữ: "Người tìm những bí mật của Nam Cực và Người đã tìm thấy những bí mật của Thượng Đế".
Scott bắt đầu cuộc thám hiểm ở Terra Nova, và từ khi tầu ông tiến vào cõi băng tuyết là sự rủi ro cứ theo riết, quấy phá ông hoài.
Những ngọn sóng vĩ đại đập vào tàu đánh trôi hết những hàng hóa ở trên boong xuống biển. Hàng tấn nước biển ào ào như sấm, cuồn cuộn chảy vào hầm tàu. Nước tràn cả vào lò lửa đốt nồi súp de. Máy bơm hóa vô dụng. Và mấy ngày như vậy, chiếc tàu hùng dũng cứ lăn ở giữa những làn sóng, trên mặt biển tung tóe, không cách gì cứu được.
Nhưng sự rủi ro nào đã hết đâu. Đó mới chỉ là những bước đầu.
Ông đem theo mấy con ngựa nhỏ khỏe mạnh đã quen chịu lạnh ở miền băng tuyết xứ Sibérie; nhưng lúc đó chúng hấp hối, dãy dụa trên băng tuyết, cẳng thì gẫy vì thụt xuống hố; thành thử ông phải bắn cho chúng chết.
Tới chó cũng vậy. Ông dắt theo toàn là giống chó mạnh khỏe ở Yukon, mà chúng hóa ra như khờ dại, cứ nhắm mắt chạy trên bờ những lỗ nẻ trong băng.
Thành thử Scott và bốn người bạn đồng hành phải thay ngựa, thay chó, kéo một chiếc xe lướt tuyết nặng nửa tạ, thui thủi trên đường tới Nam cực. Ngày lại ngày, họ mắm môi mắm lợi tiến trong cánh đồng băng tuyết, hổn hển đẩy hoặc kéo, nghẹt thở vì không khí lạnh và loãng ở một nơi cao, cách mặt biển ba ngàn thước.
Vậy mà họ không phàn nàn. Vì ở cuối con đường đau khổ đó, họ sẽ thấy sự thành công, sẽ thấy Nam cực huyền bí, nằm yên lặng từ hồi khai thiên lập địa tới nay. Nam cực, nơi mà không có lấy một sinh vật, cả đến bóng một con hải âu lạc bầy cũng không có.
Và tới ngày thứ mười bốn, họ tới được Nam cực. Nhưng họ sửng sốt và đau lòng làm sao! Trước mặt họ, ở đầu một cây gậy, một miếng vải rách phất phới bay trong gió lạnh. Họ nhìn kỹ thì là một ngọn cờ, ngọn quốc kỳ của Na Uy, Amundsen, người Na Uy, đã tới trước họ! Thành thử, sau mấy năm dự bị, sau mấy tháng đau khổ, họ đã thất bại chỉ vì trễ mất năm tuần lễ.
Chán nản, họ trở về.
Cuộc chiến đấu lâm ly trên đường về đáng là một khúc ngâm đoạn trường. Gió lạnh buốt tới xương, áo họ đầy tuyết và râu họ đó băng. Họ lảo đảo té: mỗi vết thương đưa họ tới gần cõi chết hơn một chút. Trước hết, sĩ quan Evans, người lực lưỡng nhất trong đoàn, trượt chân, té, đầu đập vào băng, chết tươi.
Rồi tới đại táOates đau. Chân ông bị lạnh quá, nứt ra. Ông đi không nổi. Ông biết rằng mình làm chậm việc hồi hương của các bạn. Cho nên, một đêm ông làm một việc chỉ thần thánh mới làm nổi. Giữa cơn dông tuyết gầm thét, ông rời bạn bè, đi ra ngoài trời để chết cho các bạn sống.
Không làm bộ anh hùng, cũng không tỏ vẻ quan trọng, ông bình tĩnh bảo các bạn: "Tôi ra ngoài một chút". Rồi ông đi luôn. Không ai tìm thấy xác chết cóng của ông. Nhưng hiện nay một đài kỷ niệm được dựng tại chỗ ông ra đi, trên đài có hàng chữ: Ở khoảng này, một vị trượng phu anh hùng đã lìa đời.
Scott và hai bạn còn lại lảo đảo tiến. Họ không còn ra vẻ con người nữa. Mũi, ngón tay, chân đều nứt nẻ vì lạnh. Và ngày mười chín tháng hai năm 1912, nghĩa là mười lăm ngày sau khi họ rời Nam cực, họ cắm trại lần cuối cùng. Họ còn đủ than để nấu hai chén trà, và đủ thức ăn cho hai ngày. Họ tin rằng họ sẽ thoát chết vì chỉ còn khoảng hai chục cây số nữa là tới một chỗ mà họ đã chôn thức ăn trong lúc đi. Rán sức: ghê gớm thì tới được.
Thình lình tai nạn thê thảm xảy ra.
Từ chân trời, một cơn dông tuyết gào thét, ào ào thổi tới, mạnh tới nỗi cắt ngang những chỏm băng. Trên trái đất không có sinh vật nào tiến trong cơn dông tuyết đó mà sống nổi. Scott và hai bạn đành ngừng bước, nằm trong lều mười một ngày nghe dông gầm. Thức ăn đã hết. Tất chết. Họ biết rằng họ phải chết.
Có một cách để chết, một cách êm ái. Họ mang theo nha phiến để phòng những lúc cần phải chết như lúc này. Nuốt một phân lượng lớn là họ nằm đó, lơ mơ mộng thích thú rồi ngủ luôn.
Nhưng họ không thèm dùng nha phiến. Họ quyết nhìn thẳng vào cái chết một cách trượng phu đặc biệt của nước Anh thời cổ.
Trong giờ cuối cùng của đời ông, Scott viết một bức thư tả cảnh chết cho ông James Barrie. Thức ăn hết đã lâu. Thần chết đã lởn vởn ở trong lều. Vậy mà Scott viết:"Nếu ông nghe được chúng tôi ca vang cả lều thì lòng ông chắc cũng vui vui".
Tám tháng sau, một ngày nọ, trong khi mặt trời Nam cực yên lặng chiếu sáng cảnh băng tuyết lấp lánh, mênh mông, một đoàn người kiếm được thi hài của ba vị anh hùng đó.
Người ta chôn ba vị ở ngay chỗ ba vị lìa trần, chôn dưới một thánh giá làm bằng hai cái pa tanh cột với nhau. Và trên nấm mồ chung đó, người ta viết những vần thơ này của Tennyson:
Có tính bình tĩnh của những tâm hồn anh hùng,
Thì mặc dầu thời vận, số mạng làm cho yếu nhưng chí vẫn mạnh.
Để phấn đấu, tìm tòi, thấy, chứ không chịu khuất phục.
Chương 28
Al Smith
Năm mươi tám năm trước, một người lái xe cam nhông chết ở Nữu Ước. Ông ta quê quán ở Ái Nhĩ Lan, đã đau từ lâu, phải bỏ nghề lái xe mà làm nghề gác đêm. Khi ông mất, nhà nghèo tới nỗi bạn bè phải góp nhau mỗi người một ít mua cho ông cỗ quan tài. Ông để lại vợ góa và hai con. Bà vợ mơ mộng những chuyện xa xôi, quyết chí cho con đi học, tới đâu hay tới đó. Bà xin được một việc trong một hãng làm dù và làm mười giờ một ngày. Mặc dầu vậy, tiền công không đủ ăn, bà phải đem đồ ở hãng về nhà làm thêm tới mười, mười một giờ đêm. Thành thử người mẹ đó làm quần quật mười bốn mười lăm giờ một ngày để nuôi con.
Đáng thương tâm làm sao! Bà không vén được tấm màn tương lai để mà thấy trước rằng một ngày kia người con nhỏ của bà làm Thống Đốc tiểu bang Nữu Ước, không phải một lần mà là bốn lần, lâu hơn hết thảy những Thống Đốc trước.
Đáng thương tâm làm sao! Người đó không thể thấy trước rằng năm 1928, con bà là ứng cử viên của đảng Dân Chủ để tranh chức Tổng thống.
Đáng thương tâm làm sao! Bà không được biết trước rằng ngày mùng 5 tháng 5 năm 1944, tờ báo New York Times gọi con bà là "công dân được nhiều người mến nhất ở Nữu Ước".
Vì Al.Smith chính là người con cưng của thành phố lớn nhất châu Mỹ (...)
Một lần tôi hỏi ông đi học được bao lâu. Ông ngập ngừng một chút rồi nói: "Để tôi tính - để tôi tính...Tôi không nhớ rõ lắm. Tôi sanh năm 1873, tôi đoán rằng tôi được đi học khoảng bảy hay tám năm, nhưng tôi không chứng thực được điều đó. Tôi không được bằng cấp nào hết mà cũng không có tấm giấy nào chứng tỏ rằng tôi đã đi học".
Vâng, Alfred Emmanuel Smith không có miếng giấy nào chứng tỏ rằng ông đã đi học, nhưng ông có những tờ giấy chứng tỏ rằng ông được sáu trường đại học lớn, trong số đó có trường Columbia và trường Harvard, tặng ông học vị danh dự vì những thành công xuất chúng của ông về chính trị và lòng hy sinh của ông cho nhân loại.
Tôi hỏi ông có buồn vì lẽ không được vô đại học không. Ông đáp không. Ông bảo rằng người nào muốn tiến lên những bực cao trong chính giới thì phải có tài đắc nhân tâm, phải biết cách cư xử ở đời, mà ông cảm thấy rằng có lẽ khi vác đồ ở các chợ tại đường Fulton và khi làm thừa phát lại trong tám năm, ông đã học được về cách xử thế nhiều hơn là nếu ông học trong một trường đại học.
Hồi mười tuổi, ông ở trong nhạc đội nhà thờ, mùa lạnh cũng phải dậy sớm từ năm giờ để hầu lễ vào sáu giờ.
Năm hai mươi hai tuổi, ông bán báo ở bến tàu. Lúc rảnh ông chơi dã cầu ở dưới gầm cầu Brooklyn Bridge... Nhưng ông thích nhất là được lái xe cứu hỏa. Ông chỉ mong được làm lính cứu hỏa, nên sống chung với lính cứu hỏa, ca múa cho họ vui. Và khi có chuông kêu cấp cứu thì ông chụp lấy bình cà phê và hộp bánh luôn luôn để sẵn ở cửa sổ, can đảm leo lên xe cứu hỏa khi xe bắt đầu phóng trong thành phố (...)
Năm ông mười bốn tuổi, một việc xảy ra, định hướng cho đời ông. Ông thắng được một cuộc tranh biện trong trường. Sự thành công đó đưa ông lên sân khấu và làm tăng lòng tự tin của ông. Ông được mời vào hội Saint James Players, một hội tài tử diễn kịch để giúp cô nhi viện. Ông thành công. Khán giả thích nụ cười và thiên tài của ông.
Chẳng bao lâu ông thành ngôi sao và linh hồn của hội. Ông thích cuộc đời sân khấu đó quá! Nó đưa ông qua một thế giơi khác. Ban ngày ông làm mười hai giờ ở chợ cá Fulton Street để lãnh mỗi tuần trên hai Anh kim; Nhưng ban đêm ông sống trong cái thế giới sân khấu rực rỡ ánh đèn và phấn son. Ban đêm ông thành một anh hùng, một nghệ sĩ, lòng nở ra khi khán giả vỗ tay khen. Ông đóng những vai quan trọng nhất trong các kịch May Blossom, The Confederate Spy, the Ticketof Leaveman và The Almighty Dollar. Nhờ kinh nghiệm trên sân khấu, ông tập được tài ăn nói dễ dàng và tự nhiên trước thính giả, tài chỉ huy một đám đông. Ít lâu sau ông diễn thuyết về chính trị, trên một chiếc xe cam nhông, giữa đám quần chúng ở các góc đường. Hồi đó, ông là một người lao động, làm chật vật trong một xưởng chế tạo máy bơm ở Brookly; nhưng trong khi ông ngồi ăn bánh của bà thân ông làm và gói mang theo tới hãng, ông đã mơ mộng một ngày kia được bầu là nghị sĩ tiểu bang Nữu Ước. Mộng đó sau thực hiện được, nhưng ông còn phải trải qua một thời làm thừa phát lại.
Trong tám năm ông viết trát kêu người ta đi hầu tòa. Nhờ công việc đó, ông tiếp xúc với đủ hạng người, từ anh bán bánh, bán thịt tới các nhà lý tài ở Wall Street. Ông học được nhiều kinh nghiệm về bản chất con người và tập được tánh nhẫn nhục chịu sự ngược đãi vì hai chục phần trăm những người ông đem trát tới, tố cáo và nguyền rủa ông.
Tháng giêng năm 1904, khi ông tới Albany lãnh chức nghị viên viện lập pháp, ông ba chục tuổi. Trong ba chục năm đó ông chưa lần nào ngủ ở khách sạn. Đêm ấy ông lại khách sạn, vô phòng và đọc một tờ báo ra buổi chiều, đăng tin một đám cháy tại một khách sạn Chicago làm nhiều người chết. Trời lạnh, nhiệt kế biểu xuống tới mười sáu độ dưới số không. Đọc những chi tiết rùng rợn về đám cháy, ông không khỏi nghĩ tới những người mà ông thấy chất củi trong lò sưởi khách sạn ông ở. Một khách sạn bằng gỗ. Ông ở trên từng lầu thứ bảy. Nếu cháy thì không có cách nào thoát được. Ông thống đốc tương lai của Nữu Ước không ham cái nạn bị chết cháy, nhất là trong đêm đầu tiên ông ở khách sạn, cho nên ông đánh thức một người bạn để chơi bài tiêu khiển với ông tới năm giờ sáng. Rồi hai người mới thay phiên nhau ngủ, cứ mỗi người ngủ một giờ rồi dậy canh cho người kia ngủ, để khỏi bị chết cháy.
Mấy năm đầu ở Albany ông điên đầu vì những công việc trong viện Lập pháp. Ông hết sức nghiên cứu các dự án về luật mà chẳng hiểu gì cả, vì những dự án đó dài dòng, rắc rối và tối tăm đối với ông, như thể viết bằng tiếng Ấn Độ. Lại thêm người ta giao cho ông những trọng trách mà ông chưa biết chút gì, người ta bầu ông vào Ủy ban về Ngân hàng mà ông chưa hề tới một ngân hàng nào, trừ phi để giao trát kêu một vài chủ ngân hàng đi hầu tòa. Người ta lại bầu ông vào Ủy ban về Lâm sản mà ông cũng chưa hề đặt chân vào một khu rừng nào. Sau khi làm việc ở viện Lập pháp mười lăm tháng ông thất vọng đến nổi muốn bỏ. Nhưng ông không bỏ, chỉ vì một lẽ là nếu chịu thua thì sẽ mắc cỡ với mẹ và bạn bè, sau cùng ông tự nhủ: "Mình đã thắng được trong những vấn đề khác thì sẽ thắng được trong vấn đề này".
Từ đó trở đi ông làm việc mười sáu giờ một ngày, nghiên cứu các dự án, cách thức thảo luật. Người ta bảo ông là người thứ nhất không khi nào chịu chấp thuận một đạo luật nào mà không đọc và hiểu kỹ mỗi khoản trong đó, dầu nó có đến cả ngàn khoản. Ông nhất định dùng tiền của những người đóng thuế cũng kỹ lưỡng như tiêu tiền của ông. Nếu bộ nào cần một người thư ký thì ông đòi biết thư ký đó vào hạng nào, sẽ làm công việc gì và tại sao lại phải cần dùng đến họ.
Chín năm sau khi tới Albany, ông làm chủ tịch viện Dân biểu của tiểu bang và chắc chắn biết nhiều về việc nước hơn bất cứ người nào khác, nên mọi chính khách phải khâm phục ông.
Hỏa hoạn tai hại phát ở một xưởng tại Nữu Ước năm 1911, làm cho ông cũng như mọi người kinh khủng: 148 nạn nhân bị cháy thành than, phần đông là đàn bà và trẻ con, có nhiều người nhảy từ từng lầu thứ bảy xuống đất, chết tan xương. Từ đó Al Smith thành lập một thập tự quân chiến đấu cho những điều kiện làm việc được hoàn hảo hơn; ông giúp được nhiều trong việc cải thiện luật lao động của tiểu bang Nữu Ước, trừ hỏa hoạn, trừ cái tệ bắt trẻ con làm việc trong các nhà máy, bắt thợ làm việc cả bảy ngày mỗi tuần, và tệ trả công rẻ mạt, ông đặt ra những luật để giảm tai nạn, và cải thiện vệ sinh cho công nhân. Những luật xã hội đó được nhiều tiểu bang khác và nhiều nước phỏng theo.
Bốn chục năm trước, khi Tom Foley đưa Al. Smith vào viện Lập pháp, có khuyên Al. Smith: "Anh Al, anh đừng bao giờ hứa một điều gì mà anh không giữ được, và có nói điều gì thì luôn luôn phải cho đúng sự thực".
Chẳng những Al. Smith nói đúng sự thực mà còn chiến đấu cho sự thực bất kỳ ở trong địa vị nào.
Chương 29
H. G. Wells
Gần bảy mươi lăm năm trước, một bọn trẻ em đương chơi trên đường ngoại ô Luân Đôn, thì một tai nạn xảy ra. Một trong những đứa lớn nhất nắm lấy một đứa nhỏ, tên là Bertie Wells, rồi liêng lên trời nhưng khi đứa nhỏ rớt xuống, đứa lớn không đỡ, thành thử đứa nhỏ gẫy chân.
Trong mấy tháng Bertie nằm quằn quại trên giường, với một vật nặng cột vào chân. Nhưng xương không lành. Phải gỡ ra bó lại. Đau đớn ghê gớm. Em bé Bertie la hoảng, tưởng chết được.
Tai nạn đó bi thảm, nhưng Bertie sống được và nhờ nó mà sau thành một nhà văn nổi tiếng nhất thế giới. Bút danh của ông không phải là Bertie mà là Herbert George Wells, hoặc H. G. Wells. Chắc bạn đã đọc vài cuốn của ông? Ông viết trên bảy mươi lăm cuốn: và chính ông nhận rằng tai nạn gẫy chân đó có lẽ là điều hay nhất cho ông. Sao vậy? Tại ông phải nằm nhà trọn một năm và không làm được việc gì khác nên đành nghiến ngấu bất kỳ cuốn sách nào ông kiếm được. Kết quả thành ra ông thích đọc sách, thích văn chương. Ông bị kích thích. Ông cảm hứng. Ông nhất định vượt lên khỏi cảnh tầm thường vô vị ở chung quanh. Cái chân gẫy đó đã đổi hướng cho đời ông.
H. G. Wells là một trong những nhà văn mà tiền nhuận bút cao nhất. Nhờ cây bút, có lẽ ông đã kiếm được hai trăm ngàn Anh kim; nhưng hồi nhỏ ông đã khốn đốn trong cảnh bần hàn. Thân phụ ông là một nhà nghề chơi cầu "Cricket" và mở một tiệm đồ gốm, buôn bán lỗ lã, cửa hàng rung rinh muốn sập. H. G. Wells sanh trong một phòng nhỏ tại cửa tiệm đó. Bếp ở trong một cái hầm, tối om dơ dáy mà ánh sáng chỉ lọt vào được nhờ một lỗ nhỏ có lưới sắt ở trên trần. Sau này nhớ lại tuổi thơ ấu, ông còn thấy rõ ông hồi đó ngồi trong bếp tối mà nghe tiếng chân người lướt trên lưới sắt trên đầu. Ông tả những bước chân đó và chỉ cho ta cách nhìn giày mà xét người ra sao.
Sau cùng tiệm đồ gốm sập. Gia đình ông tuyệt vọng. Thân mẫu ông phải xin làm quản gia cho một điền chủ lớn ở Sussex. Tất nhiên, bà cụ phải sống chung với bọn đầy tớ. H. G. Wells thường thường tới thăm mẹ, và bắt đầu được biết qua đời sống của hạng thượng lưu Anh do hạng tôi tớ kể lại.
Tác giả bộ Đại cương Lịch Sử Thế Giới (The Outline of History) Hồi mười ba tuổi đã bắt đầu giúp việc cho một người bán nỉ. Ông phải dậy từ năm giờ sáng, quét dọn cửa hàng, nhóm lửa, làm việc như mọi người bốn giờ một ngày. Thực là vất vả, nên ông khinh ghét đời đó lắm. Cuối tháng, chủ tiệm tống cổ ông ra vì ông đầu tóc bù xù, quần áo xốc xếch mà lại hay quấy rầy.
Sau khi ông xin được việc trong một tiệm bào chế. Và cũng chỉ được một tháng là bị tống cổ ra nữa.
Sau cùng ông vào làm một tiệm nỉ khác. Ông cần phải kiếm ăn, nên lần này rán chịu đựng được lâu hơn một chút. Nhưng hễ vắng mặt người gác, là ông lẩn xuống hầm để học Herbert Spencer.
Sau hai năm, ông không chịu được đời đó nữa, cho nên một buổi sáng chủ nhật, không đợi ăn điểm tâm, bụng rỗng, ông đi hơn ba chục cây số về với bà cụ. Ông điên cuồng. Ông năn nỉ bà cụ. Ông khóc lóc. Ông thề rằng nếu phải ở lại trong tiệm đó nữa thì ông sẽ tự tử.
Rồi ông viết một bức thư dài, cảm động cho thầy học cũ kể lể rằng ông khốn khổ, đứt ruột, chỉ muốn chết cho rảnh.
Và ông vô cùng ngạc nhiên khi nhận được thư của thầy học cũ cho ông một chỗ dạy học.
Ông cuống cuồng lên! Đời ông đã tới một khúc quẹo khác.
Nhưng H. G. Wells về già, thường kể bằng giọng trong và lớn của ông rằng những năm dài đằng đẳng làm vất vả, cực khổ ở tiệm bán nỉ, thực ra là cái phước cho ông. Ông bẩm sinh biếng nhác, và chủ tiệm đã tập cho ông chịu khó nhọc làm lụng.
Sau ít năm dạy học, một tai nạn xảy đến thình lình như bom nổ. Việc xảy ra như sau. Ông đương đá banh, đương hăng hái thì bị xô té, người ta giẫm lên người ông, ông gần chết. Một trái thận của ông nát nghiến ra và phổi bên mặt lủng. Máu xối ra, ông xanh mét. Các bác sĩ hết hy vọng; và trong mấy tháng, ông nằm mà lo sợ sẽ không sao thoát chết được. Trong mười hai năm sau, mười hai năm ghê gớm, ông bám lấy đời sống, thân gần như tàn tật; nhưng chính trong mười hai năm đó, ông đã luyện được một cái tài làm ông nổi danh khắp thế giới.
Năm năm trường ông viết như điên như cuồng. Sách, bài báo, tiểu thuyết ông viết ra hồi đó đều nhạt nhẽo, vụng về. Và ông có đủ lương tri để nhận thấy điều đó. Cho nên viết xong, ông đốt hết.
Sau cùng, mặc dầu gần như tàn tật, ông xin được một chỗ dạy học khác. Trong lớp sinh vật học, có một nữ sinh xinh đẹp. Tên nàng là Catherine Robbins. Nàng mảnh khảnh, ốm yếu. Mà ông cũng ốm yếu, mảnh khảnh. Cả hai đều không hy vọng gì sống lâu, đều muốn nắm lấy tức thì tất cả những hạnh phúc mà họ có thể tìm được. Thế là họ cưới nhau.
Vệc đó xảy ra cách đây khoảng năm chục năm; lạ thay, Wells đã không chết, lại còn mạnh lên, thành một người đầy sinh lực, và mỗi năm gọt đẽo được hai cuốn sách dầy, những cuốn sách mà ánh sáng chiếu tỏa lên khắp thế giới cho tới khi ông mất, năm 1946.
Trong óc ông bừng bừng những ý mới. Ông thường nửa đêm thức dậy chép tư tưởng của ông vào một cuốn sổ tay. Và con người biếng nhác bị một chủ tiệm bán nỉ tống cổ ra vì bất lực đó, đã thâu thập được biết bao tài liệu trong những cuốn sổ tay, giá có dùng để viết sách hoài trong một trăm rưỡi năm cũng không hết.
Ông có tài ngồi ở đâu cũng viết được: trong phòng viết của ông ở Luân Đôn, trong toa xe lửa hay dưới bóng một cây dù trên bờ Địa Trung Hải mà màu nước xanh mê hồn.
Ông mướn hai biệt thự ở Nice, một làm chỗ viết, một làm nơi tiếp khách. Ông viết suốt ngày, chỉ chuyện trò với khách buổi tối, và hết thảy bạn bè đều mến ông.
Chương 30
Anh Em Mayo
Nếu một cơn dông tố không tàn phá một thị trấn ở Minnesota cuối thế kỷ trước thì có lẽ nhân loại không được hưởng một phát minh vào hạng quan trọng nhất trong lịch sử y học.
Thị trấn bị tàn phá đó, Rochester, ngày nay nổi danh nhờ hai anh em Mayo, hai nhà giải phẫu có tài nhất ở Hoa Kỳ. Hai ông ở Rochester và phát minh của bác sĩ C. H. Mayo đã giúp y học trị được vài thứ bệnh thần kinh. Hiện nay ông còn tiếp tục nghiên cứu phát minh đó. Ông đã tìm được một thứ thuốc tiêm vô mạch máu, làm thay sự tuần hoàn và do đó óc được bình tĩnh lại.
Hai anh em ông được khắp thế giới bết tên. Nhiều y sĩ từ Ba Lê, Luân Đôn, Bá Linh, La Mã, Leningrad, Đông Kinh tới Rochester để học phương pháp của hai ông. Mỗi năm sáu ngàn bịnh nhân đã vô phương cứu chữa lại dưỡng đường Mayo với tấm lòng tin tưởng như tín đồ hành hương tại đất thánh.
Vậy mà như tôi đã nói, nếu dông tố không tàn phá miền Middle West ở cuối thế kỷ trước thì thế giới có lẽ không bao giờ được nghe tên hai anh em Mayo và cũng không biết phhương thuốc của hai ông.
Khi bác sĩ Mayo, thân phụ của hai ông, tới lập nghiệp ở Rochester vào khoảng giữa thế kỷ trước, thì nơi đó có không đầy hai ngàn dân. Ngày đầu cụ chữa bệnh cho một con bò và một con ngựa. Khi dân da đỏ nổi loạn, cụ nổ súng mút để hạ chúng rồi đợi khói súng tan hết, cụ đi khắp bãi chiến trường chôn cất những người chết và săn sóc những người bị thương. Thân chủ của cụ ở rải rác trên năm chục cây số trong đồng cỏ Mimesda. Phần đông họ sống trong những nhà vách trát bùn. Họ nghèo quá, không có tiền trả cụ, mà cụ cũng vẫn nữa đêm đi thăm bệnh cho họ; có khi phải mò đường trong những cơn bão tuyết mù mịt tới nỗi, giữa ban ngày, đưa tay ra trước mặt cũng không trông thấy.
Cụ có hai người con, William và Charles, tức hai anh em Mayo. Hai ông vừa giúp việc cho một tiệm bào chế trong miền, cân thuốc, tán thuốc, hoàn thuốc, vừa theo học trường y khoa. Rồi một tai nạn xảy ra, làm tương lai của ông thay đổi hẳn. Một cơn dông tố tàn phá cánh đồng Minisota, như quỉ thần giận dữ muốn phạt dân cư miền đó. Cơn dông tới đâu thì nhà cửa, cây cối tan tành sụp đổ tới đó. Châu thành Rochester bị cuốn đi như một cọng rơm. Hằng trăm ngàn người bị thương, hai mươi ba người chết. Luôn mấy ngày, ba cha con Mayo đi băng bó, mổ xẻ các nạn nhân trên những nền nhà hoang tàn. Bà Phước nhất Alfred, ở nhà tu Saint Francois thấy ba cha con Mayo tận tâm như vậy, cảm động hứa sẽ cất một dưỡng đường nếu họ chịu đứng ra trông nom. Họ bằng lòng và khi khánh thành dưỡng đường Mayo năm 1889 thì bác sĩ Mayo đã bảy chục tuổi mà hai người con chưa làm trong nhà thương nào cả. Vậy mà ngày nay ông William Mayo người anh cả được coi là nhà chuyên môn giỏi nhất về bệnh ung thư. Cả hai anh em đều nổi tiếng về khoa giải phẫu mà người nào cũng khen người kia là hơn mình. Hai ông mổ xẻ rất nhanh, tới dưỡng đường bảy giờ sáng và mổ xẻ không ngừng tay mỗi ngày bốn giờ cho từ mười lăm đến ba mươi bệnh nhân. Vậy mà hai ông vẫn tiếp tục học hoài để cải thiện phương pháp và tuyên bố rằng còn phải học thêm nhiều. Cả thành phố Rochester sống nhờ dưỡng đường Mayo và cho dưỡng đường Mayo. Xe hơi, xe ô tô buýt, mọi loại xe đều không bóp kèn trong thành phố đó.
Đó là gương hai người thường dân một tỉnh nhỏ, hai người không nghĩ đến tiền mà đã gây được một gia sản khổng lồ. Hai người không nghĩ đến danh vọng mà thành những nhà giải phẫu nổi danh nhất Hoa Kỳ.
Hai anh em ông không cần lại Nữu Ước để làm giàu, cứ rèn luyện tài của mình trong một thành phố nhỏ mà tự nhiên được thần tài tới gõ cửa để thưởng công.
Trong phòng khách, trên bàn giấy, có treo một tấm khung lồng câu này: "Nếu ông có một vật mà thế giới đòi hỏi thì ông có thể ở giữa rừng thẳm: luôn luôn người ta sẽ phá rừng xây đường vào tới cửa nhà ông". Câu đó tóm tắt một luật bất di bất dịch của sự thành công.
Chương 31
Clarence Darrow
Cách đây gần ba phần tư thế kỷ, một cô giáo bạt tai một em nhỏ vì em đó không chịu ngồi yên trong lớp, cựa quậy, vặn vẹo người hoài. Cô bạt tai em trước mặt những em khác, làm em bị nhục đến nỗi em la khóc trên suốt con đường về nhà. Lúc đó em mới năm tuổi mà đã thấy rằng cô giáo đối với em quá tàn nhẫn và bất công, em sinh oán ghét sự tàn nhẫn và bất công, sau này chiến đấu suốt đời để diệt hai cái đó.
Tên em nhỏ đó là Clarence Darrow, nhà cố vấn về hình luật danh tiếng nhất đương thời ở châu Mỹ. Tên ông thường chiếu rực rỡ bằng chữ lớn trên hàng đầu trang một của mọi tờ nhật báo trong xứ. Ông là một chiến sĩ bênh vực cho những kẻ bị ức hiếp.
Các ông già bà cả ở Ashtabula, xứ Ohio, hiện nay còn nhắc lại vụ kiện thứ nhất ông đã cãi. Việc rất tầm thường, chỉ là bênh vực người làm chủ một bộ yên ngựa cũ có giá trị một Anh kim. Nhưng đối với Clarence Darrow, đó là một vấn đề nguyên tắc phải theo đúng. Con rắn độc bất công đã ngóc đầu lên thì ông phải tấn công nó, như tấn công con hổ ở Ấn Độ vậy. Thân chủ ông chỉ trả ông có một Anh kim, ông bỏ thêm tiền túi ra để bênh vực người đó tại bảy tòa án trong bảy năm trời và thắng kiện.
Darrow nói rằng không bao giờ ông ham tiền bạc hay danh vọng. Ông tự cho mình là một thằng tướng đại lãn. Mới ra đời, ông dạy học. Một hôm một việc xảy ra, thay đổi hẳn đời ông. Trong châu thành có một người thợ rèn lúc nào rảnh việc đóng móng ngựa thì học luật. Clarence Darrow nghe người đó biện hộ trong một vụ tranh chấp tại một tiệm thợ thiếc, bị lời lẽ hoạt bát và hùng hồn của người nhà quê đó làm cho mê mẩn. Ông cũng muốn tranh biện được như họ nên ông hỏi mượn những sách luật của người thợ rèn và bắt đầu học luật. Mỗi sáng thứ hai ông thường mang sách luật lại trường để học trong khi học trò ông học địa lý và toán.
Ông nhận rằng nếu không có một chuyện kích thích ông hoạt động thì suốt đời ông chỉ là một nhà cố vấn pháp luật ở làng.
Hai vợ chồng ông tính mua một căn nhà nhỏ ở Ahstabula, xứ Ohio của một nha y. Giá tiền là bảy trăm Anh kim. Ông rút hết số tiền gởi ngân hàng ra, được một trăm Anh kim, trả cho chủ nhà, còn bao nhiêu xin góp lần làm nhiều năm. Việc thu xếp đã gần xong thì vợ người nha y đó không chịu ký văn tự.
Mụ tỏ vẻ khinh bỉ, bỉu môi nói:
- Này chú, tôi tin rằng suốt đời, chú cũng không kiếm ra được bảy trăm Anh kim đâu.
Darrow nổi dóa, nhất định không chịu ở một tỉnh có hạng người như vậy nữa. Và ông phủi chân cho hết đất bụi ở Ashatabula, mà lại Chicago.
Năm đầu ở Chicago ông kiếm được có sáu chục Anh kim, không đủ trả tiền mướn phòng. Nhưng năm sau ông kiếm được gấp mười số đó, sáu trăm Anh kim nhờ làm luật sư đặc biệt cho châu thành.
Ông nói: Khi đời tôi bắt đầu thay đổi thì tôi thấy mọi sự may mắn tới dễ dàng và nhanh chóng quá. Không bao lâu ông làm phó Chưởng lý cho công ty xe lửa Chicago and North Western, và tiền vô như nước. Lúc đó một vụ đình công bùng nổ. Oán thù! Rối loạn! Đổ máu.
Cảm tình của Darrow về phía người đình công. Khi Eugene Debs người cầm đầu công ty xe lửa bị đem ra xử, Darrow bỏ việc một cái một, và đáng lẻ bênh vực công ty thì ông bênh vực thợ thuyền. Đó là vụ cãi sôi nổi nhất của Darrow mà mỗi vụ cãi của ông đều là trụ đá ghi con đường trong lịch sử tòa án. Chẳng hạn vụ Leopold và Loed tự thú đã giết em bé Bobby Franks. Dư luận bất bình vô cùng, ghê tởm vì sự tàn nhẫn của kẻ sát nhân đến nỗi khi Clarence Darrow đứng bênh vực hai tên đó, ông bị công chúng chửi rủa, hành hạ gọi là thằng giết người. Mà tại sao ông lại làm như vậy? Ông nói "Dù quần chúng oán ghét tôi, tôi cũng làm. Tôi không muốn cho một thân chủ nào của tôi bị tội xử tử hình, và nếu họ bị xử tử hình thì tôi có cảm tưởng rằng tôi cũng gần như chết vậy. Không bao giờ tôi có thể đọc được một tin tử hình. Tôi luôn luôn đi khỏi châu thành trước ngày xử tử. Tôi kịch liệt chống lại sự tử hình".
Ông nói rằng xã hội sinh ra tội nhân và bất kỳ người nào cũng có thể mắc tội này hay tội khác.
Chính ông đã từng trãi, biết cảnh bị tòa xử mình rồi. Có lần ông bị buộc tội là hối lộ quan tòa, và ông phải đem hết tài hùng biện ra tự bênh vực. Nhưng lần đó ông thấy được một tấm lòng biết ơn cảm động nhất trong đời ông. Một thân chủ cũ của ông gặp ông, nói:" Khi tôi mắc nạn, ông cứu cho tôi khỏi bị thắt cổ, mà nay ông mắc nạn, tôi không giúp lại ông được gì. Làm sao giết được đứa đã làm chứng gian để vu oan cho ông?"
Mấy năm trước, ông đã xuất bản một cuốn kể đời ông, và tôi còn nhớ đã thức rất khuya để đọc chương trong đó ông vạch nhân sinh quan của ông. Ông viết:
"Tôi không biết chắc tôi đã làm được nhiều hay ít. Tôi đã lầm lỗi trên con đường của tôi, và tôi đã cướp được của định mạng bủn xỉn càng nhiều nỗi vui càng tốt. Công việc ngày nào đủ cho ngày ấy, miễn là ta không quên hướng đi và cái đích trên đường đời. Tôi không thấy được rằng tôi đã già. Tôi mới bắt đầu đi trên đường đời đây mà, với tất cả thế giới và thời gian vô biên ở trước mặt; mà bây giờ cuộc hành trình đã gần xong và ngày đã gần tàn.
Nhưng quãng đường tôi đã giẫm chân lên ngắn biết bao so với quãng đường vô cùng tôi chưa bước tới".
Chương 32
Eđie Rickenbacker
Đây là truyện một người cơ hồ không có gì làm cho chết được, một người đã thách tai biến, đã đùa cợt với thần chết trong một phần tư thế kỷ. Ông đã chạy vù vù trên đường đua, với một tốc lực làm rợn tóc ráy, trong hơn hai trăm cuộc đua xe hơi; và trong những ngày đổ máu năm 1918, ông bắn rớt hai mươi sáu máy bay Đức, bắn rớt ở trên không trung, trong khi đạn vèo vèo nổ ở bên tai ông; vậy mà không bao giờ ông bị một vết trầy da nào gọi là có.
Ông tên là Eddie Rickenbacker, đã chỉ huy phi đội danh tiếng Hat- in- the- Ring, là phi công lỗi lạc nhất của Mỹ trong đại chiến thứ nhất.
Sau chiến tranh, ông là người dìu dắt cho Ross Smith, phi công nổi danh của Úc, người thứ nhất đã bay trên Đất Thánh (tức Jérusalem) và người thứ nhất đã bay được một nửa vòng trái đất. Tôi thấy Ross Smith và Eddie Rickenbacker có nhiều chỗ giống nhau, đều cực kỳ bình tĩnh và nhũn nhặn, ăn nói ngọt ngào, khác hẳn hạng người quen ria súng giết giặc ở trên không.
Cho tới hồi mười hai tuổi, Eddie Rickenbacker là một thanh niên rừng rú, không có kỷ luật, tính tình nóng nảy, cầm đầu một bọn du côn lối xóm, đập bóng đèn ngoài đường và phá phách đủ thứ. Rồi một việc buồn xảy ra.
Thân phụ ông mất và chỉ trong nửa tháng ông thay đổi hẳn.
Ngày đưa đám thân phụ, ông nhận thấy mình thành chủ trong gia đình. Ông bèn bỏ học, xin một việc trong một xưởng làm kính, được hai cắc rưỡi một giờ, và mỗi ngày ông làm mười hai giờ. Ông đi bộ mười hai cây số tới xưởng mỗi buổi sáng, và mười hai cây số về mỗi đêm để đỡ tốn năm xu xe điện. Ông nhất định tiến tới. Không có gì làm ông ngừng được. Công việc trong xưởng không có gì thay đổi, buồn chán đến chết được. Ông ghét nó lắm. Ông muốn thành một nghệ sĩ, muốn sáng tác, xây những mộng màu sắc rực rỡ. Ông học vẽ trong một lớp ban đêm và xin được việc đục hình các thánh trên đá hoa cho một nhà bán mộ chí. Chính ông đã đục mộ chí trên mộ thân phụ ông. Nhưng người ta bảo ông công việc đục mộ chí đó rất nguy hiểm, vì phải hít những bụi đá vào phổi. Ông nói:"Tôi không muốn chết yểu, nên tìm một việc khác ít nguy hiểm hơn".
Năm ông mười bốn tuổi, một buổi sáng, ông đứng trên vỉa hè nhìn chiếc hơi đầu tiên ông thấy trong đời ông, một cái xe kỳ cục, nổ bịch bịch, điếc cả tai, rầm cả đường phố Columbus ở Ohio. Nhưng chiếc xe đó đối với ông là chiếc xe tiền định. Nó thay đổi hoàn toàn đời ông.
Cách đó ít lâu, ông xin được việc trong một hãng sửa xe, và tập lái xe ra, lái xe vô trong một căn nhà bằng cây hồi trước dùng làm chuồng ngựa. Ông dựng một xưởng ở sân phía sau, chế tạo lấy đồ dùng và dự bị đóng lấy một chiếc xe hơi. Ngay lúc đó, một xưởng đóng xe hơi bắt đầu mở ở Columbus, và chủ nhật nào ông cũng tới đó xin việc, nhưng chủ nhật nào người ta cũng đuổi ông đi. Sau khi bị đuổi tới lần thứ mười tám, ông trở lại nữa và nói với người chủ lúc đó rất ngạc nhiên:"Thưa ông, dù muốn hay không ông cũng đã có một người thợ mới rồi đấy. Sáng mai tôi lại đây làm. Ông thấy không, sàn ông dơ đây này. Tôi sẽ chùi nó. Tôi sẽ chạy những việc vặt cho ông và mài đồ dùng cho ông".
Còn tiền công? Ông không hề thốt một lời gì về tiền công hết. Ông chỉ cần có cơ hội để khởi sự và ông đã được cơ hội đó. Rồi ông xin học một lớp hàm thụ về cơ giới, ông tự dự bị sẵn sàng để thời cơ tới là ông tiến.
Từ hồi đó trở đi, ông tiến mau: thợ rồi lên cai, lên đốc công, rồi đứng bán xe, rồi làm giám đốc một ngành.
Rồi ông đâm ra thèm lái xe nhanh, khao khát mạo hiểm. Lòng ông chỉ ước mơ tiếng vỗ tay và sự kích thích trong một cuộc đua xe. Ông biết rằng muốn vậy thì ông phải thay đổi con người của ông đi. Và ông quả quyết diệt tánh nóng nảy của ông. Ông tập tự chủ. Ông tập mỉm cười cho tới khi ông nổi danh về mỉm cười.
Nghề đua xe hơi cần có những gân cốt gang thép. Ông biết vậy. Cho nên ông bỏ hút thuốc, bỏ uống rượu, và mỗi tối cứ đúng mười hai giờ là đi ngủ. Như vậy, hồi hai mươi lăm tuổi Eddie Reckenbacker thành một trong những nhà chạy đua xe hơi nổi tiếng nhất.
Và đây mới là chuyện nực cười! Trong ba chục năm nay, ông lái xe hơi hàng trăm ngàn cây số, mà không hề có một giấy phép lái xe, ngay bây giờ cũng không có.
Ông không tin bùa. Bạn thân ông thường tặng ông các thứ bùa may, như chân thỏ, móng ngựa nhỏ xíu...Nhưng một hôm, ngồi xe lửa, ông liệng hết những bùa đó qua cửa sổ xuống cánh đồng Kansas.
Khi châu Mỹ dự cuộc đại chiến thứ nhất, khắp giới lái xe hơi ngưỡng mộ ông: ông vượt đại dương, qua Pháp lái xe hơi cho đại tướng Pershing. Nhưng lái xe cho đại tướng, đối với ông, là công việc buồn quá. Ông muốn hoạt động kia, và ông được hoạt động. Người ta cho ông lái phi cơ và đưa ông một cây súng; trong mười tám tháng ông đã viết tên ông lên hàng đầu bảng phương danh những vị anh hùng trong đại chiến, và ngực ông đầy huy chương của ba chính phủ.
Trong một cuốn sách bán rất chạy, dày ba trăm bảy chục trang, ông kể những trận anh hùng của ông. Cuốn đó nhan đề là Fighting the Flying Circus là một trong những chương rùng rợn nhất của lịch sử không quân.
Chương 33
Oliver Wendell Holmes
Tôi xin kể bạn nghe chuyện một người đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của người Mỹ nhất là về luật pháp. Ông là một thiên tài của Hoa Kỳ.
Người đó là vị thẩm phán Olive Wendell Holmes. Ông thọ chín mươi bốn tuổi và biết hầu hết những nhân vật quan trọng ở Hoa Kỳ trong một thế kỷ nay.
Khi ông còn nhỏ, thân phụ ông thường bảo các con rằng trong bữa cơm ai nói được câu nào hóm hỉnh nhất sẽ được thưởng thêm mứt. Ông Wendell rất thích mứt nên tập ăn nói từ hồi đó (...)
Khi ông bắt đầu học luật năm 1857, cụ không bằng lòng vì thời đó người ta còn khinh môn luật. Cụ năn nỉ ông:
- Con nghe ba, đừng theo nghề đó, nó không đưa tới đâu cả.
Nhưng ông tin chắc rằng học luật có thể thành một người có danh vọng. Và ông nghiến ngấu sách luật như nghiến ngấu tiểu thuyết, trang nào cũng thấy say mê.
Năm 1861 ông sắp thi ở trường Harvard thì nội chiến bùng nổ. Ông liệng cả sách vào tủ, đăng lính. Ông chiến đấu anh dũng, bị thương ba lần. Một viên đạn xuyên qua gần đụng tim ông, đến nỗi một quân y thấy người ta khiêng ông trong một chiếc cáng, la lên.
- Đừng phí công với người đó nữa. Hắn chết rồi!
Chết rồi ư? Sự thực thì ông còn đương tuổi lớn. Ông còn lớn thêm bốn, năm phân nữa mới đủ một thước chín và còn sống để mà giúp cho nước được một việc quan trọng nhất là cứu cho tổng thống Lincoln thoát nạn năm 1864.
Trong khi đại tướng Grant đương chỉ huy ở Richmod, một đội quân phương Nam, do Jubal Early cầm đầu, đâm một mũi nhọn lên phía Bắc, tới Alexandrie ở Virginie, cách Hoa Thịnh Đốn không đầy bốn chục cây số.
Quân phương Bắc tính chặn họ lại ở For Stevens. Abraham Lincoln chưa ra chiến trường lần nào, cũng tới đó coi hai bên giao chiến. Ông đứng trên một nóc nhà, gần chỗ tay vịn khi súng bắt đầu nổ. Hình thù vạm vỡ của ông, mà ai cũng nhận ra được, ở ngay trước họng súng địch. Một vị tướng thưa với ông:
- Thưa ngài Tổng Thống, ngài nên lùi lại phía sau thì hơn.
Lincoln không để ý đến lời đó. Cách đó hai thước, ở chỗ tay vịn, một người ló đầu ra, lảo đảo rồi lăn ra chết. Lại gần hơn nữa, một người khác cũng ngã gục.
Thình lình ở sau lưng Lincoln có tiếng la lên:
- Đồ điên, xuống đi. Kiếm chỗ núp đi.
Lincoln nhảy một bước, quay lại: đại tá Holmes nhìn ông, giận dữ, mắt nảy lửa.
Lincoln mỉm cười, nói:
- Đại tá ăn nói ôn tồn lắm!
Rồi ông nhún vai, nhận là phải, kiếm chỗ núp.
Tin đó lan ra, nhiều người khen Wendell là anh hùng, nhưng ông ngắt lời ngay, giọng hơi xẵng:
- Đừng bảo tôi là anh hùng, tôi đã làm phận sự một người lính, chứ có gì khác thường đâu.
Chiến tranh xong ông về nhà, tiếp tục học như trước. Ông biết rằng học luật không kiếm được tiền: hồi đó có câu tục ngữ: "Luật sư năm đầu kiếm đủ tiền khắc bảng đồng ở cửa phòng việc là may".
Olive Wendell Holmes không được như vậy nữa mà mãi ba mươi tuổi ông mới có một phòng việc riêng cho mình. Tôi không nói ngoa. Năm đó khi ông cưới bà Fannie Dixwell, một bạn gái từ hồi nhỏ, ông không có một xu dính túi. Hai ông bà phải ở trong một phòng ở từng thứ tư, trong nhà thân phụ ông, rồi phải ki cóp một năm để có tiền ra ở riêng. Họ mướn được hai phòng tồi tàn trên một tiệm bào chế và chỉ có mỗi một cái lò để nấu bếp.
Đó, một thiên tài mà ba chục tuổi còn long đong như vậy.
Rảnh quá, vì vắng khách, ông bổ túc rồi tái bản một bộ luật, bộ Phê bình luật Mỹ. Công việc đó vĩ đại, phải nghiên cứu, phê bình hằng ngàn trường hợp và không biết bao bản án của các tòa. Làm việc mấy năm mà vẫn chưa xong, ông đã hơi lo ngại, vì ông nghĩ rằng trong nghề của ông, trễ lắm là bốn chục tuổi phải có danh vọng mới được. Mà năm đó ông đã ba mươi chín. Một đồng hồ gõ mười hai tiếng, ông hỏi bà:
- Mình có tin rằng anh thành công không?
Bà đương khâu, đáp:
- Chắc chắn là mình thành công. Em biết vậy.
Ông thành công thật. Bộ sách đó mà ngày nay ai cũng coi là một công trình bất hủ về luật Mỹ, được in xong năm ngày trước khi ông đúng bốn chục tuổi. Hai ông bà cụng ly với nhau để ăn mừng.
Trường đại học Harvard rất thích công trình của ông, tặng ông một ghế giáo sư luật khoa, lương bốn mươi lăm ngàn Mỹ kim một năm. Ông sung sướng vì vinh dự đó, nhưng còn hỏi ý kiến bạn thân là George Shattuck đã. Ông này khuyên:
- Anh nên nắm lấy cơ hội đi, nhưng buộc họ một điều kiện là nếu anh được bổ làm thẩm phán ở tòa Massachusetts thì anh có quyền hủy giao kèo liền.
Ông cho bạn quá lo xa, nhưng cũng nghe theo.
Không đầy ba tháng sau, ông Shattuck chạy lại trường Harvard lôi Holmes ra khỏi lớp học, hổn hển bảo:
- Có tin mừng lớn. Có một chỗ trống ở Tối cao pháp viện Massachusetts. Chính phủ chỉ muốn giao cho anh chỗ đó, nhưng buộc anh phải nạp hồ sơ trước mười giờ trưa. Mà bây giờ mười một giờ rồi.
Chỉ còn một giờ nữa, Holmes lượm nón, rồi hai ông chạy lại tòa Thống Đốc. Một tuần sau, ông được bổ nhiệm. Ông đã qua một chương mới trong đời ông.
Ở tòa án Masschusetts ông nổi tiếng là "li khai" vì rất ít khi ông đồng ý với bạn cộng sự. Chẳng hạn năm 1896 ông bênh vực bọn thợ thuyền đình công, mặc dầu ông không ở trong giai cấp họ. Quyết định xong, ông nói với một người bạn thân:
- Tôi mới tự cấm tôi thăng chức.
Biết vậy mà ông vẫn giữ vững lập trường. Tư lợi không khi nào ảnh hưởng tới sự tài phán của ông được. Ông chỉ nghĩ đến sự công bình thôi.
Lạ lùng thay, vụ xử đó và nhiều vụ khác nữa đã chẳng làm hại bước đường công danh của ông mà còn đưa ông lên những chức vụ vẻ vang nữa. Tổng Thống Theodore Roosevelt lúc đó muốn tấn công các tổng hợp sản xuất và thương mại ở Hoa Thịnh Đốn, dùng tất cả uy quyền để diệt những công ty độc quyền, khi nghe người ta nói về Holmes, la lên:
- Như vậy mới là một vị thẩm phán. Tôi cần dùng người đó.
Và giấy tờ làm rất gấp để bổ Holmes lên chức thẩm phán Tối cao pháp viện Hoa Kỳ. Đó là danh dự lớn nhất trong nghề. Tổng Thống tưởng rằng Holmes sẽ nghị quyết theo ý mình. Ông lầm. Ngay trong vụ xử lớn đầu tiên, Holmes đã chống Roosevelt. Roosevelt giận la:
- Con người gì mà mềm như bún vậy!
Roosevelt quạu, nhưng công chúng lại mừng, Holmes đã xử theo lòng mình, không tùy thuộc ai, đứng trên hết các đảng phái.
Trong ba chục năm Holmes cương quyết giữ đường lối đó và thành một vị thẩm phán được quốc gia trọng vọng nhất.

Năm ông chín mươi mốt tuổi, sức ông bắt đầu suy nhiều, phải có hai người đỡ ông bước xuống bệ. Một hôm ông nói với viên lục sự:
- Ngày mai tôi không lại nữa.
Và từ đó ông không trở lại tòa nữa.
Hai năm sau ông chín mươi ba tuổi. Franklin D. Roosevelt mới lên làm tổng trưởng, lại thăm ông và thấy ông đương đọc Platon, hỏi: - Thưa cụ, xin cụ cho biết tại sao cụ đọc Platon.
Ông đáp:
- Để trí thức được thêm phong phú.
Bạn thử tưởng tượng: chín mươi ba tuổi....
Quả thực tại Hoa Kỳ chưa có người nào nhân cách cao như ông, mà cũng chưa ai làm cho pháp luật thay đổi sâu xa như ông. Những bản án của ông sau này còn có ảnh hưởng lâu tới cách sống của người Mỹ.
Và đây, thêm một chi tiết nữa mà tôi chắc bạn muốn biết: Khi mất, vị thẩm phán danh tiếng đó để lại tất cả gia tài khoảng hai trăm rưởi ngàn Mỹ kim, cho chính phủ. Tất cả tủ sách của ông, ông cũng tặng hết cho quốc dân.
Chương 34
Bernard Shaw
Rất ít người nổi danh tới nỗi người khác khi nhắc tới, chỉ viết những chữ đầu của tên, họ, mà ai cũng hiểu. Một trong những danh nhân vào bậc đó là một người Ái Nhĩ Lan; những chữ đầu của tên họ ông là G.B.S. Ông có lẽ là nhà văn tiếng tăm lừng lẫy nhất thế giới. Đời cầm bút lạ lùng khó tin được của ông đã chép trong một cuốn mà tên họ ông chỉ ghi là G.B.S, tức George Bernard Shaw.
Đời ông đầy những tương phản kịch liệt. Chẳng hạn ông chỉ được đi học năm năm; giáo dục thiếu sót như vậy, mà ông thành một văn hào bậc nhất thế giới và được một giải thưởng văn chương lớn nhất thế giới, giải Nobel. Giải thưởng là bảy ngàn Anh kim nhưng ông chẳng thèm nhận tiền mà cũng chẳng thèm nhận vinh dự. Sau người ta phải năn nỉ ông, ông mới chịu nhận số tiền đó một cách tượng trưng trong nửa giây trước khi chuyển nó qua quỹ Ái Hữu Văn Học Anh - Thụy Điển.
Thân phụ ông sinh trong một gia đình danh giá ở Ái Nhĩ Lan, nhưng thân mẫu ông không được hưởng một gia tài lớn của một bà cô vì bà cụ này không chịu cho song thân ông cưới nhau. Thành thử nhà cửa nghèo túng và Bernard Shaw phải kiếm ăn từ hồi mười lăm tuổi. Năm đầu, ông làm thư ký, lương tháng không được một Anh kim.
Rồi từ mười sáu đến hai mươi tuổi, do hoàn cảnh, ông lãnh một việc có trách nhiệm là giữ két ngân hàng, được một Anh kim rưỡi một tuần. Nhưng ông ghét công việc phòng giấy; vì ông đã được sinh trưởng trong một gia đình trọng hội họa, âm nhạc và văn chương. Năm ông bảy tuổi, ông đã đọc Shakespeare, Bunyan, truyện Ngàn lẻ một đêm và Thánh kinh. Mười hai tuổi, ông mê Byron. Rồi ông đọc Dickens, Damas Shelley. Mười tám tuổi, ông đã đọc Tyndall, Stuart Mill, Herbert Spencer. Các văn hào đó đã làm cho óc tưởng tượng của ông phát triển sớm, và ông đã có nhiều mơ mộng; cho nên trong những năm đen tối, phải làm mọi cho một nhà địa ốc ngân hàng tư, ông buồn chán lắm, chỉ mơ tưởng tới thế giới đẹp đẽ của văn chương nghệ thuật, khoa học và tôn giáo.
Khi gần được hai chục tuổi G.B.S, tự nhủ:
"Mình chỉ có một đời người để sống, không lẽ đem phung phí nó trong buồng giấy một nhà buôn".
Vì vậy năm 1876, ông bỏ hết đến Luân Đôn, nơi thân mẫu ông dạy hát để sinh nhai, và bước vào nghề viết văn để sau này nổi danh và giàu có.
Nhưng ông phải viết chín năm rồi mới kiếm được đủ ăn. Ông dùng hết thì giờ để viết, tự buộc mình mỗi ngày phải viết năm trang, dù viết chẳng ra gì cũng cứ viết. Mà đúng năm trang thôi, chứ không hơn. Ông nói:"Hồi đó tôi còn cái tánh của một học sinh và một thư ký, cho nên viết hết năm trang mà tới giữa một câu thì tôi cũng bỏ đó, hôm sau mới viết tiếp".
Ông viết năm truyện dài - một truyện nhan đề là Love among the artists - gởi bản thảo cho nhà xuất bản ở Anh và cả ở Mỹ. Họ đều gởi trả lại bản thảo, nhưng nhà xuất bản lớn nhất ngỏ ý muốn được coi tác phẩm sau của ông(...)
Hồi đó ông túng bẩn quá đến nỗi không đào đâu ra tiền mua cò gởi bản thảo nữa. Trong chín năm đầu, cây viết của ông chỉ đem lại cho ông được có sáu Anh kim.
Có khi quần áo rách, ông đi lang thang trong thành phố Luân Đôn, gày thủng mà quần áo cũng thủng ở đít. Nhưng ông không đến nỗi đói:Thân mẫu ông luôn luôn mua chịu được ở một hàng tạp hóa và tránh cho ông được thảm cảnh đó.
Trong chín năm viết tiểu thuyết ấy, một lần ông kiếm được năm Anh kim nhờ một bài về y khoa mà một luật sư không hiểu vì nguyên do gì đã nhờ ông viết. Lần khác, ông kiếm được một Anh kim vì đếm phiếu sau một cuộc bầu cử vào Quốc Hội.
Vậy ông làm cách nào mà sống? Ông thú nhận rằng gia đình ông rất cần sự giúp đỡ của ông, mong mỏi sự giúp đỡ đó đến gần như tuyệt vọng, nhưng ông lại không giúp nhà được chút gì hết, cứ ăn bám vào gia đình. Chính ông nói:"Tôi không lao mình vào cuộc chiến đấu để sống. Tôi tủi nhục bắt thân mẫu tôi lao mình vào".
Nhưng sau ông viết những bài phê bình các thứ nghệ thuật và tự túc được. Thành công đầu tiên của ông về tiền bạc, không nhờ tiểu thuyết mà nhờ kịch. Và ông viết hai mươi mốt năm mới nổi danh, cưới được một bà vợ giàu mà không bị thiên hạ chê là đào mỏ.
Thực không thể ngờ rằng một người như ông, có gan đứng trước quần chúng chỉ trích những luật về hôn nhân, những cơ quan tôn giáo, chế độ dân chủ và hầu hết những tục lệ mà loài người tôn trọng, lại vốn có tánh nhút nhát, tự ti mặc cảm. Ông đã đau khổ vì tánh nhút nhát. Chẳng hạn hồi trẻ, ông thỉnh thoảng lại thăm bạn bè trên bờ sông Thames ở Luân Đôn. Đây, xin bạn nghe ông tả, trong những hoàn cảnh như vậy, ông hàng động và cảm xúc ra sao:
"Tôi nhút nhát tới nỗi có khi đi đi lại lại trên bến tàu tới hai mươi phút hoặc hơn nữa rồi mới dám gõ cửa nhà bạn. Sự thực, như có linh tính bảo tôi rằng không dám gõ cửa một người bạn thì sau này không làm nên trò trống gì ở đời hết, nhờ vậy tôi mới dám vào thăm bạn, nếu không thì tôi đã bỏ mà chạy một mạch về nhà rồi cho khỏi phải đau khổ vì nhút nhát". (...)
Sau cùng ông học được cách hay nhất, mau nhất và chắc chắn nhất để thắng tánh nhút nhát và sợ sệt, là tập nói trước công chúng. Ông xin vô một hội tranh biện. Mấy lần đầu đứng lên diễn thuyết, ông cho thính giả cảm tưởng rằng ông bình tĩnh lắm, nên người ta xin ông lần sau lại diễn thuyết nữa; nhưng sự thực ông bị kích thích dữ lắm, tay run lên, trong khi ký tên. Hễ không ghi chép những điều cần nói thì ông quên hết, không còn biết nói gì nữa; mà nếu ghi chép thì quýnh quá, đọc không được. Nhưng không thính giả nào ngờ nỗi khổ tâm đó của ông, cứ vẫn nghe ông nói. Quyết tâm thắng tánh nhút nhát của ông mạnh mẽ quá, đến nỗi có cuộc hội họp để tranh biện nào ở Luân Đôn, ông cũng đến dự và luôn luôn ông đứng dậy bày tỏ ý kiến.
Và sau ông còn nhút nhát nữa không? Khi ông đã tìm được một lý tưởng và bênh vực chủ nghĩa xã hội, thì trong mười hai năm, cứ cách một đêm ông lại diễn thuyết một đêm ở các góc đường hoặc trong các chợ, các nhà thờ, tại khắp nước Anh. Ông nổi tiếng là hùng biện và kiếm được nhiều tiền không phải để tiêu pha riêng mà để phụng sự lý tưởng.
Mặc dầu ông đã tám chục tuổi mà ông còn tuyên bố rằng ông bận công việc quá, không có thì giờ để nghĩ đến sự chết. Ông nói:Tôi thích sống vì sống là vui. Đời sống đối với tôi không phải là một "mẩu đèn cầy". Nó là một thứ đuốc lớn mà tôi được cầm trong một lúc. Và tôi muốn cho đuốc đó cháy hết sức rực rỡ trước khi tôi chuyền nó qua tay những thế hệ sau.
Chương 35
James Buchanan Duke
Doris Duke và Barbara Hutton là hai thiếu nữ Mỹ nổi danh khắp thế giới. Nhưng ta thử hỏi: tên tuổi của họ có được báo chí mọi nước nhắc nhở tới nhiều như vậy không nếu họ không được hưởng gia tài hằng tỉ bạc của ông, cha?
Do cái gì mà có gia tài kếch xù nó đã làm cho Doris Duke thành một người kế thừa giàu nhất thế giới? Thưa bạn, do khói ạ, do khói thuốc lá. Lịch sử gia tài đó bắt đầu từ hồi nội chiến ở Hoa Kỳ. Hồi đó miền Nam trải qua những ngày ảm đạm vì bị quân đội tàn phá, đồng ruộng cháy khô và bỏ hoang. Cảnh điêu linh thực không tưởng tượng được. Dân chúng phải luộc hột cây lật và hột bông vải để thay cà phê, và nấu lá dâu tây thay trà. Nền đất nện của các nhà tranh dính mở heo mà người ta cũng lượm lên, nấu để ăn vì trong mở còn chút muối. Washington Duke, ông nội của thiếu nữ giàu nhất thế giới ngày nay, hồi đó chiến đấu ở Richmond, thuộc quyền chỉ huy của đại tướng Lee, sau bị nhốt trong khám Libby. Sau khi đại tướng Lee đầu hàng, ông về trại ruộng ở Durham, bắc Caroline.
Chính phủ liên bang phương Nam cho ông một cặp la đui, già, chỉ chờ chết, và ông bán lại phiếu quốc trái năm Mỹ kim cho một người lính theo phương Bắc, được nửa Mỹ kim.
Đó, tất cả gia tài của ông chỉ có vậy: năm cắc, một cặp la đui, vài bộ cương và hai đứa con mồi côi mẹ.
Quân đội phương Nam cũng nhưng phương Bắc đều tàn phá xứ sở, trong đồng có gì ăn được là những đội lính đói lượm hết, chỉ để lại vài gốc thuốc lá xanh. Cho nên ông và hai người con là "Buck" và "Ben" đành đi hái thuốc lá phơi khô đập sơ sơ thồn vào bao, chở trong một chiếc xe có mui vải, thắng cặp la đui vào xe, rồi đi chinh phục thế giới, và lạ nhất là bọn họ chinh phục được đế quốc thuốc lá, một đế quốc sau này chế ngự khắp địa cầu.
Ngồi trong chiếc xe mui vải do la kéo đó, họ tiến về phương Nam, miền mà thuốc lá rất hiếm. Họ đổi thuốc lá lấy mở heo và bông vải. Ban đêm họ ngừng xe, cắm trại bên lề đường cái, chiên mở heo với khoai lang, ăn xong ngủ ngay giữa trời. Như vậy thích hơn là đi hái thuốc lá, cho nên họ quyết định bỏ nghề trồng thuốc lá mà xoay qua nghề bán thuốc hút.
Nhưng chẳng bao lâu họ đụng đầu với một sự cạnh tranh tàn nhẫn. Hằng trăm hãng làm thuốc rời bán cho những người hút ống điếu, mà những hãng đó giàu có, cơ sở vững vàng. James Buchaman Duke, người tạo ra gia tài của họ Duke và là ông thân của cô Doris Duke, hiểu rằng phải làm cái gì mới và làm ngay, nếu không thì nguy, Và ông nẩy ra một ý nó đem cho ông trăm triệu Mỹ kim. Ông quyết định chế thuốc vấn. Bây giờ chúng ta cho ý đó không có gì đặc biệt vì mỗi năm dân Mỹ hút tới một trăm hai mươi lăm tỉ điếu thuốc; nhưng năm 1881 thì đó là một ý cách mạng. Tôi vẫn biết người Nga và người Thổ đã hút thuốc vấn từ mấy đời rồi mà lính Anh đánh trận Crimée về có đem theo thứ thuốc vấn đó nhưng ở châu Mỹ tới năm 1867 vẫn chưa có thuốc vấn mà châu Mỹ là nơi sản xuất thuốc lá cho khắp thế giới.
Khi Buck Duke khởi sự thì thuốc lá đều vấn tay. Sau ông chế ra một cái máy làm cho năng suất tăng từ hai ngàn rưỡi điếu lên tới một triệu điếu mỗi ngày. Chính ông kiếm ra cách gói thành hộp. Bạn nào đã thấy những hộp thuốc Meccas, Zinas, Sweet Caporal hay Turkish Trophies, chắc còn nhớ kiểu hộp bằng giấy dầy có ngăn kéo ra đẩy vô được ấy mà chính ông đã vẽ ra. Nhờ vậy xí nghiệp của ông phát triển mau, và khi chính phủ hạ thuế thuốc lá xuống thì ông hạ giá bán xuống một nửa, làm thị trường ngập những bao thuốc năm xu, và các nhà cạnh tranh với ông phải nhào hết.
Rồi ông đi kiếm những thế giới khác để chinh phục. Năm ông tới Nữu Ước để lập xưởng mới, ông mới hai mươi bảy tuổi. Luôn luôn ông tự nhủ: "Rockefeller đã thành công được như vậy nhờ dầu lửa, thì tại sao bán thuốc lá lại không thành công được như ông ấy".
Nghĩ vậy, lời được bao nhiêu ông đập hết vào vốn như Rockefeller. Kiếm được mỗi năm năm chục ngàn Mỹ kim rồi chứ, mà ông sống trong một phòng hẹp, cơm thì ăn tiệm. Nhưng cái con người mỗi bữa cơm không dám tiêu năm cắc ấy lại dám cho đại diện đi khắp thế giới. Ông làm tối tăm mặt mũi ở hãng. Sáng tới sớm, tối về trễ, kiểm soát lại mọi công việc chế tạo từ khi thuốc còn là lá tới khi thuốc cho vào bao.
Khi chết, ông có trăm lẻ một triệu Mỹ kim và ông thường đánh cá rằng không có ai làm cho nhiều người thành triệu phú bằng ông. Hồi nhỏ ông chỉ được đi học có bốn, năm năm. Có lần ông nói đùa rằng:"Sự học cần cho các giáo sĩ hay các luật sư chứ có ích lợi gì cho tôi đâu?Trong nghề kinh doanh, không cần phải thông minh hơn người".
Đây, ông giảng nguyên do tại sao ông thành công tôi chép đúng lời ông:
"Tôi thành công trong công việc làm ăn không phải vì tôi có khiếu hơn phần đông những người không thành công, mà vì tôi đã đem hết sức ra hăng hái làm. Tôi biết nhiều người đã thất bại mà chắc chắn là họ thông minh hơn tôi, nhưng họ thiếu đức quyết định và kiên nhẫn".
Theo tôi, bí quyết lớn của ông là cách ông dùng số lời:ông đập vào vốn để làm ăn.
Mà đó cũng là bí quyết của John D. Rockefeller và của tất cả những người đã xây dựng được những gia sản khổng lồ. Dùng vốn của người khác để khuếch trương công việc của mình thì không thể nào gây được một gia tài vĩ đại. Muốn gây được một gia tài như vậy thì phải như Duke và Rockefeller, làm chủ xí nghiệp của mình mà vốn thì do mình bỏ ra rồi mỗi ngày đập thêm lời vào. Quy tắc đó không phải chỉ áp dụng vào những người làm giàu lớn mà thôi đâu:người thợ bỏ thì giờ rảnh ra để học thêm thành viên Đốc công hay viên Kỹ sư thì cũng là hành động như Rockefeller và Duke, chứ khác gì: cũng là gây vốn cả.
Điều lạ nhất là Buck Duke tự nghĩ không cần phải học nhiều mà lại tặng bốn chục triệu Mỹ kim để lập một trường đại học lớn ở Durham, bắc Coroline. Cô Doris Duke là hội viên trong ban quản trị trường đó.
Ông ghét quảng cáo và suốt đời chỉ cho người ta phỏng vấn có mỗi một lần. Lần đó phóng viên hỏi ông:
- Thưa ông, cái sự có một triệu Mỹ kim, tự nó có phải là một điều thú không?
Ông lắc đầu, đáp:
- Không. Số tiền đó có làm cho tôi vui thích chút nào đâu.
Chương 36
Ernestine Schumann Heink
Đời thành công của bà Ernestine Schumann Heink là truyện lạ lùng nhất trong lịch sử của Đại nhạc kịch trường. Mặc dầu đói, đau khổ và thất vọng mà bà gây được danh tiếng rực rỡ.
Bà phải phấn đấu một cách chua chát khó khăn mới thành công được. Có ba lần bà chán nản, tuyệt vọng đến nỗi muốn quyên sinh. Hôn nhân của bà là cả một bi kịch. Chồng bà bỏ đi, để những món nợ lại cho bà trả, vì theo luật Đức hồi đó thì vợ phải trả nợ cho chồng. Thế là tòa cho người tới tịch thu hết đồ đạc, chỉ chừa một cái ghế và một cái giường. Và đôi khi bà hát ở đâu, kiếm được ít tiền, thì bà bị trừ nợ gần hết.
Sáu giờ trước khi bà sanh người con trai thứ ba, bà còn phải hát. Có hồi bà đau nặng nhưng không nghỉ hát được, vì nghỉ thì lấy gì nuôi con. Mùa đông tới, con bà khóc vì đói, run vì rét, mà bà không có tiền mua than để sưởi.
Thất vọng đến gần hóa điên, bà định giết hết các con rồi tự tử...
Nhưng bà không tự tử, mà sống để tranh đấu cho tới khi thành một ca sĩ nổi danh bậc nhất thế giới.
Vài tháng trước khi mất, bà mời tôi lại dùng cơm tối với bà ở Chicago, và hứa sẽ đích thân nấu lấy để đãi tôi. Rồi bà nói thêm:"Nếu ông khen tôi là hát hay thì tôi cũng thích, nhưng nếu ông ăn cơm với tôi rồi, bảo: "Bà Schumann- Heink ạ, tôi chưa bao giờ được ăn món xúp ngon như lần này "thì ông sẽ là bạn thân của tôi đấy".
Bà bảo tôi rằng một trong những bí quyết thành công của bà là bà thương yêu mọi người và chính tôn giáo đã dạy bà thương yêu mọi người. Ngày nào bà cũng đọc Thánh kinh, tối nào, sáng nào bà cũng quỳ gối tụng kinh. Bà nói chính những nỗi bi thảm trong đời bà đã giúp bà hát hay, vì nhờ sầu khổ bà mới hiểu người hơn, dễ cảm thông hơn, thương người hơn; sự đau khổ đã làm cho giọng của bà thêm sức huyền bí để rung động hàng triệu trái tim. Nếu bạn được nghe bà hát bài Rosery trong thời danh bà đương lên, bạn sẽ cảm thấy sức huyền bí đó. Tôi biết bà thương con nít lắm, nên hỏi bà tại sao bà lại có ý giết con để rồi tự tử. Và đây bà kể chuyện với tôi như vầy:
"Hồi đó tôi đói, đau và chán nản lắm, nhìn tương lai không còn hy vọng gì nữa. Tôi không muốn cho các cháu chịu cảnh khổ như tôi; tôi nghỉ rằng sống như vậy thì chết còn hơn, cho nên tôi quyết tâm mẹ con ôm nhau đâm đầu vào xe lửa cho rảnh nợ đời. Tôi đã dự định kỹ rồi, biết giờ xe lửa qua. Mấy cháu la khóc níu chặt lấy tôi, lẩy bẩy ở bên tôi. Tôi nghe tiếng còi xe lửa. Tôi đã tới bên đường rầy. Tôi cúi xuống quơ mấy cháu lại sẵn sàng quăng chúng vào chuyến xe lửa rồi tôi sẽ nhào theo, thì đứa cháu gái nhỏ của tôi chạy theo đứng trước mặt tôi, la: "Má, con yêu má! Lạnh quá má ạ, má cho chúng con về đi!".
"Lạy trời! Giọng thơ ngây của cháu làm tôi tỉnh lại. Tôi ôm các cháu chạy về căn phòng trống rỗng, lạnh lẽo của chúng tôi. Tôi quỳ xuống cầu nguyện và khóc mướt".
Cho tới ngày đó, bà làm việc gì thì việc đó cũng thất bại: thất bại trong hôn nhân, thất bại trong nghề nghiệp. Nhưng chỉ vài năm sau lần định tự tử đó, rạp Royal Opera House ở Bá Linh, rạp Covent Garden ở Luân Đôn, rạp Metropolitan ở Nữu Ước đều yêu cầu bà hát giúp. Bà đã đói rét, cơ cực nô lệ trong hàng năm. Bây giờ thì hết! Thành công lại rực rỡ tới chói mắt.
Thân phụ bà là một sĩ quan Áo, lương ít mà gia đình đông: cho nên ngay từ hồi thơ ấu, bà đã chịu cảnh đói, chỉ ước ao có đủ bánh mì đen để cho ăn no. Bơ là một xa xí phẩm có bao giờ bà được nghe nói tới. Khi nào món xúp có chút mỡ nổi trên thì thân mẫu bà hớt lớp mỡ đó để dùng thay bơ. Bà đi học, mang theo một miếng bánh mì đen và một chén cà phê để ăn bữa trưa ở trường: tối ăn bánh mì và xúp, quanh năm như vậy.
Muốn kiếm thêm thức ăn, trong giờ nghỉ học bà thường chạy lại một rạp xiếc ở đầu tỉnh, xin quét chuồng khỉ lấy tiền mua bánh.
Học hát mấy năm xong, bà được cơ hội hát cho ông giám đốc một gánh hát nổi danh ở Vienne.
Nghe bà hát xong, ông ta khuyên bà nên bỏ nghề đó đi vì bà không đẹp, không có duyên, mà về nhà mua cái máy may áo còn hơn. Ông ta nói lớn tiếng:"Cô muốn thành ca sĩ ư? Không khi nào thành đâu. Không khi nào! Tuyệt nhiên không!".
Sau này, nổi danh rồi có lần bà hát đúng ở rạp đó và chính ông giám đốc đó nhiệt liệt khen bà, rồi hỏi: "Tôi coi mặt bà như quen quen. Chắc tôi có gặp bà một lần ở đâu rồi?".
Bà bảo tôi: "Tôi đáp ông ta như vầy. Ông có gặp tôi một lần ở đâu ư? Thì chính ở đây, chứ ở đâu nữa. Ông quên rồi sao? Rồi tôi kể lại câu chuyện mua máy may cho ông ta nghe..."
Thật cảm động.
Chương 37
Henry Ford
Nếu bạn có một em nhỏ hễ mở sách ra học là ngáp mà trông thấy một đồ chơi gì có máy móc là mắt sáng lên, xun xoe muốn rờ, thử, tháo, lắp, và suốt ngày chỉ rình lúc bạn ngủ trưa hoặc tiếp khách để bỏ bài vở, chạy tuốt ra sân lau chùi chiếc xe máy dầu của bạn, thì bạn đừng vội buồn: biết đâu em đó sau này chẳng thành một Henry Ford của Việt Nam? Vì Henry Ford hồi nhỏ cũng biếng học như vậy: ngồi trong lớp chỉ lén nói chuyện về máy móc với bạn bè và chỉ mong chóng tan học để chạy về nhà, leo lên căn gác xép ở thượng lương mà hí hoáy với những cây đinh, những cái kim, cái giũa.
Hồi tám tuổi, ông mê đồng hồ như các trẻ khác mê tiểu thuyết kiếm hiệp. Thấy đồng hồ nào hư, ông cũng tháo ra coi rồi sửa...và sửa được. Một người chơi thân với gia đình ông đã phải nói:"Đồng hồ nào ở trong làng này cũng phải run lên khi thấy thằng Henry tới gần". Lần lần, tài sửa đồng hồ của ông vang lừng trong miền. Ai có đồng hồ hư cũng đem lại nhờ "cậu Henry"sửa, và "cậu Henry" không bao giờ đòi tiền công: việc làm đó thú quá mà!
Máy móc có sức quyến rũ ông kỳ dị. Trông thấy máy gì mới, ông cũng tìm hiểu cho kỳ được. Có lần lại một tiệm cưa, ông thừa lúc vắng người, tháo một cái máy chạy bằng hơi nước ra xem, bị máy kẹp, suýt nguy đến tánh mạng. Nhưng chỉ ít lâu sau, năm ông mười hai tuổi, ông đã bắt chước chế tạo được một máy nhỏ chạy bằng hơi nước, trong căn gác xếp của ông.
Năm hai mươi tám tuổi, đọc một bài báo trong tạp chí Monde scientifique, tả một kiểu máy nổ do một người Đức phát minh, ông quyết chí thực hành cái mộng chế tạo xe hơi. Ông rời quê hương, lại Detroit ở, nhận một chân kỹ sư làm đêm trong một hãng điện. Ông làm việc như mọi từ 6 giờ tối đến 6 giờ sáng, mà chỉ lãnh được một số lương khỏi chết đói. Nhưng ông không nản chí, còn gắng sức sửa đồng hồ, và dạy thêm trong một trường hướng nghiệp để kiếm thêm tiền, dành dụm, gây một số vốn, lập một xưởng nhỏ để chế tạo một kiểu máy nổ chạy bằng xăng. Năm năm sau, máy chế tạo xong, ông lắp nó vào một vỏ xe cũng do ông đóng lấy, và chiếc xe hơi đầu tiên của Mỹ đã xuất hiện: nó cao lồng nhồng không mui không thắng, chạy dật lùi không được, tốc độ cao nhất là 30 cây số một giờ. Bạn thử tưởng tượng: xe hơi không thắng mà chạy trong thành phố thì nguy hiểm biết chừng nào! Cho nên ông phải lắp một cái kiểng vào xe, và ông vừa lái vừa luôn tay đánh kiểng để báo cho bộ hành biết mà tránh.
Mấy năm sau, ông lập Công ty xe hơi Detroit rồi Công ty xe hơi Cadillac, vốn 100.000 Mỹ kim. Mới đầu ông có 25% cổ phần nhưng kiếm được bao nhiêu ông lại đập cả vào vốn bấy nhiêu, nhất định phải có già nửa phần hùn để có đủ quyền điều khiển công ty theo ý muốn của mình. Chủ trương của ông là chế tạo xe cho thật nhiều, để giá xe được hạ, người nào cũng có thể mua được.
Ông áp dụng phương pháp tổ chức công việc của Taylor, chú trọng tới sự lựa người, và việc dạy nghề cho thợ. Sáng kiến được khuyến khích, trọng thưởng. Lối làm chuyền được cải thiện. Nhờ vậy, kiểu xe mỗi ngày mỗi mới, sức sản xuất mỗi ngày mỗi tăng, giá vốn mỗi ngày mỗi hạ mà lương của thợ thuyền được tăng gấp đôi, trong khi số giờ làm việc rút xuống từ 9 giờ xuống 8 giờ mỗi ngày.
Năm 1906 ông sản xuất được 8.400 chiếc xe; bốn năm sau, con số đó tăng lên 34.000; một năm sau nữa, nó tăng lên 78.000; và tới năm 1927 thì mỗi ngày ông sản xuất được 7.000 chiếc xe, tính ra cứ 7 giây đồng hồ, có một chiếc xe hơi ở trong xưởng ông từ từ chạy ra để được gởi đi khắp thế giới.
Nhờ ông hiểu rằng cái lợi của thợ thuyền là lợi của ông, và cái lợi của khách hàng cũng là lợi của ông, mà luôn luôn tìm cách tăng lương cho thợ và hạ giá xe cho nên thợ thuyền và quần chúng ủng hộ ông trong một vụ tranh chấp với nhiều công ty lớn hơn ông, như công ty Seldon. Công ty này bắt ông phải theo quan niệm ích kỷ của họ là bán cho thật mắc, Ông không chịu, họ kiếm cớ kiện ông. Vụ kiện kéo dài hàng mấy năm. Tòa sơ thẩm đã xử ông thua. Sản nghiệp của ông muốn tiêu tan, nhưng ông can đảm đăng lên báo hết thảy nguyên do sự kiện và cam đoan với khách hàng rằng ông sẽ đem hết số vốn công ty để bảo đảm những chiếc xe ông sẽ chế tạo. Quần chúng thấy ông ngay thẳng và thành thực nghĩ tới lợi của họ, viết báo bênh vực ông và rốt cuộc, khi ông chống án thì ông thắng.
Khi đại chiến thứ nhất bùng nổ ở Âu, ông đau khổ thấy biết bao máu thanh niên chảy trong những hầm núp trên mặt trận Pháp; cho nên lúc phong trào hoà bình manh nha ở Mỹ, ông hăng hái gia nhập liền; tuyên bố: "Nếu tôi có thể làm gì cho chiến tranh này ngưng được thì dù tiêu tan cả sự nghiệp, tôi cũng không ngại". Cuối năm 1915, ông bỏ tiền ra mướn chiếc tàu Oscar II và cùng với sáu sứ giả hòa bình nữa, vượt Đại Tây Dương qua châu Âu. Rủi thay, nửa đường ông bị bệnh nặng phải trở về Detroit, còn sáu người kia tiếp tục tới Stockholm, Copenhague, La Haye, hô hào người ta bỏ súng...Nhưng súng cũng vẫn nổ.
Từ đó, ông hóa ra quạu quọ, chua chát, nhưng vẫn không ngớt tìm cách cải thiện kiểu xe Ford của ông. Năm ông sáu chục tuổi, cái tuổi mà ngay ở Mỹ, nhiều người chỉ tính tới chuyện về vườn dưỡng lão, thì ông còn hăng hái cải tổ lại hoàn toàn hãng Ford: ông bỏ ra 100 triệu Mỹ kim, thay 43.000 máy cũ, dạy lại nghề cho hết thảy thợ thuyền để chế tạo một kiểu xe mới, làm cho hãng Ford thành hãng xe hơi lớn nhất thế giới.
Ông mất năm 1947, thọ 83 tuổi, sản nghiệp là nửa tỉ Anh kim (khoảng 100 tỉ bạc). Vài tháng trước khi mất, một buổi sáng nọ, ông cùng với một đứa chắt dạo mát trong vườn. Đương đi thì đứa nhỏ đánh rớt một vật gì trong cỏ. Ông hỏi:
- Cháu đánh rơi cái gì đó?
- Thưa, không có gì cả. Chỉ là một đồng xu thôi ạ.
Ông già lặng thinh, cúi xuống tìm, lượm đồng xu lên, đưa cho dứa nhỏ. Nó ngạc nhiên, hỏi:
- Người ta nói cố giàu nhất trong nước, phải không cố?
- Ừ.
- Thế thì sao cố lại chịu khó cúi xuống lượm đồng xu cho cháu?
- Này, cháu, một ngày kia, nếu cháu phải sống cô độc trên một hoang đảo thì tất cả những giấy bặc ở thế giới này sẽ là giấy vụn hết. Nhưng một đồng xu sẽ quý vô cùng. Nó bằng đồng. Cháu có thể đập nó thành một ngọn giáo hoặc một đồ dùng. Tao coi trọng đồng xu đó vì tự nó đã có giá trị rồi, chứ không phải như tờ giấy bạc, chỉ để biểu hiệu một cái gì thôi. Đừng đánh rớt nó nhé. Đã chắc gì sau này cháu không khỏi bị bỏ cô độc trong một hoang đảo.
Chương 38
Đời Cơ Hàn Của Các Nhạc Sĩ
Ông Leopold Auer, giáo sư vĩ cầm nổi danh, người đã tìm được và đào luyện được nhiều thiên tài về âm nhạc hơn hết thảy các giáo sư khác trong thế hệ này, có lần nói với tôi rằng muốn làm nhạc sĩ đa tài thì phải sinh trong một nhà nghèo. Ông bảo có cái gì đó ông không biết rõ nó là cái gì, có cái gì đó mà cảnh nghèo khổ gây ở trong tâm hồn ta, một cái gì bí mật, đẹp đẽ, nó làm nẩy nở tình cảm, nghị lực, lòng thương người, yêu người.
Mozart nghèo tới nỗi không có tiền mua củi sưởi, phải sống trong một phòng tồi tàn lạnh lẽo và đút hai bàn tay vào hai chiếc vớ len cho khỏi cóng, trong khi sáng tác những bản nhạc mê hồn đã làm cho tên tuổi ông bất hủ.
Mới ba mươi lăm tuổi, ông đã lìa đời vì bệnh lao, sinh lực tiêu lần lần do đói, lạnh, thiếu thức bổ.
Tội nghiệp, đám tang của ông chỉ tốn có nửa Anh kim. Chỉ có sáu người đi theo quan tài bằng ván thông của ông, mà họ không đưa ông được tới huyệt, nửa đường gặp mưa, họ bỏ về cả.
Harold Stanford, bạn thân nhất của Victor Herbert nói với tôi rằng khi Victor Herbert mới tới châu Mỹ, nghèo lắm, chỉ có mỗi cái áo sơ mi, thành thử khi nào bà vợ giặt, ủi áo đó thì ông phải nằm khoèo ở giường không đi đâu được.
Bạn còn nhớ bài mà hồi đầu đại chiến thứ nhất, hết thảy chúng ta đều hát đấy không? Bài "Đường đi tới Tipperary, dài, dài thăm thẳm"? Có lẽ chưa có bài tiến quân nào ca được quần chúng hoan nghênh bằng bài đó; mà người sáng tác nó, Jack Judge, ngày phải bán cá, đêm phải đóng kịch mới đủ sống.
Bài "Chỉ bạc trong vàng" cũng vào hạng nổi danh nhất. Hart P. Dank viết bài đó để tặng bà vợ, và đem bán được có ba Anh kim. Sau, hai ông bà cãi nhau rồi bỏ nhau; và ông mất cách đây khoảng ba chục năm, trong cảnh bần hàn cô đơn, tại một căn nhà trọ tồi tàn. Trên một chiếc bàn kê ở đầu giường, nơi ông tắt nghỉ, người ta thấy một miếng giấy ghi mấy chữ này:"Giá mà sống cô đơn thực là khổ não".
Một tập nhạc rất nổi danh là tập "Hoạt kê"(Humoresque). Lạ lùng thay, con một người đồ tể đã trứ tác nó ở bên những cái máng lúa trong một chuồng heo ở Iowa. Không có giờ nào, bất kỳ ngày hay đêm mà tập nhạc đó không được hát ở một nơi nào trên thế giới.
Soạn giả tập đó là một người Bô Hem tên là Anton Dvorak. Năm mươi tuổi ông mới tới Hoa Kỳ, nhưng không chịu nổi cảnh ồn ào náo nhiệt ở Nữu Ước, ông lại một làng nhỏ ở Iowa, làng Spillville nơi đó hiện nay cũng vẫn chưa có một đường xe lửa hoặc một đường lát đá nào chạy qua.
Ở Spillville ông đã soạn được một phần khúc"Tân thế giới hòa tấu"(New World Symphony) một trong những khúc thanh cao nhất của nhân loại.
Ông sinh chín mươi hai năm trước trong một làng nhỏ ở xứ Bô Hem, tại châu Âu. Ông ít học, phải giúp việc trong nhà. Và trong khi ông làm dồi heo, cắt thịt thì các bài ca, các bản nhạc văng vẳng trong óc ông.
Vì vậy, ông quyết chí tới Prague để học nhạc. Nhưng tiền đâu? Ông chỉ có ít đồng xin được của khách qua đường sau khi đờn vĩ cầm cho họ nghe, cho nên ông phải sống trong một phòng ở sát mái nhà tại khu nghèo nhất trong châu thành. Mà không được ở một mình nữa, phải ở chung với hai sinh viên khác cho đỡ tiền mướn.
Mùa đông, phòng lạnh như băng; mà ông lại ốm yếu vì đói, vì phải nhịn ăn để mướn một dương cầm cũ kỹ phím đã hư bộn không còn dùng được. Ngồi ở bên dương cầm đó, trong phòng lạnh đó, ông đã soạn nhiều khúc hòa tấu đẹp, nhưng không có tiền mua giấy để chép lại. Thỉnh thoảng lượm được ở ngoài đường một miếng giấy, ông đem về, giữ kỹ để chép nhạc.
Tuy nhiên ta không nên phàn nàn cho ông vì chính cảnh nghèo khổ đó đã giúp ông có thiên tài.
Lần sau, bạn có thể nghe bản "Hoạt kê", bạn thử rán tìm trong đó xem có một cái đẹp bí mật, một tình cảm êm ái triền miên mà nhờ chịu đau khổ, chịu đói lạnh, chịu thất vọng ông đã tìm ra, gợi được rồi ký thác vào tác phẩm?.
Chương 39
Nhờ Vô Khám Mà Họ Thành Danh Sĩ
Nhà viết truyện ngắn nổi danh nhất thế giới là ai, bạn biết không? Tôi chắc bạn đã đọc truyện của nhà đó rồi. Sách của ông ấy đã bán được trên sáu triệu cuốn; và đã được dịch ra gần khắp thứ tiếng, kể cả tiếng Nhật, tiếng Tiệp Khắc, tiếng Đan Mạch, tiếng Na Uy, tiếng Thế Giới, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Thụy Sĩ, tiếng Nga. Bút hiệu của ông là O. Henry, và ông sanh cách đây khoảng bảy chục năm.
Đời ông là một tấm gương rực rỡ cho ta soi: ông đã chiến đấu với những khó khăn phi thường và thắng được những trở ngại ghê gớm.
Trước hết ông bị trở ngại vì ít học. Ông không có bằng trung học và chưa bao giờ bước chân vào một trường đại học, vậy mà những tiểu thuyết của ông hiện nay được nghiên cứu như những áng văn kiểu mẫu trong già nửa các trường đại học Hoa Kỳ.
Rồi ông lại bị trở ngại vì bệnh tật tàn phá cơ thể ông. Các bác sĩ sợ ông sẽ chết vì lao phổi, bắt ông bỏ nhà cửa ở miền Bắc Carolina, xuống miền Texas chăn cừu trong một trại ruộng.
Sau cùng ông mắc cái họa vô khám. Việc xảy ra như vầy:
Sau khi sức đã bình phục, ông xin được một chân giữ két tại một ngân hàng ở Austin, xứ Texas. Các cao bồi và chủ trại nuôi cừu ở miền đó thường vô ngân hàng và có thói quen, nếu các thầy ký trong ngân hàng bận việc quá thì tự mình lấy tiền ra, ký giấy biên nhận, rồi đi về.
Thình lình một hôm, một viên thanh tra tới xét quỹ thấy thiếu tiền. O. Henry giữ két, chịu trách nhiệm, bị bắt, đem xử, và nhốt khám năm năm, mặc dầu có lẽ ông không tham lam, lấy một đồng nào trong két.
Bị nhốt khám là một tai họa lớn, nhưng về một phương diện khác, lại là một điều rất may cho ông, vì nhờ ngồi khám mà ông bắt đầu viết những truyện ngắn và sau này được nổi danh trong những nước dùng tiếng Anh.
Mới rồi, tôi nói chuyện với ông Warden Lawes, người coi khám Sing Sing. Ông bảo tôi rằng hầu hết những tội nhân trong khám đó đều muốn chép lại đời mình: vì vậy mà nhà khám mở một lớp dạy viết truyện ngắn cho họ. Họ không phải trả học phí. Tất nhiên là rất ít người thành công, tuy nhiên, có nhiều văn sĩ nổi danh nhờ đã viết trong khám.
Chẳng hạn Walter Raleigh, con người bảnh bao, đính kim cương vào giầy, đeo trân châu ở tai, vị triều thần khéo nịnh, đã trải áo mình xuống bùn cho Nữ Hoàng Elisabeth giẫm lên, cũng đã viết sách trong khám. Ông ta bị giam mười bốn năm trường vì bị một chính khách ghen ghét.
Phòng giam của ông ẩm ướt, chật hẹp, tường thấm bùn hôi hám. Ông khổ cực vì lạnh, cánh tay trái của ông bị phong thấp mà cứng đơ, bàn tay ông sưng lên, cử động rất khó. Nhưng mặc dầu đau lòng và khốn khổ ông cũng soạn được ở trong khám một bộ lịch sử thế giới mà hiện nay, sau ba trăm năm, các trường trung học và đại học còn dùng.
Trong mười hai năm, John Bunyan bị giam vì những tư tưởng về tôn giáo. Ở trong khám ông phải đánh dây để có tiền nuôi vợ và bốn đứa con. Nhưng trong khi tay ông đánh dây, thì óc ông suy nghĩ về những tư tưởng lớn lao và trong phòng giam tối tăm lạnh lẽo, ẩm thấp, ông đã viết một cuốn mà hầu hết các sinh viên Mỹ đã đọc tức cuốn Pilgrim's Progress. Trừ Thánh kinh ra, chưa có cuốn nào được dịch ra nhiều thứ tiếng bằng cuốn đó.
Carvantes viết trong khám một cuốn sách có danh nhất cổ kim, cuốn Don Quichotte. Voltaire viết trong khám. Oscar Wilde viết trong khám. Tôi suýt muốn kết luận rằng nếu bạn muốn viết một cuốn sách, thì nên đi đập bể kính cửa sổ của người khác để được nhốt khám.
Khi Richard Lovelace bị nhốt vô khám ở Anh, hai trăm rưởi năm trước, ông đã làm cho phòng giam của ông nổi danh vì ông viết trong đó một bài thơ bất hủ. Đó là một bài thơ tình ông gởi cho người yêu của ông. Bài ấy nhan đề là: Viết ở trong khám để tặng Althea.
Vách đá không làm thành một cái khám,
Chấn song sắt cũng không làm thành một cái lồng.
Tâm hồn nào trong sạch, và vô tội.
Gọi đó là một nhà tu.
Nếu trong tình yêu anh được tự do,
Và trong tâm hồn anh được tự do,
Thì chỉ có những bực thiên thần trên cao kia,
Mới được vui hưởng một sự tự do như vậy.
Chương 40
Trí Nhớ Tầm Thường Cũng Có Thể Thành Thiên Tài
Một hôm ăn cơm trưa tại khách sạn Vandebilt, ở Nữu Ước, tôi lấy làm lạ rằng sao cô coi phòng gởi áo, dỡ nón của tôi cất đi mà không đưa cho tôi một cái vé. Tôi hơi ngạc nhiên, hỏi cô tại sao vậy; cô đáp là không cần, vì cô nhớ mặt tôi rồi, mà quả thực vậy. Cô bảo đã thường cất nón và áo cho hai trăm người khách, chất đống một chỗ, và khi khách ra về, nón, áo của ai cô trả cho người đó, không hề lầm lộn bao giờ. Tôi hỏi người quản lý khách sạn, ông này nhận rằng đã mười lăm năm, ông ta chưa thấy cô ấy nhớ lộn lần nào.
Tôi ngờ rằng ông Thomas Edison không nhớ nổi như vậy, và bạn có tặng cho ông một triệu Anh kim, ông cũng đành chịu. Trí nhớ của ông kém lắm, nhất là hồi ông trẻ. Ở trường, học đâu quên đấy, luôn luôn phải đội bảng, làm cho các thầy học đều thất vọng, cho óc ông là rỗng không, đần độn quá không học được. Các bác sĩ cũng bảo ông sau này tất đau óc vì hình dáng đầu ông kỳ cục quá. Sự thực, suốt đời ông, ông chỉ đi học có ba tháng. Rồi ông về nhà, bà thân ông dạy ông; và chúng ta phải mang ơn cụ vì nhờ cụ mà Thomas Edison đã biến đổi hẳn thế giới chúng ta đương sống đây.
Nhưng sau này, Thomas Edison đã luyện một tri nhớ đáng phục về những sự kiện khoa học, thuộc hết những sách khoa học trong thư viện mênh mông của ông. Ông tập được tài tập trung tư tưởng một cách kỳ dị, quên hết được mọi việc trừ công việc ông đương làm.
Một hôm, ông đem hết tâm trí để giải một bài toán khoa học trong khi ông lại tòa đóng thuế. Ông phải đứng nối hàng một lúc, và khi phiên ông tới thì ông quên bẵng tên ông đi. Một người đứng bên, thấy ông lúng túng, nhắc cho ông rằng tên ông là Thomas Edison. Sau ông kể lại rằng, những lúc như vậy, dù gặp việc nguy cấp đi nữa ông cũng không nhớ ngay tên ông được, phải đợi một chút mới lần lần nhớ ra.
Ông thường làm việc suốt đêm trong phòng thí nghiệm. Một buổi sáng, trong khi đợi điểm tâm, ông buồn ngủ quá, gục xuống ngủ. Một người giúp việc ông, vui tính muốn phá ông, đặt những chén đĩa dơ của mình mới ăn xong ở trước mặt ông. Ít phút sau, ông tỉnh dậy, giụi mắt, thấy những miếng bánh vụn bên cạnh một đĩa hết nhẵn đồ ăn và một ly cà phê cạn, suy nghĩ một chút rồi cho rằng trước khi ngủ mình đã ăn rồi, bèn đứng dậy, châm một điếu xì gà, hút và bắt đầu làm việc, không hay gì hết, cho tới khi các người giúp việc cười ồ lên ông mới biết rằng mình bị gạt.
Asa Grey, nhà thực vật học trứ danh ở Mỹ, có thể đọc thuộc lòng tên của hai mươi lăm ngàn giống cây; và theo sách chép thì Jules César có thể nhớ được tên của hàng ngàn quân lính.
Trường đại học lớn thứ nhì ở thế giới là một trường của tín đồ Hồi giáo tại Caire, kinh đô Ai Cập. Muốn được vô học, thí sinh phải đọc thuộc lòng trọn kinh Coran. Kinh đó dài bằng kinh Tân Ước và đọc ba ngày mới hết. Vậy mà có trên hai chục ngàn sinh viên thuộc lòng nó được.
Byron khoe rằng có thể nhớ hết thảy những bài thơ của ông. Nhưng Walter Scott lại nhớ dở lắm: một bài thơ chính ông làm mà ông cứ tưởng là của Byron, thành thử khen nó nhiệt liệt.
Francis Bacon thuộc lòng một trong những cuốn nổi danh nhất của ông; còn Joseph Fefferson, luôn trong mười hai năm, gần như đêm nào cũng diễn kịch Rip Van Winkle mà cũng vẫn quên hoài.
Sử gia Macaulay có lẽ nhớ giỏi nhất, từ xưa đến nay không ai bằng. Ông chỉ nhìn một lần một trang giấy nào là óc ông như chụp hình trang giấy đó rồi. Ông chỉ đọc một lần một chương sách là thuộc. Cho nên ông viết sử mà không cần thu thập sách để tra cứu, vì bao nhiêu sách để ở cả trong óc ông. Tương truyền có lần muốn thắng cuộc, ông học một đêm mà thuộc tập Paradise Lost.
Calvin Coolidge mỗi đêm thường đọc ít trang Paradise Lost trước khi đi ngủ. Nhưng nếu bạn mất ngủ thì nên đọc nó: công hiệu hơn thuốc ngủ đấy.
Nhiều người có một trí nhớ lạ lùng. George Bidder là một người Anh phong lưu, mất trên sáu chục năm trước. Khi mới mười tuổi, chỉ mất hai phút, ông ta đã tính nhẩm được tiền lời của 4444 Anh kim, đặt lãi 4 phân rưỡi mỗi năm, trong 4444 ngày.
Cách đây không bao lâu, một người kỳ dị, chết ở Coldwaten, xứ Michigan. Người ta gọi ông là "Đường rầy Jack". Ký tính của ông lạ lùng; trong hai chục năm, ông lại khắp các trường đại học khoe tài với các sinh viên. Ông thường lại một khách sạn mà các sinh viên hay lui tới ăn uống, bảo: Tôi là"Đường rầy Jack"đây. Cho các anh hỏi tôi bất kỳ điều gì về Sử Ký, tôi sẽ đáp đúng cho mà coi. Họ bèn hỏi ông những câu bí hiểm như: "Bà Socrate cưới ông Socrate hồi bao nhiêu tuổi?". Và ông ta trả lời tức thì: "Ông Socrate bốn chục tuổi mà chưa lập gia đình; rồi mặc dầu ông hiền triết làm vậy, mà cưới một cô dưới mình mười chín cái xuân xanh". Hoặc họ hỏi người ta dùng lưỡi lê đầu tiên ở trận nào, ông đáp ngay là trong trận Killiecrakie ở Scotland, ngày 27 tháng 7 năm 1689. Tất nhiên các cậu sinh viên phải tặng ông ta một bữa cơm và góp tiền để mua cho ông ta một bộ áo.
"Đường rầy Jack"mất năm bảy mươi chín tuổi trong một ngôi nhà cũ, bỏ hoang. Ông để di chúc lại, tặng xác ông cho đại học đường Michigan để ban y khoa xem xét bộ óc ông mà tìm nguyên do tại đâu ký tính ông lạ lùng như vậy. Tôi đã viết thư hỏi Giáo Sư W. B. Pillsbury, khoa trưởng ban Tâm Lý ở trường đại học đó, ông đáp rằng:"Đường trầy Jack" đã tốn công luyện ký tính và chuyên học sử mà dược vậy. Ông lại nói rằng khoa học đã xét nhiều người có ký tính lạ lùng thì thấy một số cực kỳ thông minh, còn một số khác gần như ngu đần.
Như vậy nghĩa là nếu bạn có một ký tính phi thường thì một là bạn gần bậc thiên tài, hai là bạn gần bọn điên. Xin bạn tự xét lấy xem mình ở hạng nào.
Còn nếu như ký tính của bạn tệ như của tôi, thì xin bạn cũng dừng buồn, vì Léonard de Vinci, một danh nhân bậc nhất cổ kim, mà muốn nhớ điều gì, luôn luôn phải ghi vào sổ tay, và hễ ghi xong là đánh mất, kiếm lại không ra, như bạn và tôi vậy.
Dale Carnegie
Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...