Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2021

Ác quỷ trên thiên đàng 2

Ác quỷ trên thiên đàng 2

Với trận mưa đầu mùa, hắn bắt đầu ủ rũ. Đành rằng phòng hắn chật hẹp, mái lại dột, cửa sổ thấm nước, đủ thứ bọ xâm nhập, thường rơi cả trên giường khi hắn đang ngủ, để sưởi ấm hắn phải dùng một cái lò sặc mùi dầu hôi lại tiêu thụ hết chút ít dưỡng khí còn lại sau khi hắn trét kín các kẽ nứt kẽ hở, lấy bao bố nhét dưới khe cửa, khép kín mọi cửa sổ, cùng đủ thứ. Đành rằng gặp phải một mùa đông mưa nhiều hơn mọi năm, gió bão lại dữ dội liên miên nhiều ngày mới dứt. Và tội nghiệp thằng cha, suốt ngày co ro trong phòng, bực bội, bồn chồn, không nóng quá thì lại lạnh quá, rồi là gãi, gãi, không còn biết làm sao để cởi bỏ được hàng trăm ngàn của nợ từ thinh khổng thinh không kéo đến, vì không hiểu tại sao đã đóng kín trét kỹ mọi khe, đã phải hun khói mà những con bọ quỷ lại lọt vào được và bò khắp, chui khắp.

Tôi không bao giờ quên được cái bộ mặt sững sờ thiểu não của hắn khi một buổi chiều hắn gọi tôi vào phòng hắn để xem lại mấy cái đèn. Hắn bật diêm châm bấc, và nói: “Anh xem, anh xem, châm đâu có cháy”.
Như các người ở quê thừa biết, loại đèn Aladdin này kỳ cục và hay trở quẻ lắm. Muốn cháy tốt, phải lau chùi thật sạch. Cứ cái việc xem bấc thôi cũng phải rất cẩn thận. Dĩ nhiên tôi bảo hắn hàng trăm lần, nhưng lần nào vào thăm hắn tôi cũng thấy đèn không lờ mờ thì bốc khói. Tôi cũng biết hắn bực mình. Với đèn đóm đâu buồn nghĩ chuyện giữ gìn.
Bật một que diêm châm vào bấc, tôi đã toan nói, “anh thấy không, rất giản dị... có gì đâu” - thì lạ quá, bấc không chịu cháy. Tôi châm que nữa rồi que nữa, bấc vẫn không bắt lửa. Mãi khi lấy nến thắp xem có gì trục trặc tôi mới khám phá ra.
Tôi mở cửa cho không khí vào và khi thắp đèn lại thì đèn cháy. Không khí mà, cụ ơi. Cụ thiếu không khí! Hắn trố mắt nhìn tôi. Muốn có không khí thì phải mở cửa sổ. Mà mở cửa thì gió và mưa vào. Hắn thốt “Mẹ kiếp!” Thật vậy. Mà còn tệ hơn nữa. Tôi từng tưởng tượng một buổi sáng đẹp trời nào đó thấy hắn nằm trong giường - chết ngạt.
Sau đó hắn nghĩ ra cách cho không khí lọt vào vừa đủ thở. Bằng một sợi dây với cả một loạt móc dài móc ngắn đặt cách quãng vào phần trên cánh cửa lò-xo hắn có thể cho không khí vào nhiều ít tùy ý. Không còn phải mở cửa sổ hay rút bỏ bao tải chèn dưới cửa hay nạy nhựa trám các khe vách nữa. Còn mấy cái đèn chết tiệt, thì hắn quyết định không dùng mà dùng nến đốt thay. Ánh nến leo lét làm căn phòng chật hẹp trông chẳng khác gì nấm mồ và như thế hợp với tâm trạng bệnh hoạn của hắn.
Đồng thời cái ngứa vẫn không ngớt hành hắn. Mỗi lần xuống ăn cơm, hắn lại vén ống tay ống quần lên trình bày cái tai hại của bệnh ngứa. Giờ thì hắn lở loét khắp. Phải tôi là hắn, chắc tôi sẽ bắn tôi nát óc rồi.
Thật vậy, phải làm sao chứ để thế chúng tôi đến điên mất. Chúng tôi đã thử mọi thứ thuốc cổ truyền - nhưng vô hiệu. Cùng quá tôi mới nhờ một anh bạn ở cách đấy vài trăm cây số đến xem giùm. Anh ta là một lương y giỏi, lại cả giải phẫu nữa. Anh cũng nói được tiếng Pháp. Thật ra anh ta là người bất thường, lại rộng rãi, thành thật. Tôi biết nếu chữa được anh ta không ngại gì mà không giúp tôi tận lực.
Anh đến. Anh khám Moricand từ đầu đến chân, khám trong khám ngoài. Xong rồi anh hỏi chuyện hắn. Anh không nói gì đến lở loét, cũng chẳng động gì đến vấn đề. Anh nói đủ chuyện nhưng không nói gì đến ngứa. Hầu như thể anh quên hẳn anh đến vì việc gì. Thỉnh thoảng Moricand toan nhắc khéo anh, nhưng mỗi lần anh lại khéo léo hướng câu chuyện sang vấn đề khác. Sau cùng anh viết toa đặt ngay dưới mắt Moricand rồi sửa soạn ra về.
Tôi đưa anh ra xe, nóng ruột muốn biết thực sự anh nghĩ sao.
Anh nói, “Có gì đâu. Hễ cứ đừng nghĩ đến ngứa thì không còn ngứa”.
“Nhưng khi mà...?”
“Thì bảo hắn uống thuốc”.
“Liệu thuốc có công hiệu không?”
“Cái đó do ở hắn. Thuốc không công phạt mà cũng chẳng công hiệu trừ phi hắn tin”.
Một giây phút im lặng nặng nề.
Anh bỗng nói: “Cậu muốn tôi nói thật không?”
Tôi nói: “Sao không”.
“Vậy thì tống khứ hắn đi”.
“Anh bảo sao?”
“Còn sao nữa. Có khác gì anh sống với hủi”.
Trông tôi có lẽ bàng hoàng thờ thẫn thì phải.
Anh nói, “Có gì đâu. Hắn đâu có cần khỏe mạnh. Hắn chỉ cần được chú ý, được săn sóc. Hắn đâu phải người lớn, hắn là một đứa bé. Một đứa bé hư”.
Im lặng.
“Và hắn có dọa tự tử cậu đừng có lo. Khi không còn cách nào khác, hắn có thể dọa cậu chơi. Hắn không tự tử đâu. Hắn thương cái thân hắn quá mà”.
Tôi nói: “Tôi hiểu. Ra là thế... Nhưng tôi biết nói với hắn làm sao?”
“Cái đó thì tùy cậu liệu lấy”. Anh rồ máy.
Tôi nói: “Được rồi. Không chừng chính tôi lại uống thuốc cũng nên. Dù sao cũng cám ơn anh nhiều lắm”.
Moricand nằm đợi tôi. Hắn cố đọc toa mà đọc không ra; chữ viết xấu quá.
Tôi nói sợ hắn biết rằng theo sự nhận xét của bạn tôi thì chứng bệnh của hắn là một chứng bệnh tâm lý.
Hắn thốt: “Ngu mấy mà lại không biết thế!” Đoạn nói thêm; “Hắn ta có đúng là bác sĩ không?”
Tôi đáp: “Có tiếng nữa là khác”.
Moricand nói: “Kể cũng lạ. Hắn nói như một thằng ngu”.
“Vậy à?”
“Lại hỏi tôi có thủ dâm không?”
“Rồi sao nữa...?”
“Hỏi tôi có yêu đàn bà bằng đàn ông không. Rằng tôi có từng dùng ma túy không. Tôi có tin đồng bóng không. Có, có, có... Đúng là thằng điên”.
Tức quá, hắn thừ người ra một lúc. Đoạn với một giọng thiểu não hơn, hắn lẩm bẩm như tự nhủ: “Trời ơi, Trời ơi, tôi còn biết làm sao đây? Tôi cô độc, cô độc quá đi mất!”
Tôi khẽ nói: “Thôi mà, hãy bình tĩnh! Còn thiếu gì cái khổ hơn ngứa”.
Hắn hỏi: “Cái gì chẳng hạn?” Hắn nói đột ngột qua khiến tôi chưng hửng.
Hắn lặp lại: “Cái gì chẳng hạn? Tâm lý... chu choa! Dễ thường hắn cho tôi là thằng ngốc. Cái xứ này là cái xứ quái gì! Chả biết gì là nhân đạo. Là thông cảm. Là thông minh. Chà, phải chi tôi chết được... Chết ngay tối nay”.
Tôi không nói một lời.
“Này anh Miller thân yêu ơi, cầu cho anh đừng bao giờ lại đau khổ như tôi hiện giờ! Chiến tranh chả thấm tháp vào đâu”.
Hắn bỗng chợt thấy toa thuốc. Hắn cầm lên, vò trong nắm tay, đoạn vứt xuống đất.
“Hoàn tán! Hắn cho tôi, thằng Moricand này, uống hoàn tán!” Hắn nhổ phẹt xuống đất. “Thằng bạn anh là một lang băm. Một lang vườn. Một tên giả mạo”.
Mưu toan đầu tiên để lôi hắn ra khỏi cảnh khốn nạn của hắn chấm dứt như thế đó.
Sau đó một tuần kkhông ngờ lại có anh bạn cố tri Gilbert đến thăm. Tôi nghĩ bụng, chả mấy khi có được một người biết tiếng Pháp, một người thích văn chương Pháp, Moricand khoái phải biết!
Chả có gì khó, với một chai vang tôi khiến hai cha bắt chuyện với nhau.
Chỉ vài phút sau là họ quay ra bàn cãi nào Baudelaire, Villon, Voltaire, Gide, Cocteau, nào ba-lê Nga, Ubu Roi, và này khác. Khi thấy họ ý hiệp tâm đầu rồi, tôi lẳng lặng rút lui, mong rằng Gilbert vốn đã từng nếm cảnh ba chìm bảy nổi, sẽ giúp được tên kia lên tinh thần. Không thì ít ra cũng làm hắn say sưa.
Chừng một giờ sau đó, tôi đang lững thững đi dạo trên đường với con chó thì thấy Gilbert lái xe đi tới.
Tôi nói: “Sao, về sớm thế?” Gilbert mà ra về trước khi cạn chai thì kể cũng lạ.
Anh đáp: “Tôi ạch bụng rồi. Đồ gàn bát sách!”
“Ai, Moricand ấy à?”
“Còn ai nữa”.
“Chuyện gì thế?”
Vẻ ghê tởm anh biểu lộ đủ trả lời cho anh. Anh nói giọng hằn học: “Này đằng ấy, có biết nếu phải tớ thì tớ làm gì không?”
“Không, mà làm gì cơ chứ?”
“Xô hắn xuống biển cho rồi”.
“Nói nghe dễ đấy nhưng thử làm coi”.
“Thử đi! Chỉ có cách đó là tốt nhất”. Đoạn anh rồ ga.
Lời Gilbert nói làm tôi giật mình. Xưa nay anh có bao giờ nói ai thế đâu. Anh hiền lành, mềm mỏng, ý nhị, và cũng từng biết thế nào là địa ngục trần ai. Quả anh chả cần phải lâu mới thấy rõ con người Moricand.
Đồng thời Lilik, anh bạn tôi, thuê nhà nẻo dưới cách chúng tôi vài dặm, không quản ngại giúp sao cho Moricand được thoải mái. Moricand mến Lilik và tin tưởng ở anh at. Cũng là dĩ nhiên vì Lilik giúp đỡ hắn rất nhiều. Lilik thường ngồi với hắn cả giờ, nghe hắn tả oán.
Nghe Lilik thuật thì tôi hiểu ý Moricand cho tôi là không mấy quan tâm đến hắn. Anh nói, “Anh không hề hỏi han gì đến công trình gì của hắn”.
“Công trình của hắn? Anh bảo sao? Chứ hắn đang làm gì?”
“Hình như hắn đang viết bút ký”.
Tôi nói, “Hay đấy. Để thỉnh thoảng tôi phải xem mới được”.
Lilik nói, “À này, anh có bao giờ xem hắn vẽ không”.
“Vẽ gì?”
“Trời ơi, thế anh chưa bao giờ xem à? Hắn có cả một tập trong cặp. Toàn hình dâm ô”. Anh chặc lưỡi, “Cũng may cho anh là nhà đoan đã không khám thấy”.
“Vẽ trông được không?”
“Cái được cái không. Nhưng chắc chắn không phải là để cho trẻ con xem rồi đó”.
Sau câu chuyện vài ngày, có một anh bạn cũ lại thăm. Anh Leon Shamroy. Như thường lệ, anh mang theo rất nhiều quà. Phần lớn là thức ăn thức uống.
Lần này đôi mắt cú vọ của Moricand còn giương to hơn.
Hắn kéo tôi ra bên, hỏi nhỏ: “Khá thật. Triệu phú phải không?”
“Không, chỉ là nhiếp ảnh viên chóp bu của hãng phim Fox. Là người đoạt hết các giải Oscar”.
Tôi nói thêm: “Tôi chỉ mong sao anh hiểu được anh ta nói gì. Cả nước Mỹ không ai nói được những điều anh ta nói mà lại không ngẫm nghĩ”.
Vừa lúc đó Leon bước vào. Anh hỏi, “Chứ thì thầm với nhau cái gì đó? Cha nội nào đây - lại một anh bạn Montparnasse của anh chắc? Cha nội nói được tiếng Anh không? Cha nội làm gì ở đây? Chắc lại ăn bám anh chứ gì? Rót rượu cho cha nội uống đi! Trông cha nội thiểu não quá”.
Móc túi ra một nắm xì gà, Leon nói: “Này, đưa cho cha nội hút thử một điếu xem. Một điếu mới có một đô la thôi. May ra cha nội có phởn hơn chăng”.
Anh đưa đầu ra hiệu cho Moricand rằng xì gà là đãi hắn. Đoan anh ném nửa điếu Havane đang hút dở mà anh để tắt và châm điếu mới. Xì gà dài có gần ba tấc và to bằng con rắn. Lại có mùi thơm dễ chịu nữa. Tôi bụng bảo dạ, còn rẻ chán.
Moricand cám ơn bằng tiếng Pháp lòng thòng gì đâu khiến Leon có hơi bực mình nên bảo tôi: “Nói với cha nội là tớ không rành tiếng Pháp”. Vừa nói anh vừa mở các gói ra, nào phó mát trông đến ngon lành, nào xúc xích, giăm bông. Anh nói với: “Bảo thằng chả mình ăn uống cái đã. Còn xạo gì thì để nhai sau. Ờ mà cái rượu ấy tôi mang mà không biết đâu rồi nhỉ? Không, xem nào. Tôi có một chai Haig and Haig ở ngoài xe. Cho thằng chả uống cái đó. Tội thằng chả, chắc một đời chưa bao giờ được nếm thử một ly uýt-ki... Này, chứ thằng chả mắc chứng gì? Bộ không bao giờ biết cười chắc?”
Vừa lảm nhảm luôn miệng, vừa mở hết gói này đến gói khác, cắt một khoanh bánh, phết bơ lên, thứ bơ ngọt ngon tuyệt, châm một quả ô liu, nếm một miếng cá đối, rồi một quả dưa chua, thứ này một tí, thứ kia một tí, vừa móc ra một hộp kẹo cho Val, cùng với một chiếc áo thật đẹp, một chuỗi hạt, và... “Đây, còn cái này cho mày, thằng quỷ à!” và ném cho tôi một hộp thuốc lá đắt tiền. “Còn nhiều ở ngoài xe. Nhân tiện, tao quên hỏi mày - chúng mày dạo này có khá không? Chưa giàu phải không? Mày với thằng Bufano! Hai thằng mồ côi. Mày mà còn có thằng bạn như tao... còn biết làm để sống, phải không?”
Trong khi đó Lilik ra xe mang đồ xuống. Chúng tôi mở chai Haig and Haig, rồi một chai Bordeaux hảo hạng cho Moricand (và cho cả chúng tôi), và khoái trá nhìn chai Pernod với chai Chartreuse mà anh ta còn nhớ đem theo, không khí sặc khói thuốc, trên sàn giấy dây vứt bừa bãi.
Leon cởi nút áo sơ mi lụa, hỏi: “Hoa sen mày còn xài được chứ? Chắc tao phải cho mày cái khác. Suốt băm sáu tiếng đồng hồ chưa được chợp mắt. Chúa ơi, được ngủ vài tiếng thì hay quá! À này, đêm nay cho tao ngủ được chứ? Không chừng hai đêm. Tao cần nói chuyện với mày. Chúng tao tính giúp mày làm ăn lớn. Chứ sống ăn mày thế này suốt đời đâu có được, phải không? Đừng nói gì cả, tao biết mày sắp nói gì... À mà các tranh thủy mặc của mày đâu cả rồi? Lấy tao xem nào! Mày biết tao chứ, tao có thể mua nửa tá mang đi. Nếu như xem được”.
Bỗng anh thấy Moricand đang phì phà một điếu Ma ní nhỏ.
Anh thốt: “Chứ thằng cha có mắc chứng gì? Nó ngậm cây cỏ thối ấy làm gì cho bẩn mồm? Chứ không phải mình vừa cho nó một mớ xì gà ngon là gì?
Moricand đỏ mặt bảo hắn để dành. Xì gà ngon quá không muốn hút ngay. Hắn cần được vuốt ve ít lâu rồi mới hút.
Leon hét: “Mẹ kiếp, nói thế mà nghe được! Bảo hắn là hiện giờ hắn ở Mỹ. Chúng ta đâu có phải lo ngày mai, phải không? Bảo hắn cứ hút hết đi tao về Los Angeles sẽ gửi cho hắn cả một hộp”. Anh quay đầu, hạ bớt giọng: “Chứ thằng chả nó lo cái gì không biết? Ở bên kia xưa nay nó chết đói à? Dù sao, cũng thây kệ nó. Này, tao nói bọn bay nghe một chuyện hài hước tao mới nghe đêm trước. Rồi mày dịch lại cho thằng chả nghe. Tao muốn xem thằng chả có cười không chớ”.
Vợ tôi toan dọn cơm, nhưng vô ích. Leon đã bắt đầu kể câu chuyện đùa của anh, chuyện tục, khiến Lilik cười ré lên như ngựa hí. Giữa câu chuyện, Leon ngưng lời, cắt một khoanh bánh, rót một ly rượu, cởi giày cởi tất, xâm một quả ô liu, và cứ thế. Moricand trố mắt nhìn anh. Đối với hắn đó là một mẫu người mới. Mẫu người Mỹ chính hiệu con nai mà! Tôi dám chắc hắn đang thú vị lắm. Thưởng thức ly Bordeaux, hắn liếm môi liếm mép. Món lachs ăn lạ miệng. Còn bánh ngô, hắn chưa từng thấy, chưa từng nếm. Tuyệt thú! Ausgezeichnet!
Lilik cười rũ rượi, nước mắt chảy dòng. Chuyện thú vị, lại chuyện tục, nên khó dịch.
Leon nói, “Thì đã sao? Chứ bộ bên xứ hắn người ta không xài cái ngôn ngữ này sao?”
Anh ngắm nhìn Moricand xâm thịt, nhắm rượu, phì phà điếu Havane to tướng.
O.K. Bỏ câu chuyện đi. Hắn đang nhồi đầy bụng, thế cũng đủ rồi. À này, mà bảo hắn làm gì nhỉ?”
Tôi nói: “Thấy chiêm tinh chiêm tiếc gì ấy mà”.
“Hắn mà biết cái đếch mẹ gì. Chiêm tinh! Ai mà cần cái khỉ khô ấy? Bảo hắn hãy chiêm hắn đi cái đã... Ờ mà này, để tao cho hắn ngày sinh tháng đẻ của tao. Xem hắn giở nghề ngỗng gì”.
Tôi bảo Moricand biết. Hắn nói hắn chưa chuẩn bị. Nếu không sao, để hắn ngắm Leon thêm tí đã.
“Hắn bảo gì?”
“Hắn nói cho hắn khoái khẩu cái đã. Nhưng hắn biết rằng anh là loại phi thường”. Tôi nói ra thế để đỡ căng thẳng.
“Hắn nói đầy một mồm. Mày nói đúng lắm. Tao là loại phi thường, thằng nào ở vào địa vị tao đến phát điên. Mày bảo giùm tao với hắn rằng tao hiểu hắn lắm, nghe?” Đoạn quay nhìn thẳng Moricand, anh nói: “Sao rượu... vang đỏ đó? Ngon chứ hả?
Moricand đáp: “Tuyệt?” Hắn có biết người ta xỏ xiên gì hắn ngay mũi hắn đâu.
Leon nói: “Sư anh, nhất định phải tuyệt. Thằng này mua mà lại. Chỉ nhìn qua thằng này đủ biết cái gì ngon dở”.
Anh ngắm nhìn Moricand như thể hắn là một con rái cá làm trò vậy, đoạn quay bảo tôi: “Ngoài nhìn sao ra thằng chả có gì làm khác không?” Với cái nhìn trách móc, anh nói thêm: “Tao chắc thằng chả không thích gì hơn là ngồi gãi háng suốt ngày. Sao mày không bắt thằng chả làm việc? Bắt hắn cuốc vườn, trồng rau, xới cỏ. Hắn cần phải làm. Tao biết rõ mấy cái thằng chó đẻ này. Chúng như nhau hết à”.
Vợ tôi tỏ vẻ khó chịu. Nàng không muốn làm mất lòng Moricand.
Nàng bảo Leon: “ở phòng anh ấy có cái chắc anh xem phải thích”.
Lilik nói, “Ừ, Leon à, đúng sở thích của anh”.
“Mấy người định chơi khăm tôi phải không? Chứ cái gì mà bí mật ghê thế? Đốt mấy người đi!”
Chúng tôi nói ra. Kể cũng lạ, Leon hầu như chả buồn quan tâm.
Anh nói: “Thứ đó Hollywood thiếu quái gì. Chứ mấy người muốn tôi làm gì - thủ dâm chắc?”
Buổi chiều trôi qua. Moricand lui về phòng. Leon đưa chúng tôi ra xem chiếc xe anh mới tậu, có thể chạy trăm rưỡi cây như chơi, trên chả cứ đường thẳng. Bỗng anh nhớ có mấy món đồ chơi cho Val để đàng sau xe. Vừa thò tay trong thùng xe, anh nói: “Thằng Bufano dạo này đâu nhỉ?”
“Đi Ấn thì phải”.
Anh cười khì: “Lại đi thăm Nehru hẳn! Tao chịu không hiểu nổi làm sao cái thằng ấy nó đi khắp mà không có lấy một xu dính túi mà đi được. À mà dạo này, chúng mày làm gì ra tiền?”
Nói đoạn anh thọc tay vào túi quần, lôi ra một xấp giấy xanh có kẹp, rút ra vài ghim.
Đặt tiền vào tay tôi, anh nói: “Này, cầm lấy. Trước khi đi thế nào tao chả nợ mày”.
Bỗng anh lại hỏi: “Mày có gì hay đọc không? Tao thích cuốn Giono mày cho tao mượn nhớ không? Thế còn thằng cha Cendrars mà mày không ngớt vãi ra quần thì sao? Đã có cái gì của hắn được dịch chưa?” Anh vứt nửa điếu Havane hút dở, lấy gót chân xéo lên, và thắp điếu khác. “Mày tưởng tao không bao giờ đọc sách hẳn. Mày lầm, tao đọc dữ lắm... Một ngày kia mày sẽ viết cho tao một truyện phim - và mày sẽ có nhiều xìn. Nhân tiện” - anh hất ngón tay cái về phía phòng Moricand - “thằng chó nó rút ruột mày phải không? Mày khờ quá. Mày làm sao mà mắc bẫy?”
Tôi bảo anh câu chuyện dài lắm... để khi khác nói.
“Còn các bức vẽ của hắn thế nào? Tao có nên xem không? Chắc hắn cần bán chứ? Tao mua vài bức cũng chẳng sao - nếu giúp được chúng mày đỡ... Khoan đã, để tao đi làm một ly cái đã”.
Khi anh trở lại, miệng anh đã ngậm một điếu xì-gà mới rồi. Trông anh đỏ ửng.
Anh nói, mặt mày hớn hở: “Không gì bằng một ly rượu ngon. Nào ta hãy đi thăm cái thằng buồn chảy ấy. Mày gọi cho tao thằng Lilik, được không? Trước khi quyết định làm gì tao muốn biết ý kiến nó”.
Vừa bước vào phòng Moricand, Leon khụt khịt mũi. Anh kêu: “Trời đất quỷ thần ơi, bảo hắn mở một cánh cửa sổ coi!”
“Không được đâu, anh Leon. Hắn sợ trúng gió”.
“Thảo nào, chả trách hắn than rầm trời. O.K. Hình hiếc của hắn đâu, bảo hắn bày ra xem - và lẹ lẹ coi? Ngồi đây thêm mười phút nữa tao chết ngạt mất”.
Moricand từ từ lấy chiếc cặp xinh xắn của hắn ra. Hắn cẩn thận đặt xuống trước mặt hắn, đoạn bình thản châm một điếu gauloises xanh.
Leon nói: “Tao xin mày bảo nó quăng thuốc đi”. Anh móc túi lấy một bao Chesterfield và rút một điếu đưa cho Moricand. Moricand nhã nhặn từ chối, nói hắn không hạp thuốc lá Mỹ.
Leon nói: “Đồ ngốc! Thì này!” Anh đưa Moricand một điếu xì-gà to.
Moricand từ chối. Hắn giơ điếu thuốc lá Pháp khét lẹt của hắn lên và nói: “Tôi thích thứ này hơn”.
Leon nói: “Nếu vậy thì đ.m...! Bảo nó làm gì thì làm đi. Không lẽ ngồi cả buổi trong cái mồ này sao”.
Nhưng Moricand đâu phải giục mà được. Hắn có cái lối trình bày riêng các tác phẩm của hắn. Hắn không cho ai được sờ vào các bức vẽ. Hắn giơ ra trước hắn, chậm rãi giở từng trang một, giống như thể là giấy cổ phải dùng bàn xẻng xúc nhẹ. Thỉnh thoảng hắn lại rút chiếc khăn lụa ở túi ngực ra lau mồ hôi tay.
Đây là lần đầu tiên tôi được thấy công trình của hắn. Tôi phải thú thật là nhìn các bức vẽ tôi muốn lợm mửa. Toàn là những cái thác loạn, bạo dâm, phạm thánh. Nào những con quỷ dâm dật hãm hiếp trẻ con, nào các gái đồng trinh làm đủ chuyện thông dâm, nào các nữ tu dùng các thánh vật để thỏa mãn thú tính... nào là hành xác, tra khảo, chặt chân tay, nào là những cảnh xâu xé thịt người, và như thế. Nét vẽ tế nhị mẫn cảm lại càng làm cho người xem ghê tởm.
Đến Leon cũng phải sửng sốt. Anh quay nhìn Lilik hỏi ý kiến. Hỏi xem lại một vài tấm.
Anh nói: “Thằng chó chết biết vẽ đấy chứ nhỉ”.
Lilik chỉ vài bức mà anh cho là đặc biệt.
Leon nói: “Tao lấy. Bao nhiêu?”
Moricand ra giá. Một cái giá đắt, ngay cả với một khách hàng Mỹ.
Leon nói: “Bảo hắn gói lại. Kể ra thì không đáng giá, nhưng tao lấy. Tao biết thế nào cũng có người sẵn sàng mua lại”.
Anh móc ví, đếm tiền thật nhanh, đoạn bỏ lại vào túi.
Anh nói: “Phải giữ tiền để tiêu. Bảo hắn về đến nhà tao gửi ngân phiếu cho hắn... nếu hắn tin tao”.
Lúc này Moricand hình như đổi ý. Hắn nói hắn không muốn bán riêng rẽ. Mua hết không thì thôi. Hắn ra giá cho cả tập. Một giá như nhát búa.
Leon thốt: “Bộ hắn điên. Để hắn ôm lấy mà thờ”.
Tôi bảo Moricand rằng Leon còn nghĩ lại xem đã.
Moricand nhìn tôi cười tinh quái và nói: Okay. Tôi biết rằng trong óc hắn, hắn cho là cá đã cắn câu. Hắn cầm chắc trong tay. Khi chúng tôi lui gót hắn còn lập lại: “Okay”
Vừa xuống thang, Leon vừa nói: “Nếu thằng chó chết hắn khôn lanh hắn cứ việc để tao sách chiếc cặp mang đi khắp, thế nào tao cũng kiếm được gấp đôi giá. Dĩ nhiên tranh có thể bẩn. Cái thằng chó đẻ nó mới tủn mủn chứ!” Anh hích tôi một cái thật mạnh. “Làm bẩn đồ bẩn thỉu đó cũng lôi thôi đấy chứ nhỉ?”
Xuống hết bậc thang anh ngưng một lúc, nắm cánh tay tôi.
“Mày biết cái thằng cha ấy làm sao không? Nó bệnh hoạn mà”.
Anh đưa ngón tay chỉ lên sọ.
Anh nói thêm: “Khi nào tống khứ được hắn đi rồi, mày nhớ tẩy sạch căn phòng”.
Cách đó vài đêm sau, khi ngồi ăn, chúng tôi dần dà nói đến vấn đề chiến tranh. Moricand đang lúc hào hứng nên chỉ lăm le kể lại những cái ba chìm bảy nổi của mình. Tôi cũng không hiểu tại sao trước đây chúng tôi lại không đả động đến chuyện này. Đành rằng trong thư từ hắn viết cho tôi từ Thụy Sĩ hắn cũng có nói sơ qua về những gì xảy ra từ cái đêm chúng tôi chia tay nhau vào tháng Sáu, 1939. Nhưng tôi cũng chẳng nhớ được bao lăm. Tôi được biết hắn gia nhập đội Lê-dương một lần nữa, chẳng phải vì lòng ái quốc mà để còn được sống sót. Vì hắn còn cách nào khác để có cơm ăn chốn ở? Dĩ nhiên nó ở Lê-dương cũng chỉ được vài tháng, vì không chịu nổi các khắt khe của đời sống ấy. Bị giải ngũ, hắn trở lại cái gác xép tại khách sạn Modial, dĩ nhiên lại càng tuyệt vọng hơn khi nào hết. Khi hắn ở Ba-lê thì quân Đức kéo vào. Sự hiện diện của quân Đức không làm hắn bận tâm bằng sự khiếm diện của thực phẩm. Cùng kế, hắn gặp được một anh bạn cũ hiện giữ một chức vụ quan trọng tại Đài phát thanh Ba-Lê. Anh bạn dùng hắn. Hắn có tiền, có ăn, có thuốc. Một việc làm bỉ ổi, nhưng... dù sao, giờ đây anh bạn đang nằm tù. Tội cộng tác với địch, hẳn nhiên rồi.
Đêm nay, hắn ôn lại cả cái thời kỳ ấy, và rất tỉ mỉ. Như thể hắn cảm thấy cần phải trút hết nỗi lòng. Thỉnh thoảng tôi cũng không theo kịp. Vốn không bao giờ quan tâm đến chính trị, đến thù hằn, đến thủ đoạn, đến tranh chấp, tôi không còn hiểu mô tê gì khi đến cái giai đoạn ác liệt theo lời hắn là người Đức buộc hắn phải sang Đức. (Họ còn chọn cho hắn một bà vợ nữa là khác). Đến đây câu chuyện bỗng rối tung. Tôi không còn rõ tại sao một anh mật vụ Đức lại dí súng vào lưng hắn. Dù sao cũng là cả một cơn ác mộng vừa phi lí vừa khủng khiếp. Hắn có làm cho người Đức hay không - có bao giờ hắn cho biết rõ ràng cái vị trí của hắn đâu - tôi cũng chẳng bận tâm. Nếu hắn cứ điềm nhiên bảo tôi là hắn từng phản quốc tôi cũng chẳng bảo sao. Có điều tôi tò mò muốn biết - là làm cách nào mà hắn thoát được cả mớ bòng bong ấy? Làm cách nào hắn thoát được mà không sứt mình sứt mẩy?
Tôi sực để ý là hắn đang kể tôi nghe hắn trốn thoát ra sao. Lúc ấy không còn ở Đức, mà ở Pháp... hay Bỉ hay Lục Xâm Bảo gì đó? Hắn đang mò về hướng biên giới Thụy Sĩ. Tay lết hai chiếc va-li nặng hàng bao ngày, bao tuần. Có hôm hắn kẹt giữa quân đội Pháp và quân đội Đức, hôm sau kẹt giữa quân đội Mỹ và quân đội Đức. Đôi khi băng qua khu trung lập, đôi khi là khu phi chiến. Đi đâu thì cũng vẫn chỉ một chuyện: không có, không nơi trọ, không ai giúp đỡ. Phải làm mình đau ốm mới được chút cơm thừa canh cặn, mới có chỗ ghé lưng, và cứ thế. Thế rồi hắn ốm thực. Mỗi tay một chiếc vali, hắn lê bước khắp nơi, vừa phần sốt run lập cập, vừa phần đói khát, choáng váng, xây xẩm mặt mày tuyệt vọng. Đại bác nổ rền mà hắn vẫn nghe ruột gan hắn cồn cào lạo xạo. Trên đầu đạn bay vèo vèo, khắp nơi xác chết thối nằm chất đống, các bệnh viện ngập người, cây cối trơ trụi, nhà cửa tan hoang, dọc đường toàn những kẻ không nhà, đau ốm, què quặt, thương tích, bị bỏ rơi, vô thừa nhận. Thân ai kẻ ấy lo! Chiến tranh! Chiến tranh! Và giữa đám người ấy, hắn đang quờ quạng: một công dân Thụy Sĩ trung lập với một tờ thông hành và một cái bụng lép kẹp. Thỉnh thoảng một anh lính Mỹ vứt cho điếu thuốc. Nhưng thiếu phấn Yardley. Thiếu giấy vệ sinh. Thiếu xà phòng thơm. Và vì thế hắn mắc bệnh ngứa. Không những ngứa, mà còn chấy rận, mà còn hoại huyết.
Có tất cả sáu mươi chín quân đội chiến đấu quanh hắn. Hình như họ không quan tâm đến sự an toàn của hắn. Nhưng chiến tranh rõ ràng sắp kết liễu. Xong rồi nhưng còn tảo thanh. Chả ai biết tại sao mình chiến đấu và chiến đấu cho ai. Quân Đức kiệt lực, nhưng vẫn nhất định không hàng. Đồ ngu. Ngu bỏ mẹ. Thật ra, ai cũng kiệt lực cả, trừ bọn Mỹ. Bọn Mỹ ngây ngô đến đâu phè phỡn đấy, bạc đà đầy nghẹt thức ngon, túi chật ních thuốc lá, kẹo cao su, rượu, lúc lắc, thôi thì đủ thứ. Những chiến sĩ mang đồng phục lương cao nhất xưa nay. Tiền để đốt thì có, còn để mua bán gì thì không. Chỉ mong sao đến Ba Lê, mong sao có dịp hiếp dâm các cô gái Pháp lẳng lơ hoặc các mệ già nếu như thiếu gái. Và khi tiến đi thì đốt rác-trước con mắt thất đảm sững sờ của những dân đói. Lệnh truyền. Nhổ trại! Gập hết! Tiến, tiến... tiến tới Ba Lê! Tiến tới Bá Linh! Tiến tới Mạc Tư Khoa! Mặc sức càn quét, mặc sức say sưa, mặc sức hãm hiếp. Nếu không được, thì ỉa lên! Nhưng đừng kêu rên! Đi tới, tiến tới, tiến lên! Gần tới đích rồi. Thấy chiến thắng rồi. Thượng cờ lên! Hoan hô! Hoan hô! Thây kệ tướng lãnh, thây kệ đô đốc! Xông bừa tới! Đời người dễ có mấy lần!
Thật là khoái tỉ! Thật là bừa bãi bẩn thỉu! Thật là cuồng loạn ghê tởm!
(“Tôi là Tướng Thế-thế chịu trách nhiệm về cái chết của hằng bao kẻ thân yêu của quý vị!”)
Như một bóng ma, anh bạn Moricand của chúng ta, giờ đây óc rỗng bụng không, mò mẫm dọ đường, lẩn lút như chuột giữa các đạo quân đối chiến, bao vòng họ, sát nách họ, đánh lừa họ, đâm đầu vào họ, sợ quá khi nói tiếng Anh đúng giọng, khi nói tiếng Đức, khi nói bừa nói đại, bất cứ cái gì miễn sao thoát thân, miễn sao qua lọt. Nhưng lúc nào cũng khư khư hai chiếc va-li bên mình, giờ đây nặng hàng tấn, lúc nào cũng nhắm về hướng ranh giới Thụy Sĩ, dù phải vòng vo, phải lắt léo, phải lộn đi lộn lại, đôi khi phải bò bốn cẳng, đôi khi đi thẳng, đôi khi nghẹt thở dưới xe phân, đôi khi nhảy choi choi như mắc chứng giật gân. Luôn luôn tiến tới, trừ khi bị đẩy lui. Sau cùng cũng đến được biên giới, để thấy được biên giới bị phong tỏa. Lại trở gót. Lại trở lại khởi điểm. Giữa hai hỏa lực lại bị tháo dạ. Sốt rét, rồi lại sốt rét. Tra vấn. Chủng ngừa. Tản cư. Lại đụng độ với những đạo quân khác. Chiến tuyến khác. Điều động khác. Chiến thắng khác. Triệt thoái khác. Dĩ nhiên lại thêm nhiều thương vong. Thêm nhiều diều hâu. Thêm nhiều luồng gió thối.
Tuy nhiên lúc nào cũng khư khư ôm chặt lấy tờ thông hành Thụy Sĩ, lấy hai chiếc vali, lấy chút minh mẫn mỏng manh còn lại, lấy tia hi vọng, tuyệt vọng ở tự do.
“Trong vali có những gì mà anh quý đến thế?”
Hắn đáp: “Tất cả những gì tôi quý nhất”.
“Cái gì chẳng hạn?”
“Sách, nhật ký, những gì tôi viết, những....”
Tôi nhìn hắn sửng sốt.
“Trời đất thiên địa! Anh bảo là những...”
Hắn nói: “Ừ, những sách, những giấy tờ, lá số, những gì trích ở Plotinus, Iamblichus, Claude Saint-Martin...”
Tôi không sao nhịn được, tôi bật cười. Tôi cười là cười. Tôi cười tưởng không muốn dứt.
Hắn phật ý. Tôi xin lỗi.
Tôi nói: “Anh lết tất cả các của nợ ấy đi khắp như kéo một con voi, bất chấp rằng anh có thể mất mạng vì chúng?”
“Người ta không thể vứt bỏ tất cả những gì người ta quí báu khơi khơi như vậy!”
Tôi nói: “Tôi thì tôi vứt!”
“Nhưng cả đời sống tôi là gắn liền với các của nợ đấy”.
“Anh cũng có thể đã vứt luôn cả mạng anh!”
Hắn đáp: “Thế đã không phải là Moricand!”
Mắt hắn rực lên.
Tôi sực không còn thương hại gì hắn nữa. Không còn bận tâm đến bất cứ những gì đến cho hắn nữa.
Hai chiếc va-li kia làm nặng lòng tôi hàng mấy ngày. Chúng đè nặng lên tâm trí tôi như lên tâm trí Moricand khi hắn bò như con rệp trên khắp cái chăn điên loạn mệnh danh là châu Âu. Tôi cũng từng nằm mơ thấy chúng. Đôi khi tôi mơ thấy Moricand, trông nhue Emil Jannings, anh chàng Jannings trong cuốn Tiếng Cười cuối (The Last Laugh), anh chàng Jannings gác cửa Đại khách sạn từng bị đuổi việc, từng mất chân đứng, sau khi bị hạ xuống làm chân lau nhà tắm, nhà cầu đêm đêm lại lén lút mang giấu bộ đồng phục ra ngoài. Trong giấc mơ, tôi thấy mình luôn luôn theo dõi anh chàng Conrad, luôn luôn ở tầm gọi của hắn mà vẫn không bao giờ gọi hắn mà hắn nghe thấy mình, nào tiếng đại bác đì đùng, nào tiếng đại liên lạch tạch, nào tiếng la thét của những kẻ bị thương, những tiếng rền rĩ của những kẻ hấp hối. Đâu đâu cũng chỉ thấy hoang vu. Đây một hố bom đầy chân tay; đây một chiến sĩ mình còn ấm, quần áo mở phanh, hạ bộ mất hẳn; đây một đầu lâu trắng xóa nhung nhúc những bọ đỏ rực, một đúa bé bị xâu lên cột hàng rào, một xe chở súng bê bết máu và chất mửa, cây cối đứng chổng ngược, lủng lẳng chân tay người, một cánh tay còn dính bàn tay, một bàn tay nát chôn trong găng. Hoặc những con thú dồn dập chạy, mắt long lanh điên, cẳng trông lờ mờ, da cháy đỏ rực, ruột gan lòng thòng ra ngoài làm vướng cẳng chúng, và sau chúng, hàng ngàn hàng triệu con khác, con nào con nấy cháy sém, da tróc, tan tác, rách nát, tơi bời, hộc máu, mửa ọe, chạy như điên, chạy trước đám vong linh, chạy về âm ty, rơi hết huy chương, thông hành, dây nhợ, hàm thiếc, yên cương, lông lá, mỏ miếc, hồng hiếc. Và Conrad Moriturus luôn luôn chạy đầu, như bay như biến, chân xỏ bốt da láng, tóc chải láng mượt, móng tay chải chuốt, sơ-mi hồ, râu mép thoa sáp, quần thẳng nếp. Phi như anh chàng lực sĩ đu bay, hai chiếc va-li xòe ra như cánh, hơi thở lạnh lùng đông lại sau hắn như sương giá. Ra biên giới! Ra biên giới!
Và đó là châu Âu! Một cái châu Âu tôi chưa từng thấy, một cái châu Âu tôi chưa từng nếm. Ôi, Iamblichus, Porphyry, Erasmus, Duns Scotus, chúng ta ở đâu? Chúng ta đang uống linh dược gì? Chúng ta đang bám vào minh triết gì? Ôi những bậc triết minh, hãy định nghĩa mẫu tự! Hãy đo cái ngứa! Nếu có thể, hãy đánh lành mạnh cho đến chết! Các ngôi sao kia đang soi xuống chúng ta hay đang cháy thủng thành lỗ trên một thớ thịt bệnh hoạn?
Và giờ đây tướng Doppelganger ở đâu, tướng Eisenhower ở đâu, tướng Pussyfoot Cornelius Triphammer ở đâu? Quân địch ở đâu? Chàng ở đâu và Nàng ở đâu? Tôi ước sao nhắn tin được đến Thượng đế! Nhưng tôi không nhớ ra tên. Tôi vô hại quá, vô tội quá. Chỉ là một dân trung lập. Chả có gì để khai, ngoài hai chiếc va-li. Phải, một công dân. Một thứ điên lành, có thế thôi. Tôi không đòi huy chương, không đòi đài kỷ niệm có tên tôi. Chỉ cần hai chiếc va-li qua lọt. Tôi sẽ theo sau. Tôi sẽ đến đó, dù cho tôi chỉ là một cái hòm. Moriturus, đó là tên tôi. Dân Thụy Sĩ, vâng. Một lính Lê-dương. Một thương phế binh. Muốn gọi tôi là gì cũng được. Là Iamblichus, nếu như ông thích. Hay chỉ là “Cái Ngứa”!
Lợi dụng mùa mưa, chúng tôi quyết định cuốc đất trồng rau. Chúng tôi lựa một chỗ xưa nay chưa hề cuốc xới. Tôi cuốc trước, vợ tôi xúc sau. Tôi nghĩ dù có thấy đàn bà làm công việc như thế Moricand cũng chẳng chút áy náy. Thật là một sự thật ngạc nhiên. Hắn xin cùng xúc. Nửa giờ sau, hắn đâm thích. Xúc đất hắn cảm thấy khỏe khoắn. Thật vậy, hắn cảm thấy khỏe khoắn đến nỗi ăn cơm trưa xong, hắn yêu cầu chúng tôi mở nhạc nghe - hắn thèm nghe nhạc muốn chết. Vừa nghe hắn vừa ầm ĩ hát vừa huýt sáo. Hắn hỏi chúng tôi có đĩa nào của Grieg không, nhất là của Peer Gynt. Hắn nói trước kia đã lâu rồi hắn có chơi dương cầm. Nghe rồi chơi. Đoạn hắn nói thêm rằng theo hắn, Grieg là một nhà soạn nhạc đại tài; hắn thích ông ta hơn hết. Điều này làm tôi chưng hửng.
Vợ tôi để một đĩa valse. Giờ thì hắn phởn thực sự. Bỗng nhiên hắn đứng lên, đi lại chỗ vợ tôi và xin nàng nhảy với hắn một bài. Tôi gần bổ ngửa. Moricand mà cũng nhảy cơ à! Thật khó tin quá. Thật phi lí. Nhưng hắn nhảy, và nhảy với hết cả tâm hồn. Hắn quay và quay mãi cho đến khi xây xẩm mặt mày.
Khi hắn ngồi xuống, mồ hôi nhễ nhại thở không ra hơi, vợ tôi nói: “Anh nhảy đẹp lắm”.
Tôi nói xen: “Anh còn trẻ chán”
“Tôi không nhảy dễ thường từ năm 1920 đến giờ”. Hắn nói mặt đỏ ửng. Hắn vỗ đùi: “Già lão rồi, nhưng còn nhựa sống”.
Tôi hỏi: “Anh có muốn nghe Harry Lauder không?”
Hắn chưng hửng giây lát. Lauder, Lauder...? Đoạn hắn nhớ ra.
Hắn nói: “nghe chứ”. Quả thực lúc đó hắn đang phởn nghe gì mà chẳng được.
Tôi để bản “Roamin in the Gloamin”. Thì lạ quá, hắn lại còn có hát theo nữa kìa. Tôi nghĩ có lẽ ăn cơm no uống rượu hơi nhiều, nhưng không, lần này không phải rượu, cũng chẳng phải cơm; nó phởn thật ít ra cũng lần này.
Có điều ghê tởm là thấy nó phởn còn thương hại hơn là thấy nó buồn.
Giữa lúc vui vẻ như thế thì Jean Wharton bước vào. Nàng ở phía trên chúng tôi, ở một ngôi nhà nàng vừa cất xong. Trước đó nàng có gặp Moricand một vài lần, nhưng chỉ chào hỏi qua loa. Hôm nay, cao hứng thế nào mà hắn lại còn dở tiếng Anh ra trò chuyện với nàng đôi chút. Khi nàng đi rồi, hắn nói nàng là một người đàn bà rất hay, có phần hấp dẫn là khác. Hắn còn nói nàng là một người có hấp lực, nàng tỏa ra sinh lực và vui tươi. Hắn nghĩ có lẽ nên làm quen với nàng, nàng làm hắn cảm thấy phởn phơ.
Hắn cảm thấy phởn phơ, thật vậy, đến mức đi lấy bút ký xuống cho tôi đọc.
Dù sao, ngày hôm ấy là một ngày đáng ghi nhớ cho Moricand. Tuy nhiên, ngày vui nhất là ngày Jaime de Angulo từ đỉnh núi xuống thăm chúng tôi. Anh đến cốt gặp Moricand. Dĩ nhiên tôi có nói với Moricand về Jaime, nhưng không hề nghĩ chuyện cho hai người gặp nhau. Đúng ra, tôi không cho rằng hai người lại ăn ý nhau, vì cả hai hầu như ít có điểm gì giống nhau. Vả lại, tôi không dám bảo đảm hành động của Jaime một khi đã có vài ly ấm bụng. Những khi đến chơi rồi ra về họa hoằn lắm mới có khi không gây chuyện này chuyện khác, mới không chửi thề, chửi tục, chửi mọi người.
Cơm trưa vừa xong được ít lâu thì Jaime cưỡi ngựa đến, buộc ngựa vào gốc cây, đấm vào sườn ngựa và đi xuống bậc. Hôm ấy trời nắng chói, có phần hơi nực với một ngày tháng Hai. Như thường lệ, Jaime quấn vải màu quanh trán - chắc hẳn chiếc khăn lau bẩn của anh. Mặt nâu sạm, người gầy đét, cẳng hơi khuỳnh, anh còn điển trai, còn lắm vẻ Y Pha Nho - và vẫn lầm lì khó hiểu. Với một chiếc lông cắm băng đầu, chút ít màu bôi mặt, với một bộ y phục khác, trông anh có thể bảo là một tên Hippewa hay Shawnee gì đó. Anh đúng là người ngoài vòng pháp luật.
Khi hai người chào nhau tôi không khỏi nhận thấy sự tương phản giữa họ, hai con người (đẻ sau trước nhau có vài ngày) thuở thiếu thời đều sống tại một khu tĩnh mịch, sang trọng ở Ba-lê. Hai “Lord rauntleroy nhỏ” cùng từng thấy bề trái của cuộc đời, hiện giờ cùng đếm từng ngày, và sẽ không bao giờ còn gặp nhau nữa. Một người thì chỉnh tề, ngăn nắp, sạch bóng, khó tính, cẩn thận, còn một người thì ngược hẳn. Một người thì đi bộ, một người thì đi ngựa. Một người là một nhà thẩm mĩ, còn một người lại là một con vịt trời.
Tôi đã lầm khi cho rằng họ không có gì giống nhau. Họ giống nhau nhiều lắm. Ngoài một nền văn hóa như nhau, một ngôn ngữ như nhau, một bối cảnh như nhau, một cái thú yêu sách, yêu thư viện, yêu tìm tòi như nhau, một tài ăn nói như nhau, một cái nghiện như nhau - một người nghiện ma túy, còn một người nghiện rượu - họ còn chung một sợi dây mật thiết hơn nhiều: đó là sự ám ảnh của cái xấu. Tôi ít gặp ai như Jaime mà tôi có thể nói là có một cái gì quỷ quái ở anh. Còn Moricand, thì từ thuở nào hắn vẫn là một kẻ quỉ mị. Điểm khác biệt duy nhất giữa thái độ của họ đối với Quỉ là Moricand thì sợ quỷ, còn Jaime thì lại giao du với quỷ. Ít ra thì đó cũng là điều mà tôi hằng nghĩ xưa nay. Cả hai đều vô thần ra mặt và hoàn toàn bán Chúa. Moricand thiên về thế giới đa thần thượng cổ, Jaime thiên về đa thần cổ sơ. Cả hai đều là những người mà ta có thể gọi là có văn hóa, những người có học rộng, những người hào hoa phong nhã. Tuy đóng vai trò man rợ hay ngu xuẩn, Jaime vẫn là con người có khiếu thẩm mĩ tế nhị; dù cho anh có khạc nhổ cách mấy lên những cái gì “thanh lịch” đi nữa, thực sự anh vẫn là anh chàng Little Lord Fauntleroy từ thuở nào. Chỉ vì cùng quẫn Moricand mới phải từ bỏ nếp sống thượng lưu; chứ trong thâm tâm hắn vẫn là chàng công tử bột, vẫn hợm mình, vẫn đua đòi.
Khi mang chai cốc ra - xin nói chai còn có một nửa - tôi đã lo có chuyện. Nhìn hai anh chàng đi hai nẻo đường khác nhau như thế, ai dám bảo rằng họ ngồi với nhau được lâu.
Hôm ấy, tôi hoàn toàn lầm, không những họ ăn ý nhau, họ còn không buồn sờ đến rượu. Họ say sưa một cái gì mạnh hơn rượu - đó là quá khứ.
Nhắc đến Đại lộ Henri-Martin - chỉ trong vài phút họ khám phá ra rằng họ sinh trưởng tại cùng một khu! - mở đầu câu chuyện. Kể lại thời thơ ấu, Jaime bắt đầu tức thời nhái lại điệu bộ của cha mẹ anh, bắt chước các bạn học, trình diễn lại các trò tinh nghịch của mình, chuyển từ tiếng Pháp sang tiếng Y Pha Nho và ngược lại, khi thì đóng vai bà chị, khi thì đóng vai một thiếu nữ e lệ, khi thì đóng vai một nhà quyền quý Y Pha Nho đang cơn thịnh nộ, khi thì đóng vai một bà mẹ liến thoắng lại hay chiều con.
Moricand khoái tỉ. Tôi chưa bao giờ tin rằng hắn lại có thể cười to và dài đến thế. Hắn không còn là con cá heo buồn chảy buồn thiu nữa, cũng chẳng còn là con cú già minh triết nữa, mà là một con người bình thường, tự nhiên đang lúc thích thú.
Không muốn xen vào cái thú hoài niệm ấy, tôi ngả mình xuống chiếc giường giữa phòng vờ ngủ. Nhưng tai vẫn vểnh to.
Trong vài tiếng đồng hồ ngắn ngủi hình như Jaime đã lược thuật được hết cuộc đời sóng gió của anh. Và thật là một cuộc đời! Từ Passy sang Wildwest bước cái một. Từ là con một nhà quyền quý Y Pha Nho, sinh trưởng trong nhung lụa, trở thành một cao bồi, một bác sĩ y khoa, một nhà nhân chủng học, một nhà ngôn ngữ học lỗi lạc và sau hết là một nhà chăn nuôi trên đỉnh núi Santa Lucia ở đây, ở Big Sur. Một con sói đơn độc, ly dị với tất cả những gì thân yêu, không ngớt gây thù gây oán với anh bạn láng giềng Boronda, cũng người Y Pha Nho, vùi đầu vào sách, vào các từ điển (Hoa, Phạn, Do Thái, Ả Rập, Ba Tư, đó là mới kể vài thứ) trồng ít cây ăn quả, ít rau, săn hươu đầu mùa cuối mùa, luyện ngựa, uống rượu say, cãi nhau với mọi người, ngay cả các bạn bè thâm giao, cầm roi đuổi khách, nghiên cứu đến tận khuya, trở lại cuốn sách về ngôn ngữ của anh, mà anh hi vọng nó là cuốn sách độc nhất về ngôn ngữ! - làm xong thì vừa anh chết... Đồng thời hai lần lấy vợ, ba con, một con trai yêu quí bị chết bẹp dưới anh trong một tai nạn xe hơi bí mật, một đau thương suốt đời ám ảnh anh.
Nằm giường nghe chuyện anh thấy cũng là lạ. Lạ ở chỗ nghe con người mệnh danh là phù thủy trò chyện với nhà minh triết, nghe nhà nhân chủng học trò chuyện với nhà chiêm tinh, học giả với học giả, nhà ngôn ngữ học với con mọt sách, kỵ sĩ với kẻ bộ hành, người lang bạt với người ẩn dật, người man rợ với chàng công tử bột, người yêu ngôn ngữ với người yêu chữ, nhà bác học với nhà huyền bí, kẻ vong mạng với chú Lê-dương cựu, người Y Pha Nho bồng bột với người Thụy Sĩ nặng nề, người bản xứ thô lỗ với khách phong nhã chỉnh tề, kẻ vô kỷ cương với người Âu văn minh, kẻ phiến loạn với người công dân tôn trọng luật pháp, người ở ngoài trời bao la với người ở căn gác chật hẹp, người say sưa rượu chè với người ghiền ma túy...
Cứ mỗi khắc, chiếc đồng hồ lại lên tiếng ngân nga.
Sau cùng tôi nghe họ nói điềm đạm hăng say, như thể bàn một vấn đề quan trọng vậy. Ra họ nói về ngôn ngữ. Giờ thì Moricand nói rất ít. Hắn chăm chú nghe. Với tất cả cái kiến thức của hắn, tôi chắc hắn không bao giờ lại ngờ rằng trên cái lục địa Bắc Mỹ này đã từng có lúc nói đủ các thứ tiếng, các thứ ngôn ngữ, chẳng phải chỉ thổ ngữ, mà những ngôn ngữ lớn bé, tối nghĩa thô sơ, có thứ hết sức lôi thôi, kỳ quặc, về hình thức và cơ cấu chẳng hạn. Làm sao hắn biết được - và cũng mấy người Mỹ biết được - rằng có những bộ lạc ở sát nách nhau mà ngôn ngữ khác nhau một trời một vực như Bantu với Phạn ngữ, như Phần ngữ với tiếng Phénicie, như tiếng Basque với tiếng Đức. Dù là người tứ xứ, hắn có bao giờ ngờ rằng tại một góc trời xa xăm cùng thẳm của trái đất mang danh là Big Sur lại có một tên là Jaime de Angulo, một kẻ bội giao, một kẻ bị đày đọa, lại ngày đêm lo tỷ giảo, xếp loại, phân tích, mổ xẻ các cội rễ, các biến thể, các tiếp đầu, tiếp vĩ, các ngữ nguyên, các tương đồng, các tương hợp cùng các quái tượng của các ngôn ngữ và các thổ ngữ mượn của năm châu, của mọi thời đại, mọi chủng tộc và mọi cảnh trạng của con người. Chưa bao giờ hắn lại nghĩ rằng tất cả lại có thể phối hợp ở một con người, như thằng cha Angulo này, tên man rợ, nhà học giả, con người của thế giới, kẻ ẩn sĩ, lý tưởng gia và con đích thực của Lucifer. Trách gì sau đó hắn đã phải nói: “Đó là một kẻ phi thường. Hắn ta mới là một con người”.
Phải, Jaime de Angulo, anh ta quả thật là một con người được yêu quý, bị thù, bị ghét, khả ái, duyên dáng, lắm điều, khốn kiếp, một con người sùng quỷ, chó đẻ, với một trái tim kiêu hãnh và một linh hồn bất chấp, đầy âu yếm, đầy thương yêu đối với toàn thể nhân loại, tuy nhiên tàn ác, xấu thói, bần tiện và cộc cằn. Một con người tất phải chết khổ chết sở - chết cắt tay cắt chân, chết thiến, chết tủi nhục đến tận xương tận tủy. Ấy thế mà cho đến cùng vẫn giữu được lý trí, vẫn tỉnh táo vẫn coi đời như rác, vẫn bất chấp Thượng đế, bất chấp thiên hạ - và bất chấp cái bản ngã vô ngã vĩ đại của anh.
Phải chăng họ đã trở thành đôi bạn tri âm? Tôi ngờ lắm. Cũng may là Moricand không bao giờ dám quyết định đi bộ lên đỉnh núi để bắt tay ký kết tình tri kỷ. Bất chấp tất cả những cái giống nhau, họ vẫn khác nhau một trời một vực. Ngay cả quỷ cũng không thể kết họ trong tình bằng hữu hay huynh đệ được.
Ôn lại trong óc cái buổi gặp gỡ chiều hôm ấy, tôi thấy họ như hai kẻ mắc chứng tự kỷ trung tâm trong một vài giờ lạc bước trong cái mê hồn trận của những thế giới đã từng bao phủ cá tính họ, sở thích họ, và triết lý sống của họ.
Trong vòng tục lụy nhân sinh thường có những sự giao hợp cũng thoảng qua, cũng bí mật như những giao hợp giữa các tinh tú, những giao hợp hầu như bất chấp luật thiên nhiên. Đối với tôi là người quan sát biến cố, cuộc gặp gỡ cũng tựa như phối hợp lửa với nước vậy.
Giờ đây cả hai đều đã quá cố, hẳn cũng tha thứ cho ta khi ta tự hỏi liệu họ sẽ có bao giờ gặp nhau lại, và gặp ở trong thế giới nào đây. Họ còn nhiều cái phải cởi mở, nhiều cái cần khám phá, nhiều cái để sống trọn! Họ là những linh hồn cô độc, nhiều tự hào, nhiều kiến thức, nhiều trần lụy! Cả hai đều không có lấy gì là đức tin. Đi bên lề thế tục và oán trách thế tục; bám lấy cuộc đời và nguyền rủa cuộc đời; xa lánh xã hội mà không bao giờ dám đối diện với Thượng đế; đóng vai trò tiên tri và phù thủy nhưng lại không bao giờ thâu nhập được cái minh triết của đời sống hay cái minh triết của tình yêu. Trong cái thế giới nào, tôi tự hỏi, họ sẽ lại gặp nhau? Và liệu họ có thừa nhận nhau không?.

Henry Miller
Theo http://vanhoc.quehuong.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...