Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2022

XXXX"Trường phái lý luận Việt Nam" và trường hợp của tôi

"Trường phái lý luận Việt Nam"
và
 trường hợp của tôi

Sau bài "Tiêu biểu của lối tranh luận tủn mủn, tránh né" của tôi trả lời Thân Thu Anh về phản ứng của tác giả này trước bài tựa thơ của Nguyễn Quốc Chánh, đã có đến hai bài, một của Thân Thu Anh, một của Pierre Bùi trả lời các ý kiến của tôi. Cả hai đều cho rằng tôi chỉ phát biểu võ đoán, "bênh bạn" nhảm mà không đi vào tranh luận trực tiếp. Nay lại có bài "Trường phái lý luận Việt Nam" của Võ Tấn Phong, trong đó nêu bài của tôi ra như một tiêu biểu của việc "nguỵ biện" trong tranh luận.

Mặc dù tôi đã có nói trong bài viết đầu tiên của mình, rằng tôi không phải là người hào hứng lắm với những cuộc tranh luận văn chương, và vì vậy đã không trả lời hai bài của Thân Thu Anh và Pierre Bùi, tôi cảm thấy sự im lặng của tôi đã khiến nhiều người hiểu lầm. Tôi thấy cần thiết phải làm rõ ý mình hơn, trước tiên để trả lời trực tiếp Võ Tấn Phong, sau nữa là Thân Thu Anh và Pierre Bùi. Trong bài viết của Võ Tấn Phong có nêu tên nhiều người, nhưng ở đây tôi chỉ trả lời cho chính tôi, không đại diện ai cả.
Trước tiên tôi nhận thấy bài "Trường phái lý luận Việt Nam" của Võ Tấn Phong là những quan sát tích cực của một bạn đọc có quan tâm đến văn chương. Tuy nhiên bài viết này, mặc dù với cách đặt vấn đề nghiêm trọng, lại được viết quá sức sơ sài. Trong một bài viết rất ngắn tác giả cũng đã vội vã phê phán nhiều người mà không có dẫn chứng, phân tích cụ thể về những tác giả này. Tác giả chỉ đưa ra những cái "án" rồi ngang nhiên lắp người này người khác vào như những con dê tế thần. Có nhiều vấn đề đang còn trong vòng tranh luận và có tính chuyên môn hẹp, ví dụ như cuộc tranh luận về dịch thuật giữa Phan Ngọc và Phạm Thị Hoài, tác giả cũng đã vội đứng ra làm phán quan mặc dù theo thú nhận của chính tác giả ở cuối bài , tác giả không đọc được tiếng Đức (!). Dù sao, nhân dịp này tôi cũng muốn trình bày vài ý kiến của mình về phê bình lý luận nói chung, và cũng để trả lời các vị Võ, Thân, Bùi.
1.
"Không trích dẫn hoặc trích dẫn sai." Tôi đồng ý với tác giả đây là một vấn đề rất phổ biến và là một lỗi sơ đẳng không nên tồn tại trong phê bình lý luận. Tôi cũng xin bổ xung là bên cạnh việc thiếu trích dẫn hoặc trích dẫn sai, còn có tình trạng lạm dụng trích dẫn. Tôi nghĩ rằng chúng ta chỉ nên trích dẫn khi thật sự cần thiết phải dùng các ý kiến có uy tín để hỗ trợ cho các luận điểm của mình. Các trích dẫn này cần phải được mổ xẻ, phân tích thêm chứ không phải chỉ trích ra theo kiểu "mượn oai hùm" là đủ. Trường hợp thứ hai phải trích dẫn là khi cần đưa ra một tiền đề tranh luận. Chẳng hạn như muốn phê bình, bàn luận về một vấn đề thì phải trích dẫn văn bản của người đó ra. Không nên trích dẫn tràn lan đến mức người đọc chỉ thấy các ý kiến của người khác, còn ý kiến của chính người viết thì rất lờ mờ.
Dù sao tôi thấy các lỗi về trích dẫn gần đây đang có xu hướng được khắc phục một cách tích cực, ngay cả đối với những người viết trong nước, chứ không phải chỉ ở "những người hấp thụ một nền giáo dục phương Tây" như Võ Tấn Phong nói. Tôi nghĩ khi chỉ ra vấn đề này, để được công bằng hơn, cần phải công nhận một thực tế là những người viết lách ở trong nước gặp rất nhiều khó khăn về mặt tài liệu so với các đồng nghiệp nước ngoài. Hệ thống thư viện thiếu thốn sách vở và cách quản lý thông tin lạc hậu khiến cho người viết mỗi khi cần trích dẫn thường gặp rất nhiều khó khăn. Đây là một thực tế mà chính cá nhân tôi, một người có dịp tiếp xúc với cả hai hệ thống thư viện trong và ngoài nước, hiểu rõ.
2.
"Ngụy biện." Đây là một vấn đề Võ Tấn Phong cho rằng đang tồn tại trong lý luận phê bình Việt Nam. Về mặc nguyên tắc, tôi nghĩ đó là một nhận định ai cũng có thể phát biểu được. Nhưng để thuyết phục người đọc, vấn đề này phải được chỉ ra một cách rất cụ thể, chứ nếu không thì chính mình lại trở thành ngụy biện. Tác giả dùng từ "ngụy biện" ở đây với chú thích thêm tiếng Anh là "fallacy". "Fallacy", xuất phát từ tính từ "false", theo nghĩa căn bản của tự điển, là một điều gì đó sai, không đúng với sự kiện" (not according with fact, wrong, incorrect)i. Nhưng có lẽ hơn bất cứ lĩnh vực nào, trong văn chương, rất khó chỉ ra những cái gọi là "fact". Thường ta chỉ cho một vấn đề là đúng khi cá nhân ta được thuyết phục. Nhưng sự thuyết phục trong văn chương lại là một kinh nghiệm mỹ học rất cá nhân. Nghĩa là cái "fact" của bạn và của tôi có thể rất khác nhau trong cùng một vấn đề văn chương. Tôi nghĩ nếu muốn dùng tiếng Anh thì tác giả nên dùng từ "sophism" để chỉ cho "ngụy biện" sẽ tốt hơn. Vì trên một nghĩa rộng hơn như vậy, chúng ta có thể tranh luận về chính khái niệm "ngụy biện" trước đã.
Nói như trên không có nghĩa là tôi cổ vũ cho những cách tranh biện thiếu tính logic nội tại, mà chỉ nhằm nói rằng chúng ta nên dùng từ "ngụy biện", và nhất là kết án người khác "ngụy biện", một cách cẩn thận hơn. Tôi rất tiếc Võ Tấn Phong đã không chỉ rõ một cách cụ thể tôi đã "ngụy biện" trong bài viết của tôi như thế nào. Có lẽ Thân Thu Anh và Pierre Bùi đã tỏ ra cụ thể hơn về vấn đề này. Tôi xin trả lời cả ba vị luôn như sau:
Thứ nhất, tôi viết bài "Tiêu biểu của lối tranh luận tủn mủn, tránh né" không phải để tranh luận về ngữ pháp. Ngược lại, để hướng cuộc tranh luận đến những vấn đề mà tôi nghĩ rằng đáng được quan tâm hơn trong bài tựa của Nguyễn Quốc Chánh. Chính vì vậy tôi đã không mổ xẻ hai ví dụ về ngữ pháp mà Thân Thu Anh đưa ra. Từ chối không tranh luận về một đề tài nào đó không phải là "nguỵ biện".
Thứ hai, mặc dù chỉ đưa ra hai ví dụ, và không phân tích hai ví dụ đó sai chỗ nào, Thân Thu Anh đã có ý kết luận về khả năng "viết lách" của Nguyễn Quốc Chánh. Trong bài sau, tác giả nói rằng vì tác giả chỉ mới đọc Nguyễn Quốc Chánh lần đầu tiên qua bài tựa này, nên tác giả có quyền kết luận như vậy, thì lại càng không đúng. Khi kết luận về khả năng viết lách, như tôi đã nói, tức là "khả năng sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ" của một tác giả, không thể chỉ dựa trên một bài duy nhất rồi vội vã kết luận. Thường để làm việc này, chúng ta cần khảo sát toàn bộ, hoặc ít ra cũng một tỷ lệ lớn, các sáng tác của một tác giả. Cái cách vội vã khái quát như vậy theo tôi là vẫn thường gặp trong "trường phái lý luận Việt Nam", và cũng biểu hiện rõ ngay trong bài của Võ Tấn Phong.
Thứ ba, tôi không đem ra mổ xẻ hai ví dụ ngữ pháp của Nguyễn Quốc Chánh, ngoài lý do thứ nhất tôi đã nói, còn vì thực tâm tôi cảm thấy đó không phải là những câu có vấn đề gì về ngữ pháp quá trầm trọng. Nhưng cũng chính vì sự khước từ này của tôi mà cả ba vị trên đây đều đã cho rằng tôi "bênh bạn" nhảm. Vậy thì tôi đành phải phân tích hai ví dụ này một chút:
"Và trớ trêu cả hai lần (tuy nhọc nhằn) nhưng đều được phép" của Nguyễn Quốc Chánh, tôi đồng ý, chưa phải là một câu hoàn chỉnh, mà chỉ là một mệnh đề. Nếu lấy sách ngữ pháp cấp một ra đối chiếu như Pierre Bùi đề nghị, thì đây là một một câu sai. Nhưng trong văn chương, người ta không chỉ viết bằng các quy tắc ngữ pháp căn bản được dạy bởi các ông giáo làng, mà còn bằng yêu cầu nội tại của sự diễn đạt. Đôi khi chúng ta vẫn có thể chấp nhận một mệnh đề độc lập như một câu, miễn là nó không tối tăm lắm về mặt ngữ nghĩa mà lại truyền tải được sự thay đổi trong hơi văn của tác giả. Cái đó có thể coi là những "biến hóa trong văn phong", chắc ông Bùi hiểu. Còn câu thứ hai được đưa ra, "Chính cái tơi tả trong tinh thần như vậy, nên những điều phản động xưa nay dưới mọi hình tướng mới có cơ hoành hành", theo tôi là một câu hoàn chỉnh. "Chính cái tơi tả trong tinh thần như vậy" ở đây là chủ ngữ, trong trường hợp này là cả một mệnh đề. Mặc khác, "chính" ở đây cũng có chức năng như "that" ở đầu một câu tiếng Anh vậy, dùng để khỏi lập lại cái chủ ngữ đã được gọi ra trong câu trước đó. Mong các tác giả Thân và Bùi chỉ giúp tôi thêm một cách cụ thể các lỗi ngữ pháp ở hai câu này, chứ không nên chỉ dẫn ra rồi kết luận rằng chúng sai.
Trong bài viết của mình, sau khi đã mỉa mai rằng tôi chỉ là người đi bênh một người nói ngọng, Pierre Bùi đưa ra "một chân lý phổ quát", rằng: "Có thể viết rất đúng ngữ pháp mà vẫn dở, song không thể viết sai ngữ pháp mà vẫn hay được." Đúng vì nó là một chân lý phổ quát đối với những người như ông Bùi, nó khó phù hợp với tư duy hơi phức tạp hơn một chút của văn chương. Chỉ xin hỏi ông Bùi có đọc những nhà văn viết những câu văn dài đến vài trang giấy, tức là rất sai ngữ pháp cấp một, mà vẫn hay, như Marcel Proust ?
Vì Thân Thu Anh và Pierre Bùi đã đưa ra những kết luận vội vã về Nguyễn Quốc Chánh như vậy, tôi thấy thật không đáng để rơi vào một cuộc tranh luận ngữ pháp với hai vị Thân, Bùi. Nếu bạn thấy cảm thấy chán những chỉ trích lặt vặt và bạn muốn chuyển cuộc tranh luận qua một hướng khác, đó không phải là "nguỵ biện". Võ Tấn Phong đem lớp học "Critical Thinking" sơ đẳng ra để chê rằng phê bình Việt Nam không biết tranh luận, và bài của tôi là một tiêu biểu. Nhưng cũng xin nhắc tác giả rằng tranh luận tốt là không để cho cuộc tranh luận rơi vào những tiểu tiết lặt vặt, nhất là rơi vào chuyện bắt bẻ cái cách người khác nói. Ông Võ nghĩ sao nếu ông ngồi trong một lớp học ở ngoại quốc và phát biểu một điều gì đấy với cái giọng tiếng Anh ngọng nghịu của ông, thay vì trả lời ông, các bạn học của ông chỉ chăm chăm vào việc chế nhạo cách phát âm của ông? Đó là lối tranh luận mà tôi gọi là "tủn mủn", đáp qua trả lại, mà chúng ta thường rơi vào và có nguy cơ không bao giờ dứt ra được. Bởi vì những cố gắng vượt thoát ra, như kinh nghiệm tôi vừa học được, sẽ chỉ tạo cơ hội cho các "thẩm phán" như các ông Thân, Bùi, Võ đưa ra những kết luận kiểu như, "chỉ trích phê bình người khác thay vì tranh luận về những vấn đề nêu ra".
Ngoài việc đưa bài của tôi ra như một tiêu biểu của việc chỉ trích cá nhân (tôi cũng không rõ lắm chỗ nào), Võ Tấn Phong còn cho rằng bài viết của tôi tiêu biểu cho việc "bảo vệ tư cách cá nhân hoặc học thức của mình (hoặc bạn mình) thay vì tranh luận về những lời phê bình mình (hoặc bạn mình)". Lý do vì sao tôi không tranh luận về ngữ pháp thì tôi đã trình bày ở trên. Còn "bảo vệ tư cách cá nhân hoặc học thức của mình (hoặc bạn mình)" thì tôi không hiểu tại sao lại sai. Tranh luận thì dĩ nhiên là phải bảo vệ cá nhân của mình, (để không cho phép người khác xúc phạm), hoặc học thức của mình, (để thuyết phục người khác), chứ chẳng lẽ đi bảo vệ đối thủ. Nhân đây tôi cũng không hiểu tại sao các vị Bùi, Võ đều cho rằng tôi "bênh bạn" Nguyễn Quốc Chánh. Bạn bè hay không thì có dính líu gì đến tranh luận ở đây? Cứ nhắc đến bạn bè như vậy có phải cũng là một đặc điểm của " trường phái lý luận Việt Nam" không, xin hỏi các vị?
Trở lại vấn đề "ngụy biện" mà Võ Tấn Phong đưa ra, tôi nghĩ rằng cần phải rất cẩn thận khi kết luận là người khác có nguỵ biện hay không. Chúng ta chỉ có thể thoả thuận với nhau, như chính Võ Tấn Phong nói ở cuối bài của mình, những "luật chơi" trong một cuộc tranh luận văn chương thôi, chứ không có tiêu chí nào thật rõ ràng để phán quyết đúng sai. Đối với cá nhân tôi, cái quy ước quan trọng nhất trong mọi cuộc tranh luận là một lương tâm trong sạch, không hằn học mà cũng không nịnh bợ, và một danh tính rõ ràng. Còn những việc khác thì tuỳ theo sở học của mình, người ta có thể trình bày một cách thẳng thắn. Nhưng một quan điểm như tôi vừa nói, lại rơi vào chuyện "chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" mà các vị dè bỉu. Chính vì chỗ đó, chúng ta vẫn tiếp tục tranh luận với nhau theo kiểu rất "tài". Và cũng rất tiếc, rất làm phiền độc giả.
Tôi xin bàn tiếp qua hai vấn đề về phê bình lý luận Việt Nam mà Võ Tấn Phong đề cập đến trong bài viết của tác giả.
3.
"Viết tràn lan, ý không rõ ràng, câu không rõ nghĩa." Tôi đồng ý với tác giả về nguyên tắc, rằng dài dòng không cần thiết cũng là một bệnh của phê bình lý luận Việt Nam, nhưng tác giả cần phải cụ thể hơn về vấn đề này. Nếu tác giả chỉ dẫn tên Nguyễn Quốc Trụ ra và than phiền "không biết ông muốn nói gì" thì sẽ không thuyết phục. Người đọc có thể hỏi ngượi lại, đó là do Nguyễn Quốc Trụ viết lan man, hay tại do Võ Tấn Phong thiếu kiến thức và chậm hiểu. Lan man chỗ nào, tại sao khó hiểu, cần phải chỉ ra ?
4.
"Dịch mù mờ, ý tứ không rõ ràng, câu văn rắc rối." Võ Tấn Phong cho rằng đây là một vấn đề văn chương Việt Nam đang mắc phải. Theo tôi, để đánh giá một bản dịch hay hay dở, cần phải biết ngôn ngữ của nguyên bản. Trong khi theo ý Võ Tấn Phong, bản dịch hay là bản dịch với "câu văn rất trong sáng, từ ngữ rất bình thường". Tôi nghĩ điều đó còn phụ thuộc vào việc nguyên bản có "trong sáng", "bình thường" hay không. Tác giả cũng đưa ra hai ví dụ mà tác giả cho là hai bản dịch xuất sắc. Một là "AQ chính truyện" của Giản Chi, hai là "Tội ác và trừng phạt" của Cao Xuân Hạo. Có lẽ tác giả đã cảm thấy hứng thú khi đọc hai tác phẩm này trong tiếng Việt. Nhưng để biết chúng có phải là những bản dịch xuất sắc hay không, cần phải biết tiếng Tàu và tiếng Nga để đối chiếu với nguyên bản thì mới kết luận được. Có thể bạn đọc thấy một đoạn văn được dịch ra tiếng Việt trôi chảy, nhưng thật ra nó là một đoạn văn đã được phóng tác lại vì dịch giả không dịch nổi, hoặc vì muốn cho đọc giả dễ hiểu, người dịch đã đi rất xa nguyên bản. Một cách dịch như vậy có phải là hay không? Nói tóm lại, tôi nghĩ đây là một vấn đề chuyên môn mà chỉ những người dịch thuật mới biết rõ và phải được xét theo từng trường hợp cụ thể. Dĩ nhiên, với tư cách một bạn đọc, Võ Tấn Phong có quyền mong đợi những tác phẩm dịch "trong sáng", dễ hiểu và phù hợp với trình độ của mình. Chỉ có điều, "trong sáng" không phải là tiêu chí quan trọng nhất của dịch thuật.
Để kết luận bài viết đã dài này, tôi sẽ trả lời câu hỏi Thân Thu Anh, rằng tại sao tôi không hào hứng lắm với những cuộc tranh luận văn chương. Đó là vì tôi nghĩ rằng hiện nay, chúng ta vẫn còn đang tiêu phí quá nhiều năng lượng vào những đề tài "tủn mủn". Cái bi đát là nếu có ai lên tiếng về điều này thì lập tức sẽ bị dồn ngay vào một cuộc tranh luận, bắt bẻ cũng rất tủn mủn khác. Và đó là lý do tại sao phần lớn những cuộc tranh luận văn chương hiện nay thường rất dằng dai và vô bổ.
Chú thích:
1. Wordfinder. Ed. by Sara Tulloch. Oxford: Oxford University Press, 1994.
31/8/2002
Phan Nhiên Hạo
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mưa rơi

Mưa rơi Bạn có biết thế nào là chơi cờ tướng không? Chắc chắn khi tôi hỏi câu này, nhiều người sẽ bảo: chơi cờ tướng dễ ợt, hoặc chuyện ch...