Trịnh Công Sơn sinh ngày 28.2.1939 tại thành phố Buôn Ma Thuột.
Hai năm về trước, cụ thân sinh lên đây chơi, nhân thấy cảnh non xanh nước biếc
xinh đẹp và thành phố núi yên tĩnh bèn đưa gia đình lên đây lập nghiệp dài lâu.
Năm sau hai ông bà sinh con đầu lòng, nhưng không nuôi được. Năm tiếp theo, Trịnh
Công Sơn ra đời, gia đình xem như con trưởng.
Trăng thiên cổ (Chân dung Trịnh Công Sơn)
Tranh sơn dầu Bửu Chỉ
Vết tích của thời kỳ ấu thơ này chẳng còn để lại gì, ngoài một
tấm ảnh của tuổi hài đồng, cùng một ít kỷ niệm mờ nhạt trong trí nhớ của người
thân; với Sơn chắc cũng không hơn gì. Dĩ nhiên thôi vì nói như M. Ponty, nếu
người ta không thể dừng lại một phút sau khi chết để biết mình chết như thế
nào; thì người ta cũng không thể ra đời sớm hơn một phút, để biết mình ra đời
như thế nào. Tuổi hài đồng là một kỷ niệm bất khả tri của đời người. Dù vậy, Trịnh
Công Sơn vẫn coi rằng đây là thời kỳ trọng đại nhất trong cuộc đời của anh, và
anh cố tìm đọc ở trong đó những tín hiệu của định mệnh mà anh sẽ phải đảm nhận
sau này. Trịnh Công Sơn cảm nhận rằng tuổi hài đồng của anh là thời điểm mà
thiên thần Ni-ca-e thông báo tin buồn về một sự ra đời, và rồi đây ở tuổi biết
suy nghĩ Trịnh Công Sơn bắt đầu nghiền ngẫm về tin buồn đó trong nghệ thuật của
anh, rằng cuộc đời này chẳng có gì vui, tuy nhiên, người ta vẫn phải sống hết
cuộc đời của mình, điều mà triết học hiện sinh gọi là “Courage to be”. Trong
bài hát Gọi tên bốn mùa, Trịnh Công Sơn viết: “Tin buồn từ ngày mẹ
cho mang nặng kiếp người”.
Âm nhạc của Trịnh Công Sơn xuất phát từ nỗi buồn có tính cách chung thẩm như vậy,
cùng với cái nhìn âm u của anh ném ra khắp thế giới, bất cứ chỗ nào đôi mắt của
anh từng hướng đến, kể cả cõi tình. Mà người ta có lý khi nghĩ về cuộc đời của
Sơn như một hiện hữu không thể có niềm vui. Sau khi triển khai tất cả ý nghĩa của một hiện hữu vào nghệ
thuật, Trịnh Công Sơn chỉ nhìn thấy còn lại trong tay mình một chút vôi kết tủa
của nỗi cô đơn. Có thể nói rằng nỗi cô đơn là không khí tản mạn khắp trong nhạc
Trịnh Công Sơn, và là “tội tổ tông” con người phải gánh chịu từ thuở sơ sinh,
và không thể nói gì khác. Có thể nói ngay rằng nỗi cô đơn của phận người là một
đóng góp quí báu của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cho cảm hứng âm nhạc Việt Nam một
thời. Trong khi mãi dồn sức cho cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, nhiều người
đã quen với những lời hô hùng tráng mà quên đi rằng con người là một gã lữ hành
đi trong sa mạc. Nhưng một nền nghệ thuật đánh rơi mất nỗi cô đơn của phận người
chưa phải là một nền nghệ thuật hoàn hảo.
Bóng dáng nhân loại gần gũi và thân thiết nhất đối với con người trong tuổi sơ
sinh chính là hình bóng của người mẹ. Trong hầu khắp các ca khúc của anh, Trịnh
Công Sơn thường dùng từ Mẹ khi nói về Tổ quốc hoặc quê hương. Tổ quốc của Sơn
là một đất nước đổ vỡ vì chiến tranh, là một quê hương mịt mù trong khói lửa (Gia
tài của mẹ), là những bà mẹ quê bỏ hoang ruộng vườn, ngẩn ngơ nhìn trái quả
trên tay, nhớ về “một giàn đầy hoa” (Người mẹ Ô Lý). Tình cảm đau
thương về Tổ quốc là một cảm hứng lớn trong nhạc Trịnh Công Sơn, đã làm cho anh
mất ngủ, héo hon suốt tuổi thanh xuân, và từ đó, chín muồi thành thái độ phản
chiến trong nhạc của Trịnh Công Sơn. Nội dung phản chiến tuy nhất thời đã làm một
số người không bằng lòng, nhưng đó vẫn là tư duy chủ yếu của Trịnh Công Sơn
trong ba tập: Ca khúc da vàng, Phụ khúc da vàng, Kinh Việt Nam, và là
một nét nhân bản xứng đáng với nhân cách của một người công dân đối diện với một
cuộc chiến quá dữ dằn và kéo dài. Chính Nguyễn Trãi, danh nhân văn hóa thế giới
(do Liên hiệp quốc bầu chọn) đã từng nói “hòa bình là gốc của nhạc” dù
ông đã đi qua cuộc kháng chiến chống Minh với tất cả hăm hở của một người chiến
sĩ. Và trên con đường số Chín đầy máu lửa của một thời, đã từng có những người
lính Mỹ đứng dàn hàng ngang, không chịu đi hành binh để phản đối chiến tranh. Ở
đây, chúng ta thấy hậu quả quyết liệt và lâu dài của hành động phản chiến đó,
và bây giờ bất cứ nơi đâu trên thế giới có tiếng súng của kẻ gây chiến, người
ta lại thấy cần có hành động phản chiến như những người lính Mỹ nói trên. Vậy
phản chiến không hề là một thái độ hèn nhát của những kẻ không dám xung trận,
mà là hành vi dũng cảm của những người không muốn dùng máu lửa nhằm dập tắt một
thảm kịch máu lửa đang diễn ra khắp nơi. Đây là một ít hồi quang xa xôi của tuổi
sơ sinh mà chúng ta có thể tìm thấy trong sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công
Sơn.
Tôi muốn dừng lại ở đây trong khoảnh khắc để giải bày lòng biết ơn của cuộc đời
đối với vai trò đặc biệt quan trọng của Người Mẹ.
Tôi sung sướng được tiếp xúc gần gũi với thân mẫu Trịnh Công Sơn trong nhiều
năm kết bạn với anh, và được hưởng sự ngọt ngào từ trái tim người mẹ của bà. Bà
người nhỏ nhắn, dịu dàng. Tuy phải xoay xở lo cho cả gia đình, bà vẫn chăm lo
cho tám người con ăn học đàng hoàng, và lúc nào bà cũng giữ được phong thái ung
dung. Thỉnh thoảng, bà vẫn phì phèo một điếu thuốc Kent trên môi, và tiếp chuyện
một cách thành thạo những người bạn cùng lứa tuổi của con bà lúc Sơn đi vắng.
Dù con trai (Trịnh Công Sơn) đã lớn gần 50 tuổi, bà vẫn dành cho Sơn một tình yêu
thương đằm thắm và sự chăm sóc tỉ mỉ như đối với một đứa trẻ; và đáp lại về
phía mình, Trịnh Công Sơn cũng dành cho mẹ một niềm yêu mến và kính trọng. “Khi
một người mất mẹ ở tuổi 50 - Sơn viết - điều ấy có nghĩa là không còn gì có thể
dàn xếp được. Cái sa mạc để lại trong lòng bạn cứ thế mỗi ngày lan rộng ra và
cõi lòng bạn thì tan nát như một cánh đồng xanh tươi vừa trải qua một cơn bão lớn” (Trịnh
Công Sơn, thủ bút để lại). Tôi cho rằng nhiều nét trong tính cách của Trịnh
Công Sơn là thừa hưởng từ bà, thí dụ như sự tế nhị, tính dịu dàng và lòng bao
dung. Và với một người chuyên viết tình khúc như Trịnh Công Sơn, ta có thể nói
rằng một người tình mang đến cho ta thật nhiều ngọt ngào pha lẫn chút cay đắng,
còn tình yêu của người mẹ thì chỉ có sự cưu mang, và trái tim nhân từ mà thôi.
Một người tình luôn tự đặt mình trong quan hệ biện chứng giữa cho và nhận,
trong khi tình yêu của mẹ chỉ diễn ra trong một chiều của lòng từ tâm mà thôi.
Chúng con xin triệu lần biết ơn mẹ, ôi người mẹ tuyệt vời, Nam Mô Đại Từ Đại Bi
Quan Thế Âm Bồ Tát! Phải có một người mẹ từ mẫu như thế, và phải có một đàn em
trìu mến như thế mới có một tài năng kiệt xuất như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Không lạ gì bóng dáng của người mẹ thường hiện ra trong bài hát của Trịnh Công
Sơn, hiện ra thấp thoáng trong hầu khắp mọi bài hát hoặc hiện ra thành một tượng
đài toàn vẹn, như Người mẹ Ô Lý, Ngủ đi con, Ca dao mẹ, Huyền thoại mẹ… Với Trịnh Công Sơn, ý niệm lời ru không chỉ dành riêng cho những
gì êm ái, ve vuốt (Ru tình) mà còn là những gì dữ dội, tàn pha (Đại
bác ru đêm) những gì đã trở thành thường xuyên, thường xuyên đến độ quen
thuộc với tác giả, giống như một căn bệnh kinh niên của người già.
Trịnh Công Sơn trở lại Huế cùng gia đình, sống ở vùng Bến Ngự. Anh đã sống tiếp
những năm thơ ấu ở đây, tiếp giáp với dòng sông Bến Ngự và khu ngoại ô Nam Giao
đầy những làng vườn thơ mộng vùng trung du, đắm mình trong tiếng kinh cầu và tiếng
chuông thu không của những ngôi chùa cổ ở Bến Ngự. Anh đi học ở Trường tiểu học
Nam Giao và vào những trưa hè, thường theo đuổi thú vui đi bắt ve ve trong các
khu vườn.
Gần Trường tiểu học Nam Giao, có ngôi tháp của vị thiền sư nổi tiếng khắp trong
vùng, gọi là tháp Cát Ma (tiếng địa phương gọi là tháp Kiết Ma). Sư Cát Ma kết
bạn với sư Từ Quang. Hai người thân nhau như bóng với hình, và thường tranh luận
về tư tưởng Phật giáo. Chiều chiều dân trong vùng vẫn thấy hai vị thiền sư từ
trên dốc đi xuống vừa đàm đạo sôi nổi về những vấn đề kinh điển. Có lần một núi
lửa nhỏ đã xuất hiện ngoài khơi tỉnh Phan Thiết và sư Cát Ma tích cực hưởng ứng
một phong trào vận động nhằm quyên góp giúp đồng bào nạn nhân. Sư Từ Quang từ
chối sự quyên góp, cho rằng theo lý thuyết tiểu thừa của Phật giáo, thì mỗi người
chỉ có thể độ lấy bản thân, không thể lo thay cho người khác. Ngài Cát Ma nói lại
rằng lịch sử Phật giáo công nhận rằng sau khi thành đạo, Đức Phật đã độ cho vợ
là công chúa Gia Du Đà La, con trai là thái tử La Hầu La… Hôm sau, vừa gặp ngài
Cát Ma, sư Từ Quang đã nói: nếu chúng ta quyên tiền cho đồng bào nạn nhân Phan
Thiết, thì thay vì dùng tiền ấy mua quần áo, có kẻ lại dùng tiền ấy để mua cây
dao giết người thì biết làm thế nào? Cứ thế họ tranh luận với nhau không dứt.
Hòa thượng Từ Quang mất vào khoảng năm 1915. Ngài Cát Ma bèn cho dựng một bức
tường bên cạnh ngôi tháp định sẽ dành cho mình và đối diện với tháp của sư Từ
Quang, nguyện rằng sẽ viết lên đó những ý kiến của mình về một vấn đề kinh điển
nào đấy mà ngài tự đặt ra và hy vọng rằng âm hồn của ngài Từ Quang sẽ đọc thấy.
Người Huế là như vậy, thích tranh luận dù ở tận bên kia thế giới. Những người
đàn bà đi chợ để bán những trái cây sản xuất được trong vườn thường chọn một
hai trái tốt nhất đặt ở tháp Kiết Ma, hoặc khi không có trái cây thì họ có ý
thành kính bằng cách đặt vào đấy những viên đá xinh xắn nhặt được trên đường.
Cũng nên nhắc lại rằng khoảng năm 1951-1956, gia đình của Trịnh Công Sơn thường
xuyên vào ra Huế - Sài Gòn, ngụ tại đường Hàng Bè (nay là đường Huỳnh Thúc
Kháng) sau dời về phố Phan Bội Châu (nay là đường Phan Đăng Lưu). Cụ thân sinh
(và thân mẫu) của Trịnh Công Sơn hoạt động cho phong trào kháng chiến, bị bắt
giam nhiều lần, và đến tháng 6-1955 trên đường đi công tác, ông bị tai nạn xe
qua đời. Trịnh Công Sơn và các em được mẹ đi quy y ở chùa Phổ Quang nơi dốc Bến
Ngự, pháp danh là Nguyên Thọ. Sơn tụng kinh, ăn chay một tháng bốn lần, không
ăn nhiều hơn vì trong nhà lo cho sức khoẻ của Sơn, trên đầu giường Sơn luôn có
một chuỗi hạt và một chiếc áo tràng màu lam. Gia đình thường hay đi chùa vào
ngày rằm, mồng một. Vì vậy, Trịnh Công Sơn không tránh khỏi ít nhiều tư tưởng
Phật giáo, như chủ đề của của các bài hát Cõi tạm, Ở trọ, Đóa hoa vô thường, hoặc Một
cõi đi về. Nhất là tư tưởng Sinh, Lão, Bệnh, Tử vẫn thường xuất hiện trong
âm nhạc của Trịnh Công Sơn. Và trong những bài như Biết đâu nguồn cội, thì
giai điệu của âm nhạc nhắc nhở lại một cách rõ ràng giọng tụng niệm của Phật
giáo.
Trên đây là tất cả những gì Phật giáo ở Huế đã để lại dấu ấn trong âm nhạc của
Trịnh Công Sơn, làm tăng thêm giọng điệu buồn bã của các ca khúc.
Thời kì ở Bến Ngự, Trịnh Công Sơn thường ham mê thú vui đi bắt ve ve với một
vài người bạn thân. Những con ve sống đời ấu trùng suốt bốn năm dưới những hang
sâu tự khoét lấy trong lòng đất, đợi đến mùa hè để trưởng thành. Khi thân thể
đã chuyển hóa thành hình con ve, chúng ngoi lên mặt đất đậu trên những cành
cây, hát vang lừng những tuổi học trò cho đến một ngày đầu thu thì đời ve kết
thúc. Suốt đời ve ve, nó chỉ biết ca hát, người ta thường mệnh danh nó là “ca
sĩ mùa hè”. Đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn như là một mô phỏng của đời ve, với tấm
thân rỗng không, suốt đời chạy về phía chân trời tràn ngập tiếng hát ca.
Dạo ở Bến Ngự, thỉnh thoảng Trịnh Công Sơn đi bộ từ nhà qua trường, thường đi bộ
dọc theo bờ sông Hương, băng qua bến đò Thừa Phủ. Có lẽ chính đó là thời kỳ anh
bắt đầu đọc được từng nét Huế trên cây xanh, và sau này nhạc của Trịnh Công Sơn
tràn ngập thiên nhiên Huế (ví dụ như bài Biết đâu nguồn cội).
Cho đến tuổi thiếu niên, gia đình mới mua cho Sơn một cây đàn ghi-ta, điều mà
lâu nay anh vẫn hằng mơ ước. Cho đến năm 12 tuổi, Sơn vẫn thường đánh bạn với
cây sáo trúc, những gì cần cho anh trong âm nhạc về sau này đều do tự học.
Và người ta tự hỏi: vậy thì Trịnh Công Sơn đã học nhạc từ bao giờ? Thì cũng giống
như bảo con ve ve kia đã học nhạc từ bao giờ? Có lẽ nó đã học nhạc từ tuổi còn
là ấu trùng, nằm tu luyện trong lòng đất tăm tối, hay nói như một ca sĩ chuyên
nghiệp: Trịnh Công Sơn đã học nhạc từ trong “tiền kiếp”.
Thật hay!
Trả lờiXóa