Trời mưa dầm đã mấy hôm, Trang không thể đi đâu và cũng ngán
không muốn làm gì cả. Suốt ngày nàng phải giữ cho hai con bé khỏi chạy ra ngoài
sân nghịch nước là một việc khó nhọc vô cùng. Mỹ và Thu bị quẩn chân phá phách
đủ mọi thứ làm Trang càng mệt thêm. Mẹ Trang hết tụng kinh lại vào phòng nằm
lim dim như ngủ. Thực ra Trang biết mẹ không ngủ, bà chỉ muốn nhắm mắt để tránh
khỏi phải nhìn, phải nói chuyện với người khác. Có những lúc người ta muốn thu
nhỏ mình lại, muốn biến vào hư vô muốn lẫn vào khoảng không, muốn tránh mặt từ
người thân, kẻ lạ cho đến ngay cả mặt mình cũng không muốn nhìn, không muốn biết
có sự hiện diện của mình nữa. Mẹ Trang đang ở trong tình trạng khủng hoảng tinh
thần đến cùng cực ấy.
Từ ngày cô Tư về, Ông dọn đến sở ở hẳn, và bắt đầu từ đấy các bà bạn của Bà
ngày ngày cứ đến nói rằng thăm, kỳ thực cốt để mách những chuyện « tai nghe mắt
thấy », làm cho bà muốn để lòng thanh tịnh tu hành cũng không được. Niềm tủi hờn
từ thuở xưa lại lảng vảng đến dằn vặt làm hoen ố những ngày tháng tinh khiết.
Cô Ngọc mách nào là hai người ngồi chung một xe xích lô dạo phố, nào là ông mở
sâm banh thết tất cả sở lúc họ kéo đến chúc mừng «vườn mới thêm hoa». Cố
nhiên là những chuyện ấy ông dặn người nhà không được kể lại cho bà biết, nhưng
dấu làm sao được mọi người những tin hàng đầu giựt gân đặc biệt như thế!
Còn các bà bạn tự nguyện làm trinh thám tư không phải họ tốt gì với bà, nhưng
chỉ vì do cái tính ngồi lê đôi mách quen rồi, biết thì không thể không nói được,
nhất là họ rất muốn xem bà đau khổ như thế nào, phản ứng như thế nào, đánh ghen
như thế nào v. v. Tất cả đều là những tin động trời cho cái xứ buồn bã trầm lặng,
quanh năm không xảy ra một chuyện gì lạ ngoài những chuyện thăng quan tiến chức,
và bắt ghen đánh ghen này!
Mẹ Trang không vui nhưng bà lặng thinh cố chịu một mình. Trang cũng cảm thông nỗi
buồn khổ của mẹ mà không dám gợi ra, chỉ tìm cách giúp mẹ khuây lãng. Nàng biết
mẹ không bao giờ nhỏ mọn, từ ngày xửa ngày xưa bà đã không hề bắt chồng phải
tuyệt đối trung thành với mình, nhưng theo ý bà dù sao cũng phải tế nhị một phần
nào, đừng làm tổn thương lòng tự ái của người vợ tao khang quá đáng.
Cả tòa nhà ngang dẫy dọc bây giờ đâm ra lặng lẽ âm thầm. Suốt ngày thỉnh thoảng
mới có tiếng động: tiếng tụng kinh của mẹ Trang sớm và chiều. Nếu không có hai
bé con chạy ra chạy vào thì người ta tưởng đấy là một căn nhà bỏ hoang. Ngoài
ra còn có tiếng cãi nhau của hai vợ chồng láng giềng. Nhưng vài ba hôm họ mới
cãi nhau một trận nên mọi người không phiền lắm.
Trong cảnh mưa dầm hôm nay, mỗi người ở một nơi, và mỗi người mang nặng trong
lòng một niềm tâm sự. Ba Trang ở sở đang hưởng tuần trăng mật, ông và cô Tư chắc
bận xây những giấc mộng tuyệt vời. Mẹ nằm vờ ngủ trong phòng riêng, tránh không
cho mọi người trông thấy vẻ tiều tụy của mình. Chắc bà không nghĩ đến tương
lai, cái tương lai gần trong hiện tại nó đen tối u uất làm sao! Ttương lai của
bà ở thế giới Niết Bàn mà bà đã ra công bồi dưỡng mấy chục năm nay mới thực là
đẹp, nhưng cái tương lai ấy sau khi chết mới được hưởng, và bà cũng như mọi người
chưa muốn nghĩ đến cái chết của mình.
Trong lúc này chỉ có thể vui mơ về quá khứ. Qúa khứ lúc nào cũng đẹp! Thực ra
không hẳn thế, có khi phần xấu còn nhiều gấp bội nhưng khi đã thành quá khứ ai
cũng sẵn lòng quên, huống chi trong hiện tại đen tối thì quá khứ là những ngày
giờ vàng ngọc, là những năm tháng thần tiên đáng cho người ta hồi tưởng nhớ
nhung lắm.
Tâm hồn bà hiện giờ đang mang nặng một vết thương mà những câu kinh nhiệm mầu .
« sắc thị không, không thị sắc, sắc sắc không không . . » cũng không thể nào trị
nổi . Bà đã hy sinh mấy chục năm trời cho chồng con, cho gia đình để đến lúc về
già . . giờ đây, nằm còng queo gối tay trên chiếc phản gỗ không nệm, mỗi lúc trở
mình là rêm tất cả các khớp xương. Nguồn an ủi của bà chỉ còn là cảnh Bồng Lai ở
bên kia thế giới, vì những câu kinh tối nghĩa không giúp ích gì cho hiện tại.
Hơn nữa ngoài sự đau xót cho mình còn phải đau xót cho những đứa cháu bé không
cha, đau cuộc đời mình chưa đủ còn đau cho cuộc đời của đàn còn, mỗi đứa giữ một
mớ « kỷ niệm » của tình duyên ngang trái.
Hàng ngày, ngoài giờ tụng kinh bà nằm lịm trong phòng riêng như thế để mơ đến
quá khứ. Trời! Qúa khứ mới đẹp làm sao! Những ngày hoạn nạn, nghèo túng, những
giờ phút rau cháo có nhau, những lúc gia đình nguy biến, ông bà đã siết chặt
tay nhau chèo chống. Những lúc ấy không bao giờ có một người đàn bà khác chen
vào, chỉ khi nào tai qua nạn khỏi, cuộc sống dồi dào con người mới sinh ra đa sự!
Gần đến giờ lên đèn, tiếng vợ chồng ông Túy cãi nhau lại nổi dậy. Dù Trang
không muốn nghe vẫn cứ lọt vào tai vì họ hét to quá. Cặp vợ chồng này lúc cãi
nhau là trình bày tất cả những chữ tốt đẹp nhất trên đời mà không hề ngượng miệng.
Trời mưa dầm như thế này không đi đâu được, ở nhà không có việc gì làm, không có
chuyện gì nói, cũng không phải loại tìm vui trong sách báo , và cặp vợ chồng
này cũng không có thói quen « tương kính như tân », thì ngoài cãi nhau ra còn
biết làm gì?
Trang mỉm cười vì đang nghe đến đoạn kịch liệt và « văn chương » cổ điển nhất,
thì bỗng thấy anh Bê ở ngoài đi vào, cả người anh ướt sũng. Anh run rẩy nói:
- Chị cho tôi xin một ly rượu, rượu gì cũng được, lạnh chết mất!
Trang vội vàng tìm chai rượu thuốc rót một ly đưa cho anh ngạc nhiên hỏi:
- Áo mưa anh đâu ? Đội nón lá thế kia thì ăn thua gì!
Anh Bê uống cạn cốc rượu, mặt dần dần bớt tái, mắt tinh thần hơn. anh cổi áo vắt
nước và lấy khăn lau mặt nói:
- Áo mưa tôi bị chuột cắn đưa nhờ người ta vá chưa xong. Chà, không ngờ hôm nay
mưa to quá!
- Bộ 12 Bà Mụ gọi đi cho kịp giờ đầu thai hay sao mà vội vàng thế? Đi đâu đợi tạnh
bớt không được sao?
- Tôi cũng mong được đi đầu thai nơi nào khác cho khỏe một chút! Kiếp này khổ đủ
rồi! Cho tôi xin ly nữa chị. Nghĩ cái đời tàn của mình không say thì cũng cố kiếm
dịp mà saỵ Say lăn lóc, say cho khỏi mắt thấy tai nghe, bởi vì chỉ thấy, nghe
toàn những chuyện chướng tai gai mắt!
- Anh bi quan quá!
- Không bi quan thì muốn lạc quan cũng không nổi ! Mưa như cầm chĩnh đổ thế này
mà cô ấy ăn rở thì tôi chỉ có nước chết!
Trang trêu:
- Ơ kìa, người ta ăn rở mặc người ta, quan hệ gì đến cái sự sống với chết của
anh! Đời người đàn bà còn gì thú hơn ăn rở nữa! Phát tài là một, thêm đinh là
hai, toàn chuyện thế nhân ao ước cả! Ai ăn rở được thì cứ việc phình bụng ra mà
ăn!
Anh hậm hực:
- Ăn rở là việc riêng của cô ấy đã đành! Nhưng tôi thân tàn ma dại như thế này,
trời lại mưa to gió lớn như thế kia, cái gì có sẵn trong nhà cô không thèm rở,
lại rở cái món nước đá có chết tôi không? Từ Nội thành xách bình thủy ra tận phố
để mua mấy cục nước đá về cho cô xơi. Còn vài bận như thế này nữa chắc tôi phải
đặt sẵn quan tài trước cho vừa ý.
Anh ngừng một lúc thở dài nói tiếp:
- Nghĩ cái thân làm hầu non ông già cũng sướng thực. Cái thứ đàn bà ốm nghén ai
mà không nôn ọe. Ốm nghén thì đời nào chết ai mà đêm hôm cũng bắt đi mời thầy
thuốc. Thuốc tây, thuốc ta, thuốc nam, thuốc bắc đủ cả, một ngày cô xơi tám
mươi lăm thứ thuốc, không hiểu tại sao còn chưa trúng thuốc lăn đùng ra đấy cho
rồi. Lại còn cả ngày bà con tới thăm nầm nập, tôi chỉ một việc pha trà hầu nước
cũng đủ thở ra hơi tai rồi.
Biết anh giận, Trang cố ý trêu:
- Thì « Lão bạng sanh châu », anh không lo nhưng « đương sự » người ta lọ Tâm sự
ai nấy biết, con ai nấy thương! Chuyện anh cho là không quan trọng nhưng đối với
người khác lại rất quan trọng thì sao?
- Thôi đi, chị bênh cô ta phải không? Cái thứ ốm nghén lúc bắt đầu ai chẳng ựa
hơi lên. Chỉ có cô mới ựa hai cái đã bắt đi mời bác sĩ. Nghĩ cũng tội nghiệp
cho cái thân ông bác sĩ, nửa đêm trời mưa trời gió đang ngủ trong chăn ấm cũng
bị dựng đầu dậy để đi xem bệnh cho cộ Tưởng cô trúng phong trúng gió hay thập tử
nhất sanh thế nào, hóa ra cô chỉ . . . ựa!
Anh lảo đảo đứng dậy tựa vào tường có vẻ muốn ngả:
- Ăn vô thì dễ móc ra thì khó, tẩm bổ vừa chứ tẩm bổ cho lắm rồi thì đẻ không
ra mà khốn.
Trang nhìn anh ái ngại. Toàn thân anh như một bộ xương bọc da, nhất là đôi mắt
không còn tinh thần. Đã nhiều lần Trang khuyên anh bớt uống rượu và lo giữ gìn
sức khỏe, nhưng mỗi lần nói là một lần cãi nhau không bao giờ đi đến đâu cả. Bệnh
nghiện rượu của anh đã trầm trọng quá chỉ một phần, còn một phần anh tự đắm
mình vào những cơn say túy lúy để quên cái đau của tâm hồn.
Mồ côi từ bé, anh đến với gia đình Trang từ lúc mới lên bẩy. Anh sống nhỏ làm
con nuôi, lớn lên vẫn theo gia đình Trang đi khắp nơi, làm một người quản gia
trung thành. Anh đã từng có nhiều cơ hội để tìm việc làm hay rời khỏi gia đình
Trang, nhưng anh từ chối tất cả. Anh thích sống nơi anh đã coi như gia đình của
anh, cùng chia hưởng tất cả những vui buồn, hoạn nạn. Ba Trang cưới vợ cho anh
nhưng anh đi theo gia đình Trang mà không cho vợ đi. Chị Bê cũng thích ở nhà tiếp
tục công việc buôn bán của chị. Hai vợ chồng như Ngưu Lang, Chức Nữ hàng năm mới
có dịp gặp nhau một lần.
Có lẽ tại chỉ Bê đảm đang quá nên nghĩ đến cảnh nhàn nhã trong một đại gia đình
chị không quen và không thích sống tù túng. Chị thích buôn bán tảo tần, không cần
anh cung cấp, có khi chị còn cung cấp trở lại cho anh Bê nữa là khác. Hai người
chỉ sinh được một trai và đặt hết hy vọng vào đứa con rất thông minh ấy. Chẳng
may hồi loạn lạc con chị bị bắt trong một cuộc bố ráp trả thù của Pháp, và bị sắp
hàng bắn cùng hai chục thanh niên khác, cậu bé mới mười chín tuổi!
Từ ngày mất con anh Bê đâm ra tuyệt vọng chán đời đến cực điểm. Tự biết mình
không khỏe lắm, và đến cái tuổi không thể sanh nữa, cha già con muộn, sanh ra rồi
chẳng may mình chết đi lúc con còn bé, vứt một đứa bé mồ côi ra ngoài đời để nó
lại tiếp tục một cuộc sống, cũng có thể là giống như mình vậy, anh Bê không muốn.
Anh không còn mục đích, không hy vọng, chai rượu không rời khỏi tay anh nữa!
Không ai khuyên được anh, kể cả chị Bệ Mặc dầu chị Bê còn đau khổ hơn cả chồng.
Suốt đời chị tuy có chồng nhưng không bao giờ sống chung dưới một mái nhà, chị
chỉ có một đứa con để an ủi, đứa con chị đã săn sóc nuôi nấng từ bé cho đến khi
khôn lớn, bỗng bị cướp đi một cách oan ức.
Từ thuở còn con gái chị đã phải mỗi sáng gánh một gánh chè tươi ra chợ bán, đến
lúc lấy chồng cũng vẫn sống như thế, và suốt mấy chục năm chị vẫn nhờ gánh chè
để nuôi con khôn lớn. Cho đến bây giờ, đã thành một con người già trước tuổi,
chị vẫn còn phải gánh chè tươi ra chợ bán không thay đổi chút nào.
Cuộc sống con gái hay có chồng của chị chỉ khác ở tiếng gọi « chị Cửu » theo
cái hàm Cửu phẩm Văn giai, một chức tước hạng bét, hữu danh vô thực, Triều đình
đặt ra cho vui, của anh Bê, ngoài ra không có một kỷ niệm gì khác hơn. Và bây
giờ đời chị tàn dần trong gánh chè tươi, đời anh Bê tàn dần trong cốc rượu
Anh Bê bế con Thu lên hôn và nói tiếp:
- Tôi ở trong nhà này từ bé, mẹ coi tôi như con, mẹ có bao giờ sai tôi những việc
như ngày nay người khác sai tôi đâu! Hà, đời mẹ, tôi chưa bao giờ thấy được
hoàn toàn sung sướng cả. Tu nhân tích đức cho lắm vào để rồi kết quả như thế đấy!
Bao nhiêu công lao đổ cả xuống sông xuống biển, xây dựng khó nhọc để rồi cho
chúng hưởng!
Giọng anh trở nên mơ mộng:
- À, cũng có. Hồi ấy ba rất trẻ và rất đẹp trai, me cũng đẹp lắm, đẹp mê hồn nữa
là khác. Ba làm thêm rất nhiều việc, hoạt động rất nhiều ngành, mẹ cũng giúp đỡ
phần lớn. Tôi còn nhớ có khi các hãng bên Pháp đặt hình phong cảnh hàng nghìn tấm,
cả nhà phải làm đêm. Hình thì chụp kính chứ không phải như phim bây giờ, phải cầm
từng miếng kính chao đi chao lại trong nước lã cho sạch chất thuốc, nước lạnh
buốt cóng cả tay nhưng cả nhà cùng làm việc vui ghê!
- Rồi cái hôm ba được thăng chức . ..
- Tôi biết, hình như chỉ ăn mừng trong nhà, mỗi đứa trẻ con được một khúc bánh
mì với chả.
- Chị còn nhớ hồi ba đi Saigon về lúc nửa đêm với chiếc xe hơi đầu tiên, mua
cho các chị quà gì không?
- Sao lại không? Phần tôi được một con cóc sành làm bùng binh.
- Món đồ chơi chị nói chuyện với nó không bao giờ chán.
- Ờ mà hồi đó ba hay đi Saigon luôn.
- Cố nhiên. Ba làm thêm với hãng Pathé chuyên thu đĩa hát Cải lương. Các nghệ
sĩ, Năm Phỉ, Phùng Há, Tư Chơi, hồi ấy đều là bạn thân. Ba chuyên đặt lời ca những
bài bản lớn như Văn Thiên Tường, Trường Tương Tư v.v… để vô đĩa. Hãng trả tiền
mua nổi xe hơi là phải biết!
- Ờ, Ờ, Hồi đó nghe mãi nên tôi còn thuộc lời ca vài bài. Không ngờ ba tôi lãng
mạn, làm lời ca tình tứ du dương đến thế.
- Rồi lúc các chị lớn, Hoài làm thơ, Huệ đánh đàn, Dung kể chuyện dù láo thiên
láo địa đến đâu nghe cũng y như thực, Trang mơ mộng một mình và viết nhật ký rồi
xé đi . . . Những ngày ấy vui quá chị nhỉ! Bây giờ mỗi người một nơi . . ..
- Mẹ mong các chị được hưởng thái bình thế mà rốt cuộc bây giờ lăn ra ngoài đời,
ai cũng . . . Chuyện đời nghĩ thực là . . Hừ . . .. Biết thế ngày xưa . ..
Trang ngắt lời:
- Thôi, anh đừng nhắc lại nữa! Anh biết nhiều lắm. Anh cứ giữ lấy những sự hiểu
biết của anh làm của gia bảo để dành chết đem theo, đừng nói với tôi nữa!
Anh trở giọng lè nhè cười:
- Chị cho tôi hai mươi đồng đi nhắm rượu, tôi giữ hai em cho chị suốt chiều
nay.
Trang đưa hai mươi đồng, anh cầm lấy có vẻ bằng lòng lắm, dắt con Thu và Mỹ ra
khỏi phòng nói:
- Thu, Mỹ. Bà cho cậu tiền uống rượu, Me cho cậu tiền uống rượu. Khi nào cháu lớn
lên có tiền mà cậu còn sống thì cũng nhớ cho cậu tiền uống rượu nghe không?
Hai con bé không hiểu gì nhưng thấy được dắt đi chơi vỗ tay reo ầm lên:
- Nghe , nghe!
Còn lại một mình trong phòng Trang tê tái nghĩ đến sự đổ vỡ ghêgớm. Đại gia
đình, tiểu gia đình, tất cả đều rất kiên cố mà cũng rất mỏng manh! Trong nhà
Trang, từ cha mẹ cho đến các anh chị em, không ai có tài năng gì xuất chúng cả,
nhưng không hiểu sao mà lắm tai nạn rủi ro đến thế được. Nếu có tài còn đổ thừa
cho « chữ tai một vần » đằng này toàn là những kẻ ngây thơ vô tội cả!
Dung ở Saigon thức khuya dậy sớm tảo tần nuôi hai con dại, Huệ đang sống dở chết
dở ở hậu phương với một đàn con và đức lang quân thi sĩ nghe nói có một khối
ghen kinh khủng. Hoài gởi bé Thu cho mẹ, đang lang thang ở Pháp gắng học tìm
quên, Trang về nương náu với gia đình mà bây giờ đi cũng dở, ở cũng dở.
Mẹ già hiu quạnh nằm ôn lại dĩ vãng . . Mỗi người đều mang một vết thương nặng
không một danh y nào chữa nổi vì đó là những vết thương vô hình. Còn ba Trang,
tuy đã già vẫn còn đầy « nghệ sĩ tính », chắc cũng không hẳn hoàn toàn sung sướng,
mặc dầu hiện tại ông có vẻ dễ chịu hơn tất cả.
Sự thực ba Trang cũng rất khó xử. Đối với người vợ tao khang, người vợ ngày xưa
đã có một thời được gọi là « tuyệt sắc giai nhân », người vợ Ông đã phải tranh
đấu với tất cả trăm nghìn trở lực gia đình mới cưới được, người vợ hàng bốn
mươi năm trời chia ngọt sẻ bùi, cùng chung hoạn nạn. Dù không kể lương tâm thì
cũng cần thể diện không thể nào dứt hẳn được. Ông không dám bỏ vì sợ thiên hạ
chê cười có ảnh hưởng đến sự nghiệp và danh tiếng, chứ thực ra Ông đã chán lắm
rồi. Chán mà vẫn phải tử tế, thực khổ tâm làm sao!
Sau khi đã chia đôi lãnh thổ, đem cô Tư sang lập tiểu gia đình tại sở, thỉnh
thoảng ông lại tự cười thầm mình. Trong số Tử Vi của ông, ngày xưa có một ông
thầy chấm cho ông và diễn tả bằng thơ trong có câu « . . Đông thệ Tây minh tâm
tự Thạch » , thạch là đá mà Thạch cũng là Thạch Xuyên, biệt hiệu làm thơ của
ông. Nhiều cách giải nghĩa làm ông cứ tưởng mình tài giỏi, chắc sau này sẽ có
cơ hội đi Sứ các cường quốc, dùng ba tấc lưỡi nói dóc đem thịnh vượng lại cho
quốc gia, không ngờ ngày nay ứng nghiệm rõ ràng, chỉ sai ở chỗ ông không đại diện
cho quốc gia mà chỉ đại diện cho chính bản thân mình. Và hai giang san thu hẹp
lại là hai gia đình, cũng là « tiểu giang san » chứ sao! Từ nhà đến sở và từ sở
về nhà, cứ phải « Đông thệ Tây minh » mãi cũng oải cái thân già lắm chứ !
Đôi khi thử so sánh, một bên là bà vợ chánh thức, cùng chia ngọt sẻ bùi từ thuở
hàn vi, công lao đối với gia đình rất nặng. Một bên là cô Tư trẻ đẹp, biết nũng
nịu, biết chiều chuộng sự cần dùng của ông .. . bên nào nặng, bên nào nhẹ?
Chao ơi! Cái sứ mệnh Đông thệ Tây minh, đem thịnh vượng lại cho cả hai tiểu
giang san mới nặng làm sao! Ông cho là còn khổ hơn, khó hơn đi Sứ đại diện cho
quốc gia cả trăm lần, thảo nào mà chính Khổng Tử cũng nhận là phải tề gia rồi mới
trị quốc được!
Ông đã có ý định đối xử rất công bình, mà lúc nào cũng thấy đầu cân bên cô Tư nặng
hơn! Chứng cớ là hàng tuần ông chẳng về qua nhà thăm bà một lần, và nếu có dịp
tình cờ ghé lại một lúc, ông cảm thấy xa lạ như khách, chỉ ngồi nói vài ba câu
chuyện nắng mưa trước tách nước trà rồi ra về, về nơi cô Tư đang chờ đợi.
Lắm khi thấy bà sống quạnh hiu, thấy bà mừng rỡ cảm động ra mặt khi gặp ông, dù
chỉ năm mười phút, thấy bà buồn rầu khi ông dứng dậy, lương tâm ông hơi cắn rứt,
mà như thế thì phiền lắm, giờ phút này cái món lương tâm ông chỉ muốn gói kỹ lại
cất vào đáy rương, ném chìa khóa xuống sông Hương cho nó mất tích đi. Đến nước
này chỉ còn cách không thăm viếng là khỏi phải bận lòng !
Lắm lúc vì nể không thể từ chối lời mời khẩn khoản của bà, ông hứa sẽ trở lại
ăn cơm chiều thì lần nào cũng đều sai hẹn. Một phần vừa hứa xong ra khỏi nhà
ông quên ngay lập tức, một phần cô Tư không cho ông đi. Cô ngăn cản ông bằng đủ
mọi cách, có khi nũng nịu nói hẳn ra mặt cô không muốn ông gặp bà, có khi cùng
ra khỏi cửa cô đổi hướng đi về lối khác, cô đòi dạo mát hồ Tịnh Tâm, bến Thương
Bạc, hay đến thăm bà con của mình. Còn ông cũng như những người hùng dại gái
khác, một khi đã thành « tù binh » của phái yếu rồi, chỉ còn cách nhắm mắt phục
tùng mệnh lệnh mà thôi!
Những tiếng chuông ngân nga bỗng nổi lên trong cảnh tĩnh mịch sau một cơn mưa
gió, Mẹ Trang đã bắt đầu tụng kinh chiều. Giọng bà lúc trầm trầm lúc lên cao,
như thổn thức, như kể lể những đau thương của mình với thần linh. Trang nghĩ thầm
may mà mẹ còn có thể tìm thấy một chút an ủi, dù không thực tế, nhưng cũng giúp
bà qua được những giờ phút tối tăm nhất của cuộc đời!
Chương 8
Kẻ Cười ...Người Khóc
Một buổi chiều tàn rất chậm, nhưng cuối cùng nắng cũng tắt,
chỉ còn sót vài ánh vàng tươi trên những ngọn cây cao nhất, cả Nội thành im lìm
như chìm lặng dần dần trong hoàng hôn. Ngoài đường đã hết người qua lại, chỉ
còn vài chị bán cá tươi vừa mới mua cá ở bến, chạy đi bán dạo cất tiếng rao
lanh lảnh, vừa rao vừa chạy, nếu ai muốn mua mà không gọi lại nhanh thì có khi
vừa nghe rao xong chớp mắt đã thấy chị chạy đến cuối đường xa tít rồi.
Mẹ Trang đã quen mua cá chiều nên thấy bà đứng chờ ở cửa, chị bán cá không cần
gọi cũng đặt gánh xuống ngaỵ Bà chọn một con cá thực tươi bảo Trang:
- Đã lâu không thấy ba về, con qua sở thăm ba đi. Đem con cá này bảo cô Tư luộc
làm sốt hành dấm, ba thích món này lắm.
Không bỏ sót một cơ hội nào có thể dạy con, bà thêm:
- Làm cha mẹ muốn ở sao cũng được, nhưng con cái thì phải luôn luôn hiếu thuận
nghe không con? Ba không sang thăm con, thì con phải thăm ba, ăn ở sao phải đạo
làm con mới được!
Trang vâng lời mẹ khoác chiếc áo dài, xách giỏ cá ra cửa. Từ ngày về nhà, Trang
đã trở lại với tất cả nền nếp của gia đình cổ, với cách sống giản dị đơn sơ của
những người trong xóm nhỏ. Mỗi lúc ra đường không cần phải trang điểm cẩn thận
như lúc còn ở Hồng Kông, nàng chỉ khoác thêm chiếc áo dài, cầm cái nón lá, là
có thể ra cửa kéo lê đôi guốc từ đầu xóm đến cuối xóm, từ Nội thành ra đến chợ
Đông Ba, tất cả đều thanh cảnh hợp với cuộc sống êm dịu nhẹ nhàng của quê
hương.
Trang băng qua sở, hết giờ làm việc đã đóng cửa nên đi vòng ra sau tư thất .
Không có ai lên tiếng, cửa ngõ đóng kín . Cả nhà đều đi vắng. “Nhà” đây là ba
Trang, cô Tư, Tân, Tấn và một chị nấu cơm. Chị bếp đi chơi, anh Bê cũng không
thấy. Chắc lại ra phố uống rượu, vì phận sự của anh là liên lạc hai nhà, ngày
ngày đạp xe đem những “tin tức quan trọng” báo cáo với “nha hữu quyền”, anh
không có bên nhà mẹ, cũng không có ở đây, Trang biết chỉ có thể tìm anh trong
quán rượu.
Trang nằm lên võng ngoài hiên chờ. Nàng vừa đưa võng vừa nhìn quanh . Cỏ may
trong vườn không ai săn sóc , mọc lấn các thứ cây khác và cao lên tận đầu gối.
Mới cách đây ít lâu mỗi tháng hai lần, mẹ Trang sang chơi và mướn người làm vườn
luôn nên lúc nào cũng sạch sẽ, bây giờ bà không sang nữa, vì đã có cô Tư ở đây
săn sóc ông. Nhưng đối với cô Tư sự săn sóc chỉ thu gọn trong phạm vi trên chiếc
giường, nên ngoài ra không có một nơi nào có thể tạm gọi là ngăn nắp sạch sẽ cả.
Trang bâng khuâng nhìn cảnh vườn bao la đầy cỏ dại, nàng tưởng như mình lạc vào
một khu rừng hay một hoang đảo nào. Lẫn giữa đám lau sậy, những cây chuối tơ
xanh tươi trông rất ngon lành, nhiều cây đã bắt đầu trổ bắp. Đó là vườn chuối
sáu tháng trước đây mẹ Trang đã thuê người bứng chuối con ở vườn nhà đem đến gầy.
Bất giác Trang chợt nhớ đến cái câu rất cổ xưa: “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”.
Nhưng bây giờ lòng người không còn “thiện” như lúc “nhân chi sơ” nữa, nên có lẽ
lúc được ăn họ còn cười người trồng đã tốn công phu gây dựng mà vô phúc không
được hưởng.
Nhà láng giềng mở máy truyền thanh nghe âm nhạc buổi chiều, một điệu hát buồn
buồn tả người thương binh nhẹ nhàng ngân lên phá tan cảnh tĩnh mịch.
Trang bỗng nhiên thấy sợ cô đơn, sợ quạnh hiu, sợ cảnh chiều tàn, sợ từ bóng
cây chuối chập chờn bên vách, cho đến những viên gạch ném bừa bãi dưới chân cột
cái trang thờ Thổ thần trong vườn cỏ dại đìu hiu.
Trang vừa định ra về thì bỗng có tiếng chân lạo xạo và tiếng cười nói từ sở vọng
đến, Ba Trang và cô Tư cùng ngồi một xe xích lô, Tân và Tấn đi xe đạp theo sau.
Mọi người vào cổng đang cười nói vui vẻ chợt thấy Trang nằm lắc lư trên võng, đều
ngạc nhiên và nụ cười mãn ý sau một cuộc vui chơi tắt hẳn trên môi người lớn một
cách khó chịu. Bất giác Trang cảm thấy một nỗi tủi hờn vô căn cứ xâm lấn .
Trang nhìn mọi người dửng dưng và đáp lời chào “thưa chị” của Tân, Tấn một cách
lạnh nhạt.
Cô Tư bỗng nhiên cười khanh khách nói:
- Hi hi hi hát hay ghê! Có cái ông chi mô ngồi gần tui, cứ nói chuyện với tui
khen “ma đàm” đẹp lắm. Lại còn tưởng tui là mẹ của thằng Tân cứ khen hai đứa học
giỏi hoài!
Không thấy ai nói gì cô tiếp:
- Còn cái ông Thi ngồi một bên tui, mặt ngó đằng trước mà con mắt cứ liếc về một
bên, liếc thiếu điều muốn rớt con ngươi! Ông ta lại còn nói cụ tốt phúc nữa hi
hi hi . . . À cụ này, tờ số cụ chấm cho tui ngày đi đánh bài tốt mô rồi? Mấy bữa
ni không ai chịu đánh bài, nhớ chi mà nhớ nhớ lạ! Mấy bà bữa ni chạy tui hết rồi,
họ nói tui đánh cao quá họ đánh không lại. Mình phải kiếm thêm tay mới không
thì buồn chết! Một ngày không đánh bài là nhớ sinh bệnh!
Trang thấy tức nghẹn lên đến cổ, dù rộng lượng đến đâu người con gái bao giờ
cũng bênh mẹ khi gia đình có chuyện bất hòa. Thấy cha tìm hết cách làm vui cô
Tư bỏ mẹ hiu quạnh bơ vơ, và nhất là hôm nay, ngày trường học của Tân và Tấn
phát thưởng, bao giờ cũng mời cha mẹ học sinh. Nghĩa là mời Ông và Bà, thế mà
ông không đem mẹ lại đem cô Tư đi. Trong xã hội Việt Nam vẫn coi trọng sự chính
thức: “miếng giữa làng bằng sàng trong bếp”, ba đem cô Tư đi nghĩa là địa vị
người vợ chính thức của mẹ, ba không còn coi ra gì nữa! Từ chốn văn minh trở về
sống trong gia đình cổ, Trang thấy đầu óc mình cũng trở về với những nền nếp cổ,
Trang giận cha và thấy không thể tha thứ trường hợp hôm nay.
Ba Trang vào nhà trong thay áo, cô Tư đi theo vào thì thầm với ông một lúc những
gì không rõ, bỗng ông đùng đùng đi ra và quát lên:
- Trang, ai cho phép mi tới đây lầm lầm, làm mặt giận với cha mi hở? Mi thấy
tau không chào, thấy dì mi cũng không thèm ngó. Đồ kiêu ngạo! Mi giận ai mà nằm
vạ ra đó?
Trang vừa ngạc nhiên, vừa kinh khủng vừa ngẩn ngơ! Một làn hơi từ bụng đưa lên
và đứng dừng ngay tại cổ làm Trang nghẹn cứng hơi thở không thể nói gì được.
Không thấy nàng trả lời ông lại quát:
- Tau hỏi sao không trả lời? Đồ con đã lớn rồi mà còn ăn bám cha mẹ! Sao không
kiếm đường xéo đi đâu thì xéo cho rảnh? Đã giận sao còn ở lại ăn tốn cơm tau
làm chỉ Đồ vô phúc!
Trang vùng dậy hoảng hốt chạy ra cửa, nàng băng qua vườn cỏ may ra ngả sau để về
cho gần. Đám cỏ may xước vào quần áo, gai dại xóc vào chân làm Trang thấy đau
nhói lên từng hồi, nhưng nàng mặc cho chúng tha hồ xước, cái đau xác thịt không
nhức nhối bằng cái đau tinh thần. Trang muốn chạy trốn thực nhanh, chạy trốn tiếng
quát tháo của cha, tiếng cười the thé rùng rợn của cô Tư, nhưng không có Trang
ông không còn quát ai nữa, chỉ còn tiếng cười rú lên từng cơn đuổi theo Trang
như tiếng cười ma quái.
Trang đến góc vườn chui qua lỗ tường bị phá đổ, đó là lối tắt của mấy người
gánh nước muốn đỡ đường đất nên khi tường đổ họ phá rộng thêm đủ chui lọt người
quạ Bên ngoài tường có một cái rãnh dài dọc theo bờ tường. Trang vô ý vừa bước
ra liền té nhào xuống rãnh. Trang đứng dậy phủi áo và xuýt xoa ôm bụng ra về.
Bóng tối đã lan tràn từ lâu, đêm trong Nội thành âm thầm như một bãi tha mạ Từng
ngọn đèn đường yếu ớt và cách nhau quá xa không đủ sức chiếu sáng suốt quãng đường
dài.
Bên tường có mấy người Sĩ quan lảng vảng gần đấy, họ được phép nghỉ buổi tối và
hay thẩn thơ đi dạo mát những con đường vắng trong Nội thành để tìm “tứ thơ”,
nơi có các chị bán chè bán cháo đêm. Thấy Trang từ trong vách tường chui ra và
ngã xuống rãnh, một người có lẽ tưởng nàng là cô nương Thúy Kiều tân thời chui
rào đi tìm Kim Trọng, cất tiếng cười chế nhạo hát:
“Quần đen áo trắng cho dòn. Nghe anh huýt gió mà lòn ngả sau”.
Trang cúi đầu đi thẳng không hề dám nhìn lại. Mỗi bước chân nàng dẫm xuống đất
bụng lại đau nhói lên. Nước mắt Trang lặng lẽ chảy dài xuống má.
° ° °
Trang sinh được một gái, sau mấy hôm nàng ở sở về bị kích
thích quá độ. Đứa bé chưa đủ tháng nên rất nhỏ và yếu. Trang nằm một mình trong
nhà hộ sinh với chị Năm, người nàng mướn nuôi đẻ. Mẹ Trang về quê vắng nên chỉ
có con Thu và Mỹ, ngày ngày chị Năm dắt đến thăm.
Nhà hộ sinh Trang nằm, đỡ đẻ theo Âu Tây, nhưng săn sóc theo lối “cổ điển”.
Nghĩa là cấm rất nhiều thứ như: không được mở cửa sợ gió sau này sẽ chóng mặt,
không được ngồi dậy sợ đau bụng, không được ăn canh lỏng sợ lỏng bụng, không được
đọc sách và khóc sợ hư mắt, không được nói chuyện sợ hết hơi . . v . . v. . Những
phòng bên cạnh tấp nập vui vẻ bao nhiêu thì phòng Trang trái lại vắng lạnh âm
thầm bấy nhiêu. Suốt ngày Trang nằm nhìn trần nhà xem những con thạch sùng đuổi
bắt mối, nghĩ gần nghĩ xa . ..
Chị Năm nuôi đẻ thấy không có ai đến thăm nàng, không có quà cáp lợi lộc gì cả
nên qua nuôi thêm người phòng bên cạnh và suốt ngày đêm ở luôn bên ấy vì đông
vui, và nhất là những bà con thân thuộc đến thăm ai cũng dúi vào tay người nuôi
đẻ một ít bạc lẻ căn dặn: “Chị gắng săn sóc cho kỹ rồi tôi thưởng cho”.
Một buổi chiều Trang đang nằm nhìn con ngủ, con bé càng ngày càng xinh, nhìn nó
Trang cảm thấy có thể quên được tất cả những bất công và bực mình ở trên đời
thì bỗng nhiên cánh cửa phòng hé mở.
Bà Tám mồm cười toe toét bước vào, tay bà cầm gói chả. Bà để quà lên bàn ở đầu
giường xong bắt đầu hỏi thăm. Bà hỏi luôn một hơi hàng chục câu và không đợi
Trang trả lời, bà hỏi ngay sang câu khác. Sau cuộc thăm hỏi, bà bắt đầu báo cáo
“tin tức hàng ngày” cho Trang nghe. Trong xóm bà được đặt tên “đài phát thanh”
vì bà rất rảnh rang nên suốt ngày chỉ lê la hết nhà này sang nhà khác, nghe
ngóng những chuyện riêng tư của mọi người rồi phát thanh tùm lum vô tội vạ.
Nhiều người không thích bà nhưng vẫn tiếp bà vì tò mò muốn biết làng trên xóm
dưới đã xảy ra những chuyện gì, và trong khi ấy cũng vô tình để cho bà nhìn thấy
cái cảnh nồi cơm khê con cá ươn của mình làm món trao đổi cho bà sang mách lại
với nhà khác. Nhiều người thích bà vì những tin bà kể phần nhiều đều là những
tin “mật”, ít người được biết đến, hay chỉ biết sau khi được bà “phổ biến” ra,
dù đôi khi tin thất thiệt hay chỉ là một con vịt to tướng nhưng người ta vẫn cứ
thích, vì ít nhất cũng được hưởng vài giây phút hồi hộp, vui mừng, hay tội nghiệp,
hay đáng kiếp cho những nhân vật “đương sự”.
Bà xích lại gần Trang nói có vẻ rất bí mật:
- Chị ạ, nhà sáng nay suýt cháy đấy!
- Tại sao thế hở bà? Có việc gì không?
- Còn tại làm sao nữa! Hầu yêu của ông Cụ nằm trên giường hút thuốc. Hút xong
đi nơi khác để rơi tàn xuống mùng mà không biết. Lửa ngún dần rồi bốc to cháy
bén cả mùng, bắt lên mái hiên tranh ở nhà sau bấy giờ mới biết.
Trang lắng nghe như ngừng thở.
- May mà cứu kịp không thì mẹ con chị Ở nhà thương ra sẽ vào thẳng nhà Tế bần.
Trang thở dài một cái rất nhẹ nhàng:
- Ba tôi chắc rầy lắm!
Bà Tám bĩu môi:
- Chẳng sao cả. Ông cụ còn dỗ cô ấy, bảo đừng sợ hãi mà có hại cho cái thai!
Trang gượng cười nói:
- Vâng, đúng thế, sợ hãi có hại cho thai lắm!
Món sở trường nhất của bà Tám là gợi tâm sự của người khác. Chuyện gì đau lòng
mà người ta muốn dấu, bà càng kiếm cách gợi ra cho bằng được. Bà giương đông
khích tây, hỏi thẳng không xong thì nói khích, nói cạnh nói khóe. Ít ai chịu nổi
cách căn vặn rất có nghệ thuật của bà. Trang đã từng nghe danh nên ngay từ lúc
thấy bà đến, nàng đã tự dặn mình phải cẩn thận đừng để hở miếng.
Bà đến cạnh bàn dở lồng bàn đậy thức ăn hỏi:
- Không có gì ăn cả sao? Ối chào, việc gì mà kiêng với cữ. Thích ăn , ăn được
ngon miệng thì cứ việc ăn mới có sữa cho con bú chứ!
Bà nhìn quanh quẩn:
- Buồn quá nhỉ! Không có ai đến thăm cả!
Trang dù đã giữ gìn thế trận, biết bà đang “tấn công” vào mặt tình cảm của
mình, nàng phải cố nén để khỏi tủi thân, cố cho hai giọt nước mắt chảy ngược
vào trong, Trang chớp chớp mắt giả vờ chùi bụi trả lời:
- Ấy các cháu đến thăm vừa mới đi chơi. Mẹ cháu về quê xa xôi quá, vả lại cháu
sinh nở cũng được bình yên nên không mời mẹ cháu ra sợ mệt. Để mẹ cháu dưỡng ít
lâu!
- Thế còn ba?
- Ba cháu bận, với lại đàn ông ai lại đến nhà hộ sinh không tiện tí nào!
Bà cười mũi:
- Hừ, thế còn những người kiả Họ cũng đến nhà hộ sinh thăm vợ thăm con thì họ
là cái giống gì đấy? Bộ họ không có chức phận không danh giá chắc! Thôi đi, còn
làm bộ mãi! Đợi lúc cô Tư đẻ xem, lại không ăn dầm ở dề trong nhà hộ sinh . ..
Trang không còn biết chống đỡ ra sao, sự thực mấy hôm nay nàng đã thầm ao ước
được cha vào thăm, người cha xưa nay nàng vẫn yêu mến và kính phục không biết
chừng nào. Đã bao nhiêu ngày, buổi sáng nàng hy vọng chiều cha sẽ đến, chiều
nàng hy vọng sáng mai, cho đến hôm nay nàng vẫn còn hy vọng. . ..
Thấy Trang không trả lời bà Tám tiếp:
- Tôi còn nhớ hồi cô Ba mới sinh thằng Tân, ông cụ còn làm Tỉnh trưởng, ông muốn
đi thăm nhưng sợ không tiện bèn rủ ông Công Sứ chánh thức đi “thăm viếng” nhà
thương. Thành ra thằng bé được hai cụ đầu tỉnh đến thăm ngay sau hôm mới ra đời!
- Bà nhớ lâu nhỉ! Chuyện như chuyện cổ tích!
- Tự vị sống mà lị! Quên thế nào được. Không ai đến thăm nữa sao?
- Cháu chẳng cần ai thăm cả!
- Không cần cũng phải thăm chứ! Chị xem tôi với chị có bà con dòng họ gì đâu mà
tôi cũng thăm đây này! Phải biết rằng đàn bà lúc sinh nở hay buồn hay tủi hay
nghĩ vẩn nghĩ vơ lắm. Mình đến thăm có chút quà lấy thảo cho nó ấm cúng và tỏ
lòng thân ái chứ thực ra có phải ai cần gì ai!
Bà ngừng một lúc lấy hơi rồi lại tiếp:
- Có ai cho gì không?
Trang ngạc nhiên?
- Cho gì cợ Sao lại phải cho?
- Ơ kìa, chị này lạ, không biết tục lệ của quê hương thực, hay là giả dại qua ải
đó? Chồng này, cha này, mẹ này, anh chị em, bà con, thân thích, bạn bè, hàng
xóm láng giềng, ai muốn cho gì thì cho để lấy may, để cho người đàn bà thấy rằng
mình được mọi người yêu thương săn sóc, quà tặng đâu phải quí ở chỗ đắt tiền!
Bà còn định nói nữa nhưng thấy Tân ở ngoài đi vào nên ngừng lại tò mò nhìn thằng
bé lắng tai nghe xem có tin tức gì mới lạ không.
Tân chào bà Tám xong đến gần Trang thì thầm vào tai:
- Em có xin ba cho chị một chai rượu con Mèo để chị uống cho bổ và ăn cơm ngon
miệng có sữa cho em bú, nhưng mà . ..
- Nhưng mà sao?
- Dì nói mắc lắm, thôi đi, uống nước lá hái trong vườn cũng đủ tiêu cơm rồi.
Còn đây là chai rượu bia của chị Tú gởi cho chị. Em vừa đi phố về nhân tiện chị
ấy nhờ em mang vào hộ.
Trang bảo em:
- Ừ, thôi chị hiểu rồi. Cám ơn em nhé.
Trang nhìn bà Tám không biết bà có nghe thấy gì không. Mặt bà đầy vẻ thỏa mãn
bà đứng dậy.
- Thôi chào chị. gắng tĩnh dưỡng nhé. Tôi còn phải đi thăm mấy người khác, vài
hôm nữa có thì giờ sẽ lại ngồi lâu.
- Cảm ơn bà đã lại thăm cháu!
- Ơn với ngãi gì, bổn phận mà!
Tân và bà Tám đều đã ra về. Trang nằm yên lặng nhìn chai bia, nhìn gói chả lại
nghĩ đến bà Tám. Trang tưởng tượng tối hôm nay tất cả Nội thành đều được biết một
bản « tin giờ chót » rất lâm ly: Trang đẻ, nằm một mình không hề có một ai thắm
viếng, nàng buồn tủi sinh bệnh và không có sữa cho con bú, Thằng em xin một
chai rượu Con Mèo nhưng cô Tư cản cha nàng không cho . . . Trang thế này, Trang
thế kia . ..
Và bà Tám sẽ không quên nêm mắm muối vào câu chuyện cho có đầu có đuôi, để thêm
phần lâm ly áo não! Có lẽ nghe bà nói người ta sẽ tưởng tượng Trang đang nằm
thoi thóp hấp hối trên giường bệnh, con bé thiếu tháng lại thiếu sữa nên rất yếu,
chỉ còn da bọc lấy xương . ..
Người giầu tưởng tượng hơn chắc sẽ tiên đoán ngày mai Trang sẽ được khâm liệm
nhập quan vì gặp ngày tốt. Họ nhất định sẽ đến quệt một ít nước mắt nước mũi
lên tay áo để tỏ lòng thương tiếc đối với kẻ xóm giềng. HoÏ sẽ vái lạy trước
linh sàng Trang, cầu nguyện Trang sống đã không khôn thì chết gắng cho thiêng,
phù hộ họ . . . Ôi chao! Nhiều lắm nhiều lắm. Nếu có người mau mắn và khéo tính
toán, giỏi « kinh tế » chắc sẽ chạy đi mua sẵn vàng hương kẻo sợ mai .. . lên
giá . ..
Nghĩ đến đây Trang mỉm cười nghĩ thầm:
- Nhưng mà sự thực mình vẫn chưa chết! Hừ tưởng dễ!
Và nàng ngồi dậy bóc chả, rót rượu bia ăn uống ngon lành như một người yêu đời
nhất đời .
Chương 9
Mưu Sự ...Thành Sự
« Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên », câu này trong hoàn cảnh
của ba Trang sao mà đúng thế? Và cũng đáng ghét thế!
Giấc mộng của ông đang xây với cô Tư chưa được bao lâu thì bừng tỉnh. Cái thân
hình béo tốt của ông sau mấy tháng mật nguyệt tại ngôi nhà ở sở, đã thay đổi
khác hẳn. Bắt đầu là những cơn sốt sơ sơ, sốt cách nhật, tiếp đến vài cơn rét,
thỉnh thoảng lại sốt, xong lại rét. Bác sĩ đến thăm cầm chừng và tiêm những thứ
thuốc sốt thuốc rét phổ thông.
Một hôm sau một đêm ngủ chập chờn không yên giấc, ông thức dậy và thấy một ống
chân không thể nhấc lên được, đầu gối hơi sưng, nặng nề tê liệt hẳn đi. Dù chứng
bệnh chưa biết rõ, nhưng không thể nào ngồi dậy được, ông bắt buộc phải xin nghỉ
việc. Từ giã tổ uyên ương ấm cúng ở sở, ông đem cô Tư về nhà bà vợ cả, cái mái
nhà mà ông đã ruồng rẫy, lãnh đạm, và lúc cùng cô Tư ra đi xây tổ uyên ương tưởng
chừng như thề không bao giờ thèm trở về nữa.
Nằm trên giường bệnh ông cứ tưởng là mình vẫn còn có thế bay nhảy được như ai,
ông an ủi cô Tư hãy chịu khó, hãy nhẫn nại một thời gian, hãy tin số Tử vi rất
tốt của ông, tương lai nhất định sẽ còn nhiều hứa hẹn.
Mẹ Trang nhường gian nhà giữa cho Ba, bà dọn lên dãy nhà ngang, nơi thờ phụng tổ
tiên và bàn thờ Phật, còn Trang lui xuống dãy nhà gần sau bếp.
Ba Trang ban đầu rất buồn phiền nhưng vẫn còn hy vọng, dần dần ông đâm nghi ngờ
chứng bệnh của mình không dễ lành như ông tưởng. Mỗi ngày tất cả mọi người
trong nhà đều lần lượt vào phòng bệnh thăm ông, và bây giờ ông chỉ còn độc một
niềm sung sướng khi nghe nói « có khá hơn nhiều ». Lắm lúc nghe mãi phát chán
vì tự xét mình thấy thực tình không « khá » tí nào, ông hỏi vặn Trang:
- Khá như thế nào?
- Dạ, da mặt ba hồng hào hơn, ba ngủ có trở mình được, mắt bớt quầng thâm, sáng
nay cũng không còn thấy sốt . ..
Ông lắng nghe và thấy có lý, quả thực ông có ngủ yên không rên rỉ nữa, nhưng đấy
chỉ là những cơn mê không còn tri giác.
Ba Trang trong lúc này rất cần an ủi, rất cần sự ủng hộ tinh thần của người
khác vì tinh thần ông đã tự thấy lung lay lắm rồi. Ông đọc những sách thuốc nói
về chứng bệnh đau xương chân cố tìm một vài tia hy vọng, nhiều khi những tia hy
vọng ông tự tạo ra, hay ông biết người khác đã bịa ra giúp ông nhưng ông vẫn cứ
tin, tin để tự lừa mình, lừa cô Tư, để cố giữ lòng yêu và trung thành của cô Tư
được thêm ngày nào hay ngày ấy, để đủ sức chống cự với cơn bệnh càng ngày càng
hành hạ đau đớn hơn.
Trang và hai con ở gian nhà sau yên lặng như một cái bóng. Trong đầu nàng có cả
trăm nghìn ý định nhưng không thể thực hành được tí nào. Trang định đi làm thì
con còn dại quá và nàng còn yếu chưa thể dậy ngay được, Trang định đi Saigon
nhưng trong lúc cha đau nặng như thế, dù ở lại không ích gì cũng không thể rời
được.
Mỗi tuần lễ Bình viết cho Trang hai, ba bức thư dài. Anh kể sinh hoạt của anh,
sự mong nhớ, cô đơn và yêu cầu nàng chóng trở về. Bình hứa sẽ đổi tánh nết, sẽ
nghe lời nàng tất cả, sẽ về thăm mẹ luôn luôn, sẽ ăn rau, cá, ăn cả tỏi nếu
Trang muốn, sẽ chịu khó học thêm, sẽ bớt ích kỷ, bớt gắt gỏng, sẽ đối xử dịu
dàng với nàng . . . có gì có thể hứa được anh hứa tất cả. Trang đọc thư rất cảm
động nhưng nàng cũng hiểu rằng, lúc viết thư ít nhiều người nào cũng có hứng
làm văn, nhất là lúc cần nàng như Bình, nhưng viết xong người ta lắm khi quên
không biết mình đã viết gì nữa, ai nghe bùi tai mà tin tưởng thì cứ tha hồ vào
tròng.
Nghĩ kỹ Trang thấy mình quí mến Bình nhiều hơn yêu, và trong tất cả những ngày
sống chung nàng chưa từng ghen tương hay làm ầm ỹ với Bình bao giờ. Trang còn
nhớ một hôm bà Ba nói với nàng:
- Cô ngu lắm, đàn ông họ chỉ sợ đàn bà lắm lời. Họ sợ cãi nhau to tiếng hàng
xóm láng giềng sẽ nghe biết tất cả những cái « lịch sự » của họ, vì thế nên họ
nhường đàn bà, chứ có phải quân tử , nhã nhặn, tốt đẹp gì đâu! Chỉ vì cái bộ mặt,
cái danh giá rởm! Cô cứ quát lên vài lần như bà nhà số bẩy là yên hết. Cô hiền
lành lắm, chiều chuộng mãi Bụt cũng đâm hư, đàn ông được đằng chân lân đằng đầu.
Cô để nó bắt nạt quen rồi nó không thấy có một người vợ hiền là hạnh phúc nữa,
nó không biết quí nữa!
Trang cho bà nói cũng có đúng một phần nào tâm lý của đàn ông, nhưng dù sao
nàng cũng không thể làm như bà số bảy được. Trang lành đến nỗi một hôm Bình bảo
rằng anh đi đánh mã chược với các bạn, lúc về thấy ngực áo anh có một vết son rất
thấp, Trang biết là anh đi nhẩy nhưng chỉ hỏi:
- Con bé ấy lùn lắm phải không?
Bình ngẩn người ra không hiểu tại sao Trang biết, nhưng cũng thản nhiên trả lời:
- Ừ, nó lùn lắm.
Bình thấy Trang không nói gì thêm, anh bỗng tức giận vì như thế có vẻ xúc phạm
đến lòng tự ái của người đàn ông quá. Ai lại chồng nói dối đi chơi về với một vết
son mà vợ chẳng cằn nhằn gì cả thì còn ra thể thống gì nữa! Anh hỏi Trang:
- Em biết anh đi nhảy một mình, không đưa em đi tại sao em không gây?
Trang mỉm cười:
- Tại em sợ . ..
- Em mà cũng biết sợ? Sợ anh? Vô lý! Em là con người cứng đầu cứng cổ nhất nhà,
muốn gì cũng làm được, khó đến thế nào cũng bất chấp, em mà sợ anh thì lạ thực,
có lẽ anh phải ăn khao ..
Trang ngắt lời:
- Không phải, em sợ gây với anh thì . . thì . . hân hạnh cho anh quá!
Câu chuyện với người khác có thể làm ra to, với Trang chỉ có thế thôi, nàng
không bao giờ cần có « hạ hồi phân giải ». Trang không đủ hơi sức để gây, không
ghen, không yêu, không biết vì sao hay vì tất cả, Trang không bao giờ có thể bù
lu bù loa lên như lời bà Ba đã xui khôn xui dại nàng.
Trang biết chắc, nếu làm bạn thì Bình có thể là một người bạn rất tốt. Trang sẽ
chỉ nhìn thấy những điểm dễ thương của Bình. Người nào mà chẳng có điểm dễ
thương, không nhiều thì ít. Còn về phương diện khác, ai cũng có ý thích riêng của
mình, có cách đối xử với gia đình, với người, với việc, có nhân sinh quan
riêng, có cách xây dựng tương lai, có lối sống khác nhau. Nếu chỉ là bạn, Trang
sẽ không cần để ý và can thiệp đến, người ta không đòi hỏi nhau như khi thành vợ
chồng.
Thấy Trang ở nhà quá tù túng, có lần mẹ Trang khuyên:
- Dù sao một ngày cũng là nghĩa. Thiên hạ người ta trông vào lắm con ạ! Mấy chị
em con đứa nào tình duyên cũng trắc trở mẹ đã buồn lắm rồi! Mẹ chỉ ao ước con
được một vợ một chồng ..
Trang hỏi lại:
- Để làm gì hở me?
- Kìa, để cho người ta khen chứ để làm gì?
- Nhưng « người ta » là ai mới được chứ?
- Thì bà con, bạn bè, xóm giềng ..
Trang cười nhạt:
- Thế họ khen thì mình được gì? Có đem lại hạnh phúc cho mình không?
- Đời đã mấy ai được hạnh phúc, miễn được tiếng khen là đủ rồi. Người ta ai chẳng
muốn được khen!
Trang ngần ngại:
- Con cũng muốn được khen nhưng con không muốn lụy vì tiếng khen. Con không cần
lời khen của những người ấy. Giá đắt lắm không đáng phải hy sinh.
- Con bi quan quá, ở đời có người tốt có người xấu chứ!
- Nếu vậy thì con chỉ mới được hân hạnh trông thấy những người tốt bên ngoài
thôi.
- Thôi me hiểu rồi, từ nay mẹ sẽ không lạc lòng nữa.
- Mẹ hiểu rồi thì chỉ còn hai bộ quần áo nâu!
Mẹ Trang buồn rầu:
Thôi con muốn nói sao cũng được! Mẹ đã lầm nhiều quá rồi! Mẹ không còn đủ sáng
suốt để khuyên bảo ai nữa! Mẹ cũng biết các con gian nan là lỗi tại mẹ cả. Lúc
xưa các con đứa nào cũng thông minh xuất sắc, nhưng mẹ cứ tin rằng con gái càng
tài hoa đời sẽ càng nhiều khổ lụy. Mẹ dìm các con xuống để mong các con yên hưởng
thái bình , cứ tưởng lấy chồng rồi sẽ có cuộc sống an nhàn ! Bây giờ thấy các
con ra đời vất vả mẹ hối hận thì đã muộn rồi!
Ngừng lại một lát bà tiếp:
- Mẹ cũng biết chỉ vì cái khí khái hão của mẹ mà các con thiệt thòi quá nhiều.
Xưa nay me chỉ giữ việc chi tiêu trong gia đình . Gia tài sự sản của ba, mẹ
không nhúng tay vào, không giữ sổ sách gì của ba hết, thành ra ba muốn cho ai
thì cho, làm gì thì làm. Mẹ có thương các con đến đâu cũng đành chảy nước mắt
nhìn xuống mà thôi!
Thấy mẹ buồn, Trang rất cảm động và cũng hối hận đã khêu gợi lại vết thương làm
mẹ đau lòng !
Giữa Trang và mẹ, hai thế hệ liền nhau mà xa cách nhau quá chừng! Mỗi người như
lặn hụp chới với trong một thế giới riêng mà sợi giây liên lạc chỉ là chút tình
cốt nhục .
Chương 10
Cái Thang
Đã ba hôm trời mưa tầm tã, Trang không còn thấy thích thú vì
cái giếng nước trong vườn đã gần đầy lên đến miệng nữa. Trời xám xịt và đất thì
mòng mọng những nước. Cả nhà cứ nhắc mãi trận lụt năm trước: « Nước vào trong
nhà đến năm tấc và làm hư bao nhiêu là đồ đạc! ».
Tân mách chị:
Chị ạ, hai đứa em không phải đi học. Cả ngày chỉ ngồi trên giường cao xếp thuyền
giấy thả chơi vui ghê! Được nghỉ học những năm ngày.
Mẹ Trang phàn nàn:
- Lúc nước bắt đầu rút là phải quét liền, không thì bùn đọng lại khó rửa sạch
được. Năm ấy có ai ngờ là nước lại vào đến nhà. Mẹ đang ngủ đến nửa đêm thức dậy
thấy guốc dép nổi lềnh bềnh trong phòng cả rồi!
Mấy hôm nay tuy chưa hẳn là lụt to nhưng chợ không họp nữa nên trong bữa cơm
không có thịt cá rau tươi, chỉ có cá khô, mắm, muối sả, cá hộp kho lại. Trang bực
mình vì phải là tã cho con. Mà con bé Li Li cứ lúc nào trời mưa là tã ướt gấp
đôi những ngày nắng ráo, thế mới khổ mẹ nó.
Đến sáu giờ tối nước mưa xuống không chảy đi đâu được nữa. Tất cả các cống rãnh
thông nước đều tràn đầy lênh láng khắp vườn. Chảy không kịp, nước đọng lại
trong sân. Một lúc sau nước trong sân cũng không phải chỉ là nước mưa vì tất cả
các ao hồ lân cận cũng lên cao tràn thêm vào. Nước lên dần dần từng bậc thềm,
rong rêu ở các hồ nổi trên mặt nước lùa vào từng đám. Trang bắt đầu thấy lo ngại,
chạy hết chỗ này đến chỗ kia khắp các thềm nhà để xem chừng mực nước. Mưa vẫn tầm
tã không ngớt, trời ảm đạm mờ mịt không cho ai một tia hy vọng gì.
Mẹ Trang bảo:
- Làm gì mà cuống cuồng lên thế? Thì cũng như năm trước, hay quá lắm là gấp đôi
chứ gì, đã chết ai!
MẹTrang có vẻ bình tĩnh lắm, bà giục mọi người đi ngủ, bà cũng ôm bé Thu, ru hời
ru hỡi như mọi đêm.
Trang đang ngủ bỗng giật mình thức dậy lúc 12 giờ khuya, nàng tưởng như mình
đang ngủ đò, chung quanh giường nước mênh mông và sóng vỗ chợp chờn. Trong tiếng
mưa đổ rào rào dữ dội xuống mái ngói, từ xa vẳng lại những tiếng kêu cứu, kêu
đò, tiếng gọi nhau đủ các thứ tiếng không phân biệt được. Trang chỉ biết tất cả
các thanh âm ấy hòa lẫn thành một tiếng kêu thảm thiết lẫn trong tiếng mõ đổ hồi
liên thanh.
Trang hoảng hốt đánh thức Lạc, người ở gái, dậy cùng nàng khênh một chiếc chõng
tre đặt lên giường, bế hai con nằm xuống. Xong nàng đến phòng bên cạnh gọi em
Tân và Tấn. Hai đứa bé nằm cong queo ngủ ngon lành, không biết tấm phản chúng
đang nằm sắp sửa nổi lên mặt nước.
Mẹ Trang cũng đã thức dậy, bà xếp dọn một ít đồ đạc và nói rất bình tĩnh:
- Không sao đâu con ạ, nhà mình ở cao nhất xóm. Nếu vùng này mà ngập thì quanh
đây còn ai sống nữa!
Đồ đạc trong tủ bà chỉ dọn từng dưới lên từng trên.
Ở nhà giữa, anh Bê đang cẩn thận xếp những chồng sách của ba Trang lên mặt bàn:
Ba Trang chỉ huy mọi việc, giọng ông vẫn còn mạnh bạo:
- Sách từng thấp trong tủ lớn tạm cho lên trên bàn. Đồ đạc trong tủ đổi lên từng
cao nhất. Sách tủ thấp phải dọn lên tủ cao, sách mà ướt là không còn giá trị gì
nữa!
Cô Tư cũng đã thức dậy, cô ngồi trên giường ông, co cả hai chân lên giường, mồm
ngậm điếu thuốc Cẩm Lệ to tướng. Cô không dám nhúng chân xuống nước, vì nghe
người ta nói đang có chửa, lội nước bạc, tức là nước lụt sẽ hư thai.
Thấy Trang lăng xăng lội lên lội xuống khắp nhà mẹ Trang gắt:
- Trời ơi, con có chịu ngồi yên một chỗ cho mẹ nhờ không? Đẻ mới dậy chưa đủ
trăm ngày mà đã dám lội nước bạc. Bộ muốn chết bỏ con lại đó cho mẹ nuôi sao?
Me nuôi một mình con Thu đã mệt gần ngất ngư, chỉ còn da bọc xương, con muốn giết
mẹ cho mau chết nữa à!
Mực nước vẫn cao vùn vụt, trong tiếng mưa,tiếng mõ dồn dập đổ hồi, muôn ngàn tiếng
kêu thảm thiết làm Trang càng bối rối hoảng hốt thêm. Nhìn cái nhà năm gian rộng
mênh mông và đầy những đồ đạc quí giá đối với riêng mỗi người, Trang không biết
nên bỏ thức gì, cứu thức gì. Trang cũng sợ lội nước lỡ ốm chết bỏ con, nhưng
nhà còn ai nữa đâu!
Một người cha già ốm liệt giường liệt chiếu, một cô hầu non chỉ biết õng ẹo làm
vui lúc bình yên nhưng không thể nhờ cậy được lúc tai nạn, và giờ phút này cô
chỉ sợ hư thai, không dám nhúng chân xuống nước, Bé Thu và bé Mỹ còn phải đút
cơm, bé Lili mới sinh chưa được trăm ngày, hai đứa em trai mồ côi mẹ mới 7,8 tuổi.,
tuổi chỉ biết ăn và chơi, không giúp ích gì được.
Tất cả được đặt ngồi trên giường cao vì mực nước đã lên quá đầu chúng nó rồi.
Chỉ còn anh Bê một con sâu rượu và cũng là một cây bệnh ngày thường, nhưng lúc
này anh còn cố gượng đứng vững để sắp tủ sách vì anh biết Ba rất quí sách . Mẹ
Trang chỉ băn khoăn về mấy cái bàn thờ và những bộ Kinh Phật, bà không biết nên
dọn gì, cuối cùng bà thắp mỗi bàn thờ một nén nhang. Hai người ở gái, một đã phải
ngồi trông trẻ con sợ nó trở mình ngã xuống nước, chỉ còn một lo dọn gạo củi,
nước.
Trang đang giúp anh Bê khuân dọn sách, bỗng nghe cô Tư cười the thé nói:
- Hê hê hê, anh Bê ơi, còn cái tủ đồ tây của cụ nữa, vô dọn mau lên!
Anh Bê bực mình gắt:
- Thế cô ngồi đấy làm gì mà không giúp xếp dọn một chút cho dãn gân cốt. Tôi có
phải là Phật bà Quan Âm đâu mà có những ba mươi sáu cánh tay.
Cô Tư ngồi yên không cử động. Chốc chốc cô lại gọi:
- Anh Bê, đem thêm vài miếng gạch vô đây chêm chân giường, nước sắp ngập cụ rồi,
hê hê hê, lụt chi lạ!
Cô vẫn ngồi co chân trên giường không dám nhúng xuống nước. Đồ đạc riêng của cô
chỉ có mấy cái vali, cô đã cẩn thận gác lên xà nhà từ ban tối. Gói thuốc lá Cẩm
Lệ cô cũng đã cẩn thận bỏ trong túi, bây giờ phận sự của cô chỉ còn lo giữ cái
thai.
Mẹ Trang đang dọn đồ đạc trên nhà thờ Phật cũng chốc chốc gọi với:
- Con ơi, bàn thờ Phật sắp đổ!
- Bê ơi, tủ áo gấm của cụ …
- Bê ơi . ..
Ba Trang nằm yên mãi cũng sốt ruột lên tiếng:
- Bê ơi, sách quí mà bị ướt rồi là không còn giá trị gì nữa!
- Chị Ơi, em đói khóc đây này!
- Chị Ơi, giường em sắp ngập đến nơi!
- Chị Ơi . . Bê ơi . ..
Anh Bê và Trang hết chạy lên lại chạy xuống, hết chạy xuống lại chạy lên, người
đã mệt mỏi nghe thế càng bối rối thêm. Riêng Trang nghe tiếng con khóc như xé
ruột. Nàng tìm được một cái bàn cao, khênh lên phản và bế bọn trẻ con đặt nằm
ngồi ngỗn ngang. Phản có ba tấm ván, hai tấm trong và ngoài có chân bàn đè nặng
nên đứng yên, còn tấm giữa không có gì chận, nổi lên mặt nước rồi bắt đầu từ từ
đi du lịch khắp phòng.
Mực nước bây giờ lên vùn vụt chứ không còn lên chậm rãi như trước nữa. Trang thấy
nước mắt mình đọng đầy trên mi, nàng nghẹn ngào chỉ muốn khóc oà lên . ..
- Anh Bê khiêng hộ cái va li với tôi một tay.
Rồi nàng phàn nàn một mình:
- Ai mất hết đồ đạc cũng còn lại cái xác nhà, còn tôi tất cả « giang sơn » chỉ ở
trong vali này, trôi hết thì mẹ con chẳng còn một manh!
Bỗng tiếng cô Tư thét lên:
- Trời ơi, giường cụ hỏng chân rồi!
Cả nhà nghe thế hoảng hốt vội nhấc một chiếc bàn cao đặt ba Trang lên, và cùng
phụ lực khênh chiếc bàn lên giường. Cái chân sưng của ông bị động làm ông đau đớn
khổ sở lịm đi.
Mẹ Trang đứng hẳn lên lò sưởi để chuyền sách lên nóc tủ với anh Bệ Mấy tấm ván
đầy sách giữa nhà bị nước đội hỏng chân, cả tấm ván nổi lềnh bềnh trên mặt nước,
xê dịch một lúc rồi chìm dần xuống đáy. Nước bây giờ càng lên càng nhanh, đi từ
đầu phòng đến cuối phòng, lúc trở lại mực nước đã khác hẳn.
Anh Bê vò đầu bứt tai:
- Thôi hỏng rồi, mở cửa ra sân kêu cứu đi thôi!
Nhưng dù có đánh trống đánh mõ cũng vô ích. Ai cũng biết giờ phút này tất cả mọi
người đều lo lấy thân mình chưa xong, mong gì ai giúp được ai! Nếu cả gia đình
Trang có tận lực la hét thì cũng chỉ góp thêm vài tiếng vang thê thảm lẫn vào
muôn ngàn tiếng kêu cứu khác vẳng lại từ bốn phía.
Trời tối đen, mưa vẫn tầm tã, điện bỗng nhiên tắt làm cho mọi người lại càng khủng
khiếp thêm trong lúc nguy hiểm. Cõi sống và cõi chết bỗng giáp gần nhau đến nỗi
người ta cảm thấy không còn biên giới nữa!
Thấy con mèo mướp lội vùn vụt dưới nước kêu gào một cách rùng rợn, Trang bắt để
nó lên bàn. Trang tưởng nó tìm chỗ lánh nạn, nhưng nó không chịu ngồi yên. Nó
vùng vẫy cào vào tay Trang rồi lại nhảy xuống nước lội xuôi lội ngược kêu gào
như phát điên, thì ra nó đi tìm đàn con. Trang rất ngạc nhiên vì con mèo này
xưa nay vẫn có tiếng sợ nước, thì ra tình yêu con đã làm cho dù một con vật,
cũng có những hành động suốt đời chưa từng biết.
Ba giờ sáng, rồi bốn giờ sáng, nước đã lên đến cổ. Mỗi một giây phút trôi qua
người ta đều hy vọng đó là cái giây phút nước đứng rồi rút lui. Nhưng không thể
được, khi trời cứ mưa tầm tã như thế này. Có lúc Trang đã tưởng là nước như
không bao giờ có thể đứng lại, và tất cả mọi người chỉ còn cầu nguyện trước giờ
chết mà thôi.
Mẹ Trang đang sắp mấy cuốn Kinh Phật trên bàn bỗng kêu thét lên. Cái bàn thờ Phật
của bà đổ nhào xuống nước. Tượng Phật và kinh kệ nổi lềnh bềnh. Bà cố chạy theo
vớt lại được vài tập giấy ướt nhàu.
Trong lúc hoang mang đến cùng cực gần như tuyệt vọng, Trang bỗng chợt nhìn lên
bốn phía. Cái lỗ vuông nhỏ cỡ vừa một người chui lọt trên trần nhà để người thợ
điện trèo lúc xem xét giây điện, làm Trang nảy ra một ý nghĩ:
- Cái thang, phải đi tìm cái thang nhanh lên!
Gia đình ông bà Túy hàng xóm đập cửa ở nhà ngang bồng bế nhau lếch thếch lội
sang vì nhà ông thấp hơn nên nước đã lên quá đầu. Trong lúc họ xem nhà Trang là
nơi cứu mệnh thì gia đình Trang cũng xem ông Túy như cứu tinh. Ông để thằng con
trai bé và bà vợ chửa gần ngày ngồi yên trên một chiếc bàn cao ngất ngưởng xong
cùng Trang bàn cách leo lên trần nhà. Bây giờ ông Túy là người khỏe mạnh độc nhất
mà tất cả mọi người đặt hy vọng vào.
Ôâng Túy trèo lên trần nhà trước xem những tấm ván trần mỏng manh xưa nay chỉ
dùng để làm đẹp cho cái nhà có đủ sức chịu đựng không. Ông gật đầu ra hiệu và
Trang bắt chước ông, một chân đạp lên cánh cửa lớn, hai tay nàng giơ lên bám được
trần nhà. Mọi người không ai dám bắt chước. Tân và Tấn đứng trên bàn chuyền lên
cho nàng một ít chăn chiếu khô để sửa soạn chỗ nằm cho bạ Ông Túy trở xuống mở
cửa lội ra sân đi tìm cái thang.
Cái thang nằm nổi trên mặt nước tận ngoài góc vườn nhưng may chưa trôi mất. Cái
thang đã cũ vẫn thường dựng cạnh gốc cây trầu không một ai để ý, bây giờ được mọi
người thiết tha cầu khẩn đến.
Một lúc sau ông Túy đem được thang vào nhà, mọi người trở dài mừng rỡ cảm thấy
con đường sống chưa mất. Ông Túy cẩn thận đặt cái thang cạnh tường, ông đứng dưới
bế từng đứa bé chuyền lên, Trang ở trên đỡ lấy đặt xuống ván. Năm đứa trẻ đã
lên hết nhưng mẹ Trang khôngchịu lên, cô Tư vẫn ngồi co chân không chịu cử động,
còn ba Trang thì cố nhiên không thể nào ngồi dậy được.
Ông Túy trèo lên trần nhà cáu kỉnh bảo Trang:
- Chị làm thế nào thì làm, tôi đã năn nỉ hết sức mà ông cụ không chịu lên, bảo
chân đau không nhúc nhích được. Cả cái cô kia cũng vậy, không chịu “dời gót ngọc”.
Bộ muốn “bất cầu đồng sanh, cầu đồng tử” chắc! Còn bà cụ thì ông cụ không lên
nên bà cũng không chịu lên. Nước đã ngập đến cổ mà mỗi người còn ôm một cục chướng
như thế thì chỉ có ngồi mà đợi chết!
Tiếng mẹ Trang than thở:
- Suốt đời tôi cặm cụi khổ sở mấy chục năm trời mới gây dựng được cái cơ nghiệp
này! Thực trời hại tôi! Trời muốn làm hại tôi hay sao hở trời!
Trời đâu có đây để trả lời bà, chỉ nghe tiếng Trang năn nỉ.
Trong lúc khổ tâm bà đâm ra mất hẳn lý trí, bà gắt:
- Tao không đi đâu cả! Gia tài sự nghiệp mất thì tao cũng chết! Tao chết theo với
Phật, Thánh, kinh kệ, bàn thờ ông bà . ..
Bà đang nói bỗng thét lên, chiếc bàn bà đang ngồi bây giờ chỉ còn một mình nhẹ
quá hỏng chân bập bềnh nổi lên mặt nước. Bà nhanh tay nắm được cánh cửa tủ nên
khỏi ngã. Ông Túy vội vàng xuống đỡ lên thang. Người bà ốm nhỏ nên Trang nắm được
cánh tay mẹ kéo qua cái lỗ vuông dễ dàng. Bà đã lạnh cóng cả người, nằm vật xuống
sàn không còn biết ai là ai chung quanh.
Lúc này không còn thì giờ để chiều chuộng hay “trưng cầu dân ý” nữa, Trong lúc
nguy hiểm cần phải có sự chỉ huy cương quyết rõ ràng, mặc dầu ba Trang không chịu
đi, Trang vẫn nhất định bắt ông Túy và anh Bê khênh ông đi. Ban đầu ông còn chống
cự, nhưng mỗi cử động đều làm ông đau đớn, kết quả ông đành nằm yên cho ai làm
gì thì làm. Ôâng Túy và anh Bê đỡ ông lên tấm ván , khênh đi chậm rãi dò dẫm từng
bước một.
Trang ở trên nhìn xuống cảm thấy từng tiếng tim mình đập, chỉ sợ một trong hai
người đuối sức sẩy tay hay hụt chân thì chỉ có Trời cứu. Nước đã lên đến cằm.
Anh Bê người thấp nhỏ phải đi nhón gót chân, mệt mỏi và lạnh cóng cả người, anh
mím môi cắn răng cố đi từng bước cho thật vững chắc. Đang đi bỗng nhiên anh dừng
lại ấm ớ kêu:
- Tôi uống nước. Chết tôi rồi!. Trời ơi!... Ai cứu .. .cụ với!
Anh cố gượng thêm vài bước may đã đến được chân thang. Phải khó nhọc vất vả vô
cùng mới xê dịch được ba Trang từ tấm ván lên vai ông Túy. Ông cõng ba Trang và
bước lần lần từng bước lên thang. Cái thang cũ kỹ rít lên và kêu trèo trẹo dưới
sức nặng của hai người cùng trĩu lên một lúc. Ở trên nhìn xuống, Trang nghe như
tim mình ngừng đập, nàng nín thở tưởng chừng thêm một hơi thở của mình cũng
thêm sức nặng và cái thang sẽ chịu không nổi mà gẫy mất. Vận mệnh của cha nàng
nằm trên chiếc thang tàn tật ấy, thực trong suốt một đời người không ai ngờ đến.
Còn được vài nấc, bà Túy và Trang ở trên nắm được cánh tay ông, hai người cùng
gồng người gắng hết sức lực kéo lên. Đồng thời bên dưới ông Túy cũng xuất toàn
lực, phùng mang trợn mắt ,vừa đun vừa đẫy . ..
Ba Trang lên đến được trần nhà, nỗi đau đớn xác thịt hành hạ Ông đến cái trình
độ tê tái không còn cảm giác. Ông như người mất hồn, mặt mày tái mét nằm vật xuống
tấm ván Trang đã sắp sẵn.
Ông Túy xoa tay cười nói có vẻ thỏa mãn:
- Thực là kỳ tích, kỳ tích! Một bà chửa, ngày thường đi chợ “khênh” một bó rau
muống bằng nắm tay cũng kêu nặng, kêu mệt “khênh” không nổi, và một cô “suyễn
kinh niên” trói không chặt con gà, thế mà hôm nay “khênh” à quên xách nổi ông cụ
một tạ lên thang gác! Hì hì hì, mình vai u thịt bắp như thế này mà cõng cũng nặng
oải ba sườn gần trẹo cả cổ!
Châu và Lac, hai người ở gái cũng đã có chỗ ngồi yên. Trang đợi kéo nốt cô Tư
nhưng đợi mãi vẫn không thấy. Anh Bê đứng run rẫy thở lấy sức dưới chân thang,
còn ông Túy nghe mẹ Trang nói có một chai rượu ngâm thuốc bổ trong tủ, ông quyết
trở xuống lặn tìm cho bằng được.
- Hu hu hu, Có ai cứu tôi với! Trời ơi, Có ai cứu tôi với!
Ba Trang lúc này đã tỉnh táo hơn, nghe cô Tư kêu cứu có vẻ thương xót lắm. Anh
Bê đứng bên dưới cáu kỉnh:
- Cô ấy từ tối đến giờ hi hi mãi chán nên bây giờ đổi ra hu hu! Cô cao hơn tôi
những một cái đầu, có chân thì tự đi cũng được, tàn tật già yếu bé bỏng gì mà
phải đợi ai khênh. Mà giá có uống vài ngụm nước cũng không chết đâu!
Ba Trang thều thào cất giọng năn nỉ:
- Ông Túy ơi, bây giờ chỉ có một mình ông, trăm sự đều nhờ ông cả. Ông làm phúc
làm đức đưa dì ấy lên kẻo tội nghiệp, bụng mang dạ chửa!
Anh Bê lẩm bẩm:
- Người ta chửa gần đẻ đến nơi đã phải lội suốt đêm cũng chẳng sao, đằng này chỉ
mới có vài tháng.
Ba Trang vẫn ngọt ngào:
- ÔngTúy, trăm sự nhờ ông, tính mệnh dì nó ở trong tay ông, suốt đời chúng tôi
sẽ không quên ơn ông . ..
Bà Túy dẫy nẩy lên:
- Mau mau lên đi anh Túy ơi! Thôi đừng tìm rượu nữa! Ngâm nước từ đêm đến giờ,
không khéo lạnh mà chết đấy! Ba vạn cũng bỏ!
Ba Trang vẫn năn nỉ:
- Chỉ còn có ông, ông làm ơn . ..
Ông Túy dù vợ không bằng lòng, anh Bê dù mệt mỏi đến đâu, kết quả cũng phải đi
khênh cô Tự Lên được đến nơi giọng cô không còn rên rỉ nữa! Cô cất tiếng cười
the thé:
- Hê hê hê, tui không hề ướt lấy một cái vảy. Gói thuốc Cẩm Lệ cũng còn khô
ran! Có thời chi lạ!
Trang lấy mấy chiếc áo len đã cứu được chia cho mọi người. Anh Bê ngồi run rẩy
trong bộ quần áo ướt sũng những nước, hai hàm răng anh đánh vào nhau cầm cập, mặt
anh tái ngắt và người cứng đờ ra. Anh thay được áo xong nằm vật xuống ván mê
đi.
Cô Tư trông thấy thế lại cười rú lên:
- Hê hê hê, mình đi cũng được nhưng ai dại chi mà đi. Lỡ ướt lạnh chết thiệt
thân mình chớ thân ai! Ba vạn cũng bỏ, gói thuốc Cẩm Lệ vẫn còn là được!
Bất giác Trang rùng mình. Trong cảnh nguy hiểm,đầy những tiếng kêu cứu thảm thiết,
tiếng mõ kêu cứu dồn dập lẫn trong tiếng mưa đổ rào rào xuống mái ngói, tiếng
cười của cô nghe lanh lảnh đến rợn người!
Suốt từ đêm, Trang phải làm việc và dùng nhiều sức nên lúc này cả người đau đớn
mệt mỏi như bị dần từng đốt xương. Nàng tìm một góc và nằm lăn xuống ván. Tuy nằm
nhưng Trang vẫn nghe rõ tiếng cha rên rỉ, tiếng cười hê hê từng hồi của cô Tư
và những lời phàn nàn của mẹ:
- Thực là trời hại tôi! Thôi còn chi nữa! Kinh kệ mất hết, Phật tượng bể hết,
áo quần trôi hết rồi còn chi! Trời, cả cơ đồ sự nghiệp của tôi! Già hơn sáu chục
tuổi đầu rồi mà còn phải trông thấy cái cảnh như thế này! Thảm! Bộ kinh Pháp
Hoa của tôi mới thỉnh, bây giờ có bạc vạn cũng không tìm đâu ra!...
Bà chưa nói dứt lời bỗng cô Tư quát lên hỏi con Châu:
- Châu, sao mi không lo cất mấy cái trứng gà để dành cho cụ xơi hở. Bây giờ cụ
đói, mới làm sao?
Con Châu cười lạnh lùng:
- Thế sao cô không lỏ Cô ngồi đó làm chỉ Tôi làm bao nhiêu là công việc, nào gạo
cơm than củi, khiêng vác từ đêm đến giờ! Bộ tôi ở không đấy hẳn!
- Ai biểu mi ngu! Mi lo khiêng vác không biết mấy thứ đồ đạc mà rốt cuộc đồ đạc
đều ướt, mi cũng bị ướt như chuột lột. Còn tau không lo chi cả mà đồ đạc của
tau không ướt, người tau cũng khô ran! Hê hê hê!
- Phải, người ta thì “Lấy chồng phải gánh giang sơn nhà chồng” còn cô thì “Sống
chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi”!
Ba Trang rên rỉ:
- Thôi bỏ đi, bỏ đi, chuyện nhỏ mọn!.
Ông không muốn ai nói động đến cô Tư, nhất là động đến sự vô dụng của cô trong
cơn hoạn nạn.
Không biết con Châu đã lấy can đảm ở đâu ra, để cãi nhau tay đôi với cô Tư,
chính nó cũng không tự biết. Có lẽ trong lúc tai nạn, nó đã làm tròn phận sự
như một phần tử của gia đình, còn cô Tư vô dụng quá nên nó mất lòng kính nể.
Bà Túy gắt với ôngTúy:
- Cái áo gấm của tôi anh để đâu? Còn cái đồng hồ tay nữa! Lại còn cái gói tã ướt
của con . . . anh để mất thì liệu hồn.
Ông Túy mắng át:
- Thôi thôi, tôi xin các bà. Dẹp cái lọ mắm thối lại đi. Mới vừa lo chết dưới
kia chưa được mười lăm phút. Lên đến đây cững chưa chắc đã sống đâu mà vội giở
trò tiếc của. Ấy may mà chỉ lụt chứ không bão, nếu cả lụt lẫn bão thì ngồi đây
sẽ được gặp Ông Bà Tổ tiên ngay lập tức!
Đấy là sự thực cũng như những lời họ nói cũng toàn là sự thực. Trong lúc này
không ai nghĩ đến những câu che đậy khách khí giả dối nữa! Trang chua chát nghĩ
thầm:
- Lúc lòng người ta cởi mở thì chỉ được trông thấy toàn những cái gì đâu !!!!
Trang gượng đứng dậy mở cánh cửa sổ thông hơi nhìn ra. Bên ngoài cảnh vật mờ
trong mưa. Trời đã sáng nhưng ánh sáng như hòa lẫn với mưa thành một thứ màu mờ
mịt. Mặt nước dâng cao lấp cả những mái nhà thấp chung quanh xóm. Trên mặt nước
chỉ còn những tầu lá chuối rách nát ủ ê, một vài ngọn cây cau trong vườn còn đứng
vững được, vươn lên mặt nước, phần nhiều đều ngả nghiêng hay đổ hẳn. Mấy con
chó vừa lội vừa kêu ăng ẳng một cách thê thảm, cố bám vào những chiếc rương hòm
ngổn ngang trôi lẫn với củi ván.
Xa xa,ngoài đám nước bạc mênh mang, một người đàn ông cõng một đứa bé trên vai,
đứa bé vẹo đầu sang một bên, mặt nó sát hẳn với mặt nước, có lẽ nó ngất đi, hay
nó đã chết, nhưng người ấy biết hay không biết vẫn mải miết bơi. Ngoài xa nữa,
rải rác từng người, ôm thân cây chuối hay mảnh ván mặc cho dòng nước đưa đẩy.
Vài chiếc bè lờ đờ trên mặt nước, mặc dầu tiếng kêu cứu từ dưới nước, trên các
mái nhà, khắp mọi nơi vẫn không ngớt, họ hình như không nghe thấy gì cả. Họ còn
mải lo tìm vớt những đồ vật từ bốn phương trôi dạt lại! Nghìn năm một thuở cơ
mà! . ..
- Trời ơi, còn cái phẫu tôm chua để trong tủ đồ ăn, có ai cứu cho tôi với
không? Bây giờ dù có mấy trăm bạc cũng không làm được một phẫu như thế! Trong tủ
lại còn hai cái bánh Trung Thu!
- Sách! Sách ướt là không còn giá trị gì nữa! Hàng bốn, năm chục năm trời sưu tầm!
- Trời, cái ống sáp môi của tui ..
- Trời!. ..
Không lúc nào ông trời bị người ta kêu réo ầm ỹ như lúc này! Từ tiếng kêu cứu mạng
cho đến ống sáp môi, lọ tôm chua...
Trang thấy ngao ngán lạ lùng, nàng không cần quay lại cũng biết ai đã nói ra.
- Tôi đã bảo mà! cái đồng hồ mới tinh hảo của tôi thế là quên trong tủ. Nó mà
hư thì anh liệu hồn!
- Xin các bà đi! Đồ đạc của các bà khô ráo mà các bà chết thì để mà liệm hay để
mà thờ? Nước còn lên nữa thì chưa chắc đã sống đâu! Đừng lên giọng tiếc của vội!
Trang lấy chiếc áo dài quấn chặt người con bé Lili.
Tạm thời Trang chỉ sợ nó lạnh. Lúc nước mới lên đến bụng, nàng đã đi tìm hộp sữa
khuấy uống một cốc đầy. Nàng đủ cương sữa để bé Lili bú suốt đêm naỵ Con Mỹ sà
vào lòng mẹ kêu đói. Trang chợt nhớ đến chiếc bánh ngọt mẹ chia cho lúc ngồi
trên bàn, Trang chỉ vờ cắn một góc rồi gói vào chiếc khăn tay cột lên đầu.
Trang tháo khăn ra thì chỉ còn một nắm bột vụn. Mỹ vui mừng, hai bàn tay bé nhỏ
nắm chặt tay Trang cúi xuống liếm bột bánh một cách ngon lành. Trang rũ khăn ra
vét nốt chỗ còn sót. Bé Mỹ lại cầm tay mẹ liếm sạch, cả những kẽ tay nó cũng
không chừa. Ngày thường bao giờ nó cũng đòi ăn những chiếc bánh nguyên vẹn, nếu
chỉ vỡ một góc nó cũng chê ít không chịu ăn, nhưng bây giờ dù bé bỏng nó cũng
biết có chuyện gì đặc biệt lạ lùng xảy ra không dám quấy. Thấy hết nó bắt chước
mẹ rũ khăn, tìm không có chút bánh nào nó phụng phịu:
- Me!Me! em ăn không no, em không uống nước!
Đó là câu nói độc nhất lúc nó còn muốn ăn thêm.
- Me! Me! Em ăn không no, em không uống nước.
Nhưng bây giờ làm gì có nước mà uống dù em đói hay em no, và mỉa mai thay, dù
bên ngoài nước vẫn mênh mông . ..
Mỗi người tự tìm một chỗ ngồi dễ chịu trên những chiếc đòn ngang trên trần nhà,
không ai dám bước chân vào những tấm ván mỏng mảnh sợ sập xuống. Bé Mỹ vẫn ôm
cánh tay mẹ:
- Me! Em ăn không no, em không uống nước!
Trang bỗng chợt nhớ ra:
- Cái thang đâu! Còn cái thang đâu rồi?
Phải kéo nó lên kẻo trôi mất, đợi lúc nước rút còn khối công việc phải làm.
Ông Túy nhìn xuống thấy cái thang vẫn tựa chân tường vội vàng kéo lên. Cùng một
lúc mọi người đều nhìn cái thang gẫy: Cái thang cứu mệnh!
Ôâng Túy đặt nó nằm dài cạnh cửa sổ. Cái thang đã gẫy nát, nhiều chỗ phải chắp
nối và quấn giây thép chằng chịt ở mỗi bực thang. Cái thang vẫn suốt ngày dựng
bên gốc cây trầu leo trên mình cây vông trụi lá, lâu lâu nó lại bị ném tư nơi
này sang nơi khác. Khi người ta hái trầu thì nó bị ném sang gốc cây ổi, khi Tân
và Tấn trèo ổi thì nó bị gạt sang gốc cây mít hay đá hẳn xuống đất.
Cái thang cứ nằm lì dưới đất như ăn vạ cho đến khi mẹ Trang trông thấy bảo con
Châu dựng lại, nó mới kéo lê sền sệt ném trả vào gốc cây trầu. Cái thang không
hề có được một chút tín nhiệm nào. Cả đến người thợ lúc trèo lên trần nhà sửa
giây điện cũng chỉ đánh đu vào cánh cửa mà lên chứ không dám dùng nó. Thế mà giờ
đây nó đã cứu cả nhà! Nó bỗng biến ra đáng kính, đáng yêu, anh hùng trong mắt mọi
người.
Ở dưới nhà chốc chốc lại có tiếng đồ vật đổ xuống nước và mỗi lần như thế mẹ
Trang lại than thở:
- Thôi còn chi nữa! Cả gia tài sự nghiệp của tôi!
Chỗ chân sưng của ba Trang lại đau nhức dữ dội. Ôâng rên rỉ một lúc rồi mê lịm
hẳn đi. Khi ba Trang không rên nữa thì đến lượt những người khác rên. Những ai
có lội nước đều cất tiếng rên, ban đầu còn gắng rên se sẻ, cuối cùng không còn
nể nang gì nữa,mạnh ai nấy rên và càng ngày càng tọ Trang cũng thế, nàng thấy cả
người mỏi như dần, nhất là hai bắp chân và đùi, từng thớ thịt đều như tê cứng lại
và đau đớn đến nỗi không thể trở mình được.
Suốt từ sáng cho đến chiều mọi người nằm co quắp trên những thanh gỗ ngang mê
man không biết đến bên ngoài, không biết ngày giờ và cũng không biết đến đói
khát . ..
Dần dần trời tối hẳn lại, nhưng mưa vẫn còn nặng hạt. Tiếng kêu cứu và tiếng
mõ, tiếng súng báo hiệu vẫn còn vẳng lại xa xạ Cả nhà không ai nói gì, bỗng
nhiên bàTúy kêu lên:
- Chết tôi rồi! Trời ơi, tôi đau bụng!
Hai tay bà ôm chặt lấy cái bụng to tướng đã gần ngày cất tiếng rên rỉ. Bác sĩ
hôm kia đã nói bà sắp đẻ trong vài ngày, nghĩa là tình trạng như một trái cây
đã chín tới, chỉ còn đợi nó rụng xuống mà thôi!
Ông Túy hốt hoảng:
- Ấy chớ! Đừng đẻ ra đây nhá! Dại dột đẻ ra bây giờ thì chết cả mẹ lẫn con chứ
không chơi đâu! Gắng nín đến mai may ra còn hy vọng sống!
- Ối trời ơi! Đau chết tôi, đau chết mất thôi, ối ối ..
Bà Túy đang ôm bụng rên la bỗng bật cười:
- Không sao đâu, tôi không đẻ bây giờ đâu! Ôi trời, đau quá, đau quá!...
Tân và Tấn còn bé, mình nhỏ nhẹ nên nằm lăn ra ván ngủ. Chúng chỉ thấy khổ vì
phải nhịn đói suốt ngày, và lại còn khát nữa! Từ ngày mẹ chết, chúng nó không
còn ai để vòi vĩnh nên cũng đã thành thói quen ngoan ngoãn, và nhất là trong
lúc này chúng biết không thể có gì hơn được nên đành ôm nhau nằm ngủ. Mọi người
cũng dần dần ngủ hay nói cho đúng hơn mê đi trong tiếng mưa, trong sự mệt mỏi
cùng cực của thể xác và tâm hồn.
Sáng hôm sau lúc trời mờ sáng thì nước đã rút chỉ còn ngang đầu gối và mưa cũng
đã tạnh hẳn. Cái thang lại được đặt xuống rất cẩn thận nhẹ nhàng, và mọi người
cố hết sức kéo lê thân hình mỏi mệt dò lần từng bước thang xuống bắt tay vào
công việc dọn dẹp.
Bên dưới cả một cảnh tượng tàn phá thảm hại hiện ra, tất cả cái gì cũng đổ vỡ bẩn
thỉu. Sách vở bị nước đưa đẩy tản mác đi khắp cả các phòng và nát ra từng mảnh.
Cả một tủ đựng cốc chén đổ vỡ. Các rương và tủ quần áo lúc dỡ ra thì chúng đã tự
nhuộm thành một thứ mầu lem luốc không tên.
Mẹ Trang ngẩn ngơ cầm một chiếc áo mầu bùn bẩn thỉu ướt sũng những nước, ngắm
mãi không thôi. Đó là chiếc áo nhung mầu rượu chát mới nhất và cũng là chiếc áo
đẹp nhất của bà, bây giờ nó giống hệt như một con mèo bị nhúng nước bùn, từng
đám nhung xoắn tít lấy nhau không còn những ánh tuyết êm dịu óng ánh nữa. Bà
nhìn lên bức ảnh bán thân treo trên tường cao, bức ảnh chụp lúc bà mới hai mươi
lăm tuổi, lúc bà còn trẻ đẹp . . . Trang đến cạnh mẹ se sẻ nói:
- Me ạ, con mua cho mẹ một chiếc áo nhung khác.
Ba lắc đầu gượng cười:
- Không con ạ, có phải mẹ tiếc chiếc áo nhung đâu!
Bà rơm rớm nước mắt tiếp theo:
- Suốt đời mẹ từ lúc trẻ cho đến bây giờ mẹ đã hy sinh hết cả cho chồng, cho
con, cho gia đình. Mẹ có tiếc gì đâu! Trải qua bao nhiêu lần lên bổng xuống trầm,
mẹ đã bảo toàn được cảnh nhà, và giúp đỡ cho ba con không phải là ít. Cho đến
ngày nay, các con đều đã trưởng thành tản mát tất cả bốn phương, mẹ thì già, mẹ
chỉ còn có một người chồng mà nay cũng không còn là của mình nữa! Có lẽ nào mẹ
lại tiếc một chiếc áo nhung!
Bà ngừng một lát thở dài:
- Mẹ đã cố hết sức mà rốt cuộc không cứu vớt được gì cả! Nhưng dầu sao mẹ cũng
đã tận lực. Nay mai mẹ sẽ . . . ra đi . . ., và đời sẽ quên mẹ như mẹ quên chiếc
áo nhung này, nhưng thôi mẹ chỉ nói chừng ấy, con phải tự tìm hiểu thêm cho nhiều
mà định liệu đời của con . ..
- Hê hê hê, đồ của tôi không ướt lấy một cái vảy, hê hê hê . .. Cả mấy con gà
con cũng tự trốn được không chết lấy một con, chi lạ, thiệt là có thời!
Nghe tiếng cười hê hê của cô Tư, Trang thấy cả người nổi gai. Trang nhìn cô và
cảm thấy hơi là lạ. Tuy ống son của cô không mất nhưng sáng nay cô chưa trang
điểm, trông chán chường tàn tạ quá chừng. Trang đã quen nhìn cô với đôi má đỏ rực
như hoa phượng, môi cũng đỏ chói, son đánh sát vành môi mỏng dính, có hai khóe
thực dài. Gương mặt gầy, lưỡng quyền cao, bộ mặt lúc nào cũng đánh phấn trắng bệch
của cô tăng thêm sự trái ngược của đôi bàn tay đen xương xẩu và lúc nào cũng
nhơm nhớp đầy mồ hôi.
Ban đầu Trang thấy chướng mắt cái lối trang điểm có vẻ hình nộm ấy nhưng sau
nhìn quen Trang cũng thấy cô đẹp, một vẻ đẹp mê hồn các ông già, nhưng thiếu
tính chất dịu dàng thùy mị của những người đàn bà với sứ mệnh đem lại hạnh phúc
thịnh vượng cho gia đình.
Ngoài sân thấp thoáng bóng những người láng giềng đến hỏi thăm. Họ Ở những nơi
thấp hơn nên tản cư ngay từ lúc mới bắt đầu lụt nay mới trở về.
Mọi người tranh nhau kể lể:
- Tôi bị trôi tất cả quần áo đồ đạc, bây giờ chỉ còn một manh này.
- Tôi bị sập cả cái nhà bếp nhà ngang.
- Tôi trôi mất cả bầy heo hai chục con.
- Tôi. ..
- Ấy, dưới kia người ta trôi sạch cả làng, cho đến vững như cột đình cũng không
còn!
- Có một gia đình bám lên mái nhà tranh bị trôi tuốt ra sông Hương, lúc trôi
ngang dưới cầu Trường Tiền bị gạt cả xuống nước. Hà hà, thì ra chúng mình vẫn
còn có phúc!
- Nào về lo sửa máy vô tuyến điện trước, nghe thiên hạ nói dóc chơi. Mình kêu cứu
khản cả cổ cũng chẳng có con ma nào biết đến, chứ nghe bản báo cáo thì chắc là
cả một đội thủy binh đi cứu nạn dân và kết quả tốt đẹp ghê lắm!
- Thế nào, cụ có việc gì không, cô Trang có mất mát gì không?
Mẹ Trang chỉ gian nhà:
- Các ông các bà xem đấy, may mà còn gian nhà và cái thân già này!
Trang định trả lời mất sạch cả, nhưng cái cảnh người đàn ông cõng đứa con chết
trên lưng, mải miết bơi trên mặt nước mênh mang không bờ bến hiện ra trước mắt
nàng. Trang ôm chặt hai con vào lòng trả lời:
- Không,không, tôi không hề mất chút gì . Cả cái tài của tôi vẫn còn nguyên vẹn.
Tiếng rên của ba Trang, từ trong phòng vẳng ra nhắc nàng nhớ đến ấm nước đang
đun dở để pha trà cho ông. Trang đứng dậy xuống bếp cho thêm củi. Con Châu đang
vo gạo bảoTrang:
- Này chị, nghe bà Bá bên cạnh đang khóc ông ấy. Hay quá! Em nghe từ sáng đến
giờ vẫn chưa hết, dài hơi ghê!
- Thế mới đúng là con của tôi.
Cô Tư kiêu hãnh hất hàm hỏi:
- Thế còn mấy anh mấy chị?
- Con ông già mới là đứa con “tinh thần” em biết không? Còn những đứa con đẻ
lúc thanh niên toàn là con “vật chất” hết! Hai vợ chồng làm quần quật suốt ngày
chưa đủ trả nợ còn ai dám nghĩ đến chuyện đẻ con. Nhưng lỡ có thì cũng đành chịu
vậy, coi như “trời cho”!
- Chỉ lúc nào về già, trí não thong thả, sự nghiệp công danh gì cũng đầy đủ, rảnh
rang uống rượu ngâm thơ, trồng hoa, xem sách mới nghĩ đến chuyện “đúc” một đứa
con út để bồng bế vui đùa cho đỡ hiu quạnh lúc tuổi già. Để em xem, em sinh con
rồi sẽ thấy tôi cưng nó đến như thế nào.
Cô Tư đang cười hi hi hi một tràng dài bỗng phát vào đùi đánh đét một cái nói:
- Chết! Cuối tháng rồi! Em phải đi đòi nợ mới được. Để mấy thằng cha đó lãnh
lương ra, đi đánh bài hết. Chận đầu không được chỉ còn nước coi tụi nó nhăn
răng cười trừ, xin góp tháng sau.
Ông lo lắng:
- Họ nợ em có nhiều không? Có ai quịt của em bao giờ không?
Cô lấy một chiếc gối nhỏ chêm chân cho ông trở mình, cong cớn:
- Qui.t của em? Bộ muốn mồ mả ông bà được lật ngược lên phơi nắng hay sao! Em
nói cho cụ biết, nếu cụ gặp em sớm hơn thì bây giờ đã giàu to rồi.
Ông cảm động nắm tay cô:
- Tôi tiếc quá, nếu gặp em ba mươi năm trước thì . ..
Cô cười rú lên:
- Hi hi hi, ba mươi năm trước em còn nằm trong nôi.
Ông không chú ý nghe lời cô nói. Trong trí ông chợt nhớ đến một bài thơ chữ nho
trong có câu “tương phùng hận vãn”, ông muốn làm một bài thơ tặng cô nhưng nghĩ
mãi không ra, hình như hôm nay tất cả văn chương thơ phú đều trốn đi đâu mất!
Có một câu ông vừa ý nhất thì đã làm trong bài thơ tặng một bà “bạn gái” danh
ca từ lâu lắm rồi! Ông gật gù ngâm lại câu kết: “Gặp nhau chi lúc chợ gần
tan!”. Phải, chợ gần tan thì còn buôn bán gì được nữa! Cũng như giờ đây ông đã
già rồi còn mong hưởng việc đời được bao lâu, biết còn có thể sống được mười
năm nữa để trông thấy cảnh cô Tư làm giầu cho ông sung sướng, đẻ con quí tử cho
ông vẻ vang lây.
Trong đời ông, mãi đến bây giờ mới thấy cái say sưa đối với đàn bà. Bà hiền
lành quá, bà là người của thế hệ trước lúc nào cũng coi chồng như cấp trên. Chồng
muốn là mệnh lệnh , dù những ý thích của ông thật là động trời. Tuy trong lòng
bà không ưa gì người tình địch mà ngoài mặt vẫn phải ngọt ngào, phải tỏ ra vui
vẻ, đại lượng. Gia giáo dạy bà như thế, tập quán của gia đình, xã hội đều yêu cầu
như thế, ông được nuông chiều quá nên quen đi không thấy sung sướng nữa.
Những cô vợ lẽ nàng hầu bà đã cưới về cho ông xưa nay bà đã cố ý chọn cô nào
không đẹp lắm, và nhất là không học hành thông thái gì cả để tránh sự ghen ngược
và lấn quyền rất có thể xảy ra. Bà đã coi ông là ông Trời, các cô lại còn coi
ông hơn cả Trời nữa, thành ra ông không thấy thú vị gì cả. Ông thấy đàn bà như
một đàn ngựa thuần, ngoan ngoãn đến phát chán.
Mãi đến bây giờ gặp cô Tư như gặp một con ngựa hay, mà “ngựa hay thì có chứng”
như tục ngữ đã nói, thỉnh thoảng nó lại dở chứng đá ông một cú đau điếng nhưng
cũng thú vị biết bao! Xưa nay mỗi lúc ông cất tiếng gọi bà hay cô nào thì họ
“miệng dạ, chân chạy” đến ngay lập tức. Bây giờ trái lại, ông thường gặp những
trường hợp bất ngờ và đầy kích thích. Hôm cô Tư mới về ông gọi:
- Em Tư ơi!
- Dạ.
- Ra đây rót cho tôi chén nước!
- Thì cụ vô đây không được hay sao? Nước trong bình đó, rót lấy mà uống! À em
cũng khát, rót nhiều cho em uống với.
Ông thấy ngạc nhiên và thú vị như lần đầu tiên lúc còn bé tí được trông thấy
dòng nước chảy ngược lên và ngọn đèn chúc trở xuống. Nó lạ lùng và kích thích
biết bao nhiêu.
Lại còn những lúc ông đang hút thuốc, cô giật lấy hút phì phèo vài hơi rồi trả
lại trên môi ông cũng mới lạ đối với ông, hơn nữa lại còn âu yếm làm sao! Có
lúc cô tự thắp một điếu hút trước vài hơi rồi đút cho ông, trông thân mật hấp dẫn
quá chừng.
Từ lâu ông đã chán lối sống xa cách của những đôi vợ chồng thời phong kiến. Che
dấu tình cảm, “tương kính như tân”, cái điểm mà bà lúc nào cũng giữ. Đã là vợ
chồng mà phải kính sợ nhau, hay coi nhau như khách thì còn thú vị gì nữa !
Tiếng cô Tư gọi ông làm ông giật mình:
- Cụ, cụ nghĩ gì mà nghĩ lắm thế? Em đi đây. Nhân tiện em ghé lại anh Nam mời đến
chữa bệnh cho cụ. Anh ta là anh họ của em làm thầy chuyên môn chữa bệnh bằng
thuốc ngoại khoa có tiếng lắm. Cụ lành rồi phải thưởng cho em nghen !
Nói xong không đợi ông trả lời, cô xách nón nghoe ngoảy đi ra cửa.
° ° °
Còn lại một mình, ông châm một điếu thuốc vừa hút vừa nghĩ ngợi
lan man. Hồi nãy Trang vừa nói một câu, ông thấy đúng nhưng phải mắng chận nàng
đi, bởi vì để Trang nói trắng ra thì có vẻ bất kính lắm. Mới cách đây không lâu
bao giờ ông cũng chuyện trò bàn bạc với con như bạn, nhưng từ ngày có cô Tư,
ông muốn xa cách bớt, để giữ cái uy nghiệm của một người cha, nhất là khi người
cha ấy đã có nhiều hành vi, chính tự mình cũng thấy là hơi qua đáng.
Trang nói rằng:”Muốn ăn trái phải trồng cây”. Đúng, và đã trồng thì phải lo vun
xới, chăm bón cẩn thận. Các con ngày nay không cung đốn ông được cũng là lỗi tại
ông, ông đã thiếu bổn phận làm cha bây giờ còn phàn nàn gì nữa!
Xưa nay, mãi nghĩ đến khoái lạc riêng của mình, chạy theo công danh, và nữ sắc,
ông không bao giờ nghĩ đến tương lai các con. Ôâ$ng bà định lúc đám con gái lớn
lên sẽ gả cho mỗi đứa một thằng chồng theo kiểu “làm quan tắt” là đủ sung sướng
chán, nghĩa là yên phận theo chồng, bò lên bậc thang quan-lại, rồi thì “Cơm Vua
Ngày Trời” , một ngày kia cũng ngựa anh võng nàng như ai vậy
Các con trai được quí trọng hơn, nhưng ông không để tâm đến sức học như thế
nào. Nếu thế giới cứ bình yên mãi chắc mọi sự cũng không ra ngoài dự đoán của
ông: đường hoạn lộ dài mấy đi lâu rồi cũng tới.
Nhưng khốn nỗi, ba, bốn thứ đảo chính liên tiếp. Mỗi lần đảo chính là một lần
chết đi sống lại . Rồi cách mệnh bỗng bùng nổ, ông không ngờ. Mọi sự đều bị lật
ngược. Phải có Ông Bà Cố Tổ trên ba đời bần cố nông mới mong được ăn nên làm
ra, Ông đành chịu thua trước làn sóng ồ ạt dữ dội lan tràn khắp nơi. Tất cả dự
tính của ông đều đổ xuống sông xuống biển hết.
Nhớ đến cái thời kỳ “phong trào” mới nổi lên, ông buồn đến lặng cả người! Của cải
ruộng vườn nhà cửa gì cũng phải nộp hết, cả đến con trai con gái gì cũng phải
“quyên” ra làm việc để đổi lấy sự bình yên của hai thân già. Ông bà đóng chặt cửa
nhà trước tạ khách. Bà nhặt củi khô trong vườn để nấu cơm, ông ngồi ở góc vườn
sau chăn bò, vì thằng bé chăn bò cũng phải đi Bình dân học vụ và Nhi đồng cứu
quốc nhóm họp, học hành suốt ngày. Ông ngồi chăn đám bò ăn cỏ đã tức cảnh tập
Kiều mấy câu:
“Hỏi ông, ông mắc ra đình,
Hỏi bà, bà mắc biểu tình đến mai
Hỏi cô, cô mắc “Một, Hai”
Hỏi cậu, cậu mắc hát bài Thanh niên
Cả nhà sung sướng như tiên . . .”
Nghĩ đến thời kỳ ấy ông thấy lòng nao nao. Mọi người đứng trước một tai nạn
chung, đều hợp tác chặt chẽ để bảo vệ sự an toàn của gia đình. Nhưng đến lúc
sóng yên gió lặn rồi, tai qua nạn khỏi rồi thì mỗi người lại dàn ra một mặt trận
và cố sức phát triển mạnh mẽ. Ông lại cô này, cô nọ, bà lại cúng bái chùa chiền
. ..
Có tiếng kẹt cửa ông quay lại, Bà rón rén đi vào tay bưng một chén trà nóng.
- Mình, đây là chén trà cúng Phật, tôi đã xin “phép” trong đó rồi. Mình uống đi
cho khỏe.
Muốn từ chối nhưng không nỡ, và cũng không có mặt cô Tư, ông có thể uống cho bà
vui lòng. Ông định uống vài ngụm rồi thôi nhưng chén trà thơm ngon quá, làm ông
theo thói quen cứ uống dần cho đến hết.
Bà nhỏ nhẹ nói:
- Mình này, Đền thờ Mẫu ở gần cửa Tứ linh lắm. Hôm qua tôi có lại đằng ấy khấn
xin Ngài về trị cho mình. Cô Ngọc là “lính” của Mẫu đã hơn mười năm nay, Mẫu
ban phúc ban lộc cho nhiều lắm. Đền to hết sức mình à. Chỉ một cái mão Cửu châu
của Mẫu đội chín cái hột xoàn cũng đến bạc vạn rồi.
- Thế nếu cúng thì hết bao nhiêu tiền?
- Chưa biết, nhưng chắc là không ít. Hôm nọ bà tham Bê sốt, khấn Mẫu lành rồi
dâng một lễ tạ ngót vạn bạc.
Ông giật nẩy mình:
- Vạn bạc! Vạn bạc thì giết ai rả Mẫu gì mà ăn cắt cổ thất nhân ác đức đến như
thế?
- Mình đừng nói bậy không nên! Mẫu linh lắm, Mẫu cho lành rồi ban phúc ban lộc
thì lại khá, lại ăn nên làm ra được, còn hơn nằm ôm bệnh biết đến bao giờ?
Ông thấy rất khó chịu, giả vờ nhắm mắt rên khe khẽ và chỉ vào chân có ý muốn
nói ông đang đau đừng làm bận ông. Ông thấy giận lạ lùng. Ôâng đường đường là một
người quân tử chính đại quang minh, nếu trong đời ông có lầm lỗi thì chỉ độc có
một lỗi không trung thành với bà, lỗi này bà không bắt thì thôi chứ can thiệp
gì đến Mẫu? Nay ông đau ốm là bệnh của vật chất chứ Mẫu nào lại làm ra bệnh tật
, Mẫu nào lại vô duyên vô cớ hại ông để đòi ăn lễ được! Ông rên to lên để khỏi
nghe tiếng bà nói thêm, để cho hả cái giận dữ trong lòng.
Bà thấy ông đau, hoảng hốt vội đi tìm chai dầu bóp. Trong trí não chất phác và
cố chấp của bà, bà không tin gì hơn là Trời Phật Thánh Thần. Ngày xưa con trai
út bà bị đau sốt rét rất nặng nhưng bà chỉ cho chữa thuốc tạ Và các ông lang ta
xưa nay vẫn liệu “chạy” trước, khi thấy con bệnh gần chết. Còn thói quen của
các ông lang tây là khi thấy bệnh nhân hấp hối hay chết rồi cũng còn tiêm thêm
một mũi thuốc hồi dương để tỏ ra ta đây tận tâm với chức vụ, đã cố hết sức cứu
tính mệnh bệnh nhân cho đến phút cuối cùng.
Và vì thế bà cứ nhớ mãi cái phút giây khi bác sĩ rút mũi tiêm ra thì thằng bé tắt
thở! Như thế nghĩa là chính họ đã giết chết con bà. Từ đấy bà đâm ra ghét thuốc
tây và định nghĩa các ông lang tây là những kẻ giết người công khai mà vô tội.
Thời gian trôi, khoa học tiến bộ không ngừng, xã hội cũng không phải là cái xã
hội lúc bà còn xuân sắc, nhưng bà không chịu hiểu điều đó. Những cuốn Kinh Lăng
Nghiêm, Pháp Hoa, Quan Âm ngày ngày bà vẫn tụng không có một chữ nào thay đổi,
cũng như tư tưởng, quan niệm về việc đời của bà cũng vẫn không hề khác xưa.
Trong khi ấy thì ông đọc báo xem sách, theo dõi mọi biến chuyển của thời thế,
ông khỏe mạnh cường tráng đúng là một con người của thời đại. Tư tưởng của ông
cũng thay đổi , nhất là về địa hạt thẩm mỹ đối với đàn bà: cái gì lúc xưa ông
cho là lõa lồ chướng mắt, trái với đạo đức thì bây giờ hóa ra mỹ thuật và đẹp đẽ
văn minh vô cùng.
Vú cao, hông nở, răng trắng, môi son, nói cười hoạt bát, nếu có nũng nịu khêu gợi
lại càng tốt! Tất cả những thứ ấy trước kia ông đã từng khinh bỉ, cho rằng người
đàn bà như thế là đồ hư đồ bỏ, đồ lẳng lơ trắc nết, sẽ ế chồng, hay có lấy chồng
cũng “vô mùng ba, ra mùng bảy”, hay nếu không, cũng làm lụn bại nhà chồng.
Trong khi bà vẫn trung thành với khuôn phép “Chồng Chúa Vợ Tôi” cổ truyền thì
ông đã “cách mạng” nó từ lúc nào mà không bảo cho bà biết.
Ông thất vọng biết bao nhiêu khi thấy bà vẫn bo bo giữ những tư tưởng lạc hậu ấy,
nếu là món đồ cổ thì càng xưa càng quí, nhưng trong cuộc sống, bà không theo kịp
thì dại quá, đi ngược với thời đại như thế, hay nói cho đúng hơn, đi ngược với
sự yêu cầu của ông như thế thì còn trách ai? Ông ngao ngán khi thấy bà cạo đầu
trọc như các bà sư, ăn mặc cũng toàn một mầu nâu, lại còn ăn chay trường nữa!
Nhưng tất cả những thứ ấy cũng không làm cho ông chán nản bằng một câu bà hay
nhắc mỗi khi hờn ông:
- Tôi chỉ biết có Trời Phật! Chỉ có Trời Phật hiểu tôi mà thôi! Trời Phật
thương tôi và tôi cũng không thương ai ngoài thương Trời Phật cả!
Ông thấy bà khiêu khích ông, và nhất là chạm đến lòng tự ái của người chồng “đại
trượng phu” quá lắm! Ông nghĩ thầm như để trả thù: “À, bà đã không thương tôi
thì tôi tìm người khác thương tôi vậy!”.
Cưới được cô Tư, ông rất mãn nguyện. Những cô trước kia thực không thể gọi là vợ
lẽ được. Bà chỉ cưới về cho ông một chị bếp hay một cô quản gia mà thôi! Cô Tư
mới thực là con người lý tưởng, con người ông có thể giới thiệu với bạn bè mà
không xấu hổ, con người ông thích ngồi chung một xe xích lô đi dạo phố một cách
hãnh diện. Cô Tư trẻ hơn ông nhiều, lại khéo cho vay đặt nợ lại vừa biết làm
cho ông vui. Cô lẳng lơ, khêu gợi, sắc sảo và ngoài ra còn biết cống hiến và hưởng
thụ nhiều du dương khác nữa!
Nếu ví người đàn bà là một đóa hoa thì phải là một đóa hoa hồng có gai mới quí,
và gai càng nhiều giá trị càng tăng. Nếu hoa không gai, lúc chơi chán người ta
sẽ dày đạp không thương tiếc , nhưng nếu hoa có gai họ sẽ vì sợ gai đâm vào tay
chợt da chảy máu mà không dám dày vò. Nhờ gai mà hoa được hưởng đôi phần kính nể!
Trong khi ông suy nghĩ bà vẫn im lặng ngồi bên cạnh bóp chân vừa lẩm bẩm niệm
Phật. Bà thấy giờ phút này thực là quí hóa, vì từ ngày cô Tư về, cô chiếm “độc
quyền” ông, bà không còn được gặp ông một mình nữa. Cho đến từ lúc ông ốm bà
cũng không được hỏi han bàn góp ý kiến trong chuyện chạy chữa. Bà hối hận lúc
nóng giận đã xô đẩy ông, để ông ngã về cô Tư một cách công khai, đến lúc thấy
tình hình càng ngày càng tệ, bà muốn vớt vát lại thì đã không kịp nữa.
Trong mắt ông và cô Tư hình như bà chỉ là một cái bóng, một kỷ niệm đã qua
trong dĩ vãng chứ không phải là một nhân vật còn tồn tại và có uy quyền ảnh hưởng
trong gia đình. Họ không muốn biết là có bà trong nhà, cho đến tấm ảnh bà, tấm ảnh
thuở bà còn trẻ ông vẫn rất yêu quí đã gửi sang tận Pháp chụp lại và phóng đại
tô màu vẫn treo trên tường cao bây giờ cũng thay vào tấm ảnh của cô Tư !
Sau khi đắn đo suy nghĩ mãi bà nhất định cũng nhúng tay vào một phần trong việc
săn sóc chữa bệnh cho ông, kẻo rồi chúng nó không hiểu sẽ nói bà lãnh đạm không
thèm ngó ngàng trong lúc ông đau ốm.
Thấy ông hơi bớt rên bà nhỏ nhẹ:
- Mình à, tôi đã nhờ cô Ngọc xin Mẫu giáng để chữa bệnh cho mình!
Ông nhăn mặt khó chịu:
- Bao giờ đến?
- Có lẽ cũng sắp đến.
Ông muốn từ chối, một phần vì không tin, một phần vì tiếc tiền, nhưng lại cũng
muốn thử xem may ra có lành chăng nên không phản đối ! Giờ phút này ông rất
thèm thuồng ao ước sức khỏe. Trước kia ông cứ tưởng mình sẽ béo tốt, mình đồng
da sắt như một lực sĩ cụ hoài , tương lai còn rực rỡ, ân sủng trời cho dồi dào
vô tận. Không ngờ bây giờ lúc ông cần nhất, lại là lúc chúng nó chơi hú tim trốn
đâu mất tiêu tìm hoài không thấy.
Có tiếng guốc đi vào ngoài sân gạch, bà vội chạy ra đón chào:
- Chào cộ Đúng hẹn quá đi mất! Kìa cả cô Mùi cũng đến, quí hóa quá!
Hai cô Đồng vái chào khép nép bước vào. Cả hai đều trạc độ bốn mươi tuổi nhưng
chưa có chồng, hay là không có chồng công khai để giữ nghề vì họ là những Cô Đồng
chuyên nghiệp, chồng con bận bịu sẽ có ảnh hưởng cho công việc làm ăn. Cô Ngọc
là chủ am còn cô Mùi làm thông ngôn những lời Thánh “troàn” (truyền) , mặc dầu
Thánh cũng nói tiếng Việt như mọi người.
Cô Ngọc bước vào vái chào ba Trang xong, mở khăn gói lấy một chiếc áo đỏ ra mặc
thêm bên ngoài. Cô vừa mặc áo vừa nói có vẻ quan tâm lắm:
- Tôi nghe tin cụ đau đã lâu mà cứ tưởng đau nhẹ thôi, đã định lúc nào rảnh lại
hầu thăm. Thật không ngờ đau nặng thế này! Nếu tôi biết được thì dù ai mời đi
chữa, dâng lễ bạc triệu tôi cũng không đi để đến đây cúng hầu cụ trước!
Ông nghe phát hoảng tưởng là cô giáo đầu để sau này đòi lễ tạ bạc triệu cũng vội
vàng nói đón:
- Chúng tôi không có bạc triệu đâu, Thánh có thương mà chữa giúp thì chữa không
thì thôi!
Bà vội đỡ lời ông, sợ Ông nói quá, mất lòng cô Ngọc:
- Thánh thương Thánh mới chữa cho chứ Thánh Thần nào có cần gì ăn lễ! Miễn mình
lòng thành chén nước cây hương ngài cũng chứng giám rồi!
“Mặt trận” vừa mới dàn ra đã có vẻ quyết liệt ngay lập tức. Cô Ngọc nghe bà và
ông nói cũng sợ phát hoảng không kém. Cô tưởng ông bà nói rào đón thế để lúc chữa
xong dâng lễ tạ, lòng rất thành mà chỉ có “chén nước cây hương” thôi thì thua
non mất, nên vội đánh trống lảng:
- Có ai múc cho thau nước rửa tay đây. Xin Cụ cây diêm thắp hương.
Trang lấy nước và diêm cho cô xong tò mò đứng cạnh giường cha để xem cô Ngọc
trong vai “Thánh” chữa bệnh.
Cô Ngọc đã mặc xong chiếc áo đỏ, cô xả tóc và vò cho rối bù lên, xong cầm bó
hương cháy đỏ đến cạnh cửa sổ. Cô vái huyên thuyên, mồm lẩm bẩm những gì không
nghe rõ, tay cô vẫn cầm hương và múa lung tung.
Mọi người im lặng kính cẩn nhìn cộ Trang chỉ thấy ngạc nhiên và buồn cười, mặc
dầu cô Ngọc đã cố tạo ra cái vẻ khủng khiếp oai nghiêm huyền bí. Đang múa bỗng
nhiên cô rú lên một tiếng thực ghê rợn, cô nhảy lên từng hồi, cười từng tràng
the thé, xong cô móc túi lấy trầu ăn, trong khi nhai cô ợ ngáp luôn mồm.
Lúc nước trầu đã nhiều, cô đến cạnh giường ba Trang, mắt cô quắc lên, tay cầm
hương múa lia lịa trên khắp người ông. Thình lình cô phun toẹt một búng nước cốt
trầu lên đầu gối chỗ đau của ông, và phun tung tóe khắp cả chung quanh chỗ nằm.
Mắt cô lờ đờ giọng nói kéo dài rất nhựa:
- Chánh chương chông chắm, chánh chữa cho chông chành!
Mọi người ngẩn mặt ra nhìn, chẳng hiểu thánh “troàn” cái quỉ quái gì. Cô thông
ngôn của Thánh lúc này vội vàng làm phận sự:
- Thánh dạy, Thánh thương cụ lắm thế nào Thánh cũng chữa cho cụ lành.
- Chông chốt chắm, chúc chức lắm, chánh chan chúc chan chộc cho chợ chồng!
- Cụ tốt lắm, hai cụ phúc đức lắm Thánh sẽ ban phúc ban lộc phù hộ cho hai cụ!
Thánh “troàn” xong đi thẳng ra hiên, hái mấy ngọn lá Vạn niên, lá ổi và vài thứ
lá cây khác trồng trong chậu làm cảnh. Trước khi đưa cho mẹ Trang cô còn cầm
hương vẽ ngang vẽ dọc múa lung tung một lúc để làm phù làm phép.
- Chai chỏ, chòa chượu chắp cho chông, chánh cho chành, chạ chánh chông chật chết.
Cô Mùi lại trang nghiêm dịch:
- Nhai nhỏ hòa rượu đắp cho cụ. Thánh cho cụ lành, cụ nhớ tạ Thánh,không Thánh
quở đấy!
Trang đã bắt đầu nghe quen nên hiểu nguyên văn của Thánh dạy là : “. . . không
Thánh vật chết” . Có lẽ cô Mùi còn có một chút lịch sự, thấy nói trắng trợn quá
không tiện chăng nên cô đổi lại là Thánh “quở”. Ai lại Thánh gì mà đòi ăn của
đút không có thì vật chết bao giờ?
Tân đứng sau lưng Trang kéo tay chị thì thầm:
- Thánh “tống tiền” ba, chị Ơi!
“Thánh” xõa tóc phủ cả mặt mày, giắt nén hương lên mang tai, hai tay uốn éo múa
huyên thiên lên người ba Trang một lúc, và bỗng nhiên “Thánh” rú lên một tiếng
rồi xỉu đi. Cô Mùi vội chạy đến đỡ nói:
- Ngài thăng rồi!
“Thánh” bây giờ đã trở lại là cô Ngọc. Cô ngồi dậy búi tóc lại, lấy nước súc miệng
và vội vã:
- Chào hai cụ tôi xin về!
Mẹ Trang mời:
- Cô đi đâu mà vội! Ở lại dùng cơm chay với tôi đã rồi về!
- Thôi cảm ơn cụ để cho khi khác.Tôi còn phải đi cúng mấy đám nữa!
Mẹ Trang lấy hai tờ giấy trăm để vào tay cô:
- Tiền xe, cô cầm tạm.
Cô dẫy nẩy lên:
- Ấy chết! Sao cụ khách khí thế? Chỗ người nhà tiền bạc gì! Tôi “Hầu” thánh
giúp cụ chứ có phải vì tiền bạc gì đâu!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét