Chủ Nhật, 1 tháng 8, 2021

Tâm thức "trôi" trong thơ Văn Cao

 Tâm thức "trôi" trong thơ Văn Cao

Trong bài thơ Đêm ngàn của Văn Cao viết năm 1941, có mấy câu thơ thật ấn tượng mà mỗi lần đọc lên tôi có cảm giác mọi thứ quanh mình đều chông chênh, chao đảo, huyễn hoặc
Sương buông chừng núi vấn vương
            Tiếng chim lạ cất tiêu thương buồn trời
            Cái gì cũng thấy chơi vơi…
(Đêm ngàn)
“Cái gì cũng thấy chơi vơi”. Phải chăng, đó là cảm giác bồng bềnh của tâm thức “trôi” trong thơ Văn Cao mà nếu đối sánh với khí hậu của thơ ca lãng mạn đương thời, ta thấy đây là một giọng thơ mang âm hưởng lạ.
Cái cảm giác “chơi vơi” nầy như một dự báo về thân phận của thi nhân. Và đó là căn tính tạo nên tâm thức “trôi” trong thơ Văn Cao. Một tâm thức với cái nhìn vô định về cuộc đời như chiếc thuyền bềnh bồng trôi dạt.
Khuya rồi ốc rục trong làng
            Thuyền ai vơ vẩn trôi sang bên nầy
(Đêm mưa)
Đó là cảm giác trôi trong nỗi lo sợ trước cuộc sống đầy bất an đã trở thành nỗi ám ảnh trong tâm thức thi nhân. Nên:
Có lúc
            ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt
            có lúc
            nước mắt không thể chảy ra ngoài được
(Có lúc)
Và dường như tâm trạng hốt hoảng này là căn duyên xô dạt nhà thơ trôi trong nỗi cô đơn chất ngất của phận người.
Chúng tôi hai người
            Một bóng…
(Đôi bạn)
Để rồi từ trong nỗi cô độc ấy, mọi hiện hữu chỉ còn là một thực tại trống rỗng. Nên tâm thức của nhà thơ đã trôi trong khoảng trống hư vô. Và mọi sự vật đều rơi vào một khoảng không bất định.
Một cái bình vỡ
            Một khoảng trống
            Một người đi xa
            Một khoảng trống
                                    mênh mông…
(Khoảng trống)
Có thể nói cái tâm thức “trôi” trong hư vô, bất định này đã trở thành một sự ám ảnh miên viễn như một dòng sông vô thức chảy suốt hành trình thơ Văn Cao. Đó là hình ảnh cánh cửa mở ra sau “một tiếng động” nhưng không có con người. Mà:
Chỉ thấy
            Một chiếc cầu thang nhà trên gác
            Và ánh sáng
                        Không động đậy
(Cánh cửa)
Hay hình ảnh “người đi dọc biển”, không để lại “dấu chân”. Tất cả như bị cuốn trôi vào cái mênh mông của biển cả bao la. Và phải chăng, đó chính là hiện thân của sự mỏng manh kiếp người trước hư vô !
Người đi
            dọc biển
            không để lại
            dấu chân
(Người đi dọc biển)
Bởi lẽ, như chính Văn Cao đã nói “Cuộc đời và nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng” (1)
Có phải vì những bài thơ của Văn Cao đều gợi cho chúng ta cái cảm giác bồng phiêu, trôi dạt và mỏng manh như thế mà Tạ Tỵ khi cảm nhận về Văn Cao cho rằng: “Văn Cao vẫn hiện diện trong tôi với hình dáng một tinh cầu giá lạnh, với cô đơn dằng dặc ở cuối khung trời ngăn cách” (2). Còn Trần Văn Nam trong bài viết “Văn Cao, dòng sông ba nhánh sương mù” thì cho rằng: “Tâm hồn Văn Cao có nhiều cảm hứng về sự huyền ảo” (3). Phải chăng chính căn tính của tâm hồn thi nhân luôn sống trong nỗi “cô đơn dằng dặc” của “một tinh cầu giá lạnh” đã tạo nên cái tâm thức “trôi” trong thơ Văn Cao.
Rõ ràng, đi vào thế giới thơ Văn Cao là đi vào thế giới của sự huyền hoặc, linh diệu, trống không. Và trong một chừng mực nào đó chúng ta lại bắt gặp trong thơ ông cái triết lý vô thường của nhà Phật. Cảm thức vô thường ấy hiện hữu trong thơ Văn Cao như hơi thở, như không khí trong đời sống. Đọc lên ta thấy hiển hiện bóng dáng của thơ thiền, của thơ Haiku.
Gió cứ như không
            Trôi qua cửa sổ
            Một mảnh trời xám
                        Xuống dần
                        Xuống dần
                 Có tà áo trắng
                 Loang qua khung cửa
                 Mùa thu phai đi
                 Màu hoàng lan
(Mùa thu)
            Và đây nữa, bài thơ “Không đề” cũng là một thông điệp đầy chất thiền mà Văn Cao gởi đến chúng ta.           
Con thuyền đi qua
           để lại sóng
            Đoàn tàu đi qua
            để lại tiếng
            Đoàn người đi qua
            để lại bóng
            Tôi không đi qua tôi
 để lại gì
(Không đề)
Tôi không đi qua tôi / để lại gì. Câu thơ như một lời phản tỉnh đối với mỗi con người sống trên cõi đời. Một sự phản tỉnh vừa có ý nghĩa như một giá trị của hiện hữu lại vừa như một giá trị của hư vô. Hiện hữu mà hư vô, hư vô mà hiện hữu. Cái cảm giác ấy chính là cội nguồn của tâm thức “trôi” trong thơ Văn Cao, giúp ông vượt lên những tai ương, hoạn nạn, những cám dỗ để không đánh mất mình trong vũng lầy của lợi danh, dục vọng mà nhiều khi đó là nguyên nhân đẩy ta vào bi kịch. Bởi nói như Đặng Tiến: “Thơ Văn Cao là cuộc tra vấn thường xuyên cuộc sống và con người, về thân phận về ước vọng” (4). Có lẽ cái tâm thức “tra vấn thường xuyên” ấy không phải chỉ có ở Văn Cao mà đó là một phẩm chất, một ý thức trong nhân cách của những nghệ sĩ lớn. Đây chính là một hệ giá trị làm cho tác phẩm của họ vượt không thời gian để trở thành bất tử.
Cuộc đời là thế đó. Tất cả rồi cũng trở về với cát bụi, cũng trôi theo thời gian và tan chảy vào cõi hư vô. Thân phận con người chỉ là một cánh bèo bồng bềnh trôi trên dòng nước, là con thuyền trôi trên đại dương mênh mông, vô định, là ánh chớp mỏng manh cuối trời… cái số kiếp ấy, cái tâm thức ấy đã kết tinh trong thơ Văn Cao như một giá trị mà bài thơ “Trôi” là một điển hình.
Tôi thả con thuyền giấy
            Con thuyền giấy trôi
            Tôi thả một bông hoa
            bông hoa trôi
            Tôi thả một chiếc lá
            chiếc lá trôi
            Tôi ôm em trong tay
            em vẫn trôi
(Trôi)
Văn Cao là một nghệ sĩ đa tài. Người ta biết đến Văn Cao không chỉ có thơ, mà còn có nhạc, hoạ, kịch… Thành công của Văn Cao chưa hẳn là thơ nhưng chính thơ lại góp phần hiển lộ tính chất đa tài của Văn Cao. Và cũng chính thơ đã cho thấy sự nhất quán trong tư tưởng nghệ thuật của ông. Đó là tư tưởng của một nghệ sĩ luôn phóng chiếu sự sáng tạo của mình trên đôi cánh của chủ nghĩa siêu thực và hiện thực.
Tâm thức “trôi” trong Thơ Văn Cao chính vì thế cũng chính là tâm thức “trôi” trong hoạ, trong nhạc với những tình khúc bất tử như Buồn tàn thu, Bến xuân, Trương Chi, Suối mơ, Thiên thai… Nhiều lời trong các bài nhạc của ông cũng đầy chất thơ mà mỗi khi hát lên luôn tạo cho ta cảm giác nao lòng như đang trôi trong cõi phiêu bồng vô định của cuộc đời.
“Thiên thai, ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian“
…….
“Thiên thai chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian
            Có một mùa đào đông ngày tháng chưa tàn phai một lần
                                                                                                            (Thiên thai)
“Suối mơ, bên rừng thu vắng
            Giòng nước trôi lững lờ ngoài nắng
            Ngày chưa đi sao gió vương?
            Bờ xanh ngắt bóng đôi cây thuỳ dương”
(Suối mơ)
Lamartine cho rằng: “Những tiếng hát hay nhất là những tiếng nấc”. Quả thật, nhạc Văn Cao là những tiếng nấc của sự thổn thức, của những khát vọng yêu thương nồng cháy đối với cuộc sống và con người. Chính vì vậy cùng với nhạc, hoạ, thơ Văn Cao đã góp phần hoàn thiện thế giới nghệ thuật và chân dung tinh thần của mình, một nghệ sĩ đa tài mà thiên năng của ông đã làm rạng rỡ nền nghệ thuật dân tộc. Bởi nói như Tạ Tỵ “Ở Văn Cao, mỗi lời thơ là một hạt ngọc, mỗi tiếng nhạc là mỗi sợi tơ, mỗi màu sắc là một vùng hào quang diễm lệ” (5). Tìm đến với thơ Văn Cao là tìm đến một giòng sông dịu êm, yên bình, tự tại của một tâm thức “trôi” trong những dòng chảy cuộc đời mà chính ông đã trải nghiệm. Tâm thức “trôi” trong thơ Văn Cao, vì vậy là tâm thức của một sự nghiệm sinh. Thơ ông là dòng ý thức về sự hiện hữu của phận người mà sự tồn sinh của ông đã minh chứng cho sự hiện hữu đó.
Song tâm thức “trôi” trong thơ Văn Cao tuy nhuần thấm lẽ vô thường và bồng bềnh trong hư vô bất định nhưng không bao giờ lạc hướng. Ngược lại ông luôn thể hiện chủ kiến của mình trước cuộc đời. Với lẽ sống cao đẹp của người nghệ sĩ, ông luôn nêu cao ý thức trách nhiệm công dân trước xã hội và nhân dân. Và đây chính là cảm hứng chủ đạo để Văn Cao viết những bài thơ mang hơi thở nóng hổi của hiện thực cuộc sống như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa Đông 1946, Quy Nhơn 3, trường ca Những người trên cửa biển… Đồng thời đó cũng là tiếng gọi thao thiết từ trong tâm cảm, để ông trở thành một nghệ sĩ luôn dấn thân vì dân tộc:
                            Những năm tháng Hải Phòng đầy biến động
                            Đời tôi như cái phao trên mặt biển
                            ………
                            Tôi giờ đây liếm môi nóng bỏng
                             Nhìn ra biển bao la
                             Lòng hãy còn nhiều khát vọng
                                                             còn rất nhiều khát vọng
                             Biển thành người khổng lồ kêu khát suốt
                                                                                     ngày đêm
( Những người trên cửa biển )
Vì vậy, thi nhân luôn ước mong “gặp được biển” để tắm mình trong lòng biển mênh mông vô tận, thẳm sâu như một biểu tượng của khát vọng tự do.
Tôi sống
            Nhìn những chiếc lá trôi theo dòng suối
            Đến mùa gió Nam thổi
            Tôi lại đi theo những chiếc lá
            Phiêu du
            Tới bao giờ tôi gặp được biển
(Tôi ở)
Bởi vì, hơn ai hết Văn Cao là người luôn ý thức về giá trị của sự sống mà ông đã chọn lựa như một tâm thức hiện sinh
Giữa sự sống và sự chết
            Tôi chọn sự sống
            Để bảo vệ sự sống
            Tôi chọn sự chết
(Chọn)
Chú thích:
(1) Văn cao, “Mấy ý nghĩ về thơ” Tuyển tập thơ Văn Cao, Nxb Văn học, Hà Nội, 1994, tr.153
(2) (5) Tạ Tỵ, Mười khuôn mặt Văn Nghệ, Tác giả xuất bản, Sài Gòn, 1970, tr.187, tr.179
(3) Trần Văn Nam, “Văn Cao dòng sông ba nhánh sương mù” Văn học số 114 ra ngày 1/11/1970, Sài Gòn, tr.70
(4) Đặng Tiến, Thơ thi pháp và chân dung, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2009, tr.269.
Trần Hoài Anh
Theo https://doanthuan.wordpress.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Về những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn

Về những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn Lúc 12 giờ 45, ngày 1 tháng 4 năm 2001, Trịnh Công Sơn đã ra đi. Trái tim nhân ái và nhạy cảm...