Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2024

Ái tình và sự nghiệp00000

Ái tình và sự nghiệp

Chương I
Lan Khai sanh năm 24 tháng 6 năm 1906-1945,  xã Vĩnh Lộc (nay là thị trấn Vĩnh Lộc) huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang tên thật: Nguyễn Đình Khải, là nhà văn Việt Nam thời tiền chiến.
.
Trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam trước năm 1945, ông được xem là một cây bút sung mãn, một nhà văn "đường rừng" sáng giá. Dù ở thể loại nào ngòi bút của ông vẫn thuyết phục được cảm tình và lý tính của độc giả. Đặc sắc nhất vẫn là ở lĩnh vực sáng tác hiện thực về đời sống miền núi.
Cha ông là Nguyễn Đình Chức, nguyên quán ở tỉnh Thừa Thiên-Huế. Khoảng năm 1885, ông Chức cùng hai anh hưởng ứng dụ Cần Vương, tham gia khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo ở Hương Khê (Hà Tĩnh). Năm 1895, cuộc khởi nghĩa bị dẹp tan, ba anh em ông Chức phải rời bỏ quê hương, lên thượng nguồn Việt Bắc lập nghiệp. Và ông Chức đã dừng lại ở châu Chiêm Hóa hành nghề dạy học, chữa bệnh. Mẹ Lan Khai là Lê Thị Thục, xuất thân trong một gia tộc lâu đời ở địa phương.
Thuở nhỏ, Lan Khai sống gần gũi với các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Cao Lan, Hà Nhì...
Năm 8 tuổi (1914), ông theo cha mẹ chuyển về sống ở làng Xuân Hòa (nay thuộc phố Xuân Hòa, tỉnh lỵ Tuyên Quang), nơi cư trú của nhiều gia đình thợ thuyền và phu mỏ (vì làng Xuân Hòa tiếp giáp với mỏ than Tuyên Quang và mỏ kẽm Tràng Đà).
Năm 12 tuổi (1918), ông bắt đầu tập làm thơ, viết văn và sớm bộc lộ năng khiếu hội họa.
Năm 18 tuổi (1924), ông về Hà Nội theo học trường Bưởi. Sau khi học xong bậc Thành chung, ông thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Năm 21 tuổi (1927), ông trở về quê lập gia đình với Hà Thị Minh Kim (1909 - 1999), con một gia đình khá giả ở tỉnh Tuyên Quang, có nhan sắc, học thức và tâm tính nhân hậu...
Lấy vợ xong, cuối năm đó, Lan Khai trở lại trường tiếp tục học tập, nhưng học chưa hết hai năm, ông trở lại Tuyên Quang, dạy học, dịch sách và viết văn. Ông cũng đã dành nhiều thì giờ đi du ngoạn đó đây, để vẽ tranh phong cảnh, sưu tầm những sáng tác dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số và tìm hiểu cuộc sống của những người phu mõ.
Sau, vì tham gia vào tổ chức bí mật kháng Pháp do Nguyễn Thái Học lãnh đạo, Lan Khai bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Cha mẹ ông đã phải bán hết gia sản mới cứu ông thoát chết.
Năm 1934, khi Lan Khai đã thành danh trên văn đàn, ông quyết định đưa cả gia đình về sống ở Hà Nội (ở nhà thuê, thường đổi chỗ). Để nuôi được 8 người, ông phải viết cật lực.
Năm 1938, ông bắt đầu viết cho Tiểu thuyết thứ Bảy và sau đó ông cùng với Lê Văn Trương, trở thành hai cây bút cột trụ của nhà xuất bản Tân Dân.
Năm 1939, ông làm Tổng thư ký tạp chí Tao đàn của nhà xuất bản Tân Dân, đồng thời, còn cộng tác với các báo: Loa, Ngọ báo, Đông Tây, Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ thông bán nguyệt san...
Ngoài ra, ông còn làm diễn viên nghiệp dư trong các vở tuồng và kịch lịch sử tại Nhà hát lớn Hà Nội, làm diễn giả thường xuyên của Hội Trí tri, cộng tác với Hội truyền bá quốc ngữ của Nguyễn Văn Tố...
Cuối năm 1943, sau khi Lan Khai ra tù vì tội viết cuốn Lầm than, gia đình ông lâm vào tình cảnh túng quẫn, cộng thêm bệnh hen suyễn hành hạ ông, nên ông đã phải đưa vợ con về lại quê nhà. Tại đây, ông mở hiệu sách Lan đình bán các loại sách báo, tiếp tục viết văn, dạy học và vẽ truyền thần.
Trong một ngày gần cuối năm 1945, Lan Khai bị một nhóm người khác phe phái thủ tiêu tại Tuyên Quang.
 
GIỌT rồng đã điểm canh ba...
Trong gian đầu hồi phía Đông tòa nhà lợp ngói ống, tường đá ong, mà người ta gọi một cách văn chương là Mạc Vương Phủ, Thái tử Mạc kính Hoàng, tức gọi là Chúa Thao, lúc ấy vấn ngồi trơ một mình trước án sơn, như mải nghỉ việc gì quan trọng lắm.
Ấy là một chàng trẻ, chừng hai mươi nhăm tuổi, dáng người cao lớn, vai rộng, ngực nở, tay dài. Chàng có một vầng trán vĩ đại, một đôi mày nét mác rậm phủ bóng xuống cặp mắt sắc và sáng như đèn, một cái mũi thẳng và một cái miệng rộng hình cánh cung. Màu da của chàng là cái màu da ngà hơi cũ, tỏ ra chàng tuy giòng giõi cao quý mà ưa chuộng đời sống ngoài phong sương hơn là ở trong lầu son, trướng gấm.
Chàng búi tóc trần, mặc áo bào đỏ, ngực thêu hổ phù bằng kim tuyến, hai chân đi ủng da đen đễ khuất trong bóng tối gầm án son. Trên mặt bàn, ngay cạnh chồng sách cổ, bao ngoài làm bằng giấy dầy nhủ lụa vân màu xanh da trời, là một cổ mũ đâu mâu giát vàng, phản chiếu ánh lửa ngọn sáp hồng gắn trên cái đế kẻm hình vuông, nom lóng lánh...
Đã gần một trống canh, Thái tử cứ ngồi yên như một pho tượng. Tay trái chàng nắm lại và đặt lên cạnh sườn; tay phải chàng úp xuống cái chuôi ngà một thanh trường kiếm đựng đứng giữa hai đùi. Cặp mắt chàng nhìn thẳng vào không gian, như theo đuổi một ý tưởng. Thỉnh thoảng, lông mày chàng khẽ nhíu lại, mắt chàng sáng hơn lên, hàm răng chàng nghiến chặt, làm nổi rõ những bắp thịt ở hai bên má...
Những biến đổi thoáng qua trên gương mặt đều chứng tỏ sự nghĩ ngợi mãnh liệt và sâu xa. Vẻ tư lự âm thầm của chàng tỏa sự lặng lẽ ra chung quanh và làm cho người ta có cảm tưởng rõ rệt như thời gian ngừng đọng lại...
Nhưng, sự thực, thời gian vẫn lạnh lùng trôi qua...
Và, trên vọng lầu, tiếng trống đã sang canh, nghe vừa hùng dũng vừa thê thảm.
Chàng tuổi trẻ ngẩng đầu và lẩm bẩm:
- Chỉ còn một trống canh nữa!...
Cùng lúc ấy, như đáp lại ý nghĩ của chàng, cánh cửa son bỗng kẹt mạnh, nhường lối cho một tên quân hầu tự ngoài bước vào. Làn gió lạnh theo sau hắn khẻ rung rinh ngọn lửa sáp và làm chập chờn những bóng của mọi vật bài trí...
Tên quân hầu quỳ xuống, kính cẩn nói:
- Bẩm đức ông, Vương thượng lệnh triệu đức ông vào nội tẩm có việc.
Chàng tuổi trẻ đứng phắt dậy; tay nhắc cỗ mũ đâu mau giát vàng úa lên búi tóc. Tên quân hầu vội bước rảo lại sau lưng chàng và tiến lấy cái trâm ngà cài qua lỗ trâm ở chớp mũ.
Tay trái nắm đốc kiếm để chiếc vỏ đồng khỏi kéo lê trên mặt đất, chàng tuổi trẻ bước ra ngoài. Chàng lặng lẽ theo sau hai tên nội giám cầm đèn lồng đứng chực ở dưới thềm.
Mặt trăng đêm rằm tháng tám đã ngả hẳn về Tây; sương mù tỏa mơ hồ trên sự vật và không khí lúc trời gần sáng thấm vào chàng lạnh như nước suối.
Chàng vào tới nội điện thì Mạc Vương đã ngồi chờ sẵn. Vương đương thủng thẳng nhấp một chén trà thơm do thị nữ dâng.
Mạc vương vừa trông thấy con, gương mặt tư lự vụt đổi ra hớn hở:
- Miễn lễ. Cho con ngồi.
Thái tử vái vua cha đoạn ghé ngồi lên một chiếc ghế đẩu vuông mà mầu son đã cũ.
Mạc Vương truyền thị nữ dâng trà, rồi thủng thẳng nói:
- Cha gọi con vào để con giặn con mấy nhời cuối cùng nữa, trước khi con lên đường.
Một vẻ buồn thoáng hiện trong khóe mắt chàng tuổi trẻ.
Mạc Vương chậm rãi tiếp:
- Hiện nay, thế lực nhà ta đương suy, còn họ Trịnh thì đương lúc thịnh. Giá không xảy  ra cuộc Nam Bắc chiến tranh, họ Trịnh phải  đương đầu với họ Nguyễn thì không đời nào Trịnh - Tráng lại chịu để vua Lê thâu nhận hàng biểu của ta.
- Khải phụ vương, điều ấy con cũng đã ngầm đoán rõ ý của chúa Trịnh.
- Chúa Trịnh đã, vì tình thế, chịu để vua Lê nhận nhời ta cầu hòa, lại phong cho ta lầm chức Thái úy Thông Quốc công, cho giữ đất Cao Bằng này theo lệ cống hiến. Thâm ý họ Trịnh là mong được rảnh tay miền Bắc để đem toàn lực xuống phương Nam, đối với họ Nguyễn vậy. Thành Đô Vương còn khôn hơn thế nữa. Và sợ ta xuất kỳ bất ý, rình lúc kinh thành không lui, đem quân về đánh úp chăng, nên va bắt phải có con vẽ kinh làm con tin
- Khải vương phụ con phận là thần tử nếu trên vì nước dưới vì nhà, dù phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng cũng không dám từ nan. Con chỉ xin Vương phụ có một điều là tuy con ở Kinh thành làm con tin mặc dầu, nếu có dịp tốt, vương phụ cứ kéo quân về đánh, con sẽ có kế tự toàn. Thẳng hoặc con có mệnh hệ nào chẳng qua  cũng tại ở số mệnh, vương phụ đừng quan tâm.
- Ấy là việc sau,  nên chẳng thể nào ta sẽ tùy cơ ứng biến. Ta căn dặn con một điều
là khi về dưới ấy, con nên hết sức kiên nhẫn và kín đáo,lại nên mở rộng tầm con mắt
xem kỹ nội tình của họ Trịnh. Tại Triều đình, ta chắc cũng nhiều văn thần võ tướng không bằng lòng họ Trịnh, con nên tìm mà kết giao để gây thế lực.
- Xin tuân lệnh.
- Ta nhắc một lần nữa: Thành Đô Vương là tay trí dũng kiêm toàn, con phải cẩn thận lắm mới được. Con chỉ hơi lộ khuê gốc là nguy đến tính mệnh và hỏng việc lớn ngay.
- Điều ấy, xin vương phụ đừng lo. Con dẫu bất tài cũng dám đoán chắc không bao giờ làm lỡ cái sứ mệnh mà vua cha đã đặt lên đầu.
Như để chấm hết câu chàng nói, một hồi trống tan canh vang rậy...
Thái tử Mạc kính Hoàn đứng lên chắp tay vái Mạc vương:
- Giờ con xin bái biệt Vương phụ để sắp sửa ra thành.
Ba chồm râu đen nhánh của Mạc vương rung động, tỏ ra Vương xúc động mãnh liệt, tuy giọng nói của người vẫn cố bình tĩnh:
- Ừ, thôi con đi. Muốn làm được việc lớn, ta đừng nên quyến luyến tình riêng nhiều quá.
Thái tử cúi đầu chào, đoạn bước ra ngoài.
Khi cánh cửa son đã khép ghịt, Mạc vương liền thở dài một tiếng và gieo mình xuống bảo tọa; hai giòng nước mắt từ từ chảy xuống hai gò má. Vương tê mê vì đau khổ, ngồi lặng hồi lâu mới khẽ nói:
- Tất cả hy vọng của nhà Mạc chỉ còn trông vào một mình con ta. Nó đi chuyến này, nếu may ra lòng Trời còn tựa họ Mạc thì không nói làm gì. Nếu không may có điều bất trấc, giòng giống nhà ta sẽ bị tiêu diệt.
Nghĩ đến nỗi vô thường của ngày mai, Mạc Vương càng đau đớn. Trái tim đã xây xát vì những phù trầm của một đời vương giả giờ lại thêm được một lo lắng nầu nung.
Trong khi ấy, Thái tử Mạc kính Hoàn đã ra khỏi nội cung. Chàng không về phủ riêng vội, thủng thẳng bước lên vọng lầu để nhìn phong cảnh Cao bằng một lần sau chót.
Trời tuy chưa sang hẳn mà phương Đông đã rực lên một màu bạc mới, làm cho những chỏm núi xa in lù lù thành những nét chàm đặc. Dưới lòng các thung lủng, sương lam còn toả, nhưng ở các ngọn cây, chim chóc đã bắt đầu hót vang trong cái lặng lẽ tươi mát của bình minh.
Chàng tuổi trẻ thở dài: cái cảnh quen thuộc chốn rừng xanh, từ nay mắt chàng sẽ không hằng thấy nữa. Chàng sẽ gửi lại đây biết bao kỷ niệm êm đềm ; chàng sẽ gửi ở đây cả một mối thâm tình; và trên con đường xuống Nam chắc chắn sẽ chỉ có thể phách chàng ra đi mà hồn chàng thì ở lại.
Đành rằng chàng vẫn tin chắc một ngày kia chàng sẽ trở về Ngàn, nhưng cái ngày ấy, nếu sẽ đến, chắc cũng còn xa lăng lắc. Huống hồ tương lai mờ mịt, cái thân người tráng sĩ nhiều lúc nặng như Thái  sơn mà lắm khi nhẹ hơn một mảnh lông hồng...
Cả một góc trời Đông thình lình bùng cháy. Mặt trời đã hiện ra. Bao nhiêu cây rừng, lá còn ướt sương, đều ngùn ngụt như những ngọn đuốc mầu cẩm thạch.
Chàng tuổi trẻ nắm chặt lấy chuôi gươm:
-  À, nhưng nếu cái lẽ sống của người nam nhi là ở chỗ sa trưởng mờ cát bụi, thì ta khi nào còn để cho những lẽ khác nó làm ta bền chí? Đi! Nhất là khi cả cái vận mệnh của họ Mục đều gửi ở ta, ta còn chờ gì mà không hăng hái ra đi? Phỏng thử chuyến đi này có là chuyến đi cuối cùng của ta nữa thì càng hay chứ sao: ta it nhất cũng không thẹn là giòng giống anh hùng.
Chàng vừa bước xuống khỏi dịch lầu vừa ngâm bằng một giọng khẳng khái:
Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn...
Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn.
Bền ngoài cổng thành đá ong, bọn tùy tùng đã chờ sẵn.
 Ấy là mười tên lực sĩ, mặc giáp mây, cưỡi ngựa đỏ, tay cầm trường thương, vai đeo cung tên.
Chúng phân làm hai hàng đi kèm mấy chiếc xe chở các hành lý của Thế Tử.
Một con ngựa bạch, thắng yên cương nạm vàng - con ngựa Tuyết Mai của Thế  Tử - thì buộc sẵn ở một gốc cổ thụ.
Chàng hỏi to:
- Thế nào, sẵn sàng cả rồi chứ?
- Bẩm Đức ông, đã sẵn sàng cả.
Chàng lập tức nhảy lên lưng ngựa, không quay về phòng riêng như ý chàng đã định trước.
Đoàn nhân mã hớn hở ra đi, trong sự tưng bừng của chim chóc và cái rực rỡ của một sớm thu, nên trời xanh và đẹp một cách vô cùng gợi cảm...
Kính Hoàn Thế Tử hai ba lần muốn quay cổ nhìn lại địch lầu mà không dám. Chàng sợ sẽ mềm gan, nếu ở chỗ chàng vừa đứng, hiện ra một tấm áo mầu vàng.
Đã ra đi là ra đi, chàng không nên tỏ vẻ súc động trước mặt bọn quân hầu. Chàng cho như thế là làm giảm cả vẻ uy nghi của một thanh niên võ tướng vâng sứ mệnh vua cha để thực hành một kế hoạch lớn.
Chẳng bao lâu, tòa thánh đá ong đã khuất.
Kính Hoàn thở dài một tiếng như cất được một gánh nặng trên tâm hồn.
Nhưng, rừng núi chập chùng liên tiếp, mầu thu nhuộm ố sắc quan hà vẫn không thôi khiến chàng cứ từ xúc cảm này qua xúc cảm khác. Đến nỗi, để đè nén cái xao xuyến của lòng, chàng tuổi trẻ phải cất tiếng ngâm vang động:
Bằng Giang nước chảy lạnh lùng...
Ra đi, tráng sĩ quên không hẹn về.
Gập ghềnh trải mấy sơn khê,
Lối mòn cỏ ấy, xa lìa non xanh...
Quê hương dù có nặng tình,
Dặm trường há dám coi khinh cương thường
Anh hùng chí ở bốn phương,
Làm sao vẹn nghĩa quân vương thời làm…
Chương II
DÂN kẻ chợ tưng bừng lên bởi một tin quan trọng. Thái tử Mạc Kính Hoàn về làm con tin trong Trịnh Vương phủ.
Mặc dầu nhà Lê đã trung hưng, mặc dầu chúa Trịnh đã cầm quyền, Nguyên Súy Thống Quốc chính, mở ra một thời kỳ mới hẳn, lòng người vẫn còn một chút phân vân nhớ những  ngày quá khứ mà họ Mạc còn làm chủ cả non sông Đại-Việt.
Người ta hồi hộp chờ mong vị Thái tử cuối cùng của nhà Mạc. Nhất là khi vị Thái tử ấy theo lệnh từ trong Thành Đô Vương phủ ban ra, sẽ được tiếp rước một cách huy hoàng.
Thực vậy, bắt đầu sáng sớm hôm ấy, tự bến sông Thúy Ai qua cửa ô Quan  chưởng vào tới cửa Vương phủ, ba quân voi ngựa và bộ đứng giàn thành hai hàng, mầu nón sơn áo nâu đỏ khé như hai hàng rào sắc máu.
Các quan văn võ vâng lệnh ra nghênh tiếp Thái tử nhà Mạc, đều chưng ra những áo bào hốt ngọc, sắc tía màu lam nom rực rỡ như cả một vùng Thượng Uyển giữa ngày xuân.
Lại thêm ánh nắng thu rội lênh Iáng trên sự vật, làm cho những kiệu vàng, kiệu bạc, những mũi giáo, chuôi gươm lặp lòe hàng trăm ánh lửa.
Thực, từ khi nhà Lê trung hưng, trừ lễ đăng quang và lễ tiếp sứ Tàu, chưa từng có cuộc đón rước nào long trọng đến thế.
Đứng đầu mỗi đoàn quân là một vị danh tướng, như Đinh văn Tả, Lê Châu, Lê Hiến, vị nào cũng giáp trụ sáng ngời, uy phong lẫm liệt.
Thành Đô Vương cốt nhất là phô bầy cái lực lượng vũ bị để Mạc Thái Tử rõ: Quân thế ấy, họ Mạc hòa với họ Trịnh, chỉ được lợi mà thôi. Còn như chống với Trịnh tức là tự mình mua lấy cái chết.
Cái ý ngầm ấy, Trịnh Vương khéo gởi vào cái trang trọng của sự đón tiếp mà Vương chắc Thái Tử nhà Mạc dù khó tính đến đâu cũng phải vừa lòng.
Văn võ, tướng tá xếp đặt đã sẵn sàng.
Mặt trời đã lên cao và ánh nắng đã bắt đầu gay gắt.
Vây kín bên ngoài, dân chúng vẫn mong ngóng chờ xem một cách kiên nhẫn.
Thỉnh thoảng, một tên quân phi kỵ từ ngoài bến sòng chạy về lại làm cho ai nấy phải kiễng chân nghển cổ. Nhưng, về rồi lại đi, chưa tên nào đem được cái tin mà mọi người đương chờ đợi.
Sự nóng ruột đã làm cho những lớp sóng người hai bên ngoài hàng quân tỏ nên ồn ào dào dạt. Và, bụi đường vẫn lên mù mịt.
Thì đây, bgoài trại Thủy quân, pháo lệnh ầm ầm nổ?
Thái tử đã tới.
Các đại thần lập tức lên võng. Các đại tướng lập tức vung gươm lòe sáng và hô to các mệnh lệnh, Ba quân đứng ngay người ; các ngọn giáo dựng thẳng tăm tắp; nom bật ngàn như hoa lan mùa một chạp.
Mấy quan Chưởng Phú sự và tướng quân Đinh văn Tả cùng tiến nhanh ra lối cửa ô Quan Chưởng. Vọng lọng  và ngựa nối nhau chảy tuồn tuột chẳng khác một giồng suối lũ.
Và, một lát sau,đám đông áo bào, giáp bạc lại quay về, dẫn đầu chính là Thái Tử Mạc Kính Hoàn.
Thái Tử mặc đại lễ phục, trong một bộ giáp vàng bóng lộng; ngoài, một tấm cẩm bào thất long mầu chính  hồng, khoác hở cánh tay áo giáp bên hữu, theo kiểu áo ‘  văn võ toàn tài’’ Trên đầu, Thái tử đội mũ thất long tranh châu; chân đi ủng gấm thêu màu quan lục.
Dung mạo đã sẵn khôi ngôi lại thêm dũng mãngrực rỡ. Mặc Kính Hoàn Thái tử ngồi trên lưng ngựa bạch, nôm lẫm liệt như một vị thiên nhiên.
Người phi ngựa lướt qua trước  ba doanh quân mắt sáng lóng lánh và, trên môi hé nở một nụ cười tinh nghịch.
Là bởi, cái dụng ý phê chương của Thành Đô Vương Trịnh Tráng, Thái Tử trông thấy đã rõ rệt. Và ngài thấy ngứa ngáy trong mình chỉ muốn có đủ ngay lực lượng mà chọi nhau với Thành đô Vương một chuyến.
Trước vẻ khôi ngô và những cử  chỉ ngang tàng khảng khái của vị niên thiếu anh hùng lão Tướng quân Đinh văn Tả vụt cảm thấy kính phục và yêu mến.
Lão tướng mặc bọn văn quan lẽo đằng sau với những võng lọng kềnh càng, ra roi quất ngựa lên trước để theo cho kịp Mạc Kính Hoàn Thái tử.
Công chúng ngoài xa, thổn thức như đôi vợ chồng trẻ bỏ nhau đã lâu ngày chợt lại gặp mặt cất tiếng hò reo tưng bừng.
Thái tử Mạc kính Hoàn và Lão tướng quân Đinh văn Tả cứ phóng ngựa bay giữa cơn bão hoan hô của bách tính và của ba quân.
Sau cùng, cả hai cùng dừng ngựa trước phủ Trịnh Vương.
Ở đây, mấy vị công hầu đã chờ sẵn để phò Thái tử vào ra mắt Thành đô Vương Trịnh Tráng.
Từ lúc xuống yên đến lúc vượt qua sân Vương phủ, Thái tử Mạc kính Hoàn không thể không hồi hộp: chỉ trong giây phút tới đây, Thái tử sẽ giáp mặt với người đương làm mưa làm gió trên đất Bắc Hà, người mà ngay vua Lê cũng phải kiêng sợ đến không dám nhìn mặt. 
Đinh tướng quân ra hiệu cho Thái tử đứng lại dưới thềm son và người lên điện trước để bẩm với Trịnh Vương.
Một phút qua.
Bỗng, nội giám truyền to:
- Cho vào!
Thái tử Mạc Kính Hoàn lập tức vượt qua bảy bực thềm son, tiến vào chính tẩm.
Chàng nhìn thẳng trước mặt, nên hai hàng văn võ đúng túc trực hai bên chàng không thấy rõ. Chàng chú ý độc có một người,ấy là Chúa Trịnh.
Trong cái tranh tối tranh sáng của ba gian đại điện, giữa hai hàng cột son vẽ rồng, mặt ngoài treo những câu đối nền gấm thiếp chữ đen hoặc nền đỏ chữ vàng, và lùi sâu mãi vào tận phía trong cùng, một cái bệ son tam cấp trạm tứ quý. Trên bệ là một chiếc ngai vàng, bảo toạ của ngài Đại nguyên Súy, Thống Quốc-Chính, Thành đô Vương.
Vương trạc độ bốn mươi lăm tuổi, mặt dài chữ dụng, màu da hồng hào, mũi thẳng, miệng rộng, mắt sắc, lông mày đậm. Vương đội mũ bảy rồng, bảy ngù bông sắc đỏ, mặc áo tía thêu rồng vàng, thủy ba, chân đi ủng sắc lam.
Chỉ thoáng trông qua Trịnh vương, Mạc Thái tử cũng biết ngay là một người phi thường và trong lòng không thể không khởi kính.
Chàng quỳ xuống làm lễ ra mắt xong liền chắp tay đừng chờ lệnh.
Trịnh vương trỏ chiếc sập chân quỳ bên tả bảo tọa và ôn tồn nói:
- Túc hạ ngồi.
Thái tử khiêm tốn ngồi ghé lên một góc sập.
Trịnh vương nói:
- Thế nào, lệnh nghiêm đường vẫn khang; cát chứ?
- Đa tạ Đại vương, Vương phụ tôi vẫn được bình an.
Thành Đô Vương hơi châu lông mày, khi nghe Kính Hoàn nói đến tiếng Vương phụ. Nhưng vẻ không bằng lòng ấy chỉ thóang qua:
- Lệnh tôn đường bấy lâu ở xa nên đối với ta, thường đem lòng nghi ky, ta thực lấy làm tiếc, ta lại nực cười cho những kẻ mượn tiếng phù lê để khởi hấn cùng ta. Nhưng ta thử hỏi túc hạ: phù Lê, ai bằng họ Trịnh? Nay, lệnh tôn đường đã hiểu rõ lẽ ấy, muốn cùng ta dẹp việc binh đao, thực là đại phúc cho trăm họ.
- Khải đại vương, cha tôi đối đầu cùng đại vương bấy lâu là do một lẽ khác chứ không phải cũng dựa vào tiếng phù Lê diệt Trịnh như trăm nghìn đám khác.
Trịnh vương thầm chịu Thái tử là một tay cứng cỏi. Vương muốn thử xem bên trong cái vẻ kiêu dũng ấy có gì dáng để Vương chú ý chăng.
- Sinh vào cửa vương hầu, túc hạ chắc thông thạo văn chương và võ nghệ hơn người khác?
- Khải vương thượng, về văn, chúng tôi cũng có được theo đòi nghiên bút gọi. Còn  về võ, chúng tôi từ nhỏ đã theo liền phụ vương chúng tôi trong việc chiến trận, nên cũng tạm biết ít nhiều.
- Để hôm nào thư thả, túc hạ sẽ cho ta xem qua về cái tài văn vũ của túc hạ.Túc hạ  đã vâng lệnh tôn nghiêm về đây cùng ta, chỗ cung phủ này tức cũng như nhà riêng của túc hạ. Ta tức là chỗ phụ chấp của túc hạ, có điều gì không vừa ý, túc hạ cứ việc trình bầy thẳng cho ta rõ.
- Xin tuân lệnh...
- Giờ túc hạ hãy lui về thư phòng nghỉ ngơi để chờ dự yến.
'
Trịnh vương quay lại truvền nội giám đưa Mạc Thái tử về thư phòng.
 
Cái lệnh ấy được chàng tuổi trẻ lấy làm thích lắm.Là bởi, qua bao nhiêu ngày bó buộc ngồi trên lưng ngựa, chàng dù đương thời trai tráng cũng mệt đến nhừ người.
Chàng đứng ngay dậy, vái từ Trịnh Vương đoạn theo tên cung giám về chỗ ngụ,
Ấy là một gian phòng gần ngay vườn Thượng uyển, một gian phòng bày biện rất trang nhã, trong đó, các vật cần dùng của Thái tử đã được bọn Nội thị đem vào đủ thứ.
Thái tử sai quân hầu tháo bỏ giáp trụ bên ngoài, gọi lấy trà uống, đoạn nằm ra sập son nghỉ.
Chàng nghỉ có xác thịt mà thôi, tinh thần chàng, trái lại, bị kích thích rất dữ. Chàng cố nhìn rõ hiện tình của chàng, cái hiện tình của một ông hoàng đang ở làm con tin giữa một triều đình thù nghịch.
Cái tình trạng ấy buồn nhưng không phải là không có một phong vị đặc biệt của nó. Chàng nhờ nó sẽ biết nhiều, thấy rộng hơn như sống ở nơi rừng núi khuất nẻo.
Ở nơi rừng núi khuất nẻo, chàng đã đành giữ vẻn vẹn cái hồn nhiên, sự trong sạch của  tâm hồn, nhưng mà chàng phải tự nhân rằng, từ lúc chàng bước chân về đến kẻ chợ chàng quả thực ngớ ngẩn đến buồn cười.
Chàng nghĩ lan man mãi rồi sau tư tưởng lại quay về chúa Trịnh:
‘‘ - Thành đô Vương quả thiệt là một vì vương giả xứng đáng. Nhà mình có một kẻ thù như vậy kể cũng là một sự vẻ vang’’.
Chàng tủm tỉm cười:
‘‘ - Thấy phụ vương ta cho ta về làm con tin ở đây, Thành đô Vương đắc ý lắm, ngài đắc ý đến không cần giấu giếm nữa. Mà cũng phải; cái thanh thế của ngài há chẳng vì vậy càng thêm to tát lừng lẫy hơn ư? Ngài sẽ được rảnh tay chọi nhau với chúa Nguyễn miền Nam và cuộc chiến tranh này hẳn kéo dài không biết đến ngày nào mới hết. Ồ ! cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn! Ta có thể chờ lúc mà lợi dụng thời cơ. Ta sẽ thông tin cho phụ vương ta biết. Trong khi ấy, ta cố tìm lối kết giao với những nhân tài ở đây, những người mà phụ vương bảo ta oán ngầm họ Trịnh.
Thái tử Mạc Kính Hoàn ngồi nhỏm dậy một náo nức nào tràn ngập trong lòng chàng:
- Muốn vậy, ta phải thận trọng lắm, phải khôn ngoan lắm mới được. Nếu mình lộ khuê giốc một tí, mình sẽ không thoát khỏi cặp mắt tinh khôn của chúa Trịnh!... À, vừa rồi, Thành đô Vương có hẹn khi nào thư thả xem tài văn vũ của ta ra sao. Được, ta sẽ cho Ngài thấy rõ ràng Thái tử Mạc Kính Hoàn, con của Mạc Khánh Hoàng Đế, là người thế nào. Vả lại, ta cũng cần phải trổ tài trước tai mắt các bạc văn thần vũ tướng của Thành đô Vương một phen. Ở đời, còn cách nào thu phục nhân tâm nhậy bằng tài năng nữa... Cổ nhân có câu: ‘‘Xuất giao thiên hạ sĩ, tu độc ngũ xa thư’’.  Muốn ra giao du với kẻ sĩ trong thiên hạ, hãy đọc năm xe sách. Ta không những đã đọc năm xe sách, ta còn lầu thông cả mười tám ban vũ nghệ nữa. Như thế, ta vứt đi cũng thu được vài ba tri kỷ. Vài ba tri kỷ ở ngay giữa đất kinh kỳ nhất là các tay tri kỷ ấy lại toàn là những kẻ văn võ tuyệt luân cả, ta lo gì đại sự không có lúc thành?
Tuổi trẻ bao giờ cũng giàu hy vọng và đức tín. Thái tử Mạc kính Hoàn vừa đi bách bộ trong thư phòng vừa lẩm bẩm tự nói với mình.
Bỗng, chàng đứng sững lại sau song cửa sổ. Chàng lắng tai nghe ; cặp mắt đương sáng lóng lánh vụt trở nên mơ mộng...
Từ xa... không rõ ở một nơi nào trong cung cấm, tiếng đờn thập lục khẽ văng vẳng lọt tới chàng...
Tiếng đờn thập lục? có lẽ... Ồ, hình như thông phải... Nó là cả một niềm mong nhớ, cả một nỗi bâng khuâng chờ đợi nào đó, kín đáo nhưng nồng nàng biết chừng nào...
Chàng lẩm bẩm:
‘‘Quái, gần đây có người nào đờn hay thế chả biết! Tiếng đờn mềm mại, phong phú như vậy, hẳn phải là do một người đàn bà...
Một nụ cười nở trên làn môi đó:
-... một người đàn bà rất đẹp, không sai...
Một tên cung giám bước vào.
Thái tử ngoảnh lại hỏi:
- Có việc gì?
- Dám thưa Đức ông, Đại vương có lệnh mời Đức ông lên dự tiệc yến,
- Được, ngươi ả đấy chờ giẫn lối cho ta.
- Phụng mệnh!
Thái tử gọi quân hầu đem mũ áo lại. Chàng sửa soạn một lát xong, liền bước ra cửa thư phòng.
Tên cung giám kính cẩn đi lui lại một bước sau để lâm thời sẽ trỏ lối cho Thái tử.
Kính Hoàn vẫn chưa quên tiếng đàn thanh thót; và cái cảm giác say sưa, ngây ngất vẫn khiến tâm hồn chàng nao nao...
Chàng tò mò muốn biết rõ nhạc công là ai. Điều ấy, chàng tin chắc tên cung giám có thể cho chàng hiểu một cách tường tận được.
Chàng sở dĩ phân vân, ấy chỉ vì chàng không biết hỏi như vậy có tiện không hay sớm quá.
Sự khôn ngoan dù sao cũng chỉ được một lúc, chàng không thể chịu cái ngứa ngáy muốn biết thêm được nữa:
- Nay cung giám!
- Dạ?
- Anh có nghe thấy tiếng đờn vừa rồi không?
- Bẩm Đức ông, có ạ.
- Ai đờn mà hay thế?
- Bẩm, Phương Lan quận chúa đấy ạ. Quận chúa tài cả cầm, kỳ, thi, họa, và đẹp không thể nói xiết được...
Chương III
Mấy nhời giới thiệu của nội giám đều không ngoa chút nào:Phương Lan quả thực
là một tài sắc đệ nhất về bên nữ giới của thời  đại ấy.
Tuổi chừng đôi tám, Quận chúa có một thân hình dòng giả, thanh tao mà không phải là gày. Khuôn mặt nàng trái soan, trán nàng phẳng và vừa phải, mũi thẳng dọc vừa với hai cánh mũi luôn luôn rung động, tỏ ra một tâm hồn dễ súc cảm. Miệng nàng rất xinh môi sánh đỏ làm cho hai gò má càng tươi mơn mởn như mầu hoa phù dung. Cổ nàng cao ba ngấn và tròn. Hai bàn tay nàng trắng nuốt, mềm mại, ngón thon tháp bút. Chân nàng nhỏ, gót thắm như son thấp thoáng dưới lần siêm lụa mầu hoàng yến. Mái tóc nàng xanh như mây búi ngọn ra phía sau mà một cái trâm ngà dài đầu là một con phưọng kết bằng chân châu, mỏ ngậm cuốn thư lung linh theo cử động nhịp nhàng. Quận chúa hay mặc cái áo gấm mầu hoa cà thêu kim tuyến rộng tay, với một tấm khác thêu bằng vóc vàng cái chữ thọ có đính châu chỉ hạt hột.
Tuy được Trịnh vương, Vương phi và nhất là Vương thái phi yêu quý như viên ngọc, Phương Lan Quận chúa không hề ỷ thế mà tỏ ra hách dịch, khinh người và rẻ của. Nàng đối với ai cũng rất nhã nhặn, dịu dàng. Ở nàng, tất cả là mềm mỏng, là tình, là cảm.
Nàng, ngoài những giờ hầu nội tổ, phụ vương và thân mẫu, chỉ ưa tha thẫn ngoài
ngự uyển để ngắm hoa nở, xem trăng lên hoặc lắng nghe các giống chim đua hót.
Các giải trí của nàng ta ngâm thơ, rạo đờn hoặc vẽ.
Hôm ấy, Phương Lan Quận chúa đương mải chấm bức tranh Tây vương mẫu phó hội bàn đào thì con Ý nhi tự trong nội phủ lon ton bước vào với một vẻ quan trọng.
Quận chúa biết ngay là tên A hoàn đã sẵn một câu chuyện khả dĩ làm bớt cái buồn tẻ của đời sống phẳng lặng chốn thâm cung. Nàng tò mò dừng bút:
- Cái gì thế, Ý nhi?
- Bẩm Quận chúa...
- Cho mày cứ nói.
- Việc quan trọng lắm...
- Thì tại đến Hoàng thượng và Đại vương cùng ngự giá chinh nam chứ gì?
- Bẩm không phải...
- Thế thì Mạc vương đem quân về đánh Kinh thành...
Ý nhi cúi mặt để giấu một nụ cười ranh mãnh.
Phương lan Quận chúa đoản:
- Hoặc giả một đảng nghịch nào đó toan giở rối câu chuyện phù Lê...
- Bẩm Quận chúa, người đoán đều không đúng.
- Thế thì ta đành chịu.
- Bẩm, Mạc vương..
- À thôi: có lẽ Mạc vương xin về đầu hàng.
- Bẩm Quận chúa, câu chuyện cũng gần gần như vậy.
- Nghĩa là thế nào?
- Bẩm Quận chúa, Mạc vương dâng biểu về xin với Đức Hoàng thượng và Quan Đại Nguyên súy nhà cho được đầu hàng...
- Thì ta cũng đóan vậy.
- Bẩm Quận chúa đoán mới trúng có một nửa …
- Còn gì nữa?
- Hoàng thượng hỏi ý Đại vương nhà ta. Đại vương tâu xin chuẩn y, vì...
- Ngài sắp bận vào việc đánh nhau với Nguyễn vuơng ở miền Nam chứ gì?
- Bẩm chính thế.
- Sao nữa?
- Hoàng thượng bèn sắc cho Mạc vương được nộp cống xưng thần, lại cho vẫn lấy
đất Cao bằng làm nơi căn bản, Mạc vương được phong làm chức Thái úy Thống quốc công.
- Thế thì có gì lạ mà mày phải làm ra vẻ quan trọng quá vậy!
- Bẩm, có sự lạ lắm.
- Nói đi ta nghe?
- Đại vương nhà, dù sao, vẫn không tận tin Mạc vương...
- Cái ấy đã đành.
- Ngài cho rằng, trong lúc ngài mải bận việc chinh Nam, Mạc vương rất có thể cất lên về cướp Thăng long được.
- Ai chả nghỉ thế!
- Bởi vậy, ngài bắt Mạc vương phải tuân theo một điều.
- Là...
- Cho Thế tử Mạc kính Hoàn về đây làm con tin...
- Vậy à?
- Bẩm vâng.
- Mạc vương có chịu không?
- Bẩm có.
- Chắc Mạc vương cũng khổ tâm lắm !
- Nhưng Mạc vương còn làm cách nào khác được! Bởi vậy, ngài đã cho Thế tử về kinh.
- Thế tử Mạc kính Hoàn đã về kinh?
- Bẩm vâng, vừa về tới nơi...
- Mày được thấy à?
- Vâng, Đại vương nhà cho mở một cuộc tiếp đón long trọng lắm. Chính con, lúc Thế tử vào lạy ra mắt Đại vương nhà, đã được nom thấy mặt Thế-tử.
- Mày làm cách nào mà thấy được?
- Con nhân đứng hầu trà Đại vương nên được thấy rõ mặt Thế tử.
Phương Lan Quận chúa tự nhiên thấy trái tim nàng đập mạnh. Nhưng nàng vẫn giữ giọng nói lơ đãng.
- Mầy thấy rõ à?
- Vâng.
- Thế tử là...
- Một người trai trẻ có một dung mạo rất đẹp. Một bậc kỳ nam tử, một vị thiên thần.
Hai gò má Phương Lan dần dần ửng đỏ,
Nàng gạn hỏi, vẫn bằng một giọng thờ ơ:
- Thế tử đẹp lắm à?
- Bẩm vâng, Ngài cao lớn, mặt chữ dụng, mày nét mác, mũi rồng, miệng rộng, môi đỏ, mắt sáng như sao. Thực giống Triệu tử Long đời Tam quốc như tạc.
Quận chúa bật phì cười:
- Mày biết mặt Triệu Tử Long bao giờ mà mày dám nói như vậy?
Tên thị nữ ngượng ngùng vội chữa:
- Con không được thấy nhưng con cứ xem bức vẽ trong sách thì biết.
- Vẽ thì tin sao được! Ấy chẳng-qua họa công vẽ thế nào thì nên thế mà thôi. Mày không xem bức họa Tây Phương mẫu đến hội Bàn đào của ta đấy ư. Ta có biết mặt đức Tây Phương mẫu ra thế nào! Ta chỉ hình dung người ra sao thì vẽ như vậy.
Quận chúa nói xong liền cầm bút chấm nốt bức họa để kịp hôm này sẽ đem dâng Vương Thái Phi vào dịp thất tuần dạ khách. Nàng cho rằng nói chuyện về bấy nhiêu đã thừa đủ. Nàng không tiện thóc mách thêm nữa, mặc dầu nàng vẫn muốn hỏi Ý nhi về Thế tử. Nàng mải miết vẽ để quên những ý tưởng bề bộn về những xúc cảm rồn rập. Nhưng, sau cùng, nàng buột miệng nói to:
- Bởi chưng vận nhà suy sút, đến nỗi một vị Thế tử phải đem thân đi ở làm con tin chỗ đất khách quê người, cái tình của chàng thực cũng đáng thương và nổi cô liêu của chàng hẳn là nung nấu lắm...
- Bẩm Quận chúa, chính con cũng nghỉ như vậy.
Phương Lan như người chợt tỉnh chiêm bao. Nàng cảm thấy nóng ran cả người ; nàng thẹn quá, vờ như không nghe rõ câu Ý nhi vừa nói.
A hoàn ranh mãnh:
- Thế tử một mình ở đây chắc là buồn lắm.
Phương Lan Quận chúa ngần ngừ một lát đoạn hỏi:
- Đại vương cho Thế tử ở đâu?
- Bẩm, gần ngay đây thôi ạ.
Tim Quận chúa đập rất gấp:
- Gần ngay đây là chỗ nào?
- Bên ngoài kia, ngay chỗ Tây hiên, nhìn ra vườn Thượng Uyễn.
- Nghĩa là chỉ cách nơi ta ở có một bức tường?
- Bẩm chính thế.
Phương Lan tự nghĩ?
- Có thể nào như vậy được...
Một ý tưởng vụt lóe sáng trong óc nàng:
- ''Cách nhau có một bức tường! Chẳng nhẻ đấy là do một ý – định tối tăm của duyên kiếp’’.
Nàng tự trách nàng đã vội vàng quá. Nhưng cái tình cảnh của ông Hoàng họ Mạc đã tha thiết với lòng nàng quá, tha thiết ngoài cả sự chờ đợi của nàng, và mạnh đến nổi nàng không cưởng nỗi.
Nàng đặt bút, lững thừng ra gần cửa sổ tròn đứng nhìn bâng khuâng cảnh vườn hoa.
Nắng thu rội lênh láng mật ong trên cây cỏ.
Một vài thứ thảo mộc đã bắt đầu vàng lá. Trên các lối đi, nhiều tầu lá rụng đã loang mầu cát trắng, cảnh vật vẫn tưng bừng, lộng lẫy hết sức, nhưng bên trong cái vẽ tưng bừng ấy vẫn ngầm ngấm một cảm thức về sự tàn tạ, sự tiêu mòn tan rữa, buồn như cả một ý chia ly.
Quận chúa bất giác thở dài.
Từ khi khôn lớn, nàng chưa bao giờ thấy tâm hồn nàng vẫn vơ như lúc ấy!
Đời nàng, từ trước, có thể nói là một tấm gương phẳng lỳ, trong sáng, thản nhiên phản chiếu các đổi thay ngoài sự vật, các đổi thay có lẽ chẳng bao giờ nàng quan tâm.
Hôm nay, tâm sự nàng đã khác hẵn.
Hôm nay, Thế tử Mạc kính Hoàn đã vào ở trong Trịnh vương phủ.
Hôm nay, Thế tử đã... vào cuộc đời nàng, với tất cả những cái gì ta gọi cảm, là ảo mộng.
Thế tử đã vô tình làm cho tâm hồn Quận Chúa vẫn lên, cũng như làn gió ngoài xa làm vẫn lên không khí ngày thu trong sáng một thứ bụi vàng óng ánh.
Không phải như vậy là làm phiền cho Quận Chúa đâu.
Trái lại, nàng thấy rằng, chỉ từ khi nàng có những xúc động sâu xa, những ý tưởng man mác nọ, nàng mới thực là bắt đầu sống cái cuộc sống của nàng.
Từ bao giờ đến bây giờ, nàng chỉ là một thứ máy thụ động, một thứ máy để ăn, ngủ, cười, nói và đễ được chắt chiu nâng giấc.
Mãi hôm nay, nhờ có Thế tử Mạc Kính Hoàn nàng đã từ địa vị cái máy bước sang địa vị một người, một cô xuân nữ có một tâm hồn rất phong phú, một trái tim đầy những cảm những tình nóng hổi.
Nàng cảm thấy cần phải tự đem mình mà đứng vào một công việc gì cao quý, nhân từ, tốt đẹp.
Nàng cần phải đem tâm hồn nàng cho đi, nghĩa là làm cho một tâm hồn khác bớt cô đơn lạnh lẽo.
Tóm lại, tuy chưa dám thú thực hẳn với lòng, Quận chúa biết rằng mầm tốt yêu đương đã bắt đầu chớm nở trong tim nàng,
- Ý nhi!
- Dạ.
- Mày có nghe Đại vương nhà truyền phán cho Mạc thế Tử gì không?
- Bẩm Quận chúa, Đại vương nhà có hỏi nhiều chuyện thuộc về Mạc vương, về việc trong Triều đình và ngoài biên ải…
- Thế tử đáp sao?
- Con không rõ, nhưng con chỉ thấy Mạc Thế tử ưng đối cực kỳ lưu loát, nhất là Ngài không một giây phút nào tỏ ra bị hoảng hốt cả.
Phương Lan nghĩ thầm:
- Một người như Mạc Thế tử khi nào lại có thể hèn được!
Nàng nhận ngay rằng nàng vừa có một ý tưởng vô nghĩa lý. Nhưng chính cái vô nghĩa lý ấy là một cái gì êm ái lạ.
- Lúc mày vào đây, Mạc thế tử vẫn còn ngồi hầu Đại vương nhà chứ?
- Bẩm không ạ. Đại vương truyền Mạc thế tử lui về tư phòng nghỉ ngơi...
- Phải, người ta mới từ xa tới chắc mệt mỏi lắm...
- Nghe đâu Vương Thượng sẽ thiết đại yến Mạc Thế tử.
- Lẽ tất nhiên!
Nàng ước thầm giá nàng có thể thay con a hoàn, dù chỉ trong chốc lát để được nom rã mặt chàng.
Điều ấy là một điều mơ ước hão.
Nàng buồn rầu bảo Ý nhi:
- Thôi, ta không họa nữa. Mày đem cây tỳ bà lại đây cho ta.
Ý nhi vâng lệnh.
Phương Lan Quận chúa tiếp lấy cày đờn, so giây và, không định trước, nàng khẽ gảy khúc Tư lương nhân, điệu buồn như nấu nung gan ruột.
Bên kia bức tường, Mạc Thế tử đã nghe vẳng tiếng đờn: nhờ bốn đường tơ, hai tâm hồn đã được cùng nhau gần gụi...
Chương IV
Sau khi Sãi vương Nguyễn phúc Nguyên ở miền Nam nhất dịnh kháng thuế, Thanh đô  Vương Trịnh Tráng biết rằng không thể không có một cuộc chiến tranh dữ dội giữa hai họ Nguyễn và Trịnh được.
Tuy vậy, Thanh đô Vương vẫn còn muốn dò la ý tứ Nguyễn vương một lần sau chót. Ngài tâu vua sai sứ đem sắc vào dụ Sãi vương cho con ra chầu, dâng ba chục thớt voi cùng ba chục chiến thuyền để đưa sang cống Minh Triều Hoàng đế.
Sãi vương hỏi ý kiến tả hữu là bọn Nguyễn hữu  Dật, Nguyễn hữu Tiến, và Đào  duy  Từ. Bọn này đồng thanh khuyên Sãi vương nhất định khởi hấn.
 Sãi vương nghe theo,
Nam và Bắc từ đây đoạn tuyệt,
Thanh đô Vương giận lắm. Ngài tức khắc vời văn võ lại bàn việc Nam chinh. Cả Thế tử nhà Mạc cũng được dự bàn, vì Thanh đô Vương vẫn muốn thử tài trí của Mạc Thế tử
Khi mọi người đã an vị, Thanh đô Vương liền cất tiếng hỏi:
- Nguyễn phúc Nguyên hai lần cự mệnh.
Triều đình, tội không thể tha được. Và ta, thể nào ta cũng phải đem binh vấn tội, nếu không thì triều đình sẽ không còn ra thể thống gì nữa. Vậy, trăm quan ai có kế sách nào hay cho phép cứ tự do bày tỏ.
Văn võ nhìn nhau, chưa ai có ý gì hay thì Mạc Thế tử đã nói;
- Họ Nguyễn xưng chúa ở phương Nam là nhờ có bọn văn thần, võ tướng toàn những tay trí dũng thao lược cả. Ví dụ bọn Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn hữu Tiến là những tay cầm quân rất giỏi, có thể đánh trăm trận cũng nên công. Hơn thế nữa, Nguyễn vương còn có một bậc văn thần tài ngang Gia cát Lượng đời Tam quốc, ấy là Đào duy Từ…
Thanh đô Vương tỏ vẻ nghĩ ngợi:
- Đào duy Từ nào?
- Người học trò con nhà hát xướng mà ở đây luật lệ đã không cho được ứng thí.
- Tên ấy mà có tài cao ư?
- Khải Đại vương các văn thần, võ tướng các tay anh hùng tạo thời thế mà tên tuổi còn lưu lại đời sau phần nhiều đều là con nhà áo vải cả. Đào duy Từ tuy xuất thân ở chỗ hèn hạ mà tài học quá siêu quần, ông ta người làng Hòa trai, huyện Ngọc sơn phủ Lĩnh gia, tỉnh Thanh hóa. Từ khi bị ức vì không được ứng thí, ông ta liền vào Nam quyết tìm đường tiến thân với chúa Nguyễn.
Thoạt đầu, lạ nước lạ non, không người tiến dẫn, ông ta đi ở chăn trâu cho một nhà giàu đã nổi tiếng là Mạnh thường Quân đất Tùng châu. Trong lúc phong trần ông có làm một bài phú để nói cái chí lớn của ông, ấy là bài Ngọa Long Cương, mà thiên hạ đương rất truyền tụng. Nhờ bài văn ấy, Đào duy Từ được quan Khám lý Trần Đức Hòa đem lòng yêu mến, gả con gái cho ông rồi tiến cử ông với Nguyễn vương. Nguyễn  vương, sau một buổi tiếp kiến Đào Duy Từ, biết ngay ông này là một tay thao lược xuất quần, liền cất ông lên chức Nộ Tán, tước Lộc Khê Hầu, Chính Đào duy Từ là người đã lập đồn Trường dục và đã đắp cái lũy dài Nhật lệ, bức tường thành ngăn đôi Nam Bắc, một trở lực lớn cho việc Nam chinh của Đại vương.
Thanh Đô Vương tỏ ý nghĩ ngợi một lúc lâu đoạn hỏi Mạc Thế Tử:
- Túc hạ làm cách gì mà biết được tường tận như vậy?
- Khải Đại Vương, vì Vương phụ chúng tôi đã có lần muốn thu phục Đào duy Từ, nên mới hỏi về ông ta một cách tường tận như vậy.
- Như nhời túc hạ nói thì Sãi vương có lẽ là một tay kình địch đáng sợ hay sao?
- Phải Đại vương, chúa Nguyễn quả là một tay Lưu Huyền Đức ở phương Nam vậy!
- Theo ý túc hạ, ta nên dùng phương sách, nào để trị bọn ấy?
- Khải Đại vượng, theo ý ngu của chúng tôi thì, trong việc dụng binh, không nên nghe mưu kế sẵn. Dùng binh, cũng như đánh cờ. Không một ván cờ nào lại giống hệt ván cờ nào, còn như vây hãm bên địch vào thế nọ thế kia, ấy chẳng qua là một sự rất hiểm hoi. Kẻ làm tướng hơn nhau chỉ ở chỗ biết liệu gió, phất cờ, lúc nào nên đánh thì đánh, lúc nào nên lui thì lui, nghĩa là cần nhất có một chữ tùy. TÙY thời, ấy chính là tất cả cái nghệ thuật để thắng lợi bên địch. Vả lại, Vương thượng nếu một mai cất quân chinh Nam, các mưu kế không thể dự trước được. Vì sao? Vì bọn văn thần võ tướng của Nguyễn vương đều là những tay thiên mưu bách kế, nhập thần xuất quỷ một cả. Ta chỉ một cách là tùy liệu đến đâu hay đến đấy!
- Túc hạ nói rất phải. Tuy nhiên, lúc sắp ra quân, ta cũng nên nghĩ xem đại cương cuộc hành binh sẽ như thế nào.
Mạc Thế tử và trăm quan chưa ai kịp đáp thì Hoàng-môn-quan vào bẩm:
Khải Vương thượng, có Nam sứ là Văn Khuông ra dâng phẩm vật tạ ân phong sắc.
Thanh Đô Vương chau mày nghĩ ngợi một phút mới truyền cho vào.
Văn Khuông lạy phục dưới thềm son rồi tiến lên điện.
Thanh Đô vướng hỏi ngay bằng một giọng gay gắt:
- Tại sao Nguyễn Phúc Nguyên dám kháng thuế?
Văn Khuông chắp tay nói:
- Khải Vương thượng, Chúa công tôi đâu dám kháng mệnh Triều đình! Chỉ vì mấy năm luôn, mùa màng bị thiên tai hoàng trùng, dân tình đói kém khổ sở quá nên không làm cách nào thu đủ được số thuế để nạp về Kinh đô thôi. Vả lại, về việc này, Chúa công chúng tôi đã có biểu dâng lên Thánh thượng và Đại vương để trần tình về việc ấy rồi.
- Những nhời ngươi vừa nói chẳng qua chỉ là cái ngụy thuyết để che đậy tội lỗi mà thôi. Nếu Nguyễn Phúc Nguyên không có ý gì khác thì sao y lại từ chối việc cống voi và chiến thuyền?
- Khải Đại vương, Chúa công chúng tôi có đâu dám từ chối. Chẳng qua hạn nộp voi và chiến thuyền gấp quá.  Chúa công chúng tôi phải xin hoản đấy thôi. Chúa công chúng tôi vâng mệnh đức Hoàng Đế và lệnh của Vương thượng trấn thủ phương xa, có tiếng nhưng thực không có miếng. Bởi vì rằng phương Nam là đất cồn cát, mầu mỡ không có gì. Dân tình lại khổ sở, họ toàn là những kẻ vong mệnh tụ tập nhau thành chòm xóm...
Thanh đô Vương đập tay xuống án thét:
- Cái ý phản Triều Đình của Nguyễn Phúc Nguyên đã rõ rệt lắm rồi, người đừng chống chế nữa, vô ích. Nên Chúa ngươi thành tâm như nhời người nói thì đồn Trường dục và lũy Nhật lệ kia dựng đắp lên để làm gì?
Văn Khuông không hề có vẻ sợ hãi, và cứ điểm nhiên đáp:
- Khải Đại vương, nếu Chúa  công chúng tôi quả có ý kia khác thì sao còn sai chúng tôi đến dâng biểu tạ ơn và các bảo vật lên đức Hoàng Đế và Vương Thượng. Còn như những việc xây đồn dắp lũy, ấy chẳng qua là công việc rất thường của kẻ làm tướng ngoài biên cương, Vương Thượng để tâm làm gì.
Thanh đô Vương thấy Văn Khuông ứng đối trôi chảy, lòng riêng thầm phục là một tay sứ giả không đến nỗi nhục mệnh của bề trên. Vương truyền Vân Khuông hãy tạm lui ra quán dịch đợi mệnh.
Văn Khuông lạy tạ lui ra.
Thanh Đô Vương quay lại Mạc Thế Tử:
- Họ Nguyễn có những bề tôi như thế chẳng trách được va dám xưng cô xưng quả hùng cứ một phương.
Mạc Thế Tử nói:
- Nhời Vương Thượng dạy rất đúng, nhưng chỉ đúng cho bọn Hữu Tiến, Hữu Dật, Đào Duy Từ mà thôi.
- Túc hạ cho Văn Khuông là không xứng đáng nhời khen ngợi của ta sao?
- Văn Khuông là một võ tướng bậc dưới, làm gì có những câu nói hùng hồn như vậy. Chẳng qua, trước khi đến đây, va đã được Đào Duy Từ mớm nhời cho rồi. Kịp lúc Đại vương truyền hỏi, và cứ sẵn nói ra, như kẻ học trò đọc thuộc lòng một bài học vậy.
Thanh Đô vương tỏ ý không tin.
Mạc Thế Tử liền trỏ mâm phẩm vật do Văn Khuông vừa đệ lên mà rằng:
- Khải Vương Thượng, tôi dám nói vậy là vì bên trong nhời đối đáp trôi chảy của Văn Khuông, tôi đã nhận rõ cái ý kình địch ra mặt của chúa Nguyễn ở miền Nam rồi. Cái ý ấy tôi dám chắc đâu trong chiếc mâm này.
Thanh Đô vương nhìn Mạc Thế Tử:
- Túc-hạ nói gì, ta không hiểu!
- Vương Thượng hãy truyền nội thị đập vỡ chiếc mâm đồng này ra thì sẽ thấy sự lạ.
Thanh Đô Vương nghi ngờ liền sai nội thị làm theo nhời Mạc Thế Tử.
Chiếc mâm đồng bị đập bẹp trong nháy mắt. Ai nấy đều sững sờ thấy là một cái mâm hai đáy, trong đó giấu kín một tờ giấy có chữ viết kèm với đạo sắc của Lê Hoàng.
Nội thị dâng lên Thanh Đô Vương.
Ngài cầm đọc lá thiếp đoạn trao cho Mạc Thế Tử:
- Túc hạ thực là một tay thần đoán. Nếu Đào Duy Từ đã tự ví mình với Gia Cát Lượng đời Hậu Hán thì ta phải nói rằng túc hạ quả là Trương Tử Phòng đời Tây-Hán vậy. Nhưng mấy câu này ý nghĩa ra sao, túc hạ có đoán được chăng?
Mặc Thế Tử nhìn qua bốn giòng chữ:
- Khải Đại vương, mấy giòng chữ này, ý nghĩa ra sao, theo ý tôi, chỉ có quan Thiếu úy Phùng khắc-Khoang họa may đoán nổi.
Thanh đô Vương khen phải, liền triệu Phùng khắc Khoan lên điện:
- Phiền Khanh giảng hộ mấy câu này.
Phùng trạng nguyên đọc:
Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Dì lạc tâm trường
Lực lai tương dịch.
(Sà mâu không mấu
Tìm không thấy dấu
Tấm lòng xót thương
Sức đến cùng đấu)
Trong lúc trạng Bùng đọc to bốn câu triết tự viết trên cánh thiếp, trên từ Thanh đô Vương, Mạc Thế  tử, dưới đến văn võ quan liêu, hết thảy cùng nhìn chằm chặp cả vào gương mặt khôi ngô và tư lự của nhà nho đã từng tiếng một thời ở đất Bắc Hà.
Khắc Khoan nghĩ rất nhanh, đoạn kính cẩn đặt tờ thiếp lên mặt án son, trước bảo tọa của Chúa Trịnh.
Thanh đô-v ương hỏi:
- Thế nào? Trạng nguyên đoán ra chứ?
Phùng khắc Khoan chắp tay nói:
- Khải Vương thượng, bốn câu triết tự này, quá đúng như nhời Mạc Thế tử nói, ngụ một ý rất xược.
- Khanh cứ nói ta nghe...
- Khải Đại vương, Sà mâu không mấu tức là chữ máu không có nét phết: dư.
Tìm không thấy dấu, tức chữ mịch thiếu chữ kiến:bất.
Tấm lòng xót thương, chữ ái bỏ chữ tâm: thụ.
Sức đến cùng đấu, tức là chữ lai ghép cùng chữ lực: sắc.
Thanh đô vương lẩm bẩm:
- Dư bất thụ sắc...
Phùng khắc Khoan gật:
- Chính vậy!
- Nghĩa là Nguyễn phúc Nguyên bảo ta biết ý va không triệu sắc mạng Triều đình nữa! Quân này láo thực...
Thanh đô vương nổi giận lôi đình. Ngài thét:
- Vũ sĩ đâu, ra bắt Văn Khuông vào đây.
Mạc Thế tử đứng dậy:
- Khải Đại vương, bắt y vô ích.
Thanh đô vương quắc mắt hỏi:
- Sao... sao lại vô ích?
- Vì Văn Khuông chắc đã đi xa rồi.
Thanh đô Vươngnghe nói càng giận:
- Cha chả! Nghịch tặc dám nhờn oai ta… Võ sĩ bay cứ ra quán dịch xem nào.
Võ sĩ tuân lệnh ; nhưng, một lát sau. chúng đều trở vào trình rằng Văn Khuông quả đã trốn mất từ lâu rồi.
Mạc Thế tử nói:
- Xin Đại vương sai ngay Đại tướng cầm quân vào hỏi tội họ Nguyễn và chính người sẽ thân chinh đi sau. Cốt nhất là ta chờ xem cử động của bọn Đào duy Từ ra sao đã...
Chương V
SAU buổi nghị sự bàn về cuộc chinh Nam Mặc Thế tử lững thững về thư phòng.
Lúc ấy vào khoảng giờ thân, ánh mặt trời đã xế. Chàng ngồi bên song cửa, bâng khuâng với trăm nghìn ý nghĩ nó đuôi nhau trong óc chàng, như những đám mây dưới một trời giông tố.
Cuộc chiến tranh không thể tránh được giữa hai họ Nguyễn và Trịnh làm cho Thế tử náo nức một hy vọng êm đềm.
Chàng biết rằng Thanh Đô Vương dù tài cao trí cả đến đâu cũng không dễ gì mà thắng nổi được bọn văn thần võ tướng của … chúa Nguyễn.
Cuộc chiến-tranh sẽ hết sức gay go.
Sự thiệt hại của hai bên sẽ không bút nào tả xiết.
Mạc Thế tử rung đùi đắc ý. Chàng khẽ rung đùi và ngâm nga một câu thơ cổ:
Bạng ruật tương trì,
Ngư ông đắc lợi tiếu hi hi!...
Thực thế, cuộc chiến tranh giữa Nguyễn và Trịnh sẽ là một cơ hội tốt cho phụ vương chàng thu phục lại cơ đồ cũ, cái cơ đồ rực  rỡ xây dựng lên đã từ bao nhiêu năm, đến nay bị nghiêng lệch về một tay chúa Trịnh.
Chàng đau lòng nghĩ đến mấy đời tổ tiên chàng bị hại về tay họ Trịnh. Cái thù kế thế ấy, chàng quyết hễ còn sống ngày nào, chàng sẽ báo cho bằng được mới nghe.
Chàng định sẵn trong trí rằng, một khi Thanh đô vương đã thân chinh xuống miền Nam rồi, chàng lập tức sẽ báo tin để Mạc vương đem quân về Thăng long. Chàng sẽ kết hợp với một số văn võ ham lợi để làm nội ứng.
- Trong đánh ngoài đánh, một thành Thăng long này lấy dễ như thò tay vào túi áo lấy đồ vật vậy!
Mạc Thể tử hăng hái đứng phắt dậy. Nhưng cùng một lúc, những cách tiếp đãi tử tế, và ấm lòng quý trọng thành thực của Trịnh vương đối với chàng lại hiện ra trong trí nhớ chàng, khiến Mạc Thế tử phải bồi hồi vơ vẩn.
Đễ lấp cái nao núng của lòng, Thái tử chép miệng.
- Sự tử tế của Thanh đô vương chẳng qua là do một lẽ chính tự đó mà thôi. Vả lại, dù Trịnh vương có thực tâm quý mến ta chăng nữa, ấy chỉ là việc riêng giữa ngài với ta. Còn mối thù chung của hai họ, còn cái sứ mệng mà vua cha đã đặt lên đầu ta, ta không có quyền được sao nhãng, dù bất cứ bởi một lẽ nào.
Thế tử cố gợi dậy trong ký ức những việc đã qua về bao nhiêu lần thất bại của tổ tiên chàng đã bị rụng đầu dưới lưỡi gươm của Chúa Trịnh. Những giọt máu của họ Mạc- những giọt máu mà một phần đương lưu thông trong huyết quản chàng lúc này, đã đổ ra trên bãi trường hình ngoài cửa Đoan môn. Nó nhuộm hồng cả một khoảng đất phủ cỏ gà, nó đọng lại thành vũng, nó loang ra trong óc chàng thành một vết lớn dần dần che lấp cả đôi vầng nhật nguyệt.
Mối thù, được khơi ra, lại bắt đầu thấm khắp cả tâm hồn chàng và đốt nóng máu chàng, như một thứ lửa địa ngục.
Mạc Thế tử lững thững ra vườn hoa.
Cảnh vật, lúc xế chiều, càng có một sức gợi cảm nấu nung.
Chàng lững thững vừa đi vừa ngắm cái mầu cỏ úa dãi dưới ánh tà, cùng với những tia nắng cháy vớt trên những lần vỏ xù xì của bao nhiêu gốc cổ thụ.
Một u hoài man mác càng lâu càng chiếm đoạt cả tâm hồn Thế Tử.
Chàng tưởng tượng cái thời oanh liệt đã qua của giòng họ nhà chàng. Cái uy nghi ấy bao giờ lại trở lại dưới ánh mặt trời thiên vạn cổ?
Chàng có cảm tưởng mỗi bước của chàng là bước lên một dấu vết của thời đã mất.
Chàng ngùi thương thân phụ đương sống lẩn lút ở xó rừng xanh, ngồi thúc thủ mà nhìn cái oai của nhà Mạc mỗi ngày một phai tàn đi như ánh chiều đương tắt.
Thình lình, những tiếng tơ trầm bổng lại thoảng đến tai chàng...
Mạc Thế Tử dừng bước lắng nghe.
Bao giờ cũng thế, tiếng ti tiếng trúc thoáng nghe bao giờ cũng như làm tỉnh thức ở chàng một mối tương tư không căn cứ.
Chàng đương vui có thể buồn ngay được, gặp lúc chàng đương buồn, nỗi buồn của chàng càng thấm thía, nấu nung vô hạn.
Tiếng đờn ca tự hồ nhắc Thế tử một kiếp tiền xinh nào xa xôi lắm mà ghi nhớ vẫn còn sót lại trong óc chàng.
Huống hồ, tiếng đờn lúc này lại có tiếng đờn của Phương Lan Quận chúa.
Phương lan Quận chúa, một giai nhân, theo nhời mách lẻo của tên nội thị, chẳng những là một tài nữ vô song mà lại còn là là một danh hoa khuynh quốc nữa!
Mạc Thế tử thấy lòng nao nao xúc động một cách khó tả.
Chàng bất giác tiến về chỗ phát nguyên của tiếng đờn bị thu hút như sắt thấy nam trâm.
Chàng thủng thẳng bước đi chẳng khác người mơ ngũ.
Qua một con đường trải cát luồn dưới bóng liễu buông mành, Thế tử ngoặt về bên trái và men theo bờ một cái ao sen lụi.
Tiếng đàn mỗi lúc một gần, một rõ.
Ờ, không phải là một thứ tiếng tơ như chàng vẫn tưởng.
Nó là tình, là cảm, là tất cả bao nhiêu nỗi nhớ niềm thương...
Nó là tình, là cảm, là nhớ, là thương cứ tiêu mòn đi một cách vô ích giửa chốn thâm cung u tịch, cách ngăn xa biệt hẳn với cõi đời...
Nó là sự sống âm thầm nhưng mãnh liệt của một tâm hồn cô quạnh.
Và tâm hồn chàng cũng đương chính là một tâm hồn cô quạnh!
Mạc Thế Tử thở dài.
Cội sầu, ta lại với ta,
Lọ quen biết mới gọi là tri âm!...
Chàng tuổi trẻ cúi đầu ; chân vẫn bước như cái máy. Sau cùng, chàng đột ngột thấy mình đến trước một bức tường hoa,
Bức tường không cao lắm. Thế tử có thể vỗ tay một cái nhảy qua như không.
Nhưng, bên kia bức tường, chàng biết rõ là nơi Phương Lan Quận chúa đương ngôi gảy đàn.
Chàng sợ sẽ làm kinh động thiếu nữ, nếu cử động của chàng đột ngột quá.
Mà lui về thì Mạc Thể Tử không thể sao lui về được nữa.
Chàng như một con thuyền đã xuống tới lưng chừng thác. Con thuyền không tự chủ được nữa. Nó bị giòng thác cuốn đi phăng phăng.
Thế Tử bị sự tò mò lôi cuốn quá mạnh. Chàng nhìn quanh chỗ đứng, chợt thấy một cây tùng cổ thụ mọc sát tường hoa.
Không ngần ngừ, chàng bám cây leo lên, đoạn khe khẽ tụt xuống bên vườn Quận chúa. May sao chỗ ấy nhiều bụi cây rậm nên chàng không bị lộ hình tích.
Chàng men theo các khóm cây, tiến đến chỗ nhà thủy tạ dựng giữa hồ nước trong xanh như lọc.
Nhà thủy tạ làm theo kiểu lục lăng, mái lợp ngói sứ mầu biếc, cột và bao lan đều sơn đỏ,
Giữa thủy tạ kê một cái án son, trên đặt một hình cúc long trảo, một cái lư con toả khỏi trầm nghi ngút và một cây thập lục huyền.
Phương Lan Quận chúa ngồi trước kỷ son, hai bàn tay lượn trên mười sáu đường dây nom như một đôi bướm trắng.
Nàng không trang điễm lộng lẫy như những lúc phải vào chầu Thái Phi hoặc Vương phụ.
Nàng mặc một cách giản dị khiến nhan sắc của nàng có một sắc thái dịu dàng và thân mật.
Mạc Thái tử nín hơi đứng nhìn tấm áo lụa bạch mỏng như đám sương tụ lại quanh một thân hình tuyệt dẹp. Những nếp siêm mầu hồ thủy tỏa buông xát đất, chỉ lộ ra hai mũ hài thêu bằng gấm màu hồng tím.
Hai tay áo rộng lòa xòa như đôi cánh con thiên nga thỉnh thoảng để lộ hai cổ tay tròn và trắng như hai đẫn ngọc.
Phương Lan Quận  chúa tự hồ đem cả tâm hồn gửi lên những làn sóng thanh âm trầm bỗng.
Toàn thân nàng rung lên ; sắc mặt nàng lúc trắng trong, lúc tươi thấm. Chốc chốc nàng khẽ ngẩng đầu nhìn đắm đuối vào khoảng không, như theo đuổi một mộng ảnh siêu trần...
Mạc Thể tử buộc miệng khen:
- Thực là thiên tiên giáng thế.
Trong nhà thủy tạ, tiếng đàn vụt im bẵng. Quận chúa ngẩn đầu, sắc mặt biến đổi dữ dội khi nàng nhận rõ Thế tử đứng ẩn mình trong lá cây.
Mạc Kính Hoàn, như Lưu Nguyễn vào Thiên thai, vòng tay vái chào Quận chúa, đoạn tiến nhanh qua nhịp cầu trúc đá nối nhà thủy tạ với đất liền.
Con Ý nhi may lúc ấy bị sai đi chỗ khác có việc. Phương Lan không ngại bị lộ chuyện nữa. Nhưng nàng cảm động thái quá vì lần ấy là lần đầu tiên trong đời nàng, Quận chúa giáp mặt một thanh niên lạ. Nàng nhìn Thế tử như bị chàng thôi miên và thầm khen ngợi chàng quả là một trang anh tuấn phi thường.
- Chúng tôi vì bị tiếng đờn hấp giẫn, đường đột tới đây, xin Quận chúa thứ tội cho.
Giọng chàng nói, Quận chúa nghe gần ngay bên tai mà văng vẳng tự hồ trong giấc mộng.
Nàng tuy đã biết đích chàng là Mạc Thế tử song cũng hỏi:
- Tráng sĩ là ai mà dám vào đây, không biết chổ này là chỗ cung vi nghiêm cấm hay sao?
- Thưa Quận chúa, tôi là Mạc Triều Hoàng Thái tử, tên gọi Kính-Hoàn. Tôi hiện đương là một con tin trong Vương phủ...

Phương lan cúi đầu vì trong mắt chàng tuổi trẻ lúc ấy long lanh một tia lửa thù oán
Chàng tiếp theo:
- Tôi biết lắm, rằng đây là chỗ cấm cung và cái tội đường đột của tôi có thể làm cho tôi mất đầu được. Ngặt vì tiếng đàn của Quận chúa đã thu hút tâm hồn tôi một cách không cương nỗi...
Chàng ngưng lại, nhìn đắm đuối gương mặt giai nhân, và giọng chàng, vụt trở nên đầm ấm và dịu dàng:
- Vậy thì, nếu tôi đã có tội, cái tội của tôi cũng là do Quận chúa một phần.
Phương Lan nóng bừng hai má. Nàng cứ nhìn mũi giày thêu, trong khi Mạc Thế tử nói tiếp:
- Tôi không phải có ý đổ lổi cho Quận chúa đâu. Lúc này, lòng tôi có thể vui sướng vô cùng, nếu tôi có vì Quận chúa mà mất đầu được... Tôi nói câu vừa rồi chỉ là để tỏ ra rằng tôi hâm mộ tài năng của Quận chúa như thế nào, và cả tâm hồn tôi đã hướng về Quận chúa chẳng khác bông hoa quý ngã về mặt trời vậy.
Phương Lan bàng hoàng cả tâm trí.
Thực chưa bao giờ nàng được nghe những nhời như vậy. Nó êm ru, nó ngây ngất nàng hơn là những cốc rượu ngự mà phụ  Vương hằng ban cho nàng vào những dịp lớn lao như Tết Nguyên-đán, ngày Vạn-thọ.v..v..
Thái tử thấy Phương Lan không nói gì liền tiếp:
- Tôi cảm ơn Quận chúa đã làm cho tôi đỡ thấy mình chỉ là một thằng tù giam lỏng. Quận chúa, bằng những tiếng đàn kỳ diệu, đã mở cho hồn mộng  tôi được thấy những cõi thiên đường lộng lẫy và huy hoàng.
- Thưa Hoàng tử, thiếp chỉ là một đứa con gái vụng dại, đâu được xứng đáng những nhời quá bao dung của điện hạ. Nhưng, nếu cái tài mọn của thiếp đôi khi có làm khuây cho điện hạ đỡ được những rầu rựt của bao nhiêu nỗi nước tình nhà thì thực là một vẻ vang phi thường cho thiếp vậy.
Say vì nết, nặng vì tình, Mạc Thế tử khẻ cầm tay Quận chúa và nói bằng một giọng bùi ngùi.
- Quận chúa ơi chúng ta cớ sao lại sinh làm con cháu của hai họ cừu địch nhau? Sự gặp gỡ hôm nay biết rằng có hẹn cho chúng ta một ngày tốt đẹp nào chăng?
Quận chúa chớp nhanh hai mắt:
- Điện hạ, người ta ở đời cớ sao cứ phải thù ghét nhau vì những cái vô tích sự?...
Tiếng Ý nhi chợt vẳng lại từ cổng vườn,
Mạc Thế tử vội lui vào bụi rậm, vượt qua tường hoa về thư viện…
Chương VI
NƯỚC Đại Việt, thửa ấy đương gặp phải hồi đa sự, cái tinh thần thượng vũ nhờ bởi thời thế cấp bách, đã được phát triển tới độ cao nhất cả ngay trong dân gian.
Trong dân gian, ngoài công việc cần cho sinh kế hằng ngày, ai nấy chỉ chuyên chú vào một sự giảng luyện vũ nghệ.
Bất cứ làng nào, xóm nào cũng vậy. Người ta họp tập nhau, phần nhiều là bọn trai tráng, để nghe thày dạy các món côn, quyền, đao, kiếm. Là vì, vũ nghệ chẳng những hợp với tuổi trẻ hung hăng, nó còn là con đường xuất thân cho bất kỳ ai nữa. Giỏi võ, người ta có thể một bước đi tới những địa vị mà người tham lam cũng ít dám đợi chờ.
Ở Bắc Hà, người khuyến khích cái phong trào thượng vũ tràn lan mãnh liệt ấy chính là Thanh đô vương Trịnh Tráng.
Vương vốn là một tay vũ dũng siêu nhân, lại đương cần có một sức mạnh quân đội vô địch để bình trị thiên hạ nên ngài rất thân cận những ai có tài võ, có sức khỏe.
Từ hôm Mạc Thế Tử về kinh làm con tin, Trịnh Vương thấy chàng là một thanh niên anh tuấn, thêm mưu trí, thông minh lỗi lạc, lòng riêng lấy làm yêu chuộng lắm, Vương chỉ còn muốn biết rõ xem về vũ nghệ, Thế Tử có thực là một bậc siêu quần không.
Cái thâm ý của Vương là muốn đãi Mạc Thế Tử như Trần Hưng Đạo Đại Vương xưa đã đối với Phạm điện Súy tướng quân vậy.
Đành rằng Trịnh và Mạc là hai họ thế thù, và thiên vô nhị nhật,quốc vô nhị Vương, song chúa Mạc hiện giờ đã chẳng còn chút thế lực nào nửa. Khánh Vương đã cam chịu cái nước dâng biểu để chịu nhận lấy một chức quốc công và cho con về Kinh để làm tin thì những ai còn mơ tưởng sự giúp Mạc chắc cũng đều tuyệt vọng.
Trịnh Vương không muốn nhân cơ hội làm cái nước thừa thắng tràn khi để tiệt diệt họ Mạc. Sự đó thành công dễ như bỡn nhưng dù sao chiến tranh cũng tai hại cho lê dân. Theo ý Vương thì chi bằng kết thân với họ Mạcr cùng nhau hưởng phú quý, như vậy vừa tỏ được cái lượng cả của mình, vừa tránh nạn binh đao cho bách tính, vừa yên trí đem toàn  lực chọi nhau với họ Nguyễn ở miền Nam.
Đã có chủ định như vậy rồi, Thanh đô Vương chỉ còn chờ thử tài năng của Mạc Thế tử một lần sau nữa là ngài sẽ thực hành việc gả Phương Lan Quận chúa cho Thế tử.
Ngài dự tính một mình, không cho ai biết dù là kẻ tả hữu thân mật.
Thì vừa hay, lúc ấy, thái độ khiêu khích của chúa Sãi Vương làm cho việc chinh Nam trở nên một vấn đề khẩn cấp.
Vương liền hạ chỉ kén tướng tiên phong, nhân tiện xem tài của Mạc Thế tử:
Được dịp lập công danh, không những các kẻ tài sức bốn phương xô đến kinh kỳ để
Đtfđc dip lập c$ng danh, khoflg những các kl tài sưc bữn phương xô đến kinh - kỳ để hồng tranh khôi đoạt giáp, mà ngay các vũ tướng tại chức cũng hăm hở muốn được lọt mắt xanh của chúa Trịnh.
Ngày thi võ đã tới.
Sĩ tử các nơi, đến chực ở kinh thành đã đợi từ bao nhiêu hôm trước, đều kéo nhau tới vũ trường.
Dân gian, tò mò vì cảnh tượng ấy là một cảnh ít có, tới xem đông như nước chảy.
Giảng võ trường là một bãi đất rộng mênh mông ở  về góc Tây Bắc thành Thăng long.
Bình nhật vẫn bỏ không cho cỏ mọc, giảng vũ trường hôm ấy được sửa sang trang điểm rất rỡ ràng.
Người ta sén cỏ, san mặt đất cho phẳng phiu. Người ta dựng ở đầu phía Bắc giảng võ trường một ngọn trướng lớn phủ bằng vải dầy mầu thổ hoàng.
Trong trướng đặt một cái bục gỗ hình chữ nhật, sơn đỏ, cao hạ bậc. Trên mặt bục gỗ để ngai vàng của Trịnh vương, một cỗ án thư trên có giá cờ lệhh và các văn phong tứ bảo.
Một lá cờ đại bay phấp phới ngay bên ngoài mặt hổ trướng, giữa hai cái giá son cắm đủ mười tám môn binh khí.
Ba nghìn bộ binh dàn thành năm hàng thẳng dẵng, mặt ngoảnh trông vào trướng đài do đại tướng Đinh văn Tả quán lĩnh.
Một dẫy hông tâm cắm ở góc Nam vũ trường, gần một tốp trăm con ngựa chiến đóng đủ cả yên cương chờ sẵn.
Đúng đầu giờ Mão, trống chiêng nổi ba hồi chín tiếng, báo tin Thanh đô Vương kiêm chức Đại nguyên soái đăng đàn.
Quan, dân, sĩ, tốt im phăng phắc.
Một sự chờ đợi đầy xúc cảm.
Thì chẳng bao lâu, từ cửa Bắc hoàng thành, tiến ra một đám rước trống giọng cờ mở rất là uy nghi rực rỡ.
Dẫn đầu có năm lá cờ Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Tiếp đến trống, chiêng và đội quân nhạc cử bài võ ca hùng tráng.
Thanh đô Vương mặc đại trào - phục sắc chinh hồng, mũ cánh chuồn dát ngọc, đai nạm sừng kỳ lân, đi ủng mầu cánh trả, ngôi chễm chệ trên chiếc kiệu bát cống thiếp vàng do mười sáu tên nội thị mặc áo nâu đỏ nẹp xanh khiêng.
Sau kiệu Trịnh Vương, Mạc Thế tử cưỡi ngựa bạch, mặc giáp bạc, cầm thiên phương họa kích đi phò tá cùng các vũ tướng khác. Hai bên tả hữu kiệu là năm trăm giáp binh, đi hàng thẳng, tay cầm mã tấu và đinh ba sáng ngời.
Đám rước từ từ đi tới vũ trường rồi đứng lại.
Kiệu bát cống từ từ hạ.
Thanh đô Vương thăng trướng.
Giáp binh dàn hầu hai bên tả hữu. Mạc Thế  tử và các vũ tướng khác đều đứng hầu ở sau ngai.
Trống chiêhg lại nổi ba hồi chín tiếng, làm hiệu cho trong ngoài đều phải yên tỉnh nghe lệnh.
Sau cùng, một vị trong giám ban tuyên đọc tờ chỉ của Thanh đô Vương và các điều lệ mà các thí sinh phải tuân theo lúc vào khoe tài. Cuộc thi cũng như mọi lần khác, mở đầu bằng cung nỏ. Hàng trăm thí sinh lần lượt ra lĩnh ngựa để vừa phi nước đại vừa bắn luôn ba phát vào hồng tâm. Sự ganh đua này rất gay go nên kết cục chỉ được hai người hoàn toàn trúng cách: Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế.
Hai tướng cũng bắn trúng cả ba mũi tên vào giữa hồng tâm, theo lệ đã định.
Quần chúng hồ reo khen ngợi, tiếng vang động như sóng cồn.
Thanh đô Vương quay bảo Mạc Thế tử;
- Túc hạ thử ra bắn ta xem.
Mạc kính Hoàn dạ một tiếng, đoạn hâm hở xuống thềm.
Chàng thốt lên lưng bạch mã, ra roi cho chạy vòng quanh mấy lượt, đoạn rút cung tên quanh mình bắn trở lại luôn sáu phát. Sáu mũi tên vù vù bay ra và cắm phập cả vào hai hồng tâm của Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế làm cho các mũi tên do hai tướng này bắn trước bật rơi xuống đất.
Tiếng hoan hô bội lên gấp mười lúc nãy.
Người ta không còn có tiếng để mà ngợi khen nữa. Cái tài bách bộ xuyên dương của ông Hoàng tuổi trẻ thực là ngoài cả sự tưởng tượng của mọi người.
Chính Thanh đô Vương cũng phải thán thưởng.
- Dưỡng do Cơ đời Chiến Quốc cũng khó lòng hơn được túc hạ!
Rứt lời, Vương truyền thi đến mười tám ban võ nghệ. Lần này, hai tướng Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế lại vượt hơn hết thảy mọi người.
Mạc Thế tử bẩm với Thanh đô Vương:
- Chúng tôi không có ý gì tranh ấn tiên phong của hai tướng họ Nguyễn, song cũng xin Vương thượng cho phép chúng tôi được đọ tài cùng họ.
- Ý túc hạ muốn thử sức theo cách nào?
- Xin cho tôi đấu ngay một lúc với cả hai người.
Trịnh Vương quay lại hỏi Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế:
- Hai người nghĩ sao?
Cả hai đồng thanh:
- Cũng là một dịp hiến vui Vương thượng.
Thanh đô Vương liền chuẩn-y.
Lập tức cả ba tướng cùng xuống đàn lên ngựa.
Trống trận nổi ầm ầm.
Lá cờ lệnh, do đại tướng quân Đinh văn Tả cầm phất mạnh một cái.
Tức thì, cuộc đọ tài của ba tướng bắt đầu và trở nên vô cùng kịch liệt.
Mạc Thái tử một mình đấu với hai mà sắc mặt vẫn ung dung như không. Ngọn kích trong tay Thế tử vùn vụt như một làn chớp điện bao phủ bốn bề cả người và ngựa....
Quần-chúng nín thở để nhìn.
Trống trận đánh rồn như trong một cơn lốc mê ly.
Tiếng binh khí chạm nhau chan chát.
Thình lìnhh, thanh đại đao và ngọn dáo của hai tướng Nguyễn Khải cùng Nguyễn danh Thế văng ra xa.
Một tiếng kêu rú kinh-khủng - một tiếng kêu tự trăm nghìn cái miệng cùng thốt ra một lúc.
Đồng thời, Mạc Thế tử bỏ kích, mỗi tay nắm lấy đai lưng một tướng và nhắc bổng lên khỏi lưng ngựa rồi quật xuống mặt đất.
Tiếng reo hò bùng lên như bão táp.
Thanh đô Vương đứng phắt dậy và rảo bước xuống đài.
Vương vỗ vai Mạc Thế tử:
- Túc-hạ thực là Lã phụng Tiên thời nay,
Thế tử nghiêng mình ;
- Khải Vương thượng, chúng tôi cũng là may mà thắng. Ấn tiên-phong xin vẫn nhường nhị vị này.
Thanh đô Vương gật đầu.
- Được! Phải lắm, Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế dù sao cũng là hai tướng tài, rất xứng đáng với quả ấn tiên phong.
Trịnh Vương truyền hồi trống báo hiệu cuộc thi tài đã kết liễu.
Ngài còn sai truyền loa để các vũ sĩ thi trượt ai muốn nhập ngũ đi chinh Nam, Ngài đều nhậu cho cả.
Hết thảy đều nô nức xin theo.
Thanh đô Vương giao việc ấy cho Đại tướng quân Đinh văn Tả.
Ngài lên kiệu về cung.
Mạc Thế Tử, Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế cùng theo hầu.
Về tới Vương phủ, Thanh đô Vương tức khắc sai mở tiệc yến đãi trăm quan văn võ.
Ngài cho Khải, Thế hai tướng lĩnh năm nghìn quân đi trước:
- Còn ta, sau lễ mừng thọ của Vương Thái Phi, sẽ thỉnh Hoàng Thượng ngự giá thân chinh đi sau.
Vương quay bảo Mạc Thế tử:
- Cả túc hạ nữa! Túc hạ cũng cùng theo ta. Không dịp nào bằng dịp này, một vị thanh niên anh hùng như túc-hạ nên vì vua vì nước lập nên công lớn, để tiếng thơm về muôn đời.
Ấy là một điều mà Mạc Thế tử không hề chờ đợi.
Chàng như con thuyền mất lái. Bao nhiêu dự tín của chàng thế là nhỡ bét cả. Chàng lúng túng thưa:
- Xin tuân lệnh chỉ của Vương thượng.
Thanh đô Vương cười:
- Có đi, ta còn một chuyện quan hệ nữa muốn nói cùng túc hạ.
Thế Tử thoáng nghĩ đến Phương Lan Quận chúa. Lòng chàng phân vân bởi tâm hồn chàng lúc ấy là một gian phòng bỏ ngỏ cho muôn nghìn ỹ nghĩ vá xúc cảm bề bộn, trái ngược hẳn nhau.
Chàng nghĩ thầm:
Thực là con sông Thương nước chảy đôi giòng!...
Chương VII
Hai tướng cũng bắn trúng cả ba mũi tên vào giữa hồng tâm, theo lệ đã định.
Quần chúng hồ reo khen ngợi, tiếng vang động như sóng cồn.
Thanh đô Vương quay bảo Mạc Thế tử;
- Túc hạ thử ra bắn ta xem.
Mạc kính Hoàn dạ một tiếng, đoạn hâm hở xuống thềm.
Chàng thốt lên lưng bạch mã, ra roi cho chạy vòng quanh mấy lượt, đoạn rút cung tên quanh mình bắn trở lại luôn sáu phát. Sáu mũi tên vù vù bay ra và cắm phập cả vào hai hồng tâm của Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế làm cho các mũi tên do hai tướng này bắn trước bật rơi xuống đất.
Tiếng hoan hô bội lên gấp mười lúc nãy.
Người ta không còn có tiếng để mà ngợi khen nữa. Cái tài bách bộ xuyên dương của ông Hoàng tuổi trẻ thực là ngoài cả sự tưởng tượng của mọi người.
Chính Thanh đô Vương cũng phải thán thưởng.
- Dưỡng do Cơ đời Chiến Quốc cũng khó lòng hơn được túc hạ!
Rứt lời, Vương truyền thi đến mười tám ban võ nghệ. Lần này, hai tướng Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế lại vượt hơn hết thảy mọi người.
Mạc Thế tử bẩm với Thanh đô Vương:
- Chúng tôi không có ý gì tranh ấn tiên phong của hai tướng họ Nguyễn, song cũng xin Vương thượng cho phép chúng tôi được đọ tài cùng họ.
- Ý túc hạ muốn thử sức theo cách nào?
- Xin cho tôi đấu ngay một lúc với cả hai người.
Trịnh Vương quay lại hỏi Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế:
- Hai người nghĩ sao?
Cả hai đồng thanh:
- Cũng là một dịp hiến vui Vương thượng.
Thanh đô Vương liền chuẩn-y.
Lập tức cả ba tướng cùng xuống đàn lên ngựa.
Trống trận nổi ầm ầm.
Lá cờ lệnh, do đại tướng quân Đinh văn Tả cầm phất mạnh một cái.
Tức thì, cuộc đọ tài của ba tướng bắt đầu và trở nên vô cùng kịch liệt.
Mạc Thái tử một mình đấu với hai mà sắc mặt vẫn ung dung như không. Ngọn kích trong tay Thế tử vùn vụt như một làn chớp điện bao phủ bốn bề cả người và ngựa....
Quần-chúng nín thở để nhìn.
Trống trận đánh rồn như trong một cơn lốc mê ly.
Tiếng binh khí chạm nhau chan chát.
Thình lìnhh, thanh đại đao và ngọn dáo của hai tướng Nguyễn Khải cùng Nguyễn danh Thế văng ra xa.
Một tiếng kêu rú kinh-khủng - một tiếng kêu tự trăm nghìn cái miệng cùng thốt ra một lúc.
Đồng thời, Mạc Thế tử bỏ kích, mỗi tay nắm lấy đai lưng một tướng và nhắc bổng lên khỏi lưng ngựa rồi quật xuống mặt đất.
Tiếng reo hò bùng lên như bão táp.
Thanh đô Vương đứng phắt dậy và rảo bước xuống đài.
Vương vỗ vai Mạc Thế tử:
- Túc-hạ thực là Lã phụng Tiên thời nay,
Thế tử nghiêng mình ;
- Khải Vương thượng, chúng tôi cũng là may mà thắng. Ấn tiên-phong xin vẫn nhường nhị vị này.
Thanh đô Vương gật đầu.
- Được! Phải lắm, Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế dù sao cũng là hai tướng tài, rất xứng đáng với quả ấn tiên phong.
Trịnh Vương truyền hồi trống báo hiệu cuộc thi tài đã kết liễu.
Ngài còn sai truyền loa để các vũ sĩ thi trượt ai muốn nhập ngũ đi chinh Nam, Ngài đều nhậu cho cả.
Hết thảy đều nô nức xin theo.
Thanh đô Vương giao việc ấy cho Đại tướng quân Đinh văn Tả.
Ngài lên kiệu về cung.
Mạc Thế Tử, Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế cùng theo hầu.
Về tới Vương phủ, Thanh đô Vương tức khắc sai mở tiệc yến đãi trăm quan văn võ.
Ngài cho Khải, Thế hai tướng lĩnh năm nghìn quân đi trước:
- Còn ta, sau lễ mừng thọ của Vương Thái Phi, sẽ thỉnh Hoàng Thượng ngự giá thân chinh đi sau.
Vương quay bảo Mạc Thế tử:
- Cả túc hạ nữa! Túc hạ cũng cùng theo ta. Không dịp nào bằng dịp này, một vị thanh niên anh hùng như túc-hạ nên vì vua vì nước lập nên công lớn, để tiếng thơm về muôn đời.
Ấy là một điều mà Mạc Thế tử không hề chờ đợi.
Chàng như con thuyền mất lái. Bao nhiêu dự tín của chàng thế là nhỡ bét cả. Chàng lúng túng thưa:
- Xin tuân lệnh chỉ của Vương thượng.
Thanh đô Vương cười:
- Có đi, ta còn một chuyện quan hệ nữa muốn nói cùng túc hạ.
Thế Tử thoáng nghĩ đến Phương Lan Quận chúa. Lòng chàng phân vân bởi tâm hồn chàng lúc ấy là một gian phòng bỏ ngỏ cho muôn nghìn ỹ nghĩ vá xúc cảm bề bộn, trái ngược hẳn nhau.
Chàng nghĩ thầm:
Thực là con sông Thương nước chảy đôi giòng!...
Hai tướng cũng bắn trúng cả ba mũi tên vào giữa hồng tâm, theo lệ đã định.
Quần chúng hồ reo khen ngợi, tiếng vang động như sóng cồn.
Thanh đô Vương quay bảo Mạc Thế tử;
- Túc hạ thử ra bắn ta xem.
Mạc kính Hoàn dạ một tiếng, đoạn hâm hở xuống thềm.
Chàng thốt lên lưng bạch mã, ra roi cho chạy vòng quanh mấy lượt, đoạn rút cung tên quanh mình bắn trở lại luôn sáu phát. Sáu mũi tên vù vù bay ra và cắm phập cả vào hai hồng tâm của Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế làm cho các mũi tên do hai tướng này bắn trước bật rơi xuống đất.
Tiếng hoan hô bội lên gấp mười lúc nãy.
Người ta không còn có tiếng để mà ngợi khen nữa. Cái tài bách bộ xuyên dương của ông Hoàng tuổi trẻ thực là ngoài cả sự tưởng tượng của mọi người.
Chính Thanh đô Vương cũng phải thán thưởng.
- Dưỡng do Cơ đời Chiến Quốc cũng khó lòng hơn được túc hạ!
Rứt lời, Vương truyền thi đến mười tám ban võ nghệ. Lần này, hai tướng Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế lại vượt hơn hết thảy mọi người.
Mạc Thế tử bẩm với Thanh đô Vương:
- Chúng tôi không có ý gì tranh ấn tiên phong của hai tướng họ Nguyễn, song cũng xin Vương thượng cho phép chúng tôi được đọ tài cùng họ.
- Ý túc hạ muốn thử sức theo cách nào?
- Xin cho tôi đấu ngay một lúc với cả hai người.
Trịnh Vương quay lại hỏi Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế:
- Hai người nghĩ sao?
Cả hai đồng thanh:
- Cũng là một dịp hiến vui Vương thượng.
Thanh đô Vương liền chuẩn-y.
Lập tức cả ba tướng cùng xuống đàn lên ngựa.
Trống trận nổi ầm ầm.
Lá cờ lệnh, do đại tướng quân Đinh văn Tả cầm phất mạnh một cái.
Tức thì, cuộc đọ tài của ba tướng bắt đầu và trở nên vô cùng kịch liệt.
Mạc Thái tử một mình đấu với hai mà sắc mặt vẫn ung dung như không. Ngọn kích trong tay Thế tử vùn vụt như một làn chớp điện bao phủ bốn bề cả người và ngựa....
Quần-chúng nín thở để nhìn.
Trống trận đánh rồn như trong một cơn lốc mê ly.
Tiếng binh khí chạm nhau chan chát.
Thình lìnhh, thanh đại đao và ngọn dáo của hai tướng Nguyễn Khải cùng Nguyễn danh Thế văng ra xa.
Một tiếng kêu rú kinh-khủng - một tiếng kêu tự trăm nghìn cái miệng cùng thốt ra một lúc.
Đồng thời, Mạc Thế tử bỏ kích, mỗi tay nắm lấy đai lưng một tướng và nhắc bổng lên khỏi lưng ngựa rồi quật xuống mặt đất.
Tiếng reo hò bùng lên như bão táp.
Thanh đô Vương đứng phắt dậy và rảo bước xuống đài.
Vương vỗ vai Mạc Thế tử:
- Túc-hạ thực là Lã phụng Tiên thời nay,
Thế tử nghiêng mình ;
- Khải Vương thượng, chúng tôi cũng là may mà thắng. Ấn tiên-phong xin vẫn nhường nhị vị này.
Thanh đô Vương gật đầu.
- Được! Phải lắm, Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế dù sao cũng là hai tướng tài, rất xứng đáng với quả ấn tiên phong.
Trịnh Vương truyền hồi trống báo hiệu cuộc thi tài đã kết liễu.
Ngài còn sai truyền loa để các vũ sĩ thi trượt ai muốn nhập ngũ đi chinh Nam, Ngài đều nhậu cho cả.
Hết thảy đều nô nức xin theo.
Thanh đô Vương giao việc ấy cho Đại tướng quân Đinh văn Tả.
Ngài lên kiệu về cung.
Mạc Thế Tử, Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế cùng theo hầu.
Về tới Vương phủ, Thanh đô Vương tức khắc sai mở tiệc yến đãi trăm quan văn võ.
Ngài cho Khải, Thế hai tướng lĩnh năm nghìn quân đi trước:
- Còn ta, sau lễ mừng thọ của Vương Thái Phi, sẽ thỉnh Hoàng Thượng ngự giá thân chinh đi sau.
Vương quay bảo Mạc Thế tử:
- Cả túc hạ nữa! Túc hạ cũng cùng theo ta. Không dịp nào bằng dịp này, một vị thanh niên anh hùng như túc-hạ nên vì vua vì nước lập nên công lớn, để tiếng thơm về muôn đời.
Ấy là một điều mà Mạc Thế tử không hề chờ đợi.
Chàng như con thuyền mất lái. Bao nhiêu dự tín của chàng thế là nhỡ bét cả. Chàng lúng túng thưa:
- Xin tuân lệnh chỉ của Vương thượng.
Thanh đô Vương cười:
- Có đi, ta còn một chuyện quan hệ nữa muốn nói cùng túc hạ.
Thế Tử thoáng nghĩ đến Phương Lan Quận chúa. Lòng chàng phân vân bởi tâm hồn chàng lúc ấy là một gian phòng bỏ ngỏ cho muôn nghìn ỹ nghĩ vá xúc cảm bề bộn, trái ngược hẳn nhau.
Chàng nghĩ thầm:
Thực là con sông Thương nước chảy đôi giòng!...
Chương VIII
TỪ cuộc gặp gỡ Mạc Thế tử, trong vườn Thượng  Uyển, Phương Lan Quận chúa lúc nào cũng lơ mơ như người trong mộng.
Đời sống của nàng có thể nói là không còn chút liên lạc nào nữa với ngoại cảnh, Nàng cử động, ăn, ngủ và nghĩ vẩn vơ như một cài máy.
Trước mắt nàng lúc nào cũng phảng phất cái dung nghi của Mạc Thế tử, cái dung nghi oai liệt và khả ái biết chừng nào.
Tình yêu tràn ngập cả lòng nàng, trở nên như một thứ men dịu ngọt làm cho nàng say sưa ngây ngất.
Nàng tưởng tượng ra một cuộc tương lai đẹp như cả một bài thơ, một tương lai với
những ngày sáng tươi đầm ấm, trong đó chàng và nàng sống như hai hiện thân của hạnh  phúc.
Cái cảnh do trí nàng bày đặt ra diễm ảo chừng nào, Phương Lan càng đắm đuối ngây ngất chừng nấy. Tâm hồn nàng luôn luôn ở phía bên kia bức tường hoa. Giác quan nàng bị thu hút cả về một phía. Mỗi ý nghĩ của nàng là một rắp toan được lại cùng chàng hội kiến mỗi cẫu nói của nàng là một tiếng gọi ngầm tên Thế tử.
Tình trạng ấy, Ý nhi làm gì chẳng biết. Nó còn đoán được cả cái sắp định của Thanh đô Vương.
Đã thế, nó sẽ vì Phương Lan mà đóng cái vai con chim xanh.
Cái vai con chim xanh không những không nguy hiểm gì mà, trái lại, chỉ có lợi cho nó rất nhiều.
Quận chúa sẽ ơn nó.
Thế tử sẽ ơn nó.
Tấm lòng biết ơn của Khánh Vương Hầu tức là nguồn gốc của phú quý cho kẻ làm ơn vậy.
Nó mon men lại bên mình Quận chúa rồi, xuất kỳ bất ý, nó nói bằng một giọng gần như do ngẫu nhiên ;
- Mạc Thế tử giỏi quá!
Phương Lan choáng người:
- Mày nói gì?
- Bẩm Quận chúa, con vừa nói rằng Mạc Thế tử quả là một vị cái thế anh hùng.
- Thế tử anh hùng hay không, mày biết sao được?
- Bẩm Quận chúa, con không thể biết được nhưng con nghe người khác nói thì cũng hiểu.
Quận chúa tò mò:
- Ai?
- Bằm, Vương thượng!
- Vương thượng?
- Bẩm chính ngài.
- Vương thượng đã nói gì?
- Ngài nức nở khen mãi Mạc Thế tử là bậc cái thế anh hùng.
- Tại sao người lại khen Mạc Thế tử?
- Bẩm, tại vừa có một cuộc đấu võ tại giảng trường...
- Một cuộc đấu võ?...
- Để chọn người cầm ấn tiên phong đi chinh Nam.
Phương Lan giật mình ;
- Vậy, Thế tử đã lĩnh được ấn?
- Bẩm, ấn tiên phong về tay hai tướng Nguyễn Khải và Nguyễn Danh Thế...
- Như thế, sao lại bảo Mạc Thế tử là cái thế anh hùng đuợc?
- Vì Thế tử đã trong một lúc thắng cả hai tướng nọ.
- Ồ!...
- Ngài đã thắng, nhưng ngài đã nhường ấn cho hai tướng họ Nguyễn.
Phương Lan như cất được gánh nặng. Nàng nghĩ thầm:
‘‘Nghĩa là chàng không cầm quân ra trận. Chàng sẽ cứ ở gần bên ta...’’
Một ý tưởng êm đềm vụt chạy qua óc Quận chúa ;
- Chàng từ ấn tiên phong để được ở Iại gần ta!
Ý nhi liếc trộm Phương lan Quận Chúa và dụt rè nói ;
- Bẩm Quận chúa...
- Gì?
- Mạc Thế tử nhường ấn tiên phong cho hai tướng họ Nguyễn, mặc dầu ngài đã thắng họ.
- Ta biết rồi!
Nàng nghỉ:
‘‘Ta còn biết tại sao chàng đã từ ấn tiên phong nữa kìa.’’
Ý nhi tiếp:
- Tuy thế, ngài vẫn phải dự vào cuộc chinh Nam…
Phương Lan đứng phắt dậy, nàng biết mình hớ, vội ngồi xuống chỗ cũ, mặt nóng như chàm lửa ;
- Thế tử cũng dự vào cuộc Nam chinh à?
- Bẩm vâng!
Phương Lan nín lặng.
Ý nhi nói:
- Là bởi Vương thượng đã truyền cho Thế tử như vậy.
Quận chúa cảm thấy đau chói tim, như bị một mũi dao nhọn:
- Bao giờ Vương thượng và Thế tử lên đường?
- Bẩm, nghe đâu sau hôm tiệc thọ Vương Thái Phi
Phương Lan lẩm bẩm:
- Còn năm hôm nữa!
Nàng thở dài. Trong tâm hồn nàng, tựa hồ có cả một tòa lâu đài tráng lệ vừa sụp đổ. Nàng tê mê vì lo buồn. Những nông nỗi gian nguy của người chiến sĩ mà nàng đã một đôi lần nghe tả hữu thuật lại làm cho nàng sợ hãi cho đời sống của Mạc Thế tử vô hạn. Đã đành Thế tử là một trang anh dũng tuyệt luân nhưng mà:
Xưa nay chiến địa nhường bao,
Nỗi không muôn dặm xiết bao dãi dầu.
(Mũi tên hòn đạn vốn vô tình, biết đâu mà nói trước được.)
Phương  Lan Quận  chúa không cầm được nước mắt nữa. Nàng cúi đầu để giấu sự xúc cảm.
Ý Nhi ranh mãnh ủi tai thiếu nữ:
- Bẩm, hình như Quận chúa buồn lắm thì phải?...
- Sao mày biết rằng tao buồn?
- Con biết vì con đã... rõ cả tâm sự của Quận chúa...
Phương Lan nóng bừng cả mặt mũi. Tuy vậy nàng vẫn vờ hỏi vặn nữ tỳ:
- Tâm sự của  ta thế nào mà mày dám bảo là đã rõ cả? Con này láo thật.
- Xin Quận chúa tha cho, nếu con nói không đúng. Riêng phần con, con vẫn tưởng rằng...
- Mày tưởng thế nào?
Ý nhi làm mặt dỗi:
- Thôi con chả dám nói nhảm, nhỡ Quận chúa giận thì con chết.
Phương-Lan vội đáp:
- Không, cho mày cứ nói, ta không giận đâu!
- Quận chúa thứ tội trước cho con nhé?
- Thì ta đã bảo ta không giận mà lại!
- Nếu con đoán không nhầm thì Quận chúa... thương Mạc Thế tử lắm...
- Hừ...
- Mà Quận chúa thương Thế tử cũng phải Chính Vương thượng cũng thương Thế tử như... con... Sự thực, ai mà không động lòng được, khi thấy một người anh tài lỗi lạc như Thế tử mà đến nỗi phải một mình một bóng ở nơi đất khách quê người...
- Mày thấy Vương thượng quý mến Mạc Thế tử lắm à?
- Chẳng những Vương thượng quý mến Thế tử mà thôi...
- Mày nói vậy là nghĩa làm sao?
- Cứ như những cách Vương Thượng đối với Mạc Thế tử, con thấy rõ ràng Ngài đã có ý dành ngôi phò mã cho Thế tử vậy.
Gương mặt Phương Lan Quận chúa lại đỏ hừng như sắc hoa đào.
- Chẳng thế mà Vương Thượng không lúc nào rời Thế tử. Vắng chàng một lúc Ngài đã nhớ. Đi chinh Nam ngài cung cốíep Thế tử đi theo....
- Chuyến này, Vương thượng đi chắc lâu lắm mới về....
- Bẩm Quận chúa, mau ra thì cũng hàng năm.
Trời! hàng năm cách mặt khuất lời nhau ư! Nàng làm sao mà chịu nổi cái khổ sinh ly ấy.
Phương Lan thở dài.
Ý nhi nói:
- Ấy là chưa kể nhiều sự nguy hiểm trong lúc chiến trận nữa...,
- Phải, ta cũng lo lắm!
- Về phần Vương thượng thì chẳng có gì đáng lo, bởi ngài chỉ sai khiến các võ tướng. Chứ như Thế tử thì đáng lo thật, bởi thế nào chàng sẽ chẳng xông tên đột pháo trên mặt chiến trường...
Quận chúa nhắm hai mắt lại như để tránh một ảnh tượng hãi hùng.
- Bẩm Quận chúa, con nghĩ rằng...
- Mày cứ nói.
- Quận chúa đã có lòng đoái tưởng đến Thế tử, chi bằng lúc này Quận chúa nên ngỏ nhời cho Thế tử biết và nên ban cho Thế tử một vài câu an ủi, gọi là làm ấm áp tấm lòng cô quạnh của người chiến sĩ lúc sắp ra đi mà không hẹn có ngày về.
Phương Lan nín lặng.
Mãi sau, nàng khẽ nói:
- Mày nói nghe cũng phải, song ta còn phân vân lắm.
- Bẩm, Quận chúa vì sao mà phân vân?
- Lễ nghi nghiêm cấm, ta sử sự như thế biết rằng có nên?
- Bẩm Quận chúa, chấp kinh còn có tòng quyền, lễ nghi nào thì cũng là tùy theo ở một tấm lòng thành cả.
- Ta còn sợ một lẽ nữa...
- Xin Quận chúa cho biết...
- Là nếu ta làm như mày vừa nói, Mạc Thế tử liệu có thể coi rẻ ta được chăng?
- Điều ấy, con dám cam đoan là không khi nào lại xảy ra.
- Tại sao mày dám nói chắc chắn quá thế?
- Chỉ tại Mạc Thế tử không thể giống như một kẻ đàn ông tầm thường khác được. Thế tử là người khoáng đạt, khác đời thì tấm lòng của Quận Chúa có khi nào Thế tử lại nhầm.
- Mày nói có lẽ.
- Con cho không gì bằng Quận chúa gửi lời an ủi chàng và nói rõ bản tâm của Quận chúa cho chàng hiểu. Đến ngày chàng ra đi, Quận chúa sẽ mời chàng hội kiến ở Cẫm Hương Đình và tặng chàng một chén rượa nồng để tăng nhuệ khí cho lòng trárg sĩ.
- Con này tính việc dỏi đấy. À, nhưng làm cách nào thông tin với chàng được?
Ý nhi nói giọng tự đắc:
- Quận chúa cứ tin ở con.
- Đã đành mày khôn ngoan ít ai bì kịp, nhưng cũng phải coi chừng lắm, kẻo nhỡ nội thị nó biết, tâu Trịnh Vương Thượng thì nguy to.
- Bẩm Quận chúa, con há lại không biết rằng cái tội loạn cũng vì là một tội chết hay sao. Nhưng Quận chúa đừng lo. Một là con sẽ có cách khôn khéo, hai là Quận chúa cứ vung tiền ra mà mua chuộc lũ cung giám. Chúng nó đều một bọn hám lợi cả. Hễ thấy của chúng nó híp mắt lạì thì ta có ngại gì.
- Tiền thì không sợ thiếu,
- Vả lại, như vừa rồi con đã trình Quận chúa đấy: chính Vương thượng cũng có ý kén Mạc Thế Tử vào ngôi phò mã. Như vậy, việc ta làm, nhỡ có đến tai Chúa Thượng, con chắc người sẽ chỉ quở phạt sơ sơ mà thôi.
- Mày chắc ý  Vương thượng như vậy chứ?
- Bẩm Quận chúa, con ấy à? Con ruồi bay qua mắt, con biết con nào là con đực vậy.
- Thế thì được!
- Giờ xin Quận chúa biên thư để con cầm sang trình Thế Tử.
- Mày chờ đấy một lát.
Quận chúa vào thư phòng. Nàng run lên vì cảm động và ngây ngất vì sung sướng, vì hy vọng. Nàng lẩm bẩm:
- Ta biên thư cho chàng là rất phải. Còn lúc nào bằng lúc này nữa: tiếng gọi của yêu  đương sẽ êm ái cho lòng tráng sĩ biết bao nhiêu.
Chương IX
Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế đem năm nghìn quân tiên phong vào tới Hà trung tục gọi là Cầu Doanh, thì đóng lại chờ Chúa Trịnh.
Vả, hai tướng dù muốn đánh nhau với Nam binh cũng không thể đánh nhau được. Theo kế sách của Nguyễn hữu Dật, tiết chế Nam binh là Nguyễn phúc Vệ nhất định cứ án binh bất động. Nam, Bắc, từ hôm giáp mặt nhau, chưa hề giao chiến lần nào.
Cho mãi đến ngày Thanh đô Vương phò xe giá vua Lê vào đến nơi, tình thế vẫn không thay đổi.
Thanh đô Vương nghe lời trình của hai tướng xong, lập lức hạ lệnh mở một cuộc
Ngự tiền quân sự hội nghị để xem ai có điệu kế nào khả dĩ đem phá bên địch được chăng.
Lệnh chỉ truyền ra, trên từ bậc thượng tướng, dươi đến các tì tướng đều lập tức kéo nhau vào ngự doanh.
Trịnh vương, chờ ai nấy an vị xong, liền hỏi ;
- Nguyễn phúc Nguyên kháng mệnh Triều đinh, gây hấn ở biên giới đến nổi đức Hoàng Đế phải hưng binh hỏi tội. Nay, đại binh tới đây, chung nó nhất định thủ hiểm không đánh, các tướng thử đoán xem dụng ý của chúng như thế nào?
Đinh Văn Tả chắp tay đứng dậy:
- Tâu Thánh Hoàng và Khải Chúa Thượng, Nguyễn Phúc Nguyên cậy có bọn Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật, Đào duy Từ, dám manh tâm làm phản, mong những sự mưu đồ vương bá nọ kia. Bản ý của va ngông cuồng như vậy nên va gây hấn để thử xem Triều đình sẽ hành động như thế nào, cốt ý dò la thực lực của ta. Nay thiên binh tới đây, va biết rằng sức va chỉ là cái sức của quả trứng, không đem mà trọi nhau với đá nên va nép hơi im tiếng, thủ hiểm không ra, chờ khi nào ta mỏi mệt mới xuất toàn lực công phá, theo cái kế dĩ dật đã lao vậy.
Trịnh-Vương hỏi:
- Giờ làm cách nào?
Bằng một giọng quả quyết, Đinh văn Tả thưa:
- Xin Bệ hạ và Chúa thượng truyền ba quân vây hãm thành trì, rồi hoặc dụng lực công phá, hoặc dụng hỏa công mà đốt cháy nó như Khổng Minh đốt Tư mả Ý ở hang Tà cốc.
Nguyễn Khải đứng lên:
- Tâu Hoàng Đế, Khải Chúa thượng, xin phép quan Đại tướng quân, hạ quan mong được ngỏ bày ý kiến...
Trịnh vương gật đầu.
- Trong một cuộc hội nghị, việc cần thiết là mưu mẹo tài tình để đánh giặc, vây bắt kỳ ai, ở  địa vị nào, đều được phép tỏ bày ý kiến của mình.
- Khải Thượng Vương, tiểu tướng không đồng ý kiến với quan Đại tướng quân.
- Theo ý ngươi, nên làm cách nào?
- Quân Nguyễn đã đành cố thủ để chờ lúc ta mỏi mệt mới đem toàn lực ra đánh. Nhưng ta không thể vì vậy mà vây hãm thành trì cả chúng được?
Đinh văn Tả quắc mắc hỏi vặn Nguễn Khải
- Tại sao lại không thể vây hãm thành trì của giặc được?
- Bẩm quan Đại tướng, Nam binh dự bị làm phản đã lâu, chúng hẳn đã tính toán kỹ lắm. Bọn Hữu Dật, Hữu Tiến, Duy Từ lại đều là những tay kính luân cả, họ chắc đã nghĩ đến cái nguy bị vây. Thành này là nơi căn cứ đầu tiên của họ, Thế thì các thứ lương, thảo, nước nôi cùng vật dụng giữ thành tất phải sẳn sàng và đầy đủ đâu vào đấy cả rồi, Ta vây hãm thành trì của giặc đừng nói một vài tháng, ngay một vài năm chúng cũng không sợ,
Nguyễn danh Thế cũng đứng dậy nói theo
- Nếu ta dụng toàn lực đánh thành, ta sẽ bị thiệt hại lớn. Vì rằng kẻ đánh bao giờ cũng không lợi thế bằng kẻ giữ
- Nếu ta dụng toàn lực đánh thành, ta sẽ bị thiệt hại lớn. Vì rằng kẻ đánh bao giờ cũng. không lợi thế bằng kẻ giữ. Còn như dùng hỏa công thì miền này đồi lũng cây cỏ nhiều, gia chi dĩ cửa nhà trong thành không dựng liền khu mà dựng tản ra từng xóm nhỏ một. Sức lửa sẽ không đủ mạnh có thể gây một cuộc thiêu đốt dữ dội...
Trịnh-Vương hỏi:
- Vây không được, đánh không được, hỏa công lại cũng không được bây giờ dùng cách nào?
- Đem quân ra khiêu chiến để dử chúng ra khỏi nơi sào huyệt. Lực lượng của chúng thế nào, ta sẽ biết rõ.
Thanh đô Vương hỏi Mạc Thế tử:
- Túc hạ nghĩ sao?
Mạc kính Hoàn đáp:
- Chúng tôi nghĩ khác hẳn. Kẻ kia đã giảm kháng mệnh tất nhiên chúng tự biết sức chúng lắm. Còn cách phòng thủ thành này của chúng, tôi hoàn toàn đồng ý với hai tướng tiền phong.
Trịnh Vương gật đầu ;
- Vậy, theo ý túc hạ?
- Theo ngu ý thì chúng án binh bất động chẳng phải là chúng sợ ta hay nhất định kiên thành cố thủ đâu. Chúng hẳn đương mưu một việc ghê gớm, mà ta sẽ như người bị sét đánh ngang tai, không kịp bưng đầu nữa.
- Túc hạ có thể đoán được là việc gì chăng?
- Đoán đích xác là việc gì thì tiểu tài quả thực không thế đoán được. Có điều tôi giám chắc, ấy là mưu cao của giặc sẽ chỉ xảy ra trong sớm tối.
Đinh văn Tả cười nhạt:
- Cứ nghe ngài nói thì Vua và Chúa chỉ nên ngồi trông nhau mà chờ đợi.
- Bản ý của tôi không phải định nói như vậy, xin lão tướng quân chứ hiểu nhầm. Tôi há không biết rằng đức Hoàng Thượng và Đại Vương đây một khi đã thân chinh, việc tiến đánh để thu lấy những chiến công oanh liệt là rất cần cho uy thế của Triều đình. Sự thắng lợi chậm chừng nào nguy hiểm chừng nấy.
Trịnh-Vương gật đầu:
- Túc hạ nói rất phải!
- Khải Đại Vương, nhưng chính vì Vua Chúa cùng thân chinh, tôi mới càng ngờ sự hành động của giặc, ở ngay nơi căn cứ của ta vậy.
Một vẻ hoài nghi vụt lóe sáng trong đôi mắt Trịnh Vương:
- Ồ, Túc hạ nói cũng có nhẽ... Ta phải coi chừng...
Đinh văn Tả vội gạt:
- Khải Chúa Thượng, sự ấy chỉ là một ý vu khoát. Kinh thành hiện ở trong tay thân tín của Vương - Thượng, lại sẵn nhiều văn vũ tài năng giúp giập, những quân cáo thỏ còn giở được trò trống gì!
Nguyễn Khải lại đứng lên:
- Tiểu tướng chủ chương sự đem quân khiêu chiến để đánh thử vài trận với giặc xem tình hình thực của chúng thế nào.
Thanh đô-Vương ngẩm nghĩ một lát:
- Chuẩn y. Ta hãy cứ thử nghe theo nhời nhị vị tiền phong xem thế nào.
Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế cùng hớn hở bước ra.
Về tới quân doanh, hai tướng lập tức hạ lệnh cho binh sĩ sửa soạn để ra trại thách Nam binh giao chiến. Phải chờ lâu, bọn sĩ tốt Bắc hà đương buồn nản, bỗng được ra trận thì ai nấy cùng vui mừng nhảy nhót. Tất cả khoa chân múa tay, hò reo hăng hái.
Nhưng, cuộc điểm duyệt vừa xong, hai tướng họ Nguyễn chợt thấy sứ giả của Thanh đô Vương cầm hỏa bầy đến truyền lệnh không được ra khơi chiến cùng quân Nam vội.
Nguyễn Khải ngạc nhiên:
- Lạ thật! Thế này thì có mà trời hiểu !...
Danh Thế cũng tỏ ý tức bực:
- Chúa thượng có tiếng người quyết đoán xưa nay, sao tự nhiên lại đâm ra do dự thế chả biết!...
- Hay ta vào hỏi xem nguyên uỷ làm sao!
- Hỏi để mà chết à! Chúng mình là bọn thiên Iôi, trỏ đâu đánh đấy, thì thôi đành cứ cam phận. Còn việc quân quốc trọng đại, mình có quyền gì được dự tới mà hỏi.
- Không có thì cũng cứ mò vào xem động tĩnh ra sao vậy.
- Được, rồi chúng ta cùng đi...
Nguyễn Khải và Nguyễn danh Thế ngạc nhiên là phải. Vì rằng, chính ngay Thanh đô Vương cũng không chờ đợi cái việc thình lình nó xảy đến, khiến Vương phải truyền vội cho hai tướng tiên phong thôi việc đánh thành của Nam binh.
Nguyên lúc hai tướng họ Nguyễn lĩnh mệnh ra khỏi đại doanh Trịnh Vương một lát thì có phi kỵ từ Kinh đô vào mật báo một tin xét đánh Trịnh Gia và Trịnh Nhạc sắp làm phản.
Thanh đô Vương biến sắc.
Ngài liếc trông Mạc kính Hoàn, chịu phục chàng tuổi trẻ là cao đoán.
- Túc hạ!
Mạc Thế tử đứng phắt dậy:
- Vương Thượng có lệnh truyền?
- Túc hạ thực là bậc Quản Nhạc đời nay !
- Chúng tôi có tài đảm chi mà được Vương Thượng ban khoa như vậy?
- Túc hạ đoán như thần !
- Nghĩa là Nam chúa đã thực hành cái mưu kế làm rối hậu quân của ta?
- Đúng.
Mạc Thế tử khẽ nhìn viên lão tướng Đinh văn Tả.
Đinh nói:
- Khải Vương Thượng, chẳng hay có quốc gia trọng sự chi vậy?
- Nguyễn phúc Nguyên ngầm thông với bọn loạn thần tặc tử Trịnh Gia và Trịnh Nhạc định hãm ta vào cái thế lưỡng diện thụ địch.
Đinh Văn Tả nổi trận lôi đình:
- Xin Chúa thượng cho tôi đem mấy nghìn khinh kỵ nhật dạ về kinh bắt hết loạn đảng đem chém bêu đầu ở giữa chợ.
Thanh đô Vương nhìn Mạc Thế tử và hỏi rằng:
- Ý kiến của Đinh tướng quân, túc hạ nghĩ thế nào?
- Khải Vương thượng, tinh thế của ta không phải là không nghiêm trọng. Vậy, ta
phải tĩnh trí mà cân nhắc xếp đặt mọi việc cho rõ đâu vào đấy, đừng nên hấp tấp mà hỏng to...
Chính thế, lúc nầy, mỗi việc đều phải nghĩ rất chín. Túc hạ thử vì ta bày một chước thần tình xem sao?
- Khải Vương thượng, chẳng hay theo nhời mật khải, bọn Trịnh Gia và Trịnh Nhạc định hành sự như thế nào?
- Cứ bản khải thì lũ chúng nó định mượn tiếng tôn phù chính thống, chiếm giữ Kinh thành, mặt ngoài thông đồng với họ Nguyễn ở phương Nam, làm kế nội ứng ngoại hiệp.
- Chắc họ chưa cử sự !
- Sao Túc hạ biết?
- Vì hiện tình Nam binh vẫn yên tĩnh lắm.
- Đúng!
- Thế thì ta chớ nên tiết lậu việc này, và nếu có lui binh cũng nên hết sức thận trọng kẻo Nam quân sẽ đem toàn lực đuổi theo công, phá thì nguy to.
- Túc hạ nói rất hợp ý ta!
- Giờ, Vương thượng hãy cứ cho hai tướng tiên phong đem binh khiêu chiến với giặc. Một mặt, Chúa thượng giao cho lão tướng Đinh văn Tả đem bản bộ mai phục ở phía bên này Hoàng-Giang chờ hễ giặc đến thì đánh. Chúng tôi xin đem hai trăm khinh kỵ về kinh, thác cớ thỉnh an Vương phi. Làm như vậy, bọn phản thần sẽ không ngờ vực chi hết và sẽ trở tay không kịp. Giặc có theo, ta phòng bị sẵn hẳn chúng không dám đuổi dài. Trong khi ấy, Chúa thượng phò xe giá đức Hoàng Đế đương đêm cất lẽn về Kinh đô các ngự dụng hãy tạm bỏ lại cả.
Thanh đô Vương vỗ vai Mạc Thế tử mà rằng:
- Túc hạ thực là Trương tử Phòng của ta! Vậy, ngay chiều nay, phiền túc hạ lên đường về Kinh để phù tá Hoàng thất và Vương gia cho bản suy. Công ấy sẽ là công đầu trong các hàng nhân thần của Triều đình vậy,
- Chúa thượng đã giao trọng trách cho mạc tướng, mạc tướng xin thề sẽ không phụ lòng ủy  thác của Chúa thượng.

Thế tử vái chào vua chúa, đoạn lui về bản trại điểm quân lên đường.
Chương X
LÚC thoạt vâng lệnh Thanh đô Vương đem hai trăm khinh kỵ về Kinh, Mạc Thế Tử đã thoáng có cái ý lợi dụng thời cơ để mưu việc khôi phục giang sơn của Tổ phụ.
Nhưng, chàng không dừng lâu lại ở cái ý ấy ; mặc dầu nó rất tốt đẹp và nhiều hứa hẹn cho chàng.
Thế Tử quyết chờ một cơ hội khác, một cơ hội chàng sẽ gây nên độc lực. Chàng không muốn làm cái lối giậu đổ bìm leo, đục nước béo cò, nhất là khi Thanh đô Vương đã nhắm mắt tin chàng, Thanh đô Vương đã tin chàng hoàn toàn, đã biệt đãi chàng hơn ai hết, đã quý mến chàng một cách thành thực. Thêm nữa: còn mối tình của Phương Lan Quận chúa!
Tất cả bấy nhiêu lệ thuộc tình cảm khiến Mạc Thế Tử không nở phản Trịnh ngay lần này,
Chàng sẽ tỏ cho Thanh đô Vương biết rằng tấm lòng tin cậy, quý mến cũa Vương đối với chàng là không nhầm, rằng chàng là một kẻ thù xứng đáng với bất kỳ một tâm hồn cao thượng nào trên trần thế.
Chàng hăng hái ra đi, không nghĩ đến đói, không nghĩ đến mệt, và nhiều lúc ngủ ngay trên lưng ngựa.
Về tới Kinh đô, Mạc Thế Tử lập tức vào thẳng ngay phủ Thanh đô Vương đưa trình Vương Thái-Phi bức mật thư của chúa Trịnh. Một mặt chàng phát hỏa bài đòi viên Cửu môn đề đốc, truyền khóa các cửa hoàng thành lại: một mặt chàng cắt thêm quân canh giữ cung vua và phủ chúa, đoạn sai truy nã nghịch đảng.
Mạc Thế tử hành động nhanh như sét đánh, không còn ai kịp biết phòng bị trước. Và, nhờ thế, Trịnh Vương phò xe giá vua Lê về tới Kinh đô thì mọi việc đã đâu vào đấy cả.
Thanh Đô Vương cả mừng, liền tâu vua Lê ban thưởng cho Mạc Thế Tử. Vương lại truyền lấy của kho dựng phủ riêng cho Thế tử.
Tin ấy, Phương Lan Quận chúa tiếp nhận như một tin ly biệt. Nàng buồn mất mấy ngày. Nàng cảm thấy rằng một khi rời xa chỗ cung vi chàng hiện ở, Thế Tử sẽ mang theo đi mất cả cái vui, cả cuộc sống của nàng.
Xa nhau mới có một bức tường mà Quận chúa đã coi như cách biệt hàng nghìn dặm ; huống hồ mai đây Thế Tử lại ra ở ngoài hoàng thành!
Quận chúa nhớ lại những nổi lo lắng, mong chờ, nhớ nhung mà nàng đã sống từ hôm Mạc Thế Tử theo phụ vương nàng đi chinh Nam.
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,
Hàng cờ bay trông bóng thướt tha...
Dấu cờ tiếng trống xa xa,
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng...
Nhớ nhung cho đến ngày chàng đột ngột về. Cái giật mình khi nghe tin nội biến, cái xúc động được nép dưới sự che chở của chàng, tất cả cho Phương Lan sống ngây ngất và mãnh liệt như nàng chưa bao giờ được sống.
Về phần Mạc Thái tử, mối tình của chàng đối với Phương Lan quận chúa cũng càng ngày càng sâu xa.
Tuy chàng vẫn tự tin rằng chàng nghĩ đến cái sứ mệnh của chàng, đến phụ vương ở chỗ núi rừng xa thẳm, đến cái sự nghiệp của tổ phụ nhiều hơn là để lòng bận bịu về những mối tình riêng, mà mối yêu đương vẫn cứ đâm mầm mọc rễ ra,cứ nảy nở trong lòng chàng lúc nào chàng không biết nữa.
Bây giờ thì nó đã thành hẳn một sức mạnh, một sức mạnh êm đềm nhưng khó lòng ai cưỡng lại nổi.
Nó ám ảnh chàng; nó khiến chàng vẩn vơ, ngơ ngẩn; nó như một con nhện vô hình giăng tơ khắp cả hồn chàng.
Đến nỗi, nhiều khi một mình cưỡi ngựa đi chơi hoặc ngồi lặng trong thư phòng, trí nghĩ man mác đến các bậc vương bá đã kế tiếp nhau trong việc tranh quyền đoạt vị, Mạc Thế tử không khỏi lấy làm ngao ngán rằng hiện nay họ đều đã thành cát bụi, lòng tham của họ đã tan đi như mây khói, có chăng một chút tên tuổi ghi trên sách, như những người điên rồ đã vấy máu lên lịch sử nhân quần.
Mạc Thế tử thở dài:
- Oanh liệt ghê gớm đến như Hạng Vũ chỉ một lệnh truyền ra mà mười vạn hàng binh phải mất đầu, vậy mà rốt cuộc cũng đến rút dao đâm cổ ở bên Ô giang!... Đã thế, con người sinh ra trên đời, tử sinh hũu hạn, cớ sao không nhân lúc còn được sống trong ánh sáng, cố mến yêu, thương xót lấy nhau trước khi phải chia lìa nhau đến thiên vạn cổ có hơn không? Quyền vị của cải là những thứ mà hai bàn tay ta không thể giữ mãi được, ta dại gì lại đi phí cả một đời cho nó?
Chàng rót rưựu uống thực say, vì trong những lúc hoàn toàn là một người chứ không là một chiến sĩ ấy, Mạc Thế tử đâm ra ngờ vực cả cái sứ mệnh mà Phụ vương  đã giao phó cho chàng. Chàng thấy bớt tin ở cái tính cách thiêng liêng của nó nữa. Cái hăng hái lúc đầu của chàng tự hồ một mớ than gần vạc, bởi mối thù trong lòng chàng đã dịu dần.
- Ừ, thù oán nhau mà làm gì? Người ta sống chẳng lẽ chỉ cứ để mà báo thù lẫn nhau ư ? Tổ phụ ta cướp quyền nhà Lê ; bây giờ họ Trịnh lại đánh đuổi nhà Mạc. Sự đổi thay ấy chẳng qua cũng là thường. Bây giờ, ví dụ ta có diệt được họ Trịnh, cướp được ngai vàng của vua Lê để họ Mạc lại làm chúa nước Nam như trước thì đã chắc đâu cái địa vị chúa tế ấy sẽ giữ vững được mãi mãi. Trải xem Bắc sử từ Đường, Ngu, Nghiêu, Thuấn đến Thanh Triều bây giờ, cũng như ở ta từ họ Hồng Bàng đổ xuống, có họ nào đã làm vua chúa được mãi mãi? Đuổi theo một cái mộng hảo huyền đến nỗi phí phạm hết thanh xuân, ấy thực là một chuyện nhả mồi bắt bóng vậy. Chi bằng hai họ Mạc và Trịnh thành tâm hòa hảo, trước là tránh cái vạ binh lửa cho trăm họ, sau là cùng nhau yên vui hưởng lấy những ngày tươi sáng có hơn không?...
Nghĩ đến đây, Mạc Thế tử vựt lạí thấy gương mặt Phương Lan Quận chúa hiện ra trước mắt chàng, như một ý tán thành những tư tưởng hòa bình, nhân đạo của Thế tử. Gương mặt mới xinh tươi, ý nhị làm sao. Chàng bồi hồi cả tâm trí, chàng ngây ngất hơn những khi say rượu. Và,đắc chí, Thế tử rung đùi, cất tiếng ngâm nga :
Thâm khuê, thiếu nữ bất tri sầu.
Hồng nhật, ngưng trang thượng Thúy lâu
Hối kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu!
Ngây thơ, em chửa biết sầu,
Ngày tươi hớn hở lên lầu điểm trang.
Chùn đê, dáng liễu mịn màng,
Công danh, tiếc lỡ để chàng ra đi...
Tiếng Thế Tử ngâm còn sang sảng thì nội thị đã bước vào quỳ thưa:
- Trình Đức ông, Mạc Đại vương có thủ thư về
Thế Tử nghe nói vội đứng phất dậy.
Chàng truyền nội thị bình thân, đoạn kính cẩn tiếp phong thư của Vương phụ...
Thế Tử chưa rõ trong thư nói những gì, nhưng giữa lúc này chàng thấy ở nó một cái gì như một nhời trách móc, hơn nữa, một tiếng gọi thiêng liêng mà chàng phải đem cả tâm hồn đáp lại.
Sự xúc cảm mạnh lắm!
Thế Tử rửa tay mở thư, trong khi miệng truyền nội thị:
- Cho ngươi hãy lui.
Chàng ngồi xuống ghế, chờ cho lòng đỡ rộn rực mới bắt đầu đọc:
 ‘‘Con,
 Từ ngày con xuống Kinh sư, ta vẫn để ý nhìn xa các hành động của con.
Ta rất lấy làm vui lòng khi thấy con đã tỏ ra xứng đáng là dòng dõi anh hùng.
 Hơn thế nửa, con đã khéo tỏ cho Thanh Đô Vương biết rằng sự hòa hảo của ta là  do một ý rất thành thực, con đã hết sức phù tá Lê Triều, phù tá Trịnh vương, con đã xứng đáng vớii sự biệt đãi mà con được hưởng ngay từ buổi đầu tới đất tuy cũ cho nhà ta mà mới lạ cho con.
Tất cả các cái ấy, cha đều lấy làm hả hê lắm.
Cha có nhời ban khen con.
Chẳng những vậy, cha còn báo cho con biết một tin mừng.
Con thử đoán xem?
Ồ, con không tài nào đoán nổi đâu !
Tin mừng ấy là cái ý của Trịnh vương muốn kết thân với ta bằng cách gả Phương Lan Quận Chúa cho con vậy...
Thái Tử đặt tờ hoa tiên xuống mặt án thư, Chàng không thể đọc tiếp được nữa.
Câu chuyện đến thình lình quá, chàng thực không bao giờ dám chờ đợi!
 Có thể như vậy được chăng?
Chàng hiện ngồi trong thực tại hay chàng đương sống một giấc mơ tiên?
Thế tử vẫn biết rằng Thanh đô Vương yêu quý chàng rất mực, nhưng, còn xa lắm chàng mới dám ngờ đến cái ý định của Vương.
Cái ý định ấy lại tới chàng giữa lúc chàng đương băn khoăn về sự thù hằn và sự không nên thù hằn giữa hai họ.
Nó gỡ cho chàng biết bao nhiêu bối rối ! Nó dẹp tắt cho lòng chàng biết bao nhiêu ân hận; nó bùng ra tất cả một nỗi vui tưng bừng.
À, nhưng ý của Trịnh Vương thì thế, còn ý của phụ vương chàng thế nào?
Chàng đọc tiếp:
… ‘‘Hảo tâm của Thanh đô Vuơng đã làm cho cha cảm động vô cùng. Cha đã có tâm thư về tạ ơn Ngài và đã nhận nhời Ngài một cách sung sướng.
Đành rằng hai họ vẫn có chút oán thù, nhưng đấy là việc đã qua, và đấy chỉ là việc riêng của những người đã từng giáp mặt nhau, đã từng kinh địch nhau để tranh quyền cướp nước.
Chứ như Phương Lan Quận chúa và con sinh sau đẻ muộn, có dự chi đến những sự nó chia lìa hai họ?
Sách Phật có câu: Oan gia nghi giải bất nghi kết. Dịp này chính là dịp để cho Trịnh Vương và ta hết niềm cừu địch vậy.
 Ta sẽ thân hành đem sính lễ về kinh hỏi Phương Lan Quận chúa cho con, và cuộc hòa nhân này sẽ phải là một giai thoại muôn đời !
 ‘‘Về phần con, sau khi đọc thư này, con hãy vào Vương phủ lạy tạ ơn Trịnh thái Phi; Thanh đô Vương và Vương phi, nghe không.
Mạc vương thủ bút’’’.
- Đẹp quá! Sự thực hiện này thực là đẹp đẽ quá cho cái ước vọng của ta!
Mạc Thế tử kêu lên như vậy rồi múa chân hoa tay để tỏ ý vui sướng.
Chàng vui sướng nhất về chỗ chàng đương sợ những ý tưởng vừa chớm nở trong óc chàng ít lâu nay sẽ bị phụ vương coi như những ý tưởng đào ngũ, bạc nhược và đắc tội.
Nay, phụ vương chàng đã nghĩ đúng với ý chàng.
Cái hạnh phúc nhân sinh rơi tới tay chàng giữa lúc chàng lo mất nó!
Ở đời, có thể nào lại có được một sự thứ hai như vậy được!
Mạc thế Tử gọi:
- Nội-thị đâu!
Quân hầu dạ ran.
- Bay sắp sửa mũ áo để ta vào hầu trong Trịnh Vương phủ.
Một lát sau, áo bào giáp bạc, chàng tuổi trẻ uy nghi và khả ái dừng ngựa trước cửa Đoan Môn.
Chàng được Trịnh Vương cho vào ngay, vì Trịnh Vương hình như đương đợi chàng đến.
Mạc Thế tử thi lễ và nói:
- Khải Đại Vương, chúng tôi vừa nhận được thủ thư của phụ vương chúng tôi. Thư ấy đã mang đến cho chúng tôi một tin mừng mà chúng tôi thực ra không bao giờ dám chờ đợi...
Thanh Đô Vương vuốt râu cười ;
- Túc hạ nhún mình quá. Chẳng nói gì đến cái dòng dõi của túc hạ, ngay cái tài năng của túc hạ cũng đã làm cho túc hạ xứng đáng là giai tế của ta rồi!...
Chương XI
THẾ nào,Vương Thượng lâu nay vẫn mạnh khoẻ chứ?
- Bẩm Đức Ông, Vương Thượng nhờ Trời vẫn mạnh khỏe. Ngài chỉ phải cái hơi buồn…
Mạc Thế Tử thở dài:
- Vương Thượng không buồn sao được ! Người tuổi hạc càng cao. Việc lớn lại chưa thành. Trông vào một mình ta thì ba năm hơn trời nay, ta cứ phải ở đây, chim lồng cá chậu, không những cái trọng trách mà mấy đời Vua chúa đã đặt trên đầu ta, ta chưa làm được, ngay đến cái bổn phận kẻ làm con, thần hôn định tỉnh ta cũng bỏ thiếu sót nốt!...
Một im lặng nặng nề bao phủ xuống chỗ Mạc Thế Tử và viên sứ giả của Mạc Khánh Vương đương ngồi bàn chuyện.
Giây lâu, Thế Tử mới cất tiếng hỏi:
- Hằng ngày, Vương Thượng có truyền dạy gì không?
- Bẩm, người ít nói lắm! Ngươi chỉ ngồi lặng trong cung cấm, không mấy khi ra tới ngoài,
- Vương Thượng cũng không nhắc chi đến ta hay sao?
- Người cho rằng Đức ông hiện nay vui hưởng phú quy với Phương Lan Quận chúa nên không còn lòng nào nghĩ đến đại sự nữa!
Mạc Thế tử nấc lên một tiếng:
- Trời ơi! Tôi quả là một đứa con bất hiếu! Tôi đã phụ lòng mong đợi của phụ vương tôi biết bao nhiêu…
- Bẩm Đức ông, nhưng Vương thuợng không có ý gì oán giận Đức ông hết. Ngài cho là bởi ý trời xui khiến xếp đặt như vậy, và người ta không bao giờ nên cưỡng mệnh Trời...
Sự đành phận ấy kể còn não nùng gấp trăm câu trách móc. Một cảm giác cay cay đưa lên mắt Thế tử, rồi hai giòng lệ nóng trào ra chảy âm thầm xuống hai gò má.
Sứ giả làm như không trông thấy, và thản nhiên nói tiếp:
- Bẩm Đức ông, vì Vương thượng cho rằng người ta không thể và không nên cưỡng ý Trời nên ngài đã xếp việc binh đao, bỏ hẳn cái chí báo phục.
- Ngươi nói rõ ta nghe.
- Ngài đã hội họp tất cả các tướng sĩ lại và truyền cho nghe cái ý định của ngài. Các tướng sĩ, ai muốn về quê hương với cha mẹ vợ con Ngài đều cấp lương tiền cho đi. Ai muốn ở lại, Ngài giúp đỡ cho mà làm ăn. Hiện giờ công việc giải giáp đã tiến hành được một phần lớn và việc khẩn hoang đã bắt đầu...
À, thế ra chỉ vì chàng mà cả cơ nghiệp có thể còn giữ vững được bỗng nhiên tan vỡ đấy!
Sự tan vỡ mới thảm thương làm sao...
Thế tử đứng phắt dậy. Chàng khoát tay như muốn ngăn cản một điều tai hại.
- Không, không thể như vậy được. Nếu ta còn ngồi giương mắt trông cái cảnh thương tâm ấy diễn ra cho đến hết thì ra thực là một kẻ vô liêm sỉ, một kẻ đê hạ nhất trong loài người...
Mớ lửa thù tưởng đã tắt vụt lại bùng cháy trong lòng chàng, như mớ than hồng được gió.
Dòng máu anh hùng trong huyết quản lại sôi lên sùng sụt. Chàng muốn đập phá tan tành một cái gì, một cái gì đã khiến tâm hồn chàng, trải qua mấy năm trời nay, đắm chìm vào chỗ ủy mị.
Thế tử đi đi lại lại trong gian phòng khách. Mắt chàng bỗng nhìn đến thanh bảo kiếm gia truyền treo trên vách. Chàng với tay lấy bao gươm, rút cái khí giới quý báu ra nhìn: ánh thép vẫn sáng ngời và lạnh buốt như ánh trăng đêm mùa dông.
Sự nao nức tràn ngập cả hồn chàng.
Thái tử vung gươm chém mạnh một nhát xuống án thư:cái nghiên mực bằng ngọc
thạch, quà mừng đám cưới của Trịnh Thế tử Tạc, vỡ tan ra từng mảnh.
Nhát gươm ấy là cái cử chỉ đoạn tuyệt cuối cùng. Lòng chàng đã quyết rồi:
- Sứ giả!
Người đàn ông ranh mãnh từ nãy vẫn lặng im nhìn sự hành động của Mạc Thế tử, với chắp tay đáp:
- Dạ!
- Phiền ngươi về tâu với phụ vương ta rằng con của Ngài bao giờ cũng vẫn xứng đáng với lòng thương yêu tin cậy của Ngài lắm lắm...
- Dạ.
- Rằng, nếu ta đã bỏ lỡ mất một cơ hội tốt, ấy chỉ tại ta không muốn là kẻ thất tín đó thôi.
- Dạ.
- Người nam nhi mà thất tín thì còn ra làm sao...
- Bẩm Đức ông chính thế!
- Cơ hội tốt ấy qua rồi. Ta nấn ná ở đây, không phải vì ta ham mê sự phú quý, sự yên ổn mà chính là để chờ đợi một dịp khác.
- Dạ.
- Ngươi tâu chắc chắn với phụ vương ta rằng chỉ trong ít lâu nữa, ta sẽ về lạy trước mặt ngài và sẽ cấm đầu một đại sự nghe chưa...
- Bẩm Đức ông, nếu thế thì Vương thượng sẽ vui lòng lắm. Và, kẻ sĩ tốt dưới trướng cũng đương mỏi mắt trông chờ  Đức ông, như con thơ mong mẹ vậy.
Viên sứ giả rỏng tai chờ.
Mạc Thế tử trông quanh mình một lượt đoạn ghé sát vào tai sứ giả:
- Hiện nay, Bắc Nam lại sắp bước vào kỳ tranh chiến. Nguyên do tự người con thứ ba của Nam chúa Sãi vương có ý làm phản để tranh quyền với anh. Tên Ảnh mật sai người đem thư ra ước hẹn với Thanh đô vương để làm kế nội ứng ngoại hiệp.
- Bẩm Đức ông, Trịnh vương là người đa nghi, có lẽ nào lại bộp chộp nghe theo nhời cầu viện của tèn Ánh?
- Thoạt đầu, Thanh đô vương cũng đem lòng ngờ. Nhưng khi ngài hỏi ý kiến ta thì ta đã hùn vào. Người phải biết Trịnh vương tin dùng ta lắm và thế nào Ngài cũng cất quân chinh Nam.
- Dù thế nữa, Đức ông cũng khó bề hành  động gì nổi...
Mạc Thế tử ngạc-nhiên:
- Sao?
- Mạt tướng tin rằng Đức ông sẽ không hành động việc gì được.
- Nhưng tại sao chứ?
- Chỉ tại Thanh đô vương tin dùng Đức ông quá...
- Ta thực không hiểu ý ngươi.
Sứ giả long lanh cặp mặt và nói:
- Thanh  đô  Vương tin dùng Đức ông đến nỗi ngày đêm không lúc nào cho rời bên tả hữu...
Mạc Thế tử chợt hiểu. Chàng cất tiếng cười khanh khách:
- Ta biết rồi, ta biết người định nói gì rồi... Nhưng, ở người khác kia thì sự ấy
là một sự khó. Ở ta, trái lại, không khó gì hết.
- Chẳng hay Đức ông sẽ làm như thế nào?
- Ta sẽ đặt ra cái tin rằng phụ vương ta bị se mình, ta cần phải ngược để thỉnh an...
- Ngộ Thanh đô Vương không chuẩn nhời xin Đức ông?
Mạc Thế tử nổi giận;
- Bố người ta ốm, người ta xin về thăm mà lại không cho ư?
- Có thể như vậy được lắm chứ! Ví dụ Thanh đô Vương sẽ kiếm nhời an ủi Đức ông, viện lẽ này lẽ khác trong các việc quốc gia trọng đại, và sẽ phái ngự y cùng Sứ giả lên thăm một cách trân trọng thì Đức ông bảo sao?
- Thì ta bảo sao à?... Thì ta sẽ tự ý ra đi chứ còn bảo sao nữa!
- Đức ông nên nhớ rằng Ngài là một con tin, đến thì dễ mà đi thì khó. Chiếc thân cá chậu chim lồng đã dễ mà một lúc thoát ra khỏi được vòng cương tỏa!
- Ta đã có mẹo hay rồi, ngươi không cần phải nói nhiều. Ta phiền ngươi hãy mau mau trở về tâu với phụ vương ta những nhời ta vừa nói.
- Điều ấy, tiểu tướng xin tuân theo đúng ý của Đức ông.
- Ngoài ra, ngươi kiếm cho ta một chiếc thuyền ván và để Mạc Hắc Hổ coi giữ, chờ ta ở bên kia sông.
- Tuân lệnh.
- Người giặn Hắc hổ cứ như thế … như thế...
Sứ giả chắp tay vái Mạc Thế tử đoạn lui ra ngoài phủ phò mã.
Ngồi lại một mình trong phòng khách, Mạc Thế tử ngây ra hồi lâu tỏ ý suy nghĩ rất mạnh.
Tia mắt chàng xa xôi, mơ mộng, như theo dõi một hình ảnh nào...
Chính thế, chánh đương tưởng tượng đến dung nhan vương phụ, tấm dung nhan đã già héo bởi tháng năm, bởi những ưu tư chồng chất.
Một tình thương khiến lòng chàng nao nao.
Chàng khẽ buông một tiếng  thở dài và lẩm bẩm:
- Cũng may là nỗi buồn của phụ vương ta chỉ ít ngày nữa sẽ tiêu tan hết, khi mà sứ giả đã về đến nơi…
Chàng cố hình dung sự vui sướng hiện rõ trên mặt phụ vương, lúc nghe những nhời thuật lại của sứ giả.
Nỗi mừng ấy sẽ làm mất hết mọi nét ưu phiền, và sẽ làm cho gương mặt héo hon đổi khác hẳn.
Một tiếng động làm cho Mạc Thế tử ngoảnh đầu trông lại.
- Gì vậy, Ý nhi?
- Bẩm điện hạ Quận chúa đương chờ điện hạ vào dùng bữa.
Chàng tuổi trẻ như tỉnh giấc mơ:
- À nhỉ... Được, cho mày cứ lui trước ta sẽ vào ngay...
Chàng nhìn theo bóng tên thị nữ để thấy lòng tràn ngập một nỗi cảm tình khác cũng sâu xa và vô cùng mãnh liệt, mối tình chàng đối với Quận chúa Phương Lan.
- Tội nghiệp cho hiền-thê !.. Nàng có ngờ đâu, từ lúc này, vợ chồng đã trở nên cừu địch rồi!...
Ý nghĩ ấy làm cho Mạc Thế tử, lúc bước vào loan phòng của Quận chúa, không dám ngẩng trông mặt vợ nữa.
Chàng sợ rằng tâm sự của chàng sẽ bộc lộ trong cái nhìn ảo não nọ. Chàng, lúc nãy hăng hái nghe theo tiếng gọi của nhận sự chừng nào, bây giờ cảm thương chừng nấy. Sợi tơ ân ái êm đềm và mảnh quá, chàng không đủ can đảm giơ tay ra rứt đứt.
Phương Lan quận chúa đứng dậy chào mời đon đã:
- Phu quân nói chuyện chi với sứ giả mà lâu vậy. Chẳng hay tin của phụ vương về là tin lành hay tin dữ...
Thế tử nhìn bàn tiệc:
- Một tin buồn!
Phượng Lan biến sắc:
- Một tin buồn? Lang quân có thể cho thiếp biết tin buồn ấy là...
- Phụ Vương tôi hiện đau nặng. Tuổi người đã già, tôi lấy làm lo lắm. Người lại chỉ có một mình tôi, nay cha một nơi, con một nẻo, sớm khuya đằng đẵng, biết làm thế nào?
Phương Lan Quận chúa thương chồng đến ứa nước mắt.
Nàng cúi đầu, hơi có ý hổ thẹn bởi cái cảnh chia ly giữa cha con Mạc Vương chẳng là do tự Phụ vương nàng đấy ư?
Hai vợ chồng nín lặng giây lâu, Phương Lan mới dụt dè nói:
- Lang quân thử vào khai với Vương phụ và xin phép người cho vợ chồng ta cùng ngược để vấn an Vương phụ trên nhà xem? Đồng thời, thiếp cũng vào cung tâu với Thái Phi...
- Ồ, nếu được như nhời Quận chúa thì còn nói gì!...
Mạc Thế tử nhìn vợ:
- Cảm ơn Quận chúa có lòng cùng tôi, nhưng tôi chỉ e Vương Thượng sẽ không chuẫn lời xin, vì tôi ở đây là do một lẽ cần thiết về chính trị.
- Lang quân thử cố xem...
Mạc Thế Tử ngần ngừ hỏi:
- Ngộ Vương Thượng nhất định không cho thì hiền thê tính sao?...
Ừ, nàng sẽ tính sao?
Cố tình can thiệp vào việc của chồng ư? Quận chúa xưa nay chưa bao giờ dám trái ý Trịnh Vương hết.
Để chồng phải khuất phục mệnh lệnh của cha nàng?
Khốn nỗi sự bắt buộc Thế Tử phải cứ ở Thăng Long giữa khi chàng được tin Mạc Vương ốm lại là một việc mà Quận chúa thấy bất nhân vô hạn, mặc dầu nàng chẳng dám nghĩ và nói ra...
Chương XII
ĐÊM rằm tháng tám.
Cuối canh hai, Mạc Thế tử dự yến trong vương phủ ra về tới nhà riêng thì Phương Lan quận chúa vẫn hãy còn thức.
Nàng chờ Thế Tử bên một tiệc trà.
- Ồ kìa, hiền thê chưa đi nghỉ ư? Đêm đã khuya rồi đấy.
Phương Lan Quận chúa mỉm cười:
- Đêm khuya, toàn thành im lặng, hai vợ chồng uống trà thưởng trăng mới thú chứ!
Mạc Thế tử nhìn vợ với một xúc động nó làm trái tim chàng thắt lại. Nhưng, chàng đã đến cái chỗ mà người ta không thể lùi gót được nữa.
Chàng gượng nói bằng một giọng vui vẻ:
- Hiền thê định hưởng cái thú trông trăng à? Nhưng, trăng đẹp mà không uống rượu thì còn gì là nên thơ ?
- Đã đành rằng thế, song lúc ở trong nội phủ, thiếp hầu rượu Thái phi và mẫu thân đã say rồi.
- Tôi, trái lại, định về uống với hiền thê nên khi ngồi trước Vương thượng, tôi chỉ nhấm nháp gọi là.
- Nếu vậy, vợ chồng ta lại làm một tiệc rượu nữa!
- Tốt lắm! Tốt lắm.... ‘‘Mạc bả kim tôn không đối nguyệt’’  Nhìn trăng chớ để chén vàng ráo không! cổ nhân đã nói đúng.
Phương Lan Quận chúa truyền Ý Nhi dâng rượu.
Lúc ấy, Quận chúa đã ngà ngà say, sắc mặt nàng thắm tươi như sắc phù dung ; hai mắt nàng lóng lánh ; một nụ cười hơi lả lơi nỡ như hoa trên làn môi sánh.
Thực là một sắc đẹp ngây hồn.
Mạc Thế tử nhìn Vợ, lòng cảm thấy yêu đương lênh láng, thươngxót não nùng.
Trời, giá lúc này, Quận chúa chỉ hơi ngờ vực một tí, chỉ hơi hỏi vặn một tí, Thế tử chắc không sao giữ nổi cái bí mật của lòng chàng
Nhưng, Quận chúa có ngờ đâu!...
Nằng có ngờ đâu tiệc rượu thưởng trăng đêm nay lại chính là tiệc rượu biệt ly!
Chẳng những, thế, nàng còn hết sức tránh những câu có thể nhắc chồng nhớ đến  cái việc về Cao Bằng thăm vương phụ. Là bởi, nàng hiểu rằng gợi đến câu chuyện ấy, tức là khơi ra trong lòng Thế tử một nổi buồn không sức gì an ủi được. Và, bởi thế, nàng chỉ cứ chăm chỉ rót rượu vào chén cho chống. Nhưng, nàng rót đầy chén nào. Thế tử cũng tìm cách ép nàng phải uống cạn mà chính nàng không tự biết,
Quận chúa đã say lắm.
Dáng ngồi của nàng đã hơi nghiêng lệch; giọng nói của nàng đã hơi ngượng nghịu, và hai mí mắt nàng đã bắt đầu nặng nề.
- Hiền thê?
- Dạ !
- Tôi muốn được nghe lại cái khúc đàn mà tôi đã được nghe, trong buổi gặp gở đầu tiên của hai ta.
- Khúc Tư lương nhân...
- Ý nhi, vào đem cây thập lục huyền ra đây.
Thị nữ lấy đờn.
Phương Lan quận chúaso giây... Khúc tương tư bắt đầu lên tiếng...
Từng giọt và từng giọt, những âm thanh réo rắt rỏ xuống lòng Mạc Thế tử, khiến chàng đôi phen phải chớp nhanh hai mí mắt.
Sự thương cảm tràn lan trong lòng chàng đến nỗi nhiều khi chỉ một suýt nữa thì chàng quỳ xuống trước mặt nàng và thú thực hết sự tình.
Chàng ngả mình xuống lưng ghế, lim rim hai mắt để cho những giọt lệ chảy vào trong.
Bồng, giây đờn đứt phựt một tiếng.
Thế tử giật mình: thì ra Phương Lan quận chúa đã say và buồn ngủ quá.
Chàng vội đứng lên, đỡ nàng vào lòng và khẽ gọi:
- Phương Lan hiền thê !
Quận chúa mỉm cười qua giấc ngủ:
- Xin lỗi lang quân, thiếp say quá...
Thế tử vực nàng vào giường, đắp lên mình nàng tấm chăn uyên ương mầu cánh trả.
Chàng quay ra truyền Ý nhi:
- Cho mầy lui để Đức bà an giấc.
Thị nữ bước ra và khép ghịt cửa phòng.
Mạc Thế tử liếc trông quanh mình: hết thẩy đều im lặng.
Tự lầu canh, tiếng trống rầu rĩ điểm canh ba.
Giờ biệt ly đã đến!
Mạc Thế tử lấy ở tay áo ra một tờ hoa tiên đặc những chữ.
Ấy là bức thư chàng sẽ để lại cho Quận  chúa. Chàng thở dài, dơ lên ánh đèn xem lại một lượt những câu nó sẽ chia rẽ vợ chồng chàng đến thiên cổ:
‘‘Hiền Thê,
 Sáng mai đây, lúc nào hiền thê trở dậy thì tôi đã xa kinh thành rồi!
 Tôi bắt buộc phải ra đi, mặc dầu xa lìa hiền thê, lòng tôi - có Trời Phật chứng minh - đã đau như dao cắt.
 Trời, hai ta đã gặp gỡ nhau, đã yêu nhau, đã thành vợ thành chồng để làm gì?
Để có ngày nay, tôi phụ hiền thề ư!
Không, tôi không lòng nào phụ bạc hiền thê. Vợ chồng ta phải xa nhau, ấy chỉ là do cái bổn phận ác hại.
Chính hiền thê biết đấy, hai họ Trịnh và Mạc vốn có cái thù truyền kiếp. Và, cuộc nhân duyên của hai ta chỉ là một mối duyên oan nghiệt.
 Khi vâng lệnh phụ vương tôi để kết duyên với hiền thê, tôi cũng tưởng rằng hai họ sẽ thôi việc binh qua, sẽ hòa hảo đời đời và cái thù lũy khiếm giữa hai họ sẽ tiêu tan đi như mây khói.
Khốn thay, sự đời phức tạp quá, và nó chẳng đúng với những điều ta tưởng nhất là
nó chẳng chiều theo cái ước vọng của ta bao giờ! Thành thử, tôi đã vô tình trở nên một kẻ bạc hạnh, một kẻ đã đánh lừa hiền thê …Trời ơi, xin Trời chứng rõ lòng tôi! Tôi thương sót hiền thê thực có thể nói là rớm máu ra đuợc. Tôi đi đây chính là đi với  cái chết ở trong tâm.
Như vậy, tôi mong rằng, một khi đã qua những phút sôi nỗi đầu tiên, hiền thê sẽ xét kỷ và tha thứ cho tôi.
Tôi có thể quên hết thù hiềm, quên hết nghĩa vụ, ở với hiền thê đến mãn chiều xế bóng. Nhưng, nếu tôi như thế, phỏng có còn xứng đáng là chồng của hiền thê chăng?
Người ta ở đời, Trung hiếu bất lưỡng lập, hễ được đàng này tất hỏng đàng kia và trái lại.
Có điều chữ trung, chữ hiếu, chữ tình tôi không cần nói, chắc hiền thê cũng đã cân nhắc và quyết định cho tôi rồi.
 Riêng về phần vợ chồng ta, tôi nguyện nếu kiếp này không còn có ngày tái ngộ, kiếp sau xin thác sinh cùng hiền thê làm vợ chồng để đền bù cho hiền thê những nổi đau lòng.
 Thôi, nói gì nữa nhỉ?
Đặt bút xuống còn hơn, vl nói lắm chỉ thêm khơi mãi nguồn sầu mạch thảm cho hai trái tim đã rớm máu.
Tôi xin gửi nhời vĩnh biệt hiền thê và xin gửi nhời bái lạy Thái phi, vương phụ và vương mẫu.
Mạc Kính Hoàn ký ’’
Thế tử đọc lại bức thư để cho Quận chúa mà hai hàng lệ cứ toan trào xuống. Chàng gạt nước mắt, thay áo dạ hành, đeo gươm rồi mở cửa lẻn ra, sau khi đã tắt phụt ngọn nến.
Tới cửa ô Quan Chưởng, Thế tử gặp Hắc Hổ.
- Thế nào?
- Bẩm Đức ông, mọi việc đã sẵn sàng cả.
- Con Tuyết-mai của ta?
- Đã cho xuống thuyền.
- Tốt lắm!
Hai thầy trò Mạc Thế tử rảo bước xuống bến sông Thúy ái.
Đêm khuya, trăng mờ, sương lạnh, mặt sông nỗi sóng ầm ầm … Thế-tử xuống thuyền.
Hắc Hổ truyền thủ hạ nhổ xào, Thuyền đè sóng sang ngang,
Ngoảnh đầu trông về phía Phò mã phủ Mạc Thế Tử chỉ còn thấy leo lét ánh đèn mờ.
Lòng đau của chàng vọng lên một tiếng gọi:
- Hiền thê!... Ôi, Phương Lan!...
Và, nước mắt, bị cầm giữ từ lâu, rơi tràn xuống hai gò má người chiến sĩ…
Lan Khai 
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những bài báo đầu tiên

Những bài báo đầu tiên Tôi khởi sự đến với văn chương, báo chí thấm thoắt đã tròn 30 năm. Tháng 2.1994, tôi nhập ngũ vào Trung đoàn 421, S...