Kỳ không thất vọng, vì đường dài lắm, anh sẽ còn cơ hội gặp người bạn đường
khác. Nhưng từ lúc ấy trở đi, bao nhiêu người lên xuống, người nào cũng chào hỏi,
nhưng anh chưa cảm thấy hợp chuyện, họ đã xuống ga rồi.
Mãi cho đến bây giờ, đi đã gần nửa đường, Kỳ thấy hơi chán, không còn hy vọng
có một bạn đường vừa ý nữa. Anh đem báo ra đọc. Đọc hết cả tin tức, tiểu thuyết,
quảng cáo, lại thuộc lòng cả một tá thơ tương tư của một nữ sĩ. Anh hơi lạ, vì
thấy nữ sĩ tả hoa tương tư, lá tương tư, núi sông tương tư, mà không thấy nói đến
người tương tư. Không lẽ cái tương tư của con người không đáng nói.
Kỳ che tờ báo lên mặt, giả vờ ngủ. Anh chán nản lắm rồi. Bây giờ, bên cạnh anh,
ai lên xuống, ga nào, người ít nhiều, anh cũng mặc, không nhìn nữa.
Kỳ biết có người vào phòng anh. Trước hết, chắc là một thiếu nữ, vì nghe bước
chân nhẹ nhàng và mùi nước hoa thoang thoảng. Theo sau, là hai thanh niên còn
trẻ lắm, vì anh nghe thấy họ hành động nhanh nhẹn và nói cười có vẻ đầy nhựa sống.
Thiếu nữ ngồi bên cạnh Kỳ, có lẽ nàng thấy ngồi bên cạnh người ngủ say, trên mặt
lại còn che một tờ báo, sẽ yên ổn hơn ngồi cạnh hai chàng thanh niên có vẽ
"sát khí đằng đằng" kia.
Một thanh niên nói:
- Tôi đã bảo, xuất hành nhằm giờ "túc hỷ", thế nào cũng gặp
"giai nhân".
Kỳ cười thầm. Anh thấy "mặt trận" sắp được dàn ra rồi, chắc thú vị lắm.
- Sơn cũng đồng ý với Nam, nhưng yêu cầu Nam nên nhường cho Sơn thì hơn.
- Vì lý do gì?
- Lý do thứ nhất: vé tầu của Sơn, Nam mua hộ. Lý do thứ hai: Sơn nhiều tuổi hơn
Nam, "kính lão đắc thọ" mà! Ba la...
- Là gì?
- "Quả nhân hữu tật"...
Kỳ suýt bật cười lên tiếng. Trong chốc lát, cả một thời thanh niên trẻ trung của
anh hiện ra trong ký ức.
Thuở ấy, cách độ hơn mười năm, Kỳ cũng còn hăng say như hai anh chàng này, và
cũng đã có lần từng chế nhạo các bạn: "Quả nhân hữu tật". Đó là câu tự
thú của một ông vua ngày xưa: "Quả nhân hữu tật, quả nhân hiếu sắc".
Chỉ nói lên vế đầu, người ta sẽ hiểu vế thứ hai. Những người bạn ấy, có người
đã sống cùng anh một thời gian khá lâu, có người thỉnh thoảng còn gặp, có người
chỉ trông thấy vài lần rồi không bao giờ gặp lại nữa.
Thiếu nữ chừng khó chịu vì hai chàng thanh niên "nghiên cứu dung
nhan" kỹ quá, nên cũng lấy một tờ báo che mặt như đọc.
Có tiếng thở dài:
- Thôi, chúng mình đành đọc báo vậy! Sơn đọc một tờ, Nam đọc một tờ, đã có người
cầm hộ.
Nam vẫn tinh nghịch:
- Hai tờ báo! Nối liền nhau không biên giới. Thực là "Thu thủy cộng trường
thiên nhất sắc".
Kỳ thấy bọn họ dễ thương quá. Kỳ ao ước giá bọn họ cũng đi đến Saigon, chắc anh
sẽ không đến nỗi buồn lắm. Kỳ giở tờ báo ra nhìn họ với cái nhìn đầy thiện cảm.
- Chắc chúng tôi làm ông mất ngủ?
Kỳ mỉm cười:
- Không sao. Có các ông ngồi cùng phòng, nói chuyện càng vui, quên được đường
dài.
Kỳ quay sang nhìn thiếu nữ. Bày tay nàng cầm tờ báo hơi rung rung. Kỳ thấy tự
nhiên tim mình đứng hẳn lại. Nốt ruồi đỏ như son trên cổ tay thiếu nữ, trông
quen thuộc quá. Chỉ có một người anh quen, có nốt ruồi như thế. Người ấy đã đi
bên cạnh anh trong một thời gian, ngày xưa, thời loạn ly...
- Ông xuống ga nào ạ?
Kỳ trả lời như người mất hồn:
- Ga cuối cùng.
- Chúng tôi cũng thế. Ông cho phép chúng tôi tự giới thiệu: chúng tôi là sinh
viên.
- Trường?
- Đại Học Văn Khoa ạ. Còn ông?
- Tôi được mời đi dạy. Cũng Đại Học Văn Khoa. Chắc chúng ta còn gặp nhau nhiều.
Sơn và Nam nhìn nhau.
Kỳ thấy mình nói dối tự nhiên quá. Câu nói bật ra trong lúc anh vẫn còn nhìn nốt
ruồi trên tay thiếu nữ. Anh không hiểu mình có ý định gì, nhưng câu nói của anh
có hiệu nghiệm ngay lập tức. Hai sinh viên ra dấu cho nhau và cùng sang toa
khác. Chắc họ không muốn ngồi chung với người có thể là ông giáo của họ.
Tầu vẫn chạy trong đêm, và đêm cũng đã khuya lắm rồi, nhưng Kỳ không thấy buồn
ngủ tí nào nữa. Anh nhớ đến bàn tay người bạn gái năm xưa, bàn tay anh đã cầm
nhiều lần. Không biết có phải đúng là Thơ ngày xưa của anh không. Bàn tay gần
tay anh lắm, nhưng anh không dám nắm lấy. Bàn tay ấy không đẹp, không chải chuốt,
không có móng đỏ như máu, nhọn như vuốt, giống hệt như bàn tay anh đã nắm ngày
xưa, nắm một cách yêu thương tin cậy, và lòng êm dịu, bình yên, thỏa mãn như
người nằm đúng vào chăn đệm và giường của mình trong một đêm rét mướt mưa bão.
Kỳ vừa ao ước nàng là Thơ, vừa mong không phải. Nếu không phải, chắc anh sẽ
bâng khuâng mất vài hôm rồi lại đâu vào đấy. Nhưng nếu nàng là Thơ thật tình
thì sao? Trong chốc lát, Kỳ thấy trong tim mình như định ra một biên giới. Đây
là tình yêu vợ, yêu con, đây là tình . . . như nước sông, nước suối, nước thác,
mỗi dòng nước có một con đường riêng, không hề xâm phạm đến nhau, nhưng tất cả
đều đổ về lòng bể, là anh.
Nếu đúng là Thơ, anh sẽ không để cho nàng đi thoáng qua như những người bạn đường
kia nữa. Nàng sẽ ở bên anh mãi mãi và sẽ đi cùng anh đến ga cuối cùng của cuộc
hành trình, cũng như đến ngày cuối cùng của cuộc đời.
Thiếu nữ hình như ngủ say. Nàng bỏ rơi tờ báo xuống, đầu nghiêng về một bên. Kỳ
thấy lạnh hẳn cả người. Đúng là Thơ ngày xưa rồi. Hình bóng Thơ nằm yên lặng
trong tâm hồn suốt bao nhiêu năm trời, bây giờ hiện ra trước mắt anh bằng xương
bằng thịt. Thơ già dặn hơn, nhưng những nét vẫn là Thơ ngày xưa. Mi mắt Thơ tuy
nhắm, nhưng lòng mắt bên trong rung rung. Nếu Thơ ngủ thật, chắc nàng đang mơ một
giấc mơ buồn. Nét mặt Thơ cố đè nén một cảm xúc gì. Kỳ thấy muốn để đầu Thơ ghé
vào vai mình, như thế, chắc Thơ sẽ dựa êm ái hơn, ngủ ngon hơn, và không thể
nào mơ những giấc mơ ghê sợ nữa.
Mí mắt Thơ bỗng rung động mạnh và hai giọt nước mắt chảy ra, đem theo cả một
dòng, lan tràn trên má. Thôi, Thơ không hề ngủ tí nào cả, nàng chỉ giả vờ ngủ để
kéo dài thời gian trước phút nhìn được nhau. Chắc Thơ cũng đã nhận được ra anh
lâu rồi. Thơ chỉ nghe giọng anh nói, cũng như anh chỉ nhìn bàn tay, cũng biết
được nhau. Lần này Kỳ quả quyết lắm. Anh nhất định nắm lấy tay Thơ, rồi ra thế
nào thì ra.
Thơ mở mắt nhìn anh, nói rất nhẹ:
- Em không ngờ. Có người cho em biết anh chết sau lúc xa em mấy tháng.
- Anh cũng không ngờ. Nghe kể lại, mẹ em đặt bàn thờ và tụng kinh cho em một
trăm ngày. . . anh ngờ sao được!
Kỳ kéo đầu Thơ dựa vào vai anh như trước đây mấy phút anh đã ao ước được như thế.
Hai người cùng yên lặng, hình như không còn nghe thấy gì ngoài tiếng đập của
trái tim.
Tầu bỗng hình như chạy mau hơn một cách kỳ lạ và dễ ghét. Kỳ vuốt tóc Thơ, thì
thầm:
- Chúng mình đã đi được nửa đường rồi mới bắt được nhau.
Thơ cố nén cảm xúc:
- Nửa đường của chuyến xe suốt, và cả của cuộc đời!
- Cũng còn kịp để gặp nhau!
- Muộn chưa hở anh?
- Chưa em ạ. Đường còn dài, đời cũng còn một nửa để chúng ta nhìn thấy nhau, ngồi
cạnh nhau, sống với nhau. Đừng làm sóng gió nữa em, đừng làm khổ nhau, đừng làm
khổ mình, đừng tự ngược đãi mình nữa. Bây giờ, anh không để em thoát. Không có
gì trên đời này có thể cản trở chúng ta được nữa !
Kỳ không hiểu tại sao anh có thể nói ra được những câu trái với sự thật như vậy.
Ai cho phép anh được ngồi với Thơ, sống với Thơ? Anh rất thành thật với lòng.
Anh nói những lời xuất phát từ trái tim và đồng thời cảm thấy rất chua xót,
không biết làm cách nào để Thơ hiểu rõ, để cho Thơ biết sự thật, biết anh không
còn tự do nữa. Anh muốn giữ Thơ trong cuộc hành trình đi đến phần mộ trong đời
mình, mặc dầu biết không có một điều kiện nào.
Như muốn tránh sự thực hiện tại, anh bảo Thơ:
- Em đừng nói gì nữa. Chúng mình sẽ có rất nhiều thì giờ nói chuyện. Bây giờ,
hãy để yên cho anh ngồi bên cạnh em, biết có em trong tay. Chúng ta đã lỡ nhau
suốt nửa đời người rồi. Yên cho anh sung sướng gặp em . . .
- Ngày xưa . . .
- Đừng nhắc đến ngày xưa nữa em . . .
- Ngày mai . . .
- Cũng đừng nói đến ngày mai!
Hai người cùng yên lặng và hiểu nhau hơn lúc nào hết.
Thơ nhắm mắt lại, ngả đầu vào vai Kỳ! Tàu chạy đều và rung nhẹ, vai của người
mình yêu quí, làm gối rất êm. Mi mắt Thơ không còn thấy rung rung nữa, nếu Thơ
ngủ được, chắc giấc mơ sẽ yên lành biết bao.
Kỳ nhìn ra ngoài trời. Trời đen nhưng trong, mây sáng lơ thơ giăng mắc khắp
không trung. Muôn ngàn vì sao lấp lánh rực rỡ, có những sao băng xẹt ngang rất
nhanh rồi tắt hẳn. Kỳ ao ước giá còn được lòng tin tưởng thơ ngây ngày xưa,
ngày anh còn bé ở làng quê. Hối ấy, mỗi khi thấy sao băng, anh cởi nhanh một
cúc áo và nói một điều ước. Anh không nhớ những điều anh ao ước có bao giờ
thành sự thực, linh nghiệm như lời bà anh vẫn bảo không, vì anh quên ngay hôm
sau. Bây giờ, nếu còn hy vọng và tin tưởng được, anh chỉ ao ước có Thơ trong
tay anh mãi mãi.
Tầu đến Nha Trang lúc trời vừa sáng. Kỳ và Thơ cùng nhìn nhau mỉm cười. Cả hai
đã ngồi yên lặng không nói một điều gì quan trọng, cùng muốn phút giây quên hết
quá khứ, tương lai và sự thật, càng kéo dài càng tốt.
Kỳ đứng dậy nhìn ra sân ga. Bỗng anh thấy cả người như tê lạnh một cách lạ thường.
Vợ anh đang đứng nhìn lên từng toa như tìm kiếm. Trông thấy Kỳ, vợ anh reo lên:
- A, anh! Em cứ sợ anh nhỡ chuyến này.
Nàng chen lên tàu, bước vào phòng, nói ríu rít:
- Em đang nghỉ mát, được tin anh vào, nên đón tầu để đi cùng với anh cho vui.
Thế nào, anh có mệt không?
Bất giác, Kỳ thấy mệt thực. Bao nhiêu nhọc nhằn chán nản, phiền muộn trong nửa
đời người đã trải qua, anh đã quên không muốn nhớ, giờ phút này chúng đùng đùng
kéo nhau đến bao vây lấy anh, làm anh thấy mình chỉ trong một lúc như già hẳn
đi. Tất cả hy vọng tiêu tan trong chớp mắt một cách đột ngột và tự nhiên vô
cùng.
Thấy Thơ đứng dậy sắp sửa hành lý, anh cũng không thể nói được một lời nào, để
từ giả hay giữ lại. Anh chỉ nhìn theo với đôi mắt buồn rầu bâng khuâng.
Vợ Kỳ xem xét hành lý và nói với anh những điều gì nhiều lắm, nhưng anh không
nghe rõ, và dù nghe rõ cũng không hiểu gì hết. Mắt Kỳ như mờ đi, nhìn theo Thơ
vội vàng ra khỏi ga. Anh biết tình yêu của Thơ và anh vẫn còn nguyên vẹn. Anh
biết Thơ cố tránh. Thơ không muốn thấy mình cùng đi với Kỳ một chuyến xe trong
đời, mà không thể nói với nhau một lời nào.
Kỳ ngồi bên cạnh vợ, nghe vợ nói chuyện và thấy nàng đã nói nhiều quá, trong
khi Thơ chưa kịp nói với anh gì cả.
Bây giờ, làm sao anh còn nắm được tay Thơ. Làm sao anh biết được Thơ nghĩ gì.
Thơ đi đâu? Thơ làm gì? Bao nhiêu năm qua, bao nhiêu lằn roi đã quất vào tâm hồn
nàng? Bao nhiêu thất bại, đau khổ. Ai lau nước mắt cho Thơ?
Kỳ chưa kịp biết được gì hết, anh đã để cho bóng Thơ tan mất. Và đau đớn biết
bao, anh không có dịp nói một lời giả từ. Giá biết được phải chia rẽ đột ngột
và vĩnh viễn như vậy, anh sẽ cố nói với Thơ một vài lời, dù chỉ là những lời rất
vô nghĩa, cũng còn có dịp nhìn được mắt nhau lâu thêm vài phút.
Tầu vẫn chạy rất bình yên, như không bao giờ biết được bao nhiêu ly hợp đã xảy
ra trong một chuyến đi.
Người vợ ngồi bên cạnh đem lại cho anh thói quen thường ngày. Kỳ thấy lòng mình
bình tĩnh lại. Anh lắng tai nghe vợ nói, trả lời vợ và ngoan ngoãn theo vợ về
nhà. Ngoan như con ngựa nhà, ngựa thuần. Con ngựa rất siêng năng cần mẫn, ngày
ngày kéo xe cho chủ. Đôi mắt ngựa bị che hai bên lại, chỉ còn nhìn thấy một
phía trước mắt, một con đường thẳng, một bổn phận. Ngày ngày làm xong công việc,
tối về tàu, ngựa sẽ được phát cho một nắm rơm hay cỏ khô, cho ngựa ngủ yên, đợi
ngày mai lại tiếp tục công việc, lưng mang nặng yên cương, mắt che kín. Đền bù
lại, ngựa được chủ cho ăn no, được khen là ngoan ngoãn, và ngựa rán hết sức lực
làm việc cho chủ vui lòng.
Nhưng may mắn làm sao, Kỳ thấy dù mình như con ngựa đã bị che kín hai mắt, chỉ
được phép nhìn thấy một con đường thẳng trước mặt, chỉ được trở về với tàu ngựa
cũ mà thôi, tim anh vẫn còn nguyên vẹn, vẫn còn có thể cảm, nghĩ và yêu thương.
Biên Giới
Tùng xuống tàu từ Yokohama. Cùng rời bến với anh, có một ông
Linh mục và các nữ sinh Nhật sang Pháp học vẽ. Các cô Nhật này tuy cũng thuộc hạng
" giai nhân", nhưng anh không có cảm tình mấy, nên không muốn làm
thân.
Tàu đến Hong Kông, lại thêm một lớp hành khách hạng ba mới lên . Các cô thiếu nữ
Trung Hoa kênh kiệu một cách khó thương. Khách đàn ông, thì một số sang Anh tìm
việc làm và hễ mở đầu câu chuyện là không thể thiếu được ba tiếng chửi thề, được
gọi là " tân tam tự kinh", làm cho anh không hiểu tiếng Tàu cũng phải
hiểu. Vì thế, Sheroo nổi bật hẳn lên.
Sheroo là một cô gái miền Tây Bắc Ấn Độ, nên da nàng không pha màu cà phê đậm
như các cô Ấn Độ miền khác. Hôm đầu mới lên tàu, Sheroo mặc quốc phục: áo trắng
tay ngắn và chiếc Shari màu gạch non có hoa vàng viền dưới gấu. Tóc nàng đen và
mắt cũng đen một cách êm dịu lạ lùng.
Tùng chỉ nhớ lúc đầu mới gặp nàng, anh có một cảm giác rất bằng lòng. rất thoải
mái dễ chịu. Tùng không hiểu mình bằng lòng cái gì, bằng lòng sự gặp gỡ, hay là
cảm mến người con gái lạ kia.
Một hành khách nói đùa rằng nếu ai đi trên tàu thủy một tháng mà không thể làm
quen một người bạn mới nào, thì đời không còn làm ăn gì được nữa, chỉ còn cách
vào nhà tu kín mà thôi. Tùng không đến nỗi thế. Hầu hết mọi người đều có thiện
cảm với anh. Tùng quen tất cả, nhưng Sheroo là người anh nói chuyện nhiều nhất.
Một lý do nữa, là nàng nói thạo tiếng Anh hơn những cô gái khác.
Khi tàu đến Singapore, anh và Sheroo cùng đăng tên vào đoàn du lịch của hãng
tàu tổ chức. Có hai đoàn: một đi xem thành phố Singapore, ăn quà, mua sắm lặt vặt
trong thành phố, và một đoàn đi xa hơn, đến tận Johore, thủ đô của xứ Mã Lai.
Tùng và Sheroo cùng ở đoàn thứ hai, làm cho Tùng thấy gần và mến Sheroo hơn, vì
trong khi các cô gái khác chỉ thích xem phố và ăn quà, mua sắm, thì Sheroo chịu
khó đi xa, chịu tốn tiền để xem những cảnh khô khan nhưng tăng gia kiến thức..
Đoàn du lịch bắt đầu đi xem cung điện của vua Sudan Mã Lai trước, kế đến vườn
bách thú và Đài Chiến Sĩ trận vong. Đài này, theo lời người hướng dẫn nói, là
đài kỷ nịệm hai mươi bốn nghìn binh sĩ của tất cả các thuộc địa Anh, đã chết
trong các trận đánh với Nhật để bảo vệ Tân Gia Ba. Cuối cùng, xem Mohamed Ali
Mosque, một trong những đền thờ của đạo Hồi Hồi.
Lúc sắp bước chân lên đền, Tùng lưỡng lự không biết có nên cởi giày ra như những
người khác hay không. Lúc đi, anh không ngờ có cái vụ cởi giày, nên không thay
tất mới. Tùng tưởng là phải đi bộ nhiều lắm, nên vẫn mang đôi tất cũ đã thủng mấy
lỗ, bây giờ làm anh ngượng với Sheroo. Thấy mọi người đã vào cả, Tùng đành tắc
lưỡi một cái, rồi cởi giày theo đúng luật lệ của dân bản xứ. Sheroo còn đứng lại
ở cửa lớn chờ anh. Tùng chỉ đôi tất, mỉm cười bảo:
- Cô xem, khổ thế đấy. Thiếu người sửa túi . . .
Sheroo nói:
- Để về tầu, tôi . . .
- Cô vá hộ nhé?
Sheroo lắc đầu cười:
- Còn lâu! Tôi cho anh mượn kim chỉ. Phải tập làm cho quen!
- Quen để làm gì?
- Để sau này vá cho vợ chứ! Còn ai làm việc ấy hộ cho anh nữa! Vợ mình chứ vợ
ai mà ngại.
Thấy Sheroo tinh nghịch, Tùng cũng trêu lại:
- Thế mà tôi định để dành cho cô vá đấy! Nếu cô không biết, tôi xin dạy miễn
phí, bảo đảm hai giờ thành công, giỏi hơn thầy nữa là khác!
Sheroo bĩu môi:
- Còn lâu!
Hai người cùng cười. Bây giờ, Tùng không còn ngượng ngùng gì về đôi tất rách nữa.
Anh nói rất nghiêm trang:
- Tôi nhất định không vá đôi tất rách này, vì trong cái thời buổi rất " đắt
đỏ" khan hiếm thứ đàn ông thông mình, đây là một cái quảng cáo rất tốt, tỏ
ra rằng kẻ mang nó cần một người " hiền nội trợ", và biết đâu chả có
người thấy đôi tất rách của tôi mà "mủi lòng", rồi thương lây đến
" kẻ sĩ " này chăng!
Sheroo có vẻ chế nhạo:
- Tôi chưa thấy ai "khiêm nhượng" hơn anh. Trong một câu, vừa tự xưng
mình là người thông minh, vừa ra điều kiện cưới vợ phải là người " hiền nội
trợ". Nếu lỡ gặp phải cái thứ chằn tinh đội lốt mỹ nhân thì sao?
- Tôi không tin cô thuộc loại ấy. Và ví dụ như phải chăng nữa, tôi cũng không sợ!
Sheroo lại bĩu môi:
- Còn lâu!
Tùng nhìn Sheroo với cái nhìn hăm dọa, như con hổ đã nhìn thấy mồi ngon, trước
khi vồ lấy nhai ngấu nghiến, còn vờn quanh để tăng thêm khao khát.
Sheroo cũng nhìn lại một cách khiêu khích, như con mồi được nằm yên trong một
cái cũi sắt chắc chắn an toàn . dù thấy kẻ địch đến múa men trước mặt cũng
không hề run sợ, vì đã biết trước nếu hắn ta vồ mình, là giờ phút hắn ta bước
vào " tử địa".
Cô hướng dẫn mời mọi người đứng quanh gần cô và bắt đầu làm phận sự. Cô cất cao
giọng, giảng giải bài học thuộc lòng cô phải giảng hàng trăm nghìn lần trước mặt
du khách:
- Những tín đồ Hồi Hồi, mỗi ngày thứ năm phải đến làm lễ tại đền thờ này. Trước
khi bước chân lên đền, phải rửa mặt và chân tay. Vì thế, trước mặt đền, phải
xây hàng chục cái máy nước mới đủ dùng.
- Cái đài cao, chạm trổ và giác vàng này, là để cho nhà sư lên giảng kinh Koran
mỗi tuần lễ.
- Mời quý vị xem. Tất cả đá Cẩm thạch lót dưới sàn, trên tường, và trên trần đền
thờ, đều được chở từ Ý Đại Lợi đến. Tấm thảm quí dưới chân quí vị, là thảm Ba
Tư.
- Đây là toàn bộ Kinh Koran chụp hình lại.
- Bản đồ những chiếc đồng hồ treo trên vách kia là để chỉ những giờ phải cầu
nguyện. Mỗi ngày năm lần ở nhà, và mỗi tuần phải đến điện một lần.
- Đây là . . . Đây là . . .
Cô hướng dẫn vừa đi vừa kể. Mọi người theo sau lưng cô, mắt cứ nhìn lên ,nhìn
xuống, quay phải, quay trái theo ngón tay cô chỉ. Sheroo lùi lại sau cùng, hỏi
một ông sư đứng cạnh:
- Cô ấy bảo chỉ cầu nguyện 5 lần một ngày thôi, tại sao lại có những chín cái đồng
hồ?
Nhà sư mỉm cười, vui vẻ trả lời:
- Năm lần theo lệ thường, còn bốn lần kia là phụ trội trong những ngày lễ đặc
biệt.
Thấy ông sư có vẻ muốn giảng cả bộ kinh Koran, Sheroon cảm ơn rồi vội vàng chạy
theo các bạn, lên xe về bến .
Hành khách ở Singapore lên tàu, phần đông là người Ấn Độ. Bọn họ xoa lên người
một thứ dầu rất nặng mùi. Dần dần, sân tàu gần như bị chia làm đôi. Nhóm Người Ấn
Độ đi đâu là những người khác tránh dạt cả ra. Và mãi đến lúc ấy, Tùng mới nhớ
tóc Sheroo cũng có mùi dầu tương tự . Anh không dám thở mạnh để nhận xét xem nó
giống mùi gì mà chỉ thoáng qua một chút trong không khí, cũng đủ làm cho người
ta thấy nôn nao khó thở. Có người nói cho Tùng biết rằng dầu ấy làm cho da và
tóc họ được bóng lóang và thêm đen, thêm đẹp. Tùng nghĩ thầm, may mà Sheroo chỉ
xoa một ít lên tóc, nếu nhiều quá chắc anh hết dám đứng gần.
Thấy Tùng không rời Sheroo, các bạn anh chế nhạo:
- Có người phải coi chừng, trái tim sắp rụng đến nơi! Không hiểu nghe Sheroo
nói chuyện bằng cái tiếng Anh giọng Ấn Độ ấy thì có thú vị gì. Nghe mười hiểu một.
Tùng trả lời:
- Phải, các " ngươi" là giống " thông minh vặt", nghe một
hiểu mười, còn " ta" thích nghe mười hiểu một, như thế mới đủ "
huyền bí ly kỳ".
Tàu càng đi các bến xa, hành khách lên càng đông và màu da càng đen thêm. Qua
khỏi Bombay, sóng bắt đầu to và gió dữ dội. Phần đông hành khách đều bỏ cơm, nằm
yên trong phòng. Phòng ăn cũng như sân tàu vắng vẻ yên tĩnh hẳn lại. Thấy
Sheroo vẫn lên sân, Tùng trêu ngay:
- Nếu tất cả hành khách đều như cô, thì hãng tàu phải đóng cửa sớm.
- Tôi có làm gì thiệt hại cho hãng đâu?
- Từ hôm cô lên tầu, tôi chưa thấy cô vắng mặt trong phòng ăn một bữa nào.
- Đầu óc bóc lột giỏi như anh mà không đi buôn, thật là mai một cả thiên tài.
- Thôi, xin đủ ạ. Nói thực chứ Sheroo không mệt sao?
- Mệt lắm chứ, nhưng phải gắng chịu để làm gương cho kẻ khác bắt chước. Thế
nào, hôm nay có phải thân tặng cho anh hai viên thuốc say sóng
"Sealeg" nữa không?
Tùng nói lãng:
- Thôi, chúng ta nói chuyện khác đi, đừng để lạc đề nữa!
Sheroo mỉa mai:
- Thế anh cứ nói chuyện nghiên cứu hóa học của anh đi. Ai bắt anh phải đổi chuyện,
mà kêu lạc đề ầm cả lên.
- Không, tôi muốn nói chuyện gì khác hơn nghề của tôi. Chẳng hạn như, tôi rất
sung sướng vì Sheroo không ăn "bằng tay" như những người Ấn Độ khác.
- Ở nhà, tôi cũng ăn như mọi người, nhưng khi có khách lạ, hay là trước mặt anh
chẳng hạn, tôi mới dùng đến các thứ " khí giới" dao thìa ấy.
- Thế tại sao nhiều người Ấn Độ không ăn thịt bò?
- Những người theo đạo Phật như chúng tôi, tin rằng tất cả mọi sinh vật đều biết
đau đớn cũng như người, nên chúng tôi chỉ ăn rau và hoa quả. Chúng tôi uống sữa
của bò, nên yêu bò như mẹ, con có bao giờ ăn thịt mẹ không?
- Thế cô không sợ một ngày kia bò sinh sản nhiều quá, sẽ cai trị loài người?
Sheroo cười:
- Thì đã làm sao chưa? Cùng lắm là " hầu hạï" bò, dẫn bò đi tắm, quét
dọn chuồng bò, trồng cỏ cho bò ăn chứ gì! Đối với bò thì chúng ta đã thành nô lệ
từ lâu rồi nhưng không nhận đấy thôi.
Một sĩ quan trên tầu đi ngang qua chỗ hai người đứng dừng lại nói:
- Tối hôm nay, tám giờ có chớp bóng. Phim hay lắm, cô nhớ lên xem.
Người sĩ quan đi rồi, Tùng nhìn theo mỉm cười. Sheroo nói:
- Trông nụ cười của anh có vẻ " bất lương" lắm.
Tùng vẫn cười:
- Tôi kể chuyện cô tích cô nghe nhé: Có một tiểu thư nọ đi tầu biển, người ta
xem thấy nhật ký của cô ta viết như thế này:
" Ngày thứ nhất: Thuyền trưởng là một thanh niên rất đẹp trai".
" Ngày thứ hai: Anh ta nói, nếu tôi không đáp lại tình yêu, thì anh ta sẽ
đánh đắm tầu, tất cả hành khách sẽ chết đuối, không còn một ai sống sót".
"Ngày thứ ba: Tôi đã cứu tất cả hành khách và thủy thủ hơn ba nghìn người".
Sheroo cười ngất:
- Đối với tôi thì .. . còn lâu! Tôi là người không biết " hy sinh",
dù là hy sinh cho chính tôi cũng vậy!
- Thế cô sống để làm gì?
- Sống để làm gì à? Sống để . . . trêu tức thiên hạ! Ngán chưa?
Tùng chỉ ngoài biển xa hỏi:
- Cô có thấy gì không?
- Quái vật của Đại Dương, lạ lùng gì?
- Cố nhiên là cô phải quen lắm. Cùng họ Quái mà, Cô có tin là nếu tôi có người
vợ như cô, thì đàn Quái Ngư kia chắc chắn sẽ được một bữa điểm tâm rất ngon
lành.
Sheroo bĩu môi:
- Còn lâu!
Sau buổi nói chuyện với Sheroo, Tùng thấy hoàn toàn thất vọng. Đúng là giữa anh
và cô gái Ấn Độ này có một biên giới vô hình ngăn cách. Tùng không thể yêu bò
như mẹ, không chịu được mùi "dầu thơm" hôi nồng nực, không thể ăn bốc,
ăn cay như các đồng hương của nàng được. Anh là một người tận tụy với khoa học,
suốt ngày vùi đầu trong phòng thí nghiệm để tìm những phương thuốc mới, tân tiến
nhất. Anh đi sang Đức mục đích để nghiên cứu
thêm những dược chất lạ, còn Sheroo chỉ " đi chơi". Sheroo " đi
chơi" trong giấc mơ cũng như trong cuộc đời, trên đường đời, nàng không thấy
một việc gì đáng gọi là quan trọng cả. Anh xây dựng, trong khi Sheroo phá hoại.
Anh làm cho đời bớt đau thương, còn Sheroo " sống để trêu tức thiên hạ".
Hai người như đi trên hai con đường song song,trông thấy nhưng không bao giờ gặp
được nhau.
Như một người quân tử, xử sự một cách rất "quân tử", Tùng tự lý luận:
thôi để cho Sheroo yên. Vả lại, chính mình cũng không thực yêu Sheroo cơ mà! Vì
nếu yêu thì mình đã làm hết cách, dù là "vương đạo" hay " bá đạo"
cũng được, để có nàng. Dù cho Sheroo có trốn chạy đến tận chân trời góc biển
nào, dù " còn lâu" cho đến ngày tận thế, dù Sheroo có tài trêu tức đến
đâu mình cũng không tức, không bị nàng gạt đi một cách nhẹ nhàng như thế. Mình
không yêu, mình không yêu".
Lòng tự ái được thỏa mãn, Tùng yên lòng và vui vẻ như một người " không
yêu" thực sự.
Những ngày cuối cùng trước khi cập bến Marseilles, trời rất đẹp. Tất cả hành
khách đều lên sân chơi, nhưng nét mặt mọi người đã bắt đầu hiện ra những xúc cảm
khác nhau. Thôi thế là hết những ngày ăn rồi ngồi ngắm biển và tán dốc. Người
đi học , kẻ đi làm, Từ đây họ sẽ đi tung ra các nơi khác. Mai đâyphải lo bài vở,
thi cử, lo tranh đấu, lo phát triển, lo làm lợi cho mình, làm không hại kẻ
khác, bao nhiêu là " kiểu mẫu lo" đều tập trung cả vào một chuyến tầu.
Tầu đến bến Marseilles ,bến cuối cùng, Tùng từ giả Sheroo một cách vui vẻ, bình
thản.
Anh trở về với công việc quen thuộc: phòng thí nghiệm, với những chai lọ ngổn
ngang và lại vùi đầu vào sách vở. Tùng tưởng làm như thế anh có thể quên những
kỷ niệm vui nhẹ êm đèm và nhất là tưởng mình quên được Sheroo. Tùng kiêu hãnh
như người vừa chiến thắng một trận rất vinh quang, dù không có kẻ địch. Anh bằng
lòng mình, như một phú ông vừa nhịn tiêu tiền một trăm đồng để bỏ thêm vào ngân
hàng cho đủ số hai mươi triệu! Bằng lòng một việc làm khá vô ích.
Sự thực, hình ảnh Sheroo vẫn theo Tùng đến phòng thí nghiệm . Anh càng cố quên,
Sheroo hình như càng cố trêu tức anh thêm. Đôi mắt tinh nghịch của nàng hiện ra
giữa các con số, chữ tắt, làm anh thỉnh thoảng lại đãng trí và để mình chìm đắm
trong nhớ nhung. Tùng nhớ đến từng cử chỉ, lời nói, từng cái chớp mắt, từng mẩu
chuyện của anh với Sheroo. Một hôm anh hỏi nàng:
- Nếu có người nói yêu cô, cô sẽ trả lời thế nào?
- Láo hết, không tin.
- Nhỡ thật?
- Thật thì cho họ chết.
- Chết như thế nào?
- Chết trẻ, chết già, chết tự nhiên, chết miễn cương, thiếu gì cách chết.
- Thế còn cô?
- Cũng chết chứ sợ gì ai! Chết tầm thường, chết đặc biệt, chết vui, chết buồn,
chết khô, chết héo, chết sung sướng trong tay người yêu, hay là chết vì ghét
nhau, chưa biết, còn phải đợi xem " hồi sau phân giải".
- Nhưng tôi không ghét Sheroo đâu!
Sheroo trề môi, hất hàm cười bảo:
- Còn lâu!
Lúc ấy, anh cho là Sherro rất dễ ghét và điên. Nhưng bây giờ, thấy hình như
trong cái điên của nàng cũng có ít nhiều chân lý thực: đằng nào cũng chết, mà
ai cũng chết! Nếu đã như thế, tại sao anh không chọn cách chết vui vẻ, chết dễ
thương, chết trong tay người yêu một cách sung sướng?
Tùng ngạc nhiên, không hiểu tại sao mình đã có thể gàn được đến thế. Một mùi dầu
lạ thoáng trong mái tóc Sheroo thì có nghĩa lý gì, mà cũng đủ làm thành một
biên giới chia rẽ hai tâm hồn. Với Tùng, bây giờ giá Sheroo xoa dầu cả người
cũng không sao. Một bể tắm đầy xà phòng có thể rửa sạch tất cả mùi dầu lạ kia,
cũng như một tình yêu chân thành, tuyệt đối, có thể thay đổi hẳn tính coi rẻ đời
của nàng.
Khi Tùng tìm ra chân lý, thấy mình đã nghiện Sheroo, nghiện cả những mẩu chuyện
trái tai của nàng, khi Tùng thấy thời gian và không gian, cũng như tất cả những
sự trái ngược của anh với Sheroo đều không thể làm thành biên giới, thì Sheroo
đã ở tận một chân trời nào! Sheroo vẫn còn đang "đi chơi" với hai chữ
" còn lâu" luôn luôn ở trên môi nàng. Còn Tùng vẫn ở nguyên một chỗ
trong phòng thí nghiệm của anh, và thỉnh thoảng, các thứ thuốc anh chế lẫn lộn
lại làm anh say sưa tưởng như mùi thuốc mê vương vương trong mái tóc người mình
thầm yêu.
Quà Tết
Minh hỏi Quế:
- Chị đang nghĩ gì đấy ?
Đôi mắt Quế vẫn nhìn lên trên trần nhà mơ mộng, không trả lời em.
- Chị nghĩ gì, phải nói ra chứ !
Quế gắt:
- Ơ hay, ý nghĩ là tư sản của người ta, sao lại bắt buộc phải nói ra ?
- Nhà này không có phép như thế ! Cấm mơ mộng, cấm buồn, cấm khóc. Muốn gì phải
xin phép em. Tư tưởng không nói ra, không công khai, là tư tưởng ...lậu thuế !
Chị định giữ lấy một mình để làm chợ đen phải không ?
Hai chị em cùng bật cười.
- Thôi để ta nói cho mà nghe. Đồ độc tài. Thật rõ là càng trẻ con càng ưa bắt nạt
người lớn ! Ta đang nghĩ đến những cái Tết tha hương đã trải qua trong đời.
- Tưởng gì lạ, chứ Tết tha hương thì em cũng có. Những mười cái cơ đấy. Chị được
bao nhiêu ?
- Có lẽ mười ba.
- Con số rủi. Tết năm nay, chắc chúng mình sẽ ....no !
- Em đoán lối gì kỳ quái vậy ?
- Em đoán theo kiểu " phép giải mộng" " sanh dữ tử lành" mà
!
Hai chị em cùng yên lặng một lúc, Minh nói:
- Lạ quá chị ạ, sao những cái Tết no vui thì mình quên cả, còn Tết nào đói hay
là khổ là mình nhớ đời. Em nhớ nhất hồi chúng em "được" ăn mứt gừng
suốt cả ba ngày Tết. Năm ấy, chúng em nghèo quá chừng: tiền học chưa có, tiền
nhà chưa trả, tiền ăn không biết còn đang lưu lạc nơi đâu... Đợi mãi vẫn không
thấy thư nhà. Mãi đến chiều ba mươi Tết mới nhận được quà của cô bạn thân nhất
gời cho: một gói mứt gừng thật lớn chị ạ. Mứt gừng là một món ăn rất sang trọng
và xa xỉ ở ngoại quốc, nhưng mình không có gì ăn cả ngoài nó ra nên phải ăn suốt
ba ngày. Trời, nóng ruột gần muốn điên luôn !
- Còn chị, chị nhớ hồi ở Nam Kinh cũng bị hoàn cảnh như thế. Các sinh viên Việt
Nam không ai còn đồng nào cả. Tình cảnh có vẻ nhiều hy vọng được ăn Tết với nước
lã lắm. Đêm ba mươi, bỗng có anh Thanh đến chơi. Anh ấy làm trong quân đội Tàu,
đánh giặc mướn hộ ông Tướng mấy chục năm vẫn không chết. Anh trịnh trọng đưa
cho chị một gói nhỏ và bảo đấy là quà Tết cho tất cả. Trước khi mở, anh bắt
đoán. Mọi người cầm gói, nào lắc, nào nghe, nào sờ, nào nắn, làm đủ, nhưng cũng
chỉ đoán được đấy là một thứ đồ hộp, mà không biết món gì. Mãi sau, mở ra mới
biết, đấy là một hộp sữa đặc. Anh Thanh cho biết anh không còn đồng nào, chỉ định
đến thăm anh em, chuyện trò suốt đêm giao thừa thôi, không ngờ lúc đi đường, thấy
cái hộp sắt có vẻ còn mới bên bờ cỏ, anh đá nó một cái và định nhặt để đem cho
bọn này làm gáo múc nước. Anh thấy nặng. Thì ra, một hộp sữa còn nguyên. Thế là
cả bọn được uống sữa như trẻ con suốt ba ngày Tết. Kể ra, không ấm lòng bằng mứt
gừng, cũng không no giống như mứt gừng, nhưng ngọt ngào thì đủ lắm.
Minh đứng dậy đến bàn chải đầu, bảo:
- Đến giờ rồi, em sửa soạn đi hát. Hôm nay, em muốn chị đi với em. Em mới ốm dậy,
hát buổi đầu, run lắm. Chị đi để em vui và thêm tin tưởng.
Trang điểm xong, Quế xách đàn, Minh cắp tay nàng, hai chị em đi co ro trong trời
đêm giá rét. Đêm đã khuya, các tiệm bán hàng đều đóng cửa, chỉ còn vài tiệm cà
phê đèn còn sáng. Minh nhìn vào cửa kính một tiệm bán hàng phụ nữ, hỏi chị :
- Tết năm nay, em muốn tặng chị một món quà để kỷ niệm chúng mình gặp lại sau
mười bốn năm xa cách. Chị thích gì ?
Quế gạt đi:
- Thôi đừng bày đặt ra nữa ! Em tặng chị, rồi chị biết mua gì tặng em ? Tiền chị
để bên nhà, chưa có cách gì gởi sang; có lẽ thứ hai đi học vẫn còn phải cuốc bộ
! Túi sạch sẽ lắm, không quà cáp gì cho ai hết !
Minh phụng phịu:
- Không, em khác. Em còn hơn một trăm quan. Tối nay em hát, mai có tiền đi chợ,
mua được cả củi đốt sưởi nữa là khác ! Giàu đến thế còn gì nữa ! Chị không nhận
là khinh em, ghét em, em giận chị đấy !
- Ừ, nếu thế em cho chị một cuốn vở hay một tập giấy trắng cũng được.
Hai chị em cùng xiết chặt tay nhau.
Đến nơi, Minh và Quế vào cổng sau, lối đi riêng của nghệ sĩ để lên sân khấu. Quế
giúp em thay áo và nàng thầm cầu nguyện cho Minh tối nay hát hay. Minh ốm đã
hơn mười lăm ngày. Hôm nay nàng khỏi, và đi hát lại, nhưng vẫn còn yếu lắm. Quế
sợ nhất là cái giọng. Nếu Minh bị mệt, tắt giọng nửa chừng thì tai hại vô cùng.
Trên sân khấu, người ta để hai gối bông, trên phủ gấm đen, sau lưng là tấm màn
nhung màu rượu chát. Minh mặc áo kim tuyến trắng. Minh sẽ đứng ghếch một chân
lên nệm gấm, ôm đàn lục huyền cầm và hát luôn ba bài.
Ngày thường, nếu Minh khoẻ mạnh, nàng có thể hát đến muời bài không mệt, nhưng
hôm nay Minh còn yếu , nên Quế thấy lo lắng vô cùng. Quế đứng trong sân khấu
sau tấm màn, đợi nghe Minh hát. Bỗng thấy người gĩư phông đến bảo:
- May quá, có cô ở đây. Ông giám đốc bảo hôm nay phải che thêm nhung cả hai bên
cô Minh, để khỏi thấy lối vào trong sân khấu. Tôi tìm mãi, nhưng người phụ của
tôi đi đâu mất, cô giúp tôi một tay nhé, để che liền hai tấm màn lại cho kín.
Quế gật đầu và đến cạnh kéo sát hai ấm màn lại. Quế đứng ngay cạnh em, nhưng
không trông thấy mặt, chỉ thấy bóng Minh in trên tấm màn nhung, mái tóc Minh xoả
dài xuống lưng. Quế thấy mình tự nhiên cũng nín thở mỗi khi Minh nín thở để hát
một câu dài. Trong lúc Minh nhìn nghiêng; Quế trông thấy được bóng môi em mấp
máy rung. Không trông được mặt Minh, nàng cũng biết Minh đang nhìn vào khoảng
không, tưởng tượng đang hát với một người nào đó, hát riêng cho một người nào
đó nghe, để diễn xuất tất cả tình cảm của bài hát giữa đám nguời xa lạ.
Minh hát xong bài thứ nhất, đến bài thứ hai là một bài Pháp. Tâm trí Quế đi
theo từng chữ trên môi em. Trong khi Minh hát ngoài sân khấu, Quế cũng hát
trong lòng.
"Anh làm một cái hình nhân để tưởng nhớ tới em.
Miệng em là một trái mơ
Vỏ ốc làm tai, củ cải làm mũi
Tim em, anh để một viên đá
Hai nắm cỏ kết thành mái tóc
Đoá hoa xanh là đôi mắt em
đang rưng rưng lệ
Những giọt lệ mắt anh đã chảy ra
Dù anh không muốn..."
Minh hát xong, Quế mừng thầm, nhưng lại lo hơn, vì không biết em còn đủ sức hát
nốt bài thứ ba không.
Bên ngoài , Minh đã bắt đầu giới thiệu:
- Đây là bài dân ca Mông Cổ. Bài hát người nông dân ca ngợi vẻ đẹp hùng tráng mỹ
lệ của quê hương. Chàng ngồi bên bờ suối, nàng khoác tay chàng ca hát, và một
con chim đậu trên cành líu lo hoà theo...
Minh lấy giọng vui để diễn tả tình cảm của bài hát rộn rã tưng bừng. Quế thấy
bóng Minh trên màn rung rung, từ cánh tay vỗ đàn, mái tóc cho đến bàn chân ghếch
lên chiếc gối phủ gấm, tất cả đều rung động, làm Quế cũng thấy rung theo.
Mỗi một phút bây giờ sao dài quá ! Bài hát Mông Cổ hôm nay cũng thấy dễ ghét lạ
! Nó lên cao xuống thấp một cách bất tử và tốn hơi vô cùng. Quế thấy trán mình
lấm tấm mồ hôi. Những hạt mồ hôi cứ to dần và chảy dài xuống mặt.
Nhưng rồi cũng xong. Minh đã giữ được giọng cho đến câu cuối cùng. Nàng cúi
chào khác giả trong tiếng vỗ tay hoan hô. Hai dòng nước mắt Quế đã cố gắng hết
sức nén giữ mãi, bây giờ cũng chảy dài xuống má, hoà lẫn với những giọt mồ hôi.
Quế khóc sung sướng vì thấy Minh đã đứng vững được suốt ba bài hát.
Trên đường về, gió cuồn cuộn thổi ngược, hai chị em dắt díu nhau, những bước
chân chập choạng như bước chân đứa bé mới học đi.
Con đường chợ bây giờ đã được quét dọn sạch tất cả rác bẩn, chỉ còn lại những
cái thùng gỗ đựng hoa quả, nguời ta vứt bên vệ đường, đợi xe chở rác đến nhặt.
Mắt Quế sáng lên.
Thấy một người say rượu, bước chân ngã nghiêng, từ đằng xa đi đến, Quế dặn em:
- Kìa, thằng say. Em nhìn thẳng, chứ đừng nhìn vào mặt nó. Nhưng cũng phải để ý
xem chừng, nhỡ nó đến gần còn liệu.
- Liệu thế nào ? Vác đàn đánh vào đầu nó, hay chạy ? Hay kêu ầm lên ?
- Tất cả !
Anh chàng say vừa đi vừa hát. Hắn nhìn hai chị em một cách nhơ ngác, rồi lãng
đi nơi khác.
- Đố chị, tại sao hắn sợ chúng mình ?
- Tại hắn trông hai hoá làm bốn, nên " biết mình biết người", chuồn
trước thế là phải.
Đến nhà, Quế đưa em vào phòng xong, về phòng mình thay giầy thấp và lặng lẽ xuống
chợ.
Bên vệ đường, mấy cái thùng gỗ vẫn còn nằm yên. Quế nhắc một chiếc, hai chiếc,
ba rồi bốn. Bốn chiếc thùng không, tuy không nặng nhưng rất cồng kềnh, khó
mang. Quế đi rất chậm, nhưng chỉ một lúc đã thấy mệt .Vừa trông thấy cửa, Quế vội
vàng vào ngay, không hề nghĩ ngợi gì cả. Muốn cẩn thận, Quế không bật đèn cầu
thang, để lúc vào, đi ngang qua phòng, người gác khỏi trông thấy. Cầu thang hẹp,
bốn cái thùng lại vác nghênh ngang nên rất khó đi, Quế phải lách mình đi từng
bước một, mãi mới đến được từng thứ ba. Quế ngừng lại thở một lúc và hơi ngạc
nhiên vì trong bóng sáng mờ mờ của cửa kính chiếu đèn ngoài đường vào , cầu
thang có vẻ là lạ. Quế kinh hoảng tìm chỗ bật đèn, cũng không tìm thấy cái khuy
bấm vẫn ở chỗ mọi ngày thường bấm.
Lúc bật được đèn, Quế mới biết đã vào nhầm cầu thang nhà khác. Cũng may, chỉ mới
đến gác ba !
Bốn cái thùng gỗ lại nghênh ngang được tha xuống. Bây giờ, Quế bỗng thấy khổ sở
vô cùng. Mấy cái thùng không đựng gì, nhưng sao mà nặng thế ! Cả cái thân mình
cũng gần lê không nổi, hơi thở thì ngắn ngủi, nghẹn ngào, tức tưởi.
Bao nhiêu tính gan lì bướng bỉnh của Quế đều được gọi đến làm viện binh. Quế nhất
định không chịu bỏ dở công việc. Quế nhất định chống cự lại với tất cả sự sụp đổ
của tâm hồn và thể xác. Quế nhất định vác bốn cái thùng gỗ về đến nhà cho kỳ được.
Lần này, trông thấy lối vào, Quế cũng còn cẩn thận nhìn số nhà, thấy đúng rồi mới
vào. Bây giờ, Quế không thấy ngượng ngùng gì nữa. Nàng bật đèn ngay từ lúc mới
bước vào cửa, mặc cho ai trông thấy thì thấy, muốn cười cứ việc tha hồ cười.
Nàng nhặt gỗ về đốt lò sưởi, chứ có gì là lạ !
Quế nhón chân cố bước lên cầu thang rất nhẹ, sợ làm thức giấc mọi người ở các
phòng khác, nhưng bốn cái thùng như muốn phá đám, vẫn cứ vướng víu, hết đụng cửa
bên phải lại va vách tường bên trái. Lách bề ngang không được, xoay bề dọc cũng
không xong, Quế mệt mỏi, chán nản quá chừng. Nàng cố gắng hết sức mới lên được
đến gác cầu thang tầng thứ sáu. Một cơn suyển bỗng từ đâu kéo đến đùng đùng chớp
nhoáng, làm Quế ngạt thở và tim như muốn đứng dừng lại. Quế cố sức kêu to:
- Minh ơi, ra đón...quà Tết...nặng quá...
Quế cố lê mấy bước cuối cùng đến trước cửa phòng em và chân nàng mềm đi. Quế
không còn biết gì nữa.
Lúc Minh nghe tiếng động , mở cửa chạy ra, nàng thấy chị nằm ngất đi giữa đám
thùng đổ ngổn ngang.
Món quà Tết của Quế cho em, đúng là nặng thật.
Minh không làm sao "vác" nổi chị vào phòng.
Người Quân Tử
Dung băn khoăn suy nghĩ, lăn lộn trên giường đã hơn một tiếng
đồng hồ. Đáng lẽ nàng phải đi chợ mua đồ ăn nấu cơm chiều, nhưng hôm nay có cớ
để cho nàng giận dữ, nên định đâm liều một bữa xem sao.
Dung còn nhớ rõ, dù đã nhiều năm về trước, mà hình ảnh, cảm xúc vẫn còn sống động
như vừa mới xảy ra. Hôm ấy nàng đang chạy dưới làn mưa đạn thì gặp hắn. Hắn mời
nàng đến nhà tạm trú trong khu vực an toàn. Vợ hắn về quê mẹ bên Pháp chưa trở
lại, nên hắn rất tự do. Luôn mấy ngày, hai người bị kẹt trong cái tổ ấm đó. Thế
là hắn thành ra "chính phủ bảo hộ" của Dung. Kể ra, lúc đầu suốt mấy
tháng trời hắn cũng mất một ít công phu. Nào là hái hoa tặng nàng, nào là thức
dậy từ ba giờ sáng pha cà phê cho nàng uống để sửa soạn đi bay. Nhưng hắn thuộc
về loại đàn ông tán gái chỉ mất ba bó hoa, về sau lấy lại cả vốn lẫn lời.
Khi hãng máy bay Dung làm đóng cửa, hắn hết sức dỗ dành Dung đừng làm nơi khác.
Hắn nói nghề nữ chiêu đãi viên Hàng không là một nghề rất nguy hiểm, phải thức
khuya dậy sớm, nay đây mai đó, sống giang hồ lãng tử như thế không phải là cuộc
sống thích hợp cho một bà mẹ hiền. Hắn hứa sẽ trả lương cho Dung gấp đôi, nếu
Dung làm thơ ký cho hắn. Hắn nói:
- Tôi đã có vợ rồi, nên không thể chính thức cưới em được. Tôi chỉ là một ân
nhân, một Người Quân tử, giúp em qua khỏi lúc khó khăn hoạn nạn. Em cần có một
người đàn ông làm hậu thuẫn, để em dựa vào làm ăn, để tinh thần em có chỗ ký
thác. Con em cần phải có cha. Cha chúng nó đã lên chiến khu mất tăm mất tích em
còn trông mong gì nữa! Người ta ai cũng cần phải có gia đình như con chim cần
có tổ ấm. Em không thể sống mãi cuộc sống cô độc, trống trải tâm hồn, lại còn
phải một mình vừa làm cha vừa làm mẹ, phấn đấu lo miếng cơm manh áo cho con như
thế mãi được.
Hắn tán ngọt hơn mía lùi. Dung nghe như ăn phải bùa mê. Nàng tin tưởng trân trọng
ký thác cả thể xác lẫn tâm hồn theo lời yêu cầu đầy hứa hẹn. Mỗi năm nàng đẻ
cho hắn một đứa con. Những đứa bé này đều theo họ mẹ, và gọi hắn bằng bác.
Với mọi người, hắn chỉ nhận Dung là thư ký. Mà cũng đúng như thế thật. Dung phải
viết thư đòi nợ cho hắn. Rồi còn phải giao thiệp với Luật sư, vì hắn rất thích
kiện tụng, phải đi thu tiền nhà cho thuê là một việc rất khổ tâm, phải lo thu xếp
tất cả giấy tờ công việc buôn bán của hắn. Nay chạy đến sở này, mai chầu chực bộ
nọ, vì hắn làm việc đấu thầu xây cất nhà cửa nên có rất nhiều thủ tục pháp lý
phải làm. Hắn cho phép Dung toàn quyền làm phận sự của cô thư ký. Còn những việc
" phi phận sự" thư ký như lau nhà, đi chợ, làm bếp, đẻ con, hắn cũng
nhờ Dung "toàn quyền" luôn cho tiện việc sổ sách. Hắn rất hà tiện, nhất
định không mướn người làm. Hắn lấy cớ là không tin ai hết, để bắt Dung tự làm lấy
tất cả. Cái thời chiến tranh nửa nóng nửa lạnh, người hai vùng " bên ni
bên tê" qua lại như đi chợ. Ai cũng có thể là Giao liên hay Mật vụ, không
chơi với họ là an toàn nhất, khỏi lo bị đâm dao sau lưng bất thình lình. Hắn
đưa cho Dung mỗi tháng ba nghìn, gọi là tiền lương thư ký. Và trong số ba nghìn
đó, thời giá tương đương với 1 lượng vàng, cô thư ký phải nấu cơm cho ông chủ
ăn nữa. Số tiền ấy chỉ bằng một phần năm lương Dung đi làm trước kia. Nhưng biết
làm sao được, khi từ một thư ký thường, người ta biến thành một cô thư ký
" vạn năng " . Và người " quân tử" lại là hạng quân tử
khôn, chứ không phải quân tử dại. "Quân tử nhất ngôn là quân tử dại, Quân
tử nói đi nói lại là Quân tử khôn". Hắn thuộc về loại quân tử khôn. Còn
Dung xưa nay vẫn nổi tiếng khôn, nhưng lại là khôn nhà dại chợ.
Hắn sợ Dung tiếp xúc với bạn bè bà con, nhỡ người ta xui khôn xui dại, nên cấm
nàng không được giao thiệp thăm viếng gặp gỡ ai cả. Hắn không cho Dung diện đẹp
đi chơi phố, sở thích duy nhất của Dung, vì hắn biết Dung còn xinh ơi là xinh,
nhỡ gặp người " cao tay ấn" hơn hắn, thì hắn mất một món bở. Còn biết
tìm đâu trên đời này một người đàn bà vừa tháo vác giỏi giang xinh đẹp lại vừa
khờ dại một cách lý tưởng như Dung? Trong thế giới làm vợ " chợ đen"
ai cũng đòi được hưởng thụ vật chất tràn trề đầy đủ, để đền bù sự thiệt hại về
tinh thần. Chỉ có một mình Dung đã làm cách mạng, trái với định luật ấy. Mãi đến
khi Dung đẻ cho hắn đứa con trai thứ hai, hắn mới mua cho nàng một cái nhẫn hột
cẩm thạch giả thật to. Đó là món quà nữ trang đầu tiên, từ khi nàng về làm
" thư ký vạn năng" cho hắn. Không đeo thì sợ hắn giận, đeo thì cũng
khổ tâm lắm! Cuối cùng, Dung nghĩ được cách đeo nhưng quay mặt nhẫn vào trong.
Nàng sợ người ta biết nhẫn giả, nên quay mặt nhẫn cố ý để mập mờ, cho mọi người
tưởng mình có đồ thật nhưng khiêm nhượng, không muốn khoe khoang cho ai biết.
Dung được hắn nhồi sọ rất kỹ, hắn bắt nàng tâm niệm hắn là ân nhân của nàng, hắn
là người quân tử đã cưu mang, cứu vớt nàng trong cảnh lửa đạn, hắn là người độc
nhất mà Dung phải trung thành phục vụ suốt đời. Còn Dung đã bị tẫy não quá kỹ
nên cũng tưởng thật.
Dung vẫn giữ vững lòng tin tuyệt đối ấy cho đến hôm nay hắn tình cờ chạm trán với
Loan, một bạn gái cùng lớn lên với Dung từ thuở bé. " Bác" của mấy đứa
nhỏ nói với Loan thao thao bất tuyệt như lên diễn đàn:
- Tôi là Người Quân tử. Tôi là ân nhân của Dung. Nếu không có tôi, Dung đã chết
giữa cảnh tên bay đạn lạc. Tôi dạy cho Dung cách thức làm ăn. Tôi không muốn
Dung có tánh ỷ lại, sống nhờ vào đàn ông, như những người đàn bà khác, lỡ khi
chồng chết thì phải làm sao? Vì thế nên tôi không nuôi Dung, tôi tập cho Dung
phải làm lấy mà sống, và sống "độc lập"!
Hắn nói xong, chừng cũng biết mình ngụy biện, sợ chỉ có riêng mình Dung đã mê
man như ăn phải bùa mới nghe lọt tai, chứ còn ngoài ra chẳng ai tin những lời
quỷ quái của hắn, nên vừa dứt câu, hắn sợ Loan trả lời, vội chân sau đá chân
trước, chạy ra cửa như bị ma đuổi:
- Tôi xin lỗi, tôi phải đi đây có chút việc gấp.
- Nếu là em, thì thà chết phức đi còn hơn! Hắn chỉ nghĩ đến phần hắn, mà không
nghĩ đến phần người ta. Hắn giúp chị, thì cũng không có gì lạ. Trong hoàn cảnh ấy,
ai chả giúp nhau! Nhưng có phải giúp một tí rồi bắt người ta làm tôi mọi suốt đời
để trả ơn không? Người quân tử mà như thế sao?
Dung ngẩn người ra:
- Bây giờ tôi mới biết, lạ quá! Thì ra, hắn đòi tôi trả ơn như thế đấy! Loan
nói giọng dằn vặt:
- Người đàn bà nào cũng cần phải có một người đàn ông riêng của mình, yêu mình
và hoàn toàn thuộc về mình. Cần phải có một mái ấm gia đình thực sự. Hắn quân tử
gì ? Ân nhân gì ? Hắn hại chị thì có. Hắn lấy chị, đẻ con ra, mà hắn khỏi nuôi.
Chị không phải là vợ hắn, mà kẹt với hắn như thế này thì còn ai dám gặp chị để
tìm hiểu xây dựng nữa, còn mong gì có một tương lai rạng rỡ cho các con. Chị chỉ
là nô lệ của hắn, chỉ làm bổn phận mà không có quyền lợi gì hết! Con đẻ ra mang
họ mẹ! Đấy chị xem, hắn nhẫn tâm biết bao nhiêu! Chị sẽ phải nai lưng ra suốt đời
làm tôi mọi nuôi con cho hắn, làm giàu cho hắn, trong khi hắn có tiền, đều lo
chuyển về cho vợ lớn hết. Đến lúc hắn bỏ rơi chị, thì chị đã thành một bà già,
đi ở đợ nuôi con! Hắn chỉ lợi dụng, ích kỷ thế mà dám xưng là Quân tử cho nhục
nhã cái chữ quân tử đi. Chẳng thà cứ vỗ ngực nói: Tao là một thằng đểu, đểu
chính cống, đểu thượng hạng. Ai ngu thì mắc mưu ta! Nghe còn sảng khoái hơn.
Dung ngơ ngác như vừa bị mất cắp! Đúng là cuộc đời của Dung đã bị hủy hoại mà
nàng như vẫn sống trong mơ. Kẻ đánh cắp, ngay giữa thanh thiên bạch nhật, còn
cười vào mũi người bị mất cắp là ngu nữa!
Loan thấy Dung sững sờ, nói tiếp:
- Em còn nhớ câu chuyện " Áo người quân tử" của ba em kể: Ngày xưa,
có một anh chàng nọ có một cái áo lạnh khoác ngoài rất đẹp, một hôm túng tiền,
anh vào một tiệm cầm đồ hỏi cầm. Chủ tiệm bảo:" Cái áo này,tôi cầm cho ông
hai trăm. Ba tháng sau ông chuộc, phải trả thêm hai trăm tiền lời nữa, thành bốn
trăm đồng" . Anh chàng kia vì quá cần tiền nên dù biết là bị bắt chẹt tính
giá cắt cổ cũng bằng lòng, Anh cởi áo giao cho chủ tiệm và đếm tiền xong định
ra về. Anh vừa ra đến cửa thì ông chủ tiệm gọi giật lại:" Này ông, tôi có ý
kiến này hay lắm. Tôi thấy ông thật thà, tôi thương, tôi làm phúc làm đức, nói
hơn thiệt cho ông nghe. Bây giờ trong túi ông không có lấy một đồng, đến nỗi phải
đi cầm áo. Vậy ba tháng sau ông lấy đâu ra bốn trăm để chuộc áo về ? Nếu lúc ấy
ông không trả đủ cả vốn lẫn lời cho tôi, để quá ba tháng nữa, thì sẽ phải trả gấp
đôi, thành tám trăm đồng. Tôi hỏi thật, ông sẽ đào đâu ra số tiền ấy?" Anh
chàng kia gật đầu, cho là phải: "Vâng, ông nói đúng lắm. Ba tháng nữa, tôi
cũng không làm sao xoay được bốn trăm đồng" . Chủ tiệm cười híp cả mắt lại:
" Tôi biết mà! Vì vậy, tôi mới khuyên ông, nếu ông chịu nghe tôi thì đỡ tốn
đỡ khổ. Này nhé, bây giờ trong túi ông đã có hai trăm đồng rồi. Vậy ông trả trước
cho tôi hai trăm đồng đi. Ba tháng sau, ông chỉ phải trả có hai trăm đồng nữa
thôi, chứ không phải là bốn trăm đồng. Như thế có phải lợi biết bao nhiêu! Nếu
ông không trả được, trễ đến ba tháng nữa cũng chỉ thành có bốn trăm đồng, chứ
không phải là tám trăm đồng. Lợi đến một nửa, ông nghĩ thế nào?" Anh chàng
nghĩ đi nghĩ lại, thấy bài toán rất rõ ràng minh bạch mà quả thực cũng đúng lý
vô cùng. Anh móc túi lấy hai trăm đồng ra trả cho chủ tiệm và ra về. Anh về
nhà, thấy lạnh, chợt nhớ ra mình không có áo khoác nữa, trái lại còn có một món
nợ quá lớn phải lo trả, lạ quá!"
Dung thét lên:
- Thôi, tôi biết rồi! Chính tôi mới là người quân tử! Tôi là cái anh chàng đem
áo đi cầm. Khi chưa biết hắn, thì tôi độc thân, tôi trẻ, tôi đẹp, tôi tự do,
tôi có khối bạn bè thương mến, tôi có việc làm để nuôi con tôi. Còn bây giờ ?
Bây giờ tôi không có gì cả. Tôi phải săn sóc hầu hạ hắn, nấu cơm cho hắn ăn,
nuôi con cho hắn. Tôi vẫn phải làm việc công sở của hắn lấy đồng lương để sống,
mà lại còn phải mang ơn hắn nữa. Tôi vẫn không chồng, không có tổ ấm gia đình .
Hắn ở nhà hắn, tôi ở nhà tôi, thế mà tôi vẫn phải thuộc quyền hắn sử dụng.
Loan ngắt lời:
- Chị hiểu thế là đủ! Thôi em về nhé!
Loan về rồi, Dung gục đầu lên gối khóc nức nở. Nàng muốn liều lĩnh làm reo một
phát cho bõ ghét, nhưng chợt nhớ đến những cái tát như trời giáng của hắn. Dung
vội vàng dậy mặc áo đi chợ.
Dung chỉ mong còn có đủ thì giờ nấu nướng xong đem đến nhà hắn cho đúng bữa cơm
chiều. Dung không có cách nào để kháng cự lại với hắn được. Dung đâm ra giận
Loan. Phải, tại Loan tất cả! Trước khi gặp Loan, nàng thấy đời vẫn êm đẹp. Tuy
nhà cửa Dung bề bộn bẩn thỉu thực, tuy con cái trông rách rưới bơ vơ thực, tuy
những lời hắn nói đều lếu láo thực. Tuy Dung phải làm việc quần quật suốt ngày,
tuy hắn hay gây gỗ mắng chửi Dung thực, nhưng nàng đã coi như một sự dĩ nhiên.
Ngày trước, hắn khuyên Dung lấy hắn để cho con nàng sung sướng, ngày nay chúng
nó giống như con mồ côi cả cha lẫn mẹ, Dung cũng không hề phàn nàn, băn khoăn,
thắc mắc, nghĩ ngợi, tìm hiểu ai hơn ai thiệt. Tất cả mọi sự đều thành ra dĩ
nhiên cả rồi. Dung chỉ biết cố nấu cơm ngon cho hắn ăn. Lo đi đòi được tiền nhà
và tiền nợ cho hắn vui. Mỗi ngày làm tròn phận sự và " phi phận sự"
xong, tối về ngủ với con, Dung không hề thấy khổ hay nghĩ đến đau khổ. Nhưng
không ngờ, hôm nay những câu nói của Loan làm đảo lộn cả tâm hồn nàng. Không lẽ
lại chửi người đàn ông đã từng âu yếm mình. Dung nghĩ được cách giải quyết an
toàn là trút hết cả tội lỗi lên đầu Loan. Nàng nghiến răng lẩm bẩm:
- Đồ ranh con ! Mày thì đã hơn ai! Con mày cũng phải tự nuôi lấy, còn nhiếc
tao! Chỉ được cái tài nói dốc, chửi người ta là giỏi, chính mình thì cũng ngu
như con bò!
Dung thấy thỏa mãn như đã trả được thù. Nàng nghĩ đến lúc hắn khen món tôm càng
luộc ăn với xà lách trộn dầu dấm đặc biệt của nàng pha chế. Chao ơi! ngon quá
là ngon! Hắn sẽ sung sướng cười tít lên, rung rinh cả cái thân hình đồ sộ và
cái bộ mặt " Đồng tháp mười" , bộ mặt bí hiểm thâm trầm, dữ tợn và
cũng "phì nhiêu" ấy! Bỗng nhiên Dung cảm thấy buồn nôn. Đã có kinh
nghiệm Dung biết chắc không phải dạ dày phản ứng vì nghĩ đến hắn, nhưng chắc lại
có một người "quân tử bé con " nữa sắp ra đời.
Một Chuyến Lên Bờ
Lâm không hiểu tại sao sau buổi lên bờ xem thành phố Djibouti
trở về tàu, Michiko hình như có vẻ giận anh. Mặc dầu anh hỏi nàng vẫn trả lời,
nhưng trông dáng điệu, cách nói, giọng nói, có một vẻ gì xa lạ khác hẳn lúc
chưa đi. Michiko là cô gái Nhật đẹp nhất trong số hành khách hạng ba trên chuyến
tàu đi Pháp này. Nàng cũng vui vẻ. dễ thương như tất cả các cô gái Nhật dễ
thương khác. Michiko đi Pháp học hội họa chuyên về chân dung, nên nhiều hành
khách trên tàu chịu ngồi yên cho nàng tập vẽ "đầu lâu" của họ bằng
than. Lúc những người mẫu bất dắc dĩ õ này cầm bức tranh lên cứ ngờ ngợ, không
biết ai mà hao hao giống mình, tuy thế, bao giờ họ cũng cảm ơn rối rít và khen
là đẹp lắm.
Lúc mới gặp Michiko, Lâm có cảm tưởng như dược uống một cốc nước đá lạnh, làm dịu
hẳn tất cả cái nóng oi bức khô khan của miền Nam còn vương lại trong người anh.
Hành khách cùng một chuyến tàu vẫn dễ quen nhau. Lâm làm quen Michiko cũng giản
dị như những người khác, nghĩa là nhờ nàng vẽ phác một bức chân dung. Lâm tưởng
rằng như thế là quen thân nàng rồi. Trong đầu óc anh đã xây dựng một chương
trình " nghiên cứu" nàng như những người đàn bà khác anh đã từng quen
biết.
Nhưng sự thực không dễ như anh tưởng. Thái độ Michiko rất thất thường. Mới hôm
nay, đôi bạn cùng ngồi nhìn biển, nhìn trời , ngắm sóng suốt mấy tiếng đồng hồ,
ngày mai lúc gặp lại, nàng chỉ khẽ gật đầu chào một cách lạnh lùng, phớt tỉnh,
như chào đáp lễ một người không quen biết. Thế là anh lại phải đi từ chỗ bắt đầu,
chứ không thể nối thêm câu chuyện " còn tiếp" hôm qua. Tuy khó khăn,
Lâm vẫn không hề chán nản và càng khó anh càng thấy Michiko hấp dẫn hơn. Mấy
người bạn trai lên tàu bảo:
- Gần đến nơi rồi Lâm ơi! Sao mày không theo con bé lai tóc vàng, hay con A Lìn
đi Luân Đôn học thuốc kia có hơn không? Michiko lạnh như tuyết cuả núi Fuji nhà
nó.
Lâm trả lời:
- Tao vẫn còn đủ kiên nhẫn để chờ.
- Nhưng tao sợ mày chết khô chết héo mất!
Lâm vẫn tin tưởng:
- Nhưng tao thích chờ. " Nước chảy đá mòn" mà. Bây giờ chỉ có Michiko
mới giải được cái khát của tao.
- Nhưng tàu sắp đến Marseilles rồi. Michiko đi Paris, còn mày đi Londre. Anh đường
anh, tôi đường tôi . . . Chờ đến bao giờ?
- Tao có hy vọng thành công trước khi chia tay. Michiko hứa lên bờ với tao lúc
đến Djibouti.
Tàu đến Djibouti lúc gần 4 giờ sáng. Tất cả hành khách đều thức dậy, ra sân xem
tàu cập bến. Ai cũng chờ đợi được lên bờ xem thành phố và mua thêm thức ăn.
Đã bốn ngày, từ hôm rời Colombo đi vào bể Ấn Độ, sóng rất lớn, tàu cứ chồm lên
từng hồi. Mỗi cơn sóng đưa tàu lên cao rồi hạ xuống, người ta cứ tưởng như mình
bị rơi vào khoảng không, người nhẹ hẳn đi không biết bám víu vào đâu. Những người
yếu bị say sóng nôn nao khổ sở, người mạnh hơn cũng nằm im lìm, thiếp đi, không
ăn uống gì trong mấy bữa liền. Ai cũng muốn mua thêm " chất tươi" để
đền bù những ngày phải dùng toàn đồ hộp . Tuy tàu cung cấp thực phẩm đầy đủ ,
nhưng ít ai nuốt xuống được những món ăn riêng cho hành khách hạng ba một cách
ngon lành. Nào là bánh mì khô chấm mứt, khoai tây, thịt hộp, thịt muối, da đầu
dê. Mùi đồ hộp mới ngửi hơi trong không khí chứ chưa nếm đã thấy sợ rồi. Suốt
tháng thực đơn chỉ quanh quẩn mấy món đường trường để dành lâu được làm người
ta phát ngán thấy thèm rau, thèm bất kỳ món gì, miễn không phải từ trong hộp mở
ra.
Lúc tàu bỏ cầu xong, hành khách chen nhau xuống, bấy giờ mọi người mới thất vọng
thấy Djibouti chỉ là một hải cảng nhỏ, vắng vẻ, mà đất liền là sa mạc hoang vu.
Trong thành phố, chỉ có độ mươi tiệm bán hàng của Pháp, và các tổ chức hành
chánh trong thành phố.
Lâm mang máy ảnh theo, nhưng không có gì đáng chụp ảnh hay quay phim . Trong chợ,
ruồi bay tung lên như từng đàn ong. Cả thành phố chỉ có vài người đàn bà Ả Rập
trùm vải đen từ đầu đến chân, chỉ để hở hai mắt, ngoài ra, toàn là đàn ông. Một
giỏ nho, cũng phải hai người đàn ông đi bán. Một người xách chùm nho và cái cân
tay đi trước, một người đội giỏ nho theo sau. Họ mời mua bằng cách dí chùm nho
vào mặt khách qua đường. Những người bán báo và ăn mày bẩn thỉu, đầu tóc xoắn
tít từng vòng và đen như không thể nào đen hơn được nữa, đứng vây chung quanh
du khách, nhất là phái nữ. Thỉnh thoảng, họ vỗ vai , níu áo, kéo tay, sờ má,
làm cho các bà các cô sợ chạy tán loạn cả lên cố nấp vào những tiệm bán hàng.
Thấy Michiko có vẻ sợ hãi nhất, bọn họ càng trêu già. Mấy người cảnh sát thỉnh
thoảng chạy đuổi và túm lấy một người Ả Rập, giơ tay dọa đánh mấy cái, rồi lại
thả ra ngay để chạy đuổi theo một người khác, rồi lại thả, như chơi hú tim.
Về đến tàu, cô bé tóc vàng thấy Michiko liền vẫy gọi bảo:
- Chị về đi tắm mau, kẻo chúng nó tắm hết nước nóng. Lấy bàn chải mà chải cho hết
cái mùi khét đi.
Michiko hỏi lại:
- Cô cũng bị chúng nó túm lấy hay sao?
- Còn tai hại hơn tất cả mọi người. Em mặc quần ngắn.
Lúc tàu chạy, mọi việc lại đâu vào đấy. Hành khách đều lên sân hóng gió, tụm lại
từng đám chuyện trò. Lâm đến bên cạnh Michiko. Nàng đang nói chuyện với các
sinh viên Á Châu, không hề thoáng nhìn anh một cái, làm Lâm thấy khó chịu vô
cùng. Mặc dầu anh đã quen cái tính " nóng lạnh" thất thường của
Michiko, Lâm vẫn ngạc nhiên tự hỏi tại sao nàng lại có thể thay đổi chóng đến
như thế được.
Mới vừa rồi, lúc đi trong phố, Michiko còn nép vào anh để tránh những kẻ tàn tật
ngồi trên xe lăn tay, xin tiền bằng cách cứ cho xe đâm bừa vào người ta rồi níu
áo mà xin tiền. Michiko lại còn đòi lại hộ anh cái bút máy anh kẹp ở túi áo, bị
một người Ả Rập bán báo, một tay cầm tờ báo dí vào mặt anh, còn tay kia rút
bút. Thế mà bây giờ, chỉ cách có một giờ đồng hồ sau, anh đứng bên cạnh nàng,
chận cả một phía gió, nàng vẫn phớt đi như không. Michiko chỉ nói chuyện với những
người khác và lảng tránh anh, coi anh như một cái cột nhà không bằng.
Một ông già Ấn Độ hỏi Michiko:
- Nghe nói bọn chúng nó bám theo cô như ruồi, xua không kịp, phải không? Các Bà
ham mua sắm quá nên phải trả cái giá đó.
Vợ ông ta tiếp theo:
- Cứ gì phải đi đâu. Ngay dưới cầu tàu, chúng nó cũng bày hàng ra đấy nào là
thuốc lá, nào là thảm dệt, kẹo cao su toàn là những thứ không cần dùng đối với
chúng mình.
Một thanh niên Nhật hậm hực bảo:
- Ai bảo cô không đi với chúng tôi. Lâm nó có săn sóc gì cho cô đâu!
Michiko cười bảo:
- Ơ hay, ông ấy có phải là vệ sĩ của tôi đâu mà có bổn phận phải bảo hộ cho
tôi! Chúng tôi đi chung với bọn người Mỹ kia nữa, là để chia nhau trả tiền tắc
xi cho nhẹ đấy thôi. Ai lo phận nấy chứ!
Lâm nghe thấy thế, trong lòng khó chịu vô cùng. Bọn họ nói chuyện ngay trước mặt
anh mà không hề thoáng nhìn anh một cái, để cho phép anh cũng góp ý kiến.
- Nếu cô cùng đi với tôi thì phải biết! Tôi tuy người bé nhỏ thế này, nhưng nếu
đứa nào dám động đến chéo áo của cô thì tôi sẽ đánh cho sặc máu.
Một sinh viên Trung Hoa sang Tây Ban Nha học hát, chế nhạo:
- Thôi đi. Bộ tướng anh nhẹ như lông gà thế kia thì chạy trước ấy. Lâm nó to lớn
như hộ pháp mà còn không bảo hộ nổi cho cô bạn gái cùng đi với mình, để cô ấy sợ,
sút cân trông thấy ngay trước mắt.
- Thế anh hơn gì tôi? anh cũng chỉ được cái giọng to. Hát " Opera"
mà! Ừ, nếu cần thì kêu cứu giúp, cũng đỡ.
- Đàn ông Ả Rập thế mà khôn đáo để. Đàn bà của mình thì bắt che kín mặt mày nhốt
trong nhà, để tự do đi trêu ghẹo đàn bà của người ta!
Michiko gạt đi:
- Thôi, anh có đi cũng đến thế. Ai có thân nấy lo. Anh Lâm phải chụp ảnh, quay
phim, làm việc riêng của anh ấy. Tôi có chân thì tôi . . . chạy!
Lâm nghe như có một cái gì đâm nhói ở trái tim. Bây giờ anh mới hiểu cái cử chỉ
lạnh nhạt của Michiko. Anh muốn nói một câu gì để tỏ sự có mặt của mình:
- Tôi thấy không có gì đáng sợ cả!
Anh chàng " nhẹ như lông gà " nói mỉa:
- Phải, anh thì sợ gì. Chúng nó có sờ vào người anh đâu mà anh ghê! Anh chỉ cần
trợn mắt quát lên một tiếng là chúng nó chạy biến đi hết, mà anh cũng không
làm. Chắc lưỡi anh để ở dưới tàu, lúc đi chơi quên đem theo!
Lâm ngượng nghịu, ấp úng:
- Tôi mong có dịp khác . . .
Michiko trả lời ngay:
- Vâng, khi nào muốn cất nhà, sẽ nhờ anh vẽ kiểu và tính hộ vôi gạch.
Lâm tái người. Anh không ngờ, trong mắt Michiko bây giờ, anh chỉ là một người
biết độc một môn làm toán vôi gạch. Xưa nay anh vẫn tự phụ là một tay lão luyện
trong nghề. Anh làm toán không bao giờ sai một con số. Một tòa lầu bao nhiêu từng
thì phải dùng bao nhiêu vật liệu, nền phải đổ sâu bao nhiêu, mấy tháng hoàn
thành, lại có thể tính trừ hao cả nhân công bị tai nạn trong lúc xây cất. Thế
mà bây giờ đứng trước một đám ranh con, anh đã bị " lụt" một cách thê
thảm. Lâm tưởng tượng, sau lưng anh bọn họ sẽ nói với nhau:
- Hừ, anh chàng Lâm được cái bộ mã " lực sĩ Hy Lạp", thực ra thì chỉ
là một cái "tủ lạnh" biết đi, mỗi ngày ăn đủ năm bữa, mà ra đường
không che chở nổi một người đàn bà đi bên cạnh mình.
Lại còn những câu họ đã nói ngay trước mặt anh:
- Tôi tuy người bé nhỏ thế này, nhưng đứa nào dám động đến cô, tôi sẽ đánh cho
sặc máu . . .
- Khi nào cần xây nhà, tôi sẽ nhờ anh . . .!
Chao ơi! Nhục nhã làm sao! Thì ra, trong địa hạt vôi gạch, sắt gỗ, anh là một bực
đàn anh, nhưng bước ra ngoài đường với phụ nữ, anh không biết nên đi chân trái
hay là đi chân phải trước.
Sực nhớ lại lời những người đã từng sang Nhật kể lại cho anh nghe về dân tộc Nhật,
nhất là đức tính bái phục anh hùng của đàn bà, anh thấy quả thực mình phải học
lại từ đầu. Trong mắt Michiko bây giờ, anh chỉ là một người làm toán giỏi mà
thôi!
Bất giác, máu anh hùng trong người anh sôi sùng sục. Anh ao ước giá có một cơ hội
thứ hai, nhưng lịch sử dễ gì được trùng diễn! Bây giờ, chung quanh Michiko đã
có hàng nửa tá " anh hùng rơm" xin làm vệ sĩ cho nàng những bến sau.
Và dù cho cuộc lữ hành có trở lại ngay từ phút ban đầu đi nữa, Michiko cũng đã
thấy anh chỉ là một người nhu nhược, sợ từ đứa trẻ bán báo trở đi, anh bảo hộ
nàng một lúc cũng không xong, nói gì đến cả cuộc đời!
Lúc ngồi vào bàn ăn buổi tối, Michiko tránh không nhìn Lâm. Lâm cũng thế, anh
chỉ nhìn cốc rượu vang đỏ trong tay, rồi nhìn Alice, cô gái Tích Lan có màu da
cà phê không pha sữa.
Sau giờ ăn là giờ hóng mát. Michiko lên sân vẽ cảnh mặt trời lặn. Nàng pha màu
mặt trời đỏ lẫn với vàng. Bể xanh đậm và trong. Từng đàn cá bay, nhảy vút lên rồi
là là rơi xuống mặt nước. Sóng đánh tóe vào mạn tàu, tung ra trong đám bọt trắng
xóa một màu da trời rất tươi.
Lâm không xem Michiko vẽ. Anh đến ngồi cạnh Alice giúp nàng tháo len. Anh còn
sáu ngày đường và mấy chục tuổi trời nữa. Anh thấy cần phải làm một cái gì, yêu
một người nào, nếu không, đời anh sẽ khô héo dần như cây không được tưới nước.
Alice nói chuyện với anh rất vui vẻ, tay nàng đan len cũng nhanh nhẹn và thành
thạo không kém gì tay Michiko pha màu, nhưng Lâm thấy câu chuyện của Alice
không thể làm anh vui, cũng như đôi mắt thâm đen, âm u của Alice không thể lẫn
với đôi mắt cũng đen nhưng trong sáng và biết cười một cách ngạo nghễ mà vẫn dễ
thương của Michiko.
Đời anh đã gặp nhiều đàn bà, nhưng anh không nhớ là đã yêu ai đến một nhiệt độ
cao nhất chưa, và bây giờ, có phải là anh đã yêu Michiko hay không, nhưng cái cảm
tưởng mất Michiko làm cho anh chua xót hơn bao giờ hết.
Không có cách gì kéo được thời gian trở lại phút bắt đầu. Tàu càng ngày càng xa
bến. Anh đi tìm các cô Ấn Độ, Tích Lan, Trung Hoa nói chuyện, nhưng trong mắt
anh, bọn họ vẫn chỉ là những cốc nước cam, nước chanh hay là nước nho . . .
Riêng Michiko đã biến thành một kỷ niệm " đan tư" chứ không phải
tương tư, rất trong sạch, Michiko là một hình ảnh Lâm đã ấp ủ và ước ao như người
bộ hành giữa sa mạc khao khát một cốc nước đá lạnh có thần diệu của nước Cam Lồ
trị bách bệnh.
Chỉ có Michiko vẫn thản nhiên vẽ, trong bức tranh, cũng như trong cuộc đời,
nàng vẫn bạo tay xóa bỏ hay vẽ lại những nét không vừa ý.
Áo Mới
Chiếc áo đầu tiên quý giá nhất trong gia đình tôi là một chiếc
"Áo vua ban" . Hồi ấy, ba tôi làm việc tại Tòa Khâm Sứ Huế, mẹ tôi là
một cô Tôn nữ nghèo, Tôn nữ là một người thuộc Hoàng tộc , địa vị xa lắc xa lơ
. Nhưng cũng nhờ thế bà có đường giây bà con quen biết để tiện việc mách mối
mua bán đồ cổ. Ngoài ra, bà còn chụp ảnh cho các Bà Hoàng, Bà Chúa, Bà Phi, Bà
Tân trong Hoàng cung.
Nghề mách mối là một công việc buôn bán rất nhàn. Bà chỉ việc diện bảnh, rẽ đường
ngôi cho thẳng, bôi dầu dừa bóng loáng và thơm nức lên, chiếc quần lụa cũng được
là ủi thẳng và xếp thành nếp hai bên, gọi là " xếp con " , năm con, bảy
con gì đấy, càng nhiều " con" càng sang trọng quý phái. Ăn mặc tề chỉnh
như thế xong, bà chỉ việc đến nhà các Mệnh phụ, Công nương, ngồi lê đôi mách một
vài buổi. Thế là " Mệ" nào muốn bán cái gì, cụ nào muốn mua cái gì, mẹ
tôi biết rõ cả. Bà chỉ việc vắt vẻo ngồi lên chiếc xe kéo nhà, đi thăm viếng xã
giao vài lần, là kẻ mua người bán đều vui vẻ.
Nghề chụp ảnh mấy chục năm về trước còn là một nghệ thuật rất mới mẻ, nhất là đối
với các Mệ, các bà Phi, bà Tân không thể ra phố mua bán tự do như người thường.
Mẹ tôi được các bà hoan nghênh vô cùng. Phải, còn gì sung sướng hơn một bà Phi,
suốt mấy năm trời chẳng hề trông thấy " mặt rồng " của ông chồng vua,
bỗng dưng có được một tấm ảnh mình ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bành chạm trỗ
tinh vi, còn "Hoàng Đế " thì đứng bên cạnh, quàng tay qua lưng ghế,
như ôm một cách âu yếm. Mẹ tôi ghép ảnh rất giỏi và tính giá cũng rất "phải
chăng". Nhưng, tiền có nghĩa lý gì đối với những Cung Phi suốt đời, từ lúc
tiến cung cho đến già, đến chết vẫn còn là trinh nữ! Tấm ảnh an ủi họ làm thỏa
mãn một phần nào lòng hâm mộ hư vinh đã được nuôi dưỡng từ lúc bé thơ.
Trong số khách hàng của mẹ tôi có một bà mẹ Vuạ Vua còn bé đang đi học xa . Bà ở
nhà, sống một cuộc đời vương giả. Suốt ngày bà chỉ biết đánh bạc với những người
đến " bẩm chảu" tiếng riêng có nghĩa là nịnh bợ. Bà đoạt kỷ lục về nợ
nần, chỉ vay mà không cần phải trả. Bà cho là mọi người ai cũng có bổn phận phải
cung phụng bà, đưa tiền cho bà tiêu xài như "đưa con vô Nội" một
thành ngữ có ý nghĩa sẽ không bao giờ gặp lại. Nhưng bà cũng không bao giờ quên
an ủi họ, khéo léo nói úp mở cho họ biết, ngày " Hoàng Đế hồi loan "
, bà sẽ đền ơn trả nghĩa. Không biết mẹ tôi có bị bà mê hoặc không, mà nếu có
thì chúng tôi, những ranh con, cũng không được quyền can thiệp.
Tôi còn nhớ bốn chị em tôi có bốn chiếc kiềng vàng, một thứ nữ trang đa dụng, vừa
đeo cổ cho đẹp, vừa để dành làm của, làm vốn , và nếu cần tiền có thể cầm bán tạm
thời qua cơn túng ngặt. Bốn chiếc kiềng lịch sử ấy có một con đường đi bất di bất
dịch. Từ nhà tôi đến nhà bà Bộ, một bà nhà giàu chuyên cầm vàng bạc. Chúng nó
đi " lữ hành" như thế, ít nhất mỗi tháng vài lần. Mỗi khi mẹ tôi xoay
được món tiền, chuộc về nằm trong tủ chưa được nóng chỗ, thì lại có lệnh "
Ngài ban vay" . Và như thế, bốn chiếc kiềng bé bỏng của chúng tôi lại lên
đường đến nhà bà Bộ tạm trú. Bốn chiếc kiềng vàng đi con đường vòng độc nhất,
còn số tiền cầm đồ nhận được thì đi con đường độc đáo một chiều, và là một con
đường cụt. Nó từ túi bà Bộ sang túi mẹ tôi, rồi nhảy sang túi "Ngài "
để rồi bị thủ tiêu mất tang mất tích trong chiếu bạc, không còn một chút dấu vết
gì để lại với đời.
Đã thế, thỉnh thoảng " Ngài " lại " ngự " đến " tệ
xá" của chúng tôi ở Nam Giao, mặc dầu " tệ xá" quả thực là quá tệ.
Nó chỉ là một gian nhà bé nhỏ nằm lọt vào một vùng đất trống, xưa kia là một
bãi tha ma to lớn, cách xa thành phố đúng ba câysố.
Ba mẹ tôi sở dĩ chọn nơi xa xôi như thế để xây " biệt thự" , vì theo
lời bác sĩ khuyên, ba tôi yếu phổi nên phải thở không khí có gió thông trong
lành rất cần cho sức khỏe. Ấy thế mà trong " tệ xá" có rất nhiều đồ cổ
quý giá. Những món ấy toàn là của các Công nương, Mệnh phụ gửi, nhờ cầm hay bán
hộ. " Giấy rách phải giữ lấy lề " nên dù ngày mai không còn gạo để nấu
cháo loãng, họ cũng vẫn giữ bí mật, không bao giờ dám ra mặt tự cầm bán đồ vật.
Họ vẫn còn làm bộ điệu rất kênh kiệu quí phái cao sang, cả đến những khi cần đến
hai xu để ăn quà sáng.
- Đưa đây cho Mệ hai xu, Mệ " chém" một củ khoai chơi nà!
Tuy cảnh túng của họ đã trầm trọng đến thế, mà bệnh " khẩu khí" vẫn
không hề thuyên giảm , và các Mệ thấy cuộc sống vẫn không bớt phần hấp dẫn thú
vị tí nào. " Mệ" là tiếng xưng hô một bà cụ rất già, hay những người
trong Hoàng tộc, không phân biệt già trẻ nam hay nữ.
Đường đến nhà tôi, hai bên trồng toàn thông xanh và phải lên hai cái dốc rất
cao. Thỉnh thoảng, người ta lại thấy từ dưới dốc đằng xa có một chiếc xe kéo
sơn son thếp vàng, một chú lính mặc áo đỏ, chân quần xà cạp vàng, đầu đội nón
chóp, ì ạch kéo xe lên dốc. Sau xe có hai cô bé con độ mười bốn, mười lăm tuổi,
mặc áo màu hỏa hoàng, đầu chít khăn đồng màu, tóc xõa ngang vai. Một cô tay cầm
chiếc hộp trầu và cái ống nhổ bằng bạc, một cô tay cầm chiếc quạt lông, lẽo đẽo
chạy theo sau xe. Thỉnh thoảng, cô bé cầm quạt cố chạy lên ngang hàng với chiếc
xe, giơ chiếc quạt lông lên, phẩy nhẹ một cái vào trong xe, rồi lại trụt dần xuống
đằng sau. Ấy thế mà bọn họ từ Cung cấm trong Thành Nội ra tận Nam Giao, ngót bốn
năm cây số để đến " tệ xá " đấy.
Sau khi đến nơi, " Ngài " chễm chệ leo lên chiếc sập cẩn xa cừ đặt
ngay chính giữa nhà, hai thể nữ đứng hầu hai bên, kẻ pha trà, người quạt hầu.
Ngài lần lượt ngắm nghía, thưởng thức các đồ vật trong " tệ xá" , và
cố nhiên khi " Ngài " rời gót ngọc, những món đồ cổ không ít cũng được
theo " Ngài " ngự, lên chiếc xe nhà sơn son thếp vàng có hai thể nữ
chạy theo hầu ấy.
Trước khi bước chân lên xe, thế nào " Ngài " cũng " ban truyền"
:
- Chị Tham tính tất cả tiền những cái ché và độc bình này đi. Cả cái Táo lung
Cây vàng Lá ngọc kia nữa, rồi ta sẽ trả tiền lại chọ Còn cái sập cẩn này, chị
cho ta mượn, mai ta sai thị vệ ra chở.
Mẹ tôi chỉ biết " Dạ" mà nuốt lệ. Bởi vì mẹ tôi biết, đồ vật cũng như
người, khi đã được " tiến cung" thì chỉ còn đợi chết! Mặc dầu được sủng
ái, số phận của đồ vật còn đen tối hơn Cung phi Mỹ nữ không được sũng ái. Các
cung nhân, khi về già còn được thải hồi nguyên quán, trái lại những món đồ cổ,
càng già càng quí thêm, càng không mong gì được trả về với cố chủ.
Cứ mỗi khi như thế, ba tôi lại lẩm bẩm:
- " Thấy Vua" rõ thật là " thua vấy" !
Cuộc đời cứ thế trôi quạ Ba tôi ngày ngày đi làm . Mẹ tôi giới thiệu việc mua
bán đồ cổ và ghép ảnh cho Qúy Bà cô đơn. Tiền kiếm được, dùng để nuôi chúng tôi
một số rất nhỏ, còn phần lớn để nuôi " Ngài ".
Một hôm, chắc lương tâm " Ngài " thức dậy, hay là " Ngài "
sợ nợ mẹ tôi nhiều quá, nếu kiếp này không trả bớt, đến kiếp sau sẽ thành ra
" nợ thiên khối" vốn cộng thêm lời lãi chồng chất lên nhau thì nguy
to, Ngài bèn long trọng " tuyên dương công trạng" một hồi, rồi
"thân tặng" cho mẹ tôi một chiếc áo cũ của ông Vua con.
Đó là một chiếc áo the đen, bên trong lót một lớp hàng mỏng màu vàng. Chiếc áo
còn thơm nức mùi xạ hương và long não ướp lâu ngày. Mẹ tôi đem chiếc áo ấy về,
vênh vang như một kẻ " áo gấm về làng" . Sự sung sướng của mẹ tôi, được
cái " Áo Vua Ban" ấy, cũng giống như tâm trạng người cung phi trinh nữ,
được tấm ảnh ghép ngồi chung với Đức Vuạ Cả hai cùng muốn mang cái ảo ảnh hão
huyền ra để thỏa mãn lòng tự ái, lừa mình, lừa người cho đỡ cơn ghiền!
Chiếc áo về phần chị cả tôi. Mỗi năm vài lần, trong những ngày kỵ giỗ, lễ Tết,
cái "Áo Vua Ban" ấy được trân trọng " trình bày" trên thân
hình bé nhỏ của chị tôi một vài giờ, rồi lại được trân trọng xếp vào rương chờ
dịp khác.
Năm tháng qua, chị tôi mới đầu mặc chiếc áo còn rộng thùng thình, rồi chật dần,
ngắn dần cho đến khi mặc không vừa nữa, phải cho chị Hai tôi thay thế. Từ chị Cả
đến chị Hai, anh Ba, anh Tư, anh Năm, rồi đến chị Sáu, chiếc áo không phân biệt
giới tính ấy, mỗi năm lại có dịp đem ra hóng gió một vài lần. Năm lại năm, chờ
mãi rồi cũng có ngày đến lượt tôi được xỏ taỵ Hôm Tết, mẹ tôi mang chiếc áo lịch
sử quí giá ấy ra để mặc cho tôi và bảo:" Hoa ơi, cái áo này bây giờ về phần
con", thì nó đã mục nát và chỉ động đến là rã tan ra từng mãnh!
Thời gian chờ đợi dù lâu bao nhiêu rồi cũng phải đến, Đông Cung Hoàng Thái Tử ở
Pháp học thành tài trở về nước để được tấn phong chính thức làm Vuạ Và cũng từ
lúc ấy, " Ngài Mẫu Hậu " ra lệnh không tiếp tất cả các chủ nợ. Bây giờ,
" Ngài " đã thành ra một bậc cao sang nhất, không thể có chủ nợ, và lại
càng không muốn gặp người nào đã từng quen biết " Ngài" những năm
tháng hàn vị Thật là chí lý, chí tình vậy! Còn gì khó chịu hơn một kẻ ở địa vị
cao sang, mà ngày ngày phải trông thấy những chủ nợ ngày xưa, đám người mình từng
nhờ vả năn nỉ kêu than túng thiếu, những kẻ đã phải cầm bán vay mượn cho mình
tiêu xài. Đó là một dĩ vãng buồn, một sỉ nhục tinh thần, có thể làm mất bớt uy
nghiêm nhiều lắm.
Tết năm ấy, tôi không được mặc chiếc áo đã bao nhiêu năm chờ đợi để đi mừng tuổi,
nên tôi khóc mùi khóc mẫn cả buổi sáng. Tôi tưởng tôi khóc vì khi chiếc áo quí
đến phần mình thì hóa ra một mớ dẻ vụn tả tơi rách nát; nhưng thật ra tôi đã
khóc cho cái ảo ảnh " ân trả nghĩa đền" của mẹ tôi bị tan vỡ. Tôi
khóc cho cái chết của chiếc áo, đổi bằng tất cả tài sản mẹ tôi dành dụm được.
Tôi khóc cho nền móng tương lai của một đám trẻ thơ, đáng lẽ được dùng của cải ấy
để bồi đắp cho thể chất và tinh thần.
Những năm sau đó, gia đình tôi ngày một khá hơn. Có lẽ vì không phải cung phụng
cho ai khác ngoài gia đình, nên lần lần trong mâm cơm đã bắt đầu có nhiều món
cá thịt ngon lành. Ba tôi cũng vui vẻ giảng giải cho chúng tôi biết về những thức
ăn bổ dưỡng cần thiết cho sức khỏe, một đề tài trước kia ông cố tránh.
Một hôm, không hiểu tại sao, mẹ tôi bỗng nhiên " phát từ bi tâm" may
cho chị Sáu, tôi, em Tám và em Chín, mỗi đứa một cái áo xa-tanh màu phấn hồng.
Xấp hàng này, có người tặng cho mẹ tôi trong dịp ăn lễ đầy tháng em thứ mười một.
Chúng tôi mừng rỡ trông đợi ngày trọng đại, ngày được mặc chiếc áo hồng lộng lẫy,
sặc sỡ, bóng loáng, mát rời rợi và rộng thùng thình như áo tế ấy, thì bỗng dưng
ông nội tôi chết. Tôi thấy cha me tôi khóc, anh chị tôi khóc, tôi cũng khóc. Nhưng
thực ra, tôi không nhớ đã được thấy mặt ông nội tôi hồi nào. Tôi khóc là khóc
cho bốn chiếc áo xa-tanh hồng tươi rực rỡ, chưa từng được diện qua một lần, vì
phải để tang, đã bị mẹ tôi ngâm vào nước thuốc nhuộm răng. Chúng nó biến thành
một màu kỳ lạ, không vàng, không lục, không xanh. Màu ấy, ba tôi gọi mĩa mai một
cách văn chương là màu" dưa cải úa mùa thu" . Nếu bây giờ bảo tôi đặt
tên lại, thì tôi sẽ gọi là một bức tranh lập thể may thành áo. Từng vệt, từng
đám, ngang dọc chồng chất lên nhau, níu kéo nhau chằng chịt. Cái áo nhuộm như
thế đấy, mà chúng tôi vẫn phải khen cho mẹ tôi bằng lòng. Bởi vì, đã có định luật
rằng một khi " đấng sinh thành" đã quyết định thì con cái phải vui vẻ
"Dạ,Vâng", mới có hiếu. Phần các bậc trưởng thượng thấy các con vui cũng
tưởng thiệt mà vui theo một cách dễ dàng.
Chúng tôi phải chịu đựng cái xấu xí của áo, và áo cũng phải cố chịu đựng sư tàn
nhẫn vùi dập của bọn trẻ con. Chúng tôi mặc nó lúc nằm lăn đùa nghịch dưới đất,
mặc suốt ngày đêm, vò nát nó, ném nó từ góc này sang góc khác. Đôi khi còn cắn
nát chéo áo để xem cái mùi chua chua, có phải thật chỉ là thuốc nhuộm chua như
mùi dưa cải úa, hay còn lẫn mùi gì khác nữa không.
Thật ra, số phận của những chiếc áo ấy cũng đáng thương như chúng tôi. Tâm hồn
chúng tôi sớm đã bị nhuộm thành một màu " dưa cải úa mùa thu " , hay
cũng chỉ là một bức tranh lập thể chồng chất những niềm đau khổ bé thơ, đã ai
hơn gì ai đâu! Thế mà chúng tôi nỡ dằn vặt chúng nó cho đến khi rách nát, và
cùng lúc ấy, tang ông nội tôi cũng vừa mãn.
Một bà bạn gái của mẹ ở Saigon gởi tặng mẹ tôi một xấp hàng xa-tanh hồng khác.
Mẹ tôi ngại màu sắc quá sặc sỡ lộng lẫy không hợp với người lớn tuổi, nên may
cho bốn chúng tôi. Bốn chiếc " áo tế" vừa dài vừa rộng, may xong được
cất kỹ, đợi " ngày lành tháng tốt " mới đem ra diện. Thỉnh thoảng,
tôi lén mở rương vuốt ve cái áo một lúc. Tôi nâng nó lên, áp chất mịn màng mát
rười rượi lên cằm, lên má. Tôi ướm nó vào người, hít cái mùi thơm long não ướp
trừ sâu mọt và mùi xạ hương từ trong áo toát ra một cách say sưa. Nhưng cái
" ngày lành tháng tốt" ấy không bao giờ đến, vì bỗng nhiên chú tôi mất.
Kể ra thì đó chỉ là một cái tang nhỏ thôi, nhưng mẹ cũng bắt chúng tôi để tang.
Và một lần nữa chúng tôi khóc cho chiếc áo đẹp lại phải nhuộm thành một màu lem
luốc không tên!
Ba tôi lúc ấy đã bắt đầu rảo bước trên con đường trải toàn thẻ ngà. Ông chuyển
đổi ngành công chức với Chánh Phủ Bảo Hộ sang ngạch Nam Triều, nôm na gọi là
làm quan. Mẹ tôi không còn phải đi giới thiệu mua bán đồ cổ và cũng không cần
chụp ảnh cho ai nữa.
Chúng tôi, mỗi người được sắm một con heo đất để dành tiền. Nhưng, những con
heo ấy, hàng năm đều phải bị đập ra, vì mẹ tôi mở cuộc " lạc quyên" để
may áo quần cho bọn con trai trước ngày tựu trường. Cảm thông những nỗi khó
khăn của các anh khi cần thiết, chúng tôi lúc nào cũng vui lòng "
quyên" . Mẹ tôi bảo đấy cũng là làm việc nghĩa, chẳng mất đi đâu mà thiệt,
vì mai đây,khi các anh mặc ngắn, những chiếc áo ấy cũng sẽ đến phần chúng tôi.
Khi những chiếc áo xa-tanh nhuộm mực lem luốc thứ hai " quá cố " rồi,
bọn con gái đã thành những cô gái dậy thì. Chúng tôi đã biết thẹn, nhưng khi ra
đường vẫn cứ phải mặc những chiếc áo vải dù, vải ba-ga con trai đã bạc màu và rộng
mênh mông như cả một trời đau khổ. Chúng tôi cố năn nỉ xin mẹ may một cái áo mới
cho ra hồn. Mẹ tôi bảo:
Áo các anh mặc ngắn, thiếu gì! Còn tốt và bền lắm, may một lần cho cả bầy nhiều
tiền lắm, chứ tưởng ít sao! Ngày xưa, suốt đời mẹ chỉ có một chiếc áo vải. Còn
các con đã có bao nhiêu cái áo đẹp rồi, nhớ không? " Aó vua ban" này,
áo xa-tanh nhuộm màu dưa cải này...
Tôi nhắc:
- Dưa cải úa mùa Thu chứ!
- Ừ thì Thu Đông gì cũng được. Lại còn cái áo xa-tanh nhuộm màu mực này.
Tôi cải chính:
- Màu lem luốc chứ.
- Con Hoa thật nhiều chuyện! Mới may rồi, còn đòi gì nữa!
Em Tám nói:
- Dạ, mới may bốn năm về trước!
Mẹ tôi mắng:
- Chúng mày rắc rối lắm, không biết hà tiện hà tặn, sau hết phước đi! Phải nhớ,
hồi xưa mẹ chỉ có một cái áo, nên mới có ngày nay!
Em Chín tiếp:
- Nhưng mà mẹ quên mẹ là con ông Huyện, và mồ côi, còn chúng con là con ông Tổng
Đốc đương thời!
Mẹ tôi giận dữ quát lên:
- Ai dạy cho mày ăn nói giảm phước thế ?
- Mẹ không thương chúng con. Mẹ chỉ thương chị Hồng. Mẹ nhớ chị Hồng mất ăn mất
ngủ. Mỗi khi chị Hồng tới xin tiền là mẹ đập con Heo của chúng con
Mẹ tôi vội vã:
- Thôi thôi, để tôi may, các cô không cần phải kể con cà con kê...
Mẹ sợ chúng tôi phân bì với chị Hồng lắm. Mỗi tháng cô chị họ ấy đến thăm mẹ
tôi một lần, và mỗi lần như thế là cả nhà náo loạn cả lên. Nội một việc hầu hạ
phục dịch chị cũng đủ mệt phờ ra. Chị ăn tiêu rộng rãi, thưởng tiền cho người
nhà rất hào phóng . Đối với chúng tôi, chị cũng" thết đãi" linh đình.
Nghĩa là gọi cả một gánh bánh bèo hay bún bò vào nhà, thết mỗi người một tộ Chỉ
có một cái " di hận" là[chị chuyên môn đập Heo của chúng tôi. Ba cho
chúng tôi mỗi đứa một ống tiền đặc biệt, tiền thưởng nhiều ít tùy theo học giỏi,
trả bài thuộc , những bài học ông soạn riêng để dạy mỗi ngày. Tiền ấy được bỏ
vào con Heo bằng đất nung mục đích để dành làm của hồi môn. Nhưng từ khi chị Hồng
phát giác ra câu chuyện ấy thì chị rủ mẹ cho chúng tôi hùn vào tiệm may của chị.
Mỗi tháng, chị đến đập Heo của chúng tôi một lần. Mãi cho đến khi chị bán cửa
tiệm đi lấy chồng, chúng tôi chẳng hề thấy chị thanh toán tiền nong hùn hạp gì
cả, làm tôi cứ tưởng là cửa tiệm của chị Ở nhằm hướng " tán tài" nên
suốt bao nhiêu năm trời chỉ chuyên môn thua lỗ. Và cái bản tính không bao giờ
thanh toán công nợ ấy, chị vẫn giữ mãi suốt đời.
Mẹ tôi quả nhiên giữ lời hứa, lấy một xấp hàng " xa xị" màu vàng nhạt
để tận đáy rương ra, may áo cho chúng tôi. Bà gọi người lính ở trong dinh biết
may cắt dặn:
- May cho thật dài rộng mát mẻ nghe không!
Vì chúng tôi đã lớn, đã biết sợ những chiếc áo rộng mênh mông, mặc vào như bơi
đứng trong áo, nên nghe thế, phải dặn với:
- Ừ, may cho dài...
Và đứng sau lưng mẹ, lấy tay ra hiệu cho người thợ may chật.
Đến lúc áo may xong, mặc thử, thật là dở cười dở khóc. Nó dài phết gót và chật
như bó chả. Chật đến nổi tay không co lại được. Người tôi cứ cứng ra như khúc gỗ
không cử động trong chiếc áo đó. Chỉ mấy tháng, chiếc áo mới đã phải vá cùi tay
và tiếp thêm nách. Nhưng dù vá víu xấu xí đến đâu, tôi cũng mặc đi nhiều nơi,
nó vẫn còn hơn chiếc áo vải ba-ga đen cũ bạc mầu của bọn con trai chuyền lại.
Kế vị chiếc áo đấu tranh mà có này là một chiếc áo " vải cạt" . Gặp
lúc chiến tranh, mọi vật dụng đều khan hiếm nên phải được phối cấp, hàng vải
cũng thế. Và chúng tôi được may một cái áo bằng thứ " vải cạt" phối cấp
hoa lá cành chằng chịt, màu xanh đỏ tím vàng loạn xà ngầu, sặc sỡ lòe loẹt, nhà
quê một cách không thể tả được. Mặc vào trông như một tấm vải màn, hay cái ghế
nằm sofa biết đi. Thế nhưng tôi vẫn phớt tỉnh. Coi như trên đời này không còn
ai nữa !
Từ đấy về sau, mẹ tôi chẳng cần phải may áo mới cho chúng tôi nữa, vì chị Hồng thỉnh
thoảng lại gởi về một ít quần áo cũ. Trong số y phục loạn xà ngầu ấy, có hai
cái còn coi được. Chị Sáu chọn cái áo màu đỏ, tôi mặc vừa áo màu xanh. Hai chị
em, mỗi khi đi phố, đi chợ, đều diện hai cái áo đẹp nhất của mình, mặc cho
thiên hạ bạn bè " khen ngợi". Nào là màu sắc chửi nhau, nào là "
người trong tranh " , nào là bất chấp thời tiết v.v... Chúng tôi giữ vững
lập trường " mục trung vô nhân" không cần ai và cũng không cần biết đến
cả Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Kể từ ngày mẹ giao tiền chợ cho chị Sáu giữ để chị tập việc quán xuyến gia
đình, chị không còn thắc mắc về vấn đề ăn diện làm dáng nữa. Chị tự sắm rất nhiều
áo quần đẹp, nhưng cứ nói dối là của bạn bè, bà con ở xa gởi về cho, thành ra mẹ
không la rầy được, mà chúng tôi cũng không thể phân bì được. Tôi cầu mong chị
cao lớn thêm lên, hay béo ra một chút, để rơi rớt cho tôi vài cái. Nhưng rủi
quá, người chị bé nhỏ, lùn thấp hơn tôi nhiều, và lòng dạ chị lại khá sắt đá,
nên tôi không hề gạ gẫm gì được cả.
° ° °
Tồi biết rõ tính mẹ tôi có tiền chỉ đề cho người khác tiêu
dùng một cách phi phạm còn mình và con cái phải hết sức kham khỗ. Có lẽ mẹ tôi
cũng chẳng có cái áo nào ra hồn. Sau này lúc tôi bị ném ra ngoài đời tranh đấu
cho cuộc sống của mình, tôi cố dành dụm ít tiền. Mỗi lần cuối năm, tôi mua gửi
cho mẹ tôi mười cái áo gấm Thượng Hải. Tôi nghĩ rằng trong mười áo ấy, bà sẽ
cho, tặng, bán hay gì đi nữa nhiều lắm là chín cái thôi. Ít nhất cũng phải để lại
một cái tự may cho mình. Và như thế là tôi thỏa mãn rồi. Ngày mẹ tôi bị bệnh trầm
trọng tôi ở xa về cũng không quên mang theo muời áo gấm nữa tặng em tôi. Lúc mẹ
tôi mất, tôi soát lại tủ áo để tìm đồ liệm theo thì thấy chẳng có một chiếc áo
nào may bằng thứ gấm Thượng Hải của tôi đã gời về biếu.
° ° °
Một người bạn trẻ nói nói tôi :
- Chị Hoa. cuộc đời chị thế là hết rồi ! Không còn hy vọng gì nữa hết! Không
còn tương lai gì nữa hết! Không còn mơ gì được nữa hết !
Hừ láo, đến thế thì thôi! Hắn biết mẹ tôi mất rồi, tôi buồn lắm. Hắn biết tôi về
nưởc mà thất nghiệp thì chán thật. Hắn biết kẻ rất yêu đời mà bị đời bạc đãi, hắt
hùi thì cũng đáng thất vọng đấy !
Nhưng còn việc tôi "mơ gì" thì ai ngăn được tôi. Cũng như thuở nhỏ sống
trong một gia đình như thế, tôi đã dám mơ một chiếc áo đẹp. Cho nên dẫu hoàn cảnh
có thế nào đi nữa, tôi vẫn có quyền mơ. Hoa này vẫn mơ, cho dẫu là chỉ mơ áo.
Một Truyện Ngắn Hay Nhất
Sau bữa cơm tối, Quế dọn dẹp phòng mình thực nhanh. Từ hôm trời
trở rét,nàng phải mang bao tay cao su để rửa bát, chùi nhà cũng như giặt dũ hay
làm những công việc khác. Đó không phải là tính đài các rởm, nhưng trong mùa
rét ai cũng làm thế để cho công việc nhanh chóng hơn. Nước lạnh buốt như nước
đá mà phải thò tay không vào thì chắc áo quần suốt mùa đông không bao giờ được
giặt. Nguyên tắc của Quế là làm thật nhanh để chóng được nghỉ, nên chỉ trong nửa
giờ là mọi việc đâu vào đấy cả.
Thấy gian phòng đã sạch sẽ thứ tự lại như cũ, Quế rất bằng lòng. Quế nghĩ đến lời
cô em luôn luôn nhắc : Này chị, không phải là " Ở bẩn sống lâu" đâu
nhé. "Đói cho sạch, rách cho thơm" mới là văn hóa Việt Nam.
Ở cái thành phố Paris này mà ba chị em được mỗi người một phòng thì thực thần
tiên, mặc dầu lầu sáu, nhưng lên 6 lần cầu thang thì có nghĩa lý gì đối với
sinh viên. Quế thay quần áo ngủ xong, cho hai chân vào chăn, kéo chăn lên đến
ngực, rồi ngồi dựa lưng vào tường. Ngoài chăn, Quế để cái khung nhôm, bên trên
gác một tấm ván mỏng. Đó là bàn viết trên giường của cô em gái thương Quế, tính
sợ lạnh, nên nhường cho nàng dùng. Bên cạnh, Quế để sẵn một cốc nước thật đầy,
đủ uống suốt đêm, trên đầu là ngọn đèn nhỏ có cái chao mầu lá mạ, của một người
bạn thân tặng. Ngọn đèn này đã theo nàng đi khắp nơi, và mỗi đêm, lúc Quế thao
thức, thế nào cũng bật nó lên xem sách, hay có lúc chỉ nhìn sững ngọn đèn nghĩ
ngợi chứ không làm gì cả. Bên cạnh giường là chiếc bàn con, từng trên để máy
thu thanh, từng dưới đầy sách vở, giấy viết, máy chữ, Quế nằm trên giường, chỉ
việc với tay là cái gì cũng có. Thì ra con người càng lười, cuộc sống tổ chức
càng gọn gàng chu đáo.
Không còn thiếu thức gì nữa, Quế để tập giấy lên bàn và ngả đầu vào vách mơ mộng.
Đã lâu, Quế có ý định viết truyện ngắn, nhưng có ý định là một việc, thực hành
được lại là một việc khác, nhất là muốn viết cho ra hồn, truyện phải thật, phải
sống, phải có những cảm xúc chân thành. Quế không biết kiếm đâu ra truyện hay
như thế, mà nhất là cái " cảm xúc chân thành", nàng lại càng không biết
làm sao có! Quế tự bảo:
- Hay là mình thử bịa xem, tưởng tượng một truyện " có thể được" và đặt
tên là " Một truyện ngắn hay nhất". Chỉ hay nhất với mình thôi thì đã
làm sao chưa? Mình chỉ viết cho mình đọc. Đâu có ai biết mà sợ người ta cười.
Nhưng dù sao, đã gọi là truyện ngắn hay nhất, thì phải tả cái gì đẹp nhất. Mà ở
đời, còn gì đẹp hơn tình yêu nữa! Tất cả muôn loài, muôn vật, muốn sống, muốn
sinh tồn, đều phải có tình yêu. Người ta đã yêu trong quá khứ, hiện tại, và
tương lai cũng còn phải yêu mãi mãi. Chỉ có tình yêu là bất diệt, bất hủ, không
bao giờ lỗi thời. Như thế, truyện ngắn hay nhất của Quế phải dành cho tình yêu
mới được.
Định nguyên tắc rồi, Quế thấy như trút được một gánh nặng. Bây giờ chỉ còn tìm
nhân vật, cố nhiên là một nam một nữ, vì có thế mới yêu nhau được chứ! Quế thấy
hình như công việc đã xong một phần mười, nàng tự thưởng cho mình một cốc nước
lã.
Cốc nước trong máy mới vặn ra, nên rét buốt cả răng. Quế mới uống lúc đầu rất
khó chịu, mãi sau dần dần cũng quen với cái cảm giác tê tái lúc nước đi đến đâu
biết đến đấy, không còn khó chịu nữa. Vừa uống nước Quế vừa nghĩ đến nhân vật
trong truyện của mình. Nàng không muốn cho vào hạng cao sang quá, vì hạng này
trong đầu óc chỉ có phú quí, công danh, và đàn bà đối với họ chỉ là một thứ xa
xỉ phẩm họ đủ sức mua sắm, trao đổi một cách dễ dàng; vì thế, rất hiếm có, hay
hầu như không thể có chân tình. Quế nghĩ đến hạng bình dân, lao động, nhưng mặc
dầu truyện về giới này rất hợp thời, Quế không dám viết bừa về họ. Những người
dân lao động phải tranh đấu, vật lộn với cuộc sống vất vả, nên đời tình ái của
họ cũng rất giản dị, bình thản. Aùi tình vớiø tất cả những biến chuyển, thắùc mắc
của tâm hồn, đối với họ, là một thứ xa xỉ phẩm vô dụng. Quế không thể gán cho họ
những ý tưởng họ không có.
Vậy "chàng" phải là một thanh niên trung lưu có học thức, có tâm hồn,
có tư tưởng. Chàng cũng phải hơi đứng tuổi mới yêu được, nếu còn trẻ quá, thì sẽ
chưa từng hiểu đời, chưa từng sống, chưa từng đắng cay, làm sao có thể đóng vài
" chàng" trong truyện của Quế được. Còn " nàng" nữa, nàng
phải có giáo dục, thông minh và rất nhiều tình cảm, nhưng không được trẻ lắm.
Có bao giờ một cô bé độ mười lăm, mười sáu tuổi, có thể làm cho người ta yêu đến
nổi sóng nổi gió trong tâm hồn được đâu! Tuổi dậy thì chỉ là tuổi của những mối
tình ngây thơ, tình vớ vẩn, tình vụn buổi ban đầu, tình "bản thảo" của
cuộc đời tình ái trọng đại về sau. Chỉ những thiếu nữ đã từng đau khổ, đã hiểu
rõ những đức tính dễ thương và dễ ghét của đàn ông, mới biết quí, biết chiều,
biết trân trọng tình yêu, biết nắm giữ tâm hồn ai đó.
Nhưng, anh chàng ấy có đủ điều kiện như thế không thể để cho cô đơn đến ngần ấy
tuổi? Hơn nữa, câu chuyện đã được đem ra kể, ít nhất cũng phải có cái gì đặc biệt,
chứ nếu yêu nhau, cưới nhau, rồi sinh con đàn cháu đống, lên chức bà nội, ông cố,
thì có gì đáng nói nữa. Tình yêu của hai người phải trắc trở mới được. Nhưng,
thời buổi bây giờ, cha mẹ cũng như tôn giáo, pháp luật, đều không thể cấm được
người ta yêu nhau, cưới nhau, rồi "bách niên giai lão" với nhau. Vậy
chỉ còn cách là Quế cho anh ta đã có đệ nhất phu nhân ngồi chễm chệ giữ sổ chi
tiêu rồi là hợp lý nhất.
Quế nhìn lên trần nhà, thấy một con thạch sùng đang rình mấy con mối. Trong lúc
mãi nhìn theo cuộc săn đuổi, Quế hồi hộp từng hồi khi thấy con mối thoát được,
bay đi nơi khác, nhưng nó không ngờ góc nào trên trần nhà cũng có những con thạch
sùng đang kiếm mồi chờ sẵn. Quế nhìn theo cho đến khi tất cả đàn mối đều dần dần
vào bụng đám thạch sùng hết, nàng mới trở lại với câu chuyện tình " lâm
ly" của nàng.
Quế tưởng tượng " chàng " và " nàng" sẽ rất yêu nhau. Yêu một
cách say mê đắm đuối, tưởng chừng như hai linh hồn đã chờ đợi nhau từ kiếp nảo
kiếp nào, mãi đến bây giờ mới được chạm trán . Quế sẽ cho họ nhìn nhau mà đôi mắt
sẽ thay họ nói tất cả nhớ mong, chờ đợi. Quế sẽ cho họ cầm tay nhau và nghe hơi
thở hòa lẫn như thông cảm đến tận tâm linh, và họ có cảm tưởng như một tư tưởng
bé nhỏ nào, hay một cảm xúc rung động gì, cũng là của chung cả. Tóm lại, là họ
phải yêu nhau đến cái nhiệt độ cao nhất của tình yêu có thể có được ở trên đời.
Nhưng, phần đông đàn ông, dù là Lưu, Nguyễn hay ai ai đi nữa, dù có lạc vào
Thiên Thai, dù có sống với Tiên Nữ, dù có ở cảnh Tiên, bao giờ họ cũng vẫn nhớ
đến cõi trần, dù cõi trần phàm tục, đầy những phiền não. Và kết quả, bao giờ
cũng chọn con đường trở về trần gian để ngày đêm mơ tưởng cảnh tiên. Vì dù sao,
như thế cũng vẫn hợp lý hơn là ở non Tiên mà đêm ngày canh cánh nghĩ đến cảnh
trần gian đầy mùi tục lụy thì kỳ quá, coi không được, mà kể lại nghe cũng chẳng
thuận tai.
Để cho hai người phải xa nhau ngay, Quế cũng thấy hơi tiếc và cho là mình tàn
ác quá. Tại sao trên đời có hai người yêu nhau đến thế, và quyền sanh sát ở
trong tay Quế, mà Quế không " gia ân" cho họ được gần nhau, yêu nhau
thêm một thời gian nữa? Tại sao trên đời có những đôi ghét nhau như quân thù,
thì lại cứ phải ăn với nhau, ngủ với nhau, nhìn nhau hàng tháng, hàng năm, cùng
chung một gối màø chỉ mơ những vì sao Cô Thần Quả Tú? Nhưng dù sao Quế cũng phải
cho họ xa nhau, nếu không, câu chuyện của nàng sẽ đi đến chỗ bế tắc.
Một khi chàng Lưu hay chàng Nguyễn đã động lòng nhớ phàm gian, thì " Tiên
Nữ" dù có yêu đến đâu cũng không giữ làm gì. Nàng nhất định sẽ phải xa
chàng, nhưng hai người sẽ xa nhau trong lúc còn yêu nhau, và yêu nồng nàn hơn
lúc nào hết. Quế định thầm vì như thế để cho hai người cùng giữ mãi trong lòng
cái kỷ niệm đẹp tuyệt vời của nhau, cùng được an ủi khi nghĩ rằng, trong đời,
ít ra họ cũng đã gặp được một người xứng đáng cho họ yêu, họ đã từng yêu và được
yêu đúng mức, họ sẽ không còn ân hận gì lúc buông xuôi hai tay.
Quế sẽ cho hai người từ giã nhau trong một đêm trời rất đẹp. Họ sẽ không ở nhà,
vì nhà nhiều người lắm, làm sao nói chuyện được trong khi đôi mắt nàng lúc nào
cũng chỉ rưng rưng rơi lệ. HoÏ cũng không đi lang thang ngoài đường, vì đèn đường
sáng một cách trơ trẽn và cũng không hợp với câu chuyện tâm tình. Quế sẽ cho
hai người ngồi bên bờ sông nhìn trăng, nhìn sao một lúc lâu, cho họ nói tất cả
những lời đáng nói, cần nói, cho đến lúc sương xuống lạnh, họ sẽ vào một tiệm
khiêu vũ gần đấy. Họ không nhẩy, nhưng chỉ ngồi trong ánh sáng êm dịu, nghe tiếng
nhạc du dương. Họ không nói gì với nhau nữa, chỉ cầm tay nhau và mắt nhìn mắt,
cùng thông cảm niềm đau khổ của chia ly đang ray rứt tâm hồn.
Quế bỗng thở dài vì thương nhân vật của mình quá. Nhưng nàng đã trót để họ ở
vào cái thế cưỡi hổ mất rồi! Muốn vớt vát bớt sự tàn ác của mình, Quế chỉ có thể
cho hai người được ngồi cạnh nhau lâu thêm một chút, hay là để cho đầu nàng gục
vào ngực chàng, để cho những giọt nước mắt nóng thấm ướt vai áo chàng. Nhưng
như thế cũng không được: Quế còn phải tả tâm tình chàng lúc ấy, bản tính nghịch
ngợm, nhỡ Quế lại hạ bút viết rằng: " Chàng thấy nàng gục đầu vào ngực
mình, sợ nàng vô ý để son dính vào áo, về nhà sẽ không biết nói sao với vợ, nên
hoảng hốt vội xô nàng ra . . ." Nếu Quế tả như thế thì chao ơi! Cái
"Truyện ngắn hay nhất" của nàng chỉ còn có việc đem cho gà ăn mà
thôi!
Quế định sẽ giữ cho đầu người nữ thực thẳng, không nghiêng một chút nào hết, để
chàng được bình tĩnh, yên tâm, khỏi sợ son dính vào áo . . . nhưng như thế lại
sợ nhạt nhẽo quá. Hai người yêu nhau điên luôn, mà lúc từ giả nhau một lần cuối
để rồi xa nhau mãi mãi, kẻ góc bể người chân trời, lại lạnh lẽo như hai "
đồng chí" lúc bàn giao công việc thế không được. Phải cho đậm đà hơn một
chút, nếu không, người ngoại cuộc cũng thấy chướng mà phản đối và mất thiện cảm
với chàng còn gì. Làm thế nào nhỉ? Quế không cho họ hôn nhau và cũng không muốn
thấy họ lãnh đạm với nhau. Nàng không muốn họ có vẻ phàm tục thông thường quá.
Tình yêu của hai người rất cao quí, nhất là trong giờ từ giã, niềm đau của chia
ly phải dâng lên tràn ngập trong lòng, họ không có cái ý muốn rất người ấy nữa.
Những cái hôn nồng cháy biểu lộ ao ước thân cận của thể xác, mà không thể làm
giảm bớt chua xót của tâm hồn.
Trong lúc tưởng tượng, Quế như đặt mình vào chính cảnh thật và nàng thấy lòng
mình cũng tràn ngập thương cảm. Trong một lúc mềm lòng, nàng định tìm cách vớt
vát cho nhân vật của mình bớt khổ, để cho họ thấy cuộc đời có nghĩa lý hơn,
đáng sống hơn.
Quế đang đắm mình vào câu chuyện một cách say sưa cảm động, thì bỗng có tiếng
cãi nhau ở dãy nhà đối diện. Quế nhìn sang, thấy vợ chồng ông Giáo đang đứng
ngoài hiên cãi nhau. Thường thường, hai vợ chồng này bao giờ cãi nhau cũng vào
nhà trong và không bao giờ to tiếng như hôm nay. Quế không cần lắng tai cũng
nghe rõ, vì giọng bà Giáo the thé quát rất to, át cả những lời khuyên can của
ông Giáo. Bà Giáo đang cầm một tấm nệm chà chân, rũ cả bụi xuống hiên từng dưới.
Ông Giáo bảo:
- Sao em không để lúc khác hãy rũ bụi. Giờ này là giờ người ta ngồi ở nhà, em đập
bụi như thế không phải.
Bà Giáo cười nhạt:
- À, bây giờ anh phản rồi phải không? Từng dưới là nhà cô ấy, thảo nào mà anh
bênh nó. Này, tôi nói cho mà biết, đứa nào cướp chồng bà, bà xé xác nó ra.
Quế thở dài, nguồn văn của nàng thế là đành chết đứng. Theo nguyên tắc của Quế,
hàng xóm cãi nhau, bao giờ nàng cũng đứng trung lập, nhưng vẫn phải làm "
quan sát viên" xem tình hình và chú ý nghiên cứu thứ văn chương ứng khẩu
này, để " tăng gia kiến thức". Quế đành phải dẹp bỏ câu chuyện nàng
đang xây dựng để theo dõi tình hình " mặt trận" hình như đã đến lúc
căng thẳng.
Cô ở từng dưới là Sâm, ngày thường vẫn hiền lành nhã nhặn, nhưng hôm nay bỗng
phát dữ như con chó dại. Cô cũng lên tiếng:
- Bà nói ai đấy? Muốn dạy chồng bà, thì đóng cửa lại mà dạy!
- Bà chửi con nào ngày ngày nhìn chồng bà, ra cũng nhìn, vào cũng nhìn!
- Đi giữa đường, cấm người ta nhìn à? Muốn giấu, sao không gói cho kỹ?
Ông Giáo can:
- Thôi em, láng giềng với nhau cần phải giữ hòa khí. Em đừng ghen bóng ghen gió
như thế, mang tiếng cả. Cô ấy cùng dạy một trường với anh, ra vào gặp nhau phải
chào hỏi là sự thường và lễ phép bắt buộc. Em đừng nghi bậy.
Bà Giáo quát lên:
- À, bây giờ anh về hùa với nó để mắng tôi đấy à? Bà không phải là đứa dễ bắt nạt
đâu! Đứa nào dám động đến chồng bà, bà xé xác ra. Đồ đĩ thõa!
Cô Sâm cũng to tiếng chẳng kém:
- Thế còn bà, đứng đắn lắm đấy hẳn? Chồng vừa ra khỏi cửa đã dắt trai vào nhà.
Chồng đi bộ, để xe cho bà chở trai đi dạo, cả con đường này, cả thành phố này,
làng trên xóm dưới còn có ai là người không biết! Bà quên thì tôi nhắc cho bà
nhớ: nhân tình của bà cũng nhiều không kém gì rác bụi bà mới rũ xuống đâu! Có
muốn nghe tên, tôi kể ra cho mà nghe?
Bài ca vọng cổ đang sắp đến đoạn lâm ly nhất, thì bà Giáo đã kéo ông Giáo vào
nhà trong, đóng cửa đánh sầm một tiếng. Cô Sâm cũng vào nốt. Thế là hạ màn.
Quế chợt ïnhớ đến lúc thằng em trai sắp cưới vợ thì đạo luật gia đình ra đời.
Trong một lúc " cảm khái", hắn đã " cảm đề" luật ấy bằng một
bài hát, theo điệu bài " Nếu một mai em sẽ qua đời" của Phạm Duy. Quế
chỉ nhớ được một câu :" Nếu một mai anh có mọc sừng . . . thì vuốt mà
chơi". Không thể nhịn cười được, Quế gục đầu xuống bàn, ôm ngực cười sằng
sặc. Nàng cười đến đau quặn cả bụng khi nhớ đến cái giọng đau thương một cách
khôi hài của thằng em.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét