Thứ Tư, 23 tháng 2, 2022

Biển và chim bói cá 1

Biển và chim bói cá 1

Một cuốn sách làm cho ta tốt hơn
Festival Sách và Biển (Livre et Mer) là một festival quốc tế hằng năm của Pháp nhằm tôn vinh những tác phẩm viết về biển... Giải thưởng mang tên nhà văn Henri Queffélec, người được xem là một trong những tác giả vĩ đại nhất viết về biển bằng tiếng Pháp trong thế kỷ 20.
Năm 2012 có 6 tác phẩm vào chung khảo của các tác giả từ các nước Pháp, Bỉ, Canada và ở Việt Nam là Bùi Ngọc Tấn với tiểu thuyết Biển và chim bói cá. Tất cả đều là các nhà văn chuyên nghiệp, có người là Thủy sư Đô đốc, có người là Giám đốc nhật báo Le Monde.
Vượt qua 5 tác phẩm khác, Biển và chim bói cá (tên tiếng Pháp là La mer et le martin-pêcheur) đã đoạt Giải thưởng Lớn (chỉ có một giải thưởng duy nhất).
Dưới đây là bản tuyên dương Biển và chim bói cá của ông François Bourgeon, chủ tịch danh dự Festival:
Với Salon năm 2012 này, Concerneau muốn là một thành phố mở ra tất cả các biển.
Về giải Henri Queffélec, ban tổ chức đã tuyển chọn sáu tác phẩm có một điểm chung: tất cả đều đưa chúng ta đến một nơi nào khác... ít nhiều trong thời gian... ít nhiều trong không gian.
Năm này sang năm khác, mỗi ban giám khảo, qua tranh cãi và nghị luận, đề cập đến tính đặc thù của mình, tổng hòa những khác biệt của chúng tôi.
Trước hết, chúng tôi lựa chọn tâm thái trong đó chúng tôi muốn cùng nhau làm việc.
Mỗi tác giả đều mang tính cách rất riêng và mỗi tác phẩm đều độc đáo. Chúng tôi không muốn đưa các tác phẩm được tuyển chọn vào một cuộc thi đấu để phê chuẩn bằng việc xếp hạng. Hoặc đi đến một thỏa hiệp có thể để lại những điều đáng tiếc.
Để cùng nhau tìm ra một tác phẩm mà mỗi người đều tâm thành bảo vệ, chúng tôi đã xác định một số tiêu chuẩn được tất cả đồng thuận.
Khẳng định sự lựa chọn của Liên hoan này là hướng mở về Nơi Khác.
Trong năm kỷ niệm này, tôn vinh Henri Queffélec...
Bằng cách tôn vinh Biển trong cuộc mặt đối mặt giữa Biển và Con Người.
Và, nếu có thể, đánh dấu sự chuyển động của thời gian bằng cách chào mừng Biển trong tính đương thời của nó.
Chúng ta đang ở Concarneau. Concarneau là một hải cảng đánh cá.[1]
Nay là năm 2012, bình minh của một thế kỷ bản lề, khi mà con người đang chậm rãi, rất chậm rãi ý thức ra rằng không một tài nguyên nào của hành tinh xanh này là mãi mãi không cạn kiệt.
Về nhiều điểm, các tác phẩm được tuyển chọn nằm trong một niên biểu dễ gây bối rối mà có lẽ chúng ta sẽ có thể nhắc tới trong khuôn khổ của Liên hoan này.
Về Con Người đối mặt với Biển, được đặt vào đúng chỗ và thế kỷ của mình và đồng thời thay đổi theo tuổi tác, mỗi tác phẩm đều có điều lý thú để nói.
Về mong muốn hướng mở về Nơi Khác, đánh dấu những năm tháng đã trôi qua từ khi sáng lập Salon và Henri Queffélec ra đi, từ khi lập ra giải này, cuốn sách của Bùi Ngọc Tấn đã hoàn toàn làm chúng tôi thỏa mãn.
Tác giả là người Việt Nam.
Ông kể về đất nước mình và về thế giới đánh cá mà đích thân ông từng biết.
Ông đem đến cho chúng ta một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn về lịch sử một hải cảng... về một xí nghiệp đánh cá quốc doanh.
Và về một cộng đồng người đánh cá, can đảm và ranh mãnh vật lộn để nuôi sống gia đình, vét biển đến cạn kiệt. Trước khi bị cuốn vào những quanh co khúc khuỷu của toàn cầu hóa.
Chan chứa thương yêu và ngộ nghĩnh... Đầy chất thơ...
Bùi Ngọc Tấn tặng cho chúng ta một cuốn tiểu thuyết nhân văn... Cấu trúc rất đặc sắc...
Không chút áp đặt, đầy hài hước và ý tứ, ông dẫn chúng ta đến một vĩ thanh để cho chúng ta tự do suy ngẫm... Bùi Ngọc Tấn biết cái giá của tự do.
Tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn là một cuốn sách không thể quên.
Thậm chí có lẽ là... một cuốn sách làm cho ta tốt hơn.
Bụng màu da cam... Lưng xanh biếc.
Quả trái phá óng ánh ấy là con chim bói cá.
Đó không phải là một loài chim biển, mà là chim của sông của suối.
Nhưng khi con nó đói, nó liều mình giáp đấu với sóng cả. Mũi tên thép xanh biếc ấy làm ta nhói lên xúc động...
Và chạm thẳng vào tim.
Dương Tường dịch
Chú thích:
[1] Concarneau là một hải cảng nằm trong bộ phận Finistère thuộc vùng Bretangne phía Tây nước Pháp. 
Một suy tưởng đẹp đẽ và nhạy cảm về phận người
Năm 2012, tiểu thuyết Biển và chim bói cá được giải thưởng Sách Hay do độc giả bình chọn trong hạng mục sách sáng tác (chỉ có một giải cho mỗi hạng mục). Dưới đây là trích đoạn lời tuyên dương Biển và chim bói cá do nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên đọc trong lễ trao giải tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 22-9-2013 vừa qua:
(...) Biển và chim bói cá là cuốn sách thứ năm và là cuốn tiểu thuyết thứ hai của nhà văn Bùi Ngọc Tấn sau một thời gian dài ông bị lâm nạn và lặng tiếng. (Cuốn tiểu thuyết thứ nhất thời kỳ "viết lại" này của ông là Chuyện kể năm 2000 đã được dịch ra tiếng Anh và tiếng Pháp). Tác phẩm có bối cảnh là một xí nghiệp đánh cá cuối thời bao cấp với cả một tập thể nhân vật đủ hạng người phải vật lộn giữa biển khơi và biển đời để sống, để tồn tại. Những con người trên bờ dưới nước giăng lưới đánh bắt cá và cả đánh bắt nhau, họ vùng vẫy tìm cách thoát thân trong một tấm lưới vây bọc mình của cơ chế, của xã hội. Biển mênh mông mà chật hẹp. Biển dữ dội mà êm đềm. Biển nuôi sống con người và dạy con người biết sống làm người tự do. Con chim bói cá đã giúp cậu bé lần đầu tiên được cha cho lên tàu ra biển hiểu điều đó. Nhưng rồi cuộc sống đã làm thay đổi cậu, biến cậu thành một con người khác, mất đi sự trong trẻo của tâm hồn buổi đầu đời. Văn của Bùi Ngọc Tấn trong tiểu thuyết này có sự kỹ lưỡng, chi tiết của ký sự, sự hài hước mỉa mai nhẹ nhàng, và chất thơ của cái nhìn xót thương con người, tất cả được thể hiện trong một lối viết hiện thực nghiêm nhặt. "Cuốn tiểu thuyết cũng là một sự suy tưởng đẹp đẽ và nhạy cảm về phận người" ("Le roman de Bui Ngoc Tan est aussi une belle et sensible méditation sur l'humanité") như nhận xét của nhà báo Pháp Jean-Luc Cochennec khi Biển và chim bói cá trong bản dịch tiếng Pháp của dịch giả Tây Hà ("La Mer et le martin-pêcheur", Editions de l'Aube, 2011) được trao Giải thưởng Lớn (Grand Prix) tại Liên hoan Sách và Biển (4-2012) mang tên nhà văn Pháp chuyên viết về biển Henri Queffélec (1910-1992). Có thể đọc Biển và chim bói cá như một thiên sử thi. Sử thi về sự tan rã. Đây là lời nhà văn tâm sự: "Sử thi không chỉ là để nói về chuyện thành lập cái này, cái kia. Trong cái tan rã, có những cái rất bi hùng. Tan rã ở đây là về ý thức hệ, từ chỗ tuyệt đối tin tưởng, rồi đến hoang mang dao động rồi mất lòng tin; tan rã từ chỗ đoàn kết gắn bó với nhau trở nên rời rạc, phân rã, mỗi người một kiểu; tan rã trong tình bè bạn, tan rã trong tình đồng chí, tan rã trong một tổ chức, một lý thuyết tổ chức chỉ đạo sản xuất. Tôi nghĩ rằng, tôi cố gắng phản ánh thực tế của sự tan rã ấy bằng những chi tiết cụ thể, chi tiết sinh động, mà không ai có thể chối cãi được" Giải thưởng Sách Hay 2013 trao cho tác phẩm này thêm một lần khẳng định giá trị nhân văn sâu sắc của một cuốn sách rất hiện thực mở ra cho người đọc một cách nhìn thẳng vào sự thật, hiểu về một thời đã qua, xót xa cho phẩm cách con người trong cuộc vật lộn chống lại sự tha hóa và tan rã của con người. Để con người lại được hồi sinh cùng biển đời theo từng lớp sóng nhân sinh của các thế hệ kế tiếp nhau. (...)
Phần thứ nhất
Trần Bôn thuyền trưởng tàu Hạ Long 414 có cách cặp cầu thật êm ả nhẹ nhàng. Trên khoảng trống cầu tàu chiều dài chỉ vừa một con tàu đỗ, lựa theo dòng nước chảy, anh cho tàu chạy tới chạy lui, đến khi quăng được một đoạn dây mồi lên cho một anh cảng vụ để anh ta kéo vào đoạn dây cáp to tướng ướt sũng nước rồi buộc nó vào cột bích là coi như công việc đã xong một nửa. Chỉ còn cho tơi quay cô dây cáp, kéo mũi tàu sát cầu ép cái lốp xe cũ vào dầm gỗ ốp bọc ngoài dầm bê tông, làm xùn ra những giọt nước trong veo. Rồi đánh tay lái, điều khiển phía đuôi tàu cho cả thân tàu sát vào gần cầu cảng. Rồi cũng lại một sợi cáp được quăng lên, cột vào một trụ bích khác. Tơi cuộn rút ngắn cáp, kéo đuôi tàu áp sát cầu. Mạn tàu dập dềnh cũng lại được những cái đệm chống va đan toàn bằng mây như một quả bom hình bầu dục treo thõng trên cầu tàu rúm lại đón đỡ. Thế là con tàu của anh đỗ vừa khuýp khoảng cầu trống người ta dành cho anh, sát các tàu khác như ta xếp một cái xe đạp. Với chiếc cầu thang bắc chênh chếch từ mạn xuống mặt bê tông cầu cảng, nó như đã đỗ ở đấy tự bao giờ.
Nếu cặp cầu nhẹ nhàng êm ả nhất là Bôn thì cặp cầu ầm ĩ nhất là Chơn. Bao giờ Chơn cũng oang oang những mệnh lệnh cặp cầu qua micro, náo động cầu cảng, náo động cả một khúc sông và những xí nghiệp bạn liền bên:
- Lên nữa! Lên nữa!
- Quay lái ra để tàu lai kèm đổi mạn!
- Quăng dây! Quăng dây!
- Tàu lai! Tàu lai! Đề nghị tàu lai áp mạn! Đề nghị tàu lai áp mạn!
- Tàu lai! Đưa 412 về gần Biển Đông! Đừng để trôi! Đừng để trôi!
- Đề nghị đưa 412 về gần Biển Đông!
Những mệnh lệnh mỗi lúc một gắt gỏng cau có:
- Vứt dây!
- Buộc lên bích trên! Buộc lên bích trên!
- Đứng ra! Gãy chân bây giờ!
- Cho trục tơi cuốn cáp lái vào đi!
- Không được để chạm vào dây cáp Biển Đông! Không được để chạm vào dây cáp Biển Đông!
Cứ như vậy cho đến khi tất cả lặng đi. Và bỗng nhiên vang trong khoảng trời xanh êm đềm cầu cảng, thay cho những mệnh lệnh, những tiếng gắt gỏng càu nhàu được phóng đại oang oang là một giọng đơn ca nữ trong trẻo vút cao trên nền đệm của dàn nhạc dây: Đi mô chừ cũng nhớ về Hà Tịnh. Nhớ núi Hồng Lịnh, nhớ dòng sông La nhớ biển rộng quê ta ớ ơ... thì cả xí nghiệp biết ông Chơn đã cập cầu xong rồi. Lần nào cũng chỉ một bài ấy. Nếu không thì Nghệ Tĩnh mình ơi bao năm đợi tháng chờ. Một vùng nước bạc đồi núi lô nhô... Những bài hát thật hay mà những lúc rỗi rãi chính Chơn thường nghêu ngao xuyên tạc: Nghệ Tĩnh mình ơi Trung ương gọi lấy mì, hay Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tiện. Với Chơn, bấy giờ mới thật sự kết thúc một chuyến biển dài mệt nhọc vất vả (cho dù anh đã hạ lệnh kéo mẻ lưới cuối cùng và làm tổng vệ sinh tàu trước đó cả một ngày rồi hành trình từ ngư trường về bến), bấy giờ mới là lúc anh dành cho mình những phút giây thanh thản. Chơn người miền trong, Khu Trớ, theo cách gọi của cánh văn phòng. Nhưng là một Khu Trớ tuyệt vời. Lạ thế. Khu Trớ đã keo thì thật keo, nhưng đã rộng rãi, dân Bắc đầu hàng đã hẳn, cánh Nam Bộ cũng phải chào thua. Đấy cũng lại là nhận xét của cánh văn phòng. Nhận xét này được tất cả các phòng ban công nhận. Hội văn thư đánh máy có lần nào xuống tàu mà không được những gói cá tươi ngon. Dân kỹ thuật thì khỏi nói. Những chiến hữu cánh hẩu. Những buổi nhậu dưới tàu và những buổi nhậu trên phố quên đời. Chánh văn phòng Điều không thể quên một tối đi nhậu với Chơn. Chỉ có hai người. Hai người hai xe đạp, lên phố Ga. Uống từ tan tầm chiều. Tới tắt đài. Một chai Giôn đen. Hai thùng Heineken chỉ còn lại bốn lon. Uống xong cứ bảo ngủ lại. Đây là nhà dì nó mà. Nguyệt! Nguyệt! Mình thu xếp cho sếp của anh chỗ ngủ ở đâu nào. Còn anh, mình không lo. Mình ngủ đâu anh ngủ đó. Hay là thôi cứ để sếp ngủ luôn với vợ chồng mình. Em yên tâm, con này con ấy chết rồi, có ngủ cùng giường cũng chết rồi, chẳng việc gì mà sợ... Chánh văn phòng không quên được trận nhậu đó. Trận nhậu cũng sưa như nhiều trận nhậu khác nhưng nhớ là nhớ cái đận sau khi nhậu xong. Điều gọi xích lô. Gửi hai xe đạp lại nhà hàng. Dìu Chơn lên xích lô rồi ôm Chơn ngồi trên xe về cầu cảng. Thằng cha ấy uống mới tởm chứ. Rượu chia đôi. Bia mình chỉ uống gần chục lon. Còn bao nhiêu vào lão ấy cả. Đến lúc xuống tàu thật hú hồn. Nước xuống. Tàu đỗ hàng ba, mà cái 412 lại đỗ ngoài cùng, chỉ sợ bố ấy rơi xuống sông. Mãi không vắt được chân qua lan can. Vắt được chân rồi cha ấy cũng không lật được sang bên kia. Cứ nằm úp người trên hai lan can hai tàu. Mà nào tàu có đứng yên cho đâu. Một con tàu đi mãi giữa luồng cũng làm cho hai lan can dập dềnh tách ra, chụm vào, nhô lên tụt xuống. Mình phải nhảy vội sang tàu ngoài bế xốc bố ấy lên. Cứ thế qua được hai tàu. Đến khi về được 412 mình móc các túi của cha ấy tìm chìa khóa không thấy, không mở được cửa, thế là dìu cha ấy quành ra hành lang, đẩy cha ấy chui qua cửa sổ cabin vào giường. Buồng thuyền trưởng tàu bốn trăm (400 mã lực) ông biết rồi đấy. Giường liền ngay cửa sổ. Sáng hôm sau đi làm, lên xích lô đến phố Ga lấy xe đạp, đạp đến xí nghiệp, việc đầu tiên là xuống tàu xem cha ấy có việc gì không, thấy cha ấy vẫn ngủ. Vẫn nằm sấp, một chân trong giường, một chân thò ra cửa sổ. Đút vào thế nào nằm i xì thế ấy. Không nhóc nhách. Suốt đêm một tư thế. Như người chết rồi. Hôm ấy lão ta làm sao mình chỉ có toi.
Chơn đánh cá, tính nết phổi bò. Vợ ở quê có mang với một anh giáo viên trường cấp hai về sau làm xã đội.
Biết tin, Chơn xin nghỉ phép về nhà. Nhưng vợ đã bị bố đuổi về nhà bố mẹ đẻ. Chưa gặp vợ nhưng nhìn bố, lòng anh đau. Anh không ngờ bố lại suy sụp đến vậy. Anh hiểu tất cả do vợ anh. Bố anh là người được cả làng, không những thế, cả xã tín nhiệm. Gia đình anh là một gia đình được cả huyện nhìn vào. Thời chống Pháp, bố anh đã làm chủ tịch xã, rồi trong Ban chấp hành Mặt trận Liên Việt huyện. Anh cả Chơn vào bộ đội ngay khi tiếng súng kháng chiến toàn quốc bùng nổ và hy sinh trong chiến dịch Biên giới. Mấy anh em Chơn đều được bố mẹ cố gắng nuôi ăn học, người đỗ trung cấp, người tốt nghiệp đại học. Vết nhục này quá sức chịu đựng với ông cụ.
- Khốn nạn quá. Bố không dám vác mặt đi đâu nữa. Gia phong nhà ta không cho phép chứa chấp loại người như thế. Vợ chứ không phải con điếm trong nhà. Ý anh thế nào là tùy, nhưng bố không thể ở với nó một nhà. Bố không thể có một đứa con dâu như thế.
Anh đến nhà bố mẹ vợ, xuống bếp gặp vợ, nhìn cái bụng lùm lùm của vợ:
- Bao lâu rồi?
Vợ anh khóc:
- Bảy tháng rồi.
- Bây giờ tính sao?
Nước mắt ướt đẫm gò má, người vợ gục mặt xuống đầu gối, vai rung lên. Một lúc sau ngước cặp mắt sưng mọng nhìn anh:
- Em là con đàn bà hư hỏng. Em là đứa bỏ đi. Em không xứng đáng với anh, với bố mẹ. Em đã không giữ được. Sa chân bước xuống ruộng dưa. Bây giờ còn biết nói sao.
Anh vẫn nhẹ nhàng:
- Với ai?
Chị vợ im lặng. Anh gầm lên:
- Với thằng nào?
Người vợ sợ hãi mặt cắt không còn giọt máu:
- Anh... Tính.
Anh quát như một cái máy:
- Tính nào?
- Tính con ông Đội Tâm.
- Nó có vợ chưa?
- Rồi. Giọng chị lí nhí.
Đến lúc ấy anh mới hiểu hết ý nghĩa những lời chị trả lời anh. Đến lúc ấy anh mới qua khỏi cảm giác tức giận, căm thù sôi sục trong lòng, nỗi uất hận từ khi nghe cái tin nhức nhối nhục nhã ấy và bình tĩnh trở lại. Chị đã nói thật với anh tên con người ấy. Cho đến giờ phút này chưa ai biết được cái người đã tàn phá hạnh phúc của anh. Đó là một người chẳng xa lạ gì. Một thằng bạn học cùng lớp trường làng, cho đến cấp hai, và khi anh học lên cấp ba thì hắn thi vào mười cộng ba. Tao không ngờ lại là mày Tính ạ!
- Chỉ xin anh thông cảm với em. Anh cứ đi biền biệt. Đã bao ngày đêm em mong có anh ở bên dù chỉ một lúc thôi...
Chơn đau nhói. Lỗi đâu chỉ một mình vợ. Còn lỗi của anh. Tại anh học nghề khai thác. Giá anh nghe bố học nghề nuôi cá thì đâu đến nỗi. Học nghề nuôi, sau khi tốt nghiệp, anh có thể xin việc ngay tại địa phương, xa lắm là ty thủy sản tỉnh, hàng tuần cùng lắm hàng tháng, anh có thể về nhà. Thi vào đại học thủy sản, anh ghi tên vào ngành khai thác và nói dối bố học nghề nuôi cá. Thư bố, thư các anh em viết cho anh đều gửi Trần Nhân Chơn khoa nuôi. Các bạn gái bên khoa nuôi nhận thư và chuyển thư cho anh. Bố anh vẫn tưởng anh nghe theo lời khuyên của mình, học nuôi cá mà không học đánh cá “cái nghề gái ba chồng, một cơn gió là mất một đời chồng rồi”. Càng ngày anh càng thấy mình học nghề khai thác là một sai lầm, nhưng ngày ấy học xong phổ thông mới mười bảy tuổi, lòng anh còn hướng về biển cả.
Anh viết đơn ly dị đem đến nhà vợ. Vợ anh lặng lẽ cầm bút ký, không nói nửa lời. Ký xong chị im lặng nhìn anh, rồi chạy vào trong buồng, nằm không một tiếng động. Trước khi ra về, anh bước vào vĩnh biệt chị, thấy chị đang úp mặt xuống gối, gọi thế nào cũng không ngẩng lên. Sao lúc ấy anh thương vợ đến thế. Thương vợ và xót xa nhục nhã cho mình. “Thôi, tôi về”. Anh nói vậy và bước nhanh ra khỏi buồng, lấy xe đạp một mạch về nhà, không chào hỏi một người nào gặp trên đường.
Tưởng thế là xong nhưng nửa năm sau bố Chơn ốm chết. Bố chết khi Chơn đang trên biển. Chơn về, đã mai táng bố rồi. Cái đau nhất của Chơn là không được nhìn bố trước khi bố chết, là anh luôn nghĩ rằng trong cái chết của bố có nguyên nhân sự hư hỏng của vợ, có cái sai lầm của anh đã học nghề khai thác. Càng đau thêm vì bố chỉ được liệm bằng vải trắng, mà phong tục quê Chơn các cụ già mất phải liệm bằng vải đỏ. Chưa bao giờ anh thấy mình là một thằng con khốn nạn như những ngày ấy. Anh nhìn mẹ, hiểu rằng một ngày nào đó không xa, mẹ cũng lại ra đi. Trở về xí nghiệp, anh đạp xe lùng mua vải đỏ nhưng không đâu có bán. Ngày ấy muốn mua vải đỏ phải có giấy của ngành văn hóa thông tin, vải đỏ chỉ để phục vụ cho việc may cờ, làm biểu ngữ. Ngày ấy thật khó khăn, chỉ mới lo được cho người sống, chưa thể nghĩ đến người chết. Anh ra chợ mua chui mười thước vải trắng rồi đem đi nhuộm màu đỏ cờ. Tấm vải ấy anh gấp cho vào túi ni lông để trong ngăn kéo bàn tác nghiệp hải đồ, thỉnh thoảng lại giở ra phơi. Anh sợ mẹ cũng ra đi vội vã như bố nên lo ngay ngáy. Khi Lê Thanh Ý cùng học một khóa khai thác với anh, nhà ở làng bên về nghỉ phép, anh đã nhờ cầm mười mét vải đỏ về đừng đưa cho bà, đưa cho thằng em tao, thằng Thinh ấy nhé. Chỉ đến lúc ấy Chơn mới yên tâm.
Cuộc sống vất vả khó khăn nhưng Chơn vẫn giữ nguyên tâm hồn yêu văn nghệ từ những ngày đi học. Đợt phát động thi sáng tác quốc ca mới, anh bập bùng cây đàn ghi ta, miệng khe khẽ: Đất nước Việt Nam tươi đẹp anh hùng. Chủ nghĩa Mác Lê-nin tất thắng. Chúng ta tiến lên cùng thế giới năm châu. Đại đổng là tương lai. Đại đổng điều chúng ta mơ ước... Anh em người cười bảo là hâm, người khen hay. Đến khi bài hát của Chơn được phát trên đài (chắc có công sức của ông anh họ Chơn làm trưởng phòng gì đó ở Đài truyền hình thành phố) mọi người đều thấy hay, không như khi nghe Chơn ê a bập bùng cây đàn ghi ta dưới tàu. Có phối âm phối khí nó khác chứ. Chơn bảo vậy. Lúc ấy Chơn muốn kéo mọi người đi uống rượu. Trong một bữa rượu dưới tàu do Chơn chiêu đãi khi trú gió ở Vụng Ngọc, nhiều thuyền viên nhắc tới bài hát của Chơn. Họ không bảo nhau nhưng cùng tung hứng về bài hát coi như một món đưa cay trong cuộc nhậu, người bảo bài hát tuyệt hay có thể được chọn làm quốc ca, nhất là tác giả lại thuộc giai cấp công nhân, người bảo thôi đừng nịnh thối thuyền trưởng, quốc ca phải là những nhạc sĩ chuyên nghiệp cơ. Ông Văn Cao còn đang bị loại kia kìa. Thủy thủ trưởng Diêu, tợp một chén rượu gọn như nuốt một viên thuốc bổ, nói: Không có đâu. Dù thuyền trưởng sáng tác hay hơn mười mươi họ cũng không chọn đâu. Cái suất ấy không phải của... Giọng Diêu đã bèn bẹt đờn đợt. Diêu đã say lắm và càng say càng đờ đẫn lắc lư cái đầu và càng rót khỏe:
- Thủ trưởng ơi. Đếch cần làm tác giả quốc ca thủ trưởng ạ. Cái thủ trưởng cần bây giờ là vê ơ vơ nặng.
Chơn cười:
- Tao sắp lấy vợ rồi. Không phải để chúng mày phải lo.
Thế là tất cả nhao nhao:
- Cô Hồng nhà đài hôm nọ xuống lấy tin tàu mình á?
- Không phải mới hôm nọ đâu. Lâu rồi.
- Thế thì gay lắm thủ trưởng ơi. Em thấy cô ấy hay cặp kè với chánh văn phòng Điều lắm. Xuống tàu nào cũng sóng đôi với chánh văn phòng. Được con cá nào cũng chánh văn phòng đưa ra tận cổng bảo vệ.
- Không phải một mình chánh văn phòng đâu. Còn đi với thi đua Tín nữa đấy.
- Thi đua Tìu á? Giò Tìu thì không lo! Giò Tìu mắc bệnh tiểu đường. Coi khinh.
Anh em đang hăng rượu, hăng nói. Mấy con mực một nắng nướng bếp điện thật tuyệt. Lại giọng Diêu đờn đợt, dèn dẹt:
- Các cậu có biết vì sao thủ trưởng mất hai cái răng cửa hàm dưới không? Vì cô Hồng đấy.
Cả bọn cười vang: “Cô Hồng yêu thế nào mà thủ trưởng rụng mất cả răng thì khủng khiếp thật”. “Hoan hô cô Hồng...”
Vẫn giọng Diêu kéo dài bèn bẹt:
- Tại hôôn đấy. Cô Hoòng hôôn thủ trưởng lâu quá đaáy...
Vốn là người xuề xòa với anh em, nhưng Chơn cũng thấy cần phải kết thúc đề tài này, và kết thúc luôn cuộc nhậu, anh nghiêm mặt bảo Diêu:
- Chùng dây cu roa rồi. Méo tiếng rồi. Về cabin đi. Thôi. Tất cả giải tán.
Khi mọi người ai về buồng người ấy, cái đề tài anh em vừa nêu ra cứ vấn vương mãi. Chơn nằm nghĩ đến vợ.
Rồi nghĩ đến những phụ nữ anh đã gặp đã biết. Nhiều. Nhưng chỉ có hai người làm anh thực sự xúc động. Huyền và Hòa. Cả hai cùng có tên bắt đầu bằng chữ H, cùng ở Hải Triều và đều là người anh quen trước khi lấy vợ. Bắt đầu là Huyền. Rồi đến Hòa, hàng xóm của Huyền. Hạng, anh Huyền đi bộ đội vào đóng ở nhà anh thời anh còn đi học. Cả làng, nhà nào cũng có bộ đội. Toàn dân Bắc. Thái Nguyên, Vĩnh Phú, Hà Tây... Đó là thời gian sắp tết. Dân làng đã chuẩn bị lợn gà, cá thu, gạo nếp cho bộ đội một cái tết vừa thật tình cảm vừa thật tưng bừng để bù cho cái tết phải xa nhà của những chàng trai mặt bấm ra sữa như con cái mình này. Bởi ai cũng biết, cũng nghĩ đây là thời gian ngắn ngủi những chàng tân binh trẻ măng từ những nơi nào đến nhưng thân thiết như con em trong nhà còn được nghỉ ngơi, còn được hưởng hòa bình dù phải xa gia đình, cái tết hòa bình cuối cùng trước khi vào Nam xông pha mũi tên hòn đạn. Nhưng đúng vào lúc gạo nếp gói bánh chưng đã ngâm, chả cá thu đã rán, những con lợn trong chuồng đã được ước lượng số cân trước khi mổ thịt, khi không khí tết tưng bừng xóm làng cùng với bữa liên hoan cuối năm đang được gấp rút chuẩn bị thì bộ đội được lệnh hành quân. Bộ đội không khóc, nhưng dân làng khóc. Khóc như mưa như gió. Cả những mẹ trong hội mẹ chiến sĩ. Cả những cô gái mới bắt đầu quen những chàng trai tứ xứ đổ về làng. Dù đã biết rằng tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, phải tranh thủ mấy ngày ngừng bắn trong dịp tết, hành quân cấp tốc vào Nam, nhưng làm sao không thương những con em mình không được nghỉ ngơi, không được đón tết với gia đình đã hẳn, lại còn không có tết, không được bình yên đón xuân sang, đón một tuổi mới ở miền Bắc hòa bình, phải vào Nam, dấn thân bom đạn. Chơn cũng khóc. Anh vào buồng lấy mấy gói mứt, mẹ anh dồn hết số chả cá thu của nhà vào túi ni lông đưa cho anh Hạng. Lẽ tất nhiên là Chơn đã biết địa chỉ nhà anh tân binh đóng ở nhà mình, và khi tốt nghiệp đại học, về Hải Triều công tác, anh đến nhà Hạng như đến nhà một người thân. Hạng đã được ra quân với tấm huân chương chiến công, rất yêu quý Chơn. Không chỉ Hạng mà cả nhà. Bà Kỳ mẹ Hạng, cô Huyền em gái Hạng. Anh đến nhà Hạng thường là với những tiêu chuẩn hàng tháng của xí nghiệp dành cho người đi biển. Cặp mực nang, con cá chim, cân mực khô... Cả nhà muốn gả Huyền cho Chơn không phải vì số thực phẩm quý giá ấy mà vì nhận thấy ở Chơn một chàng rể tuyệt vời. Chơn cũng có cảm tình với Huyền. Còn Huyền công khai bộc lộ tình yêu bằng những cử chỉ thật lộ liễu nhiều khi làm Chơn đỏ mặt lên. Chính là Huyền chủ động nắm tay anh trước. Huyền cũng hôn anh trước. Anh đáp lại cái hôn ấy cuồng nhiệt không kém mà cứ nhớn nhác nhìn quanh, sợ có người nào đó bước vào hay mẹ Huyền từ bếp đi ra. Sẽ hạnh phúc biết bao nếu anh lấy Huyền, có một gia đình ở ngay Hải Triều và mỗi khi tàu cập cảng, anh có thể về đó nghỉ ngơi hưởng không khí gia đình, sự chăm sóc của vợ, nô đùa với các con, chấm dứt cảnh quanh năm suốt tháng ở trên tàu, bữa cơm xuống phòng ăn, lấy “xẻn” xúc cơm từ vạc trong bếp... Ai cũng tưởng anh sẽ lấy Huyền. Cả mấy nhà hàng xóm cũng nghĩ rằng đám cưới giữa hai người sẽ được tổ chức không lâu nữa. Thế nhưng sự việc không thành. Vì Hạng. Không phải Hạng phản đối Chơn. Chơn khi ấy đã được coi là một thành viên của gia đình. Mà vì Hạng nhất định lấy một phụ nữ đã qua ly dị và đã có hai con. Cả nhà phản đối. Ông già bà già khuyên can, khóc lóc. Hạng vẫn lì lợm, không trả lời câu hỏi “vì sao” của mọi người trong gia đình kể cả của Chơn. Thế rồi Huyền bước nhanh tới chỗ Hạng, giang thẳng cánh tát vào mặt anh trai. Bốp! Hạng ngẩng lên ngơ ngác. Một cái tát nữa vào má bên kia. Hạng đứng lên. Huyền cúi xuống rút chiếc guốc giơ cao ngang đầu. Hạng gần như chạy xuống bếp. Huyền ném theo chiếc guốc. Chơn mở to mắt nhìn Huyền. Anh không thể quên được dáng người, nét mặt Huyền lúc đó. Một Huyền khác hẳn, anh chưa hề biết. Một Huyền làm anh ngạc nhiên, dữ dằn, quyết đoán, buộc anh phải nghĩ nếu lấy Huyền làm vợ, cuộc sống vợ chồng có thể sẽ là như thế. Từ đấy anh thưa đến nhà Huyền. Rồi cuối cùng phải nói dối Huyền là anh chưa muốn yêu, chưa muốn lấy vợ vào lúc này. Một lần đến nhà Huyền nhưng cả nhà đi vắng, bà hàng xóm nhà Huyền, một người bạn buôn chuyến cùng với mẹ Huyền kéo anh vào nhà bà “anh vào chơi, mời anh vào chơi, cô Huyền sắp cưới rồi, chắc anh cũng biết chứ”. Bà dẫn anh vào một lối đi hẹp, qua một buồng tắm để mở, Hòa, cô con gái bà mới mười bốn tuổi mà anh vẫn gặp gỡ chuyện trò những khi đến nhà Huyền, đang tắm ở trong đó. Anh đã cố không liếc nhìn vào nhưng không thể. Nhất là bà mẹ khi bước qua cửa buồng tắm bỗng dừng lại cúi xuống như là sửa cái quai dép, để anh ở phía sau có đủ thời giờ nhìn ngắm con gái mình. Dù chỉ một cái liếc rất nhanh thôi, anh cũng thấy một thân thể trắng ngần thon nhỏ nõn nà và hẳn là rất thơm tho vừa là đứa trẻ vừa là người lớn đang khom người lấy tay che chỗ kín, hai bên ngực phồng lên hai cái bánh dày nằng nặng hơi trĩu xuống. Chỉ thoáng nhìn thôi cũng biết rằng mỗi tế bào trong người cô đang bừng nở để thành thiếu nữ. Bà mẹ đưa anh vào nhà và rất vui vẻ thẳng thắn hỏi anh có bằng lòng con gái bà không? Con bé trong buồng tắm anh vừa đi qua ấy. Anh cám ơn bà, nói với bà rằng cô bé còn chưa đến tuổi. Suốt đời anh không thể nào quên được lối đi hẹp tối tối trong nhà bà, cái ô buồng tắm để mở và cảm giác bàng hoàng, lần đầu tiên trông thấy một người con gái đang tuổi dậy thì hoàn toàn khỏa thân, lần đầu tiên trông thấy một măng nụ trắng trong đến thế, thật đến thế, gần đến thế mà cũng lại xa vời đến thế. Sau này Huyền cũng đã khỏa thân với anh. Nhưng không phải là cảm giác nâng niu chiêm ngưỡng như Hòa mỗi khi nghĩ đến mà đơn thuần gợi lòng ham muốn. Khi ấy Huyền đã lấy chồng, đã có con, còn anh cũng đã ly dị vợ. Huyền đã là chủ một cửa hàng vàng. Vừa thấy anh bước vào, chồng Huyền đang ngồi ăn xôi ở bàn, liền đứng dậy cầm gói xôi đi vào nhà trong. Huyền bảo anh: Nó không chào anh à? Không được. Để em bắt nó ra chào anh. Chơn phải can ngăn mãi, Huyền mới chịu ngồi yên. Huyền mời anh trưa hôm sau lại ăn cơm. Tàu anh còn đỗ bến chờ xuống đá, anh vui vẻ nhận lời. Cái buổi trưa hôm sau ấy, cả nhà chỉ có một mình Huyền. Huyền cho đóng cửa hàng và anh hiểu cái gì sẽ đến. Huyền dắt anh lên phòng ngủ của hai vợ chồng Huyền trên gác, thong thả cởi quần áo trên người rồi ôm lấy anh thì thầm:
- Chẳng còn gì nữa đâu nhưng anh cũng phải yêu em một lần.
Rồi nằm xuống giường chờ đợi. Anh bỗng nhớ tới cô gái mười bốn tuổi trong buồng tắm bối rối nhìn anh mà anh chỉ dám liếc nhanh. Giờ thì không phải liếc nhìn vội vàng. Giờ có đủ thời gian. Anh biết chồng Huyền lên Hà Nội thanh toán tiền hàng. Anh biết đứa con trai Huyền đã về ông bà nội. Nhưng khi mảnh vải cuối cùng trên người được Huyền khẽ cong người lên gỡ bỏ, anh giật mình tưởng như vợ anh đang nằm trước mặt. Sao lại có thể giống nhau đến thế. Cũng mịn màng căng mọng, cũng lớp lông dày đen mịn sóng nhau như ép vào da thịt phân thành ba nhánh, một nhánh thẳng lên bụng và hai nhánh xòe ra hai bên làm thành một hình chữ thập. Hệt như của vợ anh. Anh nghĩ đến vợ. Rồi ngay sau đó nghĩ đến Tính, cái thằng học mười cộng ba, bỏ dạy làm xã đội. Vợ anh cũng đã nằm trên giường như thế này và cái thằng xã đội đáng nguyền rủa ấy hẳn cũng đã nhìn vợ anh nằm chờ đợi trên giường thế này như anh đang nhìn Huyền. Một nỗi chua xót làm anh nghẹn nơi cổ. Huyền ngơ ngác khi thấy anh đang cởi áo sơ mi bỗng cài khuy trở lại:
- Anh làm sao thế?
Lúc bấy giờ anh mới biết mình đang cài khuy áo, anh nói như người có lỗi:
- Anh hôm nay làm sao ấy. Bị hỏng. Em xem đây này. Huyền nhổm dậy, vít cổ anh, kéo anh đổ sập xuống người Huyền. 
Thế là tôi sắp đi ra biển. Tôi sắp được gặp biển. Biển tôi chỉ nghe nói đến, chỉ được nhìn thấy trên tivi, trên màn ảnh. Tối hôm qua tôi ngủ dưới tàu. Cầu tàu êm ả. Những con tàu nối sát nhau chạy dọc cầu. Những ngọn đèn im lặng tỏa sáng. Suốt đêm, hai con lợn tàu nuôi cứ ụt ịt tha thẩn quanh boong. Chúng rất béo, mỗi con phải non một tạ. Gấp đôi con lợn mẹ tôi nuôi ở nhà. Con lợn mẹ tôi bảo để cân, lấy tiền mua cho tôi chiếc xe đạp nhưng bố tôi gạt đi: Xe đạp của thằng Phong để tôi lo. Rồi bố bảo tôi: Bố sẽ mua cho mày chiếc mini Nhật. Thế là cái Ngàn em tôi reo lên:
- Thế thì mẹ bán lợn lấy tiền mua xe cho con.
Bố tôi vuốt tóc nó:
- Con cứ học giỏi như anh Phong, bao giờ đi được xe đạp bố mua cho một chiếc. Cũng mini Nhật. Đỏ. Được không?
Chiếc xe mini và chuyến đi biển hôm nay là phần thưởng của bố tôi cho tôi. Bố đã hứa nếu tôi được vào cấp ba sẽ thưởng cho tôi một chiếc xe đạp và cho đi một chuyến biển cùng với bố. Chiếc xe mini Nhật hai dóng là mơ ước của tôi. Chắc chắn tôi sẽ có. Bởi trường cấp ba ở mãi tận Si, cách nhà tôi tới bốn cây số. Là học sinh giỏi được vào thẳng cấp ba, phần thưởng cho tôi còn là chuyến về Hải Triều đi theo bố tôi chuyến biển hôm nay.
Từ Khê Thượng chúng tôi đi bộ ra ga Bắc Giang, lên tàu về Hà Nội rồi lại lấy vé đi tàu tới Hải Triều. Chúng tôi nghĩa là tôi, bố tôi và bác Nguyễn Văn Sĩ thủy thủ trưởng của bố tôi. Tôi quên chưa nói bố tôi là thuyền trưởng dưới tàu. Bác Sĩ quê ở một làng ngoại thành Hải Triều lên chơi với bố tôi và cùng về với chúng tôi. Chuyến đi đối với tôi là một chuyến đi kỳ diệu. Con tàu lao trên đường sắt kỳ diệu. Hà Nội kỳ diệu. Thành phố Hải Triều kỳ diệu. Nhìn qua cửa sổ toa tàu, một khoảng không gian mênh mông luôn thay đổi trước mắt tôi. Và gió. Gió như muốn dứt tóc tôi ném về phía sau. Chưa bao giờ tôi đi xa như vậy.
Từ ga, chúng tôi ngồi xích lô đi thẳng xuống xí nghiệp, ra cầu cảng, xuống tàu. Xí nghiệp không người. Các cửa đóng im ỉm. Sân rộng vắng tanh. Đã tan tầm chiều. Cầu cảng vắng người nhưng có rất nhiều tàu đỗ. Cái to hơn tàu bố tôi. Cái nhỏ hơn. Cái sơn xanh. Cái sơn xám như tàu bố. Cái sơn đỏ có cần cẩu giống cổng chào. Riêng tàu bố vẫn còn nhiều người. Tôi đã quen một số, những người đã lên Bắc Giang, về nhà tôi cùng với bố: Chú Hùng lùn thuyền phó, bác Suất máy trưởng, chú Hồng trưởng ca... Bố trừng mắt nghiêm nghị bảo tôi: Không được leo trèo nghịch ngợm chết người như bỡn. Bảo không nghe là cho lên bờ luôn đấy. Rồi bố gọi mấy người vào phòng bố bàn bạc công việc để ngày mai tách bến. Sau đó ba chúng tôi ăn cơm. Các chú các bác dưới tàu đều đã ăn rồi. Phòng ăn cũng là bếp. Chật chội, trần thấp. Trông thẳng ra một cái cửa sắt, ngưỡng cửa cao gần tới đầu gối. Ngoài boong là tơi, trục tơi nằm ngang quấn đầy ắp những vòng dây cáp đã bôi mỡ. Cơm trong vạc. Một xoong canh sườn ninh khoai sọ. Một bát men rau sống. Tôi chưa ăn bữa cơm nào ngon như vậy. Trong khi chúng tôi ăn, các chú thủy thủ phóng xe về, phóng xe đi. Dưới tàu chỉ còn mấy chúng tôi.
Tôi ngủ chập chờn. Trên giường chú Hùng lùn. Chú Hùng về nhà ngủ. Nhà chú ở gần ngã ba (mà sau này tôi mới biết còn gọi là Ngã Ba Đông Dương), lối đi vào xí nghiệp. Tôi đã thám hiểm mấy phòng. Phòng thuyền trưởng rộng nhất, tuy vậy cũng vẫn là rất hẹp. Một chiếc giường ghép vào vách cabin, cao lưng lửng, thành giường nhô cao để khi ngủ, khi nằm, sóng xô có bị lăn cũng không rơi xuống sàn. Ngay dưới chỗ nằm (như gầm giường) là một thứ tủ có cánh mở ra mở vào chạy dọc suốt giường. Giữa buồng là một cái bàn nhỏ. Cạnh bàn ở phía tường cabin bên kia là ghế gỗ, một chiếc ghế lượn cong theo góc của hai cạnh tường gặp nhau như đi văng có thể ngồi được bốn năm người. Chân tường là một cái giá khoét lỗ tròn để vừa phích nước, sao cho sóng to tàu chao đảo phích cũng không bị đổ. Ngoài ra còn có một cái bàn làm việc liền ngay cửa sổ trông ra phía mũi tàu và một cái ghế dựa. Tất cả (trừ chiếc ghế dựa) đều được bắt chặt vào sàn tàu, vào vách tàu làm bằng gỗ bọc mi ca có vân bóng loáng. Phòng chú Hùng cũng như vậy nhưng nhỏ hơn, chỉ có bàn làm việc, không có bàn tiếp khách. Tôi nằm mà nhớ đến mẹ tôi. Đến cái Ngàn em tôi. Chắc bây giờ cái Ngàn đã ngủ ngon rồi. Còn mẹ tôi ngủ chưa hay đang nhớ đến tôi. Đêm ngủ xa nhà đầu tiên của tôi. Ngày mai tôi còn đi xa nữa. Ngày mai tôi đi ra biển. Tôi thức thức ngủ ngủ trong tiếng những con lợn tìm ăn ụt ịt ngoài hành lang vọng vào và tiếng xe mảy trên cầu cảng.
Sảng hôm sau, dậy sớm, tôi leo lên đỉnh nóc cabin nơi cao nhất của con tàu rồi trèo lên cái trụ đèn như một nòng pháo chĩa thẳng đứng lên trời. Cái trụ đèn có sáu bậc thang, sáu cái đèn xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp: Đỏ, xanh, trắng. Đỏ, xanh, trắng. Bóng đèn như cái cốc úp xuống, bên ngoài là những vòng thép cuốn bảo vệ. Nhìn. Nhìn ra bốn chung quanh. Nhìn ra phía biển. Chẳng thấy biển đâu. Chỉ thấy dòng sông chảy xuôi và khuất sau rặng sú xanh um. Nhưng tôi biết cứ thẳng dòng sông này là ra tới biển.
Giờ phút về bờ đầu tiên sau một chuyến biển nào cũng bồn chồn. Không có việc gì cũng phải nhảy xuống cầu tàu đứng một tí rồi lại trở về tàu. Không có ai quen cũng vậy. Nhưng giá có một người quen đứng đó. Để nắm chặt tay, để nhìn vào mặt nhau cười nói, để hỏi một câu, trả lời một câu, trò chuyện với một người ở đất liền, một người vẫn ở đất liền trong khi mình lênh đênh trên biển. Nhưng không có ai quen thì lại trở về tàu, đứng trên boong vịn lan can nhìn xuống bè bạn đang tay bắt mặt mừng với những người thân dưới cầu cảng.
Ngay khi tàu còn ở giữa sông chờ cập cảng, tất cả đã đứng trên boong, cùng hướng vào bờ, thấy người đi lại, xe đạp, xe máy, nhất là thấy những mái tóc dài hoặc xõa vai, những dáng đi uyển chuyển..., bỗng hiểu ra một điều: Đấy mới thực là cuộc sống. Muốn trìu mến lắng nghe, siết chặt lấy người đang đi trên cầu mà hít một hơi dài mái tóc xõa kia. Nếu được thì ghì chặt lấy cái thân hình mềm mại ấy. Và nếu được nữa... chẳng biết việc gì sẽ xảy ra. Nhưng nếu tàu còn phải buông neo mà chưa có lệnh cập cầu. Thì cứ ở ngoài sông mà cố quên thời gian bằng cờ tướng, bằng tiễn lên, bằng bài ù, bằng tán gẫu. Và chửi cái thằng điều độ xếp cầu. Bịa ra đủ thứ xấu xa về mấy thằng điều độ mà mình cũng thấy là vô lý, bất công. Càng điên nếu phải nằm mãi ngoài cửa sông, mãi ngoài phao zero nhìn vào chỉ thấy bãi sú, chờ đợi không biết đến bao giờ. Lúc đó chửi tuốt. Cả giám đốc, cả bộ, cả bộ trưởng, cả một lũ ăn hại sống phè phỡn, mị dân, thời nào cũng chết thằng lao động. Lúc ấy ai cũng trở thành hấp tỉ độ. Chỉ nguyên một điều cứ tưởng được đọc thư gia đình ngay cũng đã muốn tung hê tất cả rồi. Lúc ấy có chầu rìa ván cờ nào cũng phải nhòm mặt, cũng phải mách mỗi bên một nước. Đánh tiến lên cũng phải cẩn thận. Có thắng thông vài ván cũng chỉ tủm tỉm cười thôi. Đừng cười thành tiếng, càng không được nói một câu khuếch trương thắng lợi làm gì. Lúc ấy dễ vặc nhau lắm. Không chỉ anh em thuyền viên mà cả cán bộ nữa. Thuyền phó Phê vừa xếp lại quân cờ để chơi ván khác với máy trưởng Xuân, vừa nói: “Mình đang thắng, tiếc quá...” Lưới trưởng Giai đi qua cười: “Tức là cuối cùng thua chứ gì?” Chỉ có thế thôi mà suýt bùng lên thành một cuộc xô xát.
Sớm nay, HL 414 được cập bến ngay. Trên cầu tàu, khoảng non chục người đứng đón. Con tàu đi ngược lại chiều hành trình một chiếc tàu đang nhoai ra quạt sóng đẩy một đoàn xà lan than rằm mạn. Nó cắt một gợn nước chênh chếch phía mũi chiếc sà lan đi đầu và chạy quá lên phía cảng. Trên tàu, trừ những người đi ca theo đúng chức danh, tất cả tập trung ở boong mũi nhìn về phía bờ. Mặt trời tỏa ánh sáng rực rỡ và vào đúng lúc con tàu quay mũi, toàn bộ cửa kính trên tàu, những cửa kính vuông trên cabin các sĩ quan, các cửa tròn nơi buồng thủy thủ bên dưới gần sát với mặt sông đạt đúng góc độ phản chiếu, nhất loạt loáng lên một ánh chớp trắng chói mắt rồi cũng nhanh như việc loé sáng đó, các kính cửa lại xam xám nhàn nhạt một màu của bóng tối những căn buồng hẹp.
Với người thủy thủ, mỗi chuyến về bờ một khác. Bôn cũng không là ngoại lệ. Lúc còn ở ngoài sông, Bôn đã dặn dò đại phó Cương rất kỹ những công việc phải làm lúc anh đi khỏi tàu và khi hai sợi cáp, một ở mũi tàu, một ở phía lái đã được cô chặt vào hai trụ bích như hai cái đe trên cầu, khi chiếc cầu thang trên tàu đã được bắc xuống chênh chếch với mặt cầu, Bôn toan cùng anh em ùa xuống mặt cầu thì một người từ cầu tàu đã nhanh nhẹn bước lên xộc thẳng vào phòng thuyền trưởng. Đó là Thám, anh thợ điện kiêm thêm việc chạy công văn của xí nghiệp. Chào thủ trưởng. Thủ trưởng ký cho em vào đây. Mời thủ trưởng lên hội trường mới họp ngay bây giờ. Bôn ký vào quyển sổ rồi đứng lên, bảo Thám: Trưa chờ lúc văng vắng xuống nhé. Gặp Cương lấy mấy con cá về cho cháu. Thám chỉ chờ có vậy. Anh nháy với đại phó Cương như ký một cái giao kèo và cầm sổ nhanh nhẹn xuống cầu. Bôn nhắc Cương một lần nữa về công việc rồi bảo:
- Các ông ấy có hỏi thì bảo mình lên trạm xá một chút rồi về ngay. Đấy. Bây giờ lại đau. Có lẽ dạ dày giở chứng thật rồi.
Cương gật gật:
- Thủ trưởng cứ đi. Có gì em lo.
Cương mỉm nụ cười nửa tin nửa ngờ gần như giễu cợt, nhìn theo dáng thấp đậm của người thuyền trưởng khuất trên cầu tàu rẽ vào cổng cảng. Cương tự thấy chuyến biển đi với tàu HL 414 vừa kết thúc là hay. Anh học ở thuyền trưởng Bôn được nhiều điều. Dù rằng vừa học vừa cười một mình chua chát: Học thì cứ học nhưng sớm muộn cũng phải phới khỏi nghề đánh dậm này, chí ít cũng chuồn khỏi Quốc doanh đánh dậm này. Cách gọi mỉa mai ngành nghề như vậy không phải riêng Cương mà của cả xí nghiệp. Quốc doanh đánh dậm, nghề đánh dậm thay cho nghề đánh cá, Quốc doanh đánh cá. Câu cửa miệng, thông thường, chẳng bao hàm một ý xấu nào, ngược lại còn như muốn nhấn mạnh đến cái vất vả của nghề, đến việc cá biển Đông ngày càng ít dần. Trong câu chuyện giữa lãnh đạo xí nghiệp với công nhân, những tiếng ấy vẫn thường xuất hiện như một sự cảm thông, sâu sát và cởi mở giữa đôi bên. Thậm chí trong một công văn gửi lên Bộ, tiêu đề “Bộ Thủy sản - Quốc doanh đánh cá Biển Đông” còn đánh máy là “Bộ Thủy sản - Quốc doanh đánh dậm Biển Đông” mà giám đốc cũng không biết, cứ ký tên đóng dấu gửi lên Bộ. Thì ai đi soát xét cái tiêu đề trên góc trang làm gì. Khi chánh văn phòng phát hiện ra, giám đốc chỉ cười, nguy hiểm thế đấy, từ nay cấm không được nói quốc doanh đánh dậm, nghề đánh dậm nữa, nói mồm rồi nó vào văn bản lúc nào không biết. Từ ấy việc sử dụng hai tiếng đánh dậm ít hẳn đi, gần như không còn trong khối trên bờ nhưng thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong anh em thuyền viên, những người thuộc “khối dưới nước”.
Tuy luôn xác định mục tiêu là rời khỏi ngành nghề, chí ít cũng rời khỏi xí nghiệp, nhưng mỗi khi được điều đi một chuyến biển nào đấy, cách đánh cá, cách lãnh đạo con tàu của đơn vị Cương đánh thuê cứ đi vào sự quan sát của anh, kèm theo sự so sánh, phân tích, đánh giá. Hoàn toàn tự nhiên, không tự giác, không chủ bụng. Từ cách đánh bắt, phán đoán luồng cá, cách tính độ giạt và nhất là cách lãnh đạo con tàu, cách đối nội đối ngoại, những việc vô cùng quan trọng đối với một thuyền trưởng. Đừng cậy mình có tài đánh được nhiều cá mà coi thường mọi người. Nhất là cánh phòng ban, kể cả cô văn thư đánh máy. Lê Uy đã bị một vố. Chỉ vì quên bẵng lời hẹn xuống tàu xin cá của cô đánh máy mà kỳ thi nâng cấp nâng bậc của anh em thuyền viên năm ấy trục trặc:
Cô đánh máy đã cố tình để sót một dòng trong danh sách những tàu được tổ chức thi nâng bậc.
Đối ngoại đã vậy. Việc đối nội càng quan trọng. Điều này anh học được nhiều trong chuyến đánh thuê cho tàu VT 114 với chức danh thuyền phó hai. Ban chỉ huy tàu mâu thuẫn nặng. Thứ nhất hừng đông thứ nhì tắt quán, thuyền trưởng Phạm Thăng quyết định tách bến ra Vụng Ngọc trưa hôm trước để sớm hôm sau có mặt ở ngư trường, đón mẻ lưới hừng đông. Đỗ trong vụng, Thăng cho anh em đi mua hai con dê ra quân sau mấy tháng nằm bờ sửa chữa. Nhưng đại phó Chiểu trừng mắt: “Đã đánh được cá đâu mà đổi dê”. Thăng nghiêm mặt: “Dê là của hợp tác xã. Hợp tác người ta bán lấy tiền. Người ta có lấy cá đâu mà đổi cá”. Thăng mới chân ướt chân ráo xuống tàu khi tàu đang lên đà, cũng mới đi chuyến đầu tiên với Trăm mười bốn. Còn Chiểu là phó một mấy năm nay, trưởng thành từ thủy thủ mà lên. Thăng tốt nghiệp đại học khoa khai thác, là thuyền trưởng nhưng chưa phải đảng viên, còn Chiểu chỉ sơ cấp nhưng là bí thư chi bộ. Thăng cử bốn người đi mua dê. Chiểu đánh bài với máy trưởng và hai người nữa cùng cánh để tỏ ý phản đối, bất hợp tác.
 II. 
Đến chiều đội mua dê về cùng hai thanh niên đảo, những người được hợp tác xã phái đến giúp tàu giết dê, nấu nướng. Tiếng dê be be và sự có mặt của hai thanh niên trên đảo với những bó rơm, những túi rau thơm làm nức lòng anh em trên tàu. Hội bài bạc của đại phó và máy trưởng vẫn như không nghe thấy gì, vẫn chăm chú vào ván bài trên tay. Trời tối rất nhanh. Thăng hạ lệnh cho thợ máy nổ máy, bật pha lên để anh em làm thịt dê. Tiếng máy chạy ầm ầm. Đèn pha sáng rực chiếu trên boong lái. Tiếng nói tiếng cười vang trong vụng. Những người đánh chắn cũng chẳng còn bụng dạ nào. Hết hội, ba người chạy ra boong. Còn một mình đại phó. Chiểu nằm trên giường quay mặt vào vách tàu nói vọng ra:
- Mổ xong, quăng xuống hầm đá, mai ăn.
Không ai nói gì. Mọi người trả lời Chiểu bằng hành động. Thủy thủ trưởng Bảo cùng anh em cả boong cả máy, người đốt rơm, người quạt, thui dê. Lửa bập bùng sáng vụng, sáng các tàu gần tàu xa. Chuyện trò râm ran, trêu nhau trong lúc pha thịt dê, nấu nướng. Mùi thịt dê lan tỏa gọi thuyền viên các tàu bạn ra đứng trên boong nhìn sang. Tất nhiên bữa rượu buổi tối vui nổ trời.
Chỉ với chuyện giết dê ra quân, Thăng đã thắng trong việc nắm lấy cương vị thuyền trưởng của mình. Và chuyến biển sau, chỉ nhìn đám thủy thủ VT 114 hò reo khiêng chiếc neo lên tàu, đầy khí thế, các tàu bạn đều biết Thăng đã xốc được con tàu vốn mất đoàn kết triền miên...
Ớ tuổi ba lăm, Cương xác định đời mình còn làm thuyền phó dự bị dài dài. Anh không đủ đạn bắn để được định biên ở một con tàu. Bộ khung tàu đã được cố định từ lâu. Mà ai cũng biết nằm trong một bộ khung quan trọng như thế nào. Trước tiên là đồng lương, là các khoản chia chác dưới tàu, là sự ổn định về nghề nghiệp, là sự tự thể hiện mình, sự vững chắc trong việc thăng tiến, đề bạt. Là cái bàn đạp tạo điều kiện để mình từ đấy đi lên. Và từ hai năm nay, được biên chế vào một ban chỉ huy tàu còn có nghĩa là con đường đi vận tải nước ngoài rộng mở. Đấy mới là điều căn bản. Xuống Hạ Long 01, Hạ Long 02 là đổi đời. Lại còn thằng Hạ Long 19 mới thật siêu hạng. Bọn Vosco mạnh thế nhưng đứng trước thằng 19 cũng chỉ là con tép. Một trăm thằng Vosco không bằng cái xô Hạ Long 19. Đã biến thành câu ca rồi. Ghê gớm thế. Mà cái xô của thằng Hạ Long 19 thì kinh thật. Một xô đồng hồ Seiko 5 chẳng hạn. Hay một xô thuốc con nhộng. Bao nhiêu tiền?!
Cương không bao giờ mơ tưởng tới số độc đắc ấy. Từ lâu anh đã học được cách xác định vị trí của mình như xác định vị trí tàu khi mục tiêu nằm ngoài hải đồ. Anh cũng là một mục tiêu nằm ngoài hải đồ. Chẳng ai để ý đến anh. Lúc anh tự động viên rằng đời mình còn đang trong giai đoạn chuẩn bị. Lúc lại nghĩ cố kiếm cho được cái bằng thuyền trưởng rồi phới khỏi nơi này. Lúc chẳng nghĩ ngợi gì, thôi thì nước chảy bè trôi, được đến đâu hay đến đó. Lang bang tàu này tàu khác rồi lại trở về cái quan tài sắt. Là thuyền phó dự bị, ở đâu thiếu người đột xuất, người ta điều anh xuống. Một thuyền phó nghỉ để cưới vợ. Một thuyền phó sốt xuất huyết. Một thuyền phó vừa nhận điện: Bố chết. Về ngay. Tổ chức điều anh đến lấp lỗ hổng. Đi một chuyến. Đi hai chuyến. Khi vị thuyền phó vắng mặt kia hết phép hay đã từ bệnh viện trở về, trình diện phòng tổ chức, Cương biết mình lại sắp quay lại tàu 307, con tàu bẹp, nằm tít cuối cảng, gần đà nổi, tiếp giáp với xưởng đóng tàu, một chiếc quan tài sắt, chuột nhiều gấp mấy lần toàn bộ số cán bộ thuyền viên khối dưới nước, đói rách thiếu thốn trăm bề. Ớ đó anh là thủ trưởng.
Cùng trông nom con tàu bẹp với anh có ba người nữa. Thuyền, một thủy thủ to béo, nặng có dễ đến 80 ki lô, đi Hong Kong cả chục năm về trước, khi con tàu Hạ Long 02 mới nhận về, còn đang trong thời hạn rốt đa, được vài chuyến thì bị bắt, tòa xử tù ba năm vì tội buôn lậu bốn ki lô đá lửa. Thời ấy căng lắm. Chỉ bốn ki lô đá lửa thôi mà bị tù ba gậy, chứ không như bây giờ, chẳng ai đi Hong Kong lại chỉ buôn mấy ki lô đá lửa! Thuyền là người đầu tiên Cương gặp khi nhận nhiệm vụ thuyền trưởng cái quan tài sắt này, một con tàu mà người ta nói là chờ đi đại tu ở nước ngoài. Thuyền cũng đã mấy lần đánh thuê cùng anh ở các tàu khác. Thấy anh xuống tàu, Thuyền reo to:
- Chào thủ trưởng.
- Chào ông bạn.
- Thủ trưởng vẫn ăn chơi đấy chứ?
- Không. Nhận tàu rồi.
- Tàu nào?
- Chính cái 307 này.
Thuyền vỗ hai tay:
- Hoan hô! Thủ trưởng đây rồi! Nhưng như thế tôi bị mất chức à? Tôi đang là thủ trưởng ở đây.
Cả hai cùng cười. Thuyền kéo anh vào cabin. Con tàu thật thảm hại. Những bộ phận máy móc nào còn dùng được người ta đã tháo, lắp cho các tàu khác, thực hiện nghiêm chỉnh chủ nghĩa giết thịt như anh chàng Khoa kỹ sư máy phòng kỹ thuật đã nói. Nắp gang cửa sổ bong hết sơn. Mấy chiếc chiếu chất đống ngay dưới chân hộp lái. Một cái thùng gỗ có nắp cẩn thận đặt ngay cửa lối đi vào phòng thuyền trưởng.
- Thế này đấy thuyền trưởng ạ.
Thuyền nói như khoe cơ ngơi và lại đứng nhìn anh cười khơ khớ.
- Thủ trưởng đừng buồn. Sông có khúc, người có lúc.
Thuyền biến đi đâu mất rồi trở về với chai rượu cam đỏ sóng sánh đặt trên hộp lái. Rồi lại biến mất.
Việc đầu tiên là đi thám hiểm con tàu cái đã. Hoang vắng. Tối tăm. Gỉ sét. Bụi bặm. Ẩm mốc. Chuột chạy loạn xạ. Có con đâm cả vào chân anh. Một chiếc xe cuốc Liên Xô nhãn hiệu Sputnik (của Thuyền) bóng loáng đặt giữa hành lang - lối đi thẳng xuống bếp và ra boong lái - là dấu hiệu có sự sống của con người trên con tàu này. Anh đứng nhìn cái tơi han gỉ, cái ru lô quấn cáp với những vết siết lõm sâu vào trục thép, dấu vết còn lại của một thời cày cuốc bền bỉ, cần cù, vất vả, các bánh xe răng cưa đều một màu nâu của sắt gỉ và không thấy dấu vết một giọt mỡ. Anh trở vào câu lạc bộ. Bàn ăn, cơm rải rác khô cong. Chiếc gương treo trên bô rửa mặt bụi bám đầy. Chợt Thuyền hiện ra, tay xách một túi nặng.
- Gì đấy?
- Xin bên linh chín đây.
Thuyền dốc túi ra ngoài boong. Mấy khúc cá kẽm. Vài con mực. Thuyền đứng nhìn đống thức ăn và nhìn Cương. Lại cười thưởng thức chiến công của mình. Khơ khớ.
- Nào, món gì đây? Thủ trưởng cho thực đơn.
- Đế vương quá nhỉ. Ông trông tàu này béo trắng ra.
- Thủ trưởng nói oan quá. Hôm nay có thủ trưởng về gọi là chiêu đãi tí chút đấy thôi. Còn mọi hôm cứ là đi lang thang. Tàu chén vài bữa. Tàu chén vài ngày. Tôi với thằng Nhược mỗi thằng một phương, tùy nghi di tản. Cơm niêu nước lọ làm gì. Suất gạo còn nguyên, đèo về cho mẹ đĩ. Tốt. Khớ khớ.
Thuyền bóp vai Cương. Thuyền có bàn tay cứng như sắt làm Cương lệch một bên vai nhăn nhó.
Với cái nhanh nhẹn tháo vát vốn có của người thủy thủ, Thuyền thoăn thoắt lôi trong gầm ghế ra con dao và cái chậu men, vớ lấy cái cần máy bơm tay, kéo bên nọ, ấn bên kia. Hụp. Hụp. Nước từ vòi chảy vào chậu.
- Vẫn có nước kia à?
- Nước nhiều. Điện thì câu từ bờ xuống.
Thuyền rửa cá, làm mực và bê vào bếp đặt lên bàn ăn, ngả thớt thái.
- Bếp dầu trong buồng anh nuôi, chìa khóa trong túi đây. Tay tôi bẩn, anh lấy hộ. Đem lên cabin mà nấu anh ạ.
Vừa nói Thuyền vừa nghiêng người chìa miệng túi quần về phía Cương. Chỉ một lúc sau mùi xào nấu đã thơm lừng.
Cương ở lì dưới tàu mấy ngày không lên đến cầu cảng. Thuyền mỗi ngày vài lần lấy xe cuốc đạp đi rồi đem về nào chè nào thuốc lá, rượu bia, rau sống, chanh ớt tỏi... Tối tối hai anh em trải chiếu dưới cái trụ đèn hàng hải nằm tâm sự. Thuyền lúc nào cũng cười khơ khớ. Ngay cả khi nói về thời gian đi tù của mình, về những gian nan của Cương.
- Thủ trưởng cứ ở đây. Rồi sẽ lại có lúc tung hoành. Bây giờ có buồn cũng vậy, có sốt ruột cũng vậy. Thủ trưởng tính tôi không đau à. Chỉ bốn ki lô đá lửa. Đúng một hộp. Mà chơi ba niên. Bây giờ chúng nó buôn hàng vạn đô la. Ông Phiến một chuyến đánh hai trăm cái Seiko, năm thùng thuốc con nhộng. Công an, hải quan bảo lĩnh. Nghĩ thôi cái số mình nó thế. Cùng khóa với tôi, thằng Thiết thuyền phó một rồi. Lính của tôi đều là thủy thủ trưởng, mèng ra cũng bậc ba. Tôi vẫn bậc hai. Lên hỏi tổ chức các ông ấy trả lời: Lương của cậu đúng là bất hợp lý rồi. Nhưng dưới tàu phải có văn bản đề nghị. Lên bậc của thủy thủ do xí nghiệp quyết định, không phải đưa lên trên. Dễ thôi. Cứ có chữ ký của thuyền trưởng là chúng mình giải quyết. Nhưng anh tính mò đâu ra thuyền trưởng ở cái tàu bẹp này mà lấy chữ ký hở anh? Thế là cứ bậc hai tràn thôi. Kỳ này thuyền trưởng về đây, xin thuyền trưởng một chữ ký đấy khớ khớ...
Trước đây Cương chỉ biết Thuyền qua loa. Hai người cùng được điều xuống đánh thuê ở một tàu, anh với chức danh phó một, còn Thuyền với chức danh thủy thủ. Quan hệ giữa hai người không có gì đặc biệt. Mãi giờ đây anh mới hiểu Thuyền. Thuyền sống như thế này mà chịu được. Bao nhiêu lâu rồi. Cứ cười. Cứ tươi. Chả bao giờ rên rỉ. Anh nói vui:
- Trước đây tôi là thuyền phó không tàu. Bây giờ có tàu rồi. Một con tàu thật tuyệt vời!
- Thế. Thì thế mà lại. Khớ khớ. Tôi cũng có tàu. Khớ khớ. Nhưng anh tính con tàu này không lừng lẫy một thời à? Trước đây ai được xuống cái linh bảy này là phải thế nào chứ? Mấy năm liền lá cờ đầu. Rồi chụp ảnh. Đăng báo. Bây giờ thì thế đấy.
Ngừng một lát, không thấy Cương nói gì, Thuyền tiếp tục dòng hồi ức:
- Nó bị bắn ở Hạ Mai. Ngày ấy tôi đang là thủy thủ thực tập. Đêm, tàu tôi đi trước, linh bảy đi sau. Ông Bửu đang nói phôn với ông Long bên này: Nhiều máy bay lắm. Tôi đang ở Hạ thì im bặt, không nói tiếp được chữ Mai nữa.
Thuyền bật cười:
- Nhưng mà công nhận đi chuyến đầu tiên sợ thật. Tôi vừa cầm giấy giới thiệu của trường đến, các ông ấy điều xuống chính cái linh bảy này. Ông Phiến còn đang làm thuyền trưởng. Chập tối tách bến đi. Thủy lôi nổ đằng trước, thủy lôi nổ đằng sau. Ông Phiến rên lên: Khéo chết mất Thuyền ơi. Mà sợ thật anh ạ. Thủy lôi sáng lòa trước mặt. Tàu dựng lên. Có cái gì đánh rất mạnh vào ngực. Tôi đứng mà ngã ngửa ra. Sờ tay lên ngực thấy nhun nhũn ươn ướt tưởng mình trúng bom chết đến nơi, bèn hô to “Hồ Chủ tịch muôn năm!” nhưng chờ mãi không chết, cũng không thấy đau, hóa ra là một con mực bị hất từ dưới biển lên. Đi đến phao zéro rồi ông Phiến còn lắc đầu: Nguy hiểm quá mày ạ. Chết mất thôi. Lần sau xí nghiệp điều chở vũ khí cho quân khu Bốn ông ấy nhất định không đi nữa. Ông Liễn đi. Ông Liễn gan thật. Mà cũng tài. Mấy chục chuyến chẳng việc gì.
Khi những chuyện ấy xảy ra, Cương còn đang ở trong B. Còn chưa học hết phổ thông, còn là lính mới. Có đợt tuyển quân, Cương bàn với bố mẹ xung phong đi. Đó là lối thoát duy nhất của Cương để sau này còn có thể có tương lai. Là con địa chủ, không được đi học, lên mười Cương mới được vào trường. Ớ lớp nào, năm học nào, Cương cũng là cậu học sinh lớn nhất lớp, được các bạn gọi bằng biệt hiệu “phụ huynh”. Nó xuất xứ từ cái lần một giáo viên chủ nhiệm lớp dưới họp phụ huynh thấy Cương một mình đi lang thang ở hành lang, đã hỏi Cương:
- Anh họp phụ huynh lớp nào ạ?
Khó khăn nhất trong việc nhập ngũ của Cương là anh chưa phải đoàn viên thanh niên lao động. Rất may, người em họ mẹ Cương, cậu Kế bí thư đoàn xã, đã lo được cho Cương cái lễ kết nạp đoàn cấp tập và giấy giới thiệu chuyển sinh hoạt, căn cước chính trị chỉ những người như Cương mới thấy quan trọng như thế nào. Cậu Kế chắc cũng chẳng gặp khó khăn gì lắm vì Cương đi bộ đội nghĩa là đảm bảo cho việc thực hiện khẩu hiệu “gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người” của xã, và cũng có nghĩa con ông chủ tịch cùng lứa tuổi với Cương đàng hoàng lên đường đi học công nhân kỹ thuật bên Cộng hòa dân chủ Đức mà không ai có thể nói năng gì. Anh bỗng nhớ đến đồng chí chính ủy Trần Dương. Không có đồng chí Dương, anh sẽ ra sao? Chắc chắn không như thế này. Cuộc đời có rất nhiều yếu tố chi phối, cái tốt cái xấu, đan dệt nhau với bao ngẫu nhiên tạo nên số phận một con người. Chẳng hạn nếu buổi chiều hôm ấy, về đơn vị an dưỡng, anh không ngồi một mình ở bờ suối và không gặp chính ủy ở đấy để hai người trò chuyện rồi sáng hôm sau chính ủy cho gọi anh lên, bảo anh chép lại cái báo cáo, và sau đó kéo anh về làm công vụ...
- Ông Liễn là người tôi rất phục.
- Ông ấy vừa bị khai trừ về tội lấy vợ hai. Sau kỳ ấy được kết nạp lại ngay.
Phan Đình Liễn, người thuyền trưởng bình thường như trăm nghìn người khác, nói ít người nghe, đánh cá không giỏi, vừa bị án kỷ luật bỗng sáng ngời lên vì những chuyến đưa tàu vượt thủy lôi chở vũ khí vào khu Bốn, giờ đã nghỉ hưu, đi thuyền đánh cá thủ công, chẳng ai còn nhớ đến. Người ta chỉ nói đến Phiến. Ngô Đình Phiến. Thuyền trưởng tàu Hạ Long 10. Con tàu chở tôm cá đông lạnh đi Hong Kong, Singapore, Nhật Bản. Người ta nói đến số chuyến đi nước ngoài của Phiến, đến sự giàu có không thể tưởng tượng nổi của Phiến, đến chuyện nhất định không chở vũ khí vào khu Bốn của Phiến và rút ra kết luận: Trên đời này phải có ô dù. Không có cây Kơ nia là không sống được. 
Mãi sau bữa cơm chiều tàu bố tôi mới tách bến. Suốt cả ngày hôm ấy mấy chú thợ trên bờ vẫn còn sửa tơi. Vặn ra. Lắp vào. Thử. Cái tơi chuyển động như sấm ầm ầm. Hai con lợn vẫn thản nhiên nằm ngay ở cửa lối vào nhà vệ sinh, chẳng buồn động đậy. Hình như chúng đã quen rồi. Tàu lấy thêm đá. Những thoi nước đá nặng trôi trên băng chuyền cao chạy từ nhà máy lạnh, trồi sụt nghiêng bên này lắc bên kia, lao vào mô tơ. ơ đấy nó bị đập vỡ thành những cục đá nhỏ trút theo máng xuống hầm tàu. Đá bị đập bắn ra rơi vãi nhiều. Đá vụn rơi xuống mặt cầu cảng đọng lại thành vầng, tan thành vũng, phí quá. Đứng ở đó mát lạnh cả người vì hơi nước đá xông lên dù đang giữa mùa hè. Tôi giơ tay hấng một nắm đá vụn cho vào mồm. Mát không chịu được. Giá ở Bắc Giang trưa nào chúng tôi cũng được một ca đá này mà uống nước. Xe xích lô chở rau tới. Rau được đưa xuống hầm đá. Thịt cũng được đưa xuống đó. Tôi nhòm xuống hầm. Hầm sâu và rộng. Ngọn điện làm hầm đá sáng lóa như tuyết. Bác Nhớn cấp dưỡng khệ nệ xách xuống tàu một can chíu chương, một bọc chanh ớt, tỏi to đùng. Chú Hồng, chú Sơn, cả hai chú đều còn rất trẻ và đều là thủy thủ đang vục những bàn tay đã bọc trong túi ni lông vào trong thùng mỡ lấy mỡ vuốt vào những sợi cáp ở boong lái. Trông thấy tôi, các chú bảo:
- Nghịch đây. Hết việc rồi nghịch đây. Có nghịch với chúng tao không thằng cu?
Tôi đứng xem các chú làm. Quần áo bảo hộ lao động bẩn thỉu, đen đúa, dày cộp dầu mỡ. Cái áo của chú Hồng như bị quạc vào đinh, rách một miẽng ở bả vai, phật phờ, nom rõ làn da rất trắng của chú ấy. Tôi ngạc nhiên: Sao mặt chú Hồng xạm mà người chú ấy trắng thế. Các chú vuốt mỡ vào đoạn nào đoạn ấy thẫm đen lại trông như mới. Những đoạn đã vuốt mỡ được khoanh riêng.
- Bố mày khoán chúng tao buổi sáng nay chỗ này đây. Phải năng suất lắm mới hoàn thành đấy cu ạ.
Bỗng chú Hồng kêu lên bảo chú Sơn:
- Giẫm vào một cục mỡ rồi. Trừ năng suất!
Chú Sơn nhìn xuống chân: Một chiếc giày bảo hộ lao động bê bết mỡ. Chú Sơn cười:
- Làm sao trừ được năng suất của tớ. Vì đây là mỡ nên nó mới bẹp, còn nếu là một chất rắn thì nó vẫn còn nguyên dưới chân tớ hoặc bắn ra ngoài theo đúng định luật vật lý học.
Đang lúi húi làm việc, bỗng chú Hồng ngẩng lên, ngơ ngác:
- Tàu nào to thế nhỉ?
Rồi nhìn ra phía giữa sông: Một con tàu lớn trắng toát tiến vào, dài, cao, như một dãy phố nổi. Con tàu lừ lừ trôi gần như không một tiếng động với những hàng cửa sổ tròn, những cần câu, những phao khoanh trắng khoanh đỏ, những chiếc xuồng đặt trên boong cao ngất. Lố nhố những “ông Tây” và có cả những “bà đầm” nữa đứng vịn lan can nhìn về phía chúng tôi.
- Tàu Đác-ta-nhan!
Chú Sơn kêu lên. Tôi hỏi chú Hồng:
- Sao chú biết có tàu to vào?
- Sóng. Sóng, mày không thấy à?
Lúc bấy giờ tôi mới để ý thấy tàu chúng tôi bị sóng từ con tàu vừa đi qua nâng lên hạ xuống. Đác-ta-nhan đi qua rồi nhưng những con sóng vẫn đổ bờ. Sóng to, tàu chúng tôi bị sóng hút xuống nom rõ cái dầm gỗ ốp cạnh mặt cầu bám đầy vảy cả rồi lại dâng lên, thành tàu che khuất mặt cầu. Chú Hồng khen tôi:
- Thằng con ông Đảng này cứng sóng đấy. Lớn lên đi biển được đấy.
Đến lúc ấy tôi mới biết tôi là người chịu được sóng, có thể đi biển được. Điều ấy càng nung nấu quyết tâm trở thành thuyền trưởng của tôi. Như bố tôi bây giờ. Hay như ông thuyền trưởng Đác ta nhan vừa qua đây. Chao ơi! Còn gì sung sướng hơn làm thuyền trưởng một con tàu như tàu Đác ta nhan vừa qua đây, cùng nó đi khắp nơi trên trải đất. Hai chú còn bảo bố tôi chịu sóng kém, chỉ loại hai thôi. Chịu sóng giỏi phải là chú Hùng lùn, ông Suất máy trưởng, bác Nhớn. Hai chú Hồng, Sơn cũng chỉ như bố tôi, loại hai.
- Mày loại một đấy cu ạ.
Câu nói ấy làm tôi như lớn hẳn lên. Tôi nhớ đến đám bạn học. Dù chưa học cấp ba, nhưng chúng tôi vẫn thường thảo luận với nhau về ngành nghề khi thi vào các trường đại học. Mỗi đứa nêu một ngành nghề khác nhau. Bách khoa. Giao thông. Lũ con gái trong đó có cái Nhã thì thích sư phạm. Chỉ có tôi thích hàng hải. Cả thằng Toán nữa. Thằng này ngồi cạnh tôi, đã đến nhà tôi chơi và gặp bố tôi. Cu cậu lúc đầu thích ngoại thương nhưng sau cũng theo tôi nói thích hàng hải. (Nó cũng nói với tôi rằng nó yêu cái Nhã ngồi bàn trên). Nhưng không biết mày có chịu sóng được như tao không? Tôi nói thầm với nó và thấy hãnh diện về mình.
Đến bữa cơm chiều mọi công việc mới xong. Chúng tôi ăn đứng quanh cái tơi vừa sửa, ngay cửa ra vào bếp. Cũng vì trời nóng quá. Đứng gió. Chiều mới đỡ một tí. Nhất là khi mặt trời chui vào đám mây thành đằng tây. Mấy xoong canh được đặt trên nắp hầm cá. Mỗi xoong là một mâm. Ăn mâm nọ rồi sang mâm kia cũng được. Hết cơm thì vào bếp mà xúc trong vạc. Rau muống khoai sọ nấu tôm. Cà pháo. Thịt kho. Cơm nước xong tàu tách bến. Tôi tụt vội xuống buồng máy xem bác Suất khởi động máy, điều tôi vẫn ao ước từ khi đặt chân lên tàu. Bác mở cái cánh cửa sát cabin mũi, một cầu thang sắt dốc đứng hiện ra, dẫn xuống một vùng ánh sáng mờ mờ. Bác bật một ngọn đèn ắc quy. Cỗ máy chính đồ sộ nằm dài với những dãy cò mổ, những ống cong cong đều tăm tắp, những núm tròn... Lại còn hai cái máy nhỏ đặt giữa những lưới thép bảo hiểm, những hộp hình chữ nhật sơn xanh đóng kín. Nhằng nhịt đủ các thứ, các kiểu hình dáng toàn bằng sắt thép đặt ở mọi chỗ, những núm nhựa xanh đỏ, những đồng hồ với những dòng chữ nhỏ li ti. Tôi nhìn máy móc trong hầm máy và lè lưỡi nhìn bác Suất, vô cùng kính phục. Không biết bác đã học bao nhiêu năm để hiểu được những máy này, điều khiển được nó lại còn sửa chữa được nó. Thấy tôi loăng quăng chỗ nọ chỗ kia, bác Suất quát:
- Cẩn thận không ngã! Trơn lắm đấy!
Tôi đứng lại cạnh bác. Sàn buồng máy là một lớp sắt có những đường gân chéo nhau hình quả trám, ánh điện từ những chiếc bóng hình bầu dục màu trắng sữa hắt xuống óng ánh. Hình như có một lớp dầu mỏng phủ trên sàn sắt. Từ tít trên cao, ánh sáng buổi chiều chiếu xuống yếu ớt qua các cánh cửa sổ hình chữ nhật. Buồng máy sâu lắm. Buồng máy thấp hơn đường nước bên ngoài. Bác Suất bảo thế. Bác lấy tay vặn một bộ phận nào đó rồi gạt nhẹ một thanh thép nhỏ. Từ một cái hộp tròn, một ống thép trắng bóng thoi ra. Nó đẩy cái tay sắt thẳng đứng sơn nâu. Cái tay sắt đó xô cả một khối thép tròn về phía sau. Một tiếng thở dài to kinh khủng làm tôi giật mình. Như tiếng thở dài của con quái vật khổng lồ. Bác Suất bảo tôi:
- Hơi ép đấy. Nó xì qua ống thoát.
Thế rồi tiếng máy tàu ầm ầm, lúc đầu còn như ngập ngừng, nghe ngóng rồi mỗi lúc một rền lên điếc đặc cả tai. Có tiếng rẹt rẹt. Cái tay chuông dưới chân bác, giống hệt cái tay chuông trong phòng lái cũng nhãn bóng ánh đồng thau sáng lên ở một ô. Bác Suất kéo cần điều khiển cho mũi tên đồng nằm vào ô sáng đó. Tiếng máy tàu vẫn rền rền nhưng nhẹ đi. Tàu rùng rùng làm chiếc xô dầu đặc đặt trên sàn buồng máy lồi lõm như có những giọt mưa rào bắn vào. Tôi vội nắm thang sắt trèo lên hành lang nhà bếp rồi vượt nhanh mấy bậc cầu thang sắt xoai xoải tới buồng lái. Bố tôi đang đứng đó với chú Hồng quay vô lăng, cả hai chăm chú nhìn về phía trước. Hóa ra tàu đã chạy được một quãng khả xa. Phía bên trái là những bãi sú xanh um, bên phải là một nhà máy lớn không biết là nhà máy gì và sau đó là những mái nhà tranh nhỏ bé. Còn lại chỉ là bãi sú. Nhiều tàu đi ngược vào phía trong bờ. Họ biết bố tôi và giơ tay vẫy bố hoặc thét lên một câu gì đó nghe không rõ khiến tôi rất tự hào. Khi ở buồng mảy, tôi kính phục tài năng của bác Suất, đổng thời tự hào về bố tôi. Bố tôi lãnh đạo được cả những người giỏi như bác Suất. Giờ đây tôi thêm tự hào về bố. Bố quen biết rất nhiều người tài giỏi và, quan trọng hơn, những người này đều tỏ ra yêu quý bố. 
Trông nom con tàu bẹp với Cương còn có Kích, một máy trưởng tính hâm hâm, làm như trâu nhưng không thích là không nhúc nhích, bực lên chửi tất cả, chẳng chừa một ai. Và anh chàng Nguyễn Văn Nhược, nguyên thợ lạnh trên bờ (công nhân của nhà máy nước đá) kiêm thợ điện. Trước khi về 307, Nhược đã là một người nổi tiếng. Dạo ấy Nhược được điều từ phân xưởng lạnh tới văn phòng, trông nom điện cho khu cơ quan, một công việc nhàn nhã bao người thèm muốn. Một buổi trưa, Nhược được giao nhiệm vụ lên nhà ăn bưng hai suất ăn trưa về để giám đốc tiếp khách. Ngày ấy căng tin chưa thi công xong, còn đang đào móng dở dang. Mà xí nghiệp lại ở mãi đầu phía đông thành phố, đường đi lối lại còn đầy những ổ gà, ổ voi to như hố bom lúc nào cũng có nước, nên chỉ ăn tối mới đánh xe ô tô đưa khách lên phố, còn bữa trưa ăn ở nhà ăn, và sau này khi căng tin đã hoàn thành thì ăn ở căng tin, cũng đủ các món, đủ các loại rượu, lại ở liền bên thật tiện. Mười giờ Nhược đã đi lên nhà ăn, cách non kilomet, cái nhà ăn ở kề trạm xá, giữa trung tâm xí nghiệp bao gồm mênh mông là đất đai, là xưởng lưới, xưởng lạnh, xưởng cơ khí, nhà máy chế biến hải sản...
Mười một giờ chưa thấy Nhược về, chánh văn phòng Điều vẫn bình chân như vại. Nhưng đến mười một giờ mười lăm mà chẳng thấy cái bóng cao kều của Nhược đâu thì đã nghe như có điều gì không ổn rồi. Bà Nga, một nhân viên chuyên đi mua văn phòng phẩm được chánh văn phòng giao nhiệm vụ “đạp xe lên nhà ăn cho tôi, gặp thằng Nhược đâu thì bảo nó lên xích lô cùng với bà về ngay không chết cả bây giờ”. Việc đi lấy cơm này lẽ ra là của bà Nga, chứ không phải của Nhược. Từ Viện nghiên cứu quanh năm đói rách, bà được ưu tiên chuyển về đây khi sắp đến tuổi hưu là để chạy văn phòng phẩm và làm những công việc linh tinh khác. Đi lấy cơm đích thị công việc linh tinh rồi. Nhưng Nhược cũng rỗi. Hai người cùng rỗi tất nhiên Nhược phải đi. Bởi vì bà Nga là chiến hữu với chánh văn phòng, và dư luận vẫn xầm xì rằng trong việc mua văn phòng phẩm có nhiều thứ phải mua ngoài, bà Nga đều nâng giá, và được chánh văn phòng duyệt chi, đó là cửa làm ăn của hai người.
Bà Nga lên xe đạp hối hả và trở về với vẻ mặt ngơ ngác: Nhà ăn nó bảo thằng Nhược về lâu rồi, từ lúc mười một giờ kém mười lăm cơ. Hai chai bia Tiger to, một đĩa tôm rán, một đĩa chả mực, một liễn canh sườn ninh khoai sọ với rau rút... Thôi thôi bà ơi. Đang đói. Bà kể những thứ đó ra làm gì. Bà quay lại một lần nữa xem, nó có giạt vào hàng vào quán nào nghỉ không. Thấy nó thì bảo nó lên xe xích lô về ngay. Còn bà cũng đạp ngay về báo cho tôi biết chứ không giám đốc lại đổ ấm chè cũ pha ấm chè mới rồi. Việc hết, quá trưa bụng đói mà cứ chè đặc uống có chết người không cơ chứ.
Mười hai giờ, bà Nga hối hả đạp xe vào sân, chưa dừng xe đã hốt hoảng: Đi các quán rồi, chẳng thấy nó đâu. Về từ sớm, mười một giờ... Chánh văn phòng xua tay ra hiệu im. Bà Nga còn chưa hiểu ra sao thì giám đốc và vụ trưởng vụ kế hoạch Bộ đã sóng đôi bước ra chiếc xe ô tô nổ máy chờ sẵn. Bà Nga thở phào:
- Phải lên phố ăn thôi. Phen này chết với giám đốc. Khi chiếc Toyota đã lăn bánh ra con đường bê tông dẫn tới cổng bảo vệ, chánh văn phòng kéo tay bà đến trước cửa phòng dành cho chị em tổ bốc cá lảnh ở một đầu nhà, giáp với nhà bếp: Trong phòng vắng tanh vì không có tàu về, chị em tổ bốc nghỉ, một mình Nhược đang ngồi bệt xuống nền đá hoa, duỗi dài hai chân, mặt đỏ chín và vẫn còn đang ngáp ngủ. Cơn buồn ngủ vì uống nhiều bia làm Nhược cứ díp hai con mắt lại, không sao giữ được.
Đó là sự kiện có một không hai còn được nhắc đi nhắc lại cả tháng trời sau đó. Mỗi người thuật lại câu chuyện theo góc độ của mình, có cả một tí thêm thắt. Và cười. Cười giòn. Ai cũng cười giòn. Nhưng bao giờ tiếng cười của chánh văn phòng cũng to hơn tất cả. Nhất là khi chính khổ chủ, giám đốc Trần Hữu Bằng thuật lại cơ đận cứ ngồi chờ bữa ăn trưa. Mấy trưởng phó phòng giúp việc đã về, chủ đã cho sổ sách tài liệu vào ngăn kéo, khách cũng đã cất kính vào cặp. Mà không thể nào đứng lên được. Không thể đứng lên mời khách sang phòng bên ăn trưa được. Lại pha ấm trà mới rồi hỏi sang chuyện trên bộ, hỏi thăm tình hình mấy tổng công ty trong ngành, hỏi cả sang chuyện gia đình, vẫn chẳng thấy ông Điều chánh văn phòng vào mời đi ăn cơm. Sốt ruột quá, chạy ra xem sao thì được biết văn phòng đã cho người đi lấy cơm cả tiếng đồng hồ rồi. Cuối cùng đành phải nói thật là bữa ăn trưa hơi bị trục trặc kỹ thuật một tí, và mời vụ trưởng lên khách sạn... Tôi cam đoan vụ trưởng không thể nào hình dung nổi sự cố kiểu như vậy. Sự cố ấy chỉ ở xí nghiệp mình mới có! Tất cả đứng giữa sân quây quanh nghe giám đốc kể đến chuyện chủ khách đã cất tài liệu đi rồi mà cứ ngồi uống chè đặc nhìn nhau không biết nói chuyện gì đều phá lên cười. Cười vì giám đốc không cáu (cơn cáu kỉnh đã qua đi rồi). Cười như cười một chuyện buồn cười nhất trên đời.
- Nó lại học Trạng Quỳnh, cho thủ trưởng ăn món mầm đá.
Chánh văn phòng nói rồi cất tiếng cười. Ngửa cổ ra đằng sau cười, cong người lại cười. Dài. Giòn giã. Có cung có bậc. Chờ đến khi chánh văn phòng đi, giám đốc mới nói:
- Tôi sợ nhất tiếng cười của ông Điều. Bị nhịn bữa trưa tôi cũng không sợ bằng. Sợ hơn bố chết.
Bà Nga, cháu Nhạn đánh máy, anh chàng Tín thi đua còn có tên là giò Tìu lại được một trận cười.
Cũng không ai phê bình kiểm điểm gì Nhược trong chuyện ấy. Hình như đến thế là hết rồi, chẳng còn gì để nói. Rõ ràng Nhược hâm. Mà hâm thì nói cũng bằng thừa. Chỉ có từ nay đừng bao giờ cho Nhược đi lấy thức ăn thức uống gì nữa. Nhược bị trả về xưởng lạnh. Phân xưởng lạnh trả Nhược về tổ chức. Nhược về khối dự bị vì trước đây Nhược là thợ lạnh dưới tàu. Cuối cùng, Nhược được điều về trông con tàu 307, dưới quyền của đại phó Phạm Cương.
Dưới tàu, những lúc buồn quá, Cương đã hỏi Nhược về chuyện ấy, chuyện cứ đàng hoàng ngả ra đánh chén suất tiếp khách của giám đốc. Nhược cao lêu đêu, da trắng môi hồng, trông rất thanh tú và trí thức, khác hẳn với nước da cháy nắng, kiểu nói oang oang ăn sóng nói gió của các thuyền viên, rất thành thật:
- Em cũng chẳng hiểu ra làm sao nữa. Mà có phải em đói khát thèm ăn thèm uống đâu. Tàu nào về chúng nó cũng mời em xuống ăn uống với chúng nó. Em đội trên đầu bữa ăn trưa, thấy nó thơm thơm. Đội lâu, đầu mỏi, lại nắng nữa, mới ghé vào quán bà Bảy uống chén nước, nghĩ còn sớm chán. Rồi mở ra nhìn thấy ngon quá. Lúc ấy lại thấy đói nữa chứ. Thế là quành vào Bãi Cát, hạ xuống. Mở lồng bàn ra. Nhón miếng chả mực trước. Cũng định làm một miếng thôi. Nhưng phải công nhận bọn nhà ăn làm chả mực quá ngon, em nghĩ cứ làm thêm miếng nữa. Lại bốc cộng rau thơm. Thế là thèm bia. Mới mở một chai. Tu. Đang tu thì bố Quân rỗ, báo vụ tàu 12 từ đâu đi ngang qua. Món gì thế này? Mà sao lại ngồi ăn ở đây? Vừa nói xong ông Quân rỗ đã ngồi sụp xuống giằng lấy chai bia tu một hơi. Anh biết ông Quân uống bia như thế nào rồi. Như hũ chìm. Ngon quá. Đang khát. ơ đâu ra mâm cỗ thế này mày. Tao chịu mày. Ngồi xếp bằng giữa giời mà nhắm thì vô địch. Bốc một miếng chả mực ăn, vừa nhai vừa nói vừa nhìn em. Em bảo: Cơm tiếp khách ăn trưa của giám đốc đấy. Ông Quân sững lại: Thật không? Chết. Thế thì gay. Mày liều thật. Đây. Tao đưa tiền mày chạy ra hàng bà Bảy mua hai chai Tiger, đội về ngay, không bỏ mẹ. Mày đi ngay đi. Tao ở đây trông cho. Em mở chai bia thứ hai: Anh em mình uống nốt chai bia này đã rồi em đi mua sau. Bây giờ vẫn sớm mà. Em san bia sang cái vỏ chai không, đo bằng nhau cẩn thận. Rồi cụng chai. Mỗi thằng một hơi và dốc ngược chai. Chiêu một con tôm rán đi ông anh. Đừng lo. Một chủ một khách ăn làm sao hết đĩa tôm này. Đĩa tây tôm to đùng cơ mà anh. Mỗi chúng em làm một con tôm rán. Rồi em cầm tiền chạy đi mua bia. Hóa ra được ba chai. Thế là phải hóa kiếp một chai. Lại san ra chai rỗng. Lại đo hai chai xem có bằng nhau không. Lại cụng chai, uống và nếm sang món sườn ninh. Thấy được. Hơi men đã bốc. Ngà ngà. Thuận tay em mở một chai bia nữa.
Ông Rỗ giật mình: Hăng thế. Cẩn thận. Toi mạng đấy. Toi cái gì mà toi. Ông anh cứ uống đi. Tội vạ gì thằng Nhược này chịu hết. Không đổ trách nhiệm cho ông anh đâu. Ông Rỗ rất láu, chỉ uống hết chai ấy rồi đứng dậy đi. Còn một mình em... Lúc ấy chẳng biết giời đâu đất đâu nữa.
Nhược đỏ mặt cười. Nhớ lại, Nhược ngượng. Chiến tích ấy làm Nhược quá nổi tiếng. Cả xí nghiệp, khối phòng ban phân xưởng trên bờ, anh em khối dưới nước, không ai không biết chuyện.
Còn Quân. Cũng đã có một thời gian Quân về tàu 307 làm lính dự bị của Cương. Đúng là Quân uống bia thì vô địch. Một buổi chiều, gần tan tầm, Cương từ phòng tổ chức bước ra (cũng phải la cà các phòng ban chứ, nằm mãi ở cái quan tài sắt chịu sao nổi) thì gặp Quân. Đại phó. Đi đâu đấy? Làm một vại chứ? Quân khoác tay Cương. Đi vài bước, đến đầu hồi nhà, Quân đã rời Cương ra, đứng úp mặt vào tường. Toa lét. Toa lét lâu. Mấy cô tài vụ ôm vai nhau ríu rít đi qua. Đám cán bộ phòng khai thác đi qua. Cương đứng chờ mà ngượng chín. Toa lét xong lại khoác tay Cương đi. Đến Ngã ba Đông Dương, nghĩa là ra khỏi cổng bảo vệ chỉ khoảng dăm trăm mét thôi, vừa vào đến quán bia, để Cương ngồi xuống ghế, Quân đã đi thẳng vào phía trong sâu hút. Khi trở ra, ngồi xuống bàn còn nói:
- Ông có toa lét, cứ thẳng vào trong, rẽ phải.
Vừa toa lét xong đã toa lét nữa rồi. Chắc Quân vừa rời khỏi một hội bia nào đó. Mặt Quân nom bì bì tai tái
thế kia là đã say lắm. Thế mà vẫn uống sáu vại nữa. Uống xếch. Không mồi. Không cả thuốc lá, chỉ bắn thuốc lào. Quân uống và bảo Cương rằng Quân vừa trốn thoát khỏi Túy, báo vụ tàu Hạ Long 21. Thằng cha ấy uống tởm không chịu được. Cái chuyến tàu từ Hong Kong về Sài Gòn hổi đầu năm, Túy với Tụy, em ruột Túy làm bên dầu khí, hai người lên khách sạn, ngổi từ sảng đến chiều, uống hết ba két bia Heineken, hai chai John đen, Tụy chảy máu dạ dày phải đi cấp cứu ở bệnh viện, còn Túy vẫn không việc gì. Tôi đi với Túy từ sảng đến giờ, chịu không nổi, về nó không cho về, mãi mới trốn được.
Cương nhìn đồng hồ. Lúc hai người ra đây là bốn giờ hơn. Thoát khỏi tay Túy để khỏi uống rồi lại kéo Cương đi uống. Lại cạn sáu vại. Lạ thật. Thế thì trốn khỏi Túy làm gì. Cương quá biết Túy. Cái dạo bia hơi còn khan hiếm, thỉnh thoảng phòng đời sống chở được mấy bom về, cả xí nghiệp như hội. Cánh tàu kéo lên. Các phòng ban túa ra. Huy động tất cả các loại cốc, chén, cặp lồng, chậu men, ca, bát, xô. Phòng nào phòng ấy, trong phòng, ngoài hè, dưới gốc bàng, người ngồi ghế, người ngồi xổm. Uống như chưa bao giờ được uống. Mùi bia ngòn ngọt nồng nàn. Vỏ lạc rang bay khắp nơi. Túy uống bằng xô. Nhiều người định uống bia thi với Túy, nhưng đến khi Túy ra điều kiện: Uống nhưng không được đi đái thì ai cũng chịu. Túy cười: “Uống bia hơi rồi đi đái, có mà uống cả ngày”.
Nhìn mười hai chiếc cốc chỉ còn dính bọt bia và thấy đã chiều tà, đã tan tầm, Cương bảo Quân:
- Về thôi. Mình uống thế đã rồi đấy.
Hai người vừa bước ra tới ngã ba, thì Dũng, cũng dân báo vụ, nhưng làm ở trạm thu phát trung tâm hớt hải hỏi Quân:
- Anh Quân có biết anh Túy đâu không? Anh ấy mượn xe đạp của em từ sáng đến giờ vẫn chẳng thấy tăm hơi đâu.
Quân làm ra vẻ khiếp hãi, lè lưỡi hất hàm về phía một cái quán bán mái sát với bờ tường Ty bảo đảm hàng hải. Cương nhìn về phía ấy. Túy người mỏng kẹt, áo sơ mi in toàn hình những con cá bơi, một tay ôm vít ngang bụng, đang còng người, vươn tay kia ra mổ mổ vào cô chủ quán bán bia, không nói được thành lời, chỉ khò khè như một con vịt đực. Cô chủ quán hiểu được thứ ngôn ngữ ấy. Cô rót từ can ra một vại bia hơi nữa cho Túy. Quân nhìn Túy rồi nhìn Cương. Lại lè lưỡi dài hết cỡ, lắc đầu khiếp hãi. Cương cũng cười. Về khoản uống, Cương không ngán bất kỳ ai, nhưng anh không uống cho đến chết như vậy. Ớ dưới tàu, anh cũng bị nhiều trận vãi cả linh hồn, nhưng uống suốt từ sáng cho đến tối thì không. Anh cũng biết mình đang hỏng dần. Ngày nào cũng phải có một tí men, không có là không chịu được. Cũng bởi vì nằm dưới tàu bẹp quá buồn, anh hay đi dạo các tàu bạn. Đến đâu họ cũng rót rượu, rót bia mời anh. Có những lúc anh không muốn uống, nhưng họ cứ rót, cứ ép. Hình như họ thương anh nghèo, số phận hẩm hiu. Mà Cương thì kị nhất cái tình thương ấy. Biết rằng chữ nghĩa năm năm đại học đang rơi vãi đi, của thầy giả lại thầy, Cương tìm đọc các sách về ván lưới, ôn lại lý thuyết thiên văn, đêm tối leo lên đỉnh cabin thượng làm những bài tập về xác định vị trí tàu qua các vì sao. Cương nhớ đến thầy giáo dạy thiên văn. Thầy bảo ở Vịnh Bắc Bộ chỉ có 88 chòm sao làm được thiên văn hàng hải. Còn sao Polaris tức sao Bắc Đẩu quanh năm không rời khỏi cực một độ. Khi mình đứng đúng ở Bắc cực thì sao trên đỉnh đầu. Cương chưa lên Bắc cực nhưng anh đã ở xích đạo. Đúng là khi mình ở xích đạo thì sao Bắc Đẩu nằm dưới đường chân trời, không nhìn thấy. Lần ấy vượt qua xích đạo trên một con tàu Liên Xô, cả tàu như mở hội. Thuyền trưởng mời rượu và gắn cho thuyền viên mỗi người một huy hiệu “Vượt qua xích đạo”. Cương nhớ đến thầy dạy luật hàng hải. Rất thú vị. Như luật Comoro. Nếu tàu hành trình đâm vào tàu neo mà tất cả mọi người trên tàu hành trình đều giơ tay thề trước Chúa là không có ý định đâm thì không bị kết tội. Cương đã đi săn cá voi khi thực tập ở Liên Xô. Trên tàu ăn muối. Như người đi săn con hươu con hoẵng trong rừng chưa bắn được thú nên chưa có thịt ăn. Cương đã nghe tiếng con cá voi cái ăn no dạo chơi và nằm thở phì phò trên biển Bắc... Cũng không ngờ anh lại được làm hộ chiếu, được sang Liên Xô, với cái lý lịch “đen ngòm” của mình. Có lẽ vì tấm huân chương anh đạt được trong những ngày chiến đấu ở khu Năm. Những ngày ấy đâu dám nghĩ tới ngày về. Chỉ một tháng đã phải bổ sung quân ba đợt. Cố mà giữ lấy phiên hiệu. Lính cũ chỉ còn dăm người. Bộ đội xanh xao vàng vọt vì đói, vì bệnh, vì không thuốc men, vì vác nặng. Xác lính ta lính ngụy chết thối rừng. Những đoàn lính ngụy bị bắt làm tù binh trông mới tiều tụy làm sao. Quần áo tả tơi. Ông quần cắt cụt, xé toang tới đũng để vừa đi vừa đái, bởi trong khi đang áp giải trên đường thì không một tù binh nào có thể dừng lại. Anh bao nhiêu tuổi. Dạ, con năm hai tuổi. Sao già thế còn đi lính cho nó? Dạ, con trốn nhưng không được. Con đâu có ủng hộ chính phủ Thiệu. Vừa lúc ấy một chiếc máy bay bay qua, người lính Sài Gòn kêu lên: Máy bay ông Thiệu đấy! Và biết mình lỡ lời, anh ta hét to: Máy bay thằng Thiệu đấy. Rồi hát rất đúng điệu, rất hùng hồn: Thề cứu lấy nước nhà thề hy sinh đến cùng, Việt Nam anh dũng xông tới. Vận nước đã đến rồi... Những ngày ấy về trạm điều dưỡng, mỗi ngày một trận sốt rét (giờ đây nghĩ lại vẫn thấy rùng mình) Cương không viết nổi lá thư. Mắt hoa, tay không cầm nổi cái bút. Nhưng vẫn phải đứng xếp hàng chờ gọi tên để nhận suất ăn, nếu không sẽ bị mất cắp. Những ngày ấy chỉ nghĩ đến mẹ và nghĩ đến những con đường Trường Sơn đang chờ đợi khi mình lại sức, lại mang súng hành quân. Nào ngờ đâu được làm công vụ ngồi com măng ca với thủ trưởng Trần Dương bên bờ Bắc. Một công việc nhàn nhã. Một công việc xa bom đạn và sốt rét. Thế rồi một hôm đồng chí Dương bảo Cương:
- Anh sắp nhận nhiệm vụ mới, chuyển sang ngoại giao, làm tùy viên quân sự ở nước ngoài. Trước khi đi anh muốn giúp em, cử em đi học sĩ quan chuyên nghiệp. Ý em thế nào?
Cương hơi hoang mang. Nghề chinh chiến không hợp với anh. Anh chẳng thích thú gì làm sĩ quan chuyên nghiệp. Đấy là chưa kể cái lý lịch của anh rõ ràng không thích hợp với con đường binh nghiệp. Nếu thủ trưởng biết bố Cương đã bị tòa án nhân dân đặc biệt kết án tử hình, và buổi sáng hôm thi hành án, bố đã bị bịt mắt trói vào cây chuối hột sau đình, đội hành quyết đã chuẩn bị sẵn sàng và ngứa ngáy chân tay chỉ muốn bóp cò súng, thì trời đổ mưa rào, không một ai đến xem, mà không có ai xem thì chẳng còn tí ý nghĩa giáo dục, phát động nông dân đứng lên nào, nên đội đã quyết định hoãn lại đến hôm sau. Cơn mưa đã cứu bố anh. Ngay buổi chiều, lệnh sửa sai về xã. Bố anh thoát chết. Bố anh chỉ là địa chủ thường mà không phải bí thư Quốc Dân đảng như bà con nông dân đã tố nữa. Cương chỉ muốn ra quân nhưng anh không dám nói thật điều ấy, sợ bị đánh giá tư tưởng.
- Báo cáo thủ trưởng, lý lịch của em thủ trưởng biết rồi. Em có được đào tạo sĩ quan cũng khó mà tiến bộ được. Cũng chỉ thiếu úy là kịch trần. Còn đi học cơ công thì em không muốn. Em xin thủ trưởng cho em tiếp tục đi chiến đấu.
Chính ủy nhìn anh như mới gặp lần đầu:
- Anh kỳ này sang ngành ngoại giao nên không mang chú đi theo được. Còn đi chiến đấu thì anh không cho chú đi đâu. Yếu như chú chiến đấu làm sao được.
Đến lúc ấy Cương mới rụt rè:
- Hay là em đề nghị thủ trưởng cho em ra quân có được không ạ.
Liều mạng nói ra điều ấy, Cương toát hết mồ hôi, sợ bị cho là sợ chết, cầu an hưởng lạc. Nhưng không. Chính ủy ôn tồn:
-  Ra quân về nhà làm gì? Đi cày à?
Cương đã định vâng, nhưng lại nghĩ tốt nhất là nên nói thật:
-  Em về đi học tiếp.
-  Thật không?
-  Báo cáo thủ trưởng thật ạ.
Cương không ngờ sự thành thật của mình lại đáp ứng đúng lòng mong muốn của chính ủy. Đồng chí chính ủy cho người về tận nhà, gặp bố mẹ Cương, thấy cả nhà quyết tâm cho Cương đi học tiếp, đã cho anh ra quân. Không những thế còn chỉ thị cho bộ phận hậu cần ưu tiên giải quyết cho Cương những nhu cầu cần thiết, nhưng anh chỉ xin hai bộ quần áo Tô Châu, cái mũ cối và bốn gói mì chính, thứ thực phẩm cực kỳ giá trị ngày ấy về làm quà cho gia đình và bà con thôn xóm. Anh học tiếp những năm cuối cùng ở phổ thông rồi thi vào đại học. Rồi đi thực tập ở Nga. Chuyện đi Nga của anh hẳn cũng có một người nào tốt bụng thông cảm với anh. Như đồng chí Trần Dương, chính ủy đơn vị an dưỡng đã tốt với anh.
Biết bao nhiêu mộng mơ nhưng rồi phải nằm trông con tàu bẹp. Những lúc buồn chán, không biết làm gì,
Cương viết một bài về xác định vị trí tàu khi mục tiêu nằm ngoài hải đồ với những công thức dài suốt một dòng, những phương vị vô tuyến ở cự ly gần có độ chênh giữa đường cong tà hành và đường cong vòng lớn không đảng kể. Bài viết được đăng trên một chuyên san của ngành. Cũng là để trí não tập thể dục một chút, và cũng là để cho mọi người nhất là mấy ông lãnh đạo biết trong đầu thằng Cương có những gì.
Khi viết thì hăm hở thế. Nhưng đến khi in rồi Cương mới biết mình mắc sai lầm. Trừ một lần bí thư khen mà anh nghĩ sếp cho uống nước đường, giám đốc và nhất là mấy ông tổ chức cho rằng đây là cách anh phản ứng về việc bố trí anh trông nom con tàu bẹp. Như một lời trách lãnh đạo không biết dùng người. Như một cách chơi trội với một số thuyền trưởng trình độ trung cấp, sơ cấp, đánh cá chỉ dựa vào kinh nghiệm. Vì vậy anh còn bị anh em khối dưới nước khích bác nữa. Cái biệt danh “phó tiến sĩ” của anh có từ dạo ấy. Đi đến đâu, cũng râm ran những lời chào phó tiến sĩ. Cương chỉ cười. Bây giờ anh không viết bài nữa. Nhưng thỉnh thoảng đêm đêm vẫn leo lên đỉnh boong thượng đánh mooc xơ bằng dàn chớp. Hoặc làm thiên văn. Bởi vì anh em đánh cá còn đêm nằm mơ những lưới chài, chứ anh thì mơ gì. Gia đình không. Vợ con không. Bố mẹ anh ở mãi quê. Em út cũng không. Không phải rồi. Em út có đấy nhưng cũng chỉ là kiểu ăn bánh trả tiền, buồn quá thì đi, chẳng lưu lại một điều gì để mà mơ, mà nghĩ ngợi. Đã có lần Cương nghĩ mình sẽ lấy vợ. Một nữ kỹ sư chuyên về ván lưới, học sau anh ba lớp. Cô Mơ, cán bộ phân xưởng lưới, sau chuyển về phòng khai thác, chuyên theo dõi ngư trường. Thư ký công đoàn, kiêm bí thư chi đoàn khối phòng ban, Mơ là một người gương mẫu về mọi mặt. Đọc báo đầu giờ, họp chi đoàn phát động thi đua chào mừng ngày thành lập Đảng, họp sơ kết phong trào thi đua vụ cá Nam, phát động vụ cá Bắc, tổ chức biểu diễn văn nghệ trong xí nghiệp và tham gia hội diễn toàn thành, Mơ đều là người chịu trách nhiệm. Rồi học lớp cảm tình Đảng. Rồi được kết nạp, được công nhận chính thức rất nhanh và vào chi ủy. Cuộc họp nào Mơ cũng là người phát biểu đầu tiên, nếu không là người điều khiển. Mọi người tới họp hay nghe đọc báo đầu giờ, thường kẻ trước người sau lại còn lan man chuyện nọ chuyện kia, con cà con kê, bao giờ Mơ cũng là người lên tiếng chấm dứt tình trạng ấy: “Các đồng chí ổn định trật tự, ta bắt đầu sinh hoạt”. Có lẽ vì mải mê phấn đấu, Mơ đã quên chuyện yêu đương. Ớ cái nơi con gái được coi là mì chính cánh này, ngoài ba mươi tuổi Mơ vẫn độc thân. Thoạt đầu người ta ngại một người có trình độ như Mơ, rồi mỗi năm mỗi tuổi... Đi đánh thuê chuyến nào về bến, Cương chưa kịp nộp nhật ký khai thác, Mơ đã xuống tàu gặp Cương hỏi han ghi chép. Vui tính, năng động, Mơ nói với anh về kết quả khai thác của các tàu bạn, và đánh giá cao khả năng của Cương, chia sẻ với anh những thiệt thòi anh phải chịu. Mơ đã mời anh về nhà Mơ bên Hổ Lao, gặp bố mẹ Mơ. Thế rồi khi anh trở về con tàu bẹp, Mơ cũng xuống trò chuyện với anh. Anh đã quen với độ cao của cô khi ngồi trong cabin nhìn cô đi ngang qua cửa sổ. Anh cũng đã nhận ngay ra chiếc xe đạp Thống Nhất sơn xanh của cô giữa hàng chục chiếc xe đạp khác mỗi khi anh lên khu vực cơ quan. Một hôm tan tầm, anh đang đi bộ ra cổng bảo vệ thì Mơ cùng bao người nữa đạp xe ngang qua. Thấy anh, Mơ dừng lại, hỏi:
- Anh đi đâu, lên đây em đèo.
Thật quá bất ngờ. Anh bám nhẹ eo cô, nhảy lên pooc ba ga trước bao nhiêu cặp mắt mà thấy lòng mình ngập tràn hạnh phúc. Một hôm khác, cô xuống tàu anh đi đánh thuê nhận một con cá song anh để dành phần cô. Tàu bốc cá đã ba ngày, đã trở lại vắng vẻ vì đã hết mùi tanh của cá. Anh vào hầm chế biến, mở tủ đông lấy ra con cá song để cô gói vào giấy báo. Rồi bưng nước vào tận phòng cho cô rửa tay. Cô vừa rửa tay vừa kể cho anh một chuyện vui. Chuyện cô Thịnh với anh chàng Tuyên văn phòng đảng ủy đi xin cá.
- Hôm ấy em cũng xin được cá nên về muộn. Cả khu cơ quan đã về hết. Thấy cửa văn phòng đảng ủy vẫn mở, em mới đi lên xem còn ai không, sao lại quên không khóa cửa thế này hay vẫn còn sinh hoạt tổ Đảng tổ công đoàn thì nghe thấy tiếng anh chàng Tuyên tận tít phòng trong: Nước đây rửa đi. Rồi tiếng cái Thịnh: Anh rửa đi. Em lau rồi. Anh có biết họ làm gì không? Đố anh đoán được.
Cương cười nhìn thẳng vào mắt Mơ:
- Họ... ấy à?
Mơ long lanh đôi mắt:
- Em cũng tưởng họ làm gì với nhau cơ. Nhưng hóa ra họ vừa chia cá xong. Mỗi người một gói. Tuyên đem nước vào cho cái Thịnh rửa tay, nhưng cô nàng lau tay rồi. Khiếp đứng bên ngoài nghe cứ như là họ vừa... sinh hoạt với nhau xong ấy.
Và Mơ cười ngặt nghẽo:
- Bây giờ thì ngược lại. Em rửa. Anh lau.
Cương đã ôm hôn Mơ ngay lúc đó. Mơ đáp lại cái hôn mới nhiệt tình sôi nổi làm sao.
Thế rồi một buổi tối đã hẹn trước, Mơ xuống tàu anh, con tàu 307 nằm mãi cuối cảng, lẻ loi đơn độc, cầu tàu không một ngọn đèn. Chỉ một mình Cương trên tàu. (Buổi tối Nhược, Thuyền, Kích thưòng về nhà ngủ). Hai người ôm nhau trên boong. Cương dắt Mơ vào buồng mình, rồi giơ tay tắt công tắc, bế thốc Mơ lên giường. Nhưng Mơ giãy giụa thoát khỏi tay anh, bật đèn lên ngay lúc đó. Thấy vẻ hoang mang ngơ ngác của Cương, Mơ kéo anh tới bàn tiếp khách:
- Từ từ chứ. Chuyện đã nào.
Hai người ngồi ghế. Chuyện. Chỉ Mơ nói. Cương cố trấn tĩnh, dằn mình nghe Mơ nói. Toàn chuyện công việc. Chuyện xí nghiệp. Chuyện các phòng ban. Làm ra vẻ lắng nghe, nhưng Cương cứ nhìn hai bàn tay Mơ đặt trên bàn và giơ tay nắm lấy. Mơ rút tay ra, bảo anh.
- Chuyện một tí đã. Đâu có đó mà.
Thế nghĩa là Mơ hứa sẽ cho Cương điều anh đang mong, Cương biết cái gì sẽ đến cùng anh. Vậy hãy bình tĩnh chờ đợi. Đừng tỏ ra mình chỉ chăm chăm tới chuyện ấy. Mặc dù anh muốn ôm lấy Mơ, hôn vào đôi môi kia, và cùng nhau ân ái. Có lẽ Mơ sợ, đây là lần đầu tiên đối với Mơ, lần đầu tiên đối với một đời con gái nên Mơ sợ, anh nghĩ. Lúc này trông Mơ mới đẹp làm sao. Hai hàng lông mày gọn cong mà anh gọi là lông mày trăng non. Đôi mắt nhìn anh mới tin cậy làm sao! Anh sẽ lấy Mơ, chúng mình sẽ lấy nhau Mơ ạ. Dù Mơ là bí thư chi bộ còn anh vẫn là quần chúng. Anh choàng tay lên vai Mơ, nhưng Mơ hất ra, cái hất ra hơi mạnh và quyết đoán khiến Cương giật thót người, tự trách mình đã không kìm giữ được. Anh sợ bị Mơ khinh và lại ngồi im ngoan ngoãn.
- Tí nữa nào. Để em kể nốt cho anh nghe. Cái Nghĩa ở đài trung tâm cũng không tốt với em đâu. Con ấy kèn cựa với em, phấn đấu hăng, không buổi sinh hoạt nào vắng mặt. Nó muốn vào chi ủy, nhưng vào làm sao được. Bố nó trước đây làm cho Nhật đấy. Nhà giàu lắm. Được kết nạp là may lắm rồi.
Rồi Mơ nói sang chuyện một anh bảo vệ, chuyển từ xí nghiệp gạch ngói sang đây, đã sửa lại lương từ 50 đồng thành 56 đồng, dễ lắm, chỉ lồng tờ quyết định vào máy chữ, đánh số 6 đè lên số 0 là xong thôi, kỷ luật Đảng sáu tháng, mãi mới được sinh hoạt. Chưa hết. Còn chuyện trưởng phòng Trần Văn Dưỡng của Mơ. Lẽ ra được kết nạp lâu rồi. Chỉ tại cái mồm. Kế hoạch mười nghìn tấn cá trên giao xuống là pháp lệnh, làm được đến đâu thì làm. Trách nhiệm thuộc về đảng ủy giám đốc về toàn xí nghiệp chứ đâu thuộc về mình. Cứ lên tiếng phản đối. Kỳ này cũng thuộc diện đối tượng rồi đấy. Em bảo: Anh cứ ngậm miệng cho em nhờ. Làm thế nào thì làm. Đừng để bất kỳ một đảng viên nào trong chi bộ phản đối. Chi bộ cũng đã đặt chỉ tiêu trong năm nay phát triển từ một đến hai đảng viên...
Tai Cương ù đi. Hoàn toàn không hiểu Mơ nói gì. Có lúc muốn vùng lên chạy ra boong. Nhưng vẫn ngồi cố làm ra vẻ chú ý lắng nghe để Mơ khỏi khinh mình là người xác thịt. Cho đến khi Mơ đứng lên tắt điện rồi nhẹ nhàng cởi bỏ hết áo quần, nằm trên giường, Cương vẫn ngồi trên ghế, thần kinh ê ẩm, chân tay rã rời như vừa trải qua một thử thách quá sức gần như tra tấn. Đừng vội vàng, hãy ngồi lại đây một lát để bình tĩnh lại, đã cố được đến bây giờ... anh tự nhủ. Dưới ánh sao và những ánh điện từ xa chiếu qua cửa sổ để mở, (dù mở nhưng rất an toàn vì bên dưới là boong lái sâu thăm thẳm không ai có thể trèo lên nhìn vào được) anh thấy rõ thân hình trắng nõn của cô gái trên suốt chiều dài chiếc giường của anh, cả đám lông đen đầy khiêu khích và chờ bàn tay Mơ chìa ra về phía mình mà thấy từ đầu đến chân như tê liệt. Vẫn nằm trên giường, Mơ gọi anh:
- Nào! Ta sinh hoạt nào anh.
Anh chết lặng. Một câu hoàn toàn không chờ đợi, không ngờ tới. Còn hơn một gáo nước lạnh! Hơn cả sự thất vọng! Nhất là sau khi anh đã căng hết thần kinh nghe Mơ nói biết bao nhiêu chuyện. Nào! Ta sinh hoạt nào anh. Sao đầy tính chất công việc rạch ròi thời gian đến thế. Những công việc phải làm. Cứ như trước khi đọc báo, trước khi họp công đoàn, họp Đảng. Sức công phá của nó là ngay tức thì. Toàn thân anh mềm nhũn, xìu đi. Như có một người thứ ba nào đó vừa có mặt ở đây. Như đang tham gia một cuộc họp mà Mơ là chủ tọa. Cương ngồi chết gí trên ghế. Anh thở dài, một tiếng thở dài dài nhất trên cuộc đời này. Tiếng Mơ như giễu cợt:
- Tự ái à? Không sinh hoạt à?
Lại thêm một búa nữa. Anh gục hẳn. Nhưng không thể để Mơ một mình ở đó. Anh bước tới giường, nằm xuống bên Mơ, nghiêng người quàng tay ôm lấy Mơ như một nghĩa vụ. Người anh đẫm mồ hôi như bị thoát dương. Anh tự động viên, cố gắng hết mình một cách tuyệt vọng dù biết hoàn toàn vô ích. Thằng bé con của anh rũ xuống. Cương thấy nó già hơn anh. Tư cách hơn anh. Triệt để hơn anh. Nó hoàn toàn độc lập với anh và điều đó làm anh kinh ngạc. Mơ tìm mọi cách khuyến khích anh, kiên nhẫn chờ đợi rồi cuối cùng ngồi dậy không giấu vẻ thất vọng, cáu kỉnh và khinh bỉ:
- Trắng thế này, đẹp thế này mà không làm ăn gì được! Sao có người chán thế?
Và khi đã mặc quần áo bước ra cửa còn ném lại một câu như một lời nguyền rủa:
- Anh có lấy vợ cũng không có con được đâu.
Cương im lặng không nói một lời. Không thanh minh. Nuốt cái nhục vào người. Mọi ý định tốt đẹp về Mơ tan biến. Thậm chí anh còn giễu thầm mình là đồ bất lực, điều Mơ không muốn nói thẳng ra.
Từ bấy chấm dứt niềm vui mới nhen nhúm là chờ độ cao quen thuộc của Mơ hiện ra qua ô cửa cabin, chấm dứt những buổi trưa lang thang lên phòng Mơ, cùng Mơ chuyện trò, trêu Mơ về những bãi cá Mơ ghi trên hải đồ, bãi cá nào cũng một khoanh phấn đỏ hình bầu dục xoai xoai trứng gà trứng vịt. Không những thế còn tìm mọi cách tránh mặt Mơ. Từ bấy lại lên boong thượng ôn thiên văn bằng dàn chớp. Lại lang thang quán rượu. Và càng mong được điều đi đánh thuê cho một tàu nào đấy. Mong đến niên đến hạn để được thi lấy bằng thuyền trưởng rồi chuồn khỏi ngành đánh dậm...
Dù nghĩ chuồn khỏi nghề đánh dậm nhưng đi tàu nào anh cũng cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Do tính của anh. Do nằm mãi trên con tàu bẹp được thoát cũi sổ lồng, được ra biển, được thay đổi không khí, được lĩnh đồng lương và các khoản tiền nhiều gấp ba bốn lần lương cơ bản. Được nhìn thấy chân trời dù biết cái chân trời nhìn thấy ấy không phải là chân trời thật mà chỉ là chân trời biểu kiến... Các ban chỉ huy tàu đặc biệt thích Cương ở mục tác nghiệp hải đồ. Nhất là những thuyền trưởng chỉ có trình độ sơ cấp nhờ kinh nghiệm, nhờ thâm niên mà lên đánh giá rất cao khả năng ấy của anh. Thuyền trưởng Mây còn bảo anh:
- Giá mày đi với tao, hai thằng bổ sung cho nhau. Một thằng kinh nghiệm, một thằng lý thuyết...
Cương cười:
- Lý thuyết học nhanh thôi. Nhưng kinh nghiệm của anh phải bạc đầu mới có được.
Cương tự trách mình đã có thói xấu ấy. Thói xấu do gần như cả đời làm thuyền phó dự bị, nên không tự tin, cứ dựa theo “thời tiết” của người đối thoại. Thói xấu nói lấy lòng người khác. Lý thuyết học nhanh thôi. Phải cày cuốc năm năm. Phải trực chiến nhà trường tuần này sang tuần khác. Phải ăn đói đến run chân run tay và khi đi qua cổng bảo vệ chớ có hát “cuộc đời vẫn đẹp sao tình yêu vẫn đẹp sao”, bởi vì rất nguy hiểm, nhà trường cho là mỉa mai châm chọc, có thể dẫn đến bị đuổi học. Phải có tài cho vào mồm nuốt gọn cái bánh rán bà Miêng căng tin vừa vớt từ chảo ra rá, mỡ còn sôi xèo xèo mà bà ấy không biết. Hay lấy trộm của nhà bếp cái chân giò vừa luộc xong cũng nóng như vậy nhét vào cạp quần ung dung thong thả đi về ký túc xá như chẳng có gì phải vội vàng để mấy anh em cùng buồng lấy manh xơ lam xẻ ra chấm muối uống rượu thưởng thức chiến công. Phải tính được tâm của ván, phải làm thế nào cho lưới làm việc, từ hàm chì đến đụt lưới...
- Tao sẽ xin mày. Làm đơn lên tổ chức đàng hoàng. Cái thằng đại phó của tao làm ăn dở ẹc. Đại phó là phải lo nhân lực. Cùng với thủy thủ trưởng lo lưới chài, thế nhưng chuyến này sểnh chuyện này, chuyến khác sểnh chuyện khác. Ai lại chuyến vừa rồi tao đánh khu 27 lưới xúc bùn. Trở về khu 19 cũng lại xúc bùn. Rồi về đến Long Châu, tao cho thả mẻ lưới kiếm cá chim ăn. Cũng lại xúc bùn. Ớ đâu còn nghi ngờ chứ ở Long Châu cũng xúc bùn thì thôi hỏng rồi. Tao ngã người. Chết mẹ! Chúng nó lấy giềng chì tàu 400 (mã lực) và bảo giềng chì này cũng như giềng chì tàu 250 (mã lực)! Thôi mày sang với tao. Thằng Nho làm hại tao. Lưới tao xúc bùn là tại nó. Đấy là chưa kể tàu về còn đang lấy đá phủ mặt đã cho không biết bao nhiêu là cá. Đại phó là con chó giữ nhà. Làm ăn thế chỉ có chết.
Lê Mây đã làm đơn xin Cương, nhưng không được. Điều ấy Cương đã lường trước. Nho là anh em con chú con bác với chủ tịch công đoàn. Không những Nho không bị bật đi mà Lê Mây suýt phải lên khỏi tàu. Đại phó là con chó giữ nhà. Nhưng giữ sao nổi. Tàu nào về chẳng mất hàng tấn cá. Từ lúc tàu về bến cho đến khi bốc cá xong phải đến hàng trăm trường hợp xin cá mà không thể không cho. Mây nói vậy thôi. Mây chính là người cho cá nhiều nhất. Bản tính thương người, biết ai cũng gặp khó khăn, những người xuống tàu xin cá là những người đang gặp khó khăn, cực chẳng đã mới phải làm như vậy. Mây không từ chối một ai. Chưa kể Mây còn hay bốc, như anh em nói “khi hứng lên ký giấy bán cả Vịnh Bắc Bộ!” 
Ơ bến nóng thế. Không một gợn gió. Thế mà mới ra tới gần cửa sông đã thấy mát mẻ dễ chịu. Gió hây hẩy. Nước sông trong hơn, không đục ngầu phù sa. Sóng cũng đã to hơn. Những con sóng từ xa rướn đến đập vào mũi tàu tung bọt. Cửa sông có nhiều thuyền. Những chiếc thuyền nhỏ có hai cây sào xòe ngang ra hai bên mạn là là mặt nước. Bố tôi bảo chú Hồng:
- Có tôm đấy. Thuyền tôm nhiều thế này, mình ra đúng lúc đây.
Thì ra đấy là những chiếc thuyền đánh tôm, những chiếc thuyền có hai chiếc sào xòe ra hai bên. Tàu của chúng tôi cũng có hai chiếc sào xòe ra hai bên như vậy. Nhưng to hơn nhiều. Bằng sắt, một ống sắt to, hàn giằng với những thanh sắt tròn nhỏ trông như hai chiếc cần cẩu nằm ngang. Vài ba người lớn có thể trèo ra tận ngoài cùng vẫn không việc gì. Các chú gọi là tăng gông. Đã không nhìn thấy những bãi sú hai bên nữa. Ngoảnh lại: Chỉ còn là những vệt xanh thấp sát mặt nước mãi xa. Thấy tôi mon men đến cạnh chú Hồng và sờ tay vào cái tay lái bằng gỗ, bố như đoán được ý tôi. Bố bảo chú Hồng:
- Chú cho thằng cháu lái một tí.
Quá bất ngờ. Tôi chỉ mong như vậy mà không dám nói. Bố muôn năm! Tôi đứng vào chỗ chú Hồng. Nhoài người ra quay vô lăng. Cũng không nặng lắm. Khó mà nói được sự sung sướng của tôi, sự tự hào của tôi. Tất cả bọn bạn đã đứa nào được như tôi chưa. Giá cái Ngàn nhìn thấy anh nó như thế này. Con bé rất hay chành chọe, kê kích tôi. Thằng Toán nữa. Tao đang lái tàu đây, mày có biết không. Tôi thèm có máy ảnh quá chừng. Chụp một bức ảnh tôi đang cầm vô lăng, mắt nhìn về phía cửa sông trải rộng. Bức ảnh ấy mang về lớp khối đứa lác mắt. Con tàu rẽ sóng đi theo sự điều khiển của tôi, và dưới buồng máy là bác Suất. Tiếng máy rền rền. Sóng đập vào mạn tàu dào dạt... Nhưng niềm vui của tôi kéo dài không lâu. Một chiếc tàu hải quân sơn xám cùng một con tàu kéo những sà lan than rằm mạn tiễn vào. Bố tôi bảo chú Hồng cầm lái. Trước mắt tôi, những đám mây đen kịt bay tới như trời đang lập một cơn dông. Nhưng tôi vẫn nhìn thấy trời xanh ngăn ngắt phía sau. Gió từ phía mũi tàu ào ào thổi. Trời phía ấy mở rộng. Chân trời lùi xa mãi. Nhịp đung đưa của con tàu mạnh dần. Chưa bao giờ tôi trông thấy một khoảng trời rộng như thế này. Một bầu trời lổng lộng! Bỗng có tiếng ca cải lương vang lên từ chiếc loa truyền thanh treo trên trụ đèn sân thượng. Biết đã tan tầm. Đã năm giờ rưỡi rồi. Tôi nghĩ đến mẹ tôi. Đến con đường ra giếng nước. Cái giếng tròn, miệng giếng chỉ to hơn mặt sàng sâu thăm thẳm. Tôi kéo cái cần tre vít xuống, cho gầu chạm mặt nước và hất cho gầu nghiêng đi, múc đầy gầu nước, rồi kéo dây, thanh sắt buộc ở cuối cần giúp tôi đưa gầu nước lên miệng giếng xây cao. Cứ như vậy gầu này tới gầu khác đổ vào hai xô. Rồi hai tay hai xô xách vào nhà tắm, đổ cho đến khi đầy vại. Để cái Ngàn và mẹ tôi tắm. Tôi thì tắm ngay ở giếng Tôi nhớ đến tiếng chổi quét sân của cái Ngàn. Nhớ tiếng con lợn hộc hộc đòi ăn ngoài chuồng. Nhớ đàn chim bay đỗ trên cây nhãn cằn cỗi ngoài vườn. Nhớ con đường đất núi đỏ Hồng với những mảnh đả dăm đỏ như son dàn dạt ra hai bên đường mòn, lối đi đến trường ở sườn đồi... Năm giờ rưỡi. Cái giờ ba mẹ con tôi bận bịu.
Con tàu vẫn thẳng hướng xé nước ra khơi. Tôi quay lại nhìn về phía tây. Mặt trời đã xuống thấp. Chân trời rực đỏ. Cửa sông chúng tôi vừa vượt qua đã xa lắm, thấp lắm, gần như nằm dưới mặt nước. Điệu lắc con tàu mỗi lúc một mạnh. Tiễng ào ào của những con sóng bị thân tàu đập.
Nước xanh thẫm. Bốn cái ván lưới treo ở hai càng chênh chếch là là trên sóng như những bàn chân con vịt giời sắp đáp xuống mặt nước. Một sợi cáp võng từ đầu càng theo nhịp đu đưa của con tàu, lạng cắt những vạt nước mỏng tung lên trắng xóa như người ném thia lia. Biển đây rồi! Tôi đã đi tới biển!
Cuộc họp do giám đốc xí nghiệp triệu tập bàn về chuyển hướng sản xuất kinh doanh được tiến hành ở hội trường mới, nằm ở tầng hai khu nhà mới xây hình thước thợ, một cạnh giáp với xưởng lạnh, nơi trước đây vẫn sản xuất đá cây, giờ đã ngừng hoạt động do thiết bị xuống cấp, do nhà máy lạnh Bungari và nhà máy đá vảy xây dựng ở khoảng đất trống phía đông đã đi vào sản xuất, chỉ còn mỗi nhà kho là vẫn hoạt động, cái kho lạnh cao, cánh cửa sắt nặng nề đóng kín, cái nhà kho giờ đây chứa cá thì ít mà chứa thịt thì nhiều, thịt lợn móc hàm, thịt lợn sữa, ngỗng, gà... của công ty thực phẩm, công ty xuất nhập khẩu và của xí nghiệp chuẩn bị xuất đi Hong Kong. Một cạnh khác của dãy nhà mới xây là gần mười gian quay lưng ra cầu cảng, cách cầu một bãi phù sa xoai xoải, mọc thưa thớt mấy khóm năn mấy cây sú, nơi sinh sống của rất nhiều cáy và cá lác. Những con cá lác nhanh nhẹn sung sướng thỏa thích quẫy đuôi trong những vũng nước hoặc phóng mình trượt trên nền phù sa bóng nhẫy mượt mà. Những con cáy im lặng chui ra chui vào lỗ, luôn cảnh giác với tất cả. Đó là những khi nước xuống. Còn lúc triều lên là mênh mông nước, khi ấy những con tàu đỗ dọc cảng nổi dềnh để lộ thân tàu sơn đỏ, sơn xám, sơn đen, những vệt gỉ han từ những lỗ thoát nước trên boong cắt ngang thân tàu xòe hình nan quạt. Đám đất phù sa từ cầu cảng tới giáp bức tường đá van vát bó lấy rẻo đất trồng bạch đàn sát với rãnh nước chảy, bên trên là tường hành lang mài granite của dãy nhà mới xây; biến thành một hồ nước nhỏ sóng gợn lăn tăn. Cánh văn phòng hay chiếm lĩnh trận địa hành lang này. Bởi nó khuất nẻo. Sếp ít khi đi ra đây. Bởi ở đây có thể nhìn thẳng xuống tàu, biết được người quen của mình có ở dưới tàu không để xuống xin con cá, hay tới tàu vận tải nước ngoài kiếm bánh xà phòng thơm, cái xích xe đạp Nhật. Bởi ngồi ở đây có thể đón ngọn gió từ sông thổi vào, nghe tiếng lá bạch đàn lao xao mà nghỉ ngơi thư giãn, hay nhìn mấy đứa trẻ lội bì bõm dưới bãi câu cá lác. Chúng câu thật tài. Vung tay một cái, lưỡi câu chùm đã móc ngang thân con cá lác.
Dãy nhà mới xây đã làm thay đổi hẳn bộ mặt xí nghiệp. Không còn những căn nhà lụp xụp cửa gỗ ốp tôn lá nóng rẫy, mái ngói fibro xi măng, mấy cái quạt trần quay lờ đờ, càng quay càng hắt hơi nóng vào người. Giờ đây là những phòng làm việc hiện đại. Là những quạt cần National, Hitachi vàng óng có đèn ngủ có hẹn giờ, là những tủ lạnh trong buồng các tổng và phó tổng. Rồi tranh treo tường. Toàn tranh thảm. Những con hổ nằm nghỉ ngơi trong rừng thông. Con đại bàng xòe cánh trên một mỏm đá giữa biển cả sóng cồn... Tất nhiên trang thiết bị hội trường cũng đã hoàn toàn khác. Bàn ghế trong hội trường toàn loại sang trọng, đắt tiền. Ngày trước hội trường là một ngôi nhà được xây từ khi xí nghiệp mới thành lập, rộng thênh thang, ngồi được hàng trăm người, nay đã dột nát, cánh cửa bung gãy, những chiếc ghế dài có chỗ tựa lưng mà ta thường thấy ở các hội trường bất kỳ, vất chỏng chơ, cái nọ chồng lên cái kia, cái mất chân, cái long đinh, những thanh gỗ dựa lưng rời ra... Hội trường cũ vẫn tồn tại như một phế tích hoang tàn, nhưng một thời vang bóng. Ớ đó đã diễn ra bao nhiêu buổi lễ, buổi kỷ niệm long trọng, bao nhiêu cuộc phát động, cuộc tổng kết, đón nhận bằng khen của chính phủ, huân chương của nhà nước. Và những cuộc hội nghị, hội nghị công nhân viên chức, đại hội Đảng, đại hội công đoàn. Những cuộc thảo luận về ngư trường bao giờ cũng là những cuộc bàn thảo sôi nổi nhất. Bởi người thuyền trưởng đánh cá cũng có những điểm giống như nhà văn vậy. Đưa con tàu rời bến ra biển mênh mông, thả lưới, công việc của anh ta hoàn toàn đơn độc và chưa thể nói trước điều gì. Ai cũng đầy lòng tự tin ở bản thân, ở những kinh nghiệm mình tích lũy được, ở sự phán đoán luồng cá, nhìn dòng nước chảy, căn cứ vào gió vào nước mà trừ độ giạt, thế nhưng cứ có người đạt sản lượng cao người sản lượng thấp và những kết luận rút ra thường là tại khách quan. Như Lê Mây đái bãi đái xái chuyến buôn. Mình cùng về bến với ông Bôn một ngày, cùng điện một ngày, cùng báo bốc cá một ngày, thế nhưng tàu ông Bôn được bốc trước, tàu mình phải lấy đá phủ mặt. Tàu ông ấy bốc xong, lấy dầu đi luôn. Tàu mình bốc xong lại phải chờ dầu. Xà lan dầu đến lúc ấy mới rời bến đi Sở Dầu. Lại chờ hai ngày nữa. Chậm mất ba ngày rồi. Ba ngày đang vụ, mỗi ngày năm mẻ, mỗi mẻ một tấn thôi là mười lăm tấn rồi. Mình ra đánh được bốn ngày thì biển động. Ông Bôn đã quất được bảy ngày, đẫy chuyến rồi, chạy về bến bốc cá. Mình còn dầu còn đá, cứ nằm trú gió thôi.
Hay như bài diễn văn của một thuyền trưởng đánh cá vào loại trên trung bình khác: Một đặc điểm mà chúng ta ai cũng biết là cả di chuyển theo đàn. Từ nục, sủ, cá lô, cá hố, sao to, bã trầu, mối, đổng, sơn mỡ, chỉ vàng, lò tó, tới bạc má, đỏ dạ. Nhưng phán đoán cá di chuyển thế nào? Chúng ta có nhìn thấy nó đâu? Con cá cũng không như đống thóc, nằm im một chỗ cho mình xúc. Nó có vây, nó có đuôi, nó bơi, nó di chuyển. Lại còn sóng, còn gió, còn nước đánh giạt tàu mình đi. Làm thế nào để bám được trung tâm bãi cá. Đó là nhiệm vụ quan trọng số một... đã được mọi người đón nhận bằng cách hút thuốc lào, nói chuyện hoặc bỏ ra ngoài đi vệ sinh. Bởi vì ai chả biết đấy là điều quan trọng số một. Kéo mẻ lưới lên, nhìn chất đáy dính vào lưới, nhìn con cá sống, con cá chết, biết được đang đánh ở đâu, có trúng đàn cá không. Một cậu thủy thủ bậc một nếu chịu khó học tập, để ý tới công việc, đi biển một năm là biết. Thuyền trưởng tàu đánh cá đáy được mệnh danh là người dương gian làm việc âm phủ giống nhà văn ở chỗ ấy. Ớ chỗ chưa thể nói trước được điều gì khi bắt đầu thả lưới (cũng như khi bắt đầu viết). Ớ chỗ không ai chịu ai, chỉ có mình là nhất. Thuyền trưởng tàu đánh cá đáy còn giống nhà văn ở chỗ tính nết ngang tàng và tất nhiên cũng không thiếu kẻ bợ đỡ, nịnh hót.
III. 
Nhưng cuộc họp hôm nay không phải bàn về đánh cá chung chung như những cuộc họp trước mà là một cuộc họp bàn về chuyển hướng đánh cá, đánh thế nào để có thể tăng nguồn cá xuất khẩu. Các đại biểu ngồi chờ đã lâu. Giám đốc cùng khách mời, gồm các vị lãnh đạo sở và cả hai đại biểu bộ ở phía trên. Đám cán bộ chủ chốt của xí nghiệp ngồi tách ra một chỗ, ở những hàng ghế dưới cùng, chuyện rì rầm, thỉnh thoảng lại cười phá lên vì một chi tiết thú vị nào đó như những cái vĩ đại trong nhà ông Phục, hay chuyện cô Thiện cung tiêu chồng đi biển về chổng mông cho chồng bắt giun kim, rồi đến giọng trưởng phòng đời sống đọc bài thơ mới sưu tầm được trong một cuộc họp trên thành phố làm mọi người cười lăn cười lộn: Nói có người nghe. Đe có người sợ. Vợ có người chăm. Nằm có người bóp. Họp có người ghi. Chi có người bù. Tù có người chạy. Cuộc họp nào cũng vậy, người trước, người sau. Giờ giấc không bao giờ được bảo đảm. Tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng đã mấy lần xem đồng hồ tỏ vẻ sốt ruột:
- Quá nửa tiếng rồi. Xưởng lạnh chưa tới à? Cái ông Tạp này không bao giờ đúng giờ. Không cuộc họp nào không đến muộn. Tác phong nông nghiệp. Tôi đến chết với mấy ông. Lần sau còn thế này nữa văn phòng chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Chánh văn phòng Điều đứng lên:
- Các phòng ban đủ. Kế hoạch, kỹ thuật, hàng hải khai thác, cung tiêu, đời sống. Các phân xưởng mới có cơ khí, còn thiếu xưởng lạnh. Các tàu đủ, thiếu 414. Chúng tôi đã cho người báo rồi. Trần Bôn đâu nhỉ? Kinh nghiệm sốt dẻo. Vừa về bến sáng nay. Ba mươi tấn cá trong đó có mười lăm tấn cá ăn tươi...
Điều vừa nói vừa nhìn vào dãy ghế trên cùng, nơi đoàn đại biểu Sở, ông vụ trưởng vụ kế hoạch, vụ phó vụ kỹ thuật trên Bộ ngồi, một cái nhìn đầy ý nghĩa.
Trần Bôn chưa đến à? Văn phòng đâu. Đã báo họp cho Mười bốn chưa? Báo cáo giám đốc rồi. Tàu vừa về bến là cho người xuống báo ngay. Rồi chính tôi trực tiếp báo. Cho người xuống tàu mời lên ngay đi. À đây. Đại phó đây. Về nói thuyền trưởng lên họp ngay. Chánh văn phòng Điều nhanh nhảu.
Cương đứng ngay cửa hội trường, lắc đầu:
- Báo cáo. Thuyền trưởng cầm y bạ đi khám bệnh rồi ạ.
Cương đã thêm ba tiếng cầm y bạ để tăng thêm tính
thuyết phục. Thật ra lúc rời tàu, Bôn có cầm y bạ đâu.
- Thuyền trưởng về bảo lên họp ngay nhé.
Vẫn chưa thể khai mạc cuộc họp chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Giờ đây chữ kinh doanh đã được dùng một cách trơn tru, không thấy vương vướng trong tư tưởng, ngường ngượng khi phát âm nữa. Bởi vì từ ngày cách mạng thành công, tất cả đã được giáo dục rằng kinh doanh nghĩa là không phục vụ, kinh doanh nghĩa là buôn bán, nghĩa là không sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội mà chỉ mua rẻ bán đắt, kiếm lời, một kiểu làm ăn chỉ có trong xã hội tư bản. Từ khi ông Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam trong buổi đến chúc tết một gia đình nào đó, chúc gia chủ sang năm mới làm ăn buôn bán một vốn bốn lời, cả nước rung chuyển bởi sự mới mẻ trong lời chúc ấy và sau đó biết bao nhiêu cuộc họp, các thuyết trình viên đã nhắc đi nhắc lại câu này cũng như không quên giơ tay chém chém vào không khí:
- Mới lắm các đồng chí ạ. Ông cha ta ngày trước nói Nhất bản vạn lợi. Giờ Đảng ta nói Một vốn bốn lời!
Bây giờ đơn vị nào cũng làm kinh doanh. Chẳng riêng ngành thương nghiệp chuyên buôn bán. Bây giờ sản xuất đồng nghĩa với kinh doanh. Kinh doanh không còn là một hành động đáng miệt thị, mà ngược lại nó biểu hiện tài tháo vát năng động của người đứng đầu đơn vị. Khi việc xuất khẩu thủy hải sản trở thành mũi nhọn của toàn ngành và vào thời điểm ấy còn là mũi nhọn của cả nền kinh tế, khi những chuyến hàng hải sản đông lạnh đầu tiên của công ty xuất khẩu thủy sản được tàu HL02 chở sang Hong Kong, ông giám đốc Hoàng Quốc Thắng còn đang làm trưởng phòng kỹ thuật của một tổng công ty trong ngành. Rất nhanh ông hiểu cái gì đang chờ đợi ông. Hoặc ông sẽ đổi đời, nên người, hoặc ông mãi mãi là anh trưởng phòng kỹ thuật, xếp hàng lấy nước ở máy nước công cộng, gánh leo lên gác ba suốt đêm. Triết lý sống của ông là không thể để những đứa ngu lãnh đạo mình. Ông giám đốc tổng công ty của ông, theo ông, cũng là một người ngu. Ông ta ngu bởi vì ông ta không biết chia động từ “ăn”. Chia động từ “ăn” phải là “tôi ăn” “anh ăn” “nó ăn”. Quan trọng nhất không phải là tôi ăn mà là anh ăn. Nó ăn xếp xuống hàng thứ yếu. Không thể chia động từ ăn một cách công bằng. Anh ăn là quan trọng nhất rồi đến tôi ăn. Nhưng thực ra anh có ăn cũng là để tôi ăn được nhiều hơn, bền vững hơn, lâu dài hơn. Với lại các đại ca đâu có ăn ít hơn tôi. Các đại ca nắm trong tay bao nhiêu đầu mối. Nguồn thu nhập chẳng ai bì được. Còn nó ăn chỉ là để nó cho mình ăn nhiều hơn, núp dưới cái câu cửa miệng hài hòa ba lợi ích. Ông tổng giám đốc của ông chia động từ nặng về tôi ăn nên chỉ đến đấy là kịch tường rồi. Mà trong tay ông ta có bao lợi thế... Phải biết đầu tư từ xa. Ông Thắng đã làm được việc ấy. Ngay khi còn đang đi tàu, giữa lúc gạo châu củi quế, từ thành phố Hồ Chí Minh trở ra đong được tạ gạo, đến nhà Đại Ca chơi (dạo ấy Đại Ca cũng chỉ giữ một chức vụ quan trọng trong thành phố, chưa oanh liệt như bây giờ), nghe phu nhân Đại Ca than thở về đàn con ăn không biết no, ông hiểu ngay mình phải làm gì. Một tạ gạo nàng hương khi ông xe về nhà làm sáng bừng khuôn mặt vợ con, mấy hôm sau được ông xe đến nhà Đại Ca. Vẻ mặt thất vọng của vợ con ông đã biến thành những nét tươi rói trên khuôn mặt cả nhà Đại Ca. Qua truyện trò, biết vợ Đại Ca ao ước chiếc xe mini Nhật hai dóng đỏ để đi làm, ông không chút ngần ngại biếu không chiếc xe như vậy của vợ ông, quà tặng của một người bạn thân thiết bên Vosco đi Nhật. Vợ ông hàng ngày đi làm với chiếc xe khung dựng mới mua cọc cà cọc cạch, nhớ chiếc xe thời thượng đã nâng cao giá trị của mình trước những người bạn cùng phòng, cùng đơn vị, thỉnh thoảng tỏ vẻ tiếc nuối, đã được ông tâm tình một buổi mang tính triết học: muốn nhận phải biết cho, muốn được phải biết mất, muốn thu hoạch phải biết gieo hạt... Vợ ông gắt lên:
- Có cái gì cũng mang đi biếu. Chỉ còn vợ là ông chưa mang đi thôi. Ông ấy có cùng ngành đâu mà giúp được mình.
Ông đã giảng cho vợ biết về những triển vọng của việc sắp xếp cán bộ trong năm tới, về tương quan lực lượng và triển vọng thăng tiến gần như chắc như đinh đóng cột của Đại Ca, Đại Ca sẽ giữ một vị trí quyết định, bởi Đại Ca của ông có những cái ô cực mạnh và ông thầm nghĩ nếu Đại Ca cần, mình cũng có thể đưa bà vợ đến như một món quà tặng lắm chứ. Ngẫm cho cùng chỉ cần cô ấy vẫn yêu mình còn chuyện ấy chẳng qua chỉ là chuyện đụng chạm trong chốc lát mà thôi. Như ông với những người đàn bà đã qua tay. Tuy vậy ông vẫn cười:
- Bà chỉ nói bậy. Của biếu lúc còn hàn vi mới quý. Chuyện bát cơm phiếu mẫu, bà nhớ chứ. Với lại cứ cho là Đại Ca không lên được như ý muốn thì bè bạn Đại Ca cũng ghê gớm lắm, mình không thông qua Đại Ca mà nhờ vả được hay sao? Bây giờ là phải có ô dù. Không có ô tài mấy cũng không làm ăn gì được.
Điều ông nói bà cũng biết, ai cũng biết, chỉ có điều có làm được không thôi. Bà nói vậy cũng còn là muốn được nghe ông phân tích để thêm tin tưởng ở tương lai, và càng thêm phục ông chồng nhìn xa trông rộng.
Có tuần nào ông không đến nhà Đại Ca vài ba lần và được cả nhà coi như người trong gia đình. Cái việc “đầu tư chiều sâu” đúng chỗ của ông đã thành công. Đại Ca của ông lúc đạt đến đỉnh cao quyền lực khi cùng bè bạn ôn nghèo kể khổ thường hay nhắc đến những ngày bao cấp khó khăn đã được ông xe đến nhà hai bao tải gạo, mua cho bà mấy con lợn giống không lấy tiền, “còn cái xe đạp thì không ai đi nữa, nhưng cũng không cho, không bán, để dưới ga ra ô tô làm kỷ niệm...” Cho nên khi những chuyến tàu chở hàng đông lạnh đầu tiên của Liên hợp Biển Đông đi nước ngoài, ông hiểu ngay mình phải làm gì. Ông đến nhà Đại Ca và ở đó gần hết buổi sáng. Thế rồi ông Trần Hữu Bằng còn sáu tháng nữa mới nghỉ hưu đã được điều về Hà Nội để đi nghiên cứu thị trường thủy hải sản một số nước châu Âu, châu Á. Dĩ nhiên người thay ông Trần Hữu Bằng là ông Hoàng Quốc Thắng. Cái bước khởi đầu khó khăn vất vả của ông Bằng, từ chỗ chỉ lo nghiên cứu ngư trường, chạy vật tư, phát động thi đua bước vào vụ cá Nam, sơ kết vụ cá Bắc, chuyển sang làm quen với thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan, lấy hộ chiếu, làm visa, sang bên Vosco học tập cách tổ chức con tàu, xây dựng các chức danh... được ông Thắng về tiếp quản. Hai năm đầu ông Thắng làm giám đốc là thời gian các địa phương thi nhau làm thủy sản xuất khẩu. Các tỉnh thành có biển đều xây dựng các xí nghiệp chế biến thủy sản, các nhà máy đông lạnh. Rồi đắp đê lấn biển, các rừng đước bị chặt trụi để biến thành những vuông tôm. Công ty xuất khẩu thủy sản Seaprodex nổi tiếng toàn quốc và được quốc tế tặng giải thưởng Uy tín và Chất lượng.
Năm con tàu khai thác đông lạnh của xí nghiệp ngừng hẳn việc sản xuất, chuyển sang vận tải thuê cho công ty xuất khẩu thủy sản, chở thủy hải sản ra nước ngoài mà trong xí nghiệp gọi là đội tàu vận tải ngoại thương. Công việc thuận lợi như diều gặp gió. Hàng nhiều, tàu ít, gần như chỉ có tàu của công ty Seaprodex và của xí nghiệp ông. Chiếc ăn hàng ở thành phố Hồ Chí Minh, chiếc đang trên đường từ Nhật trở về, chiếc xuống hàng ở Hong Kong. Tiền vận tải thu được ông xin cấp trên cho nhập dầu, một mặt hàng chiến lược. Định mức dầu luôn luôn thiếu. Số dầu chỉ tiêu cả năm cho đánh cá chỉ dùng trong bảy tháng hết veo. Các tàu đánh cá đều đã cũ, phụ tùng thay thế không có, uống dầu chẳng kém voi uống nước. Ông là người táo bạo trong suy nghĩ. Ông chỉ thị cho hai phòng kế hoạch, khai thác hàng hải tính toán đổi dầu đổi đá cho những thuyền ngư dân sản xuất trên biển lấy cá mà không cần phải tự mình thả lưới. Ông rất hãnh diện, tự hào vì mình đã có những chủ trương táo bạo như vậy. Cũng bởi dạo ấy ngư dân miền Trung ra Vịnh Bắc Bộ đánh lưới vây nhiều. Cá của họ là cá đi đàn con nào con ấy bằng nhau, đều tăm tăm, nhưng họ lại không có dầu để đánh cá, không có đá để ướp cá. Chủ trương này của ông là kế tiếp sự thành công của chủ trương bán đá cây tự do. Thời gian mới về xí nghiệp, ngày nào ông cũng phải nhận từng xấp đơn của cán bộ công nhân trình bày khó khăn, xin được mua mấy cây nước đá về cho vợ con bán hàng nước, cải thiện. Ông thừa biết số nước đá đám công nhân viên dưới quyền ông mua được, không có cây nào mang về nhà mà bán cho con buôn chầu chực ở cổng xí nghiệp. Phần lớn họ không mua đi bán lại mà bán ngay tờ giấy có chữ ký phê duyệt của ông cho cánh buôn, nghĩa là mỗi chữ ký của ông có giá bằng nửa tháng lương. Sau một tuần ký giấy, mệt phờ người, ông nói chánh văn phòng Điều thảo cho ông một cái quyết định giao cho quản đốc phân xưởng nước đá căn cứ vào giá nước đá từng ngày, được quyền bán đá theo giá thị trường, mà không phải qua giám đốc duyệt. Thế là cái mỏ vàng ấy, cái chữ ký ra tiền ấy, từ ông chuyển về cho ông quản đốc phân xưởng đá cây. Ông quản đốc cũng hiểu mình phải làm gì, chắc chắn không thể quên ông Tổng. Ớ ông Tổng, nó không thể thành tiền. Nhưng nằm trong tay ông quản đốc, nó biến thành tiền cho cả hai ông. Và tất nhiên, nó cũng thành tiền cho xí nghiệp.
Hai quyết định bán nước đá và thành lập tổ thu gom (không phải thu mua) cá nổi của ngư dân được mọi người trong xí nghiệp ca ngợi ông là người táo bạo dám chịu trách nhiệm, dám nghĩ dám làm nhưng cũng bị nhiều lời bàn tán ra vào, kể cả những sự vu khống xuyên tạc, mà phần lớn là của các bạn đồng cấp, những sếp trên sở, kể cả những sếp trên bộ. Họ bảo ông bỏ đánh cá. Họ bảo ông gian lận, ông đã cộng số cá đổi được ấy vào sản lượng của xí nghiệp, như vậy một con cá được tính sản lượng hai lần! Và tệ hại hơn, họ bảo ông giờ đây tối mắt tối mũi với những con tàu đi Hong Kong, đi Singapore, đi Nhật, mỗi chuyến thu hàng chục nghìn đô tiền quà, tiền cống, bỏ bễ cả hai chục con tàu đánh cá, đánh mất chức năng cơ bản của xí nghiệp: Khai thác hải sản. Người ta nói với vẻ đầy khoái trá rằng thằng Hoan con trai ông nghiện, cũng như người ta truyền tai nhau về số tiền ông có, số tiền ông đút lót cấp trên kể cả Đại Ca. Không hiểu sao quan hệ giữa ông và Đại Ca kín đáo vòng vèo là thế mà họ cũng biết. Chính vì những dư luận của bọn ghen ăn ghét ở ấy mà ông tổ chức hội nghị hôm nay. Hội nghị chuyển hướng sản xuất kinh doanh có mời đủ các quan chức trên sở và cả trên bộ, nhằm đánh tan những dư luận bất lợi cho ông.
Hội nghị khai mạc chậm hơn dự kiến nửa giờ. (Hội nghị nào cũng bị chậm. Hôi nghị giao ban hàng tuần, hàng tháng còn có thể cho qua, nhưng một hội nghị quan trọng như hôm nay, mà cũng cứ phải chờ đợi thật không thể tha thứ được!)
- Ông Điều đâu? Văn phòng chịu trách nhiệm trước giám đốc về các cuộc họp mà quá nửa tiếng rồi, đại biểu chưa đến đủ, ông cứ ngồi đấy bình chân như vại.
Chánh văn phòng Điều đứng lên, cầm quyển sổ mời họp, chìa ra trước khoảng không:
- Văn phòng đã mời từ hôm qua. Tàu ông Bôn sáng nay cập cảng, cũng mời ngay rồi. Đây. Xưởng lạnh đây. Ông Tạp ký đây. Đi hay không là tùy ở các ông ấy. Văn phòng làm gì có biên chế để đi giục từng đơn vị.
Giám đốc đã bực lại càng bực với kiểu ăn nói ngang cành bứa của chánh văn phòng. Thật sự ông không ưa
Điều, một người tính khí thất thường. Lúc ngoan ngoãn nhẫn nhục hết mực, cho dù ông quát mắng vô lý đến đâu cũng cứ một vâng hai dạ, báo cáo anh báo cáo anh, lúc sẵn sàng sửng cồ lên như thế này. Đã nhiều lần ông định thay nhưng chưa tìm được người. Điều là người duy nhất làm một cái văn bản mà ông không phải sửa chữa, hoặc sửa chữa rất ít, nói được đầy đủ ý ông. Đã làm chánh văn phòng cho ba đời giám đốc, là người rất biết công biết việc, hơn thế còn là người có trí nhớ rất tốt. Vấn đề xin thêm chỉ tiêu ngư lưới cụ, mình đã có văn bản rồi, ký vào thời gian nào, công văn trên bộ về khoán dầu cho các tàu cá, đã chuyển cho phòng hàng hải khai thác tháng trước chưa thấy phòng đề xuất ý kiến gì... Hơn nữa ông biết làm cái anh trưởng phòng thì chánh văn phòng là khô nhất. Ông dịu giọng:
- Cái ông Tạp này không có cuộc họp nào không đến muộn. Phê bình mãi vẫn chứng nào tật ấy. Ông Điều xuống xưởng lạnh gọi ông Tạp lên cho tôi. Bất cứ việc gì cũng để đấy. Lên ngay!
Chánh văn phòng không giấu vẻ bực tức, vừa bước ra khỏi phòng vừa làu bàu:
- Văn phòng làm gì có biên chế để chạy theo các bố ấy mà giục.
Một lúc sau Điều bước vào phòng họp, theo sau là quản đốc xưởng lạnh. Không để giám đốc phê bình, Tạp nói luôn khi mới bước vào cửa:
- Báo cáo giám đốc, sắp sửa đi thì nhà lạnh Đan Mạch báo cáo tang trông đá vảy vỡ, phải điều thợ sửa chữa. Sửa chưa xong đã nhận được điện của nhà máy điện báo ngày mai cắt điện để duy tu đường dây. Lại phải làm việc với Ban điện năng chỗ ông Chinh khẩn trương hoàn chỉnh máy phát của mình để phát thay thế. Nhưng dầu cung tiêu báo hết. Xin thủ trưởng cho vay dầu của các tàu đỗ bến ngay để ngày mai chạy máy...
Trình, trưởng phòng cung tiêu, gầy gò, mảnh khảnh như một thư sinh, vẫn ngồi tại chỗ, trả lời rành rọt như một người nắm rất vững công việc của mình. Anh nói đã cho người làm hóa đơn ở Sở Dầu hai hôm nay rồi. Chỉ tiêu còn hai trăm năm mươi tấn, chưa kể số dầu xin bổ sung ngoài chỉ tiêu là năm mươi tấn. Nhưng hiện nay kho hết dầu. Sở Dầu hẹn trong ngày mai dầu về sẽ phát cho mình một trăm tấn. Vân vân. Rồi câu chuyện lại quay về sở điện, tất cả những phiền toái rắc rối do sở điện gây ra. Mà mình chiều mấy ông điện mấy ông nước hơn chiều bố đẻ. Ngày lễ, ngày tết đều có quà, quà đậm. Con ông ấy lấy vợ lấy chồng mình không thể không có mặt. Bố mẹ các ông ấy mất, mình phải đến viếng, không những thế còn phải bán cho các ông ấy tạ cá ngon, nhiều gấp đôi tiêu chuẩn của cán bộ công nhân viên trong liên hợp. Các ông ấy nắm yết hầu mình. Làm hàng đông lạnh mà ông ấy cắt điện, cúp nước chỉ có chết...
Cuối cùng cuộc họp cũng khai mạc. Giám đốc nói. Về tình trạng sản xuất. Về ngư trường mỗi ngày một cạn kiệt. Thiết bị xuống cấp. Về việc cần thiết phải mở một hướng mới trong sản xuất kinh doanh. Về chuyến đi Singapore vừa kết thúc của ông. Ông đã làm việc với một số đối tác ở Singapore, bên ấy người ta sẵn sàng mua cả cá ăn tươi ướp đá. Tôi đã thảo luận với họ chi tiết về giá cả, về chỉ tiêu chất lượng. Tóm lại là bây giờ làm thế nào bảo quản số cá từ loại 1 đến loại 5...
Ông nói đến việc tổ chức muối ướp trên các tàu đánh cá đá, đến việc sản xuất các khay tôn tráng kẽm để ướp, tránh tình trạng cá bị dập nát, vỡ bụng, và quan trọng hơn là tổ chức sản xuất theo đội, các tàu đánh được cá dồn cho một tàu chở sang Singapore, cán bộ phòng OTK phải đi với các tàu ra biển, trực tiếp chỉ huy việc chọn rửa muối ướp trên biển, phòng tổ chức trước mắt lo làm thủ tục đi nước ngoài cho hai tàu khối 600 (mã lực)...
- Chỉ cần xuất khẩu được một nửa số cá loại 1 đến loại 5, chúng ta cũng có một sản lượng trên hai nghìn tấn các đồng chí ạ. Làm được như vậy, chúng ta có thể không hoàn thành kế hoạch tổng sản lượng nhưng sẽ hoàn thành vượt mức chỉ tiêu xuất khẩu, chỉ tiêu giá trị, sẽ có ngoại tệ nhập thêm dầu và mua phụ tùng sửa chữa. Làm được như vậy, không chỉ khối tàu đông lạnh đi nước ngoài mà lần lượt các tàu sẽ được đi nước ngoài hết.
Phòng họp ồn ào sôi nổi hẳn lên. Người phấn khởi, người tỏ ý nghi ngờ, người nêu những khó khăn. Giám đốc hiểu rõ diễn biến tâm lý của mọi người. Ông kết luận một cách đanh thép:
- Còn nếu cứ tổ chức sản xuất như chúng ta vẫn làm, chỉ có lỗ. Càng đánh càng lỗ. Đánh sạch biển Đông! Đánh sập xí nghiệp!
Ông nói và liếc rất nhanh vào đám khách trên sở, trên bộ ngồi ở hàng ghế đầu. Đấy là điều ông muốn nhấn mạnh với họ. 
Bố tôi cầm cái tay chuông bên phải buồng lải kéo mạnh. Một tiếng rẹt phát ra. Tôi hiểu rằng tay chuông ở buồng mảy chỗ bác Suất cũng chuyển động như vậy, cũng kêu như vậy. Tiếng máy bỗng nhẹ đi. Tàu đi chậm lại. Bố ra lệnh:
- Thả lưới.
Và bước về phía lải, đứng ngay chỗ đầu cầu thang dốc đứng, cái cầu thang hàn chặt vào vách tàu, bắc từ sàn giữa gần ống khói xuống tới mặt boong lải. Các chú các bác đã có mặt đông đủ. Có tiếng tút tút sáu giờ chiều. Nhà sắp ăn cơm đây. Ất hẳn mẹ tôi với cái Ngàn ngồi ăn và nhắc đến tôi, nhắc đến bố nữa. Ba mẹ con tôi tự hào về bố. Bố là chỗ dựa cho mẹ cho hai anh em tôi. Mẹ vẫn thương bố biền biệt nơi sóng nước. Mỗi lần bố về, nhà lại như mở hội. Chúng tôi không biết cụ thể nhưng ắt hẳn bố đưa cho mẹ nhiều tiền. Để mẹ nuôi chúng tôi ăn học, để mẹ sắm sửa, để mẹ làm nhà, xây bể nước mưa, để mẹ có đồng ra đồng vào. Nhờ bố, mẹ được dân làng vì nể. Nhờ bố, chúng tôi được thầy quý bạn yêu. Bọn cùng lớp, khác lớp nhìn tôi và cái Ngàn, ao ước thèm thuồng. Mọi thứ trên người chúng tôi đều khác chúng nó. Từ bộ quần ảo tới đôi dép, chiếc cặp sách, cái mũ đội trên đầu. Tiền học, tiền mua sách vở, tiền kế hoạch nhỏ, tiền góp đi cắm trại... chúng tôi bao giờ cũng là những đứa nộp đầu tiên. Nhà chúng tôi ở cũng khác. Cả xã chỉ có trên chục gia đình được như vậy. Nhà xây, mái ngói, sân gạch, trong nhà đủ quạt trần, quạt bàn, tivi màu. Bố mẹ còn bàn nhau sang năm được tuổi xây nhà hai tầng cho mát. Tất cả là nhờ bố. Bao giờ về nhà bố cũng mang theo một túi du lịch phổng căng. Bánh kẹo cho chúng tôi và tiếp khách. Chè, thuốc lá. Và rất nhiều mực khô, cá khô. Những con mực khô hổng hổng phủ đầy phấn trắng, râu dài gấp quặt vào thân bó chặt. Những con cá kìm khô tròn mỏ dài gần bằng thân, thơm phức. Tôi thả sức nướng, nhai trẹo cả hàm vẫn còn muốn nhai nữa. Nướng ăn và mang đến lớp cho mấy đứa cùng bàn. Đứa nào cũng thích. Chúng nó lạ nhất là cái đầu cá có mỏ dài trong suốt giống hệt cái kìm. Vất đi thì tiếc, chúng đã thử nhai nhưng rồi lại phải lè ra.
Nhiều lần bố tôi về không chỉ một mình. Đi cùng còn có các chú các bác dưới tàu như bác Sĩ thủy thủ trưởng, như chú Hồng, bác Suất. Mẹ con tôi giết gà nấu cơm mời khách. Khách dưới tàu thi thoảng mới tới nhà. Còn phần lớn khách đến nhà tôi là họ hàng xóm láng giềng. Thế nào các ông khách cũng được bố tôi rót rượu mời. Uống rượu với mực khô, với cá kìm. Ai cũng biết đấy là đặc sản. Cả xóm lấy làm vinh dự vì có bố tôi, một thuyền trưởng Lại càng quý bố tôi khi nghe đài phát thanh đọc một bài dài về bố tôi. Qua bài báo tôi mới biết bố tôi cũng giống tôi, rất yêu biển, khi đi học đã sưu tầm nhiều bài thơ về biển, không những thế nhiều người bạn còn gửi cho bố tôi những bài thơ hay về biển mà họ đọc được trên báo, trong sách. Trong chiến tranh bắn phá, tàu bố tôi đi đến Cửa Ong thì bị máy bay Mỹ phát hiện. Đêm. Nó thả pháo sảng hết đợt nọ đến đợt kia. Rồi ném bom. Nổ sát tàu. Một thủy thủ bị mảnh bom văng vào tai. Một thủy thủ bị phạt đầu. Xác còn chôn ở Cửa Ông. Trong đêm tối, bố tôi nhận đưa tàu tới vị trí tập kết và đã mò mẫm tới Hòn Chông an toàn. Trong sản xuất bố tôi đã lập nhiều thành tích, từ đánh cá, tới thăm dò khảo sát tôm biển. Đặc biệt trong nghề đánh tôm, bố tôi là người đi đầu trong kỹ thuật đánh tôm bốn lưới thay cho kỹ thuật đánh tôm hai lưới từ trước đến nay. Và cũng nhờ bài báo đó, tôi mới biết bố tôi đã được đề nghị trên thưởng huân chương lao động. Tôi còn nhớ tên tác giả bài báo: Duy Thông.
Đứng trên boong giữa, cạnh bố, tay vịn lan can, tôi nhớ lại tất cả những chuyện ấy. Tôi muốn xuống boong lái, nhưng sợ vướng chân mọi người. ơ dưới ấy, bốn tấm lưới tôm đang được xếp ra. Mỗi tấm lưới đều có xích sắt. Mỗi bên càng (tăng gông) hai lưới, giữa hai lưới có mắc một thỏi sắt to bằng cổ chân tôi, trông giống quả bí xanh nhỏ được gọi là “quả bom”. Tơi bắt đầu hoạt động. Hồng hộc, hồng hộc. Nó kêu những tiếng khô khốc quái gở. Mọi người xốc lưới thả xuống biển. Bắt đầu là đụt lưới rồi đến lưới, hai “quả bom”, xích sắt. Và ván lưới. Tất cả mất hút dưới mặt nước nhấp nhoáng ánh đèn pha. Bố tôi đi về phía buồng lái. Rẹt. Rẹt. Tay chuông trên buồng lái kêu. Máy tàu chuyển nhịp. Con tàu rẽ nước tiến về phía trước. Nó đang dắt lưới. 
Nếu Cương được định biên hẳn xuống tàu HL 414 chắc anh sẽ được biết sự thật của việc thuyền trưởng vắng mặt khi tàu vừa cập bến này. Nhưng anh chỉ là lính đánh thuê một hai chuyến nên thuyền trưởng chẳng cần phải nói cùng anh. Hoặc nếu là người thuộc tổ trông xe của xí nghiệp, Cương cũng biết. Biết thuyền trưởng đã ra nhà gửi xe lấy xe máy vù về nhà rồi. Về tay không. Không một cân cá. Một con mực khô cũng không. Về nhà với cái điều Bôn đã nghĩ tới từ khi còn ở ngư trường, khi kéo mẻ lưới mà chỉ Bôn mới biết đó là mẻ lưới cuối cùng, bởi vì lúc ấy anh chưa ra lệnh tổng vệ sinh, rời ngư trường về bến. Cái điều bất kỳ thuyền viên nào đã có vợ đều nghĩ tới ngay khi nghe lệnh tổng vệ sinh tàu dù đang ở Vịnh Bắc Bộ hay còn tận mãi Vịnh Thái Lan: Ngủ với vợ (và nhiều anh đã cứng lên ngay từ lúc ấy - cánh đi biển xơi nhiều chất đạm, lại bị dồn nén lâu ngày mà!). Bôn đã nghĩ tới giờ phút đầu tiên bước vào nhà. Anh nghĩ tới những lần hai vợ chồng ân ái, nghĩ tới tấm thân mát rượi mà bốc lửa của chị. Nghĩ tới khi người chị dâm dấp mồ hôi, thứ mồ hôi của ái ân, anh gục đầu hít một hơi dài cái mùi nồng nàn tỏa ra từ nách chị mà thấy người ngây ngất. Anh nghĩ tới niềm đam mê không bao giờ chán của chị, đến lúc chị hổn hển: “Anh ngồi như ông Thế Trường đi”. Anh đã ngơ ngác không hiểu vợ nói gì mà vì sao trong lúc đang yêu nhau quên hết cả trời đất này lại có ông Thế Trường chen vào, cái thằng Thế Trường khốn nạn đã ngồi như thế nào, cái thằng Thế Trường là thằng nào đã làm gì vợ anh để vợ anh bắt anh ngồi như nó. Như biết anh nghĩ gì, chị lăn từ trên người anh xuống chiếu, nâng anh ngồi dậy: “Ồng Thế Trường biểu diễn yoga trên tivi ấy. Anh quên rồi à?” Anh hiểu. Anh đã hiểu chị muốn gì và vội làm theo. Nhớ ra rồi! Kiểu ngồi ấy là một kiểu ngồi chưa từng thấy. Ngay lúc xem ông Thế Trường biểu diễn trên tivi, anh đã bảo chị kiểu khoanh chân cong người, đầu xuống dưới của ông trùm yoga Thế Trường là một tư thế khó làm nhưng tuyệt vời. Anh nói với chị rồi anh quên đi, nhưng chị nhớ. Anh vội vàng làm theo lời chị, cố bắt chước ngồi như ông Thế Trường và ghì chặt lấy chị bởi anh biết chị vẫn khao khát anh ngồi như vậy và lúc này anh đang ngồi như vậy...
Gần một tháng trời lênh đênh ngoài biển, nằm trên chiếc giường hẹp, đêm đêm thức giấc anh hay nghĩ đến chị, nhớ chị và có những lúc nỗi nhớ biến thành sự thèm khát mà anh vội xua nó đi ngay. Cũng chẳng phải anh là người quá độ đâu. Có chuyến anh chỉ nghĩ tới con bé con. Anh hình dung rõ từng chi tiết về đứa con gái khi ấy mới lên năm, còn đang học lớp năm tuổi trường mẫu giáo Mầm Non. Thế là cập cầu xong, anh lấy xe đến trường xin phép các cô đón nó. Anh đèo nó đi lòng vòng phố. Anh mua kem cho nó. Anh dắt nó ra vườn trẻ. Hai bố con vừa đèo nhau trên xe vừa thủ thỉ chuyện trò... Chuyến này anh nghĩ đến chị (phần lớn các chuyến anh nghĩ đến chị). Nhớ chị. Thèm chị. Anh biết anh em thuyền viên cũng cùng chung với anh một nỗi niềm. Người xoay ra ghi nhật ký, người vùi đầu vào bài bạc cho quên đi, người công khai nói ra điều thầm kín ấy. Có anh còn diễn đạt điều ấy một cách rất tục tĩu: Lấy một con cá mối màu đất bãi cắm vào bụng con cá ó mịn màng, trắng nõn treo lên vách hầm bảo quản. Bốn vách hầm cá treo kín những con cá ó với cái bụng trắng phinh phính, con nào con ấy đều có một con cá mối nâu cắm vào chỗ ấy. “Để chị em bốc cá xuống hầm biết chúng ta nhịn thèm nhịn nhạt khổ sở như thế nào”. Một thủy thủ đã nói thẳng ra như vậy. Cái lần ấy anh còn ở tàu đông lạnh. Kế hoạch chỉ chuyển tải một chuyến, nghĩa là hai tháng mà ba tháng cũng chưa được về. Còn phải ở lại ngư trường, còn phải bám biển để góp phần hoàn thành kế hoạch năm. Về là mất hơn trăm tấn cá ngay. Dù máy có chạy quá thời hạn cả trăm giờ. Dù rau tươi hết từ đời nảo đời nào rồi. Dù có người lở loét hết cả hàm ếch vì thiếu rau mà anh em gọi là mắc bệnh “lở mồm long móng”. Bao nhiêu kế hoạch bị vỡ hết. Người về sang cát cho bố. Người về phép đi hỏi vợ. Anh thì vợ đẻ. Cũng có khi chẳng có việc gì quan trọng nhưng cứ kéo dài chuyến biển, cứ chuyển tải cá tại ngư trường, là cái cảm giác mình bị coi như một thứ công cụ nhằm phục vụ cho những bước thăng tiến của mấy ông lãnh đạo xí nghiệp, để các ông ấy lên chức, làm giàu lại đến, là lại thấy ngán ngẩm và nhiều khi sôi lên, muốn tung hê tất cả. Là thuyền trưởng, nhiều lúc anh cũng muốn hét vào mặt giám đốc những điều nung nấu ấy khi báo vụ đưa cho anh bức điện vừa nhận: 414 chuyển tải cả cho HL 02 ngày..., nhận dầu, nước, thực phẩm từ HL02 tại đảo Hòn Khoai. Thế là tất cả dự định đảo lộn. Lẽ ra kéo lưới, tổng vệ sinh, về bến và sau đó là bao nhiêu niềm vui chờ đợi trên đất liền, những niềm vui nhỏ nhoi mà những người trong đất liền chẳng bao giờ để ý như tiếng bánh xe ô tô lăn trên đường nhựa, hay một vòi nước công cộng vỉa hè, túm tụm người lấy nước, rửa ráy, giặt giũ. Phải xếp những thứ đó lại. Phải gạt ngay cái mùi mồ hôi, mùi da thịt vợ nồng nàn quen thuộc đã phảng phất đâu đây, như đã ngửi thấy, đã sờ thấy để rồi triệu tập ngay cuộc họp ban lãnh đạo tàu. Phải có một vẻ mặt thích hợp để điều khiển cuộc họp, nghĩa là biểu lộ sự bực dọc nhưng không thái quá để giải thích, thuyết phục anh em chấp hành lệnh một cách tự giác mà vẫn không mang tiếng là người theo đuôi lãnh đạo dù mệnh lệnh có kỳ quái thế nào chăng nữa. Để không phải van nài anh em, được anh em thông cảm nhưng vẫn giữ được cái uy của mình, của người thuyền trưởng, vẫn hoàn thành nhiệm vụ được giao. (Và mỗi khi chuyển được tình trạng bất mãn, tức giận của toàn tàu sang trạng thái mọi công việc trôi chảy băng băng, anh có cảm giác giống như khi vừa đưa tàu vào nơi trú ẩn an toàn thì cơn bão lớn ập đến, nằm trên con tàu buông neo trong vịnh, nghe biển trời gào rú, lồng lộn ngoài kia và hiểu rằng mình đã thắng).
Anh luôn nghĩ mình là một thứ đệm chống va. Mỗi khi cập cầu nhìn cái đệm chống va bị ép kiệt giữa tàu nọ với tàu kia, hay giữa tàu với cầu tàu anh lại nghĩ mình cũng giống như vậy. Anh em ép lên. Trên ép xuống. Hai chiều cùng ép lên anh. Lực ép nào cũng ghê gớm. Như sắt ép vào sắt. Như sắt ép vào bê tông. Nhưng anh cũng lại thông cảm với trên. Trên cũng là một thứ đệm chống va. Trên cũng lại bị dưới ép lên và một trên nữa ép xuống. Ai cũng là một thứ đệm chống va thôi. Anh hiểu nỗi lòng mọi người. Anh thông cảm với những phản ứng của anh em. Gọi đi ca, đéo đi. Trưởng ca biết vậy không nói nữa. Nó nói thế nhưng vẫn đi. Nếu giục, trả lời: Nói nữa đổ máu đấy. Dậy ra boong rồi, nhưng cả ca cứ ngồi hai bên mạn boong. Cứ gục đầu xuống hai tay khoanh trên gối như người ngái ngủ. Như người mới ốm dậy. Thế rồi bỗng một thủy thủ đứng phắt dậy bước ra. Trò gì thế nhỉ. Bôn vẫn theo dõi diễn biến của mọi người, nhưng anh không giục cũng như lúc này không hỏi. Anh thủy thủ quần áo bảo hộ lao động dày cộp, ủng lệt sệt hùng dũng, mặt sát khí đằng đằng. Mai. Một anh chàng rất ham đọc sách. Lại làm cả thơ nữa. Mai đã chép tặng Bôn một bài thơ bốn câu cho đến nay Bôn vẫn nhớ:
Giếng trong xanh mây trắng đến soi gương Lòng giếng, lòng người hay lòng đất Mạch nước, mạch thời gian hay dòng sữa mát Xa nhau rồi giếng bỗng hóa quê hương.
Bài thơ Mai làm để nhớ đến cái giếng làng mình. Cái giếng của những chiều gánh nước, cô nàng buông gầu thì Mai giữ dây gầu để cùng nhìn xuống bóng hai người in giữa một khoảng tròn thăm thẳm trời xanh, rồi nhìn vào mặt nhau, cô nàng đỏ mặt. Đó chính là người của ta bây giờ. Mai bảo vậy. Cô nàng vẫn ở quê, Thanh Hóa. Chuyến này Mai đã làm bao nhiêu ruốc cá thu, chỉ chờ nghỉ phép mang về. Mai vẫn làm thơ nhưng không đọc và cũng không chép cho Bôn. Hỏi thì Mai cười: “Báo cáo thuyền trưởng bây giờ vợ bìu con ríu, việc quân cơ trăm sự nghĩ sao”. Ra cái điều sắp có con. Lấy vợ mấy năm, mấy lần về phép, rồi chọn đúng lúc tàu đậu bến, vợ ra thăm chồng, ở với nhau cả nửa tháng trên nhà - hạnh - phúc vẫn chẳng thấy gì. Đêm nằm sờ tay lên bụng vợ, Mai hỏi: Sao vẫn cứ cấy chăng dây thẳng hàng thế này. Bao giờ thì cấy ngửa tay? Cho đến chuyến vợ ra đầu năm trở về được ít ngày, nhận thư vợ, Mai nhảy lên, khoe với mọi người. Tất cả xúm lại đọc: Sau khi em ra thăm anh về, cái chu kỳ ấy không đến nữa. Bây giờ không cấy chăng dây thẳng hàng nữa, cấy ngửa tay rồi! Một anh kêu to: Cũng chu kỳ như chu kỳ vòng quay chuyến biển mới khiếp chứ, cái chu kỳ gì đây ông Mai? Còn cấy ngửa tay là gì? Cứ như mật mã tình báo ấy. Mai còn tâm sự với nhiều người trong tàu rằng lá thư mới nhận, vợ Mai viết khi ở cữ sẽ về nhà mẹ đẻ, sợ mẹ chồng không giặt giũ được cho nàng dâu. Vợ Mai không biết mẹ Mai đã giặt giũ cho các bà chị dâu Mai như thế nào. Mai đã thức một đêm viết thư về cho vợ, một bức thư “dài từ ngọn nguồn tới giữa biển” như Giáp lưới trưởng sau này tố cáo. Giáp bảo trong thư có câu: Em định bảo vệ luận án của em tới bao giờ, luận án đây không phải là luận án phó tiến sĩ đâu mà luận án mẹ chồng không giặt cho nàng dâu. Giáp còn dọa Mai: Khéo tuột đụt đấy. Có nghĩa là cẩn thận không sảy. Nhưng Mai cười: Không lo. Mình đã thắt một cái nút hoạt rồi. Nút hoạt là nút thắt đuôi đụt. Rất chắc. Vướng rạn cũng chẳng việc gì. Nhưng chỉ giật nhẹ một cái là đụt cá sổ ra. Đã tính toán sít sao, đã làm cả ruốc cá thu thế mà vỡ kế hoạch. Vợ đẻ không về được. Món ruốc cá đành đem cho anh nuôi vay nấu mì. Anh nuôi nể lắm mới nhận vì mì ruốc cá so làm sao được với mì nấu tôm tươi. Mẻ lưới nào chẳng lẫn mấy lạng tôm. Giờ thấy Mai hùng dũng sát khí đằng đằng bước ra boong, qua chuồng cu (chòi micrô sau lái), Bôn lặng im xem Mai giở trò gì. Bình thường Mai nói năng rất từ tốn, gần như không bao giờ văng tục. Nhưng chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Một khi mọi kế hoạch bỗng tan tành mây khói, mọi mơ ước sụp đổ. Đi đến giữa boong, Mai dừng lại. Tất cả nhìn theo. Những người đi ca và cả những người không đi ca. Trò gì thế nhỉ? Vẻ mặt Mai vẫn hầm hầm, trông phát sợ. Vẻ mặt ấy là của người bất cần đời, giời cũng bé. Mai dừng lại, mắt trừng trừng về phía mũi. Tất cả nín thở chờ một điều gì đó xảy ra. Mai giơ hai nắm tay về phía trước như người nắm ghi đông xe đạp. Không phải xe đạp. Xe máy. Bởi Mai đã co chân lên đạp đạp mấy cái như kiểu đề ma rơ, tay xoay xoay chỉnh ga, mồm dẩu raprừprừ rứ rứ rứ... Nhao nhao những câu hỏi và những lời nhắn:
- Phóng xe đi đâu đấy?
- Nhớ quành ra Ngã Sáu mua ít rau tươi nhé!
- Mua về đây một tút Hero nghe không? Nhịn cả tuần rồi.
Giáp, lưới trưởng, trong những tình huống căng thẳng như thế này thường được gọi là Giáp hấp tỉ độ cười nhạt gọi Mai:
- Nhớ tranh thủ về Thanh Hóa xem vợ mình đẻ chưa nhé. Nếu con gái thì thôi. Nếu con giai là phải đẻ đứa nữa đấy. Nói hộ rằng mình còn lâu mới về. Cứ đi kiếm với thằng nào cũng được. Nhưng phải đợi khô lò đã.
Câu nói châm chọc. Khích bác. Khoét vào nỗi đau của Mai. Rất có thể Mai sẽ ra đòn lại, và câu chuyện chẳng biết sẽ đi đến đâu. Không khí như lặng đi dù gió vẫn thổi, sóng vẫn xô và con tàu vẫn nâng lên hạ xuống. Như được khuyến khích bởi sự im lặng giông bão ấy, Giáp làm ra vẻ rầu rĩ:
- Bảo với nó mình đã làm ruốc cá thu định đem về nhưng phải ở lại nên cho nhà bếp rồi. Gắng đợi năm năm nữa mình về.
Mai bỗng buông thõng hai tay, không nắm ghi đông nữa. Và quay lại lừ đừ nhìn Giáp. Nhìn như thôi miên. Giáp hấp tỉ độ, Giáp gai cá gúng chăm chăm nhìn lại Mai. Tất cả nín thở chờ đợi một cuộc xô xát. Nhưng Mai vẫn đứng nguyên một chỗ. Rồi lại nhìn thẳng ra phía trước, phía mũi tàu, phía cái cẩu giương cần nghiêng nghiêng. Tay lại giơ lên. Chân lại đạp. Tay xoay xoay như người xoay tay ga. Đặt hết tâm trí vào việc đề ma rơ.
- Prừ prừ rứ rứ rứ...

Và văng ra một tiếng bất ngờ nhất. Một tiếng chẳng liên quan gì đến xe máy. Cũng chẳng liên quan gì đến đánh cá. Một tiếng tục không chịu được, to tát giữa chỗ đông người, giữa thanh thiên bạch nhật vang lên cùng trời cao biển rộng. Một tiếng tục bắn ra như một viên đạn nghe rất lạ tai vì cường độ của nó. Một tiếng người ta chỉ có thể nói nhỏ, nói thầm bỗng văng ra thành một tiếng thét. Chưa bao giờ tiếng ấy được thốt ra như một tiếng gào lớn lao và thống thiết đến thế. Tất cả cười vang. Bôn cũng cười. Rung cả người. Giáp bật dậy chạy ra ôm lấy Mai. Hai người ôm nhau vỗ vỗ vào vai nhau như những người bạn thân thiết xa nhau quá lâu nay gặp lại. Nỗi bực dọc của mọi người biến đi đâu hết sau cái tiếng Mai bất ngờ thét to hết cỡ ấy. Người cứ nhẹ lâng lâng. Làm thôi. Đằng nào cũng phải làm thì làm thôi. Cả ca ai nấy đứng vào vị trí: Tơi trưởng lên máy điều khiển, tơi phụ đứng cạnh bàn tời, ca trưởng thì vẫn gù chuồng cu sau lải, bốn thủy thủ chia nhau hai người một, bước về hai trụ ván hai bên mạn. Công việc lại chạy băng băng. Lại những tiếng rin rít của pu li cẩu kéo lưới từ biển lên sàn dốc. Dây cáp. Rồi dây đòi quấn đay xơ xác. Nước bùn chảy ào ào trên boong tràn qua mạn. Tiếng rì rì của tời kéo đụt cá. Giật đụt. Cá trút xuống mặt boong. Bơm nước mặn rửa cá. Lấy xẻng xúc lên băng chuyền. Băng chuyền cao su tràn nước, những con cá mới sa lưới còn sống chen nhau giương mang nghiêng mình lách ngược dòng nước chảy. Cá trên băng từ phía lái ngược lên đổ xuống hầm chế biến. Xếp cá vào khay. Rốp xình. Rốp xình. Cá đầy khay, đậy nắp lại, móc khuy một đầu, rồi tì khuỷu tay ấn một cái thật mạnh. Rốp. Rốp. Rốp. Nghe cứ ghê người. Phải lấy hết sức mà làm. Không khỏe ấn mãi cái nắp cũng không xuống. Đưa khay cá vào tủ đông. Xình. Xình. Xình. Rốp. Rốp. Rốp xình. Rốp xình. Đinh tai nhức óc.
Bôn biết anh em. Họ rất tốt. Nhưng những lúc như vậy chớ có lên lớp họ. Lúc ấy tất cả sẵn sàng văng ra những câu giọng đuôi cá đuối. Kết quả chắc chắn sẽ là ngược lại. Bởi vì lòng vả cũng như lòng sung. Điều anh nghĩ tới đầu tiên khi nhận lệnh chuyển tải đánh thêm hai trăm tấn cá nữa là nghĩ tới giám đốc: Tất cả cho 10.000 tấn cả, khẩu hiệu ấy nếu thực hiện được và vượt nữa có lợi cho ai? Trước tiên là lãnh đạo xí nghiệp mà giám đốc là người được hưởng nhiều nhất rồi đến đám cán bộ trung gian, trưởng phó phòng, thuyền trưởng thuyền phó, cuối cùng mới đến anh em công nhân thủy thủ, may mắn ra thì được thêm một tháng lương, tháng lương thứ 13. Thuyền trưởng sẽ được chú ý, lên lương, được điều sang các tàu máy móc thiết bị còn tốt, được tặng các danh hiệu thi đua và quan trọng hơn cả là tăng thêm hy vọng được điều xuống các tàu đông lạnh chở hàng đi nước ngoài để được đổi đời. Anh em thuyền viên chỉ được hưởng cái xái xa xôi nhưng rất ít: Lời nói của thuyền trưởng tàu hoàn thành kế hoạch bao giờ cũng có trọng lượng hơn, chữ ký của thuyền trưởng tàu hoàn thành kế hoạch đề nghị thi nâng cấp nâng bậc, đề nghị điều chỉnh lương bao giờ cũng được trên lưu ý và được bố trí vào thời gian thích hợp nhất. Bôn biết cái đám ăn xái đang làm việc kia có lý khi nghĩ về lãnh đạo con tàu, lãnh đạo xí nghiệp như vậy. Anh thông cảm với họ, từ những chuyện nhỏ nhất như sự so sánh cửa miệng của anh em: Không gì khổ bằng cái nghề này. Giời mưa con chó cũng biết chạy vào trong nhà, thế mà mình lại phải lao ra ngoài mưa. Cả cái câu của lưới trưởng Giáp trong một bữa bia ở Ngã ba Đông Dương khi tàu kết thúc chuyến biển dài ngày, cập bến, một câu nói tự đáy lòng như một lời than thở:
- Lên bờ trông người phụ nữ nào cũng đẹp.
Thế là đã nói bớt đi, nói cho lịch sự rồi đấy. Đi biển lâu ngày, về bờ nhìn người phụ nữ nào cũng thấy uyển chuyển, dịu dàng, duyên dáng, xinh đẹp và gợi tình. Người phụ nữ nào cũng làm mình muốn ôm chầm lấy, cũng làm sống dậy trong mình cái máu đa si!
Thế mà phải lùi cái ngày ấy lại, cái ngày về bờ để nhìn thấy người phụ nữ nào cũng đẹp cũng gợi tình lại. Mà xí nghiệp có đến cả chục lý do để lùi, để kéo dài chuyến biển: Tàu về bến quá đông, không có cầu đỗ, thực phẩm Hà Nội hết chỉ tiêu lấy cá, kho lạnh điện phập phù, mấy thằng điên nặng này ngơi phong bì là hết ưu tiên v.v...
Tôi đi ngủ sớm. Nằm. Không định ngủ nhưng mắt cứ díp lại. Những mẻ lưới về đêm kéo lên tôi không được biết. Cũng chẳng rõ tàu đi đến đâu nữa. Nhưng mẻ lưới sáng sớm hôm sau có mặt tôi. Bác Sĩ bảo tôi:
- Con giời. Sao ngủ sớm thế. Hôm qua tao gọi mày dậy ăn cá nướng mà cứ ngủ thôi.
Tôi dậy đúng lúc kéo lưới. Hai cái đụt tôm phinh phính treo trên mỗi càng tăng gông. Chú Hồng giật cái dây, tôm cá xổ xuống mặt boong gỗ. Râu tôm đỏ đọc giương lên. Những chân tôm, những vi ở bụng tôm vẫy vẫy như múa trông rất vui mắt. Tôm búng tanh tách làm bắn cả nước lên mặt tôi. Nhưng cá vẫn nhiều hơn. Rắn biển từng búi từng khoanh. Một con nhệch nghiến chặt một con tôm. Con cá ó to nhất hội nằm ngửa như một con chim lật ngược, vẫy hai cánh cố ưỡn cái bụng trắng lốp lên. Một con bạch tuộc chết. Còn con bạch tuộc sống nằm giữa đống tôm cá, thỉnh thoảng phổng mình lên rất to rồi lại xẹp xuống.
Tôi túm lấy con bạch tuộc. Nó nhão nhớt, trơn tuột. Nhưng một cái râu của nó quấn vào cổ tay tôi, và những nốt sần trên râu hút chặt lấy tay tôi. Tôi ném mạnh nó xuống biển. Ngay lập tức con bạch tuộc phồng cái bụng như một quả bóng hình bầu dục và giật lùi về phía sau. Khi di chuyển những chân tay của nó chụm lại thành một búp thon thon gọn gàng trông giống một quả bầu nậm nhỏ và dài. Mấy cái giật lùi như vậy, nó đã mất hút trong làn nước biển. Nhưng phải nói đẹp nhất là con tôm bơi. Khi chú Hồng điều khiển tơi thả lưới, một con tôm to vướng vào tấm lưới treo ở đầu tăng gông rơi xuống biển. Nó bơi. Hai chiếc râu dài cong vút về phía sau. Hàng vi ở bụng quạt nước lấp lánh lấp lánh, mình tôm duỗi thẳng, đuôi xòe rộng dưới làn nước biển xanh... Rất nhiều loại cá. Tôi không biết tên. Con nào cũng đẹp. Đủ các màu sắc. Tôi nhặt một con cá nhám còn sống đặt lên tang tơi nhìn ngắm. Trông nó thật đẹp. Nó không bềnh bệch như con cá nhám chết đang nằm dưới kia. Da nó có những màu sắc của da trời. Trong, xanh, vàng, bàng bạc thay đổi liên tục. Mang nó phồng lên xẹp xuống cũng như nó luôn cựa mình. Chơi một lúc, tôi ném nó vào đống cá dưới boong. Một con cá to màu xám đã lách theo mạn be rồi lại cứ ngược dòng nước xối từ mảy bơm trở về đống cả. Có hai con sam bé tí, đuôi dài thẳng đơ, vụng về bò ra be, ngay lỗ thoát nước mà không biết đường lăn xuống biển. Toàn tàu ra nhặt tôm. Tất cả tôm cá được phân loại, cho vào lổ đưa xuống hầm đá. Những làn mưa mỏng buông chung quanh chỗ chúng tôi. Có lẽ chỉ ở biển mới được thấy những làn mưa mỏng, võng từ trên trời xuống như vậy. Một cơn mưa dày hơn, đen hơn đang trút xuống phía đất liền. Bố tôi bảo với chú Hùng:
-  Hôm nay nước ương. Cho tàu đánh xuống rãnh được.
Bố tôi và chú Hùng chụm đầu vào hải đổ. Tấm hải đổ có in những chữ số nhỏ li ti, chi chít ghi độ sâu của biển, trải trên bàn, thực ra không phải là bàn mà chỉ là một tấm gỗ phẳng đánh véc ni được bắt chặt vào vách cabin buồng lái. Lưới treo trên tăng gông. Tàu hành trình đến rãnh. Những mẻ lưới ở rãnh quả là nhiều tôm. Nhiều tôm nhưng ít cả. Các chú bảo hễ được nhiều tôm là ít cả. Ngược lại ít tôm là nhiều cả. Những con tôm búng nhảy, những con tôm nằm yên một chỗ vây bụng đỏ hồng chuyển động đều đều phát ra tiếng rì rào nhè nhẹ. Bác Sĩ nhặt một con cả trắng, tròn, nhỏ xíu bảo mọi người:
- Kỳ trước về Bắc Giang, bà Đảng (tức là mẹ tôi) cắp rổ đi chợ mua về một rổ cả bướm. Tưởng cả bướm là cả gì, hóa ra cả này.
Tất cả cười ầm. Tôi hỏi bác Sĩ:
- Cả này gọi là cả gì hở bác?
- Con cả ót. Ót liệt. 
Hôm nay Bôn phóng xe tranh thủ về gặp người phụ nữ của anh, người phụ nữ xinh đẹp dịu dàng yêu quý anh lúc nào cũng muốn ấp vào anh. Gửi xe ở một hàng nước đầu phố, (anh không muốn tiếng xe máy bố cáo với mọi người rằng anh đã về) anh đi bộ về nhà mà như đã nghe tiếng chị thở hổn hển dồn dập bên tai. Lần này chắc chắn anh sẽ ngồi như ông Thế Trường ngay từ những giây phút đầu tiên mà không đợi chị phải nhắc, phải giục. Trên đường về nhà, anh chỉ sợ gặp người quen. Chỉ cần lúc lỏn vào nhà không gặp ai, không có ai trông thấy là được. Anh cười thầm: Cứ như thằng đi ngoại tình. Cứ như thằng ăn trộm. Rồi nghĩ: Giờ này hai đứa con anh đang ở trường. Còn vợ anh thế nào chẳng biết ngày giờ tàu cập bến. Và cái anh chàng Đức, trưởng phòng điều độ thế nào chẳng vừa cười vừa đưa sổ ghi điện cho chị bức điện xin cập bến bốc cá của anh. Nửa chặng đường, không gặp người quen, Bôn hồi hộp cầu mong cho quãng đường còn lại. Cầu được ước thấy: Không một ai quen! Đã nghĩ đến bữa tiệc ái ân sắp được hưởng nhưng vừa đến chân cầu thang lối lên nhà anh, một người từ trên xuống. Trông thấy anh, người ấy reo to:
- Chào thuyền trưởng! Chờ mãi. May quá, đang định về.
Một đòn choáng váng! Thông! Một người bạn từ xa xưa, thời còn học trung cấp thủy sản! Cùng một khóa nhưng sau khi tốt nghiệp, Thông văn hay chữ tốt nên được về làm phóng viên tờ báo địa phương, theo dõi ngành thủy sản. Thỉnh thoảng vẫn xuống xí nghiệp lấy tin viết bài. Và bởi đã từng học thủy sản nên Thông quen biết rất nhanh, nhất là hàng ngũ thuyền trưởng thuyền phó các tàu. Đến tàu nào Thông cũng được quý trọng và đón tiếp nồng nhiệt. Chuyện nghề nghiệp. Chuyện mùa vụ. Cả chuyện nhân sự thành phố. Chuyện thời sự quốc tế. Ăn, nhậu và quà. Quà sang trọng: Cá chim. Tôm he. Mực tươi, mực khô. Thông lại có cách nói toạc ra những điều thầm kín pha lẫn hài hước. Ví như tối hôm trước, sau khi ăn nhậu dưới tàu VT 250 và được thuyền trưởng Lê Mây cho một lồ mực ống tươi, phải lấy miếng vải nhựa đi mưa ra đùm, lại còn thân hành đưa ra khỏi cổng bảo vệ; sáng hôm sau Thông xuống tàu để cảm ơn, một kiểu cảm ơn thật thà như đếm: Cám ơn thuyền trưởng. Thuyền trưởng làm hai vợ chồng tôi gần chết. Ăn thế chó nào hết gần chục cân mực. Đem cân ra cân, chính xác là chín ký bảy. Nhà tôi phải sắm một cái cân đấy bố ạ. Chỉ để cân cá cân mực xin được. Tin làm sao được cân của mấy mụ hàng cá. Nó cân cho mình, một cân chỉ tám lạng. Nó mua của mình, một cân của nó ăn cân ba. Cân lên chín ký bảy tươi. Hai vợ chồng hai đứa con, ăn nhiều lắm là ba ký. Đèo nhau ra chợ Trần Quang Khải, bán bảy ký. Coi như được một tháng lương.
Mỗi khi ăn ở dưới tàu, Thông hay cười cười nửa đùa nửa thật: Có vào người bữa đạm này, về nhà ăn rau cả tháng vẫn đủ chất, nhường mọi thứ tiêu chuẩn thịt cá cho vợ. Được một con hồng bự của tàu đông lạnh, cho vào bao dứa, Thông nói với mọi người dưới tàu: Đem con cá này về vất đánh huỵch một cái giữa nhà rồi ngồi thở. Chỉ thở thôi. Vợ con mắt sáng lên. Con lấy quạt quạt cho bố. Vợ pha nước chanh. Đèo cá qua cổng bảo vệ, Thông nhăn nhở: “Anh là nhà báo đây. Vì vậy rất đói. Tàu cho anh con cá, đừng bắt anh, em nhé”. Nói vậy thôi chứ ai cũng coi phóng viên Duy Thông như một thứ người nhà rồi. Tuy làm báo nhưng Thông lại có mộng viết văn, làm thơ. Đã có thơ đăng báo của hội văn nghệ địa phương và gần đây viết rất lên chân (cách nói của Thông) bằng chứng là có thơ in cả trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn. Không những thế, còn mới in một tập thơ, mỏng thôi, thuyền trưởng cho cá hay không cho cá đều được Thông tặng:
- Tự bỏ tiền in đấy các chiến hữu ạ. Tiền bán cá các chiến hữu cho, chứ mình lấy tiền đâu ra mà in. Thơ đọc được đấy. In xong trong túi không còn đồng nào. Xuống xin các chiến hữu chi viện đây. Lúc đi qua ngã tư Trại Lính, chẳng biết đang nghĩ ngợi cái chó gì, vượt đèn đỏ. Công an tít, giở biên lai ra ghi phạt. Mình bảo: Anh là nhà thơ đây. Nghèo lắm, chẳng đồng nào trong túi. Nó bảo thật không? Mình rút tập thơ trong túi ra: Đây, ảnh anh in ở bìa đây. Nó cầm tập thơ xem rồi bảo: Anh là nhà thơ thật nhỉ. Anh cho em tập này nhé. Mình ký tặng ngay. Thế là cứ thế đi thôi. Không phạt phung gì nữa. Với lại trong túi không còn đồng nào thật.
Gặp Thông, Bôn chết lặng. Gặp người quen là đã đại hạn rồi. Huống hồ gặp Duy Thông! Mà lại gặp ngay chân cầu thang lối đi lên nhà mình! Không trốn đi đâu được! Thông nắm chặt tay anh. Anh gỡ ra nhưng Thông càng nắm chặt hơn với tất cả nhiệt tình vồn vã. Tôi vừa lên nhà. Gặp bà ấy. Bà ấy nói ông đi biển. May quá. Suýt nữa không gặp. Sao, chuyến này thắng chứ hả. Hôm nọ xuống xí nghiệp gặp thằng Đức điều độ, nó bảo ông đánh ở Bạch Long Vĩ, sóng lắm phải không. Ông chịu sóng cũng xoàng. Chịu sóng khá nhất trong hàng ngũ thuyền trưởng phải kể đến Lê Mây. Biển động tàu vào trú gió, sóng mới hạ xuống cấp 6 đã lay từng thằng một, giục nó ra biển. Nịnh từng thằng một. Dỗ như dỗ em. Nhưng mà đánh thế là phí sức. Phải biết tiết kiệm sức lực của anh em như ông mới đúng. Căn bản là năng suất mẻ lưới chứ không phải số mẻ lưới. Cứ nồng nhiệt như vậy, tào lao chi khươn như vậy, gần như Thông lôi Bôn đến cửa nhà anh. Buồn nản cùng cực, nguyền rủa cuộc gặp mặt, nguyền rủa Thông, Bôn nhìn vợ với hai con mắt chứa chan tình yêu, ham muốn lẫn tràn đầy thất vọng. Anh nuốt một cái gì vào họng, cố nặn ra một nụ cười mà không được:
- Có anh Thông đến chơi.
Liếc nhanh bộ mặt đâm lê của chồng, rồi nhìn sang Thông vẫn đang đầy một niềm phấn khích, chị Ngát lạnh lùng:
- Thế là anh lại gặp nhà em đấy hở.
Rồi quay đi, giấu một cái nguýt rõ dài. Rõ ràng Ngát còn thất vọng hơn Bôn. Bởi chị đã xin phép công ty nghỉ buổi sáng hôm nay, lại đã tắm rửa cẩn thận chỉ để được gần chồng ngay sau khi tàu cập bến chứ không phải chờ đến tối. 
Chiếc cần cẩu thiếu nhi - người ta gọi nó như vậy có lẽ vì nó nhỏ, đặt trên một cái bệ có bốn bánh xe bằng sắt, một người có thể dùng tay đẩy nó đi từ đầu đến cuối cầu cảng, do một công nhân nhỏ nhắn đã có tuổi tên là Chín điều khiển. Tổ bốc cá mà ở đây người ta gọi gọn là tổ bốc chỉ có mỗi ông Chín là đàn ông. Trước đây tổ bốc toàn chị em người Việt gốc Hoa, họ nói tiếng Việt như người Việt gốc Việt, nhưng họ nói với nhau toàn bằng tiếng Hoa, ríu rít như một đàn chim hót líu lô. Sau năm 1979, đám nữ công nhân gốc Hoa ấy biến đi đâu hết. Chỉ còn trơ lại mỗi ông Chín. Thấy ông vẫn đứng điều khiển cần cẩu trên cầu cảng, nhiều người nhìn ông ngạc nhiên. Ông hiểu cái nhìn ấy, tròn mắt:
- Anh tưởng tôi là người Hoa à? Tôi là người Việt trăm phần trăm. Thế mà ai cũng nghĩ tôi là người Hoa. Rõ chán.
Ngày trước ông đứng cẩu. Bây giờ ông vẫn đứng cẩu. Chị em làm dưới hầm cá lạnh và tanh hôm nay là những chị em người Việt.
Chiếc cần cẩu kêu ro ro. Nó hạ thấp cần xuống miệng hầm cá. Rồi nó lại kêu. Lần này tiếng kêu của nó nặng hơn vì đã mang tải. Đầu cần ngóc lên. Dây móc cẩu căng làm bắn ra những giọt nước đùng đục màu vàng. Dưới hầm chị em tổ bốc ngoắc cái đụt cá đan bằng những sợi ni lông trắng đã ngả màu cháo lòng, xơ xác bẩn thỉu, ướt đẫm, trương phềnh, cái đụt đã chất đầy cá nục, cá mối, cá đổng và các thứ cả ba quân vào móc cẩu. Cần cẩu quay nặng nề, vừa quay vừa từ từ ngóc lên cao và hướng về một chiếc xe ô tô đang nổ máy. Trên thùng xe, một chị công nhân quần bông áo bông, ủng cao tới gối, mặt bịt kín giơ bàn tay đi găng đón cái đụt cá. Chiếc cần cẩu như chỉ chờ có vậy. Ông Chín như chỉ chờ có vậy. Cái đụt cá dừng lại lửng lơ. Nó rỏ những giọt nước lờ lờ như nước gạo và nặng mùi bị gió thổi bay chéo. Chị bốc cá giật mạnh sợi dây ở đáy đụt. Đó là cái nút hoạt mà Mai đã nói tới khi mọi người nhắc anh phải cẩn thận kẻo không vợ anh bị sảy. Cá xổ tung trên thùng xe. Cần cẩu lại bắt đầu một chu kỳ mới, quay một nửa vòng về phía miệng hầm cá và từ từ hạ xuống. Nước cá đục chảy trên thùng xe xuống mặt cầu thành dòng, thành vũng.
Trên cầu tàu, ngoài những người có nhiệm vụ, những cán bộ OTK của xí nghiệp, người của bên nhận hàng - lúc này là người của công ty thực phẩm Hà Nội, lúi húi phân loại cá, nhân viên bảo vệ, còn có những công nhân phân xưởng sửa chữa, những công nhân phân xưởng lạnh, cán bộ nhân viên khối trên bờ đi đi lại lại, có công việc hay không có công việc. Họ đảo ra cầu tàu. Đảo ra để nhìn những đụt cá, những xe cá biết bao hấp dẫn. Đảo ra để được ngửi cái mùi nằng nặng ủng ủng của những tạ cá, những tấn cá không còn tươi đã bắt đầu phân hủy mà ao ước có được mấy con. Bởi vì những bữa cơm của gia đình họ, của vợ chồng con cái họ quá ư đạm bạc, không một chút mỡ dính bát, không một miếng thịt, không một con cá, chỉ rau dưa nấu mắm và một tí mì chính tra vào như tra thuốc đau mắt... Thì ra đây nhìn. Nhìn cho sướng con mắt. Nhìn cho thêm quyết tâm, thêm can đảm, thêm kiên trì và nhẫn nhục để lựa thời cơ, xuống tàu bằng cách này cách khác kiếm mấy con đem về nhà cải thiện.
Với Cương những con cá trong hầm cá chỉ còn là những con số tấn, tạ, những đụt cá được chuyển lên xe. Những xác chết nhờn nhợt một màu. Những con cá để biến thành những con số thực hiện kế hoạch chuyến biển, những con cá không còn cả tính. Con cá thu không còn cái dáng chắc nịch hình thoi lao đi như tên bắn dượt theo chiếc lông gà mà bố Tích cấp dưỡng mệnh danh tay nải thân yêu thả trên mặt biển. Con cá khế mất hẳn cái màu sắc óng ánh hai bên lườn dèm dẹp, lớp da mỏng tang của nó kỳ diệu thay, ở sâu dưới nước mà lại lưu giữ màu sắc óng ánh luôn thay đổi của bầu trời lúc bình minh. Con cá hồng đỏ rực giương vây, cái màng mỏng đỏ tươi dính vào các gai mọc trên lưng nhọn hoắt, các vây ngực vây bụng xòe rộng, nửa thân phía dưới - bắp đuôi- rất khỏe quẫy cựa làm lệch cái vây đuôi hình đuôi én. Nằm giữa đống cá nhỏ, con cá hồng như khoe sức mạnh, vẻ đẹp của mình lần cuối cùng trước khi chết. Và con cá ong hương nhỏ nhoi đầu to, cổ rụt, có dáng dấp của một nhà tư tưởng ngẫm nghĩ sự đời vẫn tiếp tục dòng suy tưởng ngay khi bên cạnh nó những con cá dưa dài như cột nhà vàng nhẫy da lươn đang ngáp ngáp trong cơn hấp hối. Con cá song há cái miệng rộng lởm chởm răng, mang phồng ra đỏ tươi như máu, lách xuôi theo dòng nước từ ống cao su của máy bơm nước mặn xối vào lưng nó. Không thể không nhìn con cá kẽm màu xám đang nghiến chặt con cá đổng hồng tươi như một thỏi son môi giữa hai hàm răng sắc, nghiến mãi nghiến mãi cho đến khi con cá đổng đứt làm hai, rồi rùng mình mấy cái, đờ ra bất động, như đã cố thu hết tàn lực hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng.
Thỉnh thoảng mới được đi biển, Cương hay ngắm những con cá ấy. Không mẻ lưới nào anh không có mặt. Để nhìn cá. Để nhìn chất đáy. Nhìn con cá sống con cá chết, nhìn chất bùn đất rong rêu theo cá lên boong. Từ đó mà phán đoán khu ô, phán đoán luồng cá. Cá còn tươi, còn giãy là mới chớm vào luồng cá. Cá chết nhiều là đã vượt qua đàn cá. Rong rêu, bùn cát là tàu đang ở đâu, đã giạt đi bao nhiêu độ. Cát bùn là đang ở đâu. Gặp nấm biển mà anh em gọi là cốc chén của vua Thủy Tề là đang ở đâu. Cứ thế mà tính mà trừ độ giạt. Mà bám luồng cá.
Bài học về chất đáy là bài học của cả đời. Vua chất đáy không phải Bôn, Mây, cũng không phải Chơn. Vua chất đáy là Lê Uy, cháu họ Lê Mây, gọi là cháu thôi chứ còn nhiều hơn Mây vài ba tuổi. Không cần chạm tay miết chất đất dính vào đụt lưới, dính vào hàm chì, chỉ nhìn thôi, nhìn màu sắc chất đáy, nhìn những tạp chất khác kèm theo, Uy đã biết tàu ở vị trí nào trên hải đồ. Bởi vậy đánh cá đáy không ai có thể bằng Uy. Cá mối là chết với ông ấy. Cá mối là loài cá đáy. Nhưng cá nục Uy cũng chỉ như Bôn thôi. Cá nục đi nổi.
Uy còn đang trú gió ở Bạch Long Vĩ. Trú gió ở đấy chẳng ăn nhằm gì. Trú gió ở đấy cũng gần như không trú gió. Nhưng không thể chạy về Long Châu. Chạy đi chạy về như vậy, dầu hết, còn thời gian đâu đánh cá.
Đã được mấy xe cá chọn rồi. Cương đảo ra ngoài miệng hầm. Anh bảo vệ đứng ghếch một chân lên miệng hầm nghe chừng đã mỏi, bước ngược lên buồng lái, vớ lấy ấm trà đặc làm liền vài chén. Anh ta loay hoay tìm bao thuốc lá nhưng thuốc lá là vật bất ly thân, Cương đã cho vào túi áo bông, không thể để thành một thứ xê xê xê pê [1] trong buồng lái được.
Cương ngó xuống hầm cá, ước lượng số cá đã bốc, số cá còn trong hầm và đảo vào bếp. Một nồi cá song đã được đặt trên bếp sôi lom rom. Và một chảo sườn ninh. Chỉ có vậy.
- Bố Tích ơi!
- Bố Tích đi chợ rồi. Đi từ nãy cơ.
Anh thủy thủ trực bốc cá đứng sát bàn cân trả lời.
- Chết không. Sắp trưa rồi mà vắng tanh vắng ngắt thế này.
Sắp trưa và trưa. Đó là thời gian bận bịu căng thẳng của anh. Và kia kìa cái dấu hiệu đầu tiên của sự căng thẳng đến kia rồi. Đó là Nhược và Thuyền, hai người trông con tàu bẹp cùng anh. Nhược gầy cao xách chiếc xô tôn thủng thẳng đi trước. Thuyền to lớn bệ vệ theo sau.
- Chào thủ trưởng.
- Thủ trưởng khỏe không?
- Khỏe. Anh em ở nhà thế nào?
- Bình thường. Nghĩa là đọi. Bà cả Đọi. Có cái khác là nhớ thủ trưởng thôi.
- Cám ơn tấm lòng không lấy gì làm thơm của các bạn.
Nhược chìa xô ra:
- Thủ trưởng cứ cho đầy đầy cái xô này là được.
Ba người bước đến miệng hầm cá. Cương nói với mấy chị bốc cá đang lấy cào ba chia cào cá vào miệng đụt. Cái xô được quăng xuống. Thuyền gọi to:
- Chị Liền ơi. Cá bạc má nhé.
Nhược tiếp:
- Đầy xô vào.
Cả tổ bốc, cả anh bảo vệ đều biết Thuyền và Nhược là lính dưới tàu 307, là quân của Cương, cần phải ưu tiên. Họ bốc ngay chỗ cá nục, cá bạc má ngon nhất mà họ đã lựa ra theo phản ứng nghề nghiệp, chẳng thể để những con cá ngon như thế giao cho mậu dịch được, hơn nữa thế nào cũng có những người tới bắt họ phải nhặt những con cá chưa bị vỡ bụng, mắt còn trong vào túi vào xô.
- Cho đầy vào. Lắc lắc xô mấy cái đã nào.
Chị bốc cá làm đúng như mệnh lệnh. Nhược cúi gập người thõng tay xuống nắm lấy cái quai xô chị bốc cá đang cố kiễng chân đưa lên.
- Đánh nhanh. Rút nhanh.
Hai người nhảy lên cầu tàu, đi về phía cuối cầu cảng, nơi con tàu bẹp đỗ. Ớ đấy đã có mấy người đàn bà phe cả đứng đợi.
Thuyền, Nhược vừa đi thì một đoàn rồng rắn xô thùng đến. Đó là những tàu sửa chữa định kỳ, nằm bến lâu ngày, những tổ xuống đá, những tổ súc sạc ắc quy, những tổ sửa chữa, những tàu lai tàu dầu... Tất nhiên là những suất cá ngon, nhưng ít người được toàn cá đẹp như Thuyền và Nhược. Chẳng ai ghen tị với anh em trông con tàu bẹp. Quanh năm suốt tháng đói. Chỉ trông vào viện trợ của chín nước anh em. Chỉ có đồng lương cấp bậc. Phụ cấp đi biển không. Lương sản phẩm không. Quỹ công đoàn không. Quỹ tàu càng không. Lương cũng lĩnh hai kỳ như khối trên bờ. Một mình tiêu không đủ, nói gì tới gia đình vợ con.
Giải quyết xong việc cho cá, Cương xem đồng hồ: Đã mười một giờ rồi. Bôn đã về. Cương bảo thuyền trưởng đi đâu, giám đốc tìm đấy. Sáng nay họp bàn chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Bôn bảo: Cậu báo cáo hộ mình rồi chứ. Cương đùa nhưng lại đúng sự thật:
- Có báo cáo ra trạm xá chứ không nói về nhà giải quyết khâu tăng cường hàng tiền đạo.
Bôn cười không trả lời. Nào anh đã được xơ múi gì đâu. Cái buổi sáng bao nhiêu hy vọng nhưng rồi không ra làm sao. Thông ngồi cũng không lâu lắm. Đủ để đọc cho anh nghe mấy bài thơ về biển Thông mới làm và muốn xin ý kiến người bạn đã gắn bó với biển nửa cuộc đời.
Biển ơi biển bạc làm chi Biển vàng mà rất nhiều khi không vàng
Ông bạn nhà thơ trợn mắt nhìn Bôn:
- Ông thấy hai câu này của tôi được đấy chứ hả. Biển bạc là hỏng rồi. Bạc là trắng phớ ra, là bạc bẽo. Là đổ mồ hôi sôi nước mắt mà chẳng ăn gì. Chưa kể biển còn là nấm mồ chôn bao người. Còn biển vàng cũng là nói động viên thôi. Có vàng đấy nhưng vàng rất ít. Tôi rất ưng hai câu này. Có thể đây là tuyên ngôn về cuộc sống của tôi. Cuộc sống là như thế. Không vàng mà bạc.
Những câu nói của Thông cứ như những mũi khoan xoáy vào đầu óc. Anh cũng chẳng biết mình có gật gù làm ra vẻ tán thưởng không nhưng trong đầu anh đã bật ra một câu chửi, thơ với phú cút mẹ mày đi ông bạn giời đánh ạ lại còn cái gì nữa đây à một bài thơ tình để tôi đọc bài thơ tình đã rồi bài thứ ba lại là bài thơ về biển cho nó thay đổi không khí đi ăn mãi một món sợ chán hôm qua em có về không anh đi đến giữa cánh đồng thì mưa mưa hay nắng cũng mặc xác anh mặc xác em, thơ phú cái con tườu. Không có thằng nhà thơ dở hơi này thì từ nãy đến giờ cũng xong rồi. Mà trông nàng mới tuyệt vời làm sao, ôi bây giờ được ôm nàng vào lòng được bế nàng lên giường đóng chặt cửa lại hai đứa quấn vào nhau hay ngồi như ông Thế Trường, ai gọi cửa cũng mặc em ơi em đã về chưa đi sao cho hết buổi trưa lòng mình em như trúc mọc đầu đình trúc mọc đầu đình thì mày ra đầu đình với trúc còn tao không, tao chỉ ở nhà tao thôi. Mày làm thơ hay rồi. Đúng là đang lên chân nhưng ông ngồi mười lăm phút nữa là chết con, là con bé con đi học về, là khốn nạn thơ phú cái con khẹc.
Bôn không dám nhìn vào mặt bạn nữa. Anh sợ rồi mình sẽ tống một quả đấm vào bộ mặt đang tràn đầy chất thơ kia. Ôi cái thứ thơ văn lai láng giết người. Có câm ngay đi không. Thằng chó chết. Bây giờ tôi đọc cho ông nghe bài thứ ba lại một bài thơ về biển. Loáng thoáng bên tai anh những cánh chim hải âu, những biển của tôi, rồi người chinh phục những chân trời. Cái lúc ấy, cái lúc anh đang nghe những vần thơ mênh mông biển cả chân trời ấy, chị Ngát vợ anh lại cúi cúi tìm một cái gì đó, lượt vải xa tanh bóng bẩy mềm mại chia cặp mông tròn của chị ra làm đôi khiến cổ anh nghẹn lại. Anh bực bội cắt ngang lời người bạn thi sĩ của anh bằng câu nói của Giáp:
- Ông phải nói được điều này của cánh đi biển chúng tôi. Đó là khi kết thúc một chuyến biển dài ngày về bờ, chúng tôi nhìn thấy người phụ nữ nào cũng đẹp.
Thông reo to:
- Hay! Quá hay! Tôi sẽ thêm ý này vào bài. Nhưng ông thấy cái ý lấn biển của tôi có được không? Lấn biển không chỉ có nghĩa là quai đê lần biển như thời cụ Nguyễn Công Trứ ngày xưa. Lấn biển còn là từng bước chinh phục biển cả.
Cái thằng này đúng là không hiểu một cái gì. Nói đến thế mà nó vẫn cứ hơn hớn ra mà thơ phú lấn biển thế kia. Chẳng biết đã trút hết nỗi niềm thơ hay hiểu được vẻ mặt chủ nhân, Thông đứng dậy cáo từ. Bôn như cất được gánh nặng nhưng vừa định cài cửa, lại lù lù một vị khách nữa dẫn xác đến. Vị này mới cực kỳ vô tư và khảng khải:
- Thấy cửa mở là biết ngay ông mới về mà. Ông về, bà ấy mới nghỉ ở nhà đón ông chứ.
Ngu đến như vậy là cùng. Rặt một bọn ngu, một lũ ngu. Nói thế thì phải biết vợ chồng người ta mong gần nhau như thế nào chứ. Cứ ra cái điều mình tâm lý mà chẳng tâm lý tí nào. Anh vào chơi. Tôi vừa về. Cám ơn anh tôi vẫn khỏe. Đi biển hơn nửa tháng sốt ruột quá, không biết ở nhà tình hình ra sao, tranh thủ về nhà được một tí rồi lại phải đến xí nghiệp ngay... Vừa tiếp chuyện, Bôn vừa liếc nhìn đồng hồ. Anh biết hỏng tất cả mất rồi. Chỉ lát nữa con bé nhớn đi học về. Chờ lúc vị khách nhìn ra ngoài sân, chị Ngát liếc chồng, cười kín đáo. Nụ cười vừa như chế giễu, vừa như hứa hẹn sẽ đền bù lại cho anh gấp nhiều lần vào tối hôm nay. Nụ cười làm anh nhẹ đi, vợi đi biết bao bực bội trong lòng. Ông khách đến sau hồn nhiên không kém gì ông nhà thơ đến trước. Chuyện vệ sinh khu tập thể. Chuyện phố Lán Bè có thằng thanh niên đứng ngoài cửa ném lựu đạn vào giữa nhà lúc bố mẹ anh em đang xem tivi vì không cho nó tiền mua xe máy, may mà lựu đạn không nổ, chuyện một ông bố nào đấy ngủ với con riêng của vợ, bị bà vợ bắt được... Thấy con Linh đi học về “con chào bố, con chào bác” còn reo lên: “Đã tan học rồi, trưa rồi à. Thôi chào hai ông bà tôi cũng phải về đây. Ngồi lâu quá. Về cơm nước không bà ấy lại tế cho”. Thế là một cái ôm vợ cũng không được. Anh đi bộ ra hàng nước lấy xe phóng tới xí nghiệp, rú ga thật to như muốn trút nỗi thất vọng qua cái ống xả và cũng để bù lại lúc về phải trổ tài lái xe sao cho máy thật êm.
Cương phấn khởi nói với Bôn:
- Thế này có lẽ được mười tám tấn cá chọn đấy.
- Làm gì được.
- Cá mối nặng, cân dôi lắm. Mới hai hầm mà đã ba xe rồi.
- Sao bếp núc vắng tanh thế này?
- Bố Tích bảo đi mua tí bún, tí rau sống mà bây giờ vẫn chưa thấy tăm hơi đâu.
Chú thích:
[1] CCCP: Nhãn hiệu Liên Xô, được xuyên tạc là Của Công Cứ Phá, Các Chú Cứ Phá, Cứ Cho Cứ Phá, Còn Cho Còn Phá. 
IV. 
Giống một con trâu kéo cày, con tàu với hai sợi dây cáp hai bên mạn cắm sâu trong nước hun hút, nhoai ra nặng nhọc bền bỉ tiến lên, một công việc mà bác Suất bảo là nó kéo lưới trả nợ ơn người. Chú Hùng bảo tàu đang dắt lưới ở rãnh nhưng nhìn chẳng thấy rãnh đâu mà vẫn là biển cả mênh mông. Chỉ một lần thuộc ca chú Hùng bỗng nhiên tàu mắc cạn mới biết trông thế thôi, chứ biển chỗ ấy cũng không sâu lắm. Con tàu không nhúc nhích được. Không thể cứ đỗ một chỗ chờ nước lên. Hôm nay nước ương nghĩa là không lên không xuống. Bác Sĩ bảo nước sinh con. Bố tôi vào buồng lái. Bác Suất nhanh nhẹn xuống buồng máy. Rẹt rẹt rẹt. Tay chuông kêu liên tục. Máy nổ rầm rầm. Chân vịt quạt nước về phía sau cuồn cuộn, cuồn cuộn đục ngầu. Tất cả đứng ngoài boong, nhìn về phía đuôi tàu lo lắng. Bố tôi quát: Thu lưới. Phải kéo lưới lên để giảm sức nặng cho tàu. Tơi lại hồng hộc hồng hộc cuốn cáp. Rồi đến dây đôi là thứ dây cáp được quấn lẫn với dây đay. Nước bùn từ dây đôi miết vào cái pu li bắt trên be tàu chảy xuống boong lái bẩn thỉu. Những chiếc lưới đã treo lủng lẳng ở móc cẩu chìa ra chênh chếch phía đuôi tàu. Nắng. Nắng rát mặt, rát vai. Biển mênh mông lóa mắt. Rẹt rẹt. Con tàu chỉ nhè nhẹ rung khi kéo lưới bỗng run lên bần bật. Tiếng máy gầm vang. Ầm ầm. Hộc hộc. Bàn chân đứng trên boong gần như nảy lên. Luồng nước bùn duỗi mạnh, đạp mạnh, thục vào biển xanh. Nhiều lần như vậy. Mọi người nhìn cả về một hướng theo luồng nước đục ngầu một vùng biển. Con tàu lắc mình quẫy đạp. Bố tôi đánh tay lái sang phải. Đánh tay lái sang trái. Tàu đã hơi nhúc nhắc quay đi quay lại cái mũi. Lùi không được. Tiến không được. Cứ ì ra một chỗ. Nó lại lắc. Lắc mạnh. Tiếng máy vẫn ầm ầm. Bỗng nó rùng mình mấy cái rồi nhoài đi. Tiếng vỗ tay reo hò. Tôi cũng vỗ tay. Con tàu lượn nghiêng nửa vòng và trườn đi, rướn đi, bỏ lại phía sau một vùng nước đục ngầu, một vùng nước cực kỳ nguy hiểm, đè lên những con sóng trong xanh đang uyển chuyển xô tới. Không chết gí một chỗ quẫy đạp nữa, nó duyên dáng lướt trên biển xanh. Tôi thở phào. Nét mặt bố vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Bố và chú Hùng lại lúi húi đo đo tính tính trên hải đồ. Hai người đánh dấu chỗ con tàu vừa mắc cạn. 
Bố Tích rất thiêng. Vừa nhắc đến đã thấy hiện ra ở cổng chào, cái cổng chào ngăn đôi con đường bê tông dẫn ra cầu cảng, cái cổng chào mà anh thi đua Đỗ Trung Tín cứ có công có việc, ngày lễ lại căng lên đó một tấm khẩu hiệu đỏ tươi. Đó là một người đã có tuổi, gầy nhỏ, tóc hoa râm, cổ lộ hầu, có biệt danh là tay nái thân yêu. Hai tay hai làn nặng, bố Tích đi như chạy.
- Đi đâu mà bây giờ mới về, bố?
- Thì cũng phải đi bát ngát một tí chứ. Thế nào gọi là thủy thủ về bờ. Già cũng vẫn là thủy thủ chứ. Các thủ trưởng cứ yên trí. Xương ninh rồi. Cá nấu rồi. Bún đây. Luộc mực, rửa rau là xong. Cứ yên trí ở tay nái thân yêu này. Còn một tiếng nữa cơ mà.
Tích đã ngoài năm mươi, được cả tàu gọi bằng bố, kể cả thuyền trưởng. Làm việc không chê vào đâu được. Nếu có hội thi cấp dưỡng tàu toàn xí nghiệp, Tích đoạt giải nhất là cái chắc. Khác với phần lớn cấp dưỡng tàu thiên về chém to kho mặn, hoặc chỉ chú ý đến chất lượng cũng như số lượng, bố Tích tay nái thân yêu anh nuôi tàu 414 rất chú trọng đến cách trình bày hoa lá cành cho những món ăn, ví như mực xào bao giờ bố cũng khía những đường chéo nhau trên con mực đã làm sạch rồi mới thái, không thái nhỏ mà thái những miếng hình vuông, khi xào miếng mực cuộn thành những ống tròn, trông thật mê ly. Mỗi khi tàu sắp tách bến, bao giờ trong kho của bố cũng có từng can chíu chương, cả bao hành khô đủ dùng cho hai chuyến biển. Để phòng xa, như bố nói. Cho nên cái món mì tôm bố Tích ăn đứt các thứ phở toàn mì chính là mì chính trên phố. Ngon đến nỗi anh chàng Mai sợ tuột đụt phải són ra thơ: Tôm mì nấu với mì tôm/ An vào một bát no luôn dạ dày... Mẻ lưới buổi hừng đông kéo lên, vừa giật đụt xong, bất kể mưa nắng cũng đều thấy bố Tích tay cầm cái rổ đủng đỉnh đi sau lưng anh em đang ngồi nhặt cá, nhòm nhòm ngó ngó, cặp mắt hau háu như quạ nhòm chuồng lợn. Nhiều ít thế nào bố cũng kiếm được khi dăm lạng, nhiều thì cân, hơn cân, đủ các chủng loại: tôm vàng, tôm bộp, tôm he, tôm sắt, tôm tít, bề bề, nhiều khi cả một con tôm hùm kềnh càng nữa. Riêng cái khoản tôm hùm này lúc được nhiều tôm nhỏ bố cũng chẳng tơ màng, bởi lắm khi tranh nhau xảy ra to tiếng, chỉ vì nó là món được nhiều thuyền viên ưa thích. Moi hết ruột, đánh quang dầu vỏ, con tôm hùm khô và rỗng ruột là một thứ trang trí trên tường nhà hấp dẫn, mang nặng đặc trưng nghề nghiệp. Bao nhiêu năm làm cấp dưỡng, bố Tích quen thân với nhiều cửa hàng mậu dịch, cần cái gì bố tay nái thân yêu được hết. Mỡ hiếm thế nhưng khi cần mua toàn mỡ cũng được. Vợ thuyền trưởng đẻ, bố mua chân giò cho thuyền trưởng mang về ninh để vợ ăn cho sẵn sữa cũng được. Không phải xếp hàng. Cứ thấy tay nái thân yêu là cắt thịt ngay. Bố còn bông đùa:
- Các cô ấy trẻ quá chứ không tao cũng tay nái thân yêu rồi.
Cánh thủy thủ trẻ thừa biết bố Tích đánh đĩ mồm. Bố là người chân chỉ hạt bột vào bậc nhất. Tất cả cho vợ con ở quê. Đi biển dài ngày, tiêu chuẩn bia, thuốc lá được cả cây cả két bố đem bán hết. (Bán cho anh em thôi. Đắt ngang giá ngoài, có rẻ cũng chỉ rẻ nửa giá, một giá là cùng). Tàu cập bến Vũng Tàu, anh em lên bờ ăn chơi xả láng, bồ bịch, nhà hàng, bia ôm, karaoke đến khuya, nhiều anh qua đêm, chỉ bố Tích ở nhà cùng với trực ban. Giáp bảo bố:
- Lên bờ đi. Các em Vũng Tàu hay lắm. Ki cóp làm gì. Vua Ngô ba sáu tàn vàng. Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì. Chúa Chổm uống rượu tì tì. Chết xuống âm phủ kém gì vua Ngô.
Tích bảo:
- Tao già rồi.
Anh em nhâu nhâu:
- Bố cứ đi thử một lần xem nào. Càng già càng dẻo càng dai. Còn khối vị già hơn bố nhiều. Tóc bạc trắng hết, không một sợi đen cũng vẫn chiến đấu tốt. Có mà bố tiếc tiền thì có. Bố đi. Con bao.
Trêu quá đà. Bố cáu:
- Tao mà bằng tuổi chúng mày, chúng mày phải gọi tao bằng cụ. Nói thật với các chú chứ lão này con rơi con vãi cũng kha khá đấy.
Tất cả cười ồ khen bố giỏi võ miệng, nhưng rồi sau đó đứng im phăng phắc há hốc mồm nghe. Nghe bố Tích kể chuyện thời gian còn ở bộ đội, thời gian “bằng tuổi chúng mày bây giờ”. Đập lúa giúp dân. Có một cô bé hay quá. Chúng mày biết gái Thủy Nguyên đập lúa rồi chứ gì. Khăn mỏ quạ bịt kín mặt chỉ để hở hai con mắt, chẳng biết già trẻ xấu tốt ra sao. Đập xong, tất cả ra về, chỉ còn tao và một cô ở lại quét dọn, về sau. Đến khi ra cầu ao, cô ấy cởi khăn ra giũ. Ôi trời! Đẹp quá. Má hồng rực, tóc mai dính bết, mắt bồ câu long lanh. Hai đứa xắn quần lội xuống bậc gạch bên dưới. Cô ấy cúi xuống. Tao cũng cúi xuống nhưng chưa vục nước ngay mà còn nhìn sang cô nàng. Hai bắp chân trắng như cá chép ngâm dưới nước. Cô ấy cũng nhìn lại tao cười, má cứ rực lên rồi lại cúi xuống ao, hai bàn tay khum khum định vốc nước lên mặt. Tao mới đưa tay sang xoa xoa vào mặt nước chỗ khuôn mặt cô ấy. Cô ấy cười tủm tỉm, rồi nắm lấy tay tao, giữ chặt không cho tao khỏa nước nữa. Lại còn đưa một tay sang xoa chỗ ao tao đang soi xuống. Trả miếng đấy. Có đi có lại đấy. Ăn chết rồi! Tao cũng nắm lấy tay cô ấy, giữ tay cô ấy lại, bóp một cái thật mạnh. Cô nàng nhăn nhó há miệng ra chiều đau. Chỉ há miệng chứ không kêu thành tiếng. Chà! Cái nhăn mặt ấy mới chết người.
- Thế rồi làm sao?
Cánh thủy thủ trẻ hồi hộp nín thở. Có anh nuốt nước bọt ừng ực.
- Công nhận bố giỏi phịa.
- Kể tiếp đi bố!
Bố Tích thủng thẳng:
- Rồi dắt nhau vào nhà kho ngay cạnh chứ còn làm sao nữa.
- Bố không sợ à?
- Sợ gì mà sợ. Cài then bên trong. Định bụng có ai đập cửa cũng không mở. Với lại cũng phải liều chứ còn biết làm thế nào.
- Bố nói cứ như thật.
- Công nhận bố tài bịa.
Bố Tích không thèm trả lời những kẻ hoài nghi chủ nghĩa. Bố nói tiếp một điều đầy sức thuyết phục với vẻ thản nhiên nhất trên đời:
- Tao còn vớ được ở đấy một hột thóc.
Tất cả reo hò. Đến nước này thì tất cả đều công nhận chuyện ấy đích thị là thật rồi! Mười phần đúng chín chín phần trăm rồi! Thật một trăm mười một phần trăm rồi! Không phải chuyện bịa nữa. Chẳng thể là chuyện bịa. Ngay các nhà văn nói láo nhà báo nói phét cũng không thể bịa được một chuyện như thế! Tuy vậy nhưng khi hết reo hò cũng có anh nói:
- Làm sao có hột thóc ở đấy được. Con không tin. Lời phản đối yếu ớt, càng chứng tỏ anh ta đã tin xái cổ, chẳng qua chỉ muốn bố khẳng định lại một lần nữa cái chuyện hạt thóc ấy. Nên bố Tích cười:
- Không tin thì thôi. Ừ. Chuyện tao bịa đấy mà. Cánh thanh niên nhìn khuôn mặt khinh bỉ của bố, liếm môi hồi hộp:
-  Rồi sao nữa hở bố? Bố đóng quân ở đấy có lâu không?
- Sáng hôm sau đã phải hành quân rồi. Một năm sau mới có dịp quay về.
Bố cứ lửng khửng như vậy. Đúng đến chỗ hồi hộp nhất thì ngưng câu chuyện. Lại phải hỏi:
- Bố có gặp lại cô nàng không?
Bố Tích thủng thẳng:
- Có. Nhưng không phải về đóng quân ở đấy, mà chỉ là đi ngang qua thôi. Tranh thủ cuốc mười cây số, tạt vào gặp lại cô nàng thì cô nàng đã lấy chồng. Cô nàng khóc bảo em bây giờ ván đã đóng thuyền, hạt thóc đã nảy mầm rồi anh ơi!
Cả bọn lại cười, nhìn bậc tiền bối với con mắt kính nể. Hăng lên trước đám hậu sinh há hốc mồm chờ đợi, bố kể tiếp một câu chuyện tình khác. Với một cô gái khác cũng ở Thủy Nguyên trong đợt đóng quân lần thứ hai khi bố bị sốt rét phải nằm lại gần nửa tháng. Cô con gái bà chủ nhà mười bảy tuổi chăm sóc, cơm cháo, giặt giũ, nâng giấc...
- Chúng mày tính thời ấy khó khăn là thế, cơm độn rau má, mà tao muốn ăn củ cải xào, thế là cô nàng chỉ xào củ cải, bao nhiêu lá bỏ lại hết.
Một anh sốt ruột:
- Nhưng đã xơ múi gì chưa?
Bố lắc đầu:
- Người này tính nết đoan trang, mỏng mày hay hạt, tao chỉ ôm mỗi một lần. Rồi cầm tay nhau hứa hẹn thế thôi. Đến khi khỏe rồi thì về đơn vị, mấy tháng sau cô ấy lên thăm, mình đang phải đi tập trung học lớp cải tạo cho anh em xuất thân giai cấp bóc lột, tương lai mờ mịt. Chả ông bố tao trong cải cách bị quy oan là địa chủ. Thằng cha trợ lý chính trị nói với cô ấy là tao phải đi tù hai năm. Cô ấy khóc trở về. Thế mới thương chứ. Bây giờ tao vẫn gặp đấy. Cô ấy lấy chồng ngay Hải Triều này. Một đàn con rồi. Đạp xe qua nhà, cô ấy gọi mình mới biết. Cô ấy bảo: Em vẫn trông thấy anh nhưng hình như anh tránh mặt em hay sao. Có cả chồng ngồi đấy mà nói với các con: Lẽ ra đây mới là bố chúng mày. Các cậu bảo thế có kinh không. Tớ đoán chắc là cô ấy không muốn lấy anh chồng này, nhưng anh chàng cứ lăn vào bám riết. Thế rồi nướng mực khô. Rượu Tây ngày ấy quý lắm cũng đem ra mở. Rồi bảo: Anh uống đi. Mực khô đây. Ngày xưa mực tươi anh không ăn, bây giờ anh ăn mực khô vậy.
Tất cả cười ầm. Mai bảo:
- Bố nhỏ con thế này mà cũng nhiều sức quyến rũ gớm.
- Bố xấu dây tốt củ đấy các cậu ạ.
- Này, con mực tươi của cô ấy khoảng mấy lạng hở bố.
- Cô này bố đã làm ăn gì đâu mà biết mấy lạng. Phải là cô đập lúa chứ.
Thế rồi tranh luận sôi nổi. Người thích cô mực khô. Người chỉ cô đập lúa mới là nhất. Nhưng ai cũng công nhận gái Thủy Nguyên là vô địch.
Bố gật đầu:
- Gái Thủy Nguyên chúng mày đứa nào chưa biết coi như chưa biết gì hết.
Lại Giáp chuyện gì cũng sành điệu:
- Gái Vũng Tàu gọi gái Thủy Nguyên bằng cụ! Nhưng mà bố bịa rồi bố ạ. Làm sao có hột thóc ở đấy được! Con tính đường đi cũng quanh co, vòng vèo lắm chứ.
Anh nuôi Tích không tranh luận. Dường như cực chẳng đã phải cho các chú biết ta từng là người thế nào. Vẫn Giáp:
- Khiếp. Bố mất vệ sinh bỏ mẹ. Vừa đập lúa xong. Mồ hôi mồ kê. Chẳng tắm rửa gì.
Tích cười:
- Bộ đội ngày xưa đánh nhanh rút nhanh, lai vô ảnh khứ vô hình chứ đâu như các cậu bây giờ, thuê phòng rồi toa lét, lắm chuyện.
- Con tin bố. Nhưng chuyện hạt thóc nảy mầm con không tin. Bố có biết điều kiện nảy mầm là như thế nào không?
Bố Tích không trả lời. Cánh trẻ lại cãi nhau, người bảo không được, người bảo được vì nó cũng hội tụ đủ các điều kiện nhiệt độ và độ ẩm. Người bảo đấy là cô gái nói theo nghĩa bóng chứ không phải nghĩa đen, nghĩa là cô ta đã có mang rồi. Đồ ngu. Ai để hạt thóc ở đấy lâu thế mà cũng nói. Rặm. Ngứa chịu sao nổi. Người khẳng định để ở đấy nửa năm thì nó mọc mầm, lên cây, trổ bông ra hạt thật, hạt mẩy thật ấy chứ. Ớ đấy nhiều chất dinh dưỡng lắm chứ. Chỉ không biết nó bắt rễ vào đâu thôi...
Từ ấy mỗi khi trú gió, nằm ngồi ê ẩm, cánh trẻ lại có anh đem bút giấy đến buồng bố Tích bảo bố:
- Bố vẽ cho con đường đi của hột thóc đến đấy xem nào, con thấy nó cũng ngoắt ngoéo lắm chứ.
Tất nhiên Tích không thể biết được bằng cách nào hột thóc lại nằm ở đấy, nên chẳng thể vẽ được. Còn cánh thanh niên mỗi người vẽ một cách, lúc nó đi từ trên xuống, lúc từ dưới lên, lúc lại đi tạt ngang, rồi đem bản vẽ trình bố Tích, cách nào bố Tích cũng công nhận đúng. Có anh còn vẽ một cây lúa trĩu hạt mọc trên một gò đồi cỏ mọc um tùm mang đến Kính tặng bố Tích một kỷ niệm xưa như chữ đề dưới bức tranh. Bố Tích cười không nhận. Anh ta dán bức tranh lên bảng đen treo ở câu lạc bộ khiến ai đi qua cũng phải dừng lại xem. Lại có anh đang ngồi nhặt cá trên boong, thấy bố Tích cắp rổ vè vè đi quanh kiếm tôm nấu mì liền quăng cho bố một con mực nang to bằng cái quạt nan, bảo bố:
- Mực tươi của bố đây. To khủng khiếp luôn. Mực thế mới là mực. Bố ăn không hết thì cho anh em mỗi người mấy miếng. Đừng cố, bội thực đấy. Ăn tham một mình không được đâu.
Bố Tích chỉ cười, xách con mực vào bếp xào cho cả tàu.
Hôm nay đặt hai cái làn thức ăn vừa mua về, anh nuôi Tích chân năm tay mười và đúng như Tích nói: Xong ngay. Vẫn còn đủ thời gian lên căng tin tay nái thân yêu chai rượu mùi dù khi đi chợ về, trong chiếc làn Tích xách đã có một can cuốc lủi.
Cabin buồng lái được dùng làm nơi tiếp khách ăn trưa. (Ớ dưới phòng ăn nhếch nhác quá, vừa gần hầm cá, lại người ra người vào). Đó là một khoảng không gian mà chiều dài vừa bằng chiều ngang của thân tàu, trừ đi hai hành lang hai bên, chiều rộng chừng hai mét, ở giữa buồng một cái vô lăng to bằng gỗ, bên trái một cái rađa, một cái tay chuông hoen rỉ vì gần như không được sử dụng, còn bên phải là cái tay chuông khác giống hệt tay chuông bên trái cũng bằng đồng thau nhưng sáng bóng lên khiến nó hơi có sắc xanh vì luôn được tay người nắm đến. Một thau men canh chua cá song. Một khay mực ống luộc, một thau men rau sống. Một bát chíu chương. Chanh. Và ớt. (Bố Tích không có thời gian tỉa tót, bày biện các món ăn. Với lại bố biết rằng với các ông trên bờ quanh năm đói, quanh năm thèm, thì cứ làm sao thật chất, thật nhiều là được. Ăn kiểu thủy thủ thô mộc như thế này họ lại thích. Mà đúng thế thật. Chỉ trông cũng đã chảy nước miếng rồi. Chất lừ). Chậu cá song nấu chua, cá nhiều hơn nước, mà nước cũng đặc sệt, những tảng cá song nổi lên, lớp da xám ôm lấy lớp thịt trắng nõn giữa những miếng cà chua đỏ hồng thái lát. Cái khay tráng men tròn vẫn dùng để đựng ấm chén uống nước đầy lùm lùm những con mực luộc hồng hồng, tròn xoe, hai vi chạy dọc hai bên lườn, xòe ra đều đặn rất giống những quả tên lửa xòe cánh trên bệ phóng, phía đuôi múp nhọn, phía đầu bung ra những cái chân và hai cái râu rất dài, dụng cụ săn mồi của chúng khi còn sống. Tất cả nghi ngút khói. 
Tàu vẫn sản xuất quanh vùng biển Trà Sơn. Mười mấy mẻ lưới không mẻ nào giống mẻ nào. Trong nhật ký khai thác, chú Hùng chỉ ghi vắn tắt:
- Mắc rạn, đứt xích, phát hiện được.
- Quấn đụt. Tôm không vào.
- Rách lưới.
- Vục bùn. Đứt xích.
- Hai lưới bên phải quấn nhau. Không được gì.
- Lưới bên trái toàn ốc.
-  Bị gãy số tám xoay. Mất hai ván hai lưới.
Sản lượng thật bấp bênh. Mẻ năm mươi ký, mẻ bảy mươi ký, mẻ ký rưỡi, mẻ không được ký tôm nào.
Bác Sĩ bảo: Nghề này là người dương gian làm việc âm phủ. Chẳng biết thế nào mà chắc.
Một con chim bói cá không biết từ đâu bay tới gần tàu. Không hiểu sao nó bay đi xa thế. Từ ngày đi biển tôi cứ mong gặp chim hải âu mà không thấy. Thứ chim đặc trưng của biển mà tôi khao khát. Mong chim hải âu lại thấy chim bói cá. Chỉ có một con. Nó chao đi lượn lại gần tàu như thử sức với biển. Trên biển mênh mông không một cánh chim, trừ nó. Nó bay tít xa, hút tầm mắt rồi lại bay lại. Bỗng nhiên nó chắp cánh lao nhanh xuống biển rồi bay lên, mỏ ngậm một cái gì trăng trắng vút qua thân tàu, thẳng hướng về phía tây in hình một vệt cây cối xanh đen. Phía ấy là tổ ấm, là đàn con đang mong. Không biết đây là con chim bố hay con chim mẹ. Quê tôi cũng có nhiều chim bói cá. Không to như con chim này và cũng không bay như con chim ở đây. Chim bói cá quê tôi cứ đỗ im lìm như ngủ lịm trên một cành vối mọc chìa ra ao. Thế rồi từ cành cây nó lao vút xuống nước rồi bay lên, trên mỏ thế nào cũng ngậm một con cả nhỏ. Con chim bói cả ở đây kiếm ăn vất vả quá. Còn đang suy nghĩ vẩn vơ thì con bói cá lại bay đến gần tàu. Nó đã về tổ, cho con ăn xong rồi sao? Hay một con chim khác. Lần cuối cùng nhìn thấy con chim bói cá là lúc mặt trời đã lặn. Nó ngậm con cá mới bắt được từ biển khơi bay mải miết về phía tây. ơ đó một góc trời mù mịt tối sầm. Bay nhanh chim ơi không lại gặp mưa giữa đường. Tôi nhìn về đằng tây, nơi con chim bói cá bay tới, một cơn mưa đang lập. Chớp càng làm rõ hơn những màn nước đang trút xuống và những đám mây đen hình thù kỳ dị đầy vẻ hung dữ hăm dọa. Nơi ấy là mưa, là dông, là làng. Không biết quê tôi có mưa không. Mẹ đang nấu cơm đây. Cái Ngàn chắc đang quét sân. Tự nhiên tôi nhớ nó quá. Tôi nhớ cả con lợn giờ này chắc đang hộc lên đòi ăn. Mẹ lúc nào cũng vất vả. Tôi thương mẹ và yêu mẹ vô cùng. Còn mẹ lại thương chúng tôi. Và mẹ thương bố lặn lội sông nước biển cả vì ba mẹ con tôi. Giống con chim bói cá ngậm con cá nhỏ vừa bay từ biển vào bờ. 
- Nào. Xin mời ở như các cụ.
Anh chàng Đỗ Trung Tín thi đua dường như không thể chờ đợi lâu hơn được nữa. Anh ta rót rượu và cầm lấy đũa.
- Ăn đi. Các bác ăn đi.
Cương và Bôn cùng giục. Ngồi quanh mâm hôm ấy chỉ có bốn khách và hai chủ. Khách gồm trưởng phòng khai thác, phó tiến sĩ Trần Văn Dưỡng, trưởng phòng kỹ thuật Nguyễn Minh Thưởng, trưởng phòng điều độ Phạm Đức và anh thi đua Đỗ Trung Tín. Chủ là Bôn và Cương.
- Nâng cốc chúc thuyền trưởng, đại phó.
Tất cả đều cạn chén. Tín múc một bát nước canh chua, thứ nước cánh trên bờ vẫn bảo nhau bổ hơn bất cứ một thứ nước sâm nào, làm một hơi, chép chép mồm:
- Món này được lắm các vị ạ. Tỉnh người.
Rồi múc tiếp bát thứ hai. Đó là kinh nghiệm của Tín. Uống nhiều canh chua. Rồi hãy uống rượu. Sẽ uống được nhiều rượu hơn.
Mỗi người khách múc vào bát mình một muôi nước canh chua và xắn một miếng cá song phần nạc nhất, thịt trắng như lườn gà. Thuyền trưởng gắp một miếng đầu cá song bổ tư, được chặt rất khéo bằng những nhát dao điêu luyện của Tích:
- Bọn tôi đi biển ăn nhiều cá nên chỉ thích mút mát cái đầu. Ăn đầu ăn được nhiều. Ăn thịt nó xác, chóng chán, cố lắm cũng không nổi nửa khúc.
Câu chuyện xuất khẩu cá đá vẫn là đề tài trong lúc ăn. Ai cũng thấy đó là một hướng đi tuyệt vời. Tuy nhiên trưởng phòng kỹ thuật Nguyễn Minh Thưởng vẫn dè dặt:
- Không đơn giản đâu. Trên lý thuyết, trên tính toán thôi. Còn nhiều khó khăn lắm.
Dưỡng cũng thấy như vậy. Đó chỉ là một thử nghiệm, hơn thế, anh còn biết những gì ẩn đằng sau chủ trương ấy của tổng giám đốc. Nhưng anh im lặng. Mấy năm gần đây anh đã tập được thói quen im lặng như Mơ dặn anh. Thưởng là người anh tin. Đức thì không. Tín lại càng không. Im lặng là vàng. Im lặng sẽ tạo điều kiện cho anh thay đổi chỗ đứng, nghĩa là thay đổi cuộc sống hiện nay.
Thi đua Tín đúng là người động viên thi đua:
- Khối tàu 600 (mã lực) mà đi nước ngoài thì dễ đến non nửa thuyền viên được đi nước ngoài còn gì nữa. Quyền huynh thế huỵch. Mấy ông anh ngồi đây toàn trưởng phòng thế nào chẳng được đi.
Đức bảo:
- Ông là người trước tiên phải đi. Tôi nói phải đi chứ không nói được đi đâu nhé. Ông phải đi để động viên thi đua, động viên phong trào.
Dưỡng định nói bên ấy không có thi đua đâu, nói đùa vui thôi vì ai chẳng biết như vậy, nhưng anh đã kìm lại được. Tín cười:
- Thì các ông anh quyền huynh thế huỵch giúp đỡ thằng em...
Cương ngồi ngoài, giáp với cửa ra vào, đứng lên ngồi xuống. Anh vẫn không quên nhiệm vụ trực ban, luôn phải đảo ra phía sau, nhìn xuống miệng hầm cá lúc này khá đông người. Trưa rồi. Đã đến giờ cao điểm của công việc xin cá, của những đội phượng hoàng bay, nghĩa là dân ở địa bàn quanh xí nghiệp, cả đàn ông, đàn bà, trẻ con người lớn. Tiếng đồng chí bảo vệ quát:
- Lui. Ai không có nhiệm vụ lên bờ.
- Cương ơi. Ra xem tí đi.
Cương chạy ra lan can. Quanh miệng hầm là mấy cô công nhân phân xưởng lưới và rất đông dân Cầu Đỏ. Anh tụt xuống chiếc thang dốc đứng được hàn liền vào thành cabin, bước tới miệng hầm, nói với mấy chị công nhân quen:
- Thôi. Các chị ơi. Để khi khác. Bốc cá xong đã. Tàu có dành riêng một ít bồi dưỡng chị em phân xưởng.
Anh nói như van nài. Bởi anh rất hiểu cuộc sống khó khăn của chị em. Rồi anh cao giọng:
- Tất cả mọi người ai không có nhiệm vụ lên hết!
Không ai nhúc nhích. Cương cũng biết trước tác dụng của những câu nói như vậy. Nói để mà nói. Và khi có ai nhặt dăm con nục hay hai con bạc má hoặc vài con phèn, con sơn mỡ chỉ vàng cho vào thùng đồ nghề cờ lê mỏ lết hoặc gói vào giấy báo, vào ni lông, vào nắm giẻ lau đầy dầu mỡ cầm trong tay, anh cũng làm như không biết. Chẳng riêng anh. Cả đồng chí bảo vệ cũng làm như không biết. Miễn là người bảo vệ có lương tâm.
Người bảo vệ ca sáng trên tàu 414 là một người có lương tâm.
Trong buồng lái bữa ăn vẫn tiếp tục. Trưởng phòng khai thác Trần Văn Dưỡng là người đầu tiên tấn công vào món mực ống luộc. Dưỡng còn được gọi là Trần Văn Bơm - phụ danh của thằng con trai anh. Trong thời gian chiến tranh bắn phá, anh về thăm vợ ở nơi sơ tán và không thể nào gần vợ được vì ông bà chủ nhà vợ anh ở thuộc loại phong kiến đặc sệt, hai vợ chồng đành phải rủ nhau ra ngoài trạm bơm với danh nghĩa chúng con đi chơi mát một tí, trong này nóng quả và yêu nhau ở đấy. Kết quả cuộc làm tình vụng trộm chớp nhoáng bên những ống bơm nước bằng gang uốn cong cắm thẳng xuống bờ sông và nơm nớp sợ dân quân du kích hoặc ai đó bắt gặp đòi làm biên bản, muốn kéo dài nhưng lại phải kết thúc cho nhanh ấy là một đứa con trai. Anh đặt tên con là Trần Văn Sinh nhưng mọi người đều gọi nó và gọi luôn cả anh là Trần Văn Bơm.
Ba ông khách còn lại cũng nhanh không kém. Cầm con mực hồng hồng bốc khói lên. Xé hai cái vi hai bên lườn nó như hai cánh tên lửa đi. Rút những đầu những mắt những râu những chân xòe như một bông hoa đi. Chú ý bọc mực - thứ vũ khí thoát hiểm của nó khi còn sống - đen sì giữa những tua lòng ruột. Rồi rút cái lá mỏng như lá lúa trong suốt dọc sống lưng nó ra. Xương của nó đấy. Mai của nó đấy. (Giống mực ống không như mực nang mai dày và xốp). Cuối cùng là bóc lượt da mỏng hồng hồng nâu nâu của nó. Con mực giờ đây là một cái ống trắng nõn mịn màng, ấm nóng, cứng cứng mềm mềm. Nom thật hấp dẫn, thật mê ly. Quệt con mực vào bát chíu chương. Đưa lên miệng cắn. Sựt. Đẫy mồm đẫy miệng. Nước luộc đọng trong bụng mực trào ra. Bỏng cả mồm. Nhai cho cái vị ngòn ngọt thơm thơm dẻo dẻo của miếng mực dập ra nhuyễn ra áp vào hàm, cho vị cay của tương ớt ngấm vào lưỡi, vào chân răng cho ấm lưỡi ấm chân răng. Rồi nhặt ngọn ngổ, ngọn húng đưa lên miệng cho tất cả hòa quyện vào nhau trôi tọt xuống cổ. Xong đâu đấy chiêu một ngụm rượu. Không. Rượu chanh quốc doanh không ngon. Phải là cuốc lủi cơ.
- Trương Xá chính cống đấy các cụ ạ. Rượu này đốt cháy đấy.
Tín nói vẻ thành thạo. Bữa ăn nào dưới tàu Tín cũng có vẻ thành thạo ấy. Thành thạo, tự nhiên và thân mật, như giữa mình và chủ nhân có một mối quan hệ đặc biệt thân thiết, còn những người kia chỉ là khách lạ. Ây cũng bởi Tín biết rõ vị trí của mình trong đám khách. Bao giờ ngồi quanh bữa rượu do thuyền trưởng các tàu vừa cập bến tổ chức như thế này cũng là các trưởng phó phòng, khi phòng này khi phòng khác tạt ngang qua, chỉ có Tín là nhân viên trơn, đã thế lại còn rất ít khi vắng mặt. Tín biết nhiều người đã nói về chuyện ấy, chuyện “không tuần chay nào không có nước mắt” của anh, nhưng anh không thể nào cưỡng lại được khi nghĩ đến những đĩa mực xào, mực luộc, những khay tôm, những chậu men cá nấu chua nghi ngút khói. Và rượu. Nhất là rượu. Rượu trắng đựng trong can. Rượu Vân, rượu Trương Xá chai nọ tới chai kia. Rượu quốc doanh xanh nhạt, hồng tươi trong vắt. Uống vô tư. Uống thả sức. Uống không phải nghĩ chén này là chén thứ mấy. Uống không cần nhìn chỗ còn lại trong chai. Uống không phải nghĩ đến đồng lương bị lẹm vào, đến đồng tiền phải bỏ ra. Cả nhà anh nghiện rượu và anh cũng nghiện. Nghiện từ khi còn đi học. Đã có những buổi anh đấu rượu với cánh dưới tàu. Càng uống nhiều càng được vỗ tay hoan hô tán thưởng... Để bù lại những ngày nhịn thèm nhịn nhạt, ra quán nước ngã ba một nghìn hai chén rượu lờ lờ nhạt thếch chua loét. Cứ chèm chẹp cái mồm mà không dám uống thêm vì đồng lương có hạn.
Bôn nhặt cái đầu râu mực các vị khách bỏ lại trên khay cho vào bát của mình:
- Ăn cái này ngon. Ăn được nhiều. Không chán. Ăn mình mực chẳng mấy chốc mà ngán. Không ăn được nhiều đâu.
Bôn vừa nói vừa cười. Anh cố gạt đi hình ảnh vợ đang cúi cúi tìm cái gì đó, eo thắt lại, mông tẽ đôi ra dưới lượt vải xa tanh. Bôn hỏi mấy vị thực khách: “Được không? Được không?” Và hướng dẫn các ông khách một chỗ ngon nữa của con mực: Cái đuôi của nó. Cái đuôi nhòn nhọn hình đầu tên lửa của nó. “Nó giòn. Ăn không ngán”.
Tín cắn cái đuôi. Giòn thật. Nhưng có cát. Tín thành thật:
- Tôi là cứ ăn mình. Ăn mình cũng ăn được nhiều. Còn lâu mới ngán.
Rồi tay bốc một con mực khác, miệng công bố một nguyên tắc:
- Ăn mực ống luộc dứt khoát phải năm binh mới ngon các thủ trưởng ạ.
Đó cũng là một chân lý đã được thừa nhận lâu rồi. Tất cả đều lấy tay mà bốc, mà bóc mà chấm chíu chương rồi đưa lên miệng. Chẳng mấy chốc mười đầu ngón tay đen sì, môi đen mép đen, hai hàm răng cũng đen. Lắm khi má cũng đen. Nước đen nóng hổi chảy xuống đến tận khuỷu rỏ giọt làm ố cả tay áo sơ mi. Đó là những bọng mực bị vỡ, đọng trong bụng con mực.
Tín lại làm ra vẻ thạo:
- Ăn mực phải có tí bọng mực đen đen vỡ ra mới ngon mới ngọt. Mực làm kỹ, trắng phau, ăn nhạt thếch.
Cái vẻ quá thân mật, thành thạo của Tín làm Dưỡng nhăn mặt. Anh cố giấu vẻ khó chịu, quay sang hỏi Bôn về tình hình khai thác, và thông báo cho Bôn biết năng suất của các tàu đang đánh cá ở các khu ô khác nhau. Ngồi ăn với Tín là một điều anh không muốn. Nói thẳng ra, anh luôn coi khinh anh cán bộ thi đua xuất thân từ một anh giã giò này. Anh luôn ý thức được sự khác nhau giữa anh và Tín. Một bên là phó tiến sĩ tốt nghiệp loại ưu ở Liên Xô, đã có những bài in trong sách giáo khoa ở trường đại học với một bên là một người viết cái tin trên bảng đen chưa xong, sự khác nhau giữa một trưởng phòng khai thác hàng hải và một anh nhân viên có cũng được, không có cũng xong, làm toàn những việc vô bổ, giữa một người nói năng bỗ bã nhưng được coi là thành phần cơ bản, hơn nữa còn là đảng viên, với một phó giáo sư phó tiến sĩ xuất thân quan lại (ông nội anh là tri phủ) ngoài bốn mươi vẫn còn bạch vệ. Cái áo len dài tay quý thì quý thật nhưng anh bật cười khi thấy Tín mặc nó trên người lại nói thêm về người đan ra nó với một giọng đầy vẻ tự hào:
- Cái áo này do một bà cỡ trưởng phòng sở đan cho đây.
Không. Phải nghe chính Tín nói câu ấy cơ. Chữ cd và chữ sở được nhấn mạnh, được kéo dài với cái cằm dưới đưa ra, nghe như cddd, sssở.
Trước đây Dưỡng không có một ý niệm gì về Tín. Anh bắt đầu làm cái việc so sánh giữa hai người khi Tín phản đối việc kết nạp anh vào Đảng. Tín là đảng viên sinh hoạt trong chi bộ khối cơ quan. Là đối tượng phát triển Đảng, Dưỡng đã được đưa ra lấy ý kiến biểu quyết trong chi bộ để kết nạp, nhưng cái câu phát biểu của anh về kế hoạch năm, về sản lượng cá Vịnh Bắc Bộ trong lúc trà dư tửu hậu đã làm hỏng tất cả:
- Một vạn tấn cá năm là không thể đạt được. Tôi lấy đầu ra cược với bất kỳ ai kể cả bộ trưởng. Giám đốc cứ bảo sản lượng cá Vịnh Bắc Bộ là một triệu tấn. Có be bờ tát cạn bắt từ con cá ót liệt bắt đi thì may ra được!
Mơ cho anh biết chính Tín là người nêu ra câu nói của anh trong hội nghị chi bộ, một phiếu phản đối của Tín đã khiến anh phải kéo dài thời gian thử thách, để đến đợt sau.
Đã mấy lần có sự thuyên chuyển đề bạt trong hàng ngũ giám đốc, phó giám đốc, nhưng cấp trên không nghĩ đến anh. Chính anh cũng không nghĩ đến anh. Bởi một lẽ giản đơn: Anh chưa phải đảng viên. Anh đã hiểu được sai lầm của mình. Anh hiểu cái tác hại ghê gớm của việc nói sự thật cũng như hiểu sức mạnh của một đảng viên như Tín. Và anh thực hiện triệt để nguyên tắc “Im lặng là vàng”. Càng thi hành triệt để hơn khi anh thấy tất cả bạn bè, cả những em út của anh đều đã là những vụ vị, những tổng giám đốc, bét nhất cũng là chủ nhiệm, không ai còn là một trưởng phòng quèn như anh, nghèo như anh. Anh im lặng trước tất cả, lại càng im lặng trước Tín. Anh thận trọng với tất cả. Với Tín lại càng cẩn trọng. Nhất là đang trong thời gian thử thách thêm.
Sau một thôi một hồi giáp chiến, hăng hái, nhiệt tình và đã cảm thấy lưng lửng dạ dày cũng như đầy ắp chất bổ trong người, không ai bảo ai, tốc độ cùng chững lại. Bây giờ mới là lúc vừa ăn vừa bày ra những trò vui cho ngon miệng. Trưởng phòng điều độ Đức, chọn một con mực, cẩn thận rút râu, xé vây, bóc da, nhòm vào bên trong con mực một lần nữa rồi đưa mời Tín:
- Mời trưởng ban thi đua. Con này ngon lắm.
Cảnh giác, Tín cũng nhìn phía trong con mực trắng nõn:
- Cái gì thế này?
Anh nói và bóp mạnh con mực, một thỏi mềm mềm, trắng ngà trào ra. Anh nặn cho nó ra hết. Đức cười:
- Cái này tốt lắm, sao không ăn. Tinh trùng mực đấy bố ạ.
Ăn chứ. Nhưng chỉ ăn mực, không ăn tinh trùng mực. Và vẫn uống. Mực ngon như thế bổ như thế làm sao không ăn. Rượu ngon như thế nhiều như thế làm sao không uống. Vừa uống rượu vừa uống nước canh chua cá song. Rượu nóng và cay trôi qua họng khiến thèm một chút nước chua chua ngòn ngọt. Nước canh vừa chua vừa ngọt lại làm thèm một chút nóng nóng cay cay. Lại ăn. Ăn cá. Ăn mực. Ăn một bữa cho cả tuần, cho cả tháng. Tín đã ăn hết con mực Đức đưa. Vừa xong, Đức đã chuẩn bị sẵn sàng và chìa cho Tín một con mực khác, cũng đã rút đầu, bóc da. Vẫn còn đủ tỉnh táo, Tín lại nặn, lại bóp con mực. Từ bên trong con mực lại trào ra một thứ đằng đặc vàng vàng như lòng đỏ trứng, quanh quánh chứ không nhũn như lần trước. Đó là trứng mực.
- Cái này ngon lắm sao không ăn. Bổ âm. Bổ dương. Món kia khỏe lắm đấy. Ăn xong về Thủy Nguyên cho bà ấy biết thế nào là sức mạnh.
- Thôi để phần ông. Ăn cái này đẻ con trai đấy. Nhà ông ba vịt giời, ông ăn đi. Nhà tôi hai thằng mũ gậy rồi.
Chỉ là những câu đùa vui nhưng không khí đã có vẻ hơi căng. Bôn hiểu những gì ẩn sau câu nói của hai vị thực khách. Bôn biết, mấy vị khách ngồi đây không thích Tín, nhưng anh hiểu tầm quan trọng của Tín, cũng như tầm quan trọng của bất kỳ người nào thuộc khối phòng ban. Đừng để một ai ác cảm với tàu mình, trong hoàn cảnh sản xuất gặp rất nhiều trục trặc khó khăn này.
Bôn đỡ con mực trong tay Tín, đưa lên miệng nhai rất ngon lành. Tín lại múc một muôi nước canh chua, cái thứ nước ngon hơn bất cứ một thứ nước dùng phở nguyên chất nào, thứ nước có thể làm cho người ốm sắp chết tỉnh lại. Anh uống cạn một chén rượu, chiêu một bát nước canh. Và tự chọn cho mình một con mực khác. Cũng rút đầu, lột da, xé vây và nhòm vào bên trong con mực. Rồi đưa lên miệng cắn. Ngon. Bình thường như những miếng mực khác. Nhưng đến miếng thứ hai thì cắn mãi mới đứt. Sao thế nhỉ. Con mực này có xương à?
Nhai. Ráp rô cả miệng. Nhè ra lòng bàn tay: Bên trong khoanh mực anh cắn là một khúc cá phèn với cả đầu, cả xương và vảy cứng, kết quả của cơn hoảng loạn khi chúng sa đụt lưới.
Tín bước ra cửa cabin, vất cái thứ ở lòng bàn tay xuống sông và trông thấy Cương đang đứng cạnh miệng hầm.
- Đại phó. Vào đây làm với anh em tôi một chén.
Rồi trở vào rót từ can ra một chén rượu đầy. Nâng chén rượu đầy tràn lên ngang mày, chân bước những bước chậm chạp, hơi chéo bên nọ chéo bên kia như trong những buổi tế tửu ở sân đình, Tín đi ra phía cửa buồng lái, nơi anh vừa từ đấy đi vào và cất tiếng gọi Cương. Từ miệng hầm cá, thấy vậy, Cương leo thoăn thoắt lên boong và bước tới đỡ chén rượu trong tay Tín. Anh thò đầu vào:
- Mời các anh. Em xin phép còn phải trực ban ở ngoài này.
- Em ăn rồi. Tranh thủ lùa bát bún với chúng nó ở dưới kia rồi. Đã có thuyền trưởng tiếp các anh. Em xin phép.
Cương cạn chén rượu và đưa trả chén cho Tín. Suốt lúc Cương đưa chén rượu lên miệng và từ từ uống cạn, Tín cứ đứng ngây ra nhìn Cương uống từng hơi, cổ họng Tín đưa lên đưa xuống nhịp nhàng theo từng ngụm rượu Cương nuốt như rượu đang chảy qua họng Tín. Và khi Cương kết thúc chén rượu bằng một tiếng khà, Tín cũng khà một tiếng rõ dài.
... Tất cả đã say. Trừ Bôn. Đức nhìn Bôn rồi lại nhìn Dưỡng:
- Ăn thế này mà không gặp nhau ở máy bơm thì gay đấy ông Dưỡng ạ.
Dưỡng gật gù:
- Một mình mình còn đỡ. Hắn mà cũng được ăn thế này mới gay. Cam đoan hắn không cho mình dẫn ra đến trạm bơm ven đê. Mà cũng chẳng có thằng Bơm. Chỉ có thằng Sân thôi. Trần Văn Sân. Ớ ngay sân. Chẳng thể bước quá sân nhà chủ.
Bôn cười nghĩ đến cái khao khát của mình được gần vợ. Anh nhớ tới kết luận có tính chất khoa học của anh em dưới tàu về cái thói ấy của những chàng nhải biển: Ăn uống toàn những thứ chất lừ thế này thì phải vậy chứ. Cứ xem các bố dân chài, có bố nào ít con không?
Đức chép chép miệng “ngon” và ghé vào tai Tín:
- Chủ tịch hội đồng thi đua ăn có ngon không?
- Đừng có cho thằng này đi tàu bay giấy. Chủ tịch hội đồng thi đua là giám đốc. Ử... ử...
- Thế thường trực hội đồng thi đua ăn có ngon không?
- Thường trực hội đồng thi đua là chủ tịch công đoàn. Ử Ử Tôi chỉ là thằng thi đua chuyên trách. U ử...
Những tiếng ử ử gầm gừ trong họng vọng ra khi Tín mím chặt môi nghĩa là Tín đã say lắm rồi. Dưỡng, Đức, Thưởng cùng phá lên cười. Dưỡng nói thêm:
- Tưởng là thường trực hội đồng thi đua, hóa ra chỉ là thi đua chuyên trách thôi à?
Chắc chắn Dưỡng say, nên anh đã không “im lặng là vàng được”. Nhưng vừa nói xong, lập tức anh tỉnh rượu. Trí óc trở lại mẫn tiệp và hiểu ngay rằng mình vừa phạm sai lầm. Một sai lầm nguy hiểm có thể biến tất cả những cố gắng im lặng trước đây thành công dã tràng. Anh vội cầm can rượu rót cho Tín một chén đầy. Một trăm phần trăm. Phải là một trăm phần trăm phiếu ủng hộ. Anh nghĩ vậy và chạm cốc với mọi người:
- Một trăm phần trăm!
Đức vẫn tiếp tục câu chuyện với Tín:
- Nhưng mà tôi hỏi thi đua chuyên trách ăn có ngon không?
- Ử ử... ngon.
- Có ngon hơn giò không?
- Ử ử ngon hơn giò.
- Giò bộ đội cơ mà.
Tất cả cười. Dưỡng cũng cười nhưng đã kịp mím chặt môi lại. Tín trừng mắt:
- Tức là giò Tìu chứ gì?
- Đúng rồi! Giò Tìu!
- Giò thằng này giã chứ gì. Ngon hơn làm sao được. Giò Tìu nổi tiếng cả Bộ Tư lệnh. Tư lệnh xuống thăm đơn vị nào là trưởng phòng hậu cần cử thằng này ử ử đi trước. Ử ử xuống trước. Cho nên cứ thấy giò Tìu xuống ử ử hôm trước là y như rằng hôm sau tư lệnh xuống thăm đơn vị. Mình xuống nhưng không được ử ử ló mặt ra để tư lệnh thấy. Tư lệnh nhìn thấy là cắt suất, là kỷ luật ử ử là đi chiến trường đấy bố ạ.
Tín cười bè nhè. Khi say, việc quan trọng cũng biến thành bình thường. Khi say Tín đã nói toạc ra tất cả những điều ai cũng biết mà Tín vẫn còn giấu dầu cũng ngờ ngợ có lẽ mọi người đều biết cả rồi.
- Giò Tìu chính là thằng này. Tìu là tên bố mẹ đặt cho. Chẳng có gì xấu...
Tất cả reo hò trừ Dưỡng. (Anh đã hoàn toàn tỉnh rượu và biết mình phải làm gì). Bây giờ họ đã được nghe chính mồm Tín nói ra điều bí mật ấy. Nhà Tìu ba đời làm nghề mổ lợn. Mổ lợn và làm giò chả. Học xong cấp 2, Tìu đi nghĩa vụ quân sự. Huấn luyện ba tháng. Chuẩn bị đi B. Trước khi đi, đơn vị mổ lợn liên hoan, có cả bộ tư lệnh xuống dự. Tìu trổ tài giã giò. Món giò lụa ngày ấy người ta chỉ nói đến chứ ít khi nhìn thấy, lại càng ít khi được ăn. Mâm cỗ có giò. Một khoanh giò lụa mịn màng, phía ngoài xanh, phía trong phơn phớt hồng, chỉ trông cũng đã xuýt xoa:
- Ớ đâu ra giò thế này?
Tư lệnh hỏi. Tham mưu hỏi. Chủ nhiệm hậu cần hỏi. Sau bữa ăn chủ nhiệm hậu cần trực tiếp gặp Tìu. Và bàn bạc với ban chỉ huy đơn vị. Một quyết định vào giờ chót Tìu không ngờ đến. Chẳng riêng Tìu. Tất cả đều không ngờ. Tìu được điều về bộ tư lệnh. Danh sách đi B năm ấy và những năm sau không có Đỗ Văn Tìu.
Từ ấy, các sĩ quan trong bộ tư lệnh và cả các sĩ quan các quân chủng bạn đóng gần đấy đều được thưởng thức món giò lụa Tìu làm. Trong những buổi liên hoan hoặc hội nghị, người ta hỏi nhau: “Có giò Tìu đấy hở?” Cái tên giò Tìu bắt đầu từ đấy. Giã giò, liên tục giã giò, Tìu đã được kết nạp Đảng và đeo tới quân hàm chuẩn úy. Chuẩn úy giã giò là kịch cỡ rồi. Tìu xin chuyển ngành. Trong bộ tư lệnh có nhiều cán bộ quen biết ngoại giao rất rộng. Họ thích món giò Tìu nghĩa là có cảm tình với Tìu. Vài lần đi về xí nghiệp của một đại tá, việc chuyển ngành của Tìu đã được giải quyết. Mặc dù học lớp 7 dở dang, viết một cái văn bản không nên thân, Tìu được Quốc doanh đánh cá Biển Đông nhận về làm thi đua, khi anh cán bộ thi đua cũ, đã tốt nghiệp trung cấp đánh cá nhất định nằng nặc đòi xuống tàu, để được thực hành những kiến thức đã học trong suốt ba năm mài đũng quần trên ghế nhà trường. Trong quyết định chuyển Tìu về quốc doanh đánh cá, Tìu không còn là Tìu nữa. Không phải Đỗ Văn Tìu mà Đỗ Văn Tín. Nhưng trong các văn bản Tìu viết trình giám đốc, Tìu ký tên là Đỗ Trung Tín.
Tín lại xắn một miếng cá song. Tất cả có vẻ uể oải rồi. Mực không ngọt nữa. Cá song thì bã. Rượu thì ơn ớn. Nhưng vẫn cố ăn. Gắp miếng cá vào bát, Tín lờ đờ cặp mắt nhìn mọi người:
- Xin mời ở như các cụ... 
Chiều nay trời đẹp. Mặt trời đang lặn, hắt ảnh sảng vào cảnh cửa cabin chếch lên đình màn gió rung bần bật. Cái chỏm bên trên như bị cắt ra bằng một vệt sẫm. Một con thuyền với hai cảnh buồm nhọn hoắt phía xa nằm gọn trong lòng mặt trời to lớn đỏ rực nhưng không chói mắt. Tôi nom rõ mặt trời chìm từng phần xuống biển. Từ chỗ mặt trời đang chìm dần, một vệt vàng lấp lảnh chạy tới thân tàu. Rồi khi mặt trời lặn hẳn, không còn một chút ảnh sảng nào nữa, mặt biển vụt thay đổi hoàn toàn. Không vàng rực lấp lóa nhức mắt mà bốn phía mênh mông mềm mại. Chỉ còn những mảng hồng, da cam và xanh thẫm nhấp nhô.
Trăng sảng. Tàu dắt lưới. Biển tròn, mờ nhạt. Những gợn sóng vàng và những gợn sóng lân tinh xanh. Gió nhẹ. Những hàng đèn lưới vây ảnh sảng khiến một vùng biển và trời sảng rực lên. Biển nuôi người cả ban đêm. Con người lao động cả ngày đêm. Như thầy Tuyền dạy: Mọi thứ trên đời đều do lao động. Không chỉ của cải vật chất mà cả tư duy, trí tuệ. Tôi yêu quý và kính trọng bố, bác Suất, chú Hùng lùn, chú Hồng, bác Sĩ. Tôi yêu quý và kính trọng những người đánh cá đang đánh lưới đèn trên vùng biển sảng như một đám chảy. Nằm trên boong thượng với bác Sĩ nghe bác kể chuyện. Ngoài bố tôi ra, người trên tàu thân nhất với tôi là bác Sĩ. Bác đã về nhà tôi nhiều lần. Bác thân với bố tôi. Bác gọi tôi là thằng Ba Đùi. Mới đầu tôi không hiểu ra sao, nhưng rồi tôi đỏ mặt. Bác Sĩ nói cứ thản nhiên như không, như đó là một cái tên chính hiệu chẳng bao hàm một ý nghĩa nào khác. Bác Sĩ sinh ra trên biển, lớn lên bên biển. Không như bố tôi, sinh ra ở một làng vùng Yên Thế, có những con sông mảng và những đồi dẻ um tùm. Khi còn bé đã một lần bác Sĩ được đi biển với bố. Biển mịt mù với những kẹp câu, với nghề giã tôm, những “dậu”, những con sứa bơi dưới nước trong suốt như thủy tinh hả cái miệng rộng ra hớp nước, kéo theo từng bát tép biển đỏ tươi vào miệng. (Kể đến đây, bác cũng ngửa mặt lên, tròn mồm hớp hớp trông rất buồn cười). Chiều chiều bác lang thang trên bãi biển săn đuổi những con dã tràng với lũ trẻ con cùng xóm và đón bố trở về. Trong những đêm nằm gối đầu lên tay bố, bác đã được nghe bố kể chuyện vùng biển quê bác. Vùng biển ấy xa lắm. Xa không nhìn thấy đất liền. Vùng biển ấy sôi sục đỏ máu. Cá xà và cá Ong Voi đánh nhau. Cá Ồng đi như một ông vua, quan quân đằng trước đằng sau uy nghi bệ vệ. Đằng trước cá Ồng là những con “cá nạng’ chỉ biết tiến chứ không bao giờ biết quay trở lại. Đó là những võ quan. Những lưỡi kiếm sắc như dao của các võ quan này xòe ra giống như cái nạng, khi bơi nó cắt đứt dây neo thuyền cũng không quay lại. Cứ lừng lững thẳng một lèo dắt thuyền đi mãi đi mãi. Rồi đến những con cá heo tinh khôn đạp nước nhào lộn để cá Ồng vui, những con mực to bằng cái nón đi thành hàng hai bên, bơm mực làm nước biển đen ngòm đánh lạc hướng cá xà. Tôm cua, bạch tuộc, cá khế, cá song... lội tung tăng phía trước phía sau. Cá Ồng hiền lắm. Cá Ồng đội thuyền đưa người bị nạn vào bờ. Còn cá xà thì khác. Nó có thể cắn đứt đuôi những con mập hung dữ nhất. Bác Sĩ bảo chính bố bác trông thấy trận đánh nhau ròng rã tám ngày tám đêm giữa cá Ồng và cá xà. Cả một vùng biển không có gió mà sôi sục. Thuyền bè không ra khơi được. Cá xà đánh nhau với cá kiếm cá nạng cá Ồng mấy ngày đêm rồi. Máu đỏ loang cả một vùng biển. Nếu đôi bên cứ đánh nhau mãi thì cá Ồng chết mất. Một người thợ rèn lấy sắt đánh tám cái lưỡi câu, giết thịt một con lợn tám mươi cân, đóng một cái bè tám mươi cây tre lớn, móc con lợn vào lưỡi câu và cột vào bè, lựa nước, lựa gió thả xuôi bè vào vùng biển chiến trường. Tất cả đứng nhìn theo cái bè nhỏ xíu ở phía xa, trên bè có cắm một lá cờ đại vuông gió bay phần phật. Bỗng dưng bè chìm nghỉm. Lá cờ đại chìm nghỉm. Cá xà cắn câu rồi!. Mặt biển trở lại yên tĩnh và xanh lại dần dần. Đến chiều, một cột nước vút thẳng lên trời và tỏa xuống thành một cái cầu vồng. Cột nước của cá Ông báo hiệu thanh bình đã trở lại. Cá heo lại nhào lộn. Cá nạng lại vác kiếm đi tiên phong, cá song, bạch tuộc, cua bể, tôm hùm lại nhảy múa chung quanh cá Ông hiền lành đường bệ. Con cá dữ, con cá ác đã bị giết. Nhưng nó chết ở đâu? Hai ngày sau cái bè tre nổi lên ở chỗ cũ. “Mày ạ. Con cá to nào cũng quay về chết ở nơi nó đã ra đi. Nó về chết ở nhà của nó”.
Nằm trên boong thượng con tàu đang dắt lưới quành đi quành lại, quầng sáng lưới đèn khi gần khi xa, khi ở bên phải khi ở bên trái, bác Sĩ đã kể cho tôi câu chuyện cổ tích thật hay về biển. Biết là chuyện không có thật mà sao cũng cứ mê đi. Cũng hay như thế, bác giảng cho tôi nghe về các loài cá. Chỉ nghe tên cá thôi đã rối tinh lên rồi. Cái con cá bé tí như con cá ngạnh có dọc xanh ở thân ấy là con cá ngác. Mày phải cận thận đừng để gai nó cắm vào chân. Không chết người nhưng thối thịt ra đấy. Nhức chịu không nổi đâu. Con cá lá tre lép kẹp như cái lá tre, có một lượt áo trắng như ni lông ép dẹt chẳng được tích sự gì. Muối chượp làm mắm không xong. Con cá nóc phồng hơi tròn như quả bóng. Rất ít loài cá dám ăn thịt nó. Không phải vì cái gai đâu mà nó rất độc. An vào là chết. Người ăn cũng chết. Thịt trắng như thịt gà nhưng mổ không cẩn thận vỡ gan mật là toi đấy. Nó độc ở cái gan. Rồi bác nói về con cá bã trầu, con cá khế, cá hiên. Chiều nay kéo lưới được hai con cá hiên. Cá hiên trông rất hiền và đẹp. Mình tròn, vảy nhỏ trắng, gần giống cá chim trắng. Đầu nhỏ và miệng rất nhỏ. Chú Hồng vừa nướng một con. Giống cá ít xương và rất nhiều nạc. Thịt thơm và ngon. “Mấy lần kéo lưới được cá hiên, mày có để ý thấy gì không?” Bác hỏi tôi. “Không. Để ý cái gì cơ?” “Không bao giờ đánh được một con. Cá hiên không bao giờ vào lưới một con. Bao giờ cũng một đôi. Cá vợ cá chồng. Giống cá hiên đi đâu cũng có đôi”. Đến lúc ấy tôi mới biết có giống cá đáng yêu như thế. Thật là thủy chung. Sống cùng nhau và chết cùng nhau. Một giống cá đáng để con người học tập. 
Chuyến biển cuối cùng trước khi vào sửa chữa định kỳ của tàu VT 250 do Lê Mây làm thuyền trưởng cách đây có dễ hơn một năm. Đúng rồi. Mười bốn tháng. Tuần đầu con nước lớn tháng mười một dương. Trú gió liên miên, sản lượng thấp, đá tan, dầu tiêu hao nhiều. Vừa không dám bán cá, lương sản phẩm lại chẳng được là bao, phải nợ tiền xí nghiệp (nói vậy thôi, đó chỉ là tàu nợ xí nghiệp chứ còn khoản tiền cho thuyền viên hàng tháng, thuyền trưởng và quỹ công đoàn tàu bao giờ cũng phải bảo đảm). Trú gió, anh em thuyền viên vui cười quanh ván bài, còn thuyền trưởng Lê Mây thì buồn. Anh lại lẩm bẩm một mình câu tổng kết của anh: “Đái bãi đái xái chuyến buôn”. Lẽ ra anh có thể hoàn thành kế hoạch chuyến biển, bước vào sửa chữa từ chuyến trước. Không phải đi chuyến này để chịu gió mùa suốt chuyến. Sẩy một chút xíu, thế là nó cứ dồn, dồn mãi. Nếu ba chuyến trước, tàu anh được bốc cá ngay thì đã có thể đi sau ba ngày đỗ bến đúng như quy trình giữa hai chuyến biển, như vậy không bị trú gió mất bốn ngày, và chuyến biển ấy sẽ được nhận dầu trước khi kho dầu của xí nghiệp cạn, phải chờ hơn tuần xin bổ sung chỉ tiêu rồi chờ xà lan nhận dầu về bến... Đấy, đại loại là như thế. Mỗi thứ một tí một tí, việc nọ dồn việc kia, chuyến biển bị lùi lại hơn một tháng. Chuyến biển kết thúc trước khi trung tu (kế hoạch trung tu là sáu tháng nhưng bao giờ cũng kéo dài vô hạn định, bởi biết bao nhiêu nguyên nhân không thể lường hết được) trước khi anh em ở bờ dài dài, anh muốn sao cho mỗi người có một khoản tiền kha khá nhưng thế là hỏng rồi. Anh đã uống hết chai rượu Vân thứ hai. Chỉ còn một chai nữa. Anh ngắm nhìn nó rồi mở nút lá chuối rót ra lưng chén làm một tợp, bụng nghĩ: Sắp gay rồi đây. Phải uống dè thôi. Cả đời đi biển mình chưa thấy bao giờ biển động liên miên thế này. Nhìn chân trời đằng đông hừng hừng đỏ đọc như có ngọn lửa cháy hắt lên từ bên kia đường chân trời, biết biển chưa thể êm ngay nhưng anh vẫn dặn Sơn VTĐ (vô tuyến điện): Nghe cả thời tiết bên Trung Quốc xem sao nhé. Chẳng qua không có việc gì, không biết đi đâu thì vào phòng VTĐ nói vậy thôi. Với lại cũng là bấu víu vào một hy vọng mỏng manh: Biết đâu quy luật thời tiết khác rồi.
Mây đi biển từ nhỏ. Cả nhà Mây đi biển. Bố Mây, anh Mây và Mây. Hai anh em theo cha đi câu. Cha dạy hai anh em nghề câu vì đó là nghề khó khăn nhất trong tất cả mọi nghề đi biển khi ấy. Ba cha con cùng câu thuê. Rồi cha một thuyền, mỗi con một thuyền - cũng vẫn của chủ - cứ sáng sáng nhổ neo tách bến. Mây yêu mặt biển buổi sáng nắng tràn, gió về ào ạt. Một vệt sóng vàng lóa mắt như gang chảy trong lò, nhỏ dần ở mãi phía chân trời, càng gần càng to, loang loáng băng băng về phía mũi thuyền. Nó giống một dòng sông vàng rực rỡ giữa mặt biển xanh sẫm gần như tím lại. Vượt qua những vàng lưới dùng, những vàng mành dắt hình bán nguyệt, anh cho thuyền đi mãi đi mãi. Đến Cù lao Chàm vẫn dóng thẳng một lèo cho tới khi “dầm lao”(1), mặt trời đã ngả về phía tây, chiếu xiên khoai rát lưng, anh mới neo thuyền lại, bắt đầu thả câu.
Vùng biển đó sâu trên trăm sải, rất nhiều cá mập. Thả xong vài dàn câu, anh nằm ngủ chờ tới sáng hôm sau thu cá. Cũng có khi trở về tay không, nhưng chỉ là hãn hữu. Còn nhiều ngày, rất nhiều ngày, với một dàn câu, anh vớt được hai, ba con mập. Một lần anh đã câu được một con cá mập dài hơn cả chiếc thuyền câu. Vừa động dây câu, con cá đã nổi lên mặt nước. Con cá mập dính câu đột ngột nhô lên như một chiếc tàu ngầm, làm mặt biển như dềnh lên cách anh vài chục sải, cái lưng màu xám xanh, cong lên ở phía giữa. Hai vi bụng quạt nước sôi sục ào ào. Nó xé nước mà đi, sung sức mềm mại, lúc ngoan ngoãn, khi tức giận làm mặt biển khi êm ả, khi cộn lên trắng xóa. Như một chiếc thủy phi cơ màu xám, nó kéo thuyền anh đi. Hẳn là nó mới dính câu, còn đang tràn trề sức lực, chiếc vi lưng cong cong khổng lồ hình lưỡi hái dựng đứng, in trên nền trời đang ửng hồng mãi lên. Nước chảy trên làn da xám bóng trơn nhẫy của nó ròng ròng. Con cá còn rất khỏe và anh đã phải thả dần số dây giềng dự trữ để trên sạp thuyền. Khi chỉ còn một đoạn ngắn, anh quyết bắt con cá dừng lại ở đó. Con cá chạy quanh thuyền vẽ một vòng tròn trắng xóa, bán kính có tới non trăm sải. Anh quấn một vòng sợi dây giềng vào cọc lái để san sẻ bớt sức nặng vào đó đồng thời vẫn có thể thả thêm dây khi con cá bỗng đột ngột tức giận phóng nhanh, hai chân đạp vào mạn thuyền, ngả hẳn người về phía sau. Bàn tay anh như xé làm hai, chân anh dội lên sống lưng một cảm giác đau nhói xối tới sọ não. Anh vận hết sức lực trong người ghì chặt, giữ chặt đoạn dây mà lúc đó anh coi như tất cả sinh mệnh của mình, quyết không thả thêm cho con cá một li một tấc. Mắt anh lồi ra (khoảng ít phút sau anh sờ lên mắt mình và ngạc nhiên: Nó phồng phồng mềm như mắt nhái). Mặt anh phù đỏ. Nhưng con cá đã không bơi ra phía khơi nữa. Nó đã quay đầu lại. Suốt một ngày hôm ấy, anh đấu trí, đấu sức với con cá. Cho đến khi thấy ánh nắng buổi chiều chiếu thẳng vào mặt, anh biết mình đã thắng, con cá đã chịu thua rồi. Nó đã quay về phía tây. Nó đang trở về chỗ cũ. Nó quay lại chỗ nó ở. Cũng giống con người muốn được chết giữa gia đình vợ con, giống cá lớn bao giờ cũng muốn chết tại nơi ở cũ. Mãi chập tối anh mới phóng được cái lao thép vào bụng nó, và dùng chày đập liên tiếp vào đầu nó. Rồi có sự giúp sức của mấy thuyền bạn, anh bẩy được nó lên thuyền. Quá nửa đêm cá mới về tới bến. Chủ thuyền đốt đuốc sáng rực. Tám đòn, mười sáu người khiêng như một đám hội. Anh được chủ thuyền thưởng một số tiền kha khá nhưng phải nằm liệt ba ngày mới cử động được chân tay...
Biển với Mây có biết bao kỷ niệm. Sau này khi cách mạng thành công, rồi kháng chiến, Mây đã vào dân quân, đã tham gia phục kích địch ở Hòa Vang, đã rải truyền đơn trong thành phố Đà Nẵng, anh luôn ao ước khi kháng chiến thắng lợi sẽ đưa tàu đi đánh cá ngoài biển khơi, biển của anh, tàu của anh, của những người như anh, khai thác biển vàng biển bạc, xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh, sánh vai cùng các nước khắp năm châu bốn biển.
Mây đã toại nguyện. Tập kết ra Bắc, anh được đi học bổ túc văn hóa công nông. Rồi được học trung cấp đánh cá. Về Quốc doanh đánh cá Biển Đông, tiền thân của Liên hợp Biển Đông sau này. Anh yêu biển. Một tình yêu tự nhiên không phải cố gắng chút nào. Anh yêu công việc anh làm dù có vất vả đến đâu. Đi biển, có mẻ lưới nào anh không có mặt, dù đó không phải ca anh, dù lúc đó là giữa trưa hè nung boong bỏng giãy hay nửa đêm
mưa phùn gió bấc. Biển động thì thôi rồi, không còn nỗi khổ nào hơn. Ăn cơm cũng phải “đứng tấn”, xoạc chân vào bàn, ghì lưng vào vách cabin cho khỏi ngã. Muốn tới nhà vệ sinh phải bò, ruột gan như bị xóc lộn cả lên. Có lẽ anh là người chịu sóng khỏe nhất. Chưa có cuộc thi nhưng theo như kết quả anh em các tàu bình chọn trong những lúc trú gió chẳng có việc gì làm, thì người chịu sóng tốt số một là Lê Mây, thuyền trưởng tàu VT 250. Cũng vì chịu sóng tốt nên gió vừa hạ xuống cấp 6 anh đã đi vào từng buồng ướm lời với những thủy thủ còn đang lử khử vật vã trên giường: “Êm lắm bay ơi. Êm lắm bay ơi”. Như nhà báo Duy Thông đã nói. Cái chuyến cuối cùng trước khi vào sửa chữa ấy, anh cũng “êm lắm bay ơi” nhưng anh em không nhóc nhách được. Đến nỗi máy trưởng Đay còn có tên Fa Ra Đay phải bảo anh:
- Tôi sẵn sàng đi với ông. Cấp tám thằng này nôn. Nôn thì đeo túi ni lông đứng máy. Nhưng anh em không đứa nào đứng vững trên boong đâu.
Mây biết anh đang động viên anh em làm một việc quá sức mình. Nhưng anh chau mày khi nghe Đay nói. Có bao giờ Đay góp phần giúp Mây động viên anh em đâu. Có bao giờ Đay đeo túi ni lông đứng máy đâu mà cứ nói như đã làm thế nhiều lần. Anh giãi bày:
- Cuối động bao giờ sản lượng cũng cao. Với lại phải chịu khó cày còn có sản lượng cho quỹ công đoàn, quỹ sửa chữa của tàu chứ không thì gay. Đói đã hẳn, sửa chữa mà không có tiền bồi dưỡng thợ, bồi dưỡng tổ trưởng, quản đốc, đến bao giờ mới xong.
Không lo được về mặt đời sống cho anh em, không chuẩn bị được quỹ tàu để bước vào sửa chữa là cái khổ thứ nhất của Mây. Cái khổ thứ hai không kém, có khi còn hơn cái khổ thứ nhất là hết rượu. Năm ngày cuối chuyến cả tàu hết rượu. Khi anh em moi móc các xó xỉnh, lật cả sạp trong buồng lái lên kiếm đầu mẩu thuốc lá vất đi từ thời nảo thời nào, Lê Mây đi các buồng lục lọi xem còn tí nước cay nào sót lại không. Mọi chai đều khô. Nhịn thèm nhịn nhạt. Sáng dậy không có chất cay cay nóng nóng chảy qua cổ lan tỏa vào cơ thể, mắt cứ díp lại. Người nhão ra. Bữa ăn lùa bát cơm cho nhanh. Có rượu, anh có thể đưa cay nửa cân bạc má hay nhấm nháp cả cái đầu một con song ba ký. Anh không giấu mọi người chuyện ấy. Chuyện anh ăn được cá ấy. Thời giám đốc Trần Hữu Bằng còn ở xí nghiệp, đã tuyên dương thành tích ăn cá của Mây trong hội nghị công nhân viên chức: “Ăn được cá như Lê Mây mới có thể gắn bó cả đời mình với biển. Những người ăn được cá là vốn quý của xí nghiệp”. Không rượu, cá cũng không muốn ăn, mồm miệng đắng ngắt, ngáp ngắn ngáp dài, nước mắt nước mũi cứ giàn ra, lử khử lừ khừ như đàn bà ốm nghén. Anh em bảo thuyền trưởng đang bị rượu nó vật. Khi thức đã vậy, lúc ngủ càng khổ hơn. Vừa chợp mắt đã mơ thấy rượu. Những bữa rượu vỉa hè với chai rượu Vân trong vắt thân thương. Những bữa giỗ tết ở nhà nâng lên đặt xuống cùng vợ con đầm ấm. Và những bữa liên hoan dưới tàu vang lên “Dô! Dô!” “Trăm phần trăm!” vui vẻ ầm ĩ. Cả những bữa tiệc sang trọng Mây chưa từng dự bao giờ. Bàn ghế phủ khăn trắng muốt, cốc pha lê bày bốn chung quanh với những đĩa thức ăn hình bầu dục. Rượu nhiều vô kể. Toàn những thứ rượu sang trọng, cổ vàng cổ bạc, thứ trong như nước mưa, thứ đỏ sẫm sóng sánh trong cốc. Ác cái là đúng lúc ấy, đúng lúc Mây cầm cốc rượu đưa lên chạm vào môi, hít mùi thơm của nó là choàng tỉnh. Lần nào cũng vậy. Cứ sắp dốc vào họng là choàng tỉnh. Choàng tỉnh nằm. Choàng tỉnh đau. Choàng tỉnh tiếc. Đau hơn, tiếc hơn chàng trai mơ thấy một thiếu nữ khỏa thân trên giường chờ đợi mà mỗi khi bước tới bên giường, vừa ngồi xuống giơ tay ôm nàng thì tỉnh giấc. Lại càng nhức đầu. Cố ngủ lại, mơ lại để được làm nốt động tác cuối cùng: Dốc ly rượu thơm lừng ấy vào miệng. Khổ nỗi những lúc nằm chờ ngủ để mơ tiếp là cứ nghĩ đến những bữa rượu đã uống. Những bữa rượu quên đời. Nhiều bữa rượu đáng nhớ. Đáng nhớ nhất, bữa rượu hay trở đi trở lại trong óc Mây nhất là bữa rượu ở Năm Căn. Với hai phụ nữ thu mua cá Cà Mau. Danh tiếng các bà mả Năm Căn này đã vang dội khối tàu. Bọn bợm rượu các tàu khi nhắc đến chị Hai, chị Ba đều tỏ lòng kính nể và cả quyết trong Quốc doanh Biển Đông không ai địch nổi. Thuyền trưởng Đại nói với anh:
- Ông cũng phải đo ván thôi. Rượu như Túy mà còn thua đấy.
Ngày ấy thuyền trưởng Đại còn sống, và Mây cũng mới là đại phó. Anh không tin có một phụ nữ nào lại uống được nhiều rượu hơn anh và ao ước được uống với họ. Cầu được ước thấy, trong một lần buông neo ở Hòn Khoai, bốc cá lên trạm sơ chế của xí nghiệp, tàu thu mua của chị Hai cũng vào đảo và cặp sát tàu anh. Một tay tóm cổ hai chai Lúa Mới, một tay nắm thang dây, Mây tụt xuống tàu chị Hai và nói thẳng không úp mở:
- Em nghe đại danh hai chị đã lâu. Hôm nay thật may mắn, tàu em và tàu hai chị lại áp mạn thế này, em xin phép được hầu rượu hai chị.
Cả chị Hai, chị Ba đều mừng rỡ, mời ngồi ngay trên buồng lái. Tàu thu mua nhỏ, ngồi đấy nhìn ra chỉ thấy sườn tàu Mây sơn xám dập dờn theo từng con sóng. Mây bước ra lan can, ngước nhìn lên, vẫy thuyền trưởng Đại: “Ông Đại ơi! Cả hai chị mời thuyền trưởng xuống đây đấy!” Đứng trên boong, Đại cười: “Nói hộ mình vô phép hai chị. Ông uống thế nào để sáng mai còn tách bến đấy”.
- Phải có tí nhắm chứ chú? Chị Hai hỏi.
- Tùy hai chị. Mồi cũng được. Xếch cũng được.
Chị Ba từ bếp đi lên:
- Ta cứ uống dần đi. Nhà bếp đang làm rồi. Cũng chẳng có gì. Dưới tàu quanh quẩn chỉ canh chua, chả mực.
Mây toan vặn nút chai Lúa Mới bắt đầu bữa rượu, nhưng chị Hai đã giằng lấy, cất dưới chân vô lăng rồi vào trong buồng lễ mễ xách ra một can 20 lít đầy ắp. Và nghiêng can, đổ rượu vào một chiếc ca nhựa, thứ ca một lít vẫn dùng ở các hiệu bia hơi. Rượu từ ca nhựa được rót vào các cốc thủy tinh. Liếc nhìn rất nhanh thứ nước nhờ nhờ đùng đục trong cốc, Mây đã biết ngay loại rượu này chẳng ra gì. Mà đúng thế thật. Sau khi em xin nâng cốc chúc sức khỏe hai chị, chúc cuộc hội ngộ của chúng ta, Mây làm một tợp cạn cốc. Đúng mà. Rượu gì nhạt thèo thèo. Rượu này uống cả can cũng chẳng say. Chỉ tổ đi đái.
Chính thứ rượu anh khinh thường ấy đã quật ngã anh. Uống hết nửa can, anh vẫn vững. Vẫn đều đều ba cốc một, ba cốc gần tràn miệng như nhau. Mỗi người một cốc. Chả mực chưa đụng. Canh chua chưa đụng. Khô mực thỉnh thoảng mới làm một xé nhỏ. Vẫn còn giành thế chủ động bắt chị Hai chị Ba uống theo cách của anh: Lấy răng cắn vào cốc rượu rồi ngửa cổ cho rượu chảy vào miệng, không được dùng tay. Hay cầm cốc rượu dốc thẳng vào họng mà không được chạm cốc vào môi. Chú muốn kiểu gì cũng xong. Chị Hai chị Ba bảo vậy. Nhưng đến nửa can còn lại thì anh gục. Bắt đầu là một sự chếnh choáng, hơi lắc lư cái đầu. Rồi đầu nặng. Rồi ngây ngây. Muốn nằm. Cố không ngáp. Nhưng vẫn uống. Vẫn cứ đều đặn mỗi người một cốc. Và vẫn cạn một hơi. Rồi nhìn chị Hai chị Ba thấy nhòe nhòe. Lúc như chập làm một. Lúc lại thành ba thành bốn. Khi thuyền trưởng Đại từ thang dây tụt xuống bước vào, anh vẫn biết nhưng không nói được nữa. Dù vẫn nghe loáng thoáng tiếng Đại: Hết cả 20 lít chị Hai? Và tiếng cười giòn tan của các chị như vọng về từ một nơi nào xa lắm. Mây ngả người dựa vào trụ lái, mắt nhắm nghiền. Hình như có người đỡ anh nằm xuống sạp dưới chân trụ lái, ngay cạnh mâm rượu.
Tỉnh dậy, Mây ngơ ngác thấy mình đang nằm trên một chiếc giường hẹp, đầu gối lên chiếc gối vải hoa quen thuộc. Anh dần dần nhận ra chiếc giường của anh, chiếc gối của anh, căn buồng của anh, đúng là buồng của anh, buồng đại phó có treo bức hải đồ trên vách, cửa sổ hình chữ nhật trông ra chiếc ống khói sơn đen. Vội choàng dậy. Nhìn qua cửa sổ xem tàu chị Hai cặp ở bên. Không thấy. Vội chạy ra boong. Bốn chung quanh là biển. Thì ra anh đã ở ngư trường. Tàu đang dắt lưới. Nhìn đồng hồ, đã hai giờ chiều. Mãi sau, anh mới biết đêm qua, anh em tàu anh đã phải sang tàu chị Hai, khiêng anh ra boong, đặt vào một tấm lưới, buộc lại và dùng cẩu, cẩu anh lên tàu như cẩu một con cá lớn rồi khiêng anh vào phòng để tàu tách bến đi sản xuất.
“Sai lầm của mình chính là ở đấy. Rượu không ra gì nhưng uống tới sáu bảy lít thì cũng toi đời”. Nằm trong cabin cố nối lại giấc mơ ngắt quãng, nghe gió mùa đông bắc hú u u trên những dây chằng cẩu, dây ăng ten, Mây tự nhủ. Và thèm đến tứa nước dãi, ước ao một vài lít, không thì chỉ nửa lít cái thứ nước không ra gì ấy cũng được.
Chuyến ấy khi tàu cập bến, khi tàu đã được buộc chặt vào cột bích, cầu thang đã bắc từ tàu xuống mặt bê tông cầu cảng, Mây khoác áo ba đơ xuy dạ, mũ lông, hai tay thọc vào túi áo, đi một mạch ra căng tin. Anh đi từng bước khoan thai, gặp ai cũng tươi cười gật đầu chào mà không bắt tay một ai, không dừng lại nói chuyện với một ai. Khác hẳn mọi chuyến, anh muốn đi thẳng tới nơi mà ở đó rượu tia xối vào họng, mát rượi, nóng bỏng, tràn vào miệng, tràn vào lưỡi, ngấm vào các chân răng và trôi vào cơ thể, trôi đến đâu chảy đến đâu nóng rực lên tới đó, hồi sinh tới đó, ngấm vào từng tế bào, từng lỗ chân lông, nghĩa là anh sắp thoát khỏi tình trạng nửa thức nửa ngủ, nửa ốm nửa khỏe, đói mà không muốn ăn, mồm miệng lúc nào cũng nhạt thếch, đắng ngắt này.
- Chào thuyền trưởng. Vừa về à? Khỏe không?
Một người chào anh. Người ấy ôm vai anh như rất thân thiết. Huy! Một thuyền trưởng cùng được phong một đợt với anh nhưng trẻ hơn anh nhiều. Và bây giờ rất vui vẻ vì được từ thuyền trưởng xuống làm thuyền phó. Không phải thuyền phó tàu đảnh dậm mà là thuyền phó tàu HL 19, một trăm thằng Vosco không bằng cái xô tàu Hạ Long 19. Toàn bộ những thứ trên người Huy đều đắt tiền. Kính Mỹ đổi màu, đồng hồ Thụy Sĩ, áo bông Nhật, quần bò Levi’s, giày da bóng lộn. Và ghê hơn là nhẫn vàng đỏ ngón tay... Huy móc túi, lấy ra bao ba số. Mây miễn cưỡng rút một điếu. Huy bảo anh cầm cả mà hút. Nhưng anh lắc đầu:
- Cám ơn. Mình hút thuốc nặng quen rồi. Thứ này nhẹ quá. Thôi. Đi nhá. Mình vào báo cáo chuyến biển với giám đốc.

Anh rũ được Huy như người rũ được một cái gì nhơ nhớp bám trên người (nhất là Huy lại vừa quàng tay qua vai anh). Vốn tính thẳng thắn ngang tàng, anh là một mẫu người khác hẳn Huy. Cái chuyện Huy lê la ở nhà giám đốc, bí thư đảng ủy, trưởng phòng tổ chức là việc của Huy, anh không có ý kiến gì, nếu có ý kiến chỉ là bái phục Huy, cái việc anh không thể làm được, Huy làm tự nhiên dễ dàng như đã làm việc ấy từ lúc lẫm chẫm tập đi. Anh vẫn không quên lần tàu anh làm dự trù nhận thêm một chiếc lưới mới và mấy chục mét dây đõi. Kho hết. Hỏi ra thì kho còn nhưng thủ kho nói là tàu Huy đã làm hóa đơn rồi. Thuyền phó tàu Huy, một người đã đi với Mây nhiều năm và khá thân nói với anh rằng tàu anh ta còn những hai cái lưới mới dự trữ. Chẳng qua là... Là gì thì anh tự hiểu lấy. Mây hiểu. Làm gì không hiểu. Anh đã sang gặp Huy, đề nghị với Huy cho tàu anh vay tấm lưới ấy, để có thể đi sản xuất. Huy nhất định không cho. Huy nói tàu anh ta cũng chỉ còn một tấm lưới dự trữ mà ông anh biết đấy, kỳ này vào Cồn Cỏ, nhiều rạn nhiều đá ngầm, xác máy bay, không có lưới dự trữ là vỡ mặt. Anh biết cái tính khó chơi của Huy, thói ganh ghét kèn cựa của Huy. Huy muốn vượt hẳn lên cả khối tàu, không chịu thua ai, nhất là thua Mây. Và nhất là để ăn chắc một suất xuống tàu vận tải, mặc dù đó chỉ là cái cớ, ai cũng biết chuyện điều người xuống tàu đi nước ngoài phụ thuộc chủ yếu vào giám đốc, có người còn nói thẳng ra phải nhiều đạn và đã có cả ba rem. Ba rem từ phòng tổ chức tới sếp. Nhưng chủ yếu là sếp. Tổ chức có đề xuất cũng chỉ là một chuyện, đảng ủy họp duyệt cũng chỉ là thủ tục phải làm mà thôi. Nhiều mối như vậy nên đạn phải nhiều như lá tre, nhiều như quân Nguyên! Huy cũng biết điều ấy. Và đã lo cửa ấy. Nhưng sự đời chẳng biết thế nào, cứ phải thật chắc cái thân mình, thời buổi mật ít ruồi nhiều, tránh mọi sự trục trặc, Huy cố gắng mọi mặt để hoàn thành kế hoạch của tàu, chẳng nhất cũng phải nhì khối. Trong khối tàu 400 mã lực, người luôn đạt thành tích cao là Mây. Tất nhiên Huy không nhường Mây chiếc lưới dự trữ. Mây cũng như nhiều tàu còn bị với Huy một vố. Mùa cá Nam năm ấy, anh đánh ở khu 18 chỉ hai, ba tạ mẻ. Anh bảo vê tê đê bám tàu Huy xem sản lượng có cao không. Huy cũng chỉ báo hai, ba tạ mẻ. Mây đã định đưa tàu tới đánh nhưng nghĩ đi nghĩ lại không kinh tế, có tăng được vài chục ký một mẻ thì cũng bù vào thời gian chuyển ngư trường. Đến cuối chuyến Huy báo vọt lên một, hai tấn mẻ, Mây và các tàu bạn chạy đến mới biết rằng không phải. Những mẻ trước đạt sản lượng cao, Huy báo thấp và bây giờ khi sắp về bến, khi đàn cá đã tan, Huy báo vọt lên để phù hợp với sản lượng đã khai thác được. Cái đểu là khi họp bàn về khai thác, Huy còn nói tại Mây không bám được luồng cá, chứ sản lượng khai thác của Huy là đúng như đã báo. Có lần Huy còn báo sai khu ô. Sản xuất ở khu 27 nhưng lại báo về là khu 18, mọi người đưa tàu đến khu 18 chỉ thấy mênh mông gió nước, chẳng thấy một con tàu nào! Anh em nói là Huy báo dã man. Nhưng với Mây, dã man nhất là cái chuyện Huy nẫng tay trên các tàu những vật tư quý hiếm dù chưa cần dùng đến. Và cái điều Mây không thể chịu được Huy có lẽ là sự khác nhau giữa hai tính cách, là thói “đi đêm” với trưởng phòng cung tiêu, sự tấu hót, nói xấu các bạn đồng nghiệp, nhiều khi chẳng phải vì muốn hại người mà chỉ để tỏ ra mình cái gì cũng biết, là sự lui tới nhà lãnh đạo xí nghiệp bất kể người ta tiếp đón mình như thế nào để đạt được nguyện vọng: xuống tàu vận tải ngoại thương. Mây dị ứng với cách mời mọc thuốc lá, mời Mây xuống tàu uống rượu của Huy. Nhiều người không hiểu bảo Mây khái tính. Không phải. Mây đã xuống tàu vận tải ngoại thương uống rượu với bạn bè, khi về còn đút túi vài bao ba số, Capstan bạn tặng. Nhưng với Huy thì chưa bao giờ. Cái kiểu mời quá nồng nhiệt của Huy với Mây như một tiếng cười chế giễu: Cuối cùng ai thắng? Ông hay tôi? Vất vả lắm phải không? Cố mà chịu nhé. Giờ đây ít người biết đến mâu thuẫn giữa Mây và Huy từ thời xa xưa. Từ hồi cả hai còn đi tàu 1000 mã lực. Từ hồi Mây còn làm trưởng ca. Nghỉ phép nghỉ bù về Quảng Nam ra trở về tàu, về giường mình, anh thấy có người đã nằm ở đấy rồi. Người ấy là Huy.
- Anh nằm đây à? Giường tôi đây mà!
- Anh Trường phân công tôi về đây nằm.
- Không được. Quần áo, tủ của tôi còn đây. Nhiệm vụ tôi chưa bàn giao.
Huy cười:
- Không. Tôi không đi đâu cả. Thuyền phó một nói tôi về đây. Có gì anh lên gặp đại phó.
Chú thích:
1. Không trông thấy cù lao.
V. 
Thế đấy. Mới có hơn tháng nghỉ phép nghỉ bù thôi đã có cuộc đảo chính. Huy từ trên bờ được điều xuống làm trưởng ca. Thực ra khi mới đến xí nghiệp trả phép, anh em gặp Mây đã nói hết cả sự tình. Họ bảo Huy đã làm việc với tổ chức, lại đã mời ban chỉ huy tàu lên phố ăn nhậu mấy bữa kể cả khoản em út thì Mây khó mà địch lại được.
-  Tình hình thế đấy. Liệu đi thì vừa.
- Liệu. Liệu cái gì. Mình chỉ có lao động thôi. Từ trước đến nay mình chỉ liệu có vậy thôi. Làm người lao động chứ không muốn làm ông kia bà nọ.
Huy nằm đấy. Mây đi ngủ nhờ. Nay buồng này, mai buồng khác, ôm khăn gói lang thang. Một hôm thủy thủ trưởng bảo Mây: “Ông Phú ông ấy bảo khó nói với cậu quá”. Mây cười: “Sao anh ấy lại nói thế nhỉ. Có gì mà khó nói. Anh ấy là thuyền trưởng. Sao lại khó nói với thủy thủ. Nếu anh ấy làm đúng, nói đúng thì không có gì khó cả”. Thế rồi thuyền trưởng gặp Mây:
-  Trước cậu ở tàu nào nhỉ?
-  110.
- Anh Thăng làm thuyền trưởng phải không? Anh em bên ấy khen cậu lắm.
Mây chán ngán cắt ngang:
- Anh xem chuyện tôi công tác ở đây có vấn đề gì không thì nói. Còn chuyện tôi ở trăm mười để khi khác. Tôi ra gõ gỉ đây.
Phú bảo:
- Cái này Trường nó đã làm như vậy. Cậu thông cảm cho mình.
Mây cố nén cảm giác bị sỉ nhục:
- Không có gì đâu anh ạ. Tôi nghĩ tôi phải cố gắng rất nhiều. Các anh giải quyết hay tổ chức giải quyết tôi đều chấp hành. Tôi nghĩ không ai ngăn cản được tôi tiến bộ. Có gì mà phải thông cảm hở anh.
Ngày ấy Mây chưa lấy vợ, chưa có cái tổ ấm ở khu Bãi Cát nên mới phải chịu cảnh ngủ lang như vậy. Khi Lưu Văn Vượng xuống tàu làm đại phó ít ngày thay Trường nghỉ phép, Mây nói với Vượng:
- Anh em gõ gỉ, bẩn thỉu chật chội nóng bức lắm, ngủ nhờ bất tiện. Anh cho tôi nằm nhờ cái đi văng.
Vượng lấy vợ Hải Triều, ở phố Cầu Gỗ trung tâm thành phố, trưa tối về nhà. (Đã có tối đi chơi phố, Mây ghé vào nhà Vượng, thấy cửa ngoài khóa, cả nhà đi vắng, trong nhà chỉ có một con mèo bị nhốt gào thảm thiết). Vượng đồng ý ngay. Thế là Mây tay hòm chìa khóa buồng thuyền phó 1 mát mẻ đỉnh đương. Cho đến khi Trường giả phép ra, Trường gọi Mây vào buồng trưởng ca:
- Tổ chức điều Huy xuống. Anh em mình nói thật. Cậu ở đây không có tương lai đâu. Không có con đường tiến lên nữa đâu. Ý cậu thế nào. Có muốn chuyển sang tàu khác thì cứ đề đạt.
Vấn đề đặt ra thật bất ngờ. Họ định cẩu mình lên. Mây nói:
- Tôi lao động cũng muốn có con đường tiến lên của mình. Nghĩ mình có cố gắng nhưng vẫn còn thiếu sót. Nếu làm được tốt hơn nữa thì yên tâm hơn. Chứ chỉ nghĩ đến chuyện đề bạt thì mạt quá.
- Nhưng cậu ở đây thì kẹt.
- Anh nhận xét tôi ở đây có những kẹt gì?
Trường đáp chung chung. Mây bảo:
- Vậy tôi tự kiểm điểm anh nghe nhé. Tôi lao động
tích cực. Công tác cũng dô hò lăn vào làm với anh em. Có ý thức xây dựng, có tinh thần đấu tranh. Tôi ở đây đã lâu. Các anh hiểu tôi. Tôi hiểu các anh. Mặt tốt cũng như mặt xấu, giúp đỡ nhau tốt hơn. Nhưng tổ chức cũng như ban chỉ huy tàu điều, là một thằng thuyền viên, tôi chấp hành.
- Thế nghĩa là ý cậu thế nào.
Mây cười:
- Thế nghĩa là ý tôi thế đấy.
Thật may cho Mây. Ngọt một trưởng ca khác được điều đi học. Mây không bị cẩu lên.
Mây, Huy, hai người hai ca nhưng lại cùng chung một phòng, phòng của trưởng ca. Trong phòng, hai trưởng ca không nói với nhau một lời. Có lần hết ca, Mây lay gọi Huy dậy thay ca, Huy làm như đang ngủ giật mình tung chân đá vào mặt Mây. Quá bất ngờ, Mây túm chặt cổ chân Huy xoay một vòng, mười ngón tay thủy thủ từng săn cá mập và trầu cáp như những gọng kìm thép khiến Huy phải lật người nằm sấp rất nhanh để khỏi bị trệch khớp háng và kêu to:
- Ông chơi trò gì thế này?
Mây cười:
- Đây là thuốc chữa bệnh cho những kẻ giả vờ ngủ chơi xỏ người khác. Chỉ một lần là khỏi.
Hình như đó là lần đối thoại cuối cùng trong phòng của hai trưởng ca. Còn trên boong vẫn có đối thoại. Như một hôm ở Cồn Cỏ. Huy đang ngồi vá lưới, thấy Mây
ra, cứ xoay lưng lại phía Mây, che chắn không cho Mây nhìn. Hẳn có chuyện gì đây. Mây đi quanh nửa vòng, buông một câu:
- Không xong rồi!
Huy buông ghim, ngẩng lên:
- Sao?
- Không được.
- Sao lại không được?
- Anh không tháo ra vá lại, thả lưới xuống lại rách, lại vá tốn công tốn nhợ. Kỹ thuật không chiều ai đâu.
Lưới rách gần biên, lẽ ra phải kéo lại lưới, so xem có mất miếng nào không, rồi vá từ trong vá ra, đuổi theo đường biên, lưới mới không bị chùng, không dúm. Cũng có thể vá từ ngoài vá vào nhưng phải căn thật chính xác. Huy đã không làm được như thế. Quả nhiên chỉ một mẻ lưới, chỗ ấy lại rách. Có lần Mây đang làm lưới, Huy cho cẩu lưới lên. Chân Mây móc vào chỗ lưới rách, Mây bị kéo ngược lên cao, la hét ầm ĩ: “Ông kia. Điên đấy à? Có hạ xuống ngay không?” Huy vừa cho hạ lưới vừa cười thích thú. Mây bước tới, giơ nắm đấm ra dí vào mặt Huy:
- Cẩn thận nhé. Lần sau thế chắc chắn ăn đấm đấy. Hay muốn ăn ngay lần này. Hả?
Câu chuyện giữa hai người kết thúc sau chuyến khai thác ở Bạch Long Vĩ. Một mẻ lưới hở đụt, kéo lên chỉ hai tạ cá. Thuyền phó Trường, thuyền trưởng Phú kêu thét:
- Một mẻ lưới vất đi cũng hơn tấn cá. Mất đứt tấn cá. Bao nhiêu tiền. Mây đâu. Làm ăn thế à? Phá hoại!
Mây cười:
- Không phải tôi. Anh Huy thắt đụt đấy.
- Huy đâu? Huy đâu?
Huy ra. Kiểm tra lại đụt. Bỏ mất bốn vòng khuyên mỗi vòng khuyên hai mắt lưới là một mét sáu đụt không thắt. Đụt hở. Chưa hết. Ngày hôm sau, Huy đứng cẩu. Đụt lưới đã lên sàn dốc. Hai tay hai công tắc. Một công tắc lưới. Một công tắc đụt. Đụt cá đã được treo vào móc. Sóng to. Tàu nghiêng ngả. Huy đứng như đứng tấn. Hai chân choãng ra. Rì rì. Rì rì. Chiếc đụt cá lên cao dần. Một anh giật cái nút hoạt. Cá bắt đầu tụt xuống ở chỗ nút sổ. Nhưng ngay lúc ấy một con sóng lớn đánh ngang tàu. Đụt cá văng ra ngoài be. Nút hoạt bung hết cỡ. Cá trút xuống biển. Mây chạy vội ra cầm dây kéo đụt, lôi vào vớt vát được vài tạ. Sai lầm của Huy là ở đấy. Là ở chỗ cẩu đụt cá lên cao quá. Nếu để đụt thấp, sóng xô đụt chỉ đập vào be, không mất cá. Thuyền trưởng Phú từ boong trên nhảy xuống. Mặt sàn chông chênh. Phú loạng choạng chạy tới, vịn vào tơi, đứng thẳng lên, giơ nắm tay toan đấm Huy nhưng rồi chỉ ấn vào vai Huy. Mỗi cái ấn lại làm Huy lạng người đi.
- Một tấn cá! Mày chết đi Huy ơi! Sao mày ngu thế!
Anh em cười. Mây cười. Thủy thủ chỉ có cười. Buồn làm gì. Đã hiếm dịp cười. Cười cho giãn xương cốt, cho đỡ nhức đầu. Để lại bắt tay vào mẻ lưới mới. Với lại nhiều lên hay ít đi một tấn cá chẳng mảy may ảnh hưởng đến cuộc sống anh em. Nếu có, người ta ghi thành tích cho thuyền trưởng.
Sau sự cố ấy, Huy phải chuyển sang tàu khác nhưng trước khi chuyển đi Huy còn nhiều lần được nghe câu nói ấy. Những lúc làm lưới, nhặt cá hay đánh bài, thỉnh thoảng anh em lại nghiến răng nhiếc nhau để được giải lao, để có trận cười:
- Mày chết đi! Sao mày ngu thế.
Biết anh em giễu mình, Huy cắn răng chịu, giả điếc và cười thầm trong bụng: Rồi chúng mày biết tay tao. Cái ý chí làm mọi việc, bằng mọi giá để trả thù đời hình như được định hình từ đấy.
Huy về tổ chức, xung vào đội dự trữ, rồi lại được đi tàu. Và khi Mây lên thuyền phó rồi thuyền trưởng thì Huy cũng có tên trong danh sách đề bạt cùng một đợt. Chẳng ai biết thực hư cái giá Huy phải trả trong những lần đề bạt ấy cũng như cái giá của Huy xuống tàu vận tải ngoại thương ra sao. Cả xí nghiệp một dạo đã ầm lên chuyện đánh ghen ở nhà giám đốc Hoàng Quốc Thắng. Từ Hà Nội về đây làm giám đốc thay ông Trần Hữu Bằng về hưu, ông Hoàng Quốc Thắng để vợ con ở lại Thủ đô. Theo chỉ thị của ông, phòng đời sống xếp cho ông ở tầng hai một cái biệt thự bỏ không, xí nghiệp vẫn dùng làm nhà khách mà họa hoằn mới có khách nghỉ lại. Cái biệt thự nhà khách gần đây không có ai đến nghỉ bởi khách về làm việc đều được chánh văn phòng đưa đến những khách sạn sang trọng ở trung tâm thành phố, thậm chí còn ra mãi Đồ Sơn. Giám đốc Hoàng Quốc Thắng ở đó và cũng ăn luôn ở đó, cái biệt thự nhà khách ấy. Phòng đời sống cử hẳn một người cơm nước, giặt giũ cho tổng giám đốc. Người ấy là Hoa, vợ Huy. Người ta nói nhiều về chuyện này. Chuyện Hoa đến phục vụ riêng cho giám đốc. Không phải ngẫu nhiên đâu. Phòng đời sống có bao nhiêu người. Vì sao lại là Hoa. Vì Hoa vừa trẻ vừa ngon mắt. Vì trưởng phòng đời sống muốn làm vừa lòng sếp. (Chính trưởng phòng đời sống cũng nói thẳng ra: phục vụ sếp không thể là Thị Nở, trông cũng phải sạch sẽ một tí). Người bảo cái thằng Huy định thả cỏ vợ hay sao? Người rành rọt hơn: Huy là bạn cánh hẩu với trưởng phòng đời sống, chính Huy nhờ trưởng phòng đời sống điều vợ từ căng tin lên phục vụ sếp. Từ ấy Huy thường lui tới chỗ sếp như người nhà. Mấy năm liền như vậy. Những khi vợ con giám đốc từ Hà Nội về, Hoa phục vụ rất chu đáo. Cũng chẳng xảy ra điều tiếng gì. Chỉ đến khi cô em họ của giám đốc về chơi mới sinh chuyện. Bà ta làm ầm lên. Hoa sợ quá đạp xe một mạch về nhà. Giám đốc bịt mồm bà nhưng bà vẫn rỉa rói, riếc móc ầm ĩ cả xí nghiệp. Lúc bấy giờ mọi người mới vỡ lẽ đấy không phải cô em họ giám đốc mà là bồ cũ của giám đốc. Một cô kế toán từ cái thời ông còn làm ở Viện. Và chỉ bà ta mới có một dàn ăng ten đặc biệt để khám phá ra tình ý giữa giám đốc và Hoa. Chỉ những người đang yêu mới phát hiện được những biểu hiện của những người đang yêu cho dù họ không để lộ bất cứ một sơ suất nào. Đảng ủy, công đoàn đã có những cuộc họp cán bộ chủ chốt giải thích rằng sự việc không có gì. Đây là một sự hiểu lầm. Hơn nữa phải cảnh giác với những luận điệu của kẻ xấu. Mà có vẻ như lắm kẻ xấu thật. Họ nói rằng đã nhiều lần
Hoa vào nhà tắm kỳ lưng cho giám đốc. Đấy chỉ là những lời đồn thổi. Nhưng Mây thì biết chính xác sự việc là có thật mà không dám hé răng. Một buổi trưa đi nhậu về vì quá yêu ông giám đốc mới nói toàn những điều tốt đẹp về người, về nghề, về sự lao tâm khổ tứ để đưa xí nghiệp tiến lên, Mây rẽ vào thăm giám đốc. Thấy cửa đóng, hơi men lâng lâng, Mây trổ tài trèo lên cây phi lao ngoài vỉa hè, nhìn qua cửa sổ tầng hai xem giám đốc ngủ hay thức thì thấy giám đốc và Hoa đang... “Ngồi! Như Tây!” Mây tụt nhanh xuống đất, vẫn chưa hoàn hồn và cứ lẩm bẩm một mình như người mất trí. “Ngồi! Như Tây!” “Như Tây! Ngồi!” Và lo không biết hai người có nhìn thấy mình không? Nỗi lo ấy ám ảnh anh. Đã nhiều đêm anh suy nghĩ. Rồi lại tự động viên mình: Sếp nhìn thấy cũng tốt, không nhìn thấy cũng tốt. Không nhìn thấy thì chẳng có vấn đề gì. Còn nếu nhìn thấy có nghĩa là mình đã nắm được huyệt của sếp. Sếp sẽ phải chú ý tới mình hơn. Anh tự nhủ sống để dạ chết mang đi. Nhưng rồi lại tự hỏi: Mình không nói, sao mọi người lại biết nhỉ? Và tự trả lời: Chắc sếp ăn vụng nhiều lần. Nhiều người nhìn thấy, chẳng riêng mình. Câu chuyện hư hư thực thực ấy như đã có kết luận rõ ràng khi mấy tháng sau Huy được làm hộ chiếu rồi xuống HL 19 làm đại phó! Huy được đổi đời. Hình như cũng biết những dư luận không hay về mình, mặt Huy càng vênh lên, càng làm ra bất cần mọi thứ và càng khoe khoang của cải, như muốn nói tất cả không là cái đinh gì, chỉ tiền là đáng kể. Mà tiền thì Huy nhiều. Đang có rất nhiều. Sẽ còn có rất nhiều. Lạ cái Huy càng nhiều tiền, mọi người càng coi thường, càng khinh Huy, nhất là Lê Mây.
Trả lời Huy “phải lên gặp giám đốc” nhưng Mây đi thẳng ra căng tin. Xúng xính trong chiếc áo ba đờ xuy dạ đen dài tới đầu gối, anh bước vào nhà bán hàng phòng đời sống lúc ấy còn vắng. Cô Ngụ nhân viên bán hàng, từ đài thu phát chuyển sang, gái tân mà lại đi lấy một ông góa có con trai lớn hơn mình vài tuổi, to cao trong chiếc áo bông bảo hộ lao động xanh rộng thùng thình, tươi cười chào Mây:
- Thuyền trưởng về bao giờ đấy. Trưa em xuống tàu. Cho em mấy con cá ngon đấy.
- Thích cá gì để anh bảo thằng đại phó của anh nó gói sẵn cho.
- Em chỉ thích con mực.
- Xong. Một con mực nang. Hai ki lô được chưa.
Anh mua một chai rượu quít. Rượu không bán tự do, phải có giấy của trưởng phòng đời sống hoặc bán theo tiêu chuẩn đi biển. Nhưng Mây được cô ưu tiên. Cả kho chỉ còn hai loại rượu: rượu quít và rượu chanh. Rượu chanh nặng, rượu quít nhẹ hơn. Mà lúc này chưa ăn gì lại muốn tu cho đã. Giơ chai rượu đỏ tươi lên ngang mặt ngắm nghía đầy âu yếm như ngắm nhìn khuôn mặt người bạn tình bấy lâu khao khát, lấy tay lau sạch bụi, rồi vặn cái nắp nhựa chụp xuống miệng chai. Vỗ mạnh vào đít chai mấy cái như quy trình vẫn phải vậy, để rượu thúc mạnh vào nút nhựa xoáy bịt cổ chai, lấy móng tay cậy cho nút kênh lên, cuối cùng là vặn cái nút xoáy ra. Mây làm những việc ấy một cách vừa trang trọng vừa trìu mến và bây giờ anh giơ chai rượu đã được lau hết bụi lên cao, đắm đuối ngắm nhìn chai rượu đã mở sóng sánh một thứ nước đỏ hồng, như người ta cởi bỏ xiêm y của một người đàn bà và chiêm ngưỡng tấm thân ngà ngọc. Ngước nhìn chai rượu một lúc rồi ngửa mặt há miệng, hàm dưới râu ria lởm chởm hơi đưa ra, Mây nghiêng chai từ từ rót thẳng vào cổ. Rượu vừa mát như nước, vừa nóng như lửa xối vào họng. Anh nuốt. Từng ngụm, từng ngụm. Rượu tràn ra hai bên mép, đọng trên râu. Anh lấy mu bàn tay quệt ngang. Rượu ngấm vào từng mạch máu. Rượu làm anh phút chốc bừng tỉnh lại như tê đi, như đờ dại lại như bay lên. Thêm một lần dốc nghiêng chai từ trên cao xuống miệng. Ngậm đầy miệng thứ dung dịch khát khao ấy rồi từng ngụm nhỏ, từng ngụm nhỏ nuốt nó qua họng vào người, cảm thấy hết sức sống của hơi men lan tỏa. Và lại đưa chai rượu lên ngắm nghía như người ta nhìn ngắm say mê thân thể bạn tình trong lúc đang yêu. Đã hết khoảng nửa chai. Lần thứ ba ngửa cổ, nghiêng chai. Rượu tràn ngập cổ cái hương vị gần một tuần nay mong mỏi. Uống đến lần thứ ba thì gần hết chai rượu. Mây đứng lặng, chai rượu trong một tay buông thõng, mắt nhìn vào một chốn vô hình. Lắng nghe từng mạch máu giãn nở, từng tế bào cựa mình. Nghe máu dồn về tim và từ tim chảy đi, tỏa lên đầu rần rật và tới mọi ngóc ngách cơ thể. Thấy mình như đang bay lượn, mình không đứng ở phòng đời sống, cũng chẳng phải đang tay nắm tay thằng con trai bé đi dung dăng trong xí nghiệp, cũng chẳng phải đang trên giường với vợ trong buổi tối đầu tiên về bến, lại cũng không phải lúc đánh một mẻ lưới trúng tim luồng cá, cái đụt căng tròn kéo lên trong ánh nắng sớm mai. Cái gì cũng không phải. Mà là tất cả những cảm giác trên cộng lại. Thỏa mãn. Phấn chấn. Yêu đời. Coi khinh mọi khó khăn. Việc gì cũng trong tầm tay. Và thắng lợi... Giơ cái chai đã gần cạn lên lần thứ tư, nhìn trìu mến rất lâu chất nước đỏ hồng còn trong chai như nhìn một cái gì kỳ lạ lắm, không hiểu nổi và cũng là để xem nó đã vào trong người mình bao nhiêu. Lắc lắc chai, định làm thêm một ngụm nữa, nhưng đưa gần tới miệng thì đổi ý. Ngần ngừ một giây rồi dốc ngược chai đổ rượu xuống nền nhà. Uống thế thôi. Cũng phải cho nó uống một tí, mời nó một tí. Nó đã được tí nào đâu. Rượu đỏ chảy qua miệng chai, tóa xuống cạnh chân anh. Nền xi măng cóc ghẻ của phòng đời sống nuốt chỗ rượu Mây rót mời rất nhanh. Nhanh hơn cả Mây. Còn lại vỏ chai không. Anh lẳng nó vào một góc nhà chất đầy vỏ chai bụi bậm cái lành cái vỡ, thọc hai tay vào túi áo ba đơ xuy bước ra ngoài, đi trong gió mùa ào ào lên phòng giám đốc. 
Nửa đêm qua mưa dông. Những làn gió mát lạnh lúc sắp mưa khiến tôi và bác Sĩ đang nằm ngủ ngoài trời phải ôm chăn chiếu chạy vào trong phòng.
Sáng nay dậy tìm mặt trời mọc nhưng không thấy. Nhiều mây. Gió tây bắc. Biển êm lạ thường. Chỉ là những gợn sóng lăn tăn. Chú Hồng bảo tôi:
- Biển thế này có điên không. Cầu biển sóng cấp sảu cho thằng này say sóng để nó biết bố Đảng khổ như thế nào. Mày chưa say là tao rất buồn cu con ạ. Nhưng cẩn thận đấy. Biển êm thế này là chỉ nay mai thôi sóng gió nổi lên, biết thế nào là lễ độ.
Tôi cười: Chảu không say. Đấy rồi chú xem.
Cảc chú thủy thủ dậy kéo lưới, nhặt tôm cả đưa xuống hầm xong, đi đảnh răng rửa mặt rồi ai lại về giường người ấy nằm ngủ. Ngủ tranh thủ, ngủ dễ dãi. Ngủ lắt nhắt nhưng thoải mải ngon lành và khi có tiếng chuông kéo lưới là vùng dậy ngay. Hai tiếng rưỡi một mẻ lưới. Cả ngày cả đêm. Những bộ mặt ngái ngủ. Những khăn mặt vắt vai. Những dáng đi lừ khừ, loạng choạng. Rửa mặt. Vớ cái bát vặn nước uống trong thùng men súc miệng. Những chiếc ảo bảo hộ dày cộp quàng qua vai. Một chú ngực béo đầy lông lả từ giường đứng dậy bước ra hành lang, chỗ vắt quần ảo, vừa đi vừa nói: “Quần đẹp của tôi đâu?. Áo đẹp của tôi đâu?” Chú Quẹn tơi trưởng xỏ chân vào quần bảo hộ lao động rách đầu gối, chân thòi qua chỗ rách. Chú Hồng mặc quần ngược, quay chỗ đầu gối rách về phía sau khoeo, rồi vòng tay cài khuy ở sau lưng. Chú vê tê đê vớ bộ quần ảo đầy những vết bẩn đưa cho bác Sĩ:
- Quần đẹp đây.
- Ảo đẹp đây.
Bác Sĩ xỏ tay vào cái áo blu dông quả rộng, cái quần xanh vén ống, lượt vải phía trong còn xanh gần như mới, khác hẳn lượt vải bên ngoài bạc phếch. Chú Đỉnh chú Quẹn đứng tơi. Tơi kêu hồng hộc, quay ù ù. Dây cáp lên. Tơi ghì lôi tấm lưới. Dây cáp chỗ sát mặt nước rung bần bật, nhích dần. Đã tới chỗ tám xoay. Từ chỗ ấy dây cáp chẻ ra làm ba: Một vào “quả bom”, hai dây còn lại vào hai ván. Cái tám xoay nhảy lên qua pu li. Bác Sĩ cầm sào có móc đứng chờ. Bác lao cái móc vào dây kéo đụt. Hụt. Lần thứ hai móc được, kéo được. Hai người nữa xúm lại kéo cái đụt lủng lẳng ròng ròng nước. Bắt sợi dây vào tang tơi. Cho tơi cuộn. Tất cả mũ áo đứng trên boong. Một người giật đụt. Reo hò ầm ĩ. Reo vì mẻ lưới thất bại, chỉ có mấy con cá nhỏ, một ít ghẹ và mấy con tôm. Kéo xong lưới bên trái rồi đến lưới bên phải, tấm lưới vẫn được nhiều hơn. Hai cái đụt phinh phính như hai quả bầu. Hai chú giật dây. Tụt xuống một đống tròn. Một búi rắn biển cuộn khoanh, đầu ngóc cả lên ngơ ngác nhìn quanh. Lại reo hò ầm ĩ. Rất ít tôm. Có một cặp cá hiên nhơ nhỡ đập mình. Đúng là giống cá hiên đi đâu cũng có đôi.
Bố hạ lệnh cẩu lưới. Vào vụng Ngọc trú. Giời này biển lặng, trăng sáng, ít tôm. Chờ một vài ngày nữa xem sao. Bác Sĩ nhìn giời bảo:
- Chỉ ngày mai chậm lắm là ngày kia biển động thôi.
Bố bảo bác Sĩ:
- Thay cái đụt bên thằng Quẹn đi.
Tàu chạy vào vịnh. Trên đường vào vịnh, tất cả biến vào cabin. Giữa trời nắng, chỉ còn bác Sĩ áo đẹp mũ lá có quai ni lông trắng và chú Hồng quần đẹp mặc lộn đằng trước ra đằng sau lúi húi giữa boong với tấm lưới.
Tôi quên không kể chuyện hai con lợn. Hai con lợn tàu nuôi. Chúng nó rất khôn. Cứ tha thẩn ụt ịt ngoài hành lang. Nắng chiếu vào hành lang bên này thì rủ nhau sang hành lang bên kia. Khi tàu dắt lưới ngược lại, nắng chiếu ngược lại, chúng cũng chuyển hành lang, nằm thở phì phò trong bóng râm. Cái đêm mưa to, tôi và bác Sĩ ngủ ngoài boong phải chạy vào trong nhà, chúng cũng không phải nằm ngoài mưa. Bác Sĩ rút hai chiếc ngăn kéo ở một cái giường thủy thủ bỏ không, lùa chúng vào trong buồng. Như đã quen với những chuyện ấy, chúng thành thạo nhảy qua bậc cửa sắt cao, vào cabin và mỗi con một ngăn kéo, nặng nề nằm xuống ngoan ngoãn. Mẻ lưới nào chúng cũng có mặt ngoài boong. Chỉ đứng xa nhìn. Không thấy ai để ý, chúng kêu ụt ịt. Và bao giờ chúng cũng có phần. Các chú thủy thủ quãng ra cho chúng khi con cả, khi con ghẹ. Chúng ăn rất thiện nghệ. Chúng dẫm một chân lên con cả mối, ngoạm vào chỗ thịt giáp với đầu, bóc ngay được nửa con, không dính một tí xương nào. Rồi lấy mổm lật giở con cá và lại làm như vậy. Hai cái rứt là xong một con mối tươi nguyên. Chỉ còn lại đầu với cái xương sống chạy dài tới đuôi lởm chởm xương dăm. Chúng ăn ghẹ mới thật cừ. Khôn ngoan như người vậy. Con ghẹ giương hai càng dài lên đe dọa. Con lợn vừa đưa mõm tới gần, con ghẹ lùi lại rất nhanh, hai càng khua khua trước mặt con lợn. Lợn ta đứng sững. Hai con vật nhìn nhau. Lợn giả cách đi chỗ khác như bỏ cuộc. Rồi bước nhẹ nhàng về phía sau con ghẹ. Bỗng rất nhanh, lợn đặt một chân lên lưng con ghẹ, ấn chặt. Hai càng ghẹ quều quào trong không khí nhưng bây giờ đã trở thành vô tác dụng, chẳng làm sao cắp nổi lợn. Ấn mạnh chân, giữ chắc con ghẹ trên mặt boong, lợn ta cúi xuống, há miệng ngậm lấy cái mai, nhích chân sang những ngoe con rồi hất mạnh đầu, con ghẹ đã bị tách làm hai, hệt như mẹ tôi hay cái Ngàn chách cua đồng nấu cơm vậy. Nhìn hai con lợn ăn cua ăn cá thạo thế tôi đã hiểu vì sao chúng béo rụt đầu rụt cổ. Đúng là những con lợn sướng nhất thế giới! 
Sau chuyến ấy tàu VT 250 do Lê Mây làm thuyền trưởng vào sửa chữa. Như mọi con tàu vào sửa chữa định kỳ khác, nó bị kéo dài. Công việc sửa chữa của xí nghiệp cơ khí ùn lại. Do thiếu vật tư, do không đủ phụ tùng thay thế, do việc lên đà một con tàu nào đó phụ thuộc con nước bị chậm. Trăm thứ lý do. Dồn toa. Tàu này lùi đẩy tàu khác lùi. Tình trạng mười phương kiệt nguyên liệu thống trị sản xuất. Hai tháng sau vẫn không ai ỏ ê đến VT 250. Rồi ba tháng. Đói. Đói không khác gì 307. Và cũng phải xuống cuối cảng đỗ ngoài thằng 307. Nằm mãi, vô công rồi nghề tù túng đói rách bứt rứt không chịu được. Mây nghĩ ra một mẹo: Xin giám đốc cho đi thêm một chuyến, vừa để tăng sản lượng cho xí nghiệp, vừa đỡ lãng phí thiết bị, lãng phí nhân lực. Máy trưởng Fa Ra Đay nhất trí cao. Anh em thuyền viên reo hò tán thưởng. Nhưng phải có quà lên giám đốc. Chẳng thể nói suông. Quà gì? Anh em mình nghèo, giám đốc thừa biết. Về vật chất chẳng thể nào bằng được thằng Hạ Long 19, thằng Hạ Long 02, chúng nó tiền tấn. Mình cốt cái lòng thành. Ta biện cái lễ nhỏ thôi. Giám đốc mấy hôm nay có phu nhân và tiểu thư xuống chơi. Vậy ta cứ làm con gà, chai rượu. Thuyền trưởng, máy trưởng phải xuất tướng. Thuyền trưởng nói về việc thực hiện kế hoạch. Máy trưởng báo cáo thiết bị vẫn đi tốt. Nhất định được. Xin đi đánh cá cho xí nghiệp chứ làm gì đâu mà không được. Nghe có vẻ xuôi. Nhưng Mây không ngờ các thứ quỹ tàu đều đã xoẳn dù chưa bước vào sửa chữa. Túi anh, túi Fa Ra Đay đều cạn, đều mắc bệnh viêm cơ túi. Cuối cùng anh phải thân ra Ngã ba Đông Dương, tới quán bà Bảy Béo quen, tháo cái đồng hồ Seiko five (quen thì quen, ăn mòn bát mòn đũa vẫn phải như vậy, cái ngã ba này nhờ cánh tàu cá mà bao nhà giàu có hẳn lên) đặt hai con gà mái tơ và một chai ba sì đế (1) đúng chập tối lên lấy. Nhớ là chập tối. Mấy giờ à. Đồng hồ cắm quán cô em rồi còn hỏi giờ giấc. Nhớ là phải có cả lộc(2). Nhiều lộc vào. Kế hoạch thực thi tốt đẹp. Bà Bảy giao gà giao rượu đúng thời gian. Lộc nhiều. Hai con gà luộc vàng ươm được gói giấy báo đặt trong mâm nhôm và để kín đáo, bà Bảy còn úp cái lồng bàn lên trên. Nhọ mặt người, Đay đội mâm, Lê Mây cầm chai ba sì đế. Từ Ngã ba Đông Dương tới nhà sếp khá xa. Đay đội ê cả cổ.
Tới nơi, đội lễ lên ngang cầu thang lại phải đội xuống. Nhà sếp không chỉ có vợ chồng sếp. Mà còn có khách. Lại phải sang bên kia đường. Vào hàng nước. Chờ. Nhưng đám khách vừa xuống lại một người khách đi xe máy tới, khóa xe ở sân, lên thang. Ông này trông lạ. Hình như ở hải quan. Hay trên Bộ. Chờ lâu. Cuối cùng khách cũng xuống. Rất nhanh, Mây và Đay đội mâm xách rượu bước lên. Cái gì thế này? Giám đốc kêu lên. Đay mở lồng bàn. Mây đặt chai rượu nhìn giám đốc: Biết chị và cháu về chơi, tàu chả có gì, nằm bờ lâu quá rồi, gọi là lòng thành có tí quà mang biếu thủ trưởng với chị và cháu ăn cơm khỏi phải đi ăn tiệm, phiền ra.
Lần đầu tiên trong đời tổng giám đốc nhận được một món quà biếu như vậy. Ông cố nín cười bảo vợ chặt ngay con gà ăn cơm, nhiều khách quá đang đói mềm ra đây và mời hai anh ăn luôn thể. Không thể nói đánh độp cái chuyện xin đi thêm một chuyến biển được, không thể về ngay được, thuyền trưởng, máy trưởng đành phải ở lại. Và cũng không thể để phu nhân giám đốc chặt thịt gà, Mây nói:
- Ông Đay ra chặt cho chị Vân đi. Chị cứ để đấy, chúng tôi làm nhoắng cái là xong.
Đay nhanh nhẹn bước tới chỗ đặt thớt có cái mâm mình vừa đội đến. Gì chứ, chặt hai con gà, làm bữa nhắm chỉ là chuyện vặt. Ác cái là chờ đợi lâu quá, hai tờ báo dính bết vào lớp da gà béo nhẫy những mỡ, mủn ra.
Vừa chặt vừa phải bấu bấu, nhặt giấy mủn để vào một góc mâm. Năm người ngồi ăn. Vợ giám đốc, cô con gái giám đốc ăn xong trước, còn lại ba người. Và bây giờ mới là lúc vui, lúc câu chuỵện cởi mở, rôm rả. Mây mạnh dạn đề nghị được đi thêm một chuyến với những lý lẽ khó mà bác bỏ, chính đáng không chê vào đâu được, hoàn toàn vì công việc, vì lợi ích của xí nghiệp và kết luận:
- Báo cáo giám đốc, tôi là đứa con hay lo hay làm của Đảng, không xin giám đốc đi nghỉ mát hay đi dưỡng bệnh. Chỉ xin được đi biển đánh cá mang về cho xí nghiệp thôi. Nằm nhà lâu nó hỏng mất người.
Có lẽ vì hương vị John đen ngon êm quá, hai vị khách uống hết chén này tới chén khác. (Giám đốc cất chai rượu trắng của tàu đi, và lấy ra một chai Johnnie Walker đen, loại rượu có thứ hạng trung bình trong số những bạt ngàn các chai rượu trong buồng, đủ loại vang, sâm banh, uyt ki, cô nhắc, quà của các tàu vận tải ngoại thương, cái món này đối với dân nghiện như Mây, như Đay thật mềm môi). Đay đế theo đúng kịch bản đã xây dựng từ trước:
- Báo cáo giám đốc. Thiết bị vẫn còn gọ gẵng được. Có cái bơm nước làm mát bị hỏng, chúng tôi đã liên hệ với thằng 217, tàu nó lên đà, nó hứa sẽ cho mượn một chuyến biển. Dầu của tàu còn năm tấn. Chỉ xin xí nghiệp cho nhận thêm năm tấn nữa thôi.
Lê Mây nhăn nhó:
- Bây giờ đang mùa cá bánh đường. Các tàu đánh đều đạt sản lượng cao. Chúng tôi ở nhà nghe bạn bè nói mùa vụ, ruột gan chúng tôi cào xé lắm.
Giám đốc cười:
- Uống đi đã. Công việc hãy để đấy. Tính sau.
Ông thừa biết lý do xin đi thêm chuyến biển nữa. Ông hiểu ngay cái lý do không được nói ra, mà đó lại là lý do chính. Các tướng nằm bờ lâu hết tiền. Nhưng chẳng lẽ nói với giám đốc rõ ra cái ý ấy, có khác gì nhận tôi không vì xí nghiệp mà chỉ vì tôi. Ai cũng vậy. Nói ra miệng điều mình không nghĩ, và giấu biệt trong lòng những điều mình mong ước, giấu biệt mục đích của mình. Trong hàng ngũ những thuộc quyền của ông mà ông giao tiếp, người ta đều giấu ông ý nghĩ thật và thỉnh thoảng mới xì ra những sự thật cỏn con rồi thổi phồng lên, coi đó như bản chất trung thực của mình để được ông tin tưởng, được ông coi là tâm phúc. Cũng như ông đối với cấp trên ông thôi. Nói dối, giấu đi những ý nghĩ thực của mình, lúc nào cũng vì công việc, vì cái chung, lo lắng suy nghĩ... Đó là cung cách ứng xử của tất thảy. Mọi người ông nhìn thấy, kể cả chính ông nhìn ông và nhìn cấp trên, cấp dưới của ông, chỉ là con người biểu kiến chứ đâu phải con người thực. Cũng giống như chân trời biểu kiến khác với chân trời thực mà ông đã học khi còn là sinh viên. Cái chân trời mình nhìn thấy luôn không phải là chân trời thực. Cụm từ “trằn trọc trăn trở” của người lãnh đạo luôn được nói tới thực chất chỉ là trằn trọc trăn trở sao cho được việc chung để từ đó mình có thể rút ra cái phần tối đa cho mình. Và quan trọng là cái phần tối đa ấy bao giờ cũng phải có một phần dành biếu cấp trên. Phần biếu cấp trên có khi là ba mươi phần trăm, có khi là năm mươi, thậm chí đột xuất lên đến một trăm phần trăm cũng không được tiếc. Đau đấy nhưng không được nhăn nhó, mà phải giữ được nét mặt tươi như hoa. Phải biết nhìn những bước tiếp theo. Điều quan trọng là biết nhìn những bước tiếp theo.
Như bữa ăn hôm nay. Là toàn bộ quà biếu của tàu VT 250. Tàu đánh cá chẳng lấy đâu ra tiền. Lại là tàu nằm bờ mấy tháng nay rồi. Của cho không quan trọng bằng cách cho. Quà biếu không quan trọng bằng cách biếu. Nói vậy thôi. Quà biếu, của cho cũng quan trọng lắm. Vô cùng quan trọng. Không kém gì cách biếu cách cho. Món quà biếu hôm nay rõ ràng chẳng quan trọng gì. Lại còn tai tiếng nữa. Ông đã định không nhận. Nhưng rồi ông nghĩ lại. Nếu hai cán bộ tàu của ông đội mâm về sẽ ra sao. Hẳn sẽ trở thành một chuyện thời sự. Và bọn thối mồm, bọn ghen ăn ghét ở sẽ cười khẩy: Sếp đời nào nhận cái thứ vớ vẩn ấy. Đúng là mấy lão hấp. Sếp chỉ nhận những thứ thật gọn nhẹ thôi. Gọn nhẹ nhưng giá trị gấp trăm gấp nghìn lần. Hai con gà, sếp sẵn sàng nhận, nhưng phải là hai con gà bằng vàng. Chuyện thời sự ấy không chỉ nằm trong xí nghiệp. Nó còn lan truyền trong thành phố, thậm chí bay lên tận Hà Nội. Cách tốt nhất là nhận rồi mời hai người ở lại uống rượu với ông. Sẽ là một giai thoại vui. Hình ảnh ông sẽ được tô vẽ thêm, đáng yêu hơn trong con mắt mọi người. Ông uống rượu với hai thuộc cấp và rất thân mật hỏi hai người khách:
- Tôi hỏi thật hai ông nhé? Ớ dưới tàu, thuyền trưởng máy trưởng có ăn cắp cá không?
Câu hỏi đánh độp, tung ra rất bất ngờ. Ông không dùng chữ lấy, lấy cả, mà ăn cắp, ăn cắp cả. Gọi sự việc đúng tên của nó. Cả hai lặng đi. Lê Mây còn chưa biết trả lời ra sao trước câu hỏi vừa thân mật vừa sỗ sàng, vừa nghiêm túc ấy, Fa Ra Đay đang đưa chén rượu lên môi, chợt ngừng lại, nghiêm mặt trả lời:
- Báo cáo thủ trưởng có ăn cắp chứ. Không ăn cắp sống sao được!
Lê Mây chết lặng trước câu trả lời cũng sỗ sàng như câu hỏi. Nói thế là đúng, là nói sự thật. Nhưng không nên đốp chát như vậy. Phải nói sao cho có tình có lý để giám đốc biết thời buổi này nếu cứ ngang bằng sổ ngay, làm ăn lương thiện thì không thế nào đủ sống. Với lại mang tiếng đi đánh cá quanh năm suốt tháng, khi về nhà không có con cá mang về cho vợ cho con nghĩ nó cũng tủi. Nói đến đấy rồi có thể nói thêm báo cáo thật với giám đốc là cá mang về nhà phải là cá ngon, song, tráp, chim, thu... rồi nếu có thể nói dấn lên, báo cáo thật với giám đốc chẳng nói các anh cũng biết nhiều khi vợ ốm con đau thuốc men cũng chỉ trông vào con cá. Cực chẳng đã mới phải làm cái việc khốn nạn ấy chứ ai muốn làm gì.
Vẫn cầm chén rượu trên tay, đầy tự tin và cả tự hào vì mình là người đầu tiên dám công khai nhận với tổng giám đốc việc ấy, Đay nói thêm để tổng giám đốc biết mình không phải loại ăn cắp thông thường:
- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi ăn cắp nhưng không ăn cắp như những người khác. Chúng tôi ăn cắp có văn học!
Tiếng có văn học Đay tung ra nghiêm túc, nặng trĩu đầy hãnh diện khiến tất cả cười ầm. Cả vợ giám đốc đang ngồi gọt những quả táo tây tím lịm mà tàu vận tải nước ngoài biếu để chuẩn bị cho món đét xe cũng phải phì cười. Cả cô con gái giám đốc ngồi cạnh mẹ cũng bật cười. Giám đốc hỏi tiếp khi trận cười đã dứt:
- Thế nào là ăn cắp có văn học?
Mây im lặng chờ Đay trả lời.
- Khó nói lắm thủ trưởng ạ. Nghĩa là nó không thô. Nó có văn học. Thế thôi.
Giám đốc gật đầu, vẻ như đã hiểu. Ông thấy thằng cha máy trưởng trông sù sì như con gấu này được. Được ở chỗ hắn ta thật. Cái phần biểu kiến của nó không đến nỗi. Lần đầu tiên ông nghe một thuộc cấp trả lời ông như vậy. Có thể nói chuyện rất thẳng thắn với hắn về những chuyện khác nữa, nhưng không phải lúc này, không phải ngay bây giờ.
Bữa rượu chỉ kết thúc khi mấy vị chức sắc trong ngành công an đến chơi. Kết quả là số không. Tàu VT 250 cứ phải nằm bến chờ sửa chữa còn Đay được điều xuống làm máy phó tàu HL 19, cùng một chuyến với bác sĩ Nông Đức Bá, trưởng phòng y tế. (Chuyện đó sẽ kể sau). Và cũng khó khăn lắm Mây mới chuộc được cái đồng hồ. Bằng tiền của báo vụ Quân. Quân cùng quê xứ Quảng. Quân đi tàu HL 12 từ vịnh Thái Lan mới về. Tiền đang xủng xoẻng. Đưa theo tàu ra dăm tấn gạo, mặt hàng bao giờ miền Bắc cũng cần, cầm chắc lãi ba chục phần trăm, hơn trăm quả dừa khô chắc chắn lãi gấp đôi, thêm mấy chục kí bún khô để ăn và làm quà. Quân bảo Mây đèo về hai bao gạo, dăm kí bún. Lại cả một cặp dừa. Quân nói:
- Chi viện đồng hương thế thôi. Nếu thằng này đi tàu nước ngoài thì quà sẽ nhẹ hơn. Chỉ một cái tivi thôi. Hay cái phong bì là xong. Không phải cồng kềnh thế này. Nhưng bây giờ ra ngã ba Đông Dương cái đã. Nhớ bia hơi Hà Nội lắm rồi.
Hai người ra quán bia, vào đúng quán bà Bảy Béo. Uống và chuyện. Đến lúc ấy Quân mới biết Mây cắm đồng hồ ở quán. Thế là Quân chửi vung lên, bảo bà chủ quán:
- Chắc lép à? Có hai con gà mà bắt đồng hương của tôi phải cắm đồng hồ à? Muốn phá sản không thì bảo? Có muốn không ai vào đây ăn uống thì bảo?
Quân điên thật sự. Và Quân đã say. Bà chủ quán lắc lư bộ ngực đồ sộ rối rít thanh minh em cũng tưởng anh ấy quên tiền ở tàu, rồi anh ấy về lấy ngay, anh ấy gửi lại đồng hồ thì em giữ hộ thôi chứ có phải chắc lép đâu. Em cứ chờ mãi không thấy anh ấy đến lấy. Đây. Em cất trong tủ cẩn thận...
Mây đeo đồng hồ vào tay. Quân ngửa cổ dốc vại bia uống dở vào họng, dằn mạnh cốc xuống mặt bàn, bảo chủ quán:
- Tính tiền. Hai con gà, chai ba sì đế bao nhiêu. Cả lãi nữa. Chỗ bia uống hôm nay bao nhiêu. Thanh toán. Không uống ở đây nữa. Đi hàng khác.
Trả tiền xong, Quân dắt tay Mây dung dăng dung dẻ bước ra. Anh nhìn chiếc đồng hồ trên cổ tay Mây:
- Cả tàu không đứa nào có tiền à?
- Đứa nào cũng kêu cháy túi. Kể ra để một cái mũ giữa câu lạc bộ rồi thằng nào có bao nhiêu tiền vất cả vào cũng thừa đấy, nhưng ai lại làm thế. Mình là thằng thủ trưởng phải lo chứ.
Quân nhìn Mây âu yếm, tủm tỉm cười:
- Chịu bố. Giám đốc có thể dát vàng cả nhà xí, không thiếu thứ gì mà bố dám chơi cái văn đôi gà với cút rượu thì liều thật. Lại còn đội nghênh ngang giữa đường nữa chứ. Chỉ có bố là dám chơi cái văn buổi dải ấy thôi.
Rồi làm ra bộ nghiêm nghị nói với giọng khiển trách nhưng Mây biết đấy là bạn mình đang sướng, là lòng bạn mình yêu mến vô cùng:
- Đồng hương buổi dải quá đấy đồng hương ạ.
Ớ quán bia mới, hai người còn uống nhiều uống lâu. Biết bạn thèm rượu thèm bia, Quân chiêu đãi Mây một bữa túy lúy. Và cũng biết bạn túng, Quân rút ra một xếp tiền đưa cho Mây:
- Cái này là biếu đồng hương để uống, không phải đưa cho bà ấy. Bà ấy có khoản gạo kia rồi.
Thế là túi Mây rủng rỉnh. Trong thời gian tàu sửa chữa Mây có đồng ra đồng vào, nhưng cũng chẳng được lâu. Tính Mây thế. Tính cánh đi biển thế. Gặp nhau, kéo nhau vào quán, làm vài chén là thôi đấy. Mềm môi, cứ thế đưa cay. Khi tàu sửa chữa được già nửa công việc, nghĩa là có nhanh cũng còn hai tháng nữa, Mây đã nhịn rượu cả tuần rồi. Người bã bời, đắng ngắt, mồm miệng nhạt thếch, chân tay rời rã. Giống hệt cái hồi đi chuyến biển cuối cùng năm ngoái. Đang lang thang trên cầu thì gặp Huy. Huy rút trong túi ra bao thuốc Capstan mời Mây xuống tàu làm một tí cay cay. Chỉ nghe thấy thế bao nhiêu nước miếng đã tứa ra rồi. Chân Mây cứ bước theo Huy như một cái máy không thể nào cưỡng được. Họng Mây như đã được thứ nước nóng bỏng ấy tưới vào làm cho tươi lại, sống lại. Cái cay cay của Huy không phải là thứ cuốc lủi nhạt phèo ở mấy hàng nước quanh đây, ngay cả rượu Vân cũng chẳng thấm gì. Mà nó giống rượu ở nhà giám đốc hôm nào. Trong veo. Thơm. Thơm lạ lùng. Cầm chén rượu lên chưa uống đã thơm. Uống rồi thơm mãi, ấm mãi trong họng. Và đặc biệt uống thoải mái không nhức đầu. Ngấm. Và êm. Nhưng đi được mấy bước anh quay ngoắt lại trước sự ngạc nhiên của Huy. Nhìn theo Mây, Huy cười một mình: Cà cuống chết đến đít vẫn cay. Không xuống thì thôi. Càng còn rượu. Rồi cười một mình: Đã thế mai gặp lại mời, xem giữ được bao lâu.
Mây đi một mạch đến nhà gửi xe. Đạp về nhà. Anh ở khu bãi cát, một khu tập thể của xí nghiệp. Lục tìm trong túi ni lông treo ở một cái đinh trên tường. Lấy ra quyển y bạ. Đút vào túi, xem đồng hồ rồi phóng xe đi. Vừa ra ngõ, gặp ngay Quân rỗ đang đi vào.
- Tôi đang định vào rủ ông đi kiếm tí ba si đế.
Mặt Mây sáng lên. Nhưng lại ỉu xìu khi biết Quân cũng cháy túi.
- Xuống thằng mười chín với tôi. Quân bảo. Vào thằng Dân vê tê đê. Nó vẫn mời tôi xuống nó.
Nghĩ đến việc xuống đấy có thể gặp Huy, phòng đại phó và phòng báo vụ nhìn thẳng sang nhau, Mây bảo:
- Y bạ ông để đâu?
- Ở tàu. Làm gì?
- Ông về lấy ngay ra đây. Đi với tôi luôn.
Một lúc sau hai người hai xe, hai quyển y bạ bước vào trạm xá. Mây khám trước. Đồng chí Bá, bác sĩ người dân tộc nhưng tinh ranh hơn bất kỳ một người Kinh nào, có cô vợ trẻ đẹp như mơ nhưng đang rất lo chuyện ấy của vợ ngày một yếu, đã mua các thứ thuốc cho vợ uống vẫn không kết quả đành chịu bó tay và giờ đây tập trung sức lực vào việc mở cuộc vận động đi tàu nước ngoài với chức danh bác sĩ cũng được nếu không thì phục vụ viên cũng được, tươi cười chào Mây:
- Chào thuyền trưởng. Lâu lắm mới gặp thuyền trưởng. Thuyền trưởng đau ốm làm sao?
Mây đưa quyển y bạ, làm ra mệt mỏi nhăn nhó tật bệnh ốm đau:
- Chân tay tui nhức hết. Lưng nhức, ngực nhức. Anh xòe bàn tay to lớn chai sạn của mình ra trước mặt bác sĩ: Tay nhơm nhớp, chân nhơm nhớp, cứ ra mồ hôi trộm. Khó chịu quá bác sĩ ạ.
Bá đeo ống nghe, luồn vào lưng vào ngực Mây, vẻ mặt nghiêm trang chăm chú. Một lúc sau lại bảo:
- Anh thở mạnh vào.
Mây thều thào thiểu não như sắp qụy đến nơi:
- Ngực tưng tức, khó chịu lắm.
Bá vừa nghe phổi nghe tim cho Mây vừa nói với Quân ngồi chờ ở ghế gần đó:
- Chờ một tí nhé. Anh Quân bệnh gì?
Mây nhanh nhảu trả lời thay Quân:
- Nó cũng như tau. Nó cũng như tau. Tay chân nhơm nhớp...
Không chịu được sự nhăn nhó giả vờ của Mây, Quân đứng lên:
- Hắn nói bậy đó. Không bệnh trạng chi hết đó.
Anh bước tới cầm quyển y bạ của Mây để trên chiếc
bàn có phủ mảnh vải màu cháo lòng, lật từng tờ trước mặt bác sĩ:
- Y bạ trắng tinh. Một viên aspirin cũng không. Từ ngày vào xí nghiệp hắn chưa một lần đến phòng khám bệnh. Lần này là lần đầu tiên. Hắn khỏe nhất xí nghiệp đó. Chẳng bệnh gì. Chẳng qua là thèm rượu thôi. Thèm rượu nhưng hết tiền. Không có tiền mua rượu. Tôi cũng thế. Chẳng bệnh tật gì. Y bạ đây. - Quân lại chìa quyển y bạ của mình ra, giở từng tờ - Trắng tinh. Xí nghiệp chưa tốn một xu thuốc nào. Viên B1 cũng không. Lưng tôi lưng xuất khẩu đấy bố ạ. Báo vụ nhưng những lúc cần, ngồi nhặt cá suốt đêm với cánh thủy thủ. Bọn boong còn phải nghỉ giải lao chứ thằng này thì không. Bụng dạ cực tốt. Lên bờ bát ngát, về tàu muộn, xuống bếp, chảo cá kho không đậy vung, gián trong vạc bò ra rào rào như mưa, thằng này vẫn gắp ăn, chẳng sao. Bụng tôi bụng inox đấy bố ạ...
Bá bật cười:
- Thế bây giờ các bố cần gì, ốm không ốm đau không đau. Lưng thì xuất khẩu, bụng thì inox...
Không phải đóng vai người ốm nữa, Mây tươi tỉnh mặt mày nói năng lưu loát, anh cười làm những nếp nhăn sớm có nổi lên chằng chịt trên khuôn mặt nâu sạm râu ria lởm chởm:
- Cứ cho mỗi thằng bốn chai canh kí na hay phong tê thấp cũng được. Nói thật với bác sĩ thèm quá rồi. Chẳng còn xu mẹ nào. Tàu nằm bờ lâu quá. Thằng đánh cá nằm bờ là túi xoẳn. Có như thằng đi tàu nước ngoài đâu.
Bá lắc đầu:
- Hai chai thôi. Tiêu chuẩn khám chỉ mỗi người một chai rượu thuốc. Hai chai là đã ưu tiên rồi.
Quân gắt yêu:
- Cứ ghi vào đây, mỗi y bạ bốn chai. Y bạ trắng tinh đây này. Phải bốn chai chứ hai chai ai uống ai đừng. 
Bác Sĩ, chú Hồng nói không sai: Hôm trước biển lặng, thả cái bát xuống biển không chìm thì phải coi chừng, có gì ăn trước đi. Hôm sau biển động đấy! Tàu vào vụng Ngọc trú gió hôm trước thì hôm sau biển động. Vừa buông neo trong vụng, đã nghe tiếng bơm nước hùm hụp hùm hụp. Mọi người trần truồng hết, chen chúc trong nhà tắm, không ai xấu hổ xấu han gì. Lạ thế! Vào đây tắm với chúng tao thằng Ba Đùi. Giờ thì tất cả mọi người trên tàu (trừ chú Hùng lùn và bố tôi) đều gọi tôi là thằng Ba Đùi. Tôi cũng quen rồi. Không ngượng nữa. Hơn thế, tôi hiểu mình được cả tàu quý men. Nóng. Nóng quá. Không một phe phẩy gió. Tắm xong, mở bia, nước ngọt rót vào ca. Một thau đá dùng để ướp cá ướp tôm từ dưới hầm đã được đặt giữa buồng ăn. Tiếng lắc ca cho đá chảy, tiếng nhai đá rau ráu giòn tan. Hai chiếc thuyền nan từ trong bờ chèo ra áp mạn tàu. Mỗi thuyền là một phụ nữ. Một người hơn tuổi mẹ tôi đứng trên sạp thuyền chung quanh toàn mít, dứa và quả tai chua. Một người chỉ khoảng ba mươi, mặc quần hồng áo hồng, nét mặt sáng sủa nhẹ nhõm rất hay cười, trong thuyền bà ta chỉ có những lồ không. Bà ta đứng dưới thuyền gọi tên từng người trên tàu. Bố tôi cũng bước ra: Chào cô Nguyệt. Thế nào? Xây nhà chưa? Chào thuyền trưởng. Làm ăn ngày một khó khăn. Lấy đâu tiền mà xây nhà. Thuyền trưởng có chiếu cố cho em đâu. Chú Hồng cười: Chiếu cố đi thì phải chiếu cố lại, quan hệ hai chiều mới bền chứ. Tất cả cùng cười. Người đàn bà có tên Nguyệt lại nói: Cho em lên tàu đi. Cứ bắt em đứng phơi nắng dưới này à? Hôm nay cho em bao nhiêu lồ? Bác Sĩ bảo: Nhiều lồ. Lồ to. Bọn anh chỉ đổi lấy một lồ bé tí của em thôi. Em đổi. Sẵn sàng. Có ngay. Mọi người lại cười. Cả bà già đứng trên thuyền mít cũng cười. Trong khi thả thang dây thì đổi cá lấy mít, lấy dứa đã. Đổi mít, đổi dứa không phải dùng thang. Hai lồ cá vụn (đã chuẩn bị sẵn, để ngay ngoài be) chỉ đổi được hai quả mít chục quả dứa và mươi quả tai chua. Người dưới thuyền cứ đứng dưới thuyền. Cả dòng dây chuyền qua be, mít dứa tai chua kéo lên qua be. Lổ đựng hoa quả là lổ sạch. Tôi chưa thấy ai mua bản đổi chảc như vậy bao giờ. Người mua cũng như người bản không cần biết mặt hàng mình mua tốt xấu ra sao. Rất nhanh mặt nước biển chung quanh tàu đã nổi lềnh bềnh những vỏ mít chỉ còn toàn xơ nhựa loang thành vảng, những miếng vỏ dứa vạc sâu cho hết mắt. Và cũng rất nhanh bà bản hoa quả chèo thuyền vào bờ. Đó cũng là lúc thang dây đã được thả xuống thuyền. Cô Nguyệt nắm thang dây trèo lên. Bốn năm bàn tay giơ ra đỡ cô nhảy từ trên be xuống mặt boong. Bố tôi, chú Hùng vẫn ở trên buồng lái. Trừ bác Suất, bác Nhớn cấp dưỡng và vài người nữa, tất cả vây quanh cô Nguyệt. Người nắm tay cô. Người vỗ vai cô. Cô cười với tất cả. Rồi cô bảo: Thôi. Các anh giao cả cho em đi. Tối em ra. Cần cẩu hoạt động. Nắp hầm cả vuông bằng gỗ dày và nặng bịt thép được cẩu lên rồi đặt xuống mặt boong đánh rầm. Nhiều người nhanh thoăn thoắt xuống hầm. Những lổ cả được đưa lên. Mười tám lổ tất cả. Bác Sĩ bảo mới đánh mấy ngày được ít nhưng toàn tươi ngon đấy. Cô Nguyệt thì chê cả bé cả xấu. Bác Sĩ cầm con cà mối nâu to đùng giơ lên: Của em bé thì có. Của bọn anh to thế này còn chê bé, đòi to đến đâu nữa. Tất cả hau háu nhìn vào cô Nguyệt. Cô Nguyệt đỏ rừ mặt, phát vào vai bác Sĩ: Phải gió cái nhà anh này. Rồi hai người vào trong cabin bác Sĩ đóng cửa lại. Chắc là để giao tiền. Chú Hồng nhìn cái cửa gỗ phoóc mi ca đóng chặt nói: Lãi nhất là bố Sĩ nhọ. Lẽ ra bố ấy chỉ được năm mươi phần trăm định suất. Chú Quẹn còn bảo: Không được phần trăm nào cũng lãi rồi. Tất cả cùng cười. Hai người đóng cửa trong phòng không lâu. Cô Nguyệt mở cửa bước ra. Tôi tò mò nhìn vào: Bác Sĩ đang nằm bò trên giường lúi húi viết gì trên một tờ giấy, bên cạnh là một xếp tiền. Một lúc sau từng người một vào nhận tiền bán cá. Rồi bác Sĩ cầm tiền lên buồng lái. Không cần lên theo, tôi cũng biết bác đưa cho bố tôi và chú Hùng lùn. Tôi hoang mang quá. Không hình dung được việc cả tàu bán cá như vậy. Mà bán rất tự nhiên. Rất công khai. Chẳng phải suy nghĩ đắn đo. Không phải bàn bạc. Nhận tiền cũng vậy. Bây giờ tôi đã hiểu những đồng tiền bố đưa cho mẹ là thế nào rồi. Không phải tất cả là đồng tiền mồ hôi, đồng tiền lương thiện. Quyển sách, bộ quần áo, đôi dép của tôi và cái Ngàn đẹp hơn những đứa bạn cùng lớp là nhờ những đồng tiền bán cá này. Cả căn nhà cũng vậy. Việc này đã diễn đi diễn lại bao lần rồi. Từ bao giờ? Và vẫn còn tiếp diễn. Từ hôm ấy giữa tôi và bố tôi có một khoảng cách chứ không còn như trước nữa. Tôi quan sát bố, ngẫm ngợi, vừa không hiểu vừa quý lại vừa thương. Bố làm việc ấy vì chúng tôi, vì mẹ. Tất cả những người trên tàu vừa bán cá của nhà nước, đút tiền vào túi cũng đều vì gia đình, vì vợ vì con. Tôi bỗng nghĩ đến con chim bói cá. Mọi người trên tàu cũng giống như con chim bói cá hôm qua. Vất vả kiếm ăn nuôi đàn con nhỏ.
Hết nghĩ đến con chim bói cá tôi lại nghĩ đến bác Sĩ, đến mấy đứa con bác mà bác đã kể cho tôi nghe. Bắt đầu từ việc uống chè. Bác Sĩ uống chè rất đặc. Cái ca pha chè của bác có khi bã gần đầy. Nước đặc quánh. Tôi không bao giờ dám uống chè của bác. Chát săn cả môi, sít lưỡi. Mỗi khi bác về quê là mang theo hàng cân chè. Cả xóm đẽn uống. Khách đến ngồi giường uống chè, xem tivi. Chỉ sợ sập giường. Bác bảo vợ con bác rất chiều bác. Đám con bác cứ thứ bảy là đứa lớn cõng đứa bé ra ngõ đón bố. Bảy đứa tất cả. Bác đọc tên từng đứa, đọc đi đọc lại mà mãi tôi không nhớ nổi. Không nhớ tên. Không nhớ đứa nào là chị, đứa nào là anh, đứa nào là em. Chỉ đến khi chú Hồng cao giọng ngâm như ngâm thơ, tôi mới nhớ. Nhập tâm ngay kể cả thứ tự lớn bé trai gái: “Tú, Tình, Đức, Độ, Lý, Loan, Đô”. Tú là cái Tú, Tình là cái Tình. Thằng Đức, thằng Độ, cái Lý, cái Loan, thằng Đô. Đọc xong câu thơ, chú Hồng nói: Kết bằng Đô. Hay! Đô là đô la. Có hướng đi lên.
Bác Sĩ còn kể khi ngủ thì cái Lý lên năm một bên, cái Loan lên ba một bên, hai đứa sờ hai ti. Thằng Đô lên một ngủ với mẹ. Bố về, bố chiều, lại có quà. Hộp sữa, cân bánh, cả tiền nữa. Vợ bác rất tằn tiện. Nghiêm. Có hộp sữa bác giai cho cũng chờ bác giai về mới ăn. Hoặc bán cho con lấy năm nghìn. Bác Sĩ cười bảo: Lũ trẻ nhà bác có vốn riêng. Tiền bố cho chứ ai. Nó đòi ăn sữa ăn kẹo. Cho ăn rồi vẫn đòi. Trẻ con nó thế. Thấy còn là đòi. Hết thì thôi. Thế là mẹ bảo con: Mày ăn tao bán cho hộp sữa. Năm nghìn. Nó mua ngay. Rồi lại đục mời cả nhà. Bữa ăn, cả nhà chỉ có một con tôm he rim. Mẹ nhường con. Con nhường bố. Bác cười: Ai ăn thì ăn đi. Có mỗi một con tôm he, này mẹ nó vất vả nhất, ăn đi. Người ta đi đánh tôm thiếu gì. Bác gắp vào bát bác gái. Bác gái lại nhai cho dập ra rồi bón với cơm cho thằng Đô bé nhất. Phụ nữ là chúa hay nhường. Bác bảo vậy. Bác gái cũng giống mẹ tôi. Bữa cơm có miếng gì ngon lại nhường tôi, nhường cái Ngàn. Nếu bố tôi ở nhà thì nhường bố tôi. Bác Sĩ rất thương vợ. “Người phụ nữ là khổ. Nam giới đã khổ nhưng phụ nữ còn khổ hơn nhiều”. Bác thương bác gái, thương thật lòng, nhưng sao bác lại đóng cửa với cô Nguyệt. Chỉ giao tiền làm gì phải đóng cửa. Chắc chắn đã có một chuyện gì xảy ra. Mọi người trên tàu đều biết. Cả bố cũng biết. Tôi nghi ngờ những điều bác Sĩ nói về tình cảm của bác với bác gái. Từ bây giờ một khoảng cách cũng đã có giữa tôi và bác. Không còn tin vào những điều bác nói như trước nữa. Bác và cả bố, không giống như tôi vẫn nghĩ. 
Đại thắng, hai người tám chai rượu thuốc về nhà Lê Mây.
Nhà Lê Mây ở khu Bãi Cát, trước đây là trận địa pháo cao xạ. Bây giờ chẳng còn dấu vết gì của một thời bom đạn, của những pháo thủ đã hi sinh, của những nòng pháo ngụy trang chĩa lên trời, những ra đa quay bốn phương dò bắt tín hiệu, canh giữ vùng trời. Chiến tranh qua lâu rồi. Trên mảnh đất này, những mái nhà tranh đã mọc lên như một xóm nghèo. Nhà nọ cách nhà kia bằng một hàng rào rau ngót, rau mồng tơi, gà nhà này sang vườn nhà khác bới và đạp mái. Ngọn mướp bò cả vào cửa sổ, tay mướp xanh quấn từng vòng chấn song cửa bằng róc. Cách đây mấy năm, thời còn bao cấp cũng có một hai nhà gạch, mái ngói, niềm mơ ước của bao người. Nhưng giờ đây không phải những mái ngói nhà một tầng, những căn nhà mà ta vẫn gọi là cấp bốn như thế nữa. Nhà hai tầng, nhà ba tầng vươn cao trên trời xanh ngạo nghễ, đón gió bốn phương. Đó là những nhà có người đi tàu vận tải đông lạnh nước ngoài, nhà của những người thuộc phòng kinh doanh (một phòng mới lập ra khi ông Thắng về làm giám đốc thay ông Trần Hữu Bằng) chuyên thu mua và xuất khẩu sắt vụn, gỗ bạch đàn, những công việc chẳng liên quan gì đến con tôm con cá. Ngôi nhà to nhất khu Bãi Cát là của một người thuộc phòng này chứ không phải của người đi tàu vận tải nước ngoài. Quán. Quán Mèo. Cũng chẳng ai biết Quán Mèo từ đâu đến, vào làm xí nghiệp từ ngày nào, chuyển về phòng kinh doanh từ bao giờ, nhưng giờ đây ai cũng nể Quán Mèo. Quán Mèo như từ trên trời rơi xuống đúng lúc cần có Quán. Một cái biệt thự ba tầng, với khuôn viên bao quanh, với những con béc giê to lớn, đuôi cúp, tiếng sủa ồm ồm. Quán nuôi béc giê cho đúng mốt, cho vui thôi, bảo vệ ngôi nhà này là hai thanh niên gầy gò, lừ đừ chậm chạp, mắt long lên sòng sọc trên khuôn mặt nhò nhọ bẩn thỉu tái bủng thoạt nom cũng đã sợ rồi. Đúng là dân nghiện trăm phần trăm. Chỉ Quán mới có thể giải quyết nổi những vụ việc rắc rối khó khăn nhất trong việc xuất khẩu gỗ, xuất khẩu sắt vụn. Một đoàn người phóng xe máy ầm ầm vào sân xí nghiệp, dẫn đầu là một phụ nữ xinh đẹp, quần áo bó, hai tay áo xắn cao, bắp tay phải bị chém, vết sẹo mang hình cái lưỡi, nói cho dễ hiểu đó là một chữ V mà đầu nhọn là ở cổ tay, sát chiếc vòng ngọc, rồi xòe ra chạy lên bắp tay. Nhìn vết sẹo, người ta nghĩ đến ngay một nhát dao lóc vào thịt, sát xương róc ngược từ cổ tay lên khuỷu tay mà rùng mình. Khoác trên người cô là chiếc áo mút xơ lin hoa màu thẫm, mỏng tang tương phản với chiếc quần bò Levi’s mài bạc trắng hai đùi và phía sau mông. Tất cả bó chặt càng làm nổi thân hình chắc nịch của cô. Mặt đẹp, thân hình đẹp, quần áo đẹp, chiếc vòng ngọc bự, môi tím, móng tay nhuộm bạc, và vết sẹo được may rất khéo bám trên bắp tay trần, dấu tích của một trận thư hùng sống mái nào đấy, đẹp hơn mọi thứ trang sức cô đeo trên người, một thứ siêu trang sức, tất cả nói rằng cô là người của thời đại, không dễ gì bắt nạt, hơn thế, phải e dè kiêng nể. Cô xông vào phòng kinh doanh. Theo sau là một thanh niên lực lưỡng, vệ sĩ số một của cô, còn mấy thanh niên khác đứng chờ ngoài hành lang. Cô yêu cầu phải tính lại chất lượng sắt vụn cô nhập cho xí nghiệp. Trưởng phòng kinh doanh giải thích, cô không nghe. Trưởng phòng điều độ, một người có tài thuyết khách và có quen biết cô sơ sơ anh anh em em với cô ngọt xớt, cô không nghe. Anh chị em trong phòng kinh doanh bỏ ra ngoài hết. Để mặc trưởng phòng với cô. Tổng giám đốc biết chuyện không những không xuống, còn đóng chặt cửa phòng. Tình thế thật nguy nan thì may quá, Quán Mèo ở đâu về. Quán Mèo ở đâu đi Mazda về. Chào cô em! Sao? Cái gì mà ầm lên thế? Rất tự tin và bề trên, cái anh chàng mới mấy năm trước còn cù bất cù bơ, lang thang đói rách và chưa học quá lớp bảy kia đã thuyết phục được cô, khi tiễn cô ra cửa còn cười rất tươi:
- Anh đã cứu em bao nhiêu lần, em phải nể mặt anh chứ. Đấy là anh chưa kể số sắt của em có lẫn hơn chục quả lựu đạn mỏ vịt còn nguyên kíp đấy. Trước khi đưa xuống tàu, may anh phát hiện ra kịp chứ không thì khốn. Nó mà nổ ở dưới tàu chỉ có sập tiệm, vào nhà đá là cái chắc.
Chỉ Quán Mèo mới thuyết phục được cô, cũng như chỉ Quán Mèo mới mua được chiếc cần cẩu chân đế còn mới tinh chưa lắp ráp của Cảng nặng hàng mấy chục tấn rồi thuê xe chuyên dùng chở về xí nghiệp mà không sợ bị ách lại, và thuê thợ phân xưởng cơ khí sửa chữa đem chai gió cắt chiếc cần cẩu còn nguyên nước sơn ấy ra thành từng khúc nhập vào sắt vụn. Quán Mèo dặn những chàng lái xe trong xí nghiệp chở sắt vụn trên đường, công an có làm luật thì cứ bảo xe của Công ty Thủy sản Biển Đông, chở cho anh Quán Mèo đây. Mới đầu lái xe không tin nhưng rồi tất cả đều thấy đấy là một câu thần chú màu nhiệm. Không ai biết vì sao Quán Mèo có thể làm được những việc tài tình như vậy. Và tất nhiên Quán Mèo tiền nhiều như nước Sông Đà. Thời gian ai là chủ sở hữu một con Đê Đê (Honda DD) có thể coi khinh tất cả thiên hạ, Quán Mèo đã chơi ô tô rồi. Có lẽ Quán Mèo là người đầu tiên trong thành phố mua ô tô. Một chiếc Mazda đã qua sử dụng nhưng còn rất tốt. Như ô tô của giám đốc. Chắc chắn Quán là người đầu tiên trong thành phố bỏ ra gần chục cây vàng mua một bộ dàn đĩa hình laser. Quán biết giá trị của mình. Biết không cần chơi với những ai cũng như biết phải quan hệ tốt với những ai. Cánh đi tàu nước ngoài, Quán cũng chỉ xã giao đôi chút, còn cánh đánh cá, Quán Mèo chẳng buồn nhếch nửa nụ cười mỗi khi gặp họ, mặc dù cùng trong một xóm. Nên chẳng mấy người ưa Quán. Quán giải thích chuyện ấy theo cách của Quán: Họ ghen ghét đố kỵ với sự giàu có của Quán. Kệ họ. Trong cảnh giàu sang, Quán thương họ, thương đám chúng sinh nghèo đói, nheo nhếch hai tay vày lỗ miệng, chạy bữa sáng lo bữa tối. Chẳng ai biết Quán giàu đến đâu. Chỉ biết tổng giám đốc cũng trọng nể Quán lắm. Tổng giám đốc là người ưa sạch sẽ, tôn trọng nội quy, nếp sống văn minh. Ai vất đầu mẩu thuốc lá ở cầu thang, trên hành lang là chết với giám đốc. Các ông chỉ có mỗi việc vất đầu thuốc vào thùng rác thôi cũng không làm được à? Mà có phải đi đâu xa cho cam. Chỗ chiếu nghỉ cầu thang nào tôi cũng cho đặt một cái chứa rác tự động gửi mua tận thành phố Hồ Chí Minh chỉ lấy chân ấn vào là xong. Công lên việc xuống gì? Tôi hoàn toàn không hiểu được các ông. Mấy ông mà sang Thụy Sĩ có bán nhà đi cũng không đủ tiền nộp phạt vì tội vất rác ra đường!
Tổng giám đốc không hút thuốc và tất nhiên không vất đầu thuốc lá xuống cầu thang. Ây thế mà một lần từ tầng trên đi xuống, giữa chừng tổng giám đốc gặp Quán Mèo từ dưới đi lên, Quán Mèo rút bao Ba số trong túi ra mời. Sếp cầm điếu thuốc. Quán Mèo lấy một điếu cho mình sau khi đã vất mẩu thuốc trên môi xuống cầu thang, bật lửa cho sếp châm thuốc, rồi châm cho mình và đi lên gác. Chờ Quán đi khỏi, tổng giám đốc lẳng lặng cúi xuống nhặt đầu mẩu thuốc của Quán, đi ngược lên chiếu nghỉ vất vào sọt rác và cũng vất luôn điếu thuốc gần như còn nguyên Quán Mèo vừa mời vào đó. Tất cả sự việc không qua được mắt cô Phòng văn thư đang đứng ở hành lang tầng trệt. Cô Phòng đã kể lại cho Lê Mây nghe sau cái lúc Lê Mây quen thói luộm thuộm lính tráng trên tàu vất đầu mẩu thuốc ra hành lang và bị giám đốc chấn chỉnh. Cô Phòng bảo: Sếp chỉ nể mỗi Quán Mèo thôi. Với con Thi nữa. Nó làm phòng xuất nhập khẩu, chồng nó đi tàu nước ngoài, chắc có quà đậm. Tết vừa rồi chẳng thấy tổng giám đốc thăm ai ở nhà A. Cả dãy nhà A bao nhiêu người, phó tổng có, thuyền trưởng có, chiến sĩ thi đua có, giám đốc chỉ chúc tết mỗi nhà cái Thi Hải. Thi là cô Thi, nhân viên phòng xuất nhập khẩu vừa trúng một quả móc nối với một đơn vị trong thành phố xuất lợn móc hàm và lợn sữa đi Hong Kong. Còn Hải là chồng Thi, dân cơ công đi tàu 19 mười mấy chuyến rồi. Hết Sing, Hong Kong, lại Nhật.
Thấy chồng và bạn lấy trong túi ra tám chai rượu thuốc đặt lên bàn, chị Bấm ngơ ngác:
- Hai ông đi đâu về? Ôm đau gì mà nhiều thuốc thế?
Quân trả lời thay Mây:
- Ốm đau gì đâu. Anh em tôi khỏe như vâm. Thèm rượu quá mà nhẵn tiền. Kéo nhau lên y tế xí nghiệp khám bệnh, mang về uống đấy.
Mây sốt sắng:
- Bà có gì làm nhắm không?
- Chả còn gì. Có mấy quả trứng gà. Con gà mơ mới đẻ. Năm sáu quả.
- Con gà mái nâu chưa đẻ à?
- Chưa.
- Bắt con gà nâu.
Chị Bấm kêu lên:
- Không được. Của thằng Sĩ đấy. Cả nhà chỉ có hai con gà của hai đứa. Chốc nữa chúng nó đi học về bắt đền chết.
Hai con gà kế hoạch nhỏ của hai đứa con trai xin ông bà ngoại từ quê mang ra lúc mới xuống ổ. Thằng Lê Chí Dũng và thằng Lê Chí Sỹ bắt bố làm ngay cái chuồng gà. Mây bỏ ra đúng một ngày từ sáng đến tối làm cật lực mới xong. Xây bằng gạch pa panh cẩn thận. Chuồng hai tầng. Tầng trên nhốt gà, tầng dưới chứa phân gà. Hai đứa chăm hai con gà như ngày trước hai vợ chồng anh chăm chúng vậy. Thi nhau bốc gạo trong thùng cho gà ăn. Cả tép trong rổ chị mới đi chợ về. Nhìn hai cái diều bé tí tròn căng như sắp nứt mà hai đứa vẫn bốc gạo rồi xòe tay ra cho chúng mổ ngay trong lòng bàn tay, chị Bấm quát con:
- Thôi. Không nó bội thực đấy.
Lại nữa, những khi có con cá kiếm được từ xí nghiệp mang về, chị Bấm bắt hai đứa nhốt gà lại, không cho chúng mổ ruột cá trên thớt lúc chị đang làm cá. Ruột cá đông lạnh, gà còn bé thế này ăn vào là chết ngay.
Mây ngần ngừ. Tính làm sao khoản thức nhắm bây giờ. Chẳng lẽ lại đạp xe vào xí nghiệp, xuống xem tàu nào còn cá kiếm lấy một con mang về. Nó ê chề quá. Mà cũng chẳng còn tàu đánh cá nào đỗ bến. Ông Chơn đi chưa về, thằng Bôn cũng đã tách bến một tuần rồi. Thằng Uy mới đi hôm qua... Anh rất muốn thịt con gà mái nâu. Nhưng anh thương thằng Sĩ, thằng con trai bé của anh. Những ngày tàu cập bến kết thúc chuyến biển, anh hay nắm tay thằng Sĩ, hai bố con đi dung dăng dung dẻ ở xí nghiệp. Dắt nó ra căng tin. Bố làm chai bia. Con lon xê vần nắp. Hai bố con một đĩa thịt bò xào. Dắt con xuống tàu. Thằng bé con sung sướng nhảy nhót, khiến bác Xin, thủy thủ trưởng cứ phải chạy theo, không dám rời nửa bước, cho đến khi anh quát, nó mới chịu lên cabin. Nó xoay cái vô lăng gỗ. Nó nắm tay chuông. Chỉ có bố cháu với các thuyền phó mới được cầm cái này thôi cháu ạ. Cháu có thích làm thuyền trưởng như bố cháu không? Thủy thủ trưởng chỉ vào cái tay chuông bảo nó. Nó cười: Cháu thích. Xin bảo anh: Nó thích làm thuyền trưởng đây anh Mây này. Thích thì phải cố học. Không học chỉ làm thủy thủ như bác đây khổ lắm. Làm thuyền trưởng như bố cháu mới sướng. Mây bảo Xin: Không. Hai thằng con, tôi nhất định không cho đứa nào đi đánh cá. Xin cười: Nghề của anh em mình khổ thật. Vất vả, sóng gió lênh đênh, nguy hiểm, mà cứ rời tàu là hết tiền, về hưu lên bờ tay trắng vẫn hoàn tay trắng. Mây cười ôm lấy thằng con vào lòng, cọ râu vào má nó: Lớn lên làm nghề khác, nghe không. Và nói với Xin: Nghề này đời cha đi làm, đời con đốt sách.
Nghe chuyện, thằng Sĩ chẳng hiểu gì. Nhưng chắc nghe bác Xin nói, nó càng tin bố là người có học. Mây nghĩ vậy và cười. Anh nhớ đến một ngày hai vợ chồng đạp xe về quê ngoại. Bố mẹ anh đã mất từ lâu. Xứ Quảng quá xa, rất ít khi anh về thăm quê. Giờ đây quê vợ là quê anh. Bố mẹ vợ, anh coi như bố mẹ đẻ. Anh đi biền biệt. Một mình chị Bấm không sao trông nom xuể được cả hai đứa con. Cai sữa cho thằng Lê Chí Sĩ xong, anh chị phải gửi nó về quê. Ông bà ngoại quý cháu như vàng. Căn nhà hai ông bà già từ nay có tiếng khóc tiếng cười, tiếng bi bô con trẻ. Nó ở với ông bà cho tới khi nó đến tuổi vào lớp một. Khi nó lên năm, để chuẩn bị cho cháu ra phố đến trường, mỗi ngày ông dạy cháu dăm ba chữ cái, ghép vần. Tháng nào anh chị cũng về thăm quê. Khi anh, khi chị, khi cả hai và thằng Lê Chí Dũng. Mỗi lần về, lại thấy thằng Sĩ một lớn, một khác. Nhất là khi nó mặc cái áo thủy thủ có sọc xanh. Anh dắt tay nó đi quanh sân, ra vườn. Hai bố con hái lá chè xanh. Chè trồng ở bờ rãnh sát những cây chanh. Sĩ dặn bố:
- Khéo không lá chanh lẫn vào thì hỏng đấy bố ạ. Không uống được đâu.
Bàn tay thô ráp nhẹ nắm bàn tay bé xíu của con:
- Sao con biết?
- Bố cứ thử đun một nồi nước to, bỏ cái lá chanh vào mùi nó ra hết. Con có học con biết.
Rồi nó ngước mắt nhìn anh:
- Bố có học không hở bố?
Một lúc sau:
- Mẹ có học không hở bố?
Anh trả lời bố có học, mẹ cũng có học và thật ngạc nhiên và sung sướng biết bao khi nó đọc được truyện tranh Thánh Gióng cho anh nghe. Có cái bản đồ Việt Nam treo trên vách, nó và anh tranh nhau đọc những tên ghi trên bản đồ. Anh biết tất cả là nhờ công lao của bố vợ.
Một ông hàng xóm sang chơi thấy hai bố con bảo: Bố Sĩ đấy hở? Mấy cháu rồi? Khi biết anh được hai thằng con trai, ông khách nói: Đẻ hai đứa con gái nữa cho nó cân. Anh chị cùng cười, nhưng thằng Sĩ trả lời: Hết trứng rồi còn đâu mà đẻ.
Cái thằng thật đáng yêu. Nó là tất cả nguồn vui của anh. Anh yêu nó hơn mọi thứ trên cuộc đời này. Đi biển về, anh chỉ ngủ với chị một tối trọn vẹn, còn những tối khác, chị chỉ được chiếm hữu anh một khoảng thời gian vừa đủ rồi anh sang với nó. Để được ôm nó, nắn chân nắn tay nó. Cho nó gối đầu tay. Nó ngủ là phải gối đầu tay. Ê ẩm. Anh càng phục chị. Mới cho nó gối đầu tay một lúc anh đã thấy ê ẩm, đã phải chờ nó ngủ say rồi khẽ khàng rút cánh tay ra, mà chị thì quanh năm suốt tháng, từ lúc đẻ nó đến giờ. Không, không thể thịt con gà mái nâu được. Nhưng giữa lúc ấy, Quân đã tóm được con gà mái nâu. Hai con gà rất dạn người. Chỉ việc ngồi xuống chìa bàn tay ra miệng kêu túc túc túc túc là nó đến ngay. Thì từ lúc mới nở đến giờ chúng toàn được hai thằng Lê Chí Dũng, Lê Chí Sĩ cho ăn cách ấy.
- Dao đâu? Ngồi thụp xuống sân, Quân Rỗ ngước mắt nửa đùa nửa thật hỏi Mây.
Mây đau khổ:
- Không được đâu. Của thằng Lê Chí Sĩ. Để nói bà ấy làm mấy quả trứng vậy.
- Không được. Ai lại ăn trứng gà của nó. Không được chứ. Sai chứ.
Và bắt chước giọng mếu máo của thằng bé con: “Chú Quân ăn mất trứng gà của cháu rồi”. Nó ô danh. Không được chứ! “Thế nhà không còn đồng nào à?”
- Xoắn. Còn mấy chục, chiều nay mang đến trường đóng tiền học cho hai đứa là vừa.
Quân tư lự:
- Bất khả kháng nhỉ.
- Bất khả kháng. Mai, tiền ăn sáng cũng chưa nghĩ lấy đâu ra đây.
Con gà mái nâu được thả vẫn quanh quẩn bên bàn tay Quân. Anh đứng lên:
- Thôi được. Vào nhà. Nhậu. Tôi đã nghĩ ra món nhắm rồi.
Hai người vào nhà. Quân nhìn lên tường và bước tới chỗ hai cái đinh thuyền buộc dây treo võng, cái võng làm bằng một mảnh lưới ni lông xanh:
- Nhà có kìm không.
- Có. Làm gì?
- Đem ra đây.
Cầm cái kìm chủ nhà đưa, Quân cởi dây buộc võng, lấy kìm gõ ngang cái đinh, lay đi lay lại rồi nhổ. Một chiếc. Hai chiếc.
- Chốc tôi đóng lại cho ông.
Ra vại nước rữa sạch. Trở vào, lấy mũi dao gậy xi, vặn nút một chai phong tê thấp, rót ra hai chén uống nước cáu bẩn:
- Uống rượu mút đinh. Ngon lắm. Làng tôi nhiều người uống rượu kiểu này. Khởi xướng là ông Buồi Gật. Cười cái gì. Tên nghiêm chỉnh đấy. Cả làng đều gọi như vậy. Làng nhiều ông Buồi lắm. Bất kỳ ai có con trai đều gọi là Buồi. Ông Buồi. Anh Buồi. Buồi Gật là con ông Buồi Gân. Đến khi Buồi Gật làm trương tuần mới được gọi là Trương Gật. Còn con ông Trương Gật là Gù có con trai mà vẫn bạch đinh nên vẫn gọi là Buồi Gù. Tôi đã uống kiểu ông Buồi Gật rồi. Ông thữ xem. Được lắm. Đinh nó tanh tanh như mút cái xương cá ấy ông ạ. Ông lấy mấy quả ớt ra đây. Nào. Dô.
Cứ như một bữa tiệc linh đình. Chị Bấm từ vườn trở vào tròn mắt kêu lên:
- Hai ông uống rượu kiểu gì thế này. Thôi. Để đấy. Chờ tôi tí đã.
Chị lấy xe đạp ra cổng và một lát sau trở về với một bọc lá sen đựng trong túi ni lông: một túi thịt quay. Đổ thịt quay ra đĩa, chị bảo:
- Hai ông cứ ăn uống từ từ nhá. Tôi hái thêm nắm rau muống về xào.
Hai người uống và đều nghĩ rằng chỗ này là nữa suất tiền học phí rồi.
Quân bảo:
- Cứ yên tâm đi. Chiều tôi sẽ có tiền đóng học phí cho hai thằng. Tôi xuống tàu 19. Vay thằng Dân. Làm gì không được. Bà Bấm đâu. Vào đây nhậu với hai anh em tôi. Rau cứ để đấy. Đến trưa ăn với cơm luôn thể. Bà chị thật tuyệt vời. Bà Bấm muôn năm! Vợ ông Mây muôn năm!
- Công nhận bà ấy nhà tôi chiều tôi. Không chỉ chiều chồng mà còn chiều bạn của chồng nữa. Giàu vì bạn sang vì vợ. Như cái Hoa vợ thằng Huy ấy thật ô danh.
- Ông nói thế nào! Cái Hoa chiều thằng Huy hết mực đấy chứ. Chồng bảo ngủ với giám đốc là ngủ liền. Tôi hỏi ông: Có ai chiều chồng như thế không?
Cả hai cùng cười. Quân bảo:
- Mẹ kiếp. Vợ tôi mà chìu chồng như thế, tôi giết.
Có tiếng béc giê vọng tới, tiếng béc giê ngắt quãng,
vang vọng, sang trọng, quý tộc.
- Quán Mèo đấy. Thằng ấy phút chốc nên người. Không biết nó ở đâu dạt về xí nghiệp.
Quân Rỗ trừng mắt:
- Ông không biết nó à. Nó là thằng trông đầm tôm ở Hà Sơn chứ đâu. Sau thành một anh chị ở phố. Có dính đến ma túy. Thằng lái xe với thằng bảo vệ nhà nó trông đặc nghiện chứ còn gì nữa. Đệ tử của nó thời nó buôn ma túy đấy.
- Thế thì thế nào cũng lại về mo thôi.
- Còn lâu nó mới về mo! Cứ mỗi tàu sắt xuất đi là nhà sếp lại có thêm một thứ đồ. Lúc cái tivi, lúc cái tủ lạnh, lúc bộ dàn. Đấy chỉ là khoản anh em mình trông thấy
thôi. Phần phong bì mới quan trọng. Nó nuôi sếp tốt thế về mo làm sao được! Sếp cứ tưởng không ai biết gì, cứ bảo thằng cháu Hoan nhà tôi nó mới mua. Xì! Cứ làm như thằng Hoan nhà sếp làm ăn giỏi lắm ấy.
Mây lại nghĩ về thằng Hoan, con trai lớn giám đốc. Học hành dở dang. Tụ bạ bè bạn chơi bời. Giám đốc sợ quá vội cho đi học một lớp sơ cấp ngành boong rồi cho xuống tàu vận tải ngoại thương, đi nước ngoài hơn năm nay rồi, một việc như cái gai chọc vào mắt cán bộ công nhân xí nghiệp nhất là với những người kỳ cựu, xuống tàu từ thời còn vỏ gỗ, phá vòng vây thủy lôi mà đi, giờ đây vẫn hì hụi đánh cá và vẫn ngong ngóng chờ được làm hộ chiếu. Quân tiếp tục làm nhiệm vụ cung cấp thông tin:
- Thằng Hoan mua gửi về! Có mà gửi cái xác nó về. Rồi ông xem. Tôi nói có đúng không. Kỳ vừa rồi tàu tôi vào Sài Gòn chuyển tải đỗ cạnh tàu 19, sang chơi với mấy thằng bên ấy. Thằng Định cơ công, thằng Dân báo vụ, ông Nguyên thuyền trưởng. Lúc nào cũng thấy thằng Hoan đánh bạc. Anh em nói nó nợ mấy chục nghìn đô rồi. Thằng ấy sẽ nghiện ma túy. Tôi bảo đảm với ông thế. Anh em dưới tàu sẽ đưa nó vào ma túy.
Mây ngơ ngác không hiểu.
- Sếp ăn dữ quá. Chúng nó ức. Chúng nó sẽ đưa thằng Hoan vào ma túy. Một chuyến đi Hong Kong về được là bao. Sếp xuống gặp thuyền trưởng nói thẳng: Chuyến này tàu lo cho hai trăm triệu nhé. Ông Nguyên ngơ ngác: Báo cáo giám đốc... Chưa kịp nói hết câu, sếp đã bảo: Một con tàu chuyến này đi Hong Kong, chuyến sau đi Nhật, chuyến sau nữa đi Singapore mà không có lấy nổi hai trăm triệu thì đi làm gì. Để người khác đi. Trên bờ người ta đã lo hết cả rồi. Hải quan, công an, quản lý thị trường, lo hết. Lại còn hàng hóa, hợp đồng, thủ tục, không phải động chân tay. Hai trăm triệu chứ ba trăm triệu cũng phải nôn ra. Thế là anh em lại phải đóng góp. Đây chỉ là khoản đóng góp đột xuất thôi. Các chuyến khác thấp hơn nhưng vẫn phải bảo đảm chỉ tiêu.
- Chết. Chết. Mây lại thở dài. Cũng phải thôi. Sếp về đây là đã phải chi rồi. Bao nhiêu người nhăm nhe cái chức này nhưng sếp đánh bật ra hết. Tiền tấn. Chi dữ rồi. Phải hoàn vốn chứ. Lại còn phải tích lũy, còn phải tiếp tục thăm nuôi. Ông Nguyên xuống tàu làm thuyền trưởng cũng phải thu hồi vốn, cũng phải thăm nuôi. Đâu phải một mình sếp. Còn các phó giám đốc. Còn tổ chức. Còn công đoàn. Nghĩa là phải thu của anh em. Chỉ chết cánh chân đất. Chết thằng cu li lao động.
Quân cười:
- Còn lâu chúng nó mới chết. Có mình chết thì có.
Mây nghĩ đến giám đốc, đến dáng người thấp đậm, khuôn mặt đầy đặn vương trượng của giám đốc, đến những buổi họp cán bộ chủ chốt, đến hội nghị công nhân viên chức, sếp lên nói chuyện. Sếp toàn nói về những điều to lớn hệ trọng, về toàn tâm toàn ý xây dựng xí nghiệp, xây dựng chủ nghĩa xã hội, về năng động sáng tạo, về chống lãng phí tham ô, về phát huy tinh thần làm chủ, đấu tranh xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nói mà không hề ngượng nghịu, không hề vấp váp.
- Giá các ông ấy cứ ăn nhưng đừng giảng đạo đức cho mình thì dễ chịu hơn.
- Cái tài của các sếp chính là chỗ ấy. Có thế mới làm sếp được. Ông chưa biết đấy thôi. Đấy chỉ là một nguồn thu. Còn nhiều nguồn thu lắm. Thằng Quán Mèo chẳng hạn. Tháng trước nó mượn đâu được cái Mercedes, đem theo hai va li tiền đưa sếp với chánh văn phòng đi xuyên Việt. Nhất dạ đế vương. Thì chính chánh văn phòng nói tiếc quá không biết nó mang hai va li tiền mà tiêu. Thành ra chuyến đi chỉ tiêu của nó bốn chục triệu.
Chú thích:
1.  Ba si đế: Rượu.
2. Lộc: Rau thơm, lá non ăn kèm.
VI. 
Rượu cứ rót. Rượu thuốc ngăm ngăm nhưng cũng bừng bừng. Món thịt quay mềm, bì giòn tan. Khi chị Bấm mặt đỏ ửng bưng đĩa rau muống xào vào, Mây xúc động rưng rưng:
- Mình ngồi đây, uống với anh em tôi cho vui.
Quân cũng chèo kéo nhưng chị Bấm nhất định không ngồi, chị bảo còn phải nấu cơm trưa, hai thằng nhỏ sắp về rồi. Mây nhìn dáng đi ra đi vào tất bật của vợ mà thương quá:
- Bà ấy lấy tôi toàn là vất vả. Cái tivi cũng mới có tháng trước. Mình cũng chẳng có tiền mua. Một thằng lính của mình ngày trước đi tàu nước ngoài cho, giả tiền không lấy. Cũng chẳng riêng gì mình. Cả xóm này trước đây ai có tivi ngoài ông Quán Mèo. Cứ tối cả xóm đổ xô đến nhà Quán Mèo. Chỉ vài người lớn dám vào nhà nó. Còn toàn trẻ con. Cứ đứng cửa. Nó phải ra mời vào.
Chè nước. Lại cả thuốc lá nữa. Bọn này không hút. Chỉ hút thuốc lào. Xì bẩn cả nền đá hoa nhà nó. Về sau dáng chừng cu cậu sợ bẩn. Lại mất thời gian, mất tự do nữa chứ. Thế là sắp bảy giờ nó đã đem cái ghế kê giữa ngõ, đặt tivi lên, câu điện ra, rồi khóa cửa đi chơi. Trẻ con thì chưa Bông hoa nhỏ(1) đã ngồi dài ra cả rồi. Tôi chỉ nghe thời sự với cải lương. Bà vợ tôi thì phim. Bây giờ nhà nào cũng có tivi mới hết cảnh ấy. Tôi là thằng có tivi sau cùng. Một hôm thằng Ân đến chơi. Nó cho mấy trăm với chai rượu Ông cụ. Nó bảo nhà anh chưa có tivi à? Thế là nó cho một cái. Từ ngày có tivi vợ con không phải đi xem nhờ nữa. Cám ơn thằng Ân quá.
Rượu cứ rót. Rượu thuốc cũng say. Mây gục đầu xuống bàn. Một lúc sau ngẩng lên, chém mạnh tay vào mặt bàn, rồi cất giọng buồn rầu:
- Giám đốc không hiểu tôi.
Quân cười:
- Giám đốc hiểu đồng hương quá rõ nên đồng hương mới thế này đồng hương ạ!
Rồi nhìn ra cửa ngó trước ngó sau, thì thầm vào tai Mây:
- Giám đốc biết cả chuyện ông nhìn thấy giám đốc ngồi như Tây với cái Hoa đấy.
Mây giật thót, tỉnh hẳn rượu:
-  Chết mẹ. Thật không? Ai nói ông biết?
- Ông Nguyên chứ còn ai. Chính ông Nguyên thuyền trưởng tàu 19 chứ còn ai. 
Vụng Ngọc bốn chung quanh là núi đá. ơ Vụng Ngọc không nhìn thấy chân trời. Cửa vào rộng, trông về hướng nam. Đứng chắn ở cửa là một hòn núi đá đơn độc giống một chiếc hài nằm trên sóng vỗ. Bác Sĩ kể cho tôi nghe sự tích hòn núi đó. Nó tên là Núi Hài. Có một hôm các nàng tiên trên trời rủ nhau xuống biển tắm. Đã đến giờ phải về nhưng một cô tiên còn mải mê vui đùa bơi lội nên lên bờ sau cùng. Khi tất cả đã bay về trời, cô tiên này mới mặc xong quần áo và xỏ hài bay lên. Vừa bay thì một chiếc hài rơi xuống biển. Đã hết giờ, cô không dám quay trở lại nhặt hài. Chiếc hài đó là ngọn Núi Hài chơ vơ giữa biển, chắn sóng cho Vụng Ngọc. Từ trong vụng nhìn ra chẳng thấy chân trời đâu, chỉ có sóng biển xanh đập vào vách đá Núi Hài trắng xóa. Và sóng xô vào vách núi cửa vụng, dựng đứng, bắn tóe những bọt nước. Trong vụng rất nhiều tàu nhiều thuyền. Những tàu thuyền đánh cá tôm quanh đây đã tập trung cả ở vụng Ngọc. Biển động. Hôm qua sóng êm biển êm là thế mà hôm nay biển động. Đúng như bác Sĩ chú Hồng nói. Có những con tàu sơn xám cũ kỹ. Những con tàu như tàu của bố tôi nhưng không có càng xòe ra hai bên. Họ không đánh tôm. Có những con tàu rất to, sơn đỏ, cần cẩu như một cái cổng chào. Tàu nào cũng có những chiếc thuyền nan dập dềnh bên cạnh. Trên thuyền phần lớn là phụ nữ. Đó là những thuyền đi bản hoa quả, đi mua cả như hai chiếc thuyền đã đến tàu của bố tôi. Trong vụng còn có một loại thuyền nan nữa, loại thuyền không đi đổi hoa quả, mua cả, mà chuyên chở những người dưới tàu, từ tàu vào bờ, hoặc từ tàu này sang tàu khảc. Vụng rất rộng và êm ả. Nóng nữa. Ngoài kia gió là thế, sóng là thế mà trong này chỉ lăn tăn. Chú Hồng, bảc Suất, chú Quẹn, chú Đỉnh rủ nhau vào bờ. Thấy vậy tôi cũng đi theo. Tôi muốn biết ở cái bến xa xa với những mải nhà thâm thấp cây cối mọc nhiều kia có những gì. Và đằng sau những mải nhà ấy, đằng sau những cây cối ấy có gì nữa. Cả những ngọn núi đả nhấp nhô xanh đen phía xa. Nếu bây giờ không đi sẽ chẳng bao giờ tôi có dịp đặt chân đến. Thoảng một chút ngần ngừ. Bốn người nhìn nhau dò hỏi. Tôi không hiểu ra sao. Đã định không đi. May quả, chú Hồng cười, gật đầu. Rồi chú vẫy một chiếc thuyền nan. Chúng tôi tụt thang dây xuống thuyền. Cô lải đò quần ảo bạc phếch gầy gò đen nhẻm, tóc xơ xảc im lặng chèo. Chú Hồng bảo tôi:
- Taxi của thủ trưởng đấy mày ạ.
Chiếc “taxi của thủ trưởng” lướt đi khả nhanh, thẳng hướng vào bến. Gió mảt. Chú Quẹn phanh ảo bảo: Xuống đây còn đỡ. Trên quan tài sắt chảy mỡ ra. Thuyền cập bến, tất cả chúng tôi nhảy lên, leo một cái dốc xoai xoải là tới đường cái. Một con đường rải đả, phía vụng trổng nhiều cây còn phía trong là một dãy hàng quản có treo biển: Cà phê giải khảt, hàng cơm, cắt tóc, gội đầu thư giãn,... lèo tèo nhưng nó làm tôi ngạc nhiên, không ngờ ở một vụng hoang vắng ngoài đảo này mà cũng có nhiều hàng quản như vậy.
Cửa hàng nào cũng gọi chúng tôi. Gọi đúng tên từng người, tất nhiên là trừ tôi. Chúng tôi vào một quản cà phê giải khảt. Nóng quả. Không có điện không có quạt. Nhưng cốc nào cũng đầy ắp nước đả. Tôi nêu thắc mắc ấy với chú Hồng. Chú Hồng bảo: Mày cứ hỏi vớ vẩn. Đả cảc tàu thiếu gì. Ba cô gái trẻ mặc quần soóc bó từ phía trong bước ra. Em chào anh Suất. Em chào anh Hồng. Em chào anh Đỉnh. Em chào anh Quẹn. Em chào anh... anh gì nhỉ? Anh chưa biết tên. Bảc Suất bảo: Thằng con anh đấy. Nó còn đang đi học. Cả ba cô reo lên. Anh Suất có con lớn thế này rồi cơ à? Đẹp trai quả. Mà không phải rồi. Không được nói dối. Anh Suất làm gì có con trai. Bốn vịt giời chứ làm gì có con trai. Một cô vò đầu bảc Suất: Nói dối ai chứ nói dối chúng em sao được. Tôi xấu hổ quả, không dảm nhìn ai, lại càng không dảm nhìn cảc cô. Nhất là khi cảc cô vây quanh năm chúng tôi. Những chiếc ảo chẽn như nhô ra, những đôi chân trần cứ sảng lóa ngay trước mắt tôi. Và mùi quần ảo, son phấn... Tôi rất hối hận đã lên bến. Tôi đã gây nên một tình huống khó xử và chỉ muốn độn thổ đi cho rồi. Làm một hơi cạn cốc nước mảt, tôi đứng dậy:
- Cảc chú cảc bảc ngổi đây. Chảu đi ra ngoài một lảt. Nửa tiếng nữa chảu quay lại.
Và bỏ ra ngoài. Nửa tiếng. Tại sao tôi lại nói nửa tiếng. Tôi cũng chỉ có thể lang thang ở cái phố đảo này nửa tiếng là cùng. Xem ra cũng chẳng có gì. Với lại hình như nửa tiếng là thời gian cần thiết tôi vắng mặt ở cái quản cà phê giải khát ấy. Tôi đi mà không biết mình đi đâu. Đầu tôi vảng ù. Ấn tượng về các cô gái trẻ (chắc chỉ hơn tôi vài tuổi và không cao bằng tôi) vây quanh, mùi son phấn vừa lạ vừa thơm của họ như còn quanh quẩn bên tôi, bám vào người tôi, nói với tôi về một thế giới tôi chưa hề biết. Thế giới ấy đã gần tôi lắm. Tôi đã ngửi thấy hơi của nó. Thế giới ấy đang diễn ra trong quán cà phê giải khát tôi vừa bước ra. Tôi vừa đi vừa nghĩ trong mùi nước mắm ngào ngạt, mùi cá phơi được nắng thì có tiếng gọi tên tôi. Tôi quay lại: Chú Hồng. Chú Hồng chạy theo tôi: Thằng cu! Chờ chú. Hai chú cháu đi bên nhau chẳng nói một câu. Tự nhiên tôi đi sát vào chú Hồng vai chạm vai và ngước nhìn chú: Tôi đứng đến tai chú. Chú chẳng cao hơn tôi bao nhiêu. Thế mà mọi người nhìn tôi như một đứa trẻ con. Tôi cũng luôn nghĩ mình là một đứa trẻ con. Chúng tôi đi sâu mãi vào trong đảo. Đường vắt ngang sườn núi. Đi trên đường nhìn xuống thấy một thung lũng lúa đang lên xanh. Nhiều nhà dân mãi xa. Thấy xí nghiệp nước mắm. Thấy một công trường, có cả cần cẩu, xe ô tô và rất đông người làm việc. Chú Hồng bảo:
- Công trường xây dựng khu du lịch.
Tôi nói:
- Chú cháu mình về đi. Trưa rồi.
Tôi muốn nói “quá nửa tiếng rồi” nhưng lại thôi. 
Bữa rượu đang đến độ, nghĩa là hơi men bắt đầu ngấm, cuộc vui còn nhiều hứa hẹn, rượu còn gần bốn chai, gói thịt quay còn già nửa, món rau muống xào cũng vẫn còn thì Đay, Fa Ra Đay đến. Nhìn dáng người cao lớn, cái lưng cánh phản, khuôn mặt nổi những múi thịt, chiếc cằm lẹm bên dưới cặp môi mỏng dính của Đay, Mây và Quân đều thất vọng. Họ không muốn có ai ngồi vào mâm rượu với họ trong lúc này, lại càng không phải Đay. Dù Quân chưa bao giờ đi cùng tàu với Đay, dù Mây là thuyền trưởng còn Đay là máy trưởng kiêm bí thư chi bộ tàu Mây. Cả xí nghiệp ai chả biết Đay. Đay ngồi chỗ nào là tất cả mọi người ở đấy đều biến thành người nghe, chỉ một mình Đay nói. Bởi Đay luôn đúng, luôn biết tất cả. Không chỉ giỏi lý luận nhất khối tàu, Đay còn là nguồn cung cấp mọi thông tin trên giời dưới biển. Đề tài gì Đay cũng có thế chen vào và trở thành người dẫn dắt câu chuyện. Thậm chí việc khai thác là của thuyền trưởng, nhiều khi Đay cũng nhảy xổ vào góp ý. Mây ao ước có một máy trưởng như Cải bên tàu Bôn. Hơn chục năm làm máy trưởng, Cải chưa một lần chịu gãy chuyến biển. Và lúc nào cũng tận tình làm theo ý đồ khai thác của thuyền trưởng. Đay cũng hăng hái đấy nhưng còn lâu mới được như Cải. Đang mùa cá, mà Đay có công có việc bận ở nhà, y như rằng máy tàu còn nhiều chuyện, chưa thể đi được. Phải ít nhất ba ngày nữa bố ơi. Còn cái ắc đỡ li hợp, bình thường năm ngày, làm ngày làm đêm cũng ba ngày. Khi cái bơm nước làm mát, khi mấy cái răng gạt cáp... Tàu sửa chữa, Đay cứ khoán mặc anh em trên phân xưởng, phóng xe đi đâu miết. Mây đã có lần góp ý với Đay là phải quan tâm đến anh em thợ một chút, đối với lính tráng phải niềm nở ân cần. Nó mượn cờ lê, nó mượn cái ống tuýp để bắt vào cờ lê mình phải lấy cho nó, nó mượn cưa, có ngay. Đay vặc:
- Quan tâm thế nào? Cười à? Chào anh à? Ừ thì cười, chào. Có khi nó còn chửi cho đấy. Trách nhiệm nó sửa thì nó phải sửa.
Mây nhẹ nhàng:
- Trách nhiệm của nó là đúng rồi. Còn vấn đề tình cảm nữa. Tôi nói ví dụ như cái gối đỡ. Đáng lẽ sửa thế này. Nó lại sửa thế này. Bảo nó. Nó bảo tìm tổ trưởng mà nói. Tổ trưởng bảo làm thế tôi làm thế. Tìm được mấy ông tổ trưởng mất nửa ngày. Thế nhưng thông cảm với nó, nó sửa ngay.
Đay xùy một cái rõ dài:
- Ông cứ nịnh chúng nó, chúng nó hư đi. Chúng nó làm thì chúng nó có lương. Cứ đúng nguyên tắc tôi làm.
Thấy Đay, cả hai cùng a lên một tiếng và cùng săm sắn: Ngồi đây. Ngồi đây. Không hẹn mà gặp mới thích. Chị Bấm vội lấy thêm bát đũa. Không khách khí, Đay ngồi xuống mâm ngay:
- Đang thèm rượu, hai hôm nay không có tí gì vào họng. Ừ. Có lẽ mình cũng phải cầm quyển y bạ lên y tế mới được. Sáng kiến của ông Mây hay ông Quân đây.
Chưa bao giờ Mây thấy Đay có khuôn mặt rạng rỡ tươi vui như vậy. Vui từ trong lòng vui ra, một niềm vui không giấu được. Có chuyện gì thế nhỉ? Nhưng thôi, không hỏi. Hãy để Đay tự nói ra. Đặt chén rượu đã uống cạn xuống mâm, Đay ngước cặp mắt sáng ngời nhìn hai người bạn:
- Khốn nạn đã biện cái lễ lên giám đốc xin tranh thủ đi chuyến nữa tăng thêm sản lượng cho xí nghiệp mà không được. Rách quá.
Quân cười:
- Cái lễ của các ông làm ô nhục cả giám đốc ra. Giám đốc đâu nhận cái lễ như vậy. Nhưng mà này tôi hỏi thật nhá. Ông Mây nói ông nhận với giám đốc là có ăn cắp cá, nhưng ông ăn cắp có văn học. Thế là thế nào? Ông nói cái ăn cắp có văn học của ông như thế nào cho tôi nghe.
Tất cả cười. Chị Bấm vừa lấy cái đĩa đặt nắm rau kinh giới mới rửa còn ướt đẫm nước từ sân bước vào cũng không nhịn được cười. Quân tiếp:
- Mà sao ông lại buổi dải thế?
Chị Bấm đỏ rừ mặt vì câu nói tục tĩu của Quân. Chưa trả lời ngay, Đay làm tiếp một chén rượu nữa rồi nhăn mặt:
- Tôi không thích món rượu thuốc này. Bí quá phải uống thôi. Còn cái ăn cắp có văn học là như thế này: Đại loại như bảo thằng cấp dưỡng chiều nay anh không ăn cơm tàu, làm cho anh mấy khúc cá ngon anh mang lên phố ăn trên ấy. Thế là báo cáo hai anh, một chị cá song đầu nó to phía trên bụng thì rỗng, tôi lấy mấy khúc dưới, khúc dưới chứ không phải khúc đuôi, nó đã sỏi vẩy rửa sạch rắc muối đàng hoàng chỉ việc gói ni lông đem đi thôi. Bảo vệ có hỏi cũng cứ nói thế với lại chính sách nào đi bắt cá muối. Cũng có khi bảo thằng thợ máy nhặt mấy con cá ngon sỏi vẩy cẩn thận mổ bụng xắt khúc tinh tươm, làm vài con mực nang to lột mai rữa ráy sạch sẽ cho vào túi xách về.
Tất cả đều công nhận đúng là cách lấy cá của Đay có văn học. Đay trợn mắt:
- Cứ thế cho nó đàng hoàng. Công khai. Không chui lủi giấu giếm. Mình là thằng thủ trưởng. Sao phải chui lủi giấu giếm. Anh em biết nó khinh cho. Như ông Thai thuyền trưởng 401. Mấy thằng thủy thủ, mấy thằng thợ máy đến nhà thủ trưởng chơi, thấy hai con cá hồng dài tổ bố, mỗi con hơn chục cân nằm đoàng đoàng ngay cữa bếp. Thế thì còn nói làm sao ăn làm sao bây giờ. Mình ăn nhưng còn phải nói. Đâu chỉ có ăn. Mình là thằng cán bộ, còn có trách nhiệm nói nữa chứ. Cho nên cứ phải đàng hoàng.
Lại một đòn gì với ông Thai nữa đây. Hẳn ông Thai mới vướng chuyện gì với Đay, nếu không đã chẳng có việc rêu rao hai con cá hồng thế này. Nhưng là chuyện gì? Cũng có thể không có chuyện gì mà chỉ tỏ ra việc gì cũng biết đấy thôi. Quân cười:
- Ông ăn thế còn nói làm sao được? Xấu hổ chết. Chúng nó cười cho.
Đay chìa chén rượu về phía Quân, cười lớn:
- Cạn với ông một chén. Câu hỏi của ông rất thẳng thắn. Tôi cũng xin trả lới thẳng thắn. Phải không biết xấu hổ. Làm gì mà xấu hổ. Cứ nói. Nói hăng. Thì ông Mây đây cũng thế. Ông lên làm thủ trưởng cũng thế.
Ai làm thủ trưởng cũng thế. Chúng nó thừa biết nhiệm vụ mình phải nói thì mình nói. Mình biết nói chẳng ai nghe nhưng cứ nói. Làm thủ trưởng không thể không nói. Nói giữa hội nghị. Lên bục nói. Cho mọi người bên dưới cùng nghe. Không được vấp váp. Biết mình nói một đằng làm một nẻo, nên lại càng phải nhiệt tình. Ông Thắng cũng vậy. Sếp của ông Thắng cũng vậy. Ai cũng thế tuốt. Đâu chỉ mình mình. Nhưng chỉ vài ba người ngồi riêng với nhau tốt nhất là nói thật. Trên dưới đều cùng một hội. Cho nên ông Thắng rất thích tính thẳng thắn của tôi. Tôi lên là pha chè ngay. Ông ấy bảo tôi phê bình ông ấy. Tôi nói thủ trưởng khôn lắm đấy. Ông ấy bảo thế nào là khôn. Tôi bảo phê bình phải đúng lúc đúng chỗ, cũng như thấy tôi, anh hỏi em ăn cơm chưa? Báo cáo anh ăn rồi. Chốc vào anh uống nước nhé. Thế là thằng bé biết có vấn đề gì rồi đây nhưng vẫn đến. Đến mà thoải mái vì anh bảo đến uống nước cơ mà. Chén thứ nhất không nói gì. Chén thứ hai, chén thứ ba xong anh mới bảo sao mày lại nói tao như thế, ô hay ngày nào mày cũng phải nói một câu lung tung à? Sao không góp ý thẳng với anh?
Hình như đoạn này đã là không có thật rồi, bao năm sống với nhau, Mây quá hiểu tính Đay, tuy nhiên anh vẫn hỏi:
- Câu gì? Nhưng mà câu gì? Ông nói ông Thắng câu gì mà ông ấy bảo lung tung?
Đang cười, Đay bỗng thay đổi hẳn nét mặt, vừa quan trọng vừa nghiêm túc:
- Không được. Không nói ra đây được. Dù là các chiến hữu cũng không nói được. Cho qua. Tổng giám đốc lại bảo ngoài điều ấy ra còn gì nữa nào. Cứ nói thẳng đừng loanh quanh, điện cứ chạy thẳng bắt trực tiếp không qua tăng phô biến thế giảm xuống 110 làm gì. Cứ 220 chạy thẳng. Anh cứ nói thế, thẳng cũng có mức độ. Có khi hai trăm hai. Có khi chỉ còn trăm sáu, trăm rưởi. Lại cũng có khi chỉ còn sáu mươi, tám mươi thôi. Chúng tôi như quả trứng trong tay anh. Các anh mở tay thì còn. Nắm tay thì xây xát mà bóp thì vỡ. Các anh hiểu cho thì được. Các anh thành kiến không dùng thì cho chúng tôi đi. Chúng tôi lao động được, gánh gồng được, đi biển được, ở bờ được mà theo con trâu vặt ra vặt vào cày cắt tám cắt bốn cũng được. Thậm chí làm anh cầm bút đề phong bì, dán hồ văn thư cũng được, chẳng mơ ước cao siêu gì. Có thủ trưởng mới mộng cao cục vụ thứ trưởng bộ trưởng, chứ chúng tôi không. Mà mộng ấy của thủ trưởng là có cơ sở. Này nhé phó tiến sĩ ngành mình ít, đảng viên lâu năm ít, thủ trưởng được cả hai. Thủ trưởng lại chỉ có hai đứa con, anh lớn đã đi làm, còn một cháu gái bé thủ trưởng nuôi cháu cũng như nuôi con họa mi thôi, không như anh em chúng tôi vất vả lắm.
Tiếp tục hỏa mù đây. Chắc là có dính dáng đến chuyện xuống tàu vận tải nước ngoài. Nói vậy để tô vẽ cho mình, rằng mình là người xuống tàu ngoại thương khác với mọi người, rằng mình với tổng giám đốc có một quan hệ thân tình, đặc biệt. Quân hỏi một câu mà anh biết sẽ làm cho Đay sướng:
- Thế không đề nghị giám đốc cho xuống tàu đi nước ngoài à?
Đúng là Đay sướng. Khuôn mặt da thiết bì sạm thế mà cứ ngời lên:
- Có đề nghị cũng chẳng được. Cũng chỉ là thử phản ứng sếp thôi. Như thử phản ứng penicillin ấy. Sếp bảo tớ thích tính cậu thẳng. Tôi bảo không, tôi có thủ đoạn đấy. Thủ đoạn kinh tế, thủ đoạn kỹ thuật, thủ đoạn với trên, thủ đoạn với dưới, đủ cả. Thế là thế nào? Thưa anh thủ đoạn kinh tế là tôi phải biết xoay xỏa chứ cứ đợi xí nghiệp thì có khi sặc gạch. Râu con mực mềm luộc ăn giòn thế mà quăng thì vướng lung tung, vướng hết, kéo đổ cả đấy. Tôi không móc ngoặc cho tôi. Tôi móc ngoặc vì xí nghiệp. Thủ đoạn kỹ thuật tôi cũng làm. Còn thủ đoạn với trên là gì? Là thành thật. Khôn ngoan chẳng lọ thật thà. Lòng vả cũng như lòng sung. Tổng giám đốc cũng là người. Với lại giấu sao được tổng giám đốc. Như hôm nọ lên xin tổng giám đốc cho đi chuyến nữa để tăng thêm sản lượng cho liên hợp là không thành thật. Thất bại ngay. Đừng có làm xiếc với lãnh đạo. Lẽ ra phải nói thật: Báo cáo anh nằm bờ lâu ngày khô quá. Khô như mực ống phơi ba nắng giời hanh ấy. Bản thân thế nào chịu cũng được. Còn vợ còn con. Vợ muốn mua cái áo cho con, không có tiền. Bố về không có cá, các con ra đón vẫn chào ba ạ nhưng không được nhiệt tình cho lắm. Cơm không có cá, các chiến sĩ ta uể oải hẳn đi. Cứ nói thế rồi mới nói đến thiết bị máy móc, kết hợp ba lợi ích... Sếp cười rất khoái rồi hỏi còn thủ đoạn với dưới là thế nào? Báo cáo anh cái ấy anh biết quá rõ còn gì nữa. Làm to thủ đoạn to làm nhỏ thủ đoạn nhỏ, tóm lại cũng là sự động viên hứa hẹn vẽ ra một tương lai tươi sáng thôi.
Mây hỏi:
- Ông nói với sếp thế thật à?
Gắp miếng thịt quay cho vào miệng nhai, Đay trừng mắt:

- Còn hơn thế nữa ấy. Nói cả chuyện tôi muốn làm thằng cấp dưỡng tàu. Sếp bảo tại sao. Tôi bảo đấy là người sướng nhất tàu cá. Ngày hai bữa cơm cùng lắm là thêm một bữa mì đều làm trong nhà, mưa không đến mặt nắng không đến đầu. Cái ấy không nói làm gì, trên tàu nhiều người như thế, thuyền trưởng, báo vụ, tổ máy chúng tôi chẳng hạn. Sướng là chỗ khác cơ, thằng cấp dưỡng tàu đứa nào cũng khẳm, thuyền trưởng máy trưởng chống gậy sắt đuổi mòn gậy mà đã kịp nó à, báo cáo thủ trưởng, trước hết gạo em cứ nấu hết tiêu chuẩn bảy lạng ăn hết hay không, mặc, còn thừa em sấy, cho vào máy, sấy nhanh lắm chóng khô lắm, đóng bao mang về nghìn rưỡi một cân cơm khô mà giá gạo này nghìn rưỡi sao được, một chuyến vài bao cơm khô. Rồi đến nước gạo, nước gạo tàu cầm chắc năm trăm một cân các bà ưng ngay, thùng đầy là một tạ đấy thủ trưởng ạ...
Chuyện này có thể thật, Mây cằn nhằn:
- Ông nói thế, gay cho cánh cấp dưỡng rồi.
- Không. Để sếp biết, quan tâm hơn đến thuyền trưởng máy trưởng thôi. Tôi mà nói hết sự thật thì thằng cấp dưỡng chết, thằng cấp dưỡng toi. Nó còn bao nhiêu thứ nữa chứ. Chẳng hạn như cá thu, cá song cứ chặt ra kho, ăn không hết em làm ruốc. Nhiều cá ít cá đêm hôm lưới rách máy hỏng kệ em không biết, cứ hai bữa em làm xong là em phì phèo thuốc lá quần ca dô đánh tú lơ khơ, lại quần ca dô mới chết chứ, nhưng tối kéo lưới em cũng ra nhặt dăm con tôm he, em không ăn mì đêm, em nhặt mấy con cho cháu, thì thằng nào ghen tị với thằng cấp dưỡng về mấy khúc cá thừa mấy con tôm vãi. Ớ biển thế, về bờ thì sao? Sáng sớm ông ấy đã xong xuôi cơm nước rồi, mình ngủ dậy nhìn lên bảng đã thấy cơm trong nồi, cá kho trong chạn, canh chua ở bếp, 3 mâm 4, 1 mâm 3, 1 mâm 2, các đồng chí tự giác lấy, ông ấy biến rồi, một bao lên chợ rồi, vất đi cũng dăm bảy cân, cứ tính mười nghìn một cân thôi, mười nghìn làm sao được, toàn cá ngon rẻ cũng phải mười hai nghìn, đấy là bán buôn cho người ta đấy, đến trưa đang ngủ đã nghe tiếng chặt bồm bộp, bố ấy đã làm cơm chiều rồi lần này không bao nữa mà cặp lồng, cá ngon xắt khúc cho vào cặp lồng thì bao nhiêu, vài cân đấy, mình ngủ dậy đã thấy chữ đề trên bảng mấy mâm bốn mấy mâm ba mâm hai, đấy là tăng hai, tăng ba là chiều tối nấu một cặp lồng cá nữa đem đến mấy bà bán bún riêu, bảo vệ có hỏi cũng chả làm sao, chính sách không đề ra bắt cá chín, chỉ cá sống chứ cá chín thì ai bắt làm gì mấy khúc cá nấu vớ vẩn. Một ngày ông ấy đá ba tăng như vậy là bao nhiêu? Đấy là khi tàu còn bốc cá, bốc cá xong xuôi thì...
Đay buông đũa đứng lên, cao lớn, sù sì khoanh hai tay lễ phép, đầu ngoẹo đi, bắt chước anh cấp dưỡng nào đó, thiểu não:
- Báo cáo anh, em nghỉ bù.
Rồi Đay cười phá lên. Tiếng cười tắt ngay, hai mắt giương tròn:
- Thuyền trưởng máy trưởng đuổi sao kịp nó? Ông có công nhận thằng cấp dưỡng nào cũng khẳm không? Đấy là chưa kể món chả cá không phải xay mà chạy mô tơ cái vẩy cũng rừ.
Đay làm động tác đổ cá từ máy xay ra khay, rưới mỡ vào khay, đút khay vào gầm lò, giơ tay ngang mặt xem đồng hồ rồi rút khay ra, lấy dao xắt khay chả, gói và cắp vào nách. Vở kịch câm ấy Đay biểu diễn rất thành thạo khiến ai nhìn cũng hiểu. Chị Bấm cứ cười rũ ra. Đay hất hàm:
- Một cân chả ai không biết chứ tôi là tôi bán được hai mươi nghìn (2) mà chè chai lông vịt lắm cũng phải bốn cân chứ nó chịu làm một cân à?
Rồi Đay lại tuôn ra một câu ngược lại, đầy bao dung làm tất cả không còn hiểu ra sao nữa:
- Nói đi thì thế. Nhưng nghĩ cho cùng cũng chỉ là gà què ăn quẩn cối xay thôi.
Mọi người không hiểu là đúng thôi. Bởi Đay đang vui. Đay đã nhìn thấy sự đổi đời. Trong lúc hào hứng, hơi men đang bốc, suýt nữa Đay nói ra cái điều Đay đã tự bảo phải giữ kín từ lúc bước chân vào đây: Tổng giám đốc đã hứa sẽ bảo tổ chức cho Đay chụp ảnh làm hộ chiếu vào đợt tới. Mới chỉ là lời nói. Chưa đưa được phong bì. Nên coi như hợp đồng chưa được ký. Đã điều tra: Thông thường là một nghìn đô. Tám trăm đô cho sếp. Hai trăm đô cho trưởng phòng tổ chức. Đay đã định liệu đâu vào đấy. Kể cả câu nói khi đưa phong bì cho sếp cũng đã được chuẩn bị: “Cám ơn anh đã cho em có cơ hội được đổi đời. Bây giờ em chưa xuống tàu, gọi là của ít lòng nhiều, chỉ có tí quà cho cháu. Em hứa sẽ không bao giờ quên ơn anh”. Còn trưởng phòng tổ chức là bạn học cùng khóa, đi biển say sóng phải lên bờ, nói thế nào cho thân mật là được.
Chỉ đến khi ấy mới có thể công khai với các chiến hữu, mới nghĩ đến bước thứ hai quan trọng không kém: biên chế dưới tàu Hạ Long 19. 
Buổi tối ở Vùng Ngọc.
Một mình tôi nằm ngửa trên nóc cabin thượng, nơi tôi đã nằm với bác Sĩ nghe bác kể chuyện cá xà đánh nhau với cá Ông mấy hôm trước. Lúc này tôi muốn nằm một mình. Không muốn có ai ở bên. Điều tôi vẫn nhận thấy ở mọi người dưới tàu từ trước đẽn nay hóa ra chỉ là lớp vỏ ngoài. Mỗi người đều có hai khuôn mặt. Bác Suất, chú Hồng, chú Đỉnh, chú Quẹn, bác Sĩ... không còn là những người như tôi vẫn nghĩ. Còn bố? Cả chú Hùng lùn nữa? Chắc chắn bố cũng có hai khuôn mặt. Như mọi người trên tàu có hai khuôn mặt. Bây giờ mình tin rằng tất cả người lớn đều có hai khuôn mặt.
Tôi cứ nằm ngửa trên tấm chiếu trải ở mặt boong cao nhất của con tàu mà nghĩ ngợi một mình. Nằm đây cũng không nhìn thấy chân trời. Chỉ một bầu trời đầy sao úp xuống. Tiếng sóng trong vịnh êm đềm, có lẽ là từ những chiếc thuyền nan, “những chiếc xe taxi của thủ trưởng’ chở người từ tàu lên bờ, từ bờ về tàu hay từ tàu này sang tàu khác xô vào thân tàu. Vẫn nghe vọng về tiếng ì ầm của biển động ngoài kia. Có tiếng nhạc từ một con tàu nào đó vang đến. Có gió nhưng gió thổi trên cao, không thổi xuống chỗ tôi nằm. Vịnh rất nhiều tàu. Nhiều tàu rất giống nhau, trong bóng đêm nhìn hệt nhau, từ hình dáng, kích thước, đến chiếc cần cẩu chênh chếch, các cửa sổ cabin, nhưng cánh thuyền nan vẫn nhận ra ngay từng con tàu khác nhau, dù không nhìn số hiệu và không bao giờ phải loay hoay tìm gọi. Tôi đang nằm nghe tiếng sóng nhè nhẹ chung quanh thì có tiếng đụng khẽ vào thân tàu. Một chiếc thuyền nan. Và tiếng phụ nữ:
- Anh Sĩ ơi.
Tiếng cô Nguyệt. Cả tàu đang im lặng bỗng nhốn nháo. Tôi nghe thấy cả tiếng bố tôi, tiếng chú Hùng lùn, tiếng bác Suất, bác Sĩ. Nghĩa là cả ban chỉ huy tàu. Và tiếng chú Đỉnh, chú Quẹn. Rồi tôi nghe tiếng máy tàu nổ. Con tàu bỗng rùng rùng như sắp tách bến. Cần cẩu kêu. Tiếng rầm của nắp hầm cá vất xuống mặt boong. Tôi khẽ khàng nhỏm dậy bò ra cạnh boong thượng, sát với đầu cầu thang dốc đứng, nép vào sau chiếc trụ đèn pha phủ vải bạt nhìn xuống boong lải. Gần như cả tàu đang đứng trên boong. Và cô Nguyệt. Ba bốn người nhanh thoăn thoắt biến xuống hầm. Miệng hầm sáng trưng ánh điện. Mười hai lổ tôm được đưa lên. Nước chảy ròng ròng. Trong ảnh sảng hắt lên từ dưới hầm, tôi trông thấy những người trên boong nhanh nhẹn xếp sảu lổ tôm vào trong đụt, lổ nọ chồng lên lổ kia. Cần cẩu quay chênh chếch sang mạn, hạ xuống thuyền. Hai lần như vậy. Tôi không nom rõ thuyền vì nó khuất sau be, chỉ thấy cô Nguyệt nắm thang dây tụt xuống và biến mất trong khoảng tối om. Dù đã chứng kiến chuyện bản cả ban sảng bây giờ tôi vẫn ngạc nhiên. Sao tàu bố tôi có thể bản nhiều thế nhỉ? Cả. Rồi bây giờ lại tôm. Có lẽ cả là sản phẩm phụ bản ban ngày, còn tôm là sản phẩm chính phải cẩn thận hơn chăng? Liệu bố tôi có việc gì không? Tôi biết trên tàu người thuyền trưởng chịu trảch nhiệm về mọi mặt mọi chuyện xảy ra. Tôi biết khi tàu chìm, thuyền trưởng là người cuối cùng rời tàu và tôi rất tự hào về điều ấy. Tôi lo cho bố. Nhưng tôi thấy mọi người trên tàu kể cả bố không có chút gì tỏ ra lo lắng. Ngược lại, vui, phấn khởi. Bây giờ tôi đã hiểu chuyến nào tàu cũng bản cả và cả bản tôm. Không chỉ tàu bố tôi. Cảc tàu khảc cũng vậy. Nhưng chỉ riêng tàu bố tôi không có định mức vì là tàu khảo sảt thăm dò. Nhiều ít, không ai bắt bẻ được. Nhưng như thế còn gì là khảo sảt là thăm dò nữa một khi mọi con số đều đã bị làm sai lệch.
Đám đông trên boong lải đã giải tản rất nhanh cùng với sự biến mất của cô Nguyệt. Mảy tàu tắt. Đèn dưới hầm tắt. Vụng Ngọc trở lại êm đềm. Tôi nhìn ra cửa vụng.
Không trông thấy hòn Núi Hài đâu. Ở chỗ ấy chỉ thấy những mảng lân tinh xô tới, chạy lên cao rồi xòe ra như một bó hoa, rụng xuống lả tả. Cửa vụng cũng vậy. Những làn ảnh sảng xanh dựng đứng đập vào vách đả, đổ gập. Trong tiếng ầm ầm sôi động của biển khơi ngoài kia vẫn nghe rõ tiếng sóng Vụng Ngọc êm ả vỗ bờ. Tôi trở lại chỗ nằm trên boong thượng. Khí trời mát dần. Một mình tôi nằm nhìn sao chi chít trên trời mà thấy vũ trụ thật vô cùng. Lại càng thấy mình bé nhỏ cô đơn. Biết bao điều không dám nói với ai. Tôi nghĩ đến thằng Toán. Nó có cái cằm nhọn, khi cười cằm càng nhọn. Nó ngồi cạnh tôi. Hai đứa chơi với nhau rất thân. Nó không được vào thẳng cấp ba như tôi, vì môn văn của nó chỉ được năm điểm rưỡi. Tiếc cái là các môn khác, nó đều đạt điểm cao. Hôm tôi đi nó buồn buồn:
- Mày sướng thật. Đi chóng lên rồi về nhá. Nhớ có quà cho tao và cho cả em Nhã nữa đấy.
Cái Nhã là người nó yêu. Nó nói với tôi rằng nó yêu cái Nhã ngồi bàn trên. Cái Nhã con ông Thi giáo viên trường cấp ba. Cái Nhã bằng tuổi nó và cũng bằng tuổi tôi, mười sáu. Nó rất thích được tôi chế nó, nói với nó về chuyện cái Nhã. Đại loại như: Bằng tuổi nằm duỗi mà ăn. Hay: Cái Nhã là hoa khôi của trường đấy. Rồi: Mày lấy được cái Nhã thì chẳng lo gì, cứ thế mà lên cấp ba. Rồi vào đại học thôi. Anh chàng cười tít mắt: Tao sẽ viết thư tỏ tình chứ không nói đâu. Mày bảo viết thư hơn hay nói hơn? Tôi cười. Tôi biết thằng này chỉ mạnh miệng thế thôi. Thư không bao giờ viết. Nói cũng không bao giờ. Mà quả vậy.
Trông thấy cái Nhã là anh chàng lại luống cuống lảng đi chỗ khác hoặc giữ tôi ở lại với nó để gặp cái Nhã. Bao giờ cũng là cuộc gặp tay ba. Còn cái Nhã thì chẳng biết gì, vẫn cứ cậu cậu tớ tớ với nó như với tất cả các bạn. Giá có thằng Toán ở đây, tôi sẽ kể cho nó nghe bao nhiêu chuyện. Tôi bỗng thấy mình hiểu biết hơn thằng Toán rất nhiều, “già đời” hơn thằng Toán rất nhiều. Nó vẫn như tôi cách đây mấy ngày. Vẫn sống trong thế giới học trò, thế giới trẻ con. Thế giới này có rất nhiều điều chúng mình không hiểu được đâu Toán ạ. Nhưng rồi chúng mình phải hiểu. Bởi chúng mình sẽ là người lớn và sống trong thế giới ấy.
Đêm đã khuya. Trăng lên tự bao giờ. Ánh trăng gợn gợn trong vụng. Tiếng một con cá quẫy sát tàu. Lại tiếng sóng nhỏ nhẹ êm đềm bốn chung quanh. Và một tiếng sóng khác vẫn êm đềm như thế nhưng to dần, sau đó một tiếng động nhẹ vào thân tàu làm con tàu hơi cựa mình. Có một chiếc thuyền nan vừa áp mạn. Có ai đó vừa đi chơi về. Mà đúng thế thật. Tôi nghe thấy tiếng chân hai người nhảy từ trên be xuống mặt boong. Rồi tiếng chân bước lên boong trên. Và ngồi xuống ngay bên dưới chỗ tôi nằm. ơ đấy có một cái thùng gỗ to, đặt sát vào ống khói, gần với chân cần cẩu chĩa ra miệng hầm cá. Cái thùng mà tôi đã thử mở ra xem, bên trong đựng những mảnh lưới rách, những nhợ vá, ghim đan lưới và các thứ linh tinh khác.
- Con bé đi với ông trông khá đấy chứ.
Tiếng chú Lượng, một thủy thủ cao lớn, nước da trắng, một bên má có một nốt ruồi đen mọc những sợi râu dài. Chú Lượng rất vui tính. Chú có cái giọng của người chuyên hô hoán. Một buổi chiều, mọi người đang đứng ăn cơm ngoài boong lái, chợt chú Lượng vất cái bát xuống nắp hầm cá, chỉ tay ra ngoài biển kêu thét lên:
-  Tàu cháy!
Mọi người hoảng hốt nhìn ra. Một con tàu to từ biển khơi tiến vào, ống khói bỗng nhả ra một cục khói tròn to đen sì. Hay mới hôm qua trong vịnh thôi. Một chiếc thuyền nan, “một chiếc taxi của thủ trưởng’ đi ngang qua. Chúng tôi đứng nhìn theo. Chú Lượng giơ tay chào. Người chèo thuyền - một đứa con gái trạc tuổi tôi - tưởng chú gọi chở, định ghé vào thì chú huơ tay ra hiệu cứ đi đi. Đứa con gái chèo đi, vừa chèo vừa nhìn chúng tôi rồi nói một câu gì đó. Chú Lượng gào lên: Nói to lên! Nghe không rõ! Đứa con gái trên thuyền buông chèo bắc tay lên miệng làm loa. Chúng tôi nghiêng tai lắng nghe. Chẳng biết nó nói gì. Bỗng chú Lượng ôm chầm lấy tôi, thét to: “Anh này hử?” Tôi giật mình còn tất cả cười ầm.
- Con bé của mình trông bình thường nhưng nội thất rất được!
Tiếng chú Đài vê tê đê. Tôi biết họ vừa đi đâu về. Tôi không muốn thuật lại câu chuyện họ nói với nhau. Tôi nghĩ đến bố. Không biết bố có như các chú ấy không? Nếu vậy thì thất vọng quá, buồn quá. Tôi bấu víu vào một hy vọng: Bố là thuyền trưởng. Là thủ trưởng của con tàu. Cầm cân nảy mực. Là người rời con tàu cuối cùng khi tàu lâm nạn. Chắc chắn bố không giống các thuyền viên khác.
- Hôm nay được năm lô, chi ái tình phí hết năm sọi. Tích cóp đến bao giờ mới làm lại được cái nhà. Tiếng chú Đài.
- Tao chưa dám nghĩ đến nhà cửa. Kiếm ăn vặt thế này nghĩ đến làm nhà sao được. Phải là quả cơ.
-  Đúng. Phải trúng một quả gì đó.
- Chúng mình làm sao có quả gì. Gà què ăn quẩn cối xay. Mày báo vụ còn cái cửa đi tàu nước ngoài. Chúng tao cánh thủy thủ xếp lốt đến bao giờ.
- Không hy vọng gì đâu. Bánh vẽ đấy. Rồi lần lượt tất cả các đồng chí thuyền viên đều được đi tàu vận tải ngoại thương, trước tiên là những người có thành tích trong sản xuất, có thâm niên cống hiến với xí nghiệp. Nói như trạng mẹ. Ồng Lê Mây đấy. Về đây từ ngày đầu mới xây dựng xí nghiệp, thời tàu vỏ gỗ, có được đi không. Tao về sau ông Mây hai năm. Có được đi không. Mà thằng Li mới về ba năm đã được đi. Chúng mình không có đạn. Cũng không có thế. Mày biết cái thằng tàu 19 đi cái xe 250phân khối hai ống xả không nhỉ. Nó có làm ở xí nghiệp một ngày nào đâu. Con một ông đại tá công an. Vô nghề nghiệp. An chơi đua đòi, tiêu tiền như rác. Sắp nghiện đến nơi. Ồng bố vội nói với sếp cho nó xuống tàu.
-  Thằng Khương. Mình biết.
- Thấy ông Đáng nói nó đi mười mấy chuyến rồi, tổ chức đã làm quyết định rút lên dự bị, bố nó viết một cái thư xuống, thế là lại đi tiếp.
- Chứ lại không à? Nó lên bờ là gay go. Nó còn đi tàu 19, bảo đảm tàu không bị khám, không bị giết. Cũng là một thứ hợp đồng ngầm cả.
-  Thôi cứ yên tâm ở đây thôi. Sống là đây mà chết cũng
- Tao tự an ủi là chúng mình vân hơn bọn đảnh cả. Bọn chúng nó phải bảo đảm chỉ tiêu định mức.
- Cũng bản như điên. Hụt chỉ tiêu cũng bản như điên.
- Thì rõ. Nhưng không bằng tàu mình. Ồng Đảng cũng tả xung hữu đột lắm mới giữ được bộ khung tàu đấy. Chuyến nào về chả có phong bì. Không chỉ tổng giảm đốc đâu. Còn phòng tổ chức, còn đảng ủy công đoàn. Cái khoản mười phần trăm tiền bản cả không chia là vào mục ấy. Ồng Đảng không xơ múi gì vào chỗ ấy đâu.
- Ai biết đâu ma ăn cỗ.
Nghe chú Lượng nói, tôi đỏ mặt. Tôi bỗng ghét chú Lượng vô cùng. Vậy ra là thế. Người tin bố tôi. Người không tin. Tôi tin bố. Như chú Đài. Chú Lượng không tin bố. Thế nhưng bình thường tôi thấy chú ấy đối với bố tôi cũng y như chú Đài, như mọi người trên tàu, chẳng có gì khác. Có nhiều người như chú Lượng không? Mà bố có đảng tin thật không? Người ta có quyền không tin chứ. Có tiếng bật lửa lách cách. Mùi khói thuốc lá bay lên. Và tiếng chú Đài:
- Cô bé Ngã Năm của mày đến đâu rồi.
-  Chẳng đâu vào đâu. Căng lắm.
-  Hôm nọ thấy đèo một túi tôm he đến nhà cơ mà.
- Chuyến trước xin thuyền trưởng hai cân tôm he, với hai con mực nang to mỗi con phải đến hai ki lô. Cho vào cái túi đem đến biếu bà mẹ. Bà mẹ vui lắm. Không phải vì túi tôm cả ấy đâu. Mà bà mẹ rất thương mình. Rất muốn gả con gái cho mình. Bà mẹ nói thương mình vì bố mình bị bắn chết trong cái cách ruộng đất, mình mồ côi. Nên bà coi như con. Bà nói cô cũng nói thật với cháu cái Liên nhà cô lấy cháu, nó không phải đi làm dâu. Cô đã đi làm dâu, cô sợ làm dâu lắm rồi. Ba đứa con gái nhà cô, hai đứa lớn đi lấy chồng đều không phải làm dâu. Rồi bà kể cho mình nghe chuyện bà làm dâu. Bà lấy chồng được ba tháng thì chồng đi bộ đội. Biền biệt mười một năm mới về. Một mình bà quần quật cơm nước hầu hạ bố mẹ chồng, các em trai em gái nhà chồng. Tổ chức cưới vợ cho hai em trai nhà chồng, lo đám cưới cho em gái nhà chồng. Lại là dâu trưởng, mọi công việc trong họ đều đến tay. Ôm cũng không được nghỉ. Ổm vẫn phải lo công việc đồng áng. Mình ốm nhưng mẹ chồng cũng ốm. Mình phải lo cháo lão thuốc thang... Mười một năm cháu ạ. Còn gì là đời! Cho nên cô nhất quyết lo liệu sao cho nó lấy chồng nhưng không phải làm dâu. Cô hãi lắm rồi. Bây giờ nghĩ lại vẫn còn hãi. Bà động viên mình cứ kiên trì. Lúc mình đến nhà, cô nàng dắt xe đạp đi. Mình muốn về nhưng bà bảo: Cứ ngồi chơi nói chuyện với cô. Chỉ tí nữa nó về thôi. Mình ngồi chờ. Chờ lâu. Chuyện với bà già. Hết chuyện nọ đến chuyện kia. Cuối cùng cô ấy cũng về nhưng cứ ở dưới bếp, nhất định không lên. Chán quá, mình chào bà già, xuống bếp chào cô nàng thì cô nàng xách túi tôm với mực ấn vào tay mình, mình nhất định không cầm. Hai đứa giằng co đến tận cửa. Cuối cùng mình đành phải cầm. Đạp được một quãng mình lẳng cái túi vào bụi cây ven đường, phóng một mạch về tàu nằm vật, chẳng thiết gì đời nữa.
Hai người im lặng. Một lúc tiếng chú Đài đầy thông cảm:
- Cho nên chỉ có những lúc đến với các em là quên tất cả. Mọi sự. Quên chuyện yêu đương Quên chuyện làm nhà. Quên cả chuyện làm việc dưới tàu vất vả như một con chó.
- Mình vẫn không quên được cô nàng. Trong khi ôm các ả ca ve mình cứ phải tưởng tượng đấy là Liên.
- Thế thì gay thật. Chỉ còn mỗi cách phải bám chắc lấy bà mẹ thôi.
Chú Lượng thở dài:
- Khó lắm. Mình đi biền biệt thế này. Có nhanh cũng phải nửa tháng mới đến được một lần. Giá làm trên bờ còn dễ...
Tôi nằm im lặng nghe. Cố không gây ra một tiếng động nào. Cũng không sợ là mình nghe trộm chuyện người khác. Chẳng qua là không muốn làm đứt quãng câu chuyện của hai người thôi. Nếu các chú có lên boong thượng, tôi sẽ giả cách ngủ. Chẳng sao. Nhưng hai người không lên. Một lúc sau họ về cabin ngủ.
Tôi ngồi dậy, xuống chỗ hai chú vừa ngồi rồi quành về cabin bố tôi trong lòng rất hồi hộp. Chỉ sợ bố tôi không có trong phòng và thở phào: Qua cánh cửa ra vào để mở, tôi thấy bố đang nằm ngủ, một chân ghếch lên thành giường nhô cao. Tôi biết là bố không đi đâu cả mà! Cũng như tôi biết bố không lấy một đồng nào trong cái quỹ ngoại giao đút lót ấy. Tôi lại nghĩ đến chú Lượng Ai biết đâu một người vui tính tếu táo thế mà mang trong lòng biết bao điều. Tôi định trở lên boong thượng nhưng nghe thấy tiếng hai con lợn ụt ịt bên dưới. Không đi lối cầu thang gỗ bên trong, tôi tụt cầu thang sắt dốc đứng phía ngoài đến chỗ chúng. Khuya rồi, tất cả tàu đã ngủ nhưng chúng vẫn còn tha thẩn dạo chơi trên boong lái. Tôi ngồi xuống. Chúng quay cả đầu về chỗ tôi, dưới ánh trăng tôi trông thấy mũi chúng chun lại, cái đuôi ve vẩy ụt ịt ụt ịt. Rõ ràng chúng muốn nói gì với tôi. Hai tay tôi đặt vào gáy hai con lợn và khẽ gãi gãi như các chú trên tàu vẫn làm. Chúng thôi không ụt ịt nữa, cúi đầu ngoan ngoãn đứng im. Lợn ơi. Khuya rồi sao chúng mày chưa ngủ. Hay chúng mày cũng mất ngủ như tao. Chúng mày mất ngủ còn có bạn. Đêm nay tao mất ngủ đây, mà chẳng có ai trò chuyện. Bao nhiều điều muốn nói, nhưng biết nói cùng ai. Tôi nhớ đến thằng Toán. Nhưng tôi nghĩ nếu có thằng Toán ở bên, tôi cũng chẳng biết nói gì với nó. Tôi bỗng thấy mình già đi chục tuổi. 
Quán Mèo biết rằng trong Liên hợp nhiều người ghét mình, nhiều người muốn mình về mo. Chỉ vì Quán đã thoát khỏi kiếp nghèo hèn. Quán đã trở thành giàu có, thành “tỉ phú” như nhiều người nửa đùa nửa thật chào Quán. Không. Không bao giờ Quán về mo, không bao giờ Quán trở lại kiếp sống khốn nạn ngày trước nữa. Giờ đây không ai có thể đẩy Quán trở lại nghèo hèn khốn nạn được nữa. Các cụ nói vạn sự khởi đầu nan. Quán đã qua bước khởi đầu khó nhọc ấy rồi. Quán không ngờ đời mình lại có lúc được như hiện nay. Một bao tải tiền.
Người ta thường nói với nhau như vậy để chỉ ai đó có nhiều tiền lắm. Thế nhưng Quán đã có nhiều bao tải tiền. Và Quán thấy kiếm tiền cũng khó nhưng cũng dễ. Căn bản là phải có máu liều. Phải có máu làm ăn lớn. Và phải chớp thời cơ. Thời cơ nó đến rồi nó đi. Không thể chần chừ. Thời cơ thứ nhất làm nảy sinh thời cơ thứ hai. Thời cơ thứ hai đẻ ra thời cơ thứ ba. Cứ như một phản ứng dây chuyền. Và phải biết xâu các đầu mối lại với nhau, liên kết những người cùng máu mê, chí hướng với nhau. Để tạo ra một sức mạnh tổng hợp. Người nọ dựa uy người kia, dựa thế người kia, dựa lực người kia. Thực ra bây giờ Quán mới có những suy nghĩ mang tính tổng kết như vậy. Chứ lúc mới bắt đầu, Quán chỉ làm như một người đang nghèo đói ngửi thấy cửa này làm ăn được, ngửi thấy hơi tiền mà không nguy hiểm. Nói vậy bởi Quán cũng đã có lúc làm ra tiền nhưng có thể tiêu đời. Lúc đầu là mang thuê thuốc phiện từ mạn ngược về thành phố. Tiếp theo là bồng thuê heroin. Được mươi chuyến sợ quá dù nhiều tiền. Đường dây vỡ. Hai người bị bắt. Nhưng họ thực hiện lời thề khi mới cùng nhau làm ăn, không khai ra Quán. Không chỉ một đường dây của Quán. Nhiều đường dây vỡ, nhiều người tra tay vào còng số 8. Có cả người dựa cột (3). Quán lại về trông đầm tôm cho hợp tác xã. Muỗi, dĩn đốt ngứa mẩn cả người. Đã mấy lần đổ trộm tôm đem bán. Nhưng rồi bị lộ. Quán bị đưa ra kiểm điểm ở hội nghị xã viên và bị đuổi việc.
Sự việc càng ô danh hơn khi Quán ngủ với vợ anh hàng xóm, bị anh ta bắt được, Quán phải viết giấy nhận mình hủ hóa và cam đoan cày cho anh ta ba sào ruộng đầm giữa trời rét đại hàn chi cực để anh ta không tố cáo trước xóm làng. Cày thì cày nhưng bí mật vụ việc không giữ được, vẫn cứ lộ ra. Lộ vì vợ Quán, cái con mụ mặc quần cá rô đớp. Chẳng thể tìm được lý do gì mà giữa ngày đông tháng giá, chồng mình lại dong trâu đi cày đầm nhà hàng xóm. Hỏi thì Quán bảo: Lão ta lười, thuê mình, mình làm lấy tiền chứ làm sao. Lại hỏi thuê bao nhiêu, công sá ra làm sao. Quán trả lời: Thuê trả bằng thóc. Mỗi sào hai mươi ki lô thóc. Đến vụ trả. Rồi cười với vợ, tình tứ: Nhà túng, người ta đi làm không thương người ta thì thôi, còn hỏi. Vợ Quán tưởng thật, yên trí chồng mình biết thương vợ thương con. Chỉ đến khi nghe tin đứa con trai bị đánh chết tại thành phố Hồ Chí Minh, vợ Quán vừa khóc vừa sang ông hàng xóm xin trả trước số tiền để thêm cặp đi vào lo tang ma cho con ở trong ấy, mới biết rõ đầu đuôi. Thế là con mụ quần cá rô đớp te tái chạy về làm ầm ĩ cửa nhà, ầm ĩ xóm làng. Ôi làng nước ơi. Ôi trời cao đất dày ơi. Có ai khổ như tôi không. Ông giời sao không vật chết tôi đi để tôi sống làm gì để khổ để nhục thế này. Tao tưởng mày cày ruộng thuê lấy tiền nuôi vợ nuôi con như mày nói. Ai ngờ mày đi cày cái lồn nhà nó cho nó sướng cái buồi của mày để phải lội xuống đầm giữa mùa mưa dầm gió bấc cày cho nhà nó ba sào ruộng. Ôi con ơi. Sống khôn chết thiêng về đây mà xem thằng bố của con bôi gio trát trấu vào mẹ vào cả nhà con ơi...
Vừa đau đớn mất con, vừa nhục nhã công nợ túng thiếu, Quán đã phải giở trò kiếm ăn vặt. Như đến vài người bạn bán thuốc lá vỉa hè vay mỗi người một cây thuốc lá Vina, nói là tổ chức đám cưới cho thằng con thứ, “khổ, nó mê con ông giám đốc ngân hàng quận, cứ đòi tổ chức, mà nghe chừng con bé bụng cũng lùm lùm rồi, không cưới ngay có khi gay dù trong túi thằng bố nó chẳng có đồng xu mẹ nào”. Vay rồi bán ngay. Cũng lại cho những hàng nước vỉa hè. Bán nhưng không trả gốc. Quán nghĩ có lẽ lại phải dính vào chất bột trắng thôi. Quán đã chuẩn bị bắt lại liên lạc với đường dây cũ thì trong một bữa rượu thịt chó, nghe một người nói công ty Liên hợp Biển Đông đang thu mua sắt vụn. Chỉ nói vu vơ thế thôi. Nhưng trong đầu Quán đã nảy ngay ra một kế hoạch. Tại Liên hợp Hải sản Biển Đông, Quán có quen một người. Một người bạn học thời còn học cấp một ở làng bên tên Xuân. Quán nhớ lại một kỷ niệm giữa hai người khi còn đi học. Trong một lần tắm ở hồ trước cửa trường, chơi trò lặn đuổi dưới nước Xuân lặn trốn thế nào mà bị mảnh sành rạch sứt môi, máu chảy ròng ròng. Cả bọn hoảng quá. Nghe nói chỉ có lông dái rịt vào là cầm được máu, cả bọn lên bờ, vạch vòi khám xét nhưng chẳng đứa nào có lấy một sợi mà nhổ, mà rịt.
Kiếm bao ba số, Quán đến xí nghiệp tìm Xuân, nhưng Xuân đã chuyển về Hà Nội làm một sếp gì đó rồi. Quán gặp trưởng phòng kinh doanh và dù không gặp Xuân, dù Xuân đã chuyển đi, nhưng câu chuyện đi tắm với Xuân thời còn con nít đã gây tác động không ngờ đến trưởng phòng kinh doanh vì Xuân chính là người đã kèm cặp nâng đỡ anh ta để anh ta được như ngày nay.
- Thì toàn mười hai mười ba tuổi, làm gì đã có sợi lông nào. Lão Xuân lớn nhất cũng chỉ mới lấm tấm.
Nghe Quán kể, trưởng phòng cười như nắc nẻ và viết giấy giới thiệu Quán đi các nơi: quân đội, giao thông, miền núi. Bên giao thông, Quán tìm ra một cái sà lan bẹp. Quán cùng trưởng phòng kinh doanh sang làm việc, ký hợp đồng. Hai tháng trời Quán tổ chức cắt bóc. Quán chiêu mộ những người đang lờ vờ không có công ăn việc làm, đang đói. Bạn của Quán. Bạn của bạn Quán. Bạn con Quán. Bạn của bạn con Quán. Những người thất nghiệp. Những người mới đi tù về. Họ làm như trâu. Quán cũng làm như trâu. Hai tháng trời không về nhà, lăn lộn trên một bãi sú đầy muỗi dĩn. Cái gì chứ khoản muỗi dĩn Quán coi khinh. Chống hai thứ này dễ ợt. Đem cái màn xô dấn nước rồi mắc lên. Chui vào trong màn nằm, muỗi dĩn chỉ có khóc. Để có tiền nuôi đám quân gia, Quán phải dựa vào xí nghiệp. Quán báo cáo với giám đốc, với trưởng phòng kinh doanh và tổ chức cho ba người (cả trưởng phòng tài vụ - chớ có quên nhân vật tay hòm chìa khóa này) đến thăm quan công trường của Quán bằng xe ô tô của xí nghiệp. Ngồi trên chiếc Mazda lún người máy điều hòa mát rượi Quán đã nghĩ mình phải có cái ô tô như thế. Cái bọn làm sếp này sướng thật.
Trước khi sung sướng phải gian khổ đã. Rất thích sung sướng nhưng Quán có ưu điểm đã quen chịu khổ.
Trong thời gian hai tháng vạn sự khởi đầu nan ấy Quán gầy rộc đi. Đợt tạm ứng đầu tiên, Quán không giữ lại gì cho mình. Giám đốc, trưởng phòng kinh doanh, trưởng phòng tổ chức, trưởng phòng tài vụ đều có phần. Càng không thể quên ông sếp bên giao thông. Sau khi chi lương, Quán chỉ còn trong tay hơn triệu bạc. Đã định cầm tiền đi xả hơi, giải trí, nhịn suốt mấy tháng rồi, đạp xe nửa đường nghĩ đi nghĩ lại, Quán quành về nhà. Quán sợ xui. Bước đầu khởi nghiệp không dính đến món ấy. Bấm bụng chờ kết thúc phi vụ này đã. Quán đưa tiền cho vợ, bảo làm cỗ cúng. Vợ Quán ngơ ngác:
- Hôm nay cúng ai hở bố nó?
- Mua con gà, thổi nồi xôi, thắp hương cầu xin cho công việc của tôi được đầu xuôi đuôi lọt.
Bữa ăn, vợ Quán nhìn chồng gầy rộc, đen sạm, thương quá:
- Chừng đến bao giờ xong hở mình?
- Được nửa công việc rồi. Một tháng nữa đời chúng ta sẽ khác. Nhưng chưa khác nhiều đâu.
Vợ Quán nghe câu tuyên bố chắc như đinh đóng cột ấy của chồng mà tự trách mình ngày trước đã không giữ được sự ghen tuông giận giữ làm khổ Quán. Nhưng chị không dám nói ra điều ấy, chỉ chép miệng thương xót:
- Bố nó vất vả quá.
Tối hôm ấy, hai người nằm cạnh nhau. Chị vợ ôm lấy anh chồng. Quán hất tay ra: Để yên cho người ta ngủ. Mệt bỏ cha ra đây. Nhưng sự đụng chạm ấy lại gợi Quán tới ý định đi vui vẻ lúc ban ngày. Tất cả những sự chung đụng với đám gái làng chơi trẻ trung, thơm tho chiều chuộng trở lại trong óc và Quán thở dài trở mình nằm nghiêng đưa tay ôm vợ. Vợ Quán rúc vào người Quán:
-  Em thương mình lắm.
Người Quán rạo rực một nỗi thèm muốn. Quán luồn tay vào chỗ ấy và rụt vội tay ra:
- Thấy tháng à?
Vợ Quán nói với vẻ biết lỗi:
- Bốn hôm rồi. Sao kỳ này lâu thế. Mọi lần chỉ ba ngày là sạch thôi.
Quán thở dài trở lại nằm ngửa. Im lặng. Một lúc sau, Quán làu bàu:
- Cái đồ lồn teo vú tóp này mà cũng lắm chuyện. Cẩn thận không tao thay mái.
Vợ Quán xoay mình nằm nghiêng về phía chồng sợ hãi:
- Hay là anh cứ ấy đi.
Quán xùy một cái:
- Kinh bỏ mẹ.
- Cũng gần sạch rồi. Buổi chiều chỉ còn dây rớt một tí thôi. Thật đấy. Nhè nhẹ thôi. Được đấy.
Chị vợ đã sẵn sàng. Quán với tay tắt ngọn đèn ngủ. Dù đã tối om, nằm trên vợ, Quán vẫn nhắm nghiền hai mắt, lẩm nhẩm trong óc:
- Không phải vợ ta.
- Không phải vợ ta.
- Không phải vợ ta.
- Không phải vợ ta.
- Không phải vợ ta...
Câu cuối cùng hình như là câu thứ ba mươi mốt, Quán bỗng bật lên trong một tiếng rên dài:
- Không phải vợ ta à à... 
Một con tàu nữa vào vụng. Con tàu sơn hai màu đỏ trắng, to, cần cẩu như một cái cổng chào, giống hệt con tàu đã buông neo trong vụng mấy hôm nay. Mũi tàu xẻ nước gợn gợn, thân tàu ép mặt nước trong vụng thành những vệt sóng xòe ra hai bên làm tất cả các tàu thuyền trong vụng đu đưa. Nhiều người đứng trên boong mũi. Những tiếng gọi nhau ầm ĩ. Có tiếng gọi tên bố. Đứng vịn lan can ngay cửa buồng lái, bố giơ tay vẫy: Chào thuyền trưởng Đặng Việt. Tí sang nhé! Một người đàn ông cao lớn thét to: Neo xong là sang ông đấy. Có ba sì đế không? Còn cái gì nhắm không? Con tàu đi men vụng vào đỗ phía trong, gần sát bến. Những đợt sóng vẫn lan tỏa. Những chiếc thuyền nan trong vụng nâng lên hạ xuống dập dềnh như đang trên biển. Chỉ lát sau, thuyền trưởng Đặng Việt đã từ một chiếc “thuyền nan taxi” trèo lên tàu, vào phòng bố. Tiếng bác Việt oang oang:
- Trời còn gió nhưng cũng phải ra đây thôi. Ngày mai chắc gió giảm. Nửa đêm nổ máy. Sáng mai tới ngư trường chứ không lại mất một ngày. Với lại tàu sửa chữa nằm bờ lâu quả rồi. Ra đây kiếm con lợn khao quân cái đã. Bảo thằng Quang đại phó rồi. Nhắn cái Nguyệt đến ngay. Con lợn khoảng bảy chục cân. Giả bảy tạ cá loại bốn thôi. Chứ không có loại hai loại ba đâu. Hết chuyến biển sẽ trả. Trước mắt khuyến mại cho em hai tạ đá. Cứ thế mà làm.
Rượu được rót ra. Mấy con mực khô bác cấp dưỡng mới mổ phơi mấy hôm trước, một bát tương ớt. Bác Việt uống rượu rất nhiều, không như bố tôi. Càng uống da mặt bác càng bì bì tái lại. Bác uống và than thở về sửa chữa kéo dài, về chất lượng sửa chữa, về cái ly hợp... Uống và bảo bố tôi:
- Tối nay hai bố con ông sang tôi nhá. Làm bữa tiết canh lòng lợn. Thế nào cũng sang đấy.
Bác Việt về, bố tôi vào phòng vê tê đê hỏi chú Đài tình hình thời tiết. Bác Sĩ bảo: Giời này là ngày mai gió giảm, chuẩn bị mọi thứ, sớm mai tách bến là vừa.
Chú Hùng lùn ghi trên bảng đen treo trong phòng ăn: Hai ca xem lại toàn bộ dây lưới. Năm giờ sáng mai tách bến đi sản xuất.
Tôi cứ tưởng đến tối bố tôi cùng đi với tôi sang tàu bác Việt. Nhưng hóa ra lại là bác Sĩ. Gần đến lúc đi, bố bị đau bụng. Tàu bác Việt nổ máy rầm rầm. Đèn trên tàu sáng trưng. Chúng tôi bám thang dây leo lên. Lần đầu tiên tôi đặt chân lên một con tàu to như thế. Khác hẳn tàu bố. Cách bố trí các buồng, phòng lái, cầu thang đều khác. Và phòng ăn vẫn gọi là câu lạc bộ mới đẹp đẽ lịch sự làm sao. Rộng, những ba bàn ăn, mặt bàn sạch sẽ bóng lì. Trên tàu vui như hội. Những đĩa tiết canh đông cứng đỏ thẫm, với đủ cả lạc rang, rau thơm phủ lên trên những miếng gan. Những đĩa tây to trắng tinh đựng đầy lòng. Và những đĩa thịt xếp rất đẹp. Rồi nước xuýt. Rồi rau thơm. Hệt như ở nhà những hôm ba mươi tết giết lợn. Bác Việt tỏ ý tiếc là bố tôi không sang. Và rót rượu. Mọi người cũng rót rượu vào chén của mình. Tàu bác Việt đông. Phải đến hai chục người. Tôi cũng được một chén rượu trắng. Giá có bố ở đây, chắc bố không cho tôi uống đâu. Tôi cũng chạm cốc với bác Việt, bác Sĩ và với nhiều người khác. Lần đầu tiên tôi uống rượu. Tôi đưa cốc rượu lên môi khẽ nhấp thử. Nhàn nhạt lợ lợ cay cay. Tôi liều uống thử một ngụm nhỏ. Lập tức mũi tôi cay xè, như khi lặn ở ao bị sặc. Tôi hắt hơi liền ngay sau đó. Tất cả nhìn tôi cười. Tôi xấu hổ quá không dám nhìn ai. Định theo nghề của bố mà không biết uống rượu à? Con trai là phải biết uống rượu. Nam vô tửu như kỳ vô phong. Bố cháu uống rượu vào loại siêu đấy. Mỗi người một câu trêu tôi, động viên tôi. Bác Việt cụng li với tôi, bảo tôi:
- Mày uống từ từ thôi con ạ. Nào hai bác cháu mình...
Tôi lấy hết bình tĩnh, mạnh bạo đưa chén rượu lên nhấp một ngụm nhỏ. Vẫn cay. Vẫn thấy khe khé ở mũi, nhưng không hắt hơi nữa.
Bác Sĩ bảo tôi:
- An đã. An vào bụng đã rồi hãy uống.
Tôi xắn một miếng tiết canh. Rồi ăn một miếng thịt. Bác Sĩ múc vào bát tôi một muôi nước suýt. Tôi uống một hơi cạn bát nước suýt.
- Được rồi. Bây giờ uống rượu được rồi.
Tôi lại đưa chén rượu lên miệng. Ngụm này nhiều hơn ngụm trước. Rượu trôi qua họng nóng ran cổ khiến tôi phải khà một tiếng rõ to cho mát cổ. Bác Sĩ khen: Thằng con giời uống được đấy. Rượu bốc lên đầu. Rần rật thái dương. Râm ran xuống ngực xuống tay. Người tôi lâng lâng. Tôi chưa có cảm giác như thế bao giờ. Bác Sĩ lại bảo: Thôi bây giờ ăn đi. Và bác đứng dậy chìa cốc ra trước mặt bác Việt. Tất cả đứng lên làm theo bác Sĩ, đưa cốc về phía thuyền trưởng. Tôi cũng làm theo. Cụng ly. Mọi người ngửa cổ dốc cả chén rượu vào họng. Tôi cũng làm như vậy và bị ho sặc sụa đến nỗi phải bỏ ra ngoài hành lang, một lúc sau mới trở vào. Bác Sĩ ghé tai tôi, dặn dò:
- Mày uống vừa vừa thôi. Thế là đủ rồi đấy. Kẻo không bố mày lại trách tao.
Bữa ăn rất ngon và vui. Trong đời tôi chưa được dự một bữa ăn nào vui thế. Toàn là dô, là trăm phần trăm, năm mươi phần trăm. Người ta uống nhiều hơn ăn. Người ta reo hò. Người ta cụng chén tay đôi tay ba. Người ta cầm chén rượu đi bàn này bàn khác. Tôi ăn đã no. Chỉ ngồi nhìn người khác. Mọi người như quên mất tôi. Chỉ chú ý đến các chén rượu trên bàn đầy hay vơi để rót thêm để bắt phải uống cạn. Không khí trong câu lạc bộ nồng nặc mùi rượu. Rượu đổ trên bàn ăn. Rượu tràn ly rớt xuống bàn chảy xuống chân. Tôi lặng lẽ bước ra boong. Mặt mũi nóng bừng nhẹ đi. Đầu óc căng nhức nhẹ đi. Thoang thoảng gió mát. Nhìn quanh Vụng Ngọc. Êm đềm. Vắng vẻ. Những ngọn núi đá xám không còn vẻ lồi lõm sù sì nữa, trông mỏng dính. Bầu trời nhiều mây như sà xuống thấp. Lại tiếng một con cả quẫy. Thải dương tôi vẫn rần rật rần rật. Không buồn ngủ nhưng tôi ngáp một cái rõ dài. Tôi muốn nằm quả. Người tôi mệt rã rời. Có cái gì nghẹn nghẹn thúc thúc nơi cổ họng. Tôi muốn về ngủ hoặc chỉ nằm dài trên giường hay trên nóc cabin thượng.
Tôi lại vào câu lạc bộ xem bữa ăn đã xong chưa để rủ bác Sĩ về. Nhưng không, không thể được. Mọi người đang trong giai đoạn hào hứng nhất. Mắt ai nấy đều long lanh còn khuôn mặt thì rạng rỡ. Đã có người say xỉn, đang lắc lư cái đầu cố ngồi cho vững. Một người khác cất tiếng nói, giọng nói ríu ró, lè nhè không ngắt được tiếng nọ với tiếng kia. Tất cả lắng nghe nhưng không hiểu anh ta nói gì. Bác Sĩ kêu lên: Thằng Thượng mán méo tiếng rồi. Câm đi. Đừng nói nữa. Bác lại với tay cầm chai rượu trắng rót một lượt nữa:
- Nào dô.
Tôi biết chẳng thể bảo bác về được. Đành lại ra boong. Lại nhìn trời nhìn vụng. Nhìn về phía tàu bố tôi đen đen neo mãi xa. Bỗng một chiếc thuyền nan đột ngột hiện ra trong màn đêm chèo đến gần. Đứng dưới thuyền, người đàn bà dưới thuyền hỏi vọng lên:
- Anh ơi! Có đi không?
Tôi mừng rỡ kêu lên: Có. Và quành ra chỗ treo thang dây. Không nói với bác Sĩ, tôi tụt thang dây xuống thuyền. Và chỉ một lúc sau đã có mặt ở tàu của bố, sau khi đã trả tiền.
Nếu tàu bác Việt ổn ào vui vẻ sảng trưng thì tàu của bố tôi ngược hẳn lại: tối đen, không một tiếng động, không một bóng người. Các cửa cabin bên dưới đều đóng im ỉm.
Như một con tàu chết. Tôi bước lên phòng bố tôi. Cảnh cửa cũng đóng như vậy. Tôi cầm cái tay xoay bằng sắt mạ inox sảng loảng vặn mạnh mở rộng cửa. Một cảnh tượng không ngờ được, không tưởng tượng được bày ra trước mắt: Ngọn đèn ngủ trên đầu giường bố tôi tỏa ảnh sảng yếu ớt màu xanh lơ. Và chính nhờ ngọn đèn ấy mà tôi trông thấy một người nằm trên giường bố tôi. Một người đàn bà mặc bộ đổ màu tím nhạt đang nằm duỗi dài trên giường bố. Thấy cửa mở, người ấy quay ra và giật mình ngồi dậy. Vừa bước một chân vào phòng, tôi vội rụt lại sập mạnh cửa bước ra boong trèo thẳng lên cabin thượng, chỗ nằm quen thuộc của tôi. Cô Nguyệt! Cô mua cả hôm tàu mới vào vụng! Cô mua tôm tối hôm qua! Chính vì cô ấy quay ra nên tôi mới biết là cô Nguyệt. Có lẽ cô ấy tưởng bố tôi mở cửa.
Nằm dài trên chiếc chiếu trải trên boong thượng, tôi không cựa mình, cố giữ sao cho không một tiếng động. Tôi sợ gặp bố. Lúc này gặp bố tôi biết nói gì. Tôi sợ bố biết tôi đã về, đã nom thấy cô Nguyệt nằm trên giường bố. Tôi khóc. Để mặc nước mắt chảy trên mả, tôi mở to mắt nhìn trời. Tôi thương tôi, tôi thương cái Ngàn và nhất là tôi thương mẹ. Bố không như chúng mình vẫn tưởng đâu. Mẹ ơi. Mẹ đã ngủ chưa. Mẹ đang làm gì. Mẹ có biết những gì đã đến với mẹ không? Mẹ có biết mẹ bị phản bội không? Tôi muốn về ngay với mẹ để khỏi phải nhìn thấy bố, gặp bố, để sống bên mẹ, giúp đỡ mẹ làm mẹ vui. Trong mấy ngày dưới tàu tôi đã biết được nhiều chuyện, học được nhiều điều. Tôi biết người ta có thể làm những việc không tưởng tượng được. Nhưng tôi vẫn hy vọng, vẫn nghĩ rằng đấy là chuyện của mọi người, tất cả, trừ bố. Bố là thuyền trưởng, là người lãnh đạo, là người chịu trách nhiệm về toàn bộ con tàu, là người cuối cùng rời tàu khi tàu lâm nạn. Bố không giống mọi người. Thế rồi mọi chuyện đổ sụp. Bố không còn là thần tượng của tôi nữa. Bố cũng giống hệt mọi người. Thế mà trước kia chúng tôi đã tự hào về bố biết bao! Vậy là từ lâu chúng tôi vẫn sống với những điều dối trá mà không biết. Tôi đau đớn nghĩ mới đây thôi chúng tôi còn tự hào khi bố về nhà và người bố ấy đã không còn nữa. Bây giờ là một người bố khác. Một người bố có những điều bí mật mà mình không nên biết. Một người bố có nhiều thói hư tật xấu. Quá thất vọng, tôi tự nhủ: Có lẽ phải quan niệm lại: Thế nào là bố chăng?
Có tiếng hai con lợn ụt ịt bên dưới boong mũi. Tôi muốn xuống với chúng nó quá. Nhưng lại sợ gặp bố.
Chắc là phải gần sáng tôi mới thiếp đi được. Ánh nắng chiếu vào mi mắt khiến tôi tỉnh dậy. Nhìn quanh. Những dãy núi đá quây lấy Vụng Ngọc không còn nữa. Tôi nhìn về phía lái: Không thấy Núi Hài đâu. Vậy là tàu nổ máy rời vụng từ sớm lắm. Nắng vàng lấp lóa rải đầy trên mặt biển phía trước mặt. Hoa sóng nở vàng rực trong nắng nhức mắt. Nhưng nhìn về phía sau sóng vẫn xanh dịu. Gió thổi ngược chiều tàu đi. Tàu gối sóng, mũi tàu chồm lên đè xuống. Đánh răng rửa mặt xong, tôi vào bếp ăn sáng. Trong bếp có nhiều người. Cả bố. Cả bác Sĩ, cả chú Hùng lùn, chú Đài, chú Lượng. Tôi liếc nhìn bố rất nhanh. Bố đặt tô mì tôm bốc khói ăn dở xuống bàn, nói:
- Lần này vào Lạch Trường xem có tôm vàng không. Năm ngoải cũng mùa này chúng mình chả gặp tôm vàng ở đấy là gì. Mẻ năm mươi cân. Mẻ một tạ. Cao nhất hai tạ.
Chù Hùng bảo:
- Trong ấy nhiều rạn. Lại có xác máy bay. Lưới rách nhiều lắm. Có khi mất lưới. Anh em boong chuẩn bị sẵn tinh thần vả lưới.
Bác Sĩ bảo tôi:
- Hôm qua con giời say xỉn về trước hả. Về mà không bảo tao lấy một câu. Tao cứ tìm.
Tôi liếc nhìn bố. Bố vẫn chẳng tỏ ra có vẻ gì đặc biệt, cũng chẳng nhìn tôi, và vẫn cứ tiếp tục câu chuyện về ngư trường:
- Xác mảy bay không sợ. Mình đánh bên trong, gần bờ. Nếu trúng tôm vàng chỉ ba ngày thôi là tấn tôm cầm chắc.
Bác Sĩ bảo:
- Ở đấy nhiều lưới rê lắm đấy.
Tàu vẫn hành trình. Mặt trời mỗi lúc một gay gắt, nhưng vẫn mát. Vì gió. Vì biển. Mãi tới gần trưa, ăn cơm xong, mới thả lưới. Bố tôi và chú Hùng đánh dấu trên hải đổ. Rồi chú Hùng ghi nhật ký khai thác. Hai tiếng rưỡi sau, kéo lưới. Tôi đứng ở chân cẩu, gần chỗ bố xem bố có nói gì không. Nhưng bố đang chăm chú nhìn vào hai cái đụt đã được kéo lên, nước trút xuống mặt boong gỗ ào ào như dội. Một người giật đụt. Bố tôi reo lên: Tôm vàng! Mọi người cùng bật lên tiếng reo như bố tôi. Hai đụt lưới khác được kéo lên. Như hai quả bầu nậm, bên trên nhỏ bên dưới phình ra, hai quả bầu nậm khổng lồ. Lại giật đụt. Lần này tiếng reo còn to hơn lần trước: Tôm vàng!! Bố tụt xuống cầu thang bước ra boong nhìn đống tôm lùm lùm nằm phơi mình dưới ảnh nắng, bảo chú Hùng:
- Tôm chết nhiều. Mẻ tới cho tàu chạy ngược lên hai lý rồi mới thả lưới. Chắc được nhiều hơn.
Rồi quay lại bác Sĩ:
- Ông Sĩ với thằng Quẹn xem lại cái lưới bên phải đi. Lưới không xuôi. Tôm không đi vào đụt, giắt lưới nhiều quả.
Và nói với các thủy thủ:
-  Nắng lắm đấy. Làm thật nhanh nhé. Không hỏng hết tôm đấy.
Rồi như nói một mình: Sóng này nhiều tôm.
Tôi cũng xuống nhặt tôm với các chú các bảc.
Chú Hồng xem xét kỹ bụng một con tôm nhỏ rồi đưa cho tôi:
- Cho thằng này một con tôm chưa cùng ai.
Tôi nhặt tôm, mấy lần bị cái gai nhọn ở đầu tôm đâm vào chảy máu. Bác Sĩ đang chữa cái lưới xanh thẫm bên cạnh bảo tôi:
-  Thôi đi bố. Không làm được nghề này đâu. Vất vả lắm. Cứ kiếm mấy cái lồ, một cái xe mảy chạy đường Bắc Ninh Hà Nội ngày được mấy trăm đấy.
Chú Hồng cười:
- Đúng. Ngày hai ba trăm thằng này làm được. Chẳng phải học tính toán làm gì.
- Nhưng phải học tính nhẩm cơ.
-  Các bà buôn làm tính nhẩm thì vô địch.
- Bao nhiêu cũng không phải hạ bút tính. Mà không hề sai.
- Em Nguyệt đấy. Một trăm bảy mươi lần năm nghìn rưỡi, biết ngay là chín trăm ba nhăm nghìn. Bố Sĩ nhà mình cứ phải giấy bút.
Bác Sĩ cười:
- Tôm cá bao nhiêu loại tao không hạ bút, nhầm phải đền oan à.
Chưa hết câu chuyện, đống tôm đã được phân loại xong. Còn cá thì nhanh thôi. Nhặt những con cá to, cá ngon để riêng, những con cá nhỏ thì xúc cả vào lổ lẫn lộn rồi chuyển xuống hầm. Tôi tụt xuống hầm xem các chú ướp tôm ướp cá. Đèn điện sáng chiếu vào những hầm đá sáng lóa mắt. Mát lạnh. Tôm được đổ vào những thùng sắt đựng nước có hòa nước đá. Còn cá thì đổ ngay vào chân một đống đá rồi cuốc đá lấp lên.
Giữa trưa nắng gắt, ngoài boong chỉ còn chú Quẹn bác Sĩ đang làm việc. Cái mũ lá, bộ “quần đẹp áo đẹp” dày cộp của bác Sĩ khi trên tăng gông, khi dưới boong. Bác leo trèo thoăn thoắt. Nắng tưởng đến mức cháy thịt. Bố tôi cũng trèo lên tăng gông. Nom bố ngồi vắt vẻo trên đầu ngoài cùng cái cánh tay sắt chìa ra đu đưa trên mặt biển, giống một diễn viên xiếc tài ba. Tàu vẫn gối sóng dập dềnh. Bên dưới là khoảng không. Là biển. Là sóng. Mà đâu chỉ có việc ngồi trên ấy. Còn cầm cơ lê, còn vặn, còn kéo dây, còn cân chỉnh. Tấm lưới vẫn đu đưa. Những cái ván vẫn chênh chếch là là trên sóng như sắp đáp xuống mặt nước. Một sợi cáp vẫn thõng xuống cắt lạng những lát nước mỏng tung lên như người ném thia lia. Tôi thử sờ vào một đầu tăng gông bằng thép và vội rụt tay lại. Giống như chạm vào nước sôi. Cuối cùng khi tàu đến vị trí thả lưới, công việc cũng vừa xong. Bố tôi, bác Sĩ, chú Quẹn, mặt đỏ gay vì cháy nắng vào bếp, mỗi người một ca bia bỏ nước đá, uống và nhai đá rau ráu. Rồi cả ba vào buồng tắm. 
Thuyền trưởng Trần Bôn ở trong khu tập thể có nhiều nhà ba tầng xây song song, một thời đã từng là biểu tượng của cuộc sống đang thay da đổi thịt hàng ngày của thành phố Hải Triều. Những “cửa sổ sơn xanh mở đều một loạt, như một ban đồng ca cùng ngân giọng hát, như những người bên nhau cùng mở rộng tâm hồn”. Nhà thơ Duy Thông đã có những vần thơ như vậy về khu tập thể mới xây. Than ôi! Thời ấy đã qua lâu rồi. Những ngôi nhà đã xuống cấp thảm hại. Màu vôi vàng mới quét cùng với cửa sổ sơn xanh gợi tứ thơ cho Duy Thông đã biến mất từ bao giờ. Cửa chớp long, nan chớp gãy, phải bịt lại bằng cót ép, bằng giấy dầu. Tường loang lổ trơ vữa và nhiều chỗ trơ cả gạch. Mặt trước còn đỡ. Mặt tường phía sau nơi khu phụ mới thật thảm khốc. Cống thoát nước tắc. Nước sinh hoạt tràn từ tầng ba xuống tầng hai, từ tầng hai xuồng tầng một. Những vệt xám đen, những vầng rêu đen dày bám trên tường. Cỏ mọc trên tường.
Và cả những cây si, cây đa theo trường phải bon sai mọc nghiêng. Kinh khủng nhất là những thứ rác rưởi cứt đái lưu cữu trên mặt nền phía dưới. Ớ đó lúc nào nước cũng xăm xắp. Có lần về nhà, Trần Bôn suýt bị cả một bô cứt của Khoa, kỹ sư phòng kỹ thuật trên tầng ba hắt xuống trúng đầu. Sống trên tầng ba, Khoa bành trướng ngược lên sân thượng và độc chiếm trên ấy, quây một cái túp con con, nuôi mười một con lợn. Sân thượng là vương quốc của những con lợn gia đình Khoa nuôi. Mười một con lợn chạy lông nhông như ngựa. Phân lợn và cả phân người nữa rải khắp sân. Xỉ than đổ trên sân thượng từng đống. Khi nào đống xỉ đầy quá, Khoa mang xẻng lên. Hai ba nào. Xúc hất xuống mảnh đất phía sau. Họp tổ không xong. Kiện tụng ra chính quyền, ra công đoàn. Đồng chí Trần Ngọc Thu bí thư đảng ủy sau khi trực tiếp thị sát trên sân thượng đã tuyên bố:
- Tôi đố ông nào lên sân thượng nhà B mà không dẫm phải cứt. Nếu không dẫm phải cứt tôi xin mất chầu bia.
Cũng chỉ có một câu nói ấy thôi. Chẳng ai có thể dỡ được cái túp lợp giấy dầu của Khoa, đuổi được đàn lợn của Khoa xuống đất. Ai cũng biết nhà Khoa cực kỳ khó khăn. Bố mẹ già, vợ không có việc làm, hai đứa con nhỏ, chỉ trông vào đồng lương của Khoa. Cả bố mẹ, cả vợ Khoa đều đã nai lưng ra làm việc. Không kêu ca nửa lời, ngược lại còn cám ơn số phận, cám ơn xí nghiệp, nhờ con, nhờ chồng, đã được từ quê ra tỉnh làm ăn và tuy có vất vả, làm ăn ở đâu chẳng vất vả, nhưng có công có việc quanh năm. Công việc của ba người là khi tàu bốc cá xong thì xuống hầm, dọn hầm, móc vét những con cá nát trong la canh đem về nấu nuôi lợn hay ướp chượp. Dọn hầm là công việc nặng nhọc. Nhất là cái nước la canh. Mùi nó khó ngửi hơn mùi phân tươi, mùi cóc chết. Trên sân thượng ngoài lợn, phân lợn còn có sáu cái chum chượp nhơ nhỡ bốc mùi khủng khiếp. Dòi bò rơi xuống hành lang, chỉ nằm ngất một lúc lại tỉnh, lại tiếp tục bò. Bò dọc hành lang. Mon men bò vào các nhà. Bò ra cầu thang rơi xuống bất động và lại tiếp tục bò. Tầng nào cũng có dòi. Bậc thang nào cũng dòi. Chiếu nghỉ nào cũng dòi. Không nhiều thì ít. Bởi tầng nào cũng có người làm mắm, chẳng phải một mình Khoa. Dòi và than tổ ong. Những ngày đồng khởi nấu mắm mới thật là khiếp khủng (đó là chữ của Khoa, Khoa công nhận là khủng khiếp nhưng không bao giờ nói khủng khiếp mà cứ là khiếp khủng). Mùi chượp, mùi mắm nấu lan tỏa ướp đượm ngào ngạt, át mọi thứ mùi thường nhật đã ngửi quen. Rồi còn vấn nạn hố xí tự hoại đã thành hố xí tự hại. Nước thiếu. Hệ thống bơm nước hỏng từ thời nảo thời nào. Người đi vệ sinh không chịu giội. Tắc. Chọc. Vỡ ống tiêu. Phải xuống đi ra mãi dãy nhà vệ sinh công cộng hố xí thùng mới xây gần bãi rác. Đấy là những người lớn, những người tử tế. Còn cái món ấy của trẻ con, của những người đau bụng đột xuất, và của một vài ông độc thân hộ A1 gặp khi trời mưa là chỉ có bay theo một đường cong parabol từ trên nhà xuống dải đất phía sau. Cái ngày trưởng phòng tổ chức chưa mua đất xây nhà, còn ở tầng hai, sáng dậy mở cửa thấy một gói giấy báo đựng toàn phân đặt ngay ngắn ngay bậu cửa, bên trên có viết chữ Kính gửi... cẩn thận. Chẳng biết ai mà trị. Cứt ở đây thì nhiều. Cũng phải nói đôi chút về bãi rác của nhà máy đồ hộp gần đấy, nơi có dãy hố xí thùng của Liên hợp Biển Đông mới xây. Công nhân bên đồ hộp thường xuyên được mua xương lợn, đầu lợn. Những khúc xương ống, những dẻ xương sườn trắng hếu như đã được lạng bóc bằng manh xơ lam. Những chiếc thủ lợn lột hết thịt và da, chỉ còn trơ sọ đầu lâu mắt trắng dã nằm giữa hai vành lông mi cứng và đen. Xương ống, xương vè lủng lẳng treo ghi đông xe đạp đi trên đường khiến bao người thèm khát hỏi han xin mua lại, bởi ai cũng biết còn bao nhiêu chất béo bổ trong tủy, trong xương, trong sụn sẽ tiết ra khi cho lên bếp than ninh nhừ. Ninh nấu ăn xong, tất cả quẳng ra bãi rác. Cả một bãi xương trắng mênh mông như tha ma bị sét đánh. Mùi thối khẳn theo gió thốc đi các nơi. Chân trần dẫm vào đó chỉ có què. Dưới đất thì thế. Trên đầu, một thứ khiếp khủng khác. Dây điện. Dây điện lòng thòng, lằng nhằng như mạng nhện. Mỗi nhà một đường dây. Công tơ tổng cháy lâu rồi. Nhà Bôn ba quạt hai bóng đèn, một tủ lạnh trả sáu tư nghìn tiền điện, nhà Khoa bốn bếp điện chỉ phải trả hai nhăm nghìn. Mà máy lạnh có mấy khi chạy đâu. Điện sụt áp. Hai trăm hai mươi mà chỉ còn tám chín mươi thôi. Nhà máy điện không thu được tiền điện đe dọa cắt điện. Giám đốc đồng ý cắt, nhưng công đoàn có ý kiến: Khu tập thể là sân sau của xí nghiệp và đây là vấn đề do lịch sử để lại. Giám đốc đồng ý trước mắt xí nghiệp bảo trợ tiền điện song song với việc trích quỹ phát triển sản xuất và công đoàn trích quỹ phúc lợi hợp đồng với sở “Điên nặng” kéo dây mắc công tơ đến từng nhà. Từ bấy mới có điện ổn định. Các gia đình loại bỏ hẳn bếp điện. Cánh chè chai xe đạp cọc cạch hết chuyến này tới chuyến khác chở không biết bao nhiêu bếp điện từ khu tập thể tỏa đi các nơi.
Điện đã được giải quyết nhưng chuyện vệ sinh vẫn chẳng nhúc nhích. Vẫn dòi, phân, rác, khói than tổ ong. Đi về nhà, bao giờ Bôn cũng gần như chạy. Vừa vì sợ gặp người như đã nói ở phần trên. Vừa để bảo đảm an toàn, không bị hắt nước vào đầu, ném gói giấy đựng rác, hất bô đựng phân vào người. (Nhưng thật lạ. Bên ngoài bẩn thế mà mở khóa - các loại khóa - khóa nổi, khóa chìm, khóa từ tính, loại khóa hiện đại nhất do những người đi tàu nước ngoài mang về, bước vào nhà là cả một thiên đường sạch sẽ. Sạch không một gợn nơi bàn chân trần, mát lạnh. Tivi, cassette, tủ lạnh, dàn nhấp nháy đều không một hạt bụi. Lau. Lau suốt ngày. Sàn nhà. Mặt bàn, mặt xa lông...)
Đấy là nỗi khổ chung. Riêng nhà Bôn và các gia đình trong dãy nhà B còn một nỗi khổ khác: Những lời đối đáp, chửi nhau của vợ chồng một chị bán bia mới dọn đến hơn năm nay. Họ mua lại căn hộ của trưởng phòng tổ chức, khi trưởng phòng tổ chức chuyển đến ngôi nhà ba tầng mới xây ở Cầu Tre. Nghĩa là vợ chồng chị bán bia ở sát ngay nhà Bôn. Ban ngày ngôi nhà gần như hoàn toàn yên ắng. Chỉ có một thằng con giai đang học lớp 5. Anh chồng đã hai lần vượt biên sang Hong Kong, nhưng đều bị trả về, không được định cư ở nước thứ ba. Anh làm thợ xây tự do, khi đi khi về im như bồ thóc, lúc nào cũng khép cửa, xóm làng chỉ biết anh có nhà khi thấy thằng con anh cầm chai đi mua rượu. Cho đến khi chị vợ ở cửa hàng bia ngoài cổng cảng chính về, thường là mười một mười hai giờ đêm, nghĩa là buổi sum họp bắt đầu khi một ngày lao động mệt nhọc đầu tắt mặt tối kết thúc. Các nhà đã tắt đèn buông màn đi ngủ. Lúc ấy đèn nhà nọ sáng trưng. Và bỗng nhiên, tiếng quát của anh chồng vang lên:
- Sáng mai bố mày cứ nấu cơm ăn bình thường, mày không muốn ăn với bố mày thì mày đi chỗ khác. Nhà này là nhà của bố mày. Bố mày báo trước cho mà biết.
- Rất tiếc là bố mày chưa được uống máu lồn nhé.
- Đừng có mà dọa bố mày. Mày lồn sành ghe đá thì bố mày buổi vá xi măng nhé. Bố mày báo trước cho mà biết.
- Bố mày lấy mày. Bố mày không biết mày đĩ như thế nào à?
- Còn gạo là sáng mai bố mày nấu cơm ăn. Bố mày chậm lương chứ không phải bố mày không có lương nhé. Báo trước cho mà biết.
- Bố mày không bỏ mày. Bố mày cứ ám. Báo trước cho mà biết. Thách cả họ nhà mày cũng không bỏ được bố mày đâu.
Thường là nghe tiếng của anh chồng. Còn tiếng chị vợ chỉ văng vẳng tít mãi phía trong bếp. Thoảng khi chị vợ ở gian ngoài, những lúc ấy Bôn nghe rõ tiếng chị vợ đối đáp:
- Địt mẹ mày. Tao chửi mày đấy.
Anh chồng gầm lên:
- Địt mẹ đồ đĩ.
- Con mẹ mày đĩ. Đĩ cái thằng bố mày.
Im lặng một lúc rồi lại tiếng chị bán bia:
- Li dị. Không ghen tuông làm gì. Không hợp nhau thì li dị. Tao với mày không thể hợp được. Tao lấy mày từ lúc lấm tấm, bây giờ chấm kheo. Tao còn lạ gì mày.
Anh chồng gầm lên:
- Bố mày không li dị. Bố mày cứ ám. Mai bố mày có chết bố mày cũng không cần cơ mà. Tí nữa bố mày có chết bố mày cũng không cần cơ mà. Bố mày đang điên đây. Báo trước cho mà biết.
- Điên thì làm đéo gì phải báo trước.
Cứ như vậy, những câu chữ tục tĩu nhất được văng ra trong đêm khuya lúc vang vọng cả dãy nhà, lúc ôn tồn trầm bổng như một cuộc tâm tình. Cứ tưởng sẽ đánh nhau đến nơi. Sẽ đập phá đến nơi. Nhưng bỗng nghe tiếng anh chồng hạ giọng:
- Thôi. Bây giờ bố mày đi ngủ nhé.
Tiếng “nhé” nhẹ hẳn đi, gần như âu yếm.
Nằm bên này vợ chồng Bôn nghe những cuộc chửi nhau thường xuyên tối tối, mới đầu buồn cười, nhưng sau lại thấy buồn. Cuộc sống như vậy là địa ngục. Nhưng vẫn phải sống thôi. Bôn tự hỏi không biết nghe bố mẹ chửi nhau như vậy, thằng con giai của họ nghĩ gì. Nó có học được không? Thằng bé rất kháu khỉnh và lễ phép, gặp Bôn đâu là khoanh tay cúi đầu chào. Rồi anh lại nghĩ đến hai đứa con anh. Đêm nào cũng những cuộc đối thoại như vậy, hẳn sẽ ảnh hưởng đến chúng nó. Và anh lại thấy cần phải nhanh chóng rời khỏi khu sân sau của xí nghiệp. Tìm mọi cách sớm rời khu sân sau của xí nghiệp. Anh chi tiêu rất tiết kiệm. Là một người chừng mực anh không sa lầy vào những cuộc nhậu, những cuộc chơi thâu đêm như một số cán bộ tàu khác hay như một số thuyền viên chính tàu anh. Đã có lần anh theo anh em thuyền viên tàu anh lên bờ khi cập cảng Vũng Tàu. Chưa tới cảng, không khí đã nhộn nhạo hẳn lên. Anh em buôn bột mì gièm pha cánh đánh hàng sữa. Anh em buôn sữa trêu chòng trở lại: Bột mì kỳ này toi. Đi buôn là phải theo cái lỗ. Chuyến trước, buôn sữa bị lỗ thì chuyến này lại phải buôn tiếp sữa vì ai cũng sợ sữa lỗ rồi đổ xô vào buôn bột mì. Vì thế bột mì chuyến này nhất định ế. Và bắt chước giọng con buôn ỏng ẹo: “Anh ơi. Anh có sữa chúng em mua. Còn bột mì để chuyến sau anh nhé!” Tuy trêu nhau như đùa cợt nhưng ai cũng lo. Giá cả lên xuống thất thường. Bôn cũng lo. Khi đi đánh cá ở Vịnh Thái Lan, tàu to tàu nhỏ, tàu nào chả đầy ắp một bụng hàng. Hàng trong cabin, hàng trong hầm cá, hàng trong kho bếp, hàng trong nhiều ô, nhiều khoang ngóc ngách. Nhiều khi nhầm lẫn đi đến cãi nhau.

Mọi chuyến cập Vũng Tàu, anh đều ở lại tàu. Anh em lên bờ gần hết. Cả tàu gần như vắng không. Chỉ còn anh, cấp dưỡng Tích tay nải thân yêu và hai người trực ban, một máy, một boong. Tích bưng từ bếp lên chiếc mâm nhôm trên có một con gà luộc còn nghi ngút khói, một đĩa hoa, một chai Lúa Mới và gọi anh. Anh xách cái ghế đẩu nhựa xuống boong. Tích đặt mâm cúng lên ghế đặt sát mũi tàu, gần chỗ tơi neo. Anh thắp hương, kính cẩn vái năm vái. Anh không biết khấn. Phần khấn bao giờ cũng là anh nuôi Tích. Anh im lặng lắng nghe tiếng rì rầm của Tích. Chẳng thấy gì ngoài những tiếng xuýt xoa. Giữa trời nước mênh mông vắng lặng lúc chiều tà, trong khói hương bay, những tiếng xuýt xoa rì rầm của ông già Tích đầy vẻ thiêng liêng. Rồi sau đó, bốn người (cả hai đồng chí trực ban boong, máy) về câu lạc bộ thụ lộc. Uống. Ăn thịt gà. Xôi. Đã có lần Bôn hỏi T ích khấn những gì. Tích nghiêm chỉnh trả lời à thì cũng xin Hà bá, Thổ thần phù hộ cho tàu gặp may mắn, biển lặng gió êm, khai thác được nhiều, an toàn hàng hải, an toàn ván lưới, hài hòa ba lợi ích, hàng họ anh em mang vào lãi nhiều, một vốn bốn lời...
Bôn có cảm giác những lúc tàu vắng vẻ khi vừa cập bến Vũng Tàu, tất cả kéo nhau lên bờ chỉ còn lại bốn người như thế này là những lúc đặc biệt thanh thản trong lòng người cấp dưỡng già. Cắt tiết con gà, thổi nồi cơm nếp, bày đĩa hoa, mở nắp chai rượu, Tích đúng là người anh cả trên tàu, là người chủ một gia đình trong những ngày giỗ chạp tết nhất. Và sau bữa rượu như thế, Tích thường ngồi lại nói với Bôn biết bao nhiêu chuyện. Chuyện T ích đi bộ đội chống Pháp ngày trước. Chuyện Tích về nhà ở Thanh Miện. Chuyến về bắc được cái cầu ao. Chuyến làm được cái chuồng lợn, bỏ chuồng được đôi lợn con. Bố Tích có hai bà. Tích là con bà cả. Nhưng bà trẻ lại ở với vợ con Tích. Gọi là trẻ thôi cũng ngoài bảy mươi cả rồi. Tôi dặn nhà tôi, có nấu bát canh thì cứ cho thêm tí nước vào, rồi thêm tí mì chính, tiêu chuẩn mì chính của tôi lúc nào cũng có, bà không phải lo, cua vẫn thế, rau vẫn thế mà có thêm bát canh, bữa ăn bưng sang biếu bà già một bát. Thế là các cụ vui, thì tính người già ấy mà. Có gói kẹo cho trẻ cũng đừng đưa cho chúng nó. Đưa cho cụ nói là con biếu bà, bà nào ăn một mình. Với lại kẹo cứng các cụ chỉ ngậm thôi. Mà cũng đừng đưa cho một cụ. Phải mỗi cụ một gói. Nếu chỉ có một gói thì phải san đôi. Rồi Tích kể đến cái đận có tivi mới khổ. Tối nào cũng phải đun một nồi nước vối rõ to, một bó đóm để hút thuốc lào. Tối nào cũng phải thức khuya, khách về hết mới đi nằm. Mà nào có được đi nằm ngay đâu. Còn phải đem vồ gõ lại giường. Còn phải đổ xỉ ở bát điếu, còn phải quét nhà. Tất cả là thằng lớn hết. Bây giờ thằng lớn đã đi học trường công nhân kỹ thuật, thì đến ông thứ hai. Ông này tôi đang tính phải làm sao chứ như thằng anh thì chán quá. Tôi bảo cháu cố gắng con ạ, phải vào được đại học mới mát mày mát mặt được. Cháu học khá. Chỉ hơi kém môn toán. Tôi bảo bà ấy nhà tôi không bắt cháu làm lụng đồng áng, cơm nước. Để cháu tập trung vào học. Ưu tiên bồi dưỡng cho cháu để có đủ sức khỏe... Biết cá heo là loài cá đặc biệt thông minh, hễ đánh được con cá heo, thế nào Tích cũng cắt lấy cái đầu, cất vào kho lạnh, để khi cập bến đèo về quê cho con ăn óc cá...
Chú thích:
[1] Tiết mục Những bông hoa nhỏ dành cho trẻ em mở đầu chương trình truyền hình buổi tối.
[2] Đồng tiền của chúng ta giá trị lên xuống thay đổi không ngừng theo năm tháng. Xin hiểu theo ý nghĩa văn học.
[3] Tử hình.
VII. 
Chuyến ấy tới Vũng Tàu buổi tối, Bôn không ở lại tàu với Tích. Anh em chèo kéo, với lại anh cũng muốn đi một lần với các thuyền viên, tận mắt thấy những gì anh em làm khi lên bờ, những điều anh vẫn nghe anh em hào hứng kể lại. Vũng Tàu anh vẫn lên. Nhưng là lên vào ban ngày ban mặt. Để dạo chơi. Để ngắm thành phố. Để uống một cốc nước mát thư giãn. Đây là lần đầu tiên anh đi với mọi người, mà lại đi vào buổi tối...
Khi tời khởi động, chiếc xuồng cứu sinh được đưa ra khỏi be và hạ nhẹ nhàng xuống mặt nước, khi chiếc thang dây được móc chặt vào thành tàu, anh cùng mọi người lần lượt xuống xuồng. Và khi xuồng cập bến dốc đá xoai xoải, nhảy lên bờ, anh lom khom toan té nước rửa hai bàn tay đen bẩn vì vừa nắm thang dây, Chiêm, một máy hay vui tính nghịch ngợm trẻ trung và đẹp trai kéo tay anh:
- Không phải rửa thủ trưởng ạ. Bao nhiêu lồn đĩ nó chịu hết. Hôm nay thủ trưởng phải đi với em. Em làm hướng dẫn viên du lịch cho thủ trưởng.
Chiêm kéo anh đi như kéo tay một đứa trẻ. Anh gỡ ra và bước chậm lại phía sau. Bãi Trước. Những hàng dừa tối, vắng vẻ. Ánh điện đường hoe hoe lốm đốm. Thế mà lạ thay, từ trong bóng tối rặng dừa, từ các khay thuốc lá vỉa hè, tiếng những cô gái vang lên:
- Anh Chiêm!
- Tàu Hạ Long 414! Các anh tàu 414 đã vào!
- Em chào anh Mai!
Những tiếng chào cất lên trên dọc đường họ đi. Nhưng không ai dừng lại. Đến khi một đám con gái từ phía bờ biển chạy ra cản đường, Chiêm thay mặt các thuyền viên, hỏi các em:
- Bọn anh vừa vào đến đây. Tiền không có. Sữa chưa bán được. Các em có đồng ý cho chơi chịu không? Mai bọn anh bán được sữa sẽ trả.
Một cô bảo:
- Được chứ. Các anh Hạ Long có bao giờ lại quịt bọn em.
Vẫn Chiêm:
- Giá cả thế nào, có thay đổi gì không?
- Vẫn thế. Các anh làm phát một hay cả đêm?
- Hãy để bọn anh kiểm tra máy móc cái đã.
Chỉ cố gắng được đến thế, Bôn bước sang bên kia đường gần như chạy. Anh không thể hình dung được người ta có thể nói với nhau như vậy. Vẫn biết cánh thuyền viên là những người nói năng tục tĩu bỗ bã sống sượng nhưng đến mức ấy thì quá thể. Nhất là người ấy lại là Chiêm. Máy phó, một máy phó rất có trách nhiệm của anh. Một thanh niên cao lớn, đẹp trai đã có vợ, một con. Vợ Chiêm cũng là một cô gái nhan sắc, nước da trắng mịn, đôi mắt trong sáng mở to, hai má bầu bĩnh ưng ửng hồng như xoa một lượt phấn mỏng, làm nghề dạy học. Dù không nói ra nhưng ai cũng biết Chiêm tự hào về vợ. Là con một ông vụ vị gì đó ở Hà Nội, Chiêm nói năng từ tốn nhẹ nhàng, thỉnh thoảng lại chêm một vài câu bông phèng làm tất cả bật cười, nhưng chưa bao giờ Chiêm nói tục. Hình như hôm nay Chiêm cố làm ra vẻ bụi, ăn chơi bạt mạng, lọc lõi trên tài dân ăn chơi Vũng Tàu để được các em kính nể và nhất là không bị các em cho vào xiếc. Kìa! Chiêm đang thọc tay vào quần một cô gái và duề một cái rõ to ngụ ý chê bai, du mạnh cô gái ra, rồi tách khỏi đám đông, chạy sang bên kia đường với Bôn, vừa thở vừa cười:
- Làm thế để chúng nó sợ. Để chúng nó khỏi xả quác. Thủ trưởng thông cảm cho em.
Biết thuyền trưởng không muốn tham gia vào những trò chơi như vậy, nhưng đi đâu bây giờ? Nhìn nét mặt khó đăm đăm của thuyền trưởng, Chiêm khoác tay anh, reo lên:
- Hay là anh em mình đến nhà ông Nhâm đi.
Bôn tươi tỉnh hẳn lên:
- Phải đấy. Linh hai cũng mới từ Hong Kong về. Đang đỗ đây. Cuối bãi.
Anh không muốn sự có mặt của mình cản trở cuộc vui của anh em. Thủy thủ là vậy. Làm việc. Vật lộn với công việc. Hết mình. Nhưng cũng chơi hết mình. Cuộc đời họ gắn với biển, với các cảng, các bến sông, trôi nổi như sóng như nước, tàu là nhà, nhà là quán trọ, quanh quẩn mấy chục mét vuông, từ cái giường hẹp ra ngoài hành lang, từ hành lang ra boong, từ boong xuống hầm cá, xuống buồng máy, lúc nào bàn chân cũng dẫm lên sắt thép, lúc nào cũng trong nhịp tàu rung, trong tiếng rền rền của tiếng máy tàu, khi làm việc, cũng như khi chơi, khi đánh bài, khi ăn khi ngủ. Nhịp rung và tiếng rền của máy tàu đã là cuộc sống nhưng vẫn cứ giục giã làm người ta không yên, căng thần kinh, căng da đầu da mặt, thúc vào bụng vào ngực, bám vào từng tế bào như một chất keo dính nhớp không rời. Chỉ đến khi tắt máy mới thấy à, cuộc sống bình thường là như thế đấy. Mặt bằng bàn chân dẫm lên im lặng, bình yên, mặt bằng dưới lưng im lặng bình yên, bữa cơm bình yên, giấc ngủ bình yên, chiếc ghế mình ngồi lặng im ngoan ngoãn... Bỗng thấy một cuộc sống khác hẳn, một cuộc sống không có tiếng máy tàu. Tất cả dịu lại, chùng lại.
Những người đi tàu, kể cả Bôn, là những người sống giản đơn với những gì gần bản năng và cũng là những người lạc hậu. Quanh quẩn trong căn buồng hẹp. Đi trong hành lang hẹp. Rồi xuống buồng máy nếu là thợ máy, đi ra boong lái boong mũi nếu là thủy thủ. Cái boong lái giống như mảnh sân trong một gia đình. Làm việc ở đấy. Gieo trồng ở đấy. Thu hoạch ở đấy. Giữa trưa hè nắng đổ cũng là ở đấy. Mưa dầm gió bấc buốt xương hay trời mưa rào sầm sập trút nước cũng là ở đấy. Và khi trăng lên, nghỉ ngơi cũng là ở đấy. Người thủy thủ phải tranh thủ tất cả vì công việc. “Ăn nhanh lên!” Hoặc “Rồi hãy ăn!” Đó là những câu nói thường nghe thấy trên tàu cá. “Ăn nhanh lên!” hoặc “Rồi hãy ăn!” để có lưới đánh, để thả xong mẻ lưới, để cho cá vào khay, để cho cá xuống hầm, để kéo lưới. Đã ăn lưng lửng rồi thì “ăn nhanh lên!” Mới bưng bát cơm lên lùa vài miếng thì “rồi hãy ăn!” Để đến khi về câu lạc bộ, cơm canh nguội ngắt và đã quên hẳn bữa ăn rồi. Cứ như vậy cộng với bài bạc, đánh cờ ăn tiền (không thể đánh suông được. Nhạt phèo!). Và nói tục. Tục như tàu cá. Mở miệng là các từ tục tĩu văng ra. Như sắp điên đến nơi, sắp đánh nhau đến nơi. Cuộc sống là tối thiểu. Sợi dây liên hệ với gia đình không còn. Sợi dây liên hệ với xã hội chỉ là chiếc radio, những tin tức phát đi qua chiếc loa treo ở trụ đèn chính trên boong thượng. Loa kêu đấy, nói đấy, truyền đi tin tức đấy nhưng thật ít người nghe. Vì vậy khi lên bờ họ sống bù lại những tháng ngày lênh đênh trên biển. (Tàu cá còn khổ hơn tàu buôn nhiều. Tàu buôn trên biển là chỉ hành trình. Chẳng tàu buôn nào cày cuốc lao động ba tháng liền trên biển như tàu cá). Có người còn không biết Tổng bí thư Đảng, Chủ tịch Nước là ai.
Bôn biết chẳng thể gò anh em vào khuôn phép. Nhưng anh cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa anh với những người ở đất liền. Nếu không có gì cản trở, anh nghe không bỏ sót một buổi phát thanh nào. Mỗi chuyến biển anh đều lên thư viện mượn một hai quyển sách và tranh thủ đọc. Trên tàu có hai thủy thủ giống anh: mượn sách. Giáp và Mai. Mai mượn sách văn nghệ: Quy luật của muôn đời. Rừng xà nu. Chiếc lược ngà. Giáp mượn sách lý luận, sách chính trị. Chủ nghĩa Lenin và vấn đề dân tộc. Đấu tranh giai cấp động lực của phát triển. Toàn sách nặng. Mai bảo Giáp: Cẩn thận đấy. Bên Viện Triết mà biết họ điều sang là ngành đánh cá mất toi một nhân tài đấy. Giáp cười: Mất một nhà đánh cá nhưng lại có thêm một nhà lý luận. Thỉnh thoảng Bôn hỏi Giáp: Đọc đến đâu rồi. Giáp cười: Đọc nát cả bộ óc dân chài mà chẳng hiểu gì. Dù sao Bôn cũng quý Mai quý Giáp. Họ cũng đánh bạc, khi điên lên cũng rặt một giọng gai cá gúng, đuôi cá đuối, sẵn sàng đi đến ẩu đả nhưng vẫn dành thời gian đọc sách. Những người đọc sách bao giờ cũng hơn những người không đọc sách. Qua cơn nóng giận, họ biết mình phải làm gì và thế nào là lẽ phải. Anh chẳng thể bắt mọi người trên tàu đều đọc sách. Anh chỉ đòi hỏi họ điều tối thiểu: Phải bảo đảm nội quy, đảm bảo chế độ trực ca, phải hoàn thành chức danh nhiệm vụ. Như Chiêm đây, tếu táo thế nhưng là một máy phó miễn chê.
Anh bước bên Chiêm như một người em bước theo một người anh, vì đất vỉa hè Vũng Tàu này là đất của Chiêm. Anh cám ơn Chiêm vì Chiêm đã giải thoát cho anh khỏi một tình huống khó xử: Đi đến nhà Nhâm. Nhâm cùng quê với vợ anh: Cẩm Giàng Hải Dương và có họ xa với vợ anh, vai vế còn là chú vợ anh nữa. Nhâm cũng đã một thời gian làm thủy thủ trưởng cho anh. Người nhỏ thó, nhưng công việc luôn hoàn thành. Các thiết bị trên boong luôn được vệ sinh, che đậy, chăm chút. Bôn nhớ nhất cái lần đi ngang qua vùng biển Quy Nhơn, gặp bão. Buổi sáng trời vẫn đẹp. Gió chỉ hây hẩy. Những con cá chuồn bay thành đàn qua tàu, nhiều con lao xuống boong, lao vào vách cabin như những viên đạn. Thế nhưng đến chiều trời chuyển. Bôn cho tàu chạy tiếng ba, cố vượt qua cơn bão. Nhưng không kịp. Gió về nhanh quá. Chập tối gặp bão. Tàu nghiêng ngả. Mấy chục chai gió, mỗi chai nặng non tạ xếp trên boong lái đã chằng buộc bằng dây cáp cẩn thận, xô vào nhau kêu rầm rầm. Nếu nó hất tung dây chằng thì thật nguy hiểm. Những bình thép như những quả bom sẽ lăn trên boong, xô vào nhau, thúc vào miệng hầm cá, nguy hại hơn là đâm thủng be tàu và đến lúc ấy tất cả sẽ bó tay, bởi không ai có thể bước ra giữa những bình thép lăn lóc, lao điên cuồng trên mặt boong nghiêng ngả. Bôn cùng anh em xông ra, trong ánh đèn pha mọi người dùng tay ghì lại sợi cáp chằng đang lỏng dần. Những hạt mưa chéo quất rát mặt.
Gió thổi nghiêng người.
Tàu tròng trành khiến nhiều người trượt ngã. Cái chính là phải có những sợi dây mềm như dây ni lông, dây manila. Dây cáp cứng quá. Khó ghì. Lạt mềm buộc chặt. Các cụ đã nói vậy. Vừa nghĩ đến sợi dây mềm thì Nhâm ở đâu chạy ra với một tấm lưới ni lông cũ. Nhanh như chớp, tấm lưới được tung ra choàng lên toàn bộ mấy chục bình thép. Rồi từng mối dây được buộc, được cột chặt vào be, vào trụ ván, vào bệ tơi, vòng quanh cả miệng hầm cá. Tàu chạy dăm hải lý thì ra ngoài vùng bão. Căn cứ vào dự báo của nha khí tượng, Bôn đã tính toán tàu sẽ qua vùng biển ấy bão mới đến, nhưng bão đã đi nhanh hơn dự báo nên tàu anh chỉ chịu bão có nửa tiếng đồng hồ. Âu cũng là một bài học kinh nghiệm. Cũng chỉ bởi Bôn không muốn chạy vào đảo trú gió. Nửa ngày vào, nửa ngày ra. Lại phải chờ ít nhất một, hai ngày cho bão tan...
Là người hiền lành chịu khó, Nhâm được nhiều người mến. Nhâm không thắc mắc với ai, kèn cựa với ai. Kiểu gì cũng xong. Anh em bảo thánh nhân đãi kẻ khù khờ. Vừa chuyển sang tàu 2 được mấy tháng, đã được cùng cả tàu chụp ảnh làm hộ chiếu đi nước ngoài. Đi ngay từ những chuyến đầu tiên. Nhâm đã lấy một cô vợ ở Vũng Tàu. Đã mua nhà. Cha mẹ mất cả. Bốn nhăm tuổi vẫn độc thân. Cũng đã một lần lấy vợ ở quê, nhưng lấy phải người chẳng ra gì. Chồng đi biền biệt, ở nhà một mình, vợ Nhâm trở thành mụ Hến của đám nghêu sò ở xã, đẻ ba năm hai đứa, chẳng biết con ai nhưng chắc chắn không phải con Nhâm. Từ bấy Nhâm không về làng nữa. Biết Nhâm buồn, muốn có vợ, có một gia đình, anh em chia sẻ với Nhâm bằng cách của những người thủy thủ:
- Vợ con làm gì. Cứ đâm bậy một thương rồi bỏ chạy.
Thế là mọi người thương Nhâm đấy. Bởi họ biết rằng Nhâm chẳng bao giờ “đâm bậy một thương rồi bỏ chạy” như họ. Nhâm không chơi bời. Nhâm ăn tiêu đúng kế hoạch, cố gắng dành dụm. Tàu sửa chữa, bao giờ Nhâm cũng cùng anh em nhận một công việc gì đấy như gõ gỉ, vệ sinh hầm la canh, dưới khẩu hiệu giải phóng tàu nhanh nhưng thực chất là để có thêm thu nhập. Chẳng biết số tiền Nhâm dành dụm được bao nhiêu, chỉ biết khi được đi nước ngoài, mọi người kể cả thuyền trưởng, máy trưởng đều phải đi vay tiền và nhận vàng từ những người thân gửi mua cái áo lông, cái quạt cũ, cái đầu máy khâu làm vốn buôn ban đầu nhưng Nhâm thì không. Có đánh hàng Nhâm cũng chỉ làm vừa phải. Nhiều lắm là gấp hai lần tiêu chuẩn. Mà chủ yếu là những hàng như thuốc lá, thuốc con nhộng, xà phòng thơm, xích líp, máy tính bỏ túi, những thứ gọn, nhẹ, qua mặt hải quan được, những thứ bông hoa nhỏ được. Những bông hoa nhỏ là danh từ anh em chỉ việc mang hàng ít một lên bờ, nói theo tên gọi chương trình truyền hình dành cho các cháu thiếu nhi hồi đó. Trong những lần hoa nhỏ ở Vũng Tàu, Nhâm đã gặp người sau này sẽ là vợ Nhâm: Một cô bán thuốc lá vỉa hè. Đang xách túi đi tìm người bán hàng quen thì có tiếng gọi “anh có gì bán đấy, cho em coi nào”. Tiếng gọi ngọt ngào, dễ thương gần như nũng nịu. Nhâm bước lại. Một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi. Son phấn, xinh tươi, người miền Nam mà da trắng thế. Thuốc lá, xà phòng, máy tính,... cô mua hết. Khi Nhâm về, cô đứng lên chỉ tay vào ngôi nhà tối ngay sau lưng:
- Em ở đây nè. Tầng hai. Có hàng anh mang đến cho em, bao nhiêu em mua hết. Em trả như người ta, không để anh thiệt. Không thấy em ngồi đây, anh cứ vô nhà. Hỏi em ai cũng biết. Em kêu tên Huệ. Dễ nhớ lắm mà.
Thế là tất cả những hàng bông hoa nhỏ chuyến ấy và những chuyến sau Nhâm đều bán cho Huệ. Rồi Huệ mời Nhâm lên căn buồng xoàng xĩnh độc thân của Huệ. Rồi chuyện mua đô la Nhâm cũng chẳng phải lo nữa. Đã có Huệ. Nhâm thấy Huệ là người hiếm có ở chỗ trong việc mua bán Huệ rất thật thà. Mua hàng của anh, Huệ chưa bao giờ trả thấp hơn những anh em thuyền viên khác, cũng như Huệ tính giá đô la với anh chưa một lần cao hơn.
Tất cả mọi chuyện ấy, Nhâm giấu kín. Anh em dưới tàu không một ai biết. Nhâm chỉ kể khi hai người quyết định lấy nhau. Cả tàu đã lên thăm căn buồng của Huệ giờ đây là căn buồng hạnh phúc của hai người. Cô ấy chính quê An Giang, chẳng hiểu làm sao lại lấy chồng Vũng Tàu. Nhà này là nhà thuê của nhà nước. Thằng chồng quá khốn nạn suốt ngày rượu chè, đánh đập cô ấy. Không chịu được, cô ấy đã li dị. Đã có một đứa con, nhưng nó chết vì sốt xuất huyết cách đây ba năm. Đại khái cái lý lịch trích ngang của vợ do Nhâm kể là như vậy.
Lấy vợ được mấy tháng trông Nhâm thay đổi hẳn. Hoàn toàn là một người khác. Béo đỏ, da căng. Mặt mày tươi tắn sáng sủa mỡ màng, không còn làn da khô khốc đen sạm trên khuôn mặt khó đăm đăm lúc nào như cũng đang suy nghĩ căng thẳng, tính toán một điều gì. Tàu về, không phải trực là lên bờ, về với Huệ. Là những bữa ăn ngon, bổ, những gà ác tần hạt sen, là chim hầm thuốc bắc, là rượu thuốc (cưng uống bia ít thôi, uống thứ ấy chỉ tội nặng bụng, không được việc gì cho em là em bắt đền đó nghe cưng) là cô vợ trẻ thơm nức từ gót lên đến đầu với những bộ váy áo mỏng manh quyến rũ hết lòng chăm sóc chồng, sẵn sàng chiều chồng bất cứ lúc nào, lúc nào cũng thương chồng vất vả. Là những buổi xe máy thong thả đèo vợ đi lượn phố hay vào các hiệu may chọn mặt vải đo cắt cho Huệ. Căn buồng của Huệ chật cứng những đồ đạc đắt tiền. Cái tivi màu 19 inch mua ở Nhật. Chiếc tủ lạnh Toshiba hai cánh 250 lít cũng là của Nhật. Rồi dàn loa, rồi quạt máy, rồi điều hòa, cả đến cái tủ trang điểm của Huệ cũng là đồ Nhật xịn. Chiếc tủ đứng cũ kỹ được thay bằng chiếc tủ gỗ cẩm lai mới cứng. Rồi xa lông. “Vợ Nhâm phải đúng là vợ Nhâm chứ!” Anh em đến chơi nhà đều mừng cho Nhâm, khen Nhâm tốt số. Cũng lại là thần hoàng đãi kẻ ngẩn ngơ! Rõ ràng Nhâm đã đổi đời. Và cũng rõ ràng căn buồng trên gác hai này đã trở nên quá chật. Huệ bàn với Nhâm mua một căn nhà khác. Một ngôi nhà hai tầng mặt tiền của một gia đình chuẩn bị vượt biên. “Cùng lắm mới phải chịu ở thế này thôi cưng. Em muốn chuyển từ lâu rồi nhưng không có tiền phải chịu. Rồi còn sinh con nữa chứ cưng. Hình như em mang bầu rồi đây nè...” Huệ kéo chiếc váy mỏng lên rồi cầm tay Nhâm day day xoa xoa vào bụng mình, nũng nịu. Khi Nhâm đồng ý mua ngôi nhà ấy (ai cũng công nhận rẻ được một cây) Huệ đánh đu lên cổ Nhâm làm Nhâm loạng choạng đổ xuống giường, và thế là một cuộc ngẫu hứng bất chợt ngoài dự kiến đưa hai người tới thiên đường...
Nhâm làm tất cả cho ngôi nhà mới mua thêm đẹp. Chăm chút từ màu sắc tường, màu sơn cửa, tấm rèm tới bức tranh treo tường, chiếc đèn ngủ. Và luôn miệng: Vợ Nhâm phải đúng là vợ Nhâm chứ. Mọi người bảo Nhâm tốt số, từ bé đến giờ không được ai thương yêu chăm sóc, bây giờ như vậy chẳng qua là luật bù trừ. Chiêm lắc đầu:
- Ông Nhâm vất vả quá. Cứ đâm bậy một thương rồi bỏ chạy có phải nhàn nhã hơn không.
Thế nghĩa là Chiêm mừng cho Nhâm đã nên người. Bôn cũng vậy. Cánh tàu khối người bồ bịch, có người có cả vợ hai. Điều ấy Bôn phản đối. Ái tình phí nhiều đã hẳn, cắt hẳn một khoản trong ngân sách lẽ ra của vợ đem cho bồ là phạm vào đạo đức, chưa kể nhẫn tâm lừa dối người vợ cùi cụi nuôi con cho mình ở nhà khi mình đi biền biệt và vẫn tin rằng chồng chung thủy với mình.
Mà khốn nạn. Trừ những anh đi nước ngoài nhiều ít thế nào không biết, anh em đánh cá tiền có được là bao! Tàu anh, anh nghiêm cấm điều đó. Nhưng kiểu ăn bánh trả tiền hay nói theo cách của Chiêm đâm bậy một thương rồi bỏ chạy thì anh coi là cũng được. Cuộc đời thủy thủ tàu cá nào có mấy niềm vui. Hơn nữa, anh cũng chẳng thể cấm đoán anh em.
Kìa. Cái ngã tư có ngôi nhà chung quanh trồng toàn hoa giấy đã hiện ra. Qua đó rẽ phải là đến.
- Không biết ông Nhâm có nhà không.
- Tàu về hai ngày rồi. Chắc tối nay thế nào người cũng bông hoa nhỏ.
- Đến không gặp ông ấy thì ngồi với bà Huệ một lúc.
- Nghe nói ông Nhâm chỉ đi chuyến này rồi lên bờ có phải không.
Bôn gật đầu:
- Chuyến này xong là lên. Hôm nọ nghe Thục tổ chức nói thế. Lên là đăng ký rồi tổ chức cưới đấy.
- Hai năm đi nước ngoài. Ông ấy trúng số độc đắc còn gì. Có nhà. Có vợ. Lại được cô vợ đảm, chiều chồng hết ý. Lên bờ xin hưu non mở cửa hàng cà phê giải khát sống đỉnh đương. Chẳng phải đi đánh cá làm gì.
- Mình cũng nghe Nhâm nói sẽ nghỉ ngơi một năm rồi mở cửa hàng giải khát.
Cửa nhà Nhâm mở rộng, đèn tuýp sáng choang hắt ra hè. Chắc ông Nhâm có nhà rồi. Ngồi một tí thôi. Làm lon bia rồi về. Cảnh thủy thủ về bờ. Chẳng nên ám lâu.
Bôn bảo Chiêm. Chiêm đồng ý ngay, nhưng lại nói: “Bao giờ thấy mụ Huệ lườm nguýt mới về. Cho mụ ấy tức một trận. Mụ ấy là ngấu lắm rồi”.
Thế nhưng vừa bước tới nơi, hai người sững lại ở cửa. Ngồi xa lông ngay phòng khách là một người đàn ông to béo, cởi trần bụng phệ, trên mình, trên hai cánh tay không chỗ nào không vằn vện những hình xăm trổ, cái quần xà lỏn màu cháo lòng, vừa rít thuốc lá vừa dán mắt vào màn hình tivi có hai người một nam một nữ đang ngửa cổ ca cải lương. Ghế bên kia là hai đứa trẻ, hai chị em, đứa lớn khoảng mười tuổi còn thằng em kém con chị chừng một hai tuổi. Một đứa hỏi:
- Ba! Sao ảnh lại bỏ cô Thúy, ba?
Người đàn ông gắt:
- Cứ coi tiếp đi rồi biết. Con Nhẫn! Mở tủ lạnh lấy cho ba lon bia nữa!
Hai người khách - vốn dĩ nhút nhát khi đến nhà một người lạ, lại càng thận trọng hơn trước những gì đang xảy ra, nép vội vào bóng tối vỉa hè. Không. Đúng là nhà Nhâm. Chiếc tủ lạnh Toshiba 250 lít hai cánh, bộ xa lông, cái rèm treo cửa sổ, bộ đèn chùm. Lại bức tranh hai con dê gặp nhau trên chiếc cầu bắc ngang suối sâu. Đúng là nhà Nhâm. Không nhầm mà. Nhưng ba bố con người đàn ông này là ai? Chỉ nhìn cách họ ngồi xem tivi, cách uống bia của người bố, cách mở tủ lạnh của đứa con gái thì rõ ràng họ là chủ ngôi nhà này. Kia rồi! Huệ! Huệ với chiếc váy liền áo, tóc búi cao từ phòng trong bước ra. Hình như vừa tắm xong. Tươi tắn, mát mẻ, rạng rỡ và thỏa mãn. Vẻ thỏa mãn của những người đạt được ước mơ.
- Chị Huệ.
Theo phản ứng bản năng, Chiêm cất tiếng gọi. Cả bốn người trong nhà quay ra. Người đàn ông đứng lên, khệnh khạng bước tới. Cao lớn, tay chân nung núc thịt, gườm gườm nhìn hai người. Rồi Huệ. Huệ với nét mặt thay đổi hẳn, đanh lạnh, cáu kỉnh, nhăn lại ghê tởm như trong thấy một ổ vi trùng lúc nhúc. Hai đứa trẻ lại dán mắt vào tivi, chiếc tivi màu 19 inch thời đó là cả một sự mê mẩn. Quá bất ngờ, nhưng thôi, đành phải hỏi thôi, chẳng thể nào rút lui được nữa.
Bôn bước lại sát bậc cửa. Chiêm theo sau. Nhìn cảnh này Chiêm đã đoán ra cơ sự rồi. Nhưng vẫn phải bước theo để có gì còn chia lửa với thủ trưởng. Người đàn ông không giấu vẻ giận dữ:
- Huệ. Người ta hỏi em nè.
Bôn lịch sự khe khẽ:
- Chị Huệ à. Anh Nhâm có nhà không chị?
Huệ tròn mắt miệng há hốc như đột nhiên đứng trước những quái thai quái gở nhất trên đời, không thể nào hiểu nổi:
- Nhâm nào? Ớ đây làm chi có ai tên Nhâm. Kỳ quá à!
Và quay ngoắt đi vào phía trong, ném một cái nguýt dài. Người đàn ông bước xáp tới Bôn, mắt long lên:
- Vớ vẩn! Xéo! Biến! Lần sau đừng có đến đây giở trỏ vớ vẩn ra nữa nhé. Hối không kịp đó. Nói trước cho biết!
Chiêm tươi cười:
- Vâng. Chúng tôi xin lỗi.
Hai người lặng lẽ bước tới ngã tư, nơi có ngôi nhà trồng toàn hoa giấy.
- Đau quá. Ông Nhâm đau quá.
- Cú lừa này mới là cú lừa thế kỷ.
- Ky cóp cho cọp nó xơi.
- Cao thủ. Đại cao thủ. Cho vợ mình làm vợ người ta một năm trời để chiếm toàn bộ dinh cơ. Đúng là đại cao thủ.
Cả hai đều hiểu ngay tất cả đầu đuôi câu chuyện. Cái mỹ nhân kế ấy phải nhằm đến đích mua một ngôi nhà. Và ngôi nhà ấy mang tên Huệ là chủ sở hữu. Nhâm không thể đứng tên hoặc đồng đứng tên bởi một lẽ giản đơn: Nhâm không có hộ khẩu. Lại không có đăng ký kết hôn.
- Suốt một năm vừa rồi không thấy thằng chồng với hai đứa con lai vãng đến đây. Thế mới sợ.
Hai người đều thương Nhâm và cảm thấy hận thay cho Nhâm. Giá Nhâm chơi bời trai gái đĩ bợm lại khác. Lừa những người ấy là khốn nạn nhưng vẫn có thể chấp nhận được. Còn đây là Nhâm. Một người độc thân. Ngoài bốn mươi nhưng vẫn chưa biết thế nào là tình yêu. Chiêm nói thành lời suy nghĩ của mình:
- Khổ thân ông ấy. Hai lần lấy vợ đều bị vợ lừa cho nên sếp thấy triết lý của tôi có đúng không! Cứ là đâm bậy một thương rồi bỏ chạy.
Chiêm cố cười. Còn Bôn không sao cười được.
Trên bảng đen trong bếp chú Hùng ghi:
15 giờ 15 TL (thả lưới)
17 giờ 45 KL (kéo lưới)
Bên cạnh đó không biết ai đã vẽ hình con tàu của chúng tôi nom rất giống.
Trong thời gian tàu dắt lưới tất cả ngủ, chỉ trừ chú Lượng và chú Hùng đi ca hàng hải. Dưới buồng máy cũng có một thợ máy, tôi không biết là ai. Cuộc sống trên tàu thật đơn điệu. Những cái máy ăn. Những cái máy ngủ. Nhìn bố nằm ghếch chân lên thành giường mệt nhọc, những ý nghĩ giận hờn, hụt hẫng thất vọng tối hôm qua trong tôi có dịu đi phần nào. Tàu trở lại hoang vắng. Biển càng hoang vắng.
Một ngày một đêm tưng bừng phấn khởi. Toàn tàu linh hoạt hẳn lên. Bố linh hoạt hẳn lên. Bố gọi chú Hùng đang ở buồng lái vào, hai người cặm cụi trên hải đổ, đo đo tính tính. Mẻ nào cũng đạt trên một tạ tôm. Và rất nhiều cua. Những con cua bể giơ càng lởm chởm răng cưa dữ tợn. Nhặt tôm, muối cá và buộc cua. Có mẻ lưới không có thời gian ràng cua mà cứ lấy xẻng xúc vào lổ đổ vào nhà tắm rồi đóng chặt cửa lại. Những lúc mở cửa nhà tắm bỏ thêm cua vào, nhìn đống cua lổm cổm bò mà sướng mắt, mà phát khiếp: Chúng đổng loạt giơ càng lên cao như một rừng giáo mác. Trong lúc ngồi nhặt tôm với các chú thủy thủ, một con cua không biết từ đâu bò đến cắp vào mông tôi xuyên qua lượt quần lót máu chảy ròng ròng. Tôi đứng lên, con cua treo mình lủng lẳng càng cắp mạnh. Tôi cố gắng không kêu, không chảy nước mắt. Bác Sĩ vội xỏ găng tay vải bạt bẻ cái càng còn lại rồi ghé mồm cắn nát một gọng kìm của chiếc càng đang cắm sâu vào thịt tôi. Tôi phải vào buồng lấy dầu xanh xoa vào vết thương. Đúng là vết thương. Cái quần đùi bị thủng hai lỗ và ở mông tôi hai vết trũng rỉ máu như hai vết răng chó.
Tôm vàng. Cua bể và cá. Sáu mẻ lưới liên tiếp thắng lợi. Mọi người nhìn bố đầy vẻ kính phục. Họ nói với nhau: Ông Đáng bám tôm như ông Uy bám cá mối, không chạy đi đâu được. Và hát: “Không cho chúng nó thoát. Không cho chúng nó thoát. Chúng bay vào sẽ không có đường ra”. Niềm vui từ đáy lòng nên thật là đồng cảm. Bây giờ tôi hiểu những mẻ lưới được nhiều tôm cá làm mọi người mệt nhưng vui vì những lý do gì rồi.
Đêm qua ngủ ngoài boong mũi. Chăn dạ trùm kín dù đang giữa mùa hè. Mơ mơ màng màng thấy tàu đến gần những con tàu ngoại quốc lớn đang buông neo. Ánh điện trên tàu sáng chói một vùng trời một vùng biển. Rồi lại thấy hàng măng sông lưới đèn sáp lại, lấp lánh. Biết rằng mình ngủ được vì từ những con tàu ngoại quốc buông neo chờ vào cảng đến những vàng lưới đèn cách nhau xa lắm.
Sáng làm tôm xong, mặt trời vẫn chưa mọc. Biển hiền lành. Trời dịu, biển dịu. Nhưng khi có một mảng hồng đầu tiên trên trời, biển đổi màu ngay. Từ đó là một sự đổi màu liên tục của biển vì trời đổi màu liên tục.
Mẻ lưới buổi trưa chỉ được mấy con cả dưa, một đống cá ngác. Một chú thủy thủ cầm con dao nhọn rạch một nhát vào bụng con cả dưa, moi ra cái bong bóng ròng ròng máu, vặn nước rửa sạch rồi đem phơi. Còn cá ngác thì xịt nước cho giạt ra be xuống biển. Bố bảo: Chuyển về Vạn Sơn thôi. Đàn tôm vàng hết hoặc tan rồi.
Tàu lại cẩu lưới chuyển về Vạn Sơn. Là nói vậy thôi chứ tôi thấy vùng biển nào cũng giống vùng biển nào. Cũng sóng cũng nước và nhìn về phía tây thỉnh thoảng lại thấy vệt xanh mờ của cây cối thì biết phía ấy là bờ, là đất liền.
Vạn Sơn. Đêm. Trăng chênh chếch. Chuông kéo lưới. Mảy giảm tốc độ. Đèn tối lại. Quạt chạy chậm lại. Mẻ lưới được ít nhưng nhiều tôm he. Những con tôm he râu và vi bụng đỏ như máu tươi nom thật thích mắt. Bảo đảm mẹ tôi cũng như cả làng chưa ai nom thấy những con tôm như thế. Tôi nhặt năm con tôm he to định đem xuống bếp nướng, nhưng chú Hồng gọi lại: Cho vào ống xả. Một lúc là chín thôi cu ạ. Chờ chú. Chú Hồng xách một con cá chim trắng to như cái quạt đi cùng với tôi lên chỗ ống khói. Hơi nóng tỏa ra. Chú xỏ một sợi dây vào mang con cả chim, rồi kẹp mấy con tôm của tôi lại, cho vào ống xả. Chú Lượng đổ cả một rổ tôm tít vào nồi bắc lên bếp luộc. Làm xong mẻ lưới, mọi người tụ tập cả ở boong lải. Bác Nhớn xách can chíu chương đã vơi vơi, một can rượu còn đầy lên. Tôi bóc con tôm he nướng thơm phức mời bác Suất, mời bác Sĩ, mời bố, nhưng tất cả bảo nhường tôi. Con tôm he to chấm tương ớt cắn một miếng đẫy mồm đẫy miệng. Vị tôm ngọt thơm, vị chíu chương cay cay. Cố gắng lắm tôi cũng chỉ ăn hết hai con. Ba con còn lại được bác Nhớn, chú Hùng, chú Quẹn tương trợ. Rượu rót ra chén ra cốc nhựa. Tôi cũng có một chén rượu đầy. Nhưng bố bảo:
- Thằng Phong không được uống rượu.
Tôi lại đặt chén xuống, mặc dù không muốn vâng lời chút nào, không muốn bị coi là trẻ con chút nào.
Nhưng bác Sĩ nói giúp tôi:
- Hôm nọ bên tàu ông Việt nó đã uống rồi đấy. Uống được. Con trai là phải biết uống rượu. Nam vô tửu như kỳ vô phong. Bác xin phép bố cho mày rồi. Uống đi. An những thứ này mà chiêu nước chè còn ra cái quái gì.
Tôi uống. Không bị sặc nữa. Nhưng vẫn cay quá. Nước mắt muốn chảy ra. Đúng là có hớp rượu, lại thấy muốn ăn. Tôi bóc một miếng cá chim. Rồi quay sang rổ tôm tít. Cái giống tôm bé, đầu to, có hai càng giống như hai càng cua này ăn rất mát ruột. Trăng sáng. Gió đã nhẹ đi nhiều. Sóng êm hơn. Chén rượu đầy để trên mặt boong chỉ sóng sánh chứ không nghiêng đổ ra ngoài. Đó là những giờ phút thư giãn đầm ấm dễ chịu nhất trên tàu, trong cuộc đời thủy thủ. Chú Hồng cười:
- Cứ thế này thì đi biển muôn năm!
Rồi lại:
- Biển này là biển hiền hòa. Biển này là bạn phương xa!
Bác Sĩ mỉa mai:
- Thuận buồm xuôi gió chén chú chén anh. Lên thác xuống ghềnh buồi anh dái chú.
Bố tôi bảo:
- Cố gắng đánh được tấn rưỡi tôm thì về.
Rượu làm tôi lâng lâng. Các chú các bác rất cởi mở vui vẻ. Con cá chim đã biến mất hoàn toàn. Xương, vây, đầu cũng không còn. Rổ tôm tít chỉ còn lại vỏ. Bác Sĩ vào phòng đem ca chè trứ danh cùng phích nước ra. Tôi đứng dậy đi ra vịn lan can nhìn biển. Trăng chênh chếch lấp lánh. Những gợn sóng đẫm trăng rượt theo nhau như đã hẹn nhau đi tới một nơi nào đó, không dừng lại. Tàu vẫn đi, nhưng dù có quay ngược, quay xuôi thế nào cũng vẫn là một vệt trăng vàng bám đuổi không rời. Dòng nước phía đuôi tàu lõm xuống rồi cộn lên, hệt như biển đang đùn lên một dòng nước bằng vàng. Tiếng dây cu roa tải máy điện (bây giờ tôi biết những cỗ máy nhỏ vuông vức dưới buồng máy là máy điện rồi) tành tành, tành tành. Nhiều người cũng đứng dậy bước ra mạn, vịn lan can nhìn biển. Bố tôi bảo:
- Hồng ơi. Có nhớ Nam Cao không? Trăng chiếu trên sông và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng.
Bỗng ở phía xa trước mũi tàu một ngọn đèn lắc đi lắc lại rối rít. Bác Sĩ kêu lên: “Thuyền lưới rê!” Bố vặn vô lăng về phía phải. Bác Sĩ bảo:
- Thuyền nó ở cuối gió. Bao giờ cũng vậy. Lưới ở trên. Thuyền ở dưới. Rẽ ra là dính lưới đấy.
Bố cho tàu rẽ trái. Một lát sau, khi chúng tôi đang quây quần quanh đám tá lả ở buồng ăn, có tiếng thét của chú Hùng lùn: Lưới! Lưới rê! Bố vội nhảy lên buồng lái. Khi tôi lên còn nhìn thấy một cái cờ nửa đỏ nửa trắng nhấp nhô xa dần.
Tàu giảm tốc độ. Bố cho kéo lưới. Sợ bị quấn chân vịt.
Con tàu đã dừng hẳn dù mảy vẫn nổ. Khi trục tơi quay tròn kéo những mét dây cáp đầu tiên, nhìn những mảng lưới cước trắng quấn chung quanh cáp, một sự im lặng ghê gớm bao trùm tất cả. Không ai nói một câu. Nét mặt mọi người đầy lo lắng trừ bố. Tất cả im lặng làm việc. Không một lời nhắc nhở. Làm nhanh, làm dứt khoát. Làm vì biết nhiệm vụ phải làm. Làm để sớm xua đuổi nỗi ám ảnh: Gỡ cho nhanh những miếng lưới rê này để khỏi lôi thôi. Và cũng để biết rằng tàu có bị quấn chân vịt không. Ai cũng lo như vậy nên không ai dám nói ra. Nhìn nét mặt lạnh tanh của bố, tôi biết bố đang nghĩ ngợi rất lung. Nếu quấn chân vịt, máy không hoạt động được thì biết làm sao đây. Ba sợi cáp bị quấn chặt vào với nhau. Một lá cờ nhỏ đỏ trắng dắt ở ròng rọc đầu tăng gông. Những con dao nhỏ đầu nhọn sắc như nước được mang ra. Cắt lưới. Im lặng xẻo cắt. Trèo ra tăng gông. Tụt xuống ván. Ngồi hẳn trên giềng phao, ngâm chân xuống biển. Gỡ. Cắt. Xẻo. Rồi tất cả lên boong. Bố hạ lệnh tơi hoạt động để kéo đụt. Cái đụt đã ở ngay sát ván mà sao kéo không lên. Tang tơi cuộn từng vòng. Pu li rít ken két. Dây kéo đụt bằng ni lông trắng ngà to ngang chuôi dao căng thẳng. Đụt vẫn không nhúc nhích. Một chú nhấc dây cáp đặt lại trên be. Tơi lại rít ken két. Tàu hơi nghiêng đi. Mãi mới nhổ lên được cái đụt bê bết đất. Đụt bên kia cũng vậy. Lèo tèo vài kí tôm. Làm xong là mười một giờ đêm. Mọi người đã tưởng thôi không đánh nữa. Và đã có tiếng khe khẽ:
- Về đây là đè lưới rê ngay thôi mà.
- Cứ ở Lạch Trường lại hơn.
- Quyết đạt một tấn rưỡi tôm để làm gì nhỉ.
Không biết bố có nghe thấy không. Bố lên buồng lái giật chuông. Máy nổ. Tiếng máy giòn giã. Những bọt nước quạt lại phía sau trong ánh đèn pha lúc này sao đảng yêu đến thế. Nó chứng tỏ tàu vẫn bình thường, không phải thả trôi. Không phải nhờ tàu đến cứu. Tiếng bố:
- Chuẩn bị thả lưới nhé!
Nhiều tiếng ngạc nhiên hỏi lại:
- Thả lưới à?
- Ừ. Thả lưới. Bố đáp nhẹ nhàng.
Đám người vừa lao động khẩn trương căng thẳng ôm đống lưới mới được buộc lại xốc xuống biển. Bố lại ra đứng chỗ chân cần cẩu nhìn xuống. Bác Sĩ nhìn theo chiếc lưới còn chưa duỗi hết đang quấn vào nhau trong nước biển phía đuôi tàu dưới ảnh đèn pha, hốt hoảng:
- Sao thế kia.
Bố ôn tồn:
- Tốt. Không việc gì đâu.
Tàu đi. Dưới nước, lưới duỗi xuôi đẹp xa dần, chìm dần. Xong mọi công việc lúc ấy mới thấy trăng vàng vẫn chênh chếch mặt biển. Nhưng thôi ăn mì đã. Mặc dù đã ăn cả chim nướng, tôm tít luộc và cả tôm he nữa, bác Nhớn vẫn nấu nồi mì tôm phục vụ mọi người đêm nay vất vả.
Đêm tôi lại ngủ trên boong thượng. Boong mũi vẫn còn mùi tanh của bữa ăn bốc lúc tối. Mơ mơ màng màng. Nghe có tiếng quát. Và tiếng chú Hùng: “Không. Không có gì đâu”. Ngồi nhỏm dậy thấy trong ảnh đèn hành trình hai cảnh buồm mở rộng, một chiếc nhô lên ngay mũi tàu. Và những người đứng trên thuyền lố nhố. Những người đi tìm lưới rê, tìm con tàu đã làm mất lưới của họ. Họ khua tay ra hiệu tàu dừng lại. Tiếng quát to:
- Tàu làm mất lưới rê của chúng tôi. Cho chúng tôi lên tàu.
Chú Hùng thét:
- Chúng tôi không biết lưới rê lưới kéo gì cả. Tránh ra, tàu đâm chúng tôi không chịu trách nhiệm.
Những người trên thuyền vẫn huơ tay ra hiệu. Sóng làm hai cánh buồm lúc hút xuống lúc nhô lên ngay bên mạn. Chú Hùng giật chuông. Máy tăng tốc độ, rùng rùng rướn tới bỏ lại chiếc thuyền buồm chở những người đánh cá mất phương tiện sinh sống trong bóng tối biển cả mênh mông. Tôi nằm, không ngủ được. Tôi ghét chú Hùng. Tôi ghét bố. Bây giờ tôi càng hiểu vì sao khi tàu quấn lưới rê, cả tàu phải cắt lưới và làm mọi việc nhanh như thế. Tôi thương những người đánh lưới rê. Trong bữa ăn tôi đã được nghe mọi người nói về lưới rê. Đó là thứ lưới thả nổi, dài hàng mấy trăm mét, rất nhiều tiền. Cuộc sống thật gian nan, vất vả, cực nhọc đầy rẫy những chuyện đau lòng.
Bố đã thức dậy đi ra buồng lái: Cái gì thế? Chú Hùng trả lời: Không có gì đâu. Họ đi tìm lưới rê đấy mà. Bố nhắc: Giảm tốc độ đi. Chú Hùng kéo tay chuông: Vừa nãy họ cứ chắn mũi tàu. Tăng tốc dọa họ tí thôi. Đã định nếu không tránh là mang súng ra bắn chỉ thiên. Bố nghiêm mặt: Đừng. Súng ống rách việc. 
- Buông dây lái cho xà lan dầu! Buông dây lái cho xà lan dầu!
- Mở van nước không vỡ ống bây giờ! Mở van nước ngay!
- Xông hết dây mũi, chỉ để lại một tao thôi!
- Xông từ từ dây mũi ra!
- Xông từ từ dây lái ra!
- Thu hết dây lái về! Thu hết dây lái về!
- Chuẩn bị dây lái để ném dây lái!
- Thu nhanh dây lái nếu bắt được dây lái!
- Ném lại đi! Chỉ ném một đoạn dây mồi cũng không xong!
- Ném dây lái lại đi!
Những tiếng loa vang động cả xí nghiệp rồi tắt hẳn khiến người ta biết ngay là tàu ông Chơn đang ở bến. Và sau những mệnh lệnh khi nghiêm khắc, khi càu nhàu gắt gỏng ấy là những tiếng còi tàu chứ không phải Đi mô chừ cũng nhớ về Hà Tĩnh thì người ta biết tàu ông Chơn tách bến đi sản xuất chứ không phải từ ngư trường về cập bến.
Trên buồng lái, Chơn nắm vô lăng, mắt căng ra nhìn về phía trước. Tất cả một màu trắng sữa. Trời mây sông nước, trước mặt, phía sau, bên phải bên trái, trên đầu dưới chân đều một màu trắng đặc như có thể lấy tay vốc được. Sa mù. Trời này gọi là tầm nhìn hạn chế đây. Có cả một chương về sa mù trong bài học hàng hải: “Khi đó chỉ được cho tàu hành trình với tốc độ vừa phải”. Chung chung quá. “Vừa phải” nghĩa là khi phát hiện ra mục tiêu thì tớp máy sao cho trớn tàu đi chớm đến mục tiêu là dừng lại. Thế đấy. Chẳng cụ thể tí nào. Anh phân công hai thủy thủ mạn phải, hai thủy thủ mạn trái, hai người trên boong lái. Nhìn. Căng mắt ra nhìn. Đứng ở mũi tàu nhìn không thấy lái. Chỉ thấy bóng cái cần cẩu mờ mờ chênh chếch chỗ hầm cá và bóng người thủy thủ đứng bên mạn, đốm thuốc lá thỉnh thoảng lại đỏ lên. Phát hiện tàu bạn phải tốp máy dừng lại quan sát. Đến khi thấy rõ hướng đi của họ mới dám cho tàu mình chạy. Còi mù liên tục. Còi mù không dứt. Còi mù như lạc bạn cất tiếng gọi. Tôi đang ở đây. Tôi đang ở đây. Với Chơn hôm nay, tiếng còi còn như tiếng chào Hòa vẫn đang đứng trên bến nhìn theo. Chào em. Cám ơn em. Anh đi. Hai tuần nữa anh về. Thông cảm với anh. Tu tu. Hòa nhé. Tu tu. Tu tu. Tu tu. Anh em bảo kính coong đấy. Giống xe đạp đi vào chỗ đông người. Kính coong. Kính coong. Tàu chạy tiếng một. Máy xình xình một nhịp. Tiếng máy cũng như nhẹ đi. Sóng được bọc trong một lớp bông xốp êm đềm. Tàu như rẽ lớp bông xốp mà đi. Bồng bênh. Bồng bênh. Tiếng còi đều đều. Như gọi. Như chào. Chơn biết trên cầu cảng Hòa vẫn đứng trong sa mù dõi theo bóng tàu anh, nghe tiếng còi tàu anh cất lên rời bến, nhưng anh không dám quay đầu lại. Với lại có nhìn thấy gì đâu mà quay đầu với chẳng quay đầu. Sao lúc này anh muốn có Hòa đứng bên đến thế. Để lại được ôm Hòa, cảm thấy hết chiều dày, chiều cao, hơi nóng rừng rực tỏa ra từ tấm thân Hòa. Để lại được gục đầu vào ngực Hòa thơm mùi sữa. Để cùng Hòa đi ra biển. Kể ra có thể lùi giờ tách bến lại chờ tan mù.
Nhưng như thế thì chậm mất so với tính toán của anh. Và nhất là chậm mất giờ tách bến đã được đại phó Lừng nghiên cứu kỹ. Hơn nữa biết đến bao giờ mới tan mù. Anh cũng không muốn phá vỡ kế hoạch đã định: Ghé vào Vụng Ngọc, đưa lên tàu con lợn non một tạ, làm một bữa lòng lợn tiết canh ra quân để tăng thêm khí thế. Mấy tháng nằm bờ sửa chữa kham khổ quá rồi. Lại còn phải bảo đảm thả mẻ lưới đầu tiên vào lúc hoàng hôn. Hừng đông, tắt quản, đó là hai mẻ lưới quan trọng nhất trong cả một ngày. Đây là một chuyến đi biển thực hiện theo cơ chế khoán mới: Lời ăn, lỗ chịu. Có thể nộp cá cho xí nghiệp nhưng cũng có thể nộp tiền. Nghĩa là có thể bán cá ngoài biển, bán cá ở cảng. Nộp tiền cho xí nghiệp theo định mức. Một chuyện rất khó nhằn. Đánh lưới vét là lọc nước lấy cái. Càng lọc nhiều nước càng được nhiều cái. Mà tốc độ tàu giảm, dù mới trung tu xong. Bởi có phụ tùng thay thế đâu. Dầu tiêu hao vượt định mức, nói theo cánh thợ máy “tàu uống dầu hơn voi uống nước”. Đó là chưa kể mấy chục năm nay chà đi xát lại, Vịnh Bắc Bộ có còn như trước nữa đâu. Nghề lưới vét là một nghề tàn phá môi trường, khai thác có tính hủy diệt, gần như chẳng còn nước nào duy trì. Chỉ mỗi Việt Nam... Khó khăn. Nhưng anh quyết chuyến ra quân thắng lợi. Không phụ lòng tin của anh em. Cố gắng đem lại thu nhập dù chỉ là tối thiểu. Thực hiện chính sách khoán trắng của xí nghiệp, trách nhiệm của thuyền trưởng thật nặng nề. Anh chỉ mong tàu đừng xảy ra sự cố...
Tối qua, buổi tối trước khi tách bến, như mọi thủy thủ khác, anh lên nhà xe, lấy xe dạo phố. Đi lang thang. Như những buổi tối trước khi tách bến, chỉ có mấy người trực ban ở lại tàu, còn tất cả lên bờ. Đi từ biệt đất liền. Đi để nghe nhìn. Nghe những âm thanh muôn hình muôn vẻ của cuộc sống. Nhìn những người giặt giũ, lấy nước ở vòi nước công cộng vỉa hè. Nghe tiếng ô tô lăn bánh trên đường nhựa. Để xa nó, ra biển. Người thủy thủ có lẽ là người có nhiều cuộc chia tay nhất. Đang vẩn vơ cảm nhận những cành lá ven đường ngay trên đầu mình, bỗng nghe có người gọi tên anh. Hòa. Thì ra anh đang lang thang ở phố Phan Bội Châu, ngay trước cửa nhà Hòa.
Đã lâu lắm mới gặp lại Hòa. Hòa luôn gợi cho anh những tình cảm tốt đẹp, tin cậy, chân thật đến mức cảm động. Hòa còn làm anh nghĩ tới thời gian đi sao thật nhanh, và con người ta biến đổi biết chừng nào bởi trước mắt anh không phải cô Hòa vừa là trẻ con vừa là người lớn năm nào. Một cô Hòa anh vẫn nhận ra ngay nhưng đã hoàn toàn khác. Một cô gái trưởng thành như muốn khoe tất cả sức sống bừng dậy trên khuôn mặt, trên cơ thể. Một cô Hòa khỏe mạnh, rực rỡ tươi tắn quyến rũ làm anh bất ngờ, gần như choáng ngợp. Hòa chạy ra sát lòng đường, nắm tay anh, kéo anh về nhà. Đã lâu lắm anh mới bước chân lên cái hè phố này. Nhà Huyền kia. Đứng ở trước cửa là những cô gái lạ mặt. Chắc mẹ Huyền cũng đã chuyển nhà rồi. Anh bước theo Hòa. Lại đi vào cánh cửa ngách ấy, lối đi hẹp ấy. Cái ô làm buồng tắm đã được chữa lại. Như đoán được những gì trong lòng anh, và cũng giống bà mẹ trước đây, Hòa dừng lại trước cửa gian buồng tắm, bật điện. Cửa gỗ mở, nhưng bên trong không còn xô chậu, gáo múc nước với cô gái bé nhỏ khom người bối rối lấy tay che chỗ kín nhìn anh. Một nhà tắm với đầy đủ các la va bô, bệ bệt, vòi hoa sen, bình nóng lạnh giữa những bức tường ốp gạch men trắng muốt.
- Mới chữa lại đấy anh ạ.
Hòa nói và nhìn anh. Anh cũng nhìn vào mắt Hòa và thấy ở đó có gì như giễu cợt, như trêu chòng lại như thách thức, một vẻ thách thức đầy tự tin. Đôi mắt nói hẳn anh còn nhớ em đã tắm ở trong ấy và anh đã nhìn thấy tất cả con người em không giấu giếm không che đậy. Ngày ấy em là một con bé con vừa sung sướng vừa sợ hãi và xấu hổ, nhưng sợ hãi nhiều hơn vì em còn là con nít trong khi anh đã là người lớn, mà người lớn bao giờ cũng mạnh mẽ bí ẩn, lũ trẻ con chúng em không hiểu được. Còn bây giờ anh xem em đã là như thế nào. Em cũng là người lớn như anh, hiểu những gì thuộc về người lớn như anh. Hòa lại nắm lấy tay anh, cái nắm tay thân thiết làm anh xao xuyến.
- Mẹ xem con đem về cho mẹ ai đây này.
Mẹ Hòa đang ngồi ở giữa nhà, ôm một đứa bé chừng sáu, bảy tháng, đứng vụt dậy:
- Anh Chơn. Sao lâu thế không thấy anh lại chơi.
Chơn nhìn đứa bé trong tay mẹ Hòa rồi lại nhìn
Hòa. Hai má Hòa ửng đỏ:
- Con em đấy. Cháu trai.
Thật quá bất ngờ. Anh đứng ngây người nhìn thằng bé giơ hai tay về phía mẹ đòi bế. Hòa bế con và chìa nó về phía Chơn:
-  Bác bế con nào.
Thấy người lạ, thằng bé nép vào người mẹ. Chơn giơ tay xốc lấy nó, vô tình anh chạm vào ngực Hòa vừa mềm lại vừa căng. Nhưng nó nhất định không chịu, cứ ôm chặt lấy cổ mẹ.
Bà mẹ rót nước rồi quay lại hỏi anh:
- Đã vợ con gì chưa. Con Hòa nó cứ hỏi thăm anh mãi đấy.
Câu ấy cứ như một lời trách móc, như muốn nói lẽ ra anh đã là chồng Hòa và Hòa lúc nào cũng nhớ đến anh.
- Con ế bà ạ. Vẫn cứ lấy tàu là nhà, biển cả là quê hương thôi.
- Để tôi làm mối cho một đám. Thật đấy. Giá ngày ấy anh đồng ý em Hòa, bây giờ cũng đã con bồng con bế thế này rồi.
Anh cười. Hòa cũng cười. Cả hai cùng đỏ mặt. Thằng bé cứ rúc vào ngực Hòa đòi bú. Hòa bảo mẹ:
- Mẹ bế cháu ra ngoài kia chơi một chốc nhé.
Còn anh và Hòa. Hai người ngồi nhìn nhau. Gái một con trông mòn con mắt. Trước mắt anh là một phụ nữ xinh đẹp và quyến rũ. Dù quần áo rộng vẫn thấy được một cơ thể căng đầy, nở nang, hơi xổ ra càng làm nổi tấm thân tràn căng nhựa sống. Da sáng mịn, dưới ánh đèn vàng vọt vẫn thấy sắc hồng nơi gò má. Nổi bật nhất là khuôn mặt đầy đặn và hai bầu ngực tròn mà anh biết vừa rắn lại vừa mềm. Ớ hai chỗ nhô xa nhất nơi ngực ấy, sữa thấm ra làm ố chiếc áo hoa. Không còn là cô bé Hòa nhỏ xíu năm nào dù khỏa thân vẫn chỉ gợi cho người ta ý niệm đứng xa xa nhìn ngắm. Anh cố tìm những mối dây liên hệ giữa cô gái như vầng trăng non mát dịu ngày trước với người mẹ một con như một mặt trời tỏa ra biết bao năng lượng có thể thiêu đốt người khác đang ngồi trước mặt anh:
- Hòa đẹp quá. Khác hẳn trước. Hòa trông anh có già nhiều không?
Hòa cũng chăm chú nhìn anh:
- Trông anh trẻ ra thì có.
Đến lúc ấy anh mới biết trước khi cưới, Hòa đã mấy lần xuống xí nghiệp tìm anh đưa giấy mời, nhưng tàu anh đi biển. Chồng Hòa cũng là dân đi biển, thủy thủ trên một con tàu vận tải Bắc Nam.
- Sao lâu thế anh không đến chơi. Hòa nói như trách móc. Mẹ em cứ nhắc đến anh luôn. Nói thật với anh mẹ em quý anh lắm. Chỉ muốn anh làm rể thôi.
Đó là một lời thú nhận Hòa yêu anh, vẫn yêu anh. Chơn vừa sung sướng vừa như đánh mất một cái gì. Anh cố lấy giọng bông đùa để át đi sự xúc động:
- Mẹ là một chuyện. Chủ yếu là em chứ.
- Thì đã có bao giờ em nói không bằng lòng anh đâu.
Rồi như một ý nghĩ vụt đến, Hòa bước lên thang gác lửng:
- Anh chờ em một tí nhé.
Từ trên gác lửng đi xuống là một Hòa khác. Không mặc bộ quần áo vải hoa thông thường khi ở nhà, Hòa khoan thai từng bước với bộ váy liền áo mút xơ lin mỏng màu đen. Đã thon thả lại càng thon thả. Đã nở nang lại càng nở nang. Trông rõ chiếc nịt vú như hai cánh bướm xòe trên ngực. Trông rõ đường cong nơi eo chạy xuống cặp chân dài. Vừa lồ lộ lại vừa bí ẩn. Anh kêu lên:
- Hòa đẹp quá.
- Anh chỉ khéo nịnh em thôi.
- Đẹp lắm ấy. Ít người có được cái dáng như em.
Hòa cười hồn nhiên:
- Ngày ấy anh chê em bé chứ gì?
- Không. Không phải chê em bé, mà em hãy còn là trẻ con. Anh lấy người lớn. Như em bây giờ. Anh không lấy trẻ con.
Cả hai cùng cười. Hòa bảo:
- Như em bây giờ anh có lấy không?
Không trả lời, anh đặt bàn tay để mở lên bàn, chìa về phía Hòa và đăm đắm nhìn Hòa. Hòa cũng nhìn anh rồi cúi đầu. Anh vẫn kiên nhẫn để yên bàn tay mời gọi. Một lúc sau Hòa nhẹ nhàng đặt bàn tay mình vào đấy. Anh nắm nhẹ bàn tay Hòa mát lạnh, rồi ấp cả tay kia lên tay Hòa. Anh đứng lên bước sang phía ghế đối diện. Hiểu ý anh, Hòa ngoan ngoãn đứng lên. Hai người song song sát nhau. Anh cảm thấy hơi nóng từ người Hòa tỏa ra bao bọc lấy anh. Anh ôm Hòa nhè nhẹ. Hòa đứng nguyên trong vòng tay anh. Anh hôn Hòa nhưng Hòa quay mặt đi:
- Không được. Em bảo không được mà.
Chơn nói lắp bắp:
- Anh yêu em.
Dù không cho anh hôn, Hòa vẫn đứng nguyên trong vòng tay anh. Anh cảm nhận hết cơ thể dày dặn của Hòa song song với cơ thể anh đang bốc cháy.
Khẽ gỡ tay anh, Hòa quay lại ghế ngồi. Chơn cũng trở về ghế của mình, ngồi nghe Hòa nói. Chuyện Hòa lấy chồng và đau khổ là những bất ngờ liên tiếp đối với anh. Với những tình cảm vừa bùng lên trong lòng, anh nghe Hòa với tất cả sự chăm chú pha lẫn xót thương tiếc nuối. Chồng Hòa tên là Minh, bố mẹ ở cả Thái Bình nên khi lấy nhau Minh dọn đến nhà Hòa. Chó chui gầm chạn như bạn bè trêu chọc. Chính vì vậy mới phải làm thêm cái gác lửng, chứ trước đây anh đến có thấy đâu. Cái gác này là do công sức của Minh. Minh mua ống thép. Minh mua gỗ. Minh kéo mấy người bạn dưới tàu đến làm. Hai người đã có những ngày hạnh phúc. Chỉ sau khi đẻ, Hòa mới biết mình bị lừa dối. Do mấy con gà. Những con gà mẹ mua về nuôi để Hòa tẩm bổ khi sinh đẻ. Có một con đẻ. Nó nhảy tìm ổ’. Mò vào đống than. Chui vào gầm chạn. Lên cả nhà trên. Cuối cùng nhảy lên gác bếp, chỗ để những kìm búa, cuộn dây điện cũ, những túi, những gói của Minh, những rổ rá, linh tinh chẳng ai đụng đến bao giờ. Khi nó từ trên ấy nhảy xuống cục ta cục tác điếc cả tai, Hòa xuống bếp định nhặt quả trứng con so mới đẻ. Trước mắt Hòa, trên nền bếp, những chiếc phong bì rơi tung tóe. Phong bì nào cũng đề “Anh Nguyễn Hoàng Minh, công ty vận tải biển 2”. Phong bì nào cũng những nét chữ nắn nót con gái. Và bên trong là những lời lẽ nhớ nhung yêu đương, những kỷ niệm không quên. Từ nhiều địa chỉ. Những địa chỉ, những bến cảng tàu Minh đã ghé vào ăn hàng hoặc bốc hàng. Có những bức thư trước ngày cưới và nhiều bức gửi sau ngày cưới...
- Thật không ngờ. Đã bao nhiêu ngày đêm em mong anh ấy. Mong anh ấy bước vào nhà. Mong anh ấy nằm bên em. Thì ra em chỉ là chỗ để anh ấy đi về, khi anh ấy không có ai. Em đã bị lừa dối, phản bội trước cả khi cưới. Mà anh biết đấy. Em trong trắng như thế nào.
Chơn không biết nói gì. Còn Hòa im lặng. Rồi chính Hòa bước tới bên anh, đặt hai tay lên vai anh. Anh đứng lên, một nỗi xót xa khiến anh ôm chặt lấy Hòa.
- Chỉ tại anh đấy. Không. Anh đừng sợ. Mẹ chưa về đâu. Biết anh đến chơi với em là mẹ không về đâu. Đến với em luôn anh nhé.
Nét mặt Hòa vừa đau đớn vừa tin cậy. Anh không hôn Hòa, chỉ lấy tay vuốt dọc lưng Hòa:
- Bảy giờ sáng mai anh đi biển rồi. Nửa tháng nữa mới về. Anh sẽ đến em luôn.
Rời nhà Hòa, anh đi như người mộng du. Có lẽ anh là người về tàu sau cùng. Trằn trọc không ngủ được. Lại phải nhờ đến rượu. Trong giấc ngủ anh mơ. Không mơ thấy Hòa. Mà mơ thấy vợ. Hai người yêu nhau. Như chưa hề li dị. Sáng dậy quên ngay. Chỉ đến khi thấy đũng quần ướt mới nhớ là có giấc mơ đó. Nhớ tới giấc mơ đó và nhìn ra ngoài trời thấy sa mù trắng xóa. Những ngọn đèn trên cầu cảng hoe hoe đỏ giữa những làn bụi nước trắng sữa khi đứng im, khi quẩn quanh kéo tới rồi lại nhẹ nhàng êm ả uốn lượn trườn đi. Anh vùng dậy, vào nhà tắm tắm rửa rồi lên nhà xe lấy xe đạp ra phố. Sương mù thôi thúc anh. Câu chuyện với Hòa thôi thúc anh. Giấc mơ vừa qua thôi thúc anh. Không thể nằm một mình trong phòng được.
Anh đạp xe chầm chậm trong sương. Sương như bột ẩm rắc lên da mặt, lên hai bàn tay nắm ghi đông mát dịu. Đèn hai bên phố cũng chỉ một quầng hoe hoe trông rõ những hạt bụi li ti. Như bơi trong bụi nước. Như bơi trong sương. Như đi vào một thế giới trong mơ, không có thực. Một thoáng kỷ niệm mong manh ẩn hiện, hư ảo như khói bếp của một ngày đã qua nào xa lắm. Một ngày đầm ấm nào của tuổi thơ, hay mơ mộng của tuổi trưởng thành. Và một điều gì chờ đợi anh trong tương lai. Có phải Hòa không? Hòa vẫn nghĩ đến anh từ ngày mới lớn. Hòa đau khổ trong vòng tay anh như trách móc lại như tìm thấy một niềm an ủi. Và sương mù. Sương mù huyền diệu như làm dịu lại tất cả căng thẳng của cuộc đời. Sương phơi phới từng làn qua cửa sổ ùa vào căn phòng gác nhà ai để mở, ngọn đèn tròn treo thõng trên trần cũng chỉ hoe hoe. Sương khuyên con người hãy yêu cuộc sống, hãy sống tốt hơn. Sương giục con người bơi trong sương, xê dịch, di chuyển trong sương. Giá bây giờ có Hòa cùng đi, hai người đạp xe bên nhau trong thế giới mỏng manh như không có thật này. Những ngôi nhà từ từ hiện ra và nối tiếp nhau trôi về phía sau. Trên bãi Máy Tơ, chiếc cần cẩu nhẹ quay cánh tay thép trong sương. Những chiếc ô tô đỗ trong bãi, xám và mảnh, hiền dịu nhẹ nhàng như một thứ đồ chơi con trẻ. Những người đi trên đường không có trọng lượng ẩn hiện. Như trong mây. Như rẽ mây mà đi. Chầm chậm đạp xe trong sa mù, mải mê với những ý nghĩ lộn xộn nhưng biết bao cảm xúc, khi nhìn đồng hồ anh giật mình vội đạp xe về bến. Và thật không ngờ: Hòa đang đứng ở cầu tàu! Bên cạnh là Lừng đại phó. Anh xúc động reo lên và tự lên án mình là một thằng vớ vẩn, đi lang thang trong khi Hòa đứng trên cầu cảng chờ anh:
- Em đến lâu chưa.
Lừng tươi cười, chỉ vào Hòa:
- Người đẹp chờ anh lâu rồi.
Anh sốt sắng:
- Xuống tàu. Vào cabin đi!
Anh muốn kéo Hòa xuống tàu trò chuyện và cũng để Hòa xem căn buồng chật hẹp của anh, ngôi nhà của anh, để Hòa thấy anh cần được thay đổi cuộc sống biết chừng nào, nhưng Lừng ngăn lại:
- Để khi khác thuyền trưởng ạ. Tàu sắp tách bến không cho phụ nữ xuống tàu đâu. Tôi là cứ nói thật.
Chơn và Hòa cùng cười. Nhất là Hòa. Cô coi như một câu nói đùa. Nhưng Chơn biết đấy là câu nói nghiêm túc nhất của người thuyền phó nhiều tuổi hơn anh, chỗ dựa đáng tin cậy của anh, lúc nào cũng mong muốn điều tốt đẹp đến với anh. Sống trong một gia đình cả nhà đi biển, sinh ra trên sóng, Lừng có thể kể không biết bao chuyện về những điều kiêng kỵ mà Lừng tận mắt chứng kiến hay nghe nói lại và kiên quyết thực hiện những điều kiêng kỵ ấy. Chính tàu anh đã bị một vố mà Lừng lấy làm bài học nhãn tiền. Chuyến ấy đang sản xuất thì bị quấn chân vịt, thả trôi gần một ngày trên biển. Mãi mới có một tàu đi đến gần. Còi liên tục. Nhưng nó không để ý. Bắn bốn phát pháo hiệu về phía nó. Nó rẽ sóng tới bên. Quăng cáp cho nó. Nó kéo. Bốn lần đứt cáp. Sóng to quá. Lần thứ năm mới kéo được vào vịnh. Anh em thay nhau lặn, cắt lưới. Đúng một ngày, tàu mới nổ máy cơ động được. Lại còn hai ngày hàn, trít lại tàu. Đó là chưa kể mất tấn cá ngon cho tàu vận tải gọi là chi trả tiền dầu. Chưa kể phải ngừng sản xuất hơn bốn ngày tất cả. Lên tàu tắm rửa xong, trong bữa cơm anh em tập trung ở câu lạc bộ, Lừng quát:
- Chuyến này trước khi tách bến có phụ nữ nào xuống tàu không?
Tra hỏi vặn vọ nhau mãi cuối cùng là có. Cô Lữu làm ở căng tin được anh nuôi nhờ mua hộ một can tương ớt, xách xuống lúc tàu sắp tách bến!
Anh nuôi Phiệt bị một mẻ nên thân. Mắng anh nuôi chán, Lừng quay ra nói với mọi người: Từ nay trước khi tách bến không ai được đưa phụ nữ xuống tàu. Nếu người ta xuống phải tìm mọi cách cản lại. Người quen của ai người ấy chịu trách nhiệm. Tôi biết các bố duy vật, không tin nhưng rồi các bố phải tin. Đấy rồi xem!
Không chỉ cấm ngặt phụ nữ xuống tàu trước khi tách bến, mà trên đường ra cửa sông, nếu có chiếc thuyền nào, con tàu nào có phụ nữ ngồi trên chạy cắt vát mũi tàu, thế nào Lừng cũng làu bàu tức giận rồi vào bếp lấy con dao làm cá ra mũi, ngồi thụp xuống, chém chéo bên nọ chéo bên kia đúng chín nhát, miệng lẩm bẩm đúng chín lần vía lành thì ở, vía dữ thì đi này! Tối qua, khi đi dạo phố và đến nhà Hòa, Chơn biết Lừng ở lại tàu nấu xôi, giết gà thắp hương cầu xin Hà bá, Thủy thần phù hộ cho chuyến đi kết quả. Lừng cũng đã xem lịch thủy triều, cũng như tra sổ định giờ tách bến như người trên bờ xem giờ xuất hành. Và giờ ấy là không thể thay đổi. Nhất là chuyến đầu tiên sau trung tu. Anh xem lại đồng hồ, bảo Hòa:
- Còn ít phút nữa tách bến. Đi với anh một lát trên cầu tàu.
Lừng nói thêm một câu chân tình:
- Cái nghiệp đi biển phải thế. Sóng nước chẳng biết thế nào. Cô thông cảm. Nửa tháng nữa tàu về bến mời cô xuống tàu chơi lâu lâu với anh em tôi.
Hai người nắm tay nhau đi trên cầu cảng đặc sương. Chỉ mươi bước chân đã chẳng thấy Lừng đâu, chẳng thấy tàu đâu. Đã lạc vào sương. Đã tất cả là sương dày. Họ đứng lại, nhìn nhau, nhìn sương che phủ bao bọc họ. Chỉ còn hai người giữa một vực sương trắng quây bốn chung quanh. Không ai bảo ai, anh và Hòa ôm choàng lấy nhau. Hòa hôn anh. Hòa hôn anh trước. Sôi nổi cuồng nhiệt, môi Hòa gắn vào môi anh, anh chỉ kịp nhấc hai hàm răng, lưỡi Hòa đã tràn sang quẫy cựa trong khoang miệng. Khi tưởng chừng ngạt thở, Hòa rời anh ra, thở gấp:
- Suốt đêm qua em chỉ nghĩ đến anh.
Choáng ngợp trước tình cảm Hòa dành cho mình, Chơn lắp bắp:
- Anh yêu em. Cám ơn em...
- Đến với em anh nhé. Chỉ có anh an ủi được em thôi. Em không đòi hỏi gì ở anh đâu.
Trong sương mù, anh thấy cặp mắt Hòa long lanh như van nài. Anh nhìn những giọt sương đọng li ti trên mái tóc Hòa, trên vai áo Hòa rồi ép má anh vào gò má nóng bừng của Hòa:
- Anh sẽ đến. Nhất định anh sẽ đến...
Hai người lại ép vào nhau. Bỗng anh thấy ươn ướt nơi ngực áo sơ mi. Sữa. Sữa từ ngực Hòa chảy thấm qua áo Hòa sang áo anh. Anh chậm rãi cởi khuy áo Hòa rồi cúi xuống, ngậm lấy bầu vú nóng hổi căng mọng vì ứ sữa. Những tia sữa ngọt thơm tưới vào anh hương vị tuổi thơ. Như đứa trẻ tham lam, anh vục đầu sang bầu vú bên kia. Hòa khẽ đẩy đầu anh ra:
- Nhẹ thôi. Đau em.
Nói thế nhưng chính Hòa lại kéo đầu Chơn vào ngực mình, lấy ngón tay ép vào bầu vú để sữa từ đó tia vào miệng Chơn. Trong sương mù, họ cảm thấy hai lần tự do. Cõi trần ngừng tồn tại. Chỉ còn họ. Trời sương này là dành cho họ. Để có thể đứng giữa trời mà ôm nhau. Để có thể có nụ hôn giữa trời này. Cho đến khi có tiếng còi tàu gọi Chơn. Hòa và Chơn càng ghì nhau chặt hơn. Dứt hồi còi thứ ba, hai người mới rời nhau, tay nắm tay đi về phía tàu đỗ.
Thế rồi cầu tàu được kéo lên. Những mệnh lệnh của Chơn vang trong trời mù. Tàu tách bến. Đứng trên cầu, Hòa nhìn theo HL 412, nhìn theo Chơn trong buồng lái với người thủy thủ lái tàu, hy vọng Chơn sẽ quay lại nhìn mình, nhưng không, anh đã đặt hết tâm trí vào công việc. Con tàu với những người trên tàu, tất cả như những chiếc bóng, nhẹ như đang tự động nổi trôi. Cần cẩu, dây cẩu, mũi tàu xám trên dòng sông mờ mờ giữa những gợn nước như đi trong một bức tranh thủy mạc. Tu tu. Tu tu. 412 mỏng dần, mờ dần rồi biến mất trong sương như chưa từng có nó trên khúc sông này, bến cảng này. Nhưng nghe tiếng còi của nó, Hòa biết nó vẫn đang ở đâu đây gần lắm, đang gọi cô trong bến sương ngay đây thôi. Nó chỉ ở bên kia bức màn sương, vừa quá tầm nhìn nhòe trong sương đặc thôi. Tu tu. Tu tu. Trong sa mù, tiếng còi tàu như tiếng kêu gọi bạn giữa bồng bềnh tiền sử. Tu tu. Tiếng gọi kiên nhẫn thiết tha. Tu tu. Tiếng gọi nhỏ dần. Nhỏ dần. Vọng lại từ phía sa mù đặc ngoài cửa biển. Vọng lại chỗ Hòa như còn cố gửi một lời chào, một lời hò hẹn.
Rồi không nghe thấy tiếng còi sương nữa.
Hạ Long 412 đã đi xa rồi.
Hòa vẫn đứng im lặng trên bến cảng nhìn vào cầu tàu nơi Hạ Long 412 vừa tách bến. Ớ chỗ ấy là một khoảng trống. Và một khoảng trống còn lớn hơn thế trong lòng Hòa.
Mẻ lưới sáng sớm. Một con cả ngựa. Vài con cả ó. Những con cá ó trông hệt những con chim bị thương nằm xõa cánh. Chúng cố bật đôi cánh lên. Đôi cánh rộng, khỏe đập xuống mặt boong. Rồi lại cố đập. Mẻ lưới chẳng được mấy tôm mà bao nhiêu khó khăn. Lần đầu tiên tôi thấy kéo lưới mà đuôi lưới ở phía mũi tàu (lưới trái). Lưới phải thì chỉ nhìn thấy một sợi cáp chéo ngang thân tàu. Bây giờ mới thật là nguy cơ bị quấn chân vịt.
Thế nhưng tất cả dửng dưng. Hôm qua quấn lưới rê, lo lắng, làm như điên. Hôm nay mọi người thản nhiên ngồi xổm giữa boong hoặc chống tay vào be nhìn xuống biển. Bình chân như vại. Tất cả đã có bố. Là thuyền trưởng, bố phải chịu trách nhiệm tất cả. Chú Hùng cũng chỉ trách nhiệm rất ít. Một chú uể oải cầm cái sào vươn ra móc dây kéo đụt nhưng không tới. Sào chỉ đập xuống nước. Đầu gần nhất của sợi dây là gần chiếc ván. Nước chảy mạnh, đánh bật cả lưới cả đụt ra mãi xa. Bác Sĩ trèo lên tăng gông. Lại chiếc blu dông xanh dài quá khổ, chiếc quần xanh bạc mà bác xắn gấu lên, lộn phía trong ra ngoài màu xanh thẫm. Không giấu được vẻ bực dọc, vừa leo bác vừa lẩm bẩm:
- Mẹ kiếp. Về thì không về. Cố làm tấn rưỡi tôm cơ. Chết cả nút.
Bác trèo ra đầu mút tăng gông, tụt xuống ván, kéo dây đụt ném mạnh về phía tàu. Chú thủy thủ giơ lèo ra đón nhưng không được. Mấy lần như vậy. Cuối cùng cũng kéo được đụt, cái đụt trôi ngược trước tàu lép kẹp toàn nước bùn đục đổ xuống ào ào.
Còn lưới bên trái. Chú Đỉnh đứng tơi. Tơi gầm lên quay. Sợi cáp căng thẳng nhưng không nhích dù chỉ một xăng ti mét. Sợi cáp kéo lưới biến mất ở sườn tàu. Mọi người lại trở lại thái độ dửng dưng. Im lặng. Không nói. Nhìn ra biển. Nhìn xuống nước. Bố cũng im lặng. Tôi lo cho bố quá. Bố vào buồng kho, lục lọi, lấy ra một sợi dây ni lông to lồng vào sợi cáp, rồi bảo ba thủy thủ kéo cáp vòng qua đuôi tàu. Bố lại lấy một cây sào dài bước ra be, cắm xuống biển. Rồi đo: Hai sải. Bố bảo chú Hùng lên buồng lái giật chuông. Máy nổ. Cuồn cuộn nước. Bố reo to: “Chân vịt không việc gì! Nó chỉ cạn. Nhưng nước đang lên”. Rồi bố nghiêm mặt:
- Anh em đứng lại tôi có mấy ý kiến đã.
Bố nói. Mỗi lúc một căng thẳng.
- Tàu chúng ta có những biểu hiện mà tôi cho rằng phải chấn chỉnh. Đó là thái độ của một số đồng chí không được đúng mực lắm. Tôi cứ nói thẳng ra rằng chúng ta làm cho chúng ta. Vì cuộc sống, vì gia đình vợ con. Là thuyền trưởng tôi chịu trách nhiệm trước xí nghiệp, nhưng tôi cũng chịu trách nhiệm trước anh em. Thế nào là hài hòa lợi ích. Không thể nặng về một vế. Nước có lên thuyền mới lên được. Chúng ta muốn có quỹ tàu để chia thì chúng ta phải có tôm, phải có kết quả thăm dò khảo sắt nộp cho xí nghiệp. Tất cả trách nhiệm dồn lên vai tôi. Nếu phải đi tù, tôi là người đi tù đầu tiên. Điều ấy chắc các đổng chí hiểu quá rõ. Mà tôi hoàn toàn công khai vấn đề này. Tôi được chia tỉ lệ một phẩy năm. Anh Hùng, bác Suất một phẩy ba. Có đổng chí nào muốn được một suất một phẩy năm một phẩy ba như chúng tôi không? Chúng tôi xin nhường ngay. Suất này là suất xương máu đấy. Thế mà khi tôi quyết định ở lại đánh lấy một tấn rưỡi tôm rồi gặp sự cố, các đổng chí tỏ thái độ ngay. Cứ như là tôi làm mọi việc vì cá nhân tôi ấy. Tôi làm vì quyền lợi của toàn tàu. Tôi làm mà lo ngay ngáy. Nếu cuộc sống chúng ta được bảo đảm, chúng ta nhất định không làm cái việc như thế. Có đổng chí nói rất đúng rằng con chó khi trời mưa cũng biết chạy vào nhà. Nói ngay hai con lợn của tàu thôi. Trời mưa là tìm chỗ trú. Còn chúng ta trời mưa, chuông kéo lưới vẫn phải ra boong. Đổng lương ký sổ không đủ sống. Năm trăm nghìn, ăn cũng không đủ. Mà đâu chỉ lao động tám tiếng. Hai tiếng rưỡi một lần kéo lưới. Ngủ thì lắt nhắt chập chờn. Đổng chí nào chán cảnh làm việc ở đây cứ xin chuyển. Tôi ủng hộ. Sang tàu vận tải nước ngoài càng hay. Tôi nhiệt liệt hoan hô. Tôi chỉ mong các đổng chí giữ sao cho nội bộ thật đoàn kết. Tôi cũng nói rằng số tiền phần trăm ngoại giao của tàu tôi chi hết. Không tơ hào một xu. Kinh nghiệm là mọi sự mất đoàn kết rồi đi đến tố cáo nhau đều bắt đầu từ việc ăn chia.
Tất cả im lặng. Nói rồi bố lên buồng lải, trực tiếp cầm vô lăng. Bố cho tàu rẽ phải, lựa đuôi tàu xoay theo chiều lưới. Nước ở đuôi tàu đục ngầu. Một xoáy nước tròn đục cuồn cuộn, ào ào. Chúng tôi đứng nhìn xoáy nước. Chú Đài VTĐ bảo:

- Người xuống đó chỉ có chết.
Tàu còn sản xuất thêm hai ngày nữa. Tôi thấy nhớ nhà quá rồi. Tôi nhớ cây me ở góc vườn. Tôi nhớ cái giếng sâu thăm thẳm cạnh sân. Nhớ con đường đất núi, những vụn đá đỏ au từ nhà ra trường học. Nhớ mẹ. Nhớ cái Ngàn. Nhưng những người chung quanh tôi không thấy ai nói gì về nỗi nhớ của họ. Kể cả bố. Vẫn bình thường như có thể kéo dài cuộc sống trên biển thế này đến bao giờ cũng được. Có lẽ mọi người quen rồi. Công việc đơn điệu đều đều. Đi ra đi vào quanh quẩn trên con tàu kéo lưới giữa biển hoang vắng. Hơn mười mẻ lưới nữa. Chẳng mẻ nào giống mẻ nào. Mọi công việc đều diễn ra ở boong lái. Mẻ được nhiều, mẻ được ít. Mẻ kéo lưới lên rồi thả lưới được ngay. Mẻ phải buộc lại dây, vá lại lưới cả tiếng đồng hồ mới thả. Nhưng có một mẻ lưới thật thú vị. Mẻ lưới sáng sớm sau cái hôm tàu bị sự cố sợ quấn chân vịt. Bốn đụt tôm. Đụt nào cũng phinh phính phồng phồng. Giật dây thắt đụt. Tôm xổ ra tràn trên boong. Những con tôm tươi xanh nhảy búng loạn xạ. Râu đỏ rực. Vi bụng đỏ rực quạt đều đều phát ra một âm thanh rì rào rì rào nhè nhẹ. Những giọt nước li ti bắn lên mặt chúng tôi như một cơn mưa nhẹ. Mặt trời vừa nhô lên khỏi mặt biển, chiếu ánh sáng tới chỗ chúng tôi ngồi nhặt tôm trên boong.
Một dòng vàng nhẫy từ chân trời chạy tới nơi tàu thả trôi, hai bên là biển xanh trong. Tàu khẽ nâng lên hạ xuống. Gió chỉ phây phẩy. Chúng tôi ngồi xung quanh đống tôm vừa kéo từ biển lên. Những giọt nước mát rượi vẫn bắn lên mặt, lên đầu tóc, quần áo chúng tôi. Một chiếc cầu vồng mọc lên từ đống tôm ấy. Chúng tôi vừa nhặt tôm vừa nhìn nhau qua chiếc cầu vồng.
4/10/2018
Bùi Ngọc Tấn
Dịch giả: Dương Tường
Nguồn: NXB TRẺ
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Ánh trăng đầm lăn Lão Toe đã hơn bốn mươi tuổi, người chắc lẳn. Mắt ẩn chứa nhưng tư duy võ thuật. Khi người ta cố kìm nén một điều gì tro...