Tiểu
thuyết võ hiệp là một hình thái đặc biệt trong văn học Trung Quốc; nó có một lịch
sử lâu đời, bắt nguồn từ hai truyện Du Hiệp Liệt Truyện và Thích Khách Liệt
Truyện trong bộ sử ký Tư Mã Thiên, được biên soạn vào đời Hán; thuật lại những
chuyện thời Xuân Thu chiến quốc như Kinh Kha Nhiếp Chính cho đến tiểu thuyết
Chí Quái thời Ngụy Tấn và các truyện truyền kỳ đời Đường gồm những tác phẩm Câu
Nhiệm Khách, Côn Luân Nô, Hồng Tuyến Nữ. Về sau nhiều tác giả đã dựa
vào đó mà xây dựng thành tiểu thuyết đương đại; trong số đó phải kể đến tiểu
thuyết gia Trà-Lương-Kim-Dung.
Từ
khi truyện kiếm hiệp Kim Dung tung ra thị trường đã lôi kéo hằng triệu đọc giả
khắp nơi trên thế giới, người ta đọc say mê truyện “chưởng” không những ở Trung
Quốc mà ngay cả Việt Nam. Ngoài chuyện đọc tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, người
ta còn đổ xô xem phim ảnh một loại phim chuyện được dàn dựng theo mẫu mực của
Kim Dung những hoạt cảnh thần kỳ, biến hóa thần thông của những võ lâm cao thủ,
kỷ nghệ điện ảnh Hồng Kông khởi từ đó khuấy động thị trường phim thuật. Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Quốc dựa vào thị hiếu quần chúng cũng làm những phim võ hiệp
tương tự nhưng rồi cũng lùi bước trước phim chuyện võ hiệp Kim Dung.
Trong
12 bộ truyện kiếm hiệp; tác giả đã dựa trên bối cảnh lịch sử đấu tranh của người
Hán chống lại sự xâm lăng của các bộ tộc. Truyện của Kim Dung đầy tính hùng ca
và sử thi; ông xử lý rốt ráo những kiến thức, hiểu biết về nền văn hóa Trung
Quốc mà ông đã dày công nghiên cứu và học tập, từ đó ông vận dụng sở học một
cách tài tình và lý giải trọn vẹn chân lý nghĩa hiệp một phần dựa vào lịch sử cổ
đại và lịch sử huyền thoại mà ông hài hòa trong cách viết dã sử, bố cục chặt chẻ
làm sống lại một bề dày sử liệu Trung Quốc kể cả các thuật như quyền thuật, y
thuật, bút thuật về nghệ thuật thì có hội họa,thi phú, âm nhạc, ẩm thực và nhất
là rượu và nhạc Kim Dung viết đến độ gần như đi tới tôn giáo hóa Tửu đạo và Nhạc
đạo vậy.
Tất
cả tình tiết của mỗi bộ truyện tác giả đều lồng vào một triết lý tâm sinh lý và
tính nhân bản, ngoài ra bộ môn âm nhạc đều có mặt trong hầu hết bộ truyện của
Kim Dung và đóng một vai trò không nhỏ.
Tác
giả Kim Dung đã viết ra 12 tác phẩm: Thư Kiếm Ân Cừu Lục,Bích Huyết Kiếm,Anh
Hùng Xạ Điêu,Thần Điêu Đại Hiệp, Bích Sơn Phi Hổ, Phi Hổ Ngoại Truyện, Ỷ Thiên Đồ
Long Đao, Liên Thành Khuyết, Thiên Long Bát Bộ, Hiệp Khách Hành,Tiếu Ngạo Giang Hồ
và Lộc Đỉnh Ký. Ông đã viết những bộ truyện trên gần như một trường thiên tiểu
thuyết và đến năm ông 48 tuổi (1972) ông gác bút.
Âm
nhạc trong truyện là một dữ kiện giữa cuồng nộ và hòa mình giữa tàn bạo với
tình yêu; ông muốn chuyển hóa từ có sang không, từ tình thương xóa bỏ hận thù
đập tan mọi vọng niệm mà tự cổ chí kim lòng hoài vọng đó không bao giờ tiêu diệt
được.Và cũng từ đó ông nhận thức rằng âm nhạc biện minh cho những lý lẽ đã nêu
và cũng là nhạc khí (võ khí) một khí giới “tuyệt chiêu” là sức mạnh siêu lực
ngăn chận mọi tham vọng và ảo tưởng của con người.
Khởi
từ thời Xuân Thu chiến quốc đưa Trung Quốc tới suy tàn, thảm bại nhất vào thời kỳ
Hán tộc. Kim Dung nhìn nhận rằng:” Âm nhạc như một thứ võ công, giúp người ta lắng
dịu cơn đau, điều trị,mê hoặc và kiềm chế kẻ địch” Ông muốn cho người đời thấy
rằng nội lực của âm nhạc là “sứ giả của hòa bình” âm nhạc xử lý mọi hoàn cảnh,
mọi hình thức của nội giới và ngoại giới, trở thành ngọn sóng thần đẩy lùi mọi
sát khí. Một khí giới mà Kim Dung cho là tuyệt chiêu hơn những tuyệt chiêu
khác. Cho nên ông chọn âm nhạc như một hòa giải và được coi như vai trò quan
trong trong suốt những bộ truyện võ hiệp của ông. Kim Dung lý luận cụ thể giữa
hai bề mặt của hai thế giới nội tại và ngoại tại; cái “bề ngoài” là sự tranh
hùng của võ lâm đầy sát khí nhưng cái “bề trong” chính là tâm hồn thanh thoát vị
tha của kẻ sĩ. Kim Dung tả những nhân vật kiếm khách với ý nói đến hai chữ
“nghĩa khí” mà nghĩa khí là cơ bản nồng cốt của người hùng kiếm khách, đó là
quan niệm đạo đức xử thế và hành xử của những người hiệp sĩ đạo. Nghĩa là bộ phận
không thể thiếu vắng trong truyện Kim Dung; chính Khổng Mạnh cũng thừa nhận rằng
: Nghĩa là chính nghĩa, hợp lý và thích nghi. Cho nên tinh thần trọng nghĩa được
đề cao trong chuyện Kim Dung là điều tất yếu.
Trong
tất cả tác phẩm của ông, Kim Dung đã dùng nhiều loại hình âm nhạc
khác nhau, ông vận dụng trí tuệ của mình, đưa âm nhạc vào truyện là cả mục đích
diễn tả mọi tình huống qua từng thời kỳ, từng thời đại, cốt tủy truyện Kim Dung
lấy văn minh tứ phương du nhập vào nền văn minh Trung Quốc và mười phương khống
lĩnh địa bàn.
Nhưng
rồi ông vẫn nhìn nhận âm nhạc xử lý toàn diện.Tiếu Ngạo Giang Hồ là một trường
hợp cụ thể. Tiếu Ngạo Giang Hồ thật ra không phải là câu chuyện hiệp khách hay
hành hiệp dựng lên tiền đề; mà chính là một nhạc phẩm lừng danh về đờn và sáo
(cầm tiêu) có tựa đề Tiếu Ngạo Giang Hồ. Nhạc phẩm có một nội dung, ám chỉ giữa
hai hệ phái Bạch đạo và Hắc đạo giữa chính và tà. Đó là một bản hợp soạn giữa
hai nghệ sĩ trong giới võ lâm quyền bá, đối địch nhau.
Lưu
Chính Phong chưởng phái Hành Sơn và Khúc Dương Trưởng lão thuộc phái Triêu
Dương cả hai môn phái nầy thù “bất cộng đái thiên” thù vạn đợi trong
việc tranh bá.Nhưng rồi trở thành bạn tâm giao giữa Lưu-Khúc.Phát sinh từ âm nhạc
mà ra. Đọc đến đây ta thấy tác giả duy trì cái nghĩa khí lớn lao, đưa tình vào
thù. Lưu và Khúc hai tay có biệt tài xử dụng nhạc khí đạt tới mức vô tiền
khoáng hậu rồi tự nhiên cảm hóa qua tài năng mà trở thành hiền hữu. Kim Dung xử
lý ngọn bút về âm nhạc quá tài tình và điệu nghệ. Kim Dung cho hai tài năng biểu
diễn để đi tới tri kỷ với âm nhạc.Lưu Chính Phong trong tay đàn, Khúc Dương tay
tiêu hòa nhịp với nhau lên khúc bi hùng ca, đạt tới chỗ tột đỉnh của âm nhạc,
điệu nhạc giao thoa vào nhau kết thành bè trong điệu ngủ cung; khoan thai trung
chính, tiếng khoan tiếng sập vỗ vào nhau lúc bỗng lúc trầm; đi vào truyện mới
thấy ngón nghề âm nhạc Kim Dung tuyệt hảo tới mức nào. Chơi xong tấu khúc
Lưu-Khưu tương thông tâm ý.Khi phát hiện ra chân lý của âm nhạc, đạt tới chân
như tối thượng. Lưu rủ áo giang hồ lui về ẩn dật ở tuổi lục tuần,
gác kiếm vui thú điền dã,ung dung tự tại giữa chốn giang hồ khí phách, nhưng bụi
trần lại kéo đến Tả Lãnh Thiền thuộc phái Trung Sơn huy động toàn lực Hoa
Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn vây hảm hành động của Lưu Chính Phong, vu oan Lưu theo tà
giáo, buộc Phong phải ra tay ám hại Khúc Dương, chặt đứt mối quan hệ với Triêu
Dương thần giáo phái. Không thể hành động như thế được, với con người
mã thượng coi việc bán sống cầu vinh là bất nghĩa. Kim Dung sắp xếp câu chuyện
giữa tà với chính giữa thù và không thù, tác giả vẫn duy trì chữ nghĩa trong
truyện, ông đưa nhân vật về với lương tâm đạo đức con người, nghĩa khí của hiệp
khách, trọng tài hơn danh. Tiếng đàn của Phong là tiếng đàn cảm khái mà Khưu thầm
phục trang nghĩa hiệp nầy.
Lưu
Chính Phong đang ở trong một tình huống khó xử, một thảm kịch đau đớn. Khúc
Dương hiểu được nỗi khổ của bạn ra tay cứu nguy,giải phóng Lưu đưa vào Thất Sơn
Hành ẩn trú nơi đây, trả hết cho đời, đôi tài tử không còn là hiệp hành kiếm
khách và biến mình vào thi nhạc, đàn địch hợp tấu khúc để đời trước khi đi vào
cõi tịch.Nhưng chưa hết;Kim Dung kéo dài giá trị âm nhạc một lần nữa,sang tay
cho kẻ hậu sinh, tác giả không muốn người đọc mất đi cái truyền bí
âm nhạc, ông đưa những nhân vật khác tiếp tục sứ mạng và giữ lấy như việc trao
ngôi. Những khúc bi hùng ca về sau giao lại cho Lệnh Hồ Xung thừa kế phái Hoa
Sơn; cầm trong tay tấu khúc của hai vị tiền bối.Lệnh Hồ Xung lên ngựa phiêu bạt
giang hồ, hóa thân thành một kẻ lang thang, thân tàn ma dại giữa rừng gươm đao.
Phải chăng khát vọng của Tiếu Ngạo Giang Hồ không bao giờ thực hiện được hoài
bão giữa một xã hội thời bấy giờ đầy mưu lược, thù độc, chia rẽ, bè phái tranh
giựt quyền lực? Tác giả Kim Dung muốn nhấn mạnh ở điểm này; lòng ham muốn dục
vọng của con người triền miên trong kiếp đọa đày; ông muốn kéo con người về với
nghĩa khí, cốt cách nghĩa hiệp dù ở bất cứ hoàn cảnh nào hôm nay hay ngày mai.
Kim
Dung làm cho người đọc chạy theo ông những mạch chuyển, những tàng ẩn trong từng
nhân vật truyện, những cuộc tranh hùng hay những mối tình lâm ly bi đát từ thâm
cung hay chốn phường hoa ong bướm,chốn lầu xanh hay trà đình, tửu quán; ông vẫn
đưa cái thế nhân sinh vào từng vai trò xử lý trên nguyên bản “nghĩa khí” đó là
“nội công thâm hậu”của Kim Dung mà về sau chúng ta thấy cái thuật võ công đó
qua từng nhân vật;cái gọi là nội công hay chưởng lực được tác giả vận
dụng như trí tuệ, cái sức mạnh trí tuệ đã đánh ngã địch thất điên bát đảo; có
phải là độc chiêu thâm hậu?
Lệnh
Hồ Xung cho rằng đó là một thể loại bí lục vô cùng thượng thặng giữa Lệnh Hồ
Xung và người đẹp Doanh Doanh hai người gặp nhau trong ngõ Lục Trúc thuộc thành
Lạc Dương; nơi đây Lệnh Hồ Xung gói gém niềm đau của mình với Doanh Doanh người
mà hắn thầm yêu trộm nhớ, mối tình đầu tan vỡ.
Tác
giả Kim Dung hoán giải cuộc tình tan hợp qua âm nhạc vẫn là chủ đề
chính mà ông muốn chứng tỏ, bằng cách cho Doanh Doanh trổ tay nghề, dạy những
ngón gảy tuyệt chiêu vô tiền khoán hậu cho Lệnh Hồ Xung những khúc lừng lẫy
trong ca khúc Thanh Tâm Phổ Thiện Trú đó là khúc nhạc giữ gìn sanh mạng những
lúc lâm nguy. Âm nhạc mà Kim Dung xử dụng trong truyện võ hiệp là một thứ âm nhạc
siêu lực giải nguy,cứu chửa, giải bệnh. Đọc giả sẽ sửng sờ khi đọc đến đoạn chơi
nhạc của Doanh Doanh truyền tập cho Lệnh Hồ Xung là liều thuốc hóa giải căn bệnh
tâm thần,trầm cảm vựt Lệnh Hồ Xung trở lại trạng thái bình thường và hồi phục
chức năng, khí thế võ lâm anh hùng. Nhưng cũng nhờ vào tấu khúc đó mà Lệnh Hồ
Xung và Doanh Doanh nối lại cuộc tình tưởng như không bao giờ hàn gắn
lại được giữa hai kẻ giang hồ khí phách. Đọc ở đoạn nầy ta thấy Kim Dung nâng
âm nhạc lên đỉnh cao. Âm nhạc trong Tiếu Ngạo Giang Hồ đã giao thoa giữa ẩn và
hiện, giữa chính với tà đầy triết lý nhân sinh; khát vọng của Tiếu Ngạo Giang Hồ
xây dựng trên tình yêu và nghệ thuật âm nhạc.Tác giả Kim Dung muốn con người từ
chỗ vị tha nhân ái, từ chỗ nhiệt tình và lòng tự phụ, xoa dịu tất cả mọi tình huống
qua một thứ âm nhạc trường cửu.
Kim
Dung đã xử dụng nhạc lý qua nhiều loại hình âm khác nhau của âm nhạc không những
thể loại âm nhạc có chiều sâu, kích thích cảm xúc, lay động nội tại lòng hiếu
thắng đưa âm nhạc vào đời để hoán chuyển. Kim Dung tiên sinh còn chơi một thể
nhạc khác có tính cách phường chèo đó là loại nhạc lang thang, vất vơ của môn
phái Hành Sơn. Như vậy với hoàn cảnh địa lý, nhân văn tác giả đều xử dụng trọn vẹn
giá trị âm nhạc.
Riêng
Tiếu Ngạo Giang Hồ chúng ta còn bắt gặp những tiết nhạc mà tác giả còn cho thấy
sự vi diệu của nhạc điệu siêu thoát như Tiêu Tương Dạ Khúc của Mạc Đại tiên
sinh. Mạc Đại vóc dáng “điêu linh cổ quái” từ chối bả lợi danh, quyền thế để du
thân vào một cuộc đời du mục,rày đây mai đó hoà mình trong câu hò tiếng hát,
gác kiếm giữa chốn giang hồ và chỉ móc trên vai một cây đao cấm có dấu một
thanh kiếm mỏng như lá lúa. Phải thừa nhận Kim Dung rất chi ly từng nhân vật một
cách độc đáo trong truyện của ông . Kiếm để diệt hung tàn, đao cấm để giữ vững
tâm hồn.Kim Dung lúc nào cũng xây dựng nghĩa khí. Nhưng tiếc thay Mạc Đại chưa
thoát tục bởi khúc Tiêu Tương.Mạc Đại tiên sinh chơi nhạc buồn, sương khói,
lênh đênh không nói lên được cốt cách của một đạo sĩ mà vô tình tiên sinh hóa
thân một kẻ du ca. Đọc tới cái đoạn Mạc Đại ta mới thấy tác giả Kim Dung “thâm
hậu” đưa độc giả đi theo với âm nhạc không ngừng nghỉ. Ông lý luận tài tình : Mạc
Đại là một trích tiên nhập thế để hành thế.
Trong
âm nhạc ông còn thể hiện hết sức kỳ lạ; khúc Sơn Ca Phúc Kiến của Lâm Bình Chi,
lấy nhạc của Lâm đem về núi Hoa Sơn dạy cho Nhạc Linh Sơn ca bài”Chị Em Lên Núi
Hái Chè” ca khúc này đã làm cho Lệnh Hồ Xung tương tư nàng đó là tương ngộ của
một tay tráng sĩ đa tình. Kim Dung tiên sinh cho thấy âm nhạc ngoài tài nghệ nó
còn ma lực làm xiêu lòng,quyến rủ,vổ về, mơn trớn. Nhạc Linh Sơn gảy tiếng đàn
lúc trầm lúc bổng như dấu trong đó nỗi niềm thầm kín với Lâm Bình Chi.Lệnh Hồ
Xung biết thâm ý đó. Chàng đau khổ vô hạn.
Âm
nhạc trong truyện võ hiệp Kim Dung nghiêng về nội tâm hơn ngoại giới. Phấn chấn
nhưng cũng có suy tàn, một lối chơi nhạc hết sức kỳ bí.
Trong
bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký; tác giả giới thiệu một nét đặc thù khác của
âm nhạc,mang tính chất siêu tưởng. Kim Dung muốn chứng tỏ nguồn nhạc Trung
Quốc không những đa dạng mà nó còn chứa cả âm thanh lôi cuốn cả vạn vật vũ trụ
cùng hòa nhập,chim muông nghe tiếng nhạc réo rắc mà ngỡ như tiếng hót của chim
về đậu trên vai người nghệ sĩ.Từ chỗ nhân sinh vô úy của kiếm khách chính giáo
còn tạo được một yếu tố khác là tình yêu, tình yêu luôn luôn hiện diện trong 12
tập truyện võ hiệp của Kim Dung, âm nhạc cũng là võ công,chinh phục tình yêu và
được coi như liều thuốc giải thoát …
Ông
đưa ra nhân vật Côn Luân Tam Thánh tức Hà Túc Đạo; Hà ngoài tứ tuần, gương mật
thô gầy xấu xí nhưng bên trong Côn Luân chứa đựng ba thiên tài mà hiếm có trong
thiên hạ : kiếm, cờ và đàn; hành trang với ba thứ độc chiêu bước vào thế giới
võ lâm kiếm khách,thử có ai dám thi thố ? Tài múa kiếm như sấm chớp,cờ xuống những
nước bí quỉ khốc thần sầu bên cạnh đó Côn Luân xuất chúng với “nội công” chơi
đàn.Kim Dung cho chúng ta thấy từng nhân vật trong truyện là những tài tử lừng
danh từ bao đời nay ông gián tiếp nói lên cái văn hóa đa dạng của Trung Quốc
muôn màu muôn vẽ từ hạ đến thượng;một nền móng cố hữu và lâu đời.
Côn
Luân Tam Thánh có một khúc đàn tuyệt vời mỗi lần gảy tiếng đàn tạo nên một âm
thanh cao vút,chim muông tụ lại nhảy múa; ông gọi “Bách điểu triêu phụng” không
biết có thật như vậy không hay huyền thoại ? Kim Dung diễn tả tiếng đàn khi bổng
khi trầm,khi líu lo,khi đùa cợt trong văn chương tiểu thuyết của Kim-Dung , thường tạo
ra điển cố đó là lý lẽ hay chủ động trong con người của tác giả. Kim Dung viết
dưới một dạng thức ẩn dụ “metaphor” làm cho câu chuyện trở nên phiêu lưu kỳ
bí,những hình ảnh thực hư, hư thực thần thông biến hóa làm say người đọc, tài ở
cái chỗ người đọc sống trong”vô ảnh” mà hình tượng vẫn sống động với trí tuệ và
nhận thức được tiếng vó ngựa, tiếng đàn tiếng địch ngân vang trong vô ảnh, kể cả
vật lộn với tình yêu say đắm, đều hiện nguyên hình, những hình ảnh thể hiện
trung thực trong cái gọi là vô ảnh. Người đọc nghe được tiếng đàn của Hà Thúc Đạo,
tiếng nhạc của người tài hoa đã làm say mê nhiều người đẹp và đem lòng yêu Tam
Thánh, đôi khi nghe như lời biệt ca của một cuộc tình ai oán vậy.
Đến đây Kim Dung định nghĩa giá trị của âm nhạc, ông cho rằng cái hay,cái tuyệt mỹ của âm nhạc còn nói lên tinh thần nhân bản qua bài Hỏa Ca của giáo chủ Minh Giáo truyền từ Ba Tư sang Trung Quốc;bài nầy được hát trên đỉnh Quang Minh khi quần hùng Trung Quốc vây tỏa Minh Giáo vì cho rằng Ba Tư giáo là tà giáo.Kim Dung dựa vào bài thơ của nhà thơ Ba Tư là Omar Khayam(Ôn Ca Mạc) tựa đề Hỏa Ca:
Đến đây Kim Dung định nghĩa giá trị của âm nhạc, ông cho rằng cái hay,cái tuyệt mỹ của âm nhạc còn nói lên tinh thần nhân bản qua bài Hỏa Ca của giáo chủ Minh Giáo truyền từ Ba Tư sang Trung Quốc;bài nầy được hát trên đỉnh Quang Minh khi quần hùng Trung Quốc vây tỏa Minh Giáo vì cho rằng Ba Tư giáo là tà giáo.Kim Dung dựa vào bài thơ của nhà thơ Ba Tư là Omar Khayam(Ôn Ca Mạc) tựa đề Hỏa Ca:
Đốt
tàn thân xác của ta
Ngọn
lửa thành bốc cháy đỏ rực
Sống
chẳng là có chỉ hạnh phúc thôi
Thì
chết đi đâu có khổ gì…
Hỷ
lạc sầu bi xin gởi về cát bụi
Tội
tình thay người đời hoạn nạn lắm thay.
Trương
Vô Kỵ nghe bài ca đó và nhận ra Minh Giáo là một tôn giáo nhân bản
cho Ba Tư tà giáo là một lý lẽ xuyên tạc vô căn cứ.Từ đó Trương Vô Kỵ được Minh
Giáo ngợi ca như anh hùng dân tộc Trung Quốc. Tác giả đưa nhân hòa làm căn bản
cho thế gian; một triết lý nhân hậu và đạo đức.
Ở
Lục Mạch Thần Kiếm, âm nhạc lại càng phong phú hơn. Nói đến âm nhạc trong truyện
nầy phải ghi lại hai nhạc sĩ quái dị trong nhóm Hàm Cốc Bát Hữu (tám bạn ở Hàm
Cốc) là Cẩm Tiên Khang Quảng Lăng và Lý Qúi Lỗi. Khang đánh địch bằng sáu cây
đao cầm, nghe tiếng đàn của Cẩm Tiên tim óc bấn loạn. Tài đâu mà chơi một lúc
sáu cây đàn ? Kim Dung giải quyết rất tài tình về những bí tích đó.
Khang Quảng Lăng đặt sáu cây đàn ở mỗi vị trí khác nhau rồi vận chỉ công,khinh
công mà đánh vào phím đàn.Hóa ra tiếng đàn của Lão lúc bổng lúc trầm,khi thăng
khi giáng, tiếng tơ đồng réo vào nhau phát ra những khúc ngân xuất quỉ nhập thần
kinh khiếp, ào ạt như gió thổi như mưa tuôn người ta nghe mà không định lường
được nguồn nhạc xuất phát từ đâu cái âm thanh kỳ quái đó.Nhạc của Khang quả là
thứ nhạc làm rối tâm can, kẻ địch phải “chạy làng”.
Lúc
này Lý Qúi Lỗi ở đâu? Kim Dung đặt nhân vật này vào vai trò xướng ca mà thôi
và hát phụ để làm nổi bậc tiếng đàn của Khang Quảng Lăng, tuy Lỗi xuất hiện ít
hơn trong truyện nhưng để lại nhiều ấn tượng cho người đọc.
Ngoài
tiếng đàn, tác giả còn cho chúng ta biết qua tiếng địch(sáo). Đàn và địch là
hai nhạc khí đặc thù văn hóa của Trung Quốc, thực ra tiếng sáo rút ra từ âm nhạc
của Hồ Tăng, Hồ thổi sáo ống đến độ kích thích được loài rắn độc, sai khiến rắn tấn
công kẻ địch. Kim Dung giới thiệu với đọc giả Hồ Tăng tức là Ba La Tinh và
Triết La Tinh là người nước Tây Vực tức Ấn Độ ngày nay,xứ nầy có thủ thuật thổi
kèn ống. Tác giả Kim Dung còn cho chúng ta biết thêm về âm nhạc của
đám hạ lưu, đám đầu đường xó chợ, đám ăn xin; đại cái bang cũng có đờn ca, tuy
không xuất chúng; như bài “Xin Cơm” cũng có âm hưởng độc đáo.
Truyện
Lộc Đỉnh Ký ở đây chúng ta sẽ bắt gặp hai danh sĩ cuối đời Minh đầu
Thanh đó là Ngô Mai Thôn và Trần Viên Viên.Tiên sinh mô tả Trần Viên Viên cực kỳ
lộng lẫy “mắt đẹp như mắt Quan Âm “ tuy nhiên Viên Viên có một cuộc đời trầm
luân “hồng nhan đa truân” tất cả những đau khổ,bi thương đó được đúc kết thành
bài ca Viên Viên Khúc cho tới khi nàng xuất gia vào cửa Phật, bài ca vẫn còn được
hát;trong số những người thưởng thức nhạc của Viên Viên đạt đến chân như; tác
giả muốn nói lên cái tuyệt chiêu của âm nhạc thì có Ngô Tam Quế nghe được vài
chục câu, Hồ Dật Chi nghe đâu dăm ba câu chỉ có Vi Tiểu Bão nghe trọn bài. Kim
Dung muốn cho ta thấy rằng âm nhạc cũng có hồn riêng, có nghĩa là nhạc đến với
người có cơ may và giới hạn, nhạc không đến với người không có lòng. Thì tại sao
Vi Tiểu Bão lại được nghe? mặc dầu Vi chẳng hiểu gì về âm nhạc mà lại được thưởng
thức trong lúc đó có người muốn được nghe thì lại không. Kim Dung giải thích: ”Âm nhạc nó đến với người có duyên tình, có một nội công thâm hậu thì âm nhạc đến
rất tự nhiên “.
Viên
Viên Khúc là một bài ca buồn, đúng là bài ca mất nước chẳng khác gì Hậu Đình
Hoa của Lý Hân trong thơ Đỗ Mục:
Gái
chơi đâu biết hờn vong quốc
Bên
sông còn hát Hậu Đình Hoa.
Lộc
Đỉnh Ký còn có loại nhạc tự kỷ ám thị dùng trong lúc đánh nhau. Được Kim Dung
viết với giọng văn ít học hợp với ”trình độ” giáo phường ngu dốt:
Hồng
giáo chủ thần thông quảng đại
Giáo
chúng ta đánh bại khắp nơi
Địch
nhận thấy bóng chạy tơi bời
Cứng
rắn cũng tan tành xác pháo.
Trong
truyện võ hiệp Kim Dung; âm nhạc xuất hiện khắp nơi trên đất nước Hoa Lục. Trong
Lãnh Nguyệt Bảo Đao ta nghe được tiếng hát vùng Sơn Đông, Chiết Giang của tiểu
anh hùng Hồ Phỉ trong Độc Bá Hồng Quần và tiếng hát của Islam Hồi Giáo Y Tư Mỹ;
nhạc rút ra từ kinh Coran (Kha Lan kinh) là một thể nhạc khát vọng hòa bình dưới
dãi lụa mềm trong sa mạc hoang vu,nhạc Y Tư Mỹ chơi nghe vi vu như gió thổi lồng
vào cát bụi.
Trong
Lộc Đỉnh Ký ta còn nghe được bài Trầm Giang hùng tráng trích từ tác phẩm dân ca
Đào Hoa Phiến, ngợi ca người yêu nước Sử Các Bộ.Nhưng không phải ai cũng dể hát
khúc Trầm Giang nầy. Đêm mưa gió trên sông Liễu Giang, cả mấy chục người trong
khoang thuyền mà chỉ có Trần Cận Nam Tổng đường chủ và Ngô Lục Kỳ của Thiên Địa
hội mới đủ nội công cất cao tiếng hát át cả tiếng cuồng phong:
Non
nước ngàn năm để tiếng truyền
Đau
lòng huyết lộ khắp Tây Xuyên
Đọc
Lục Mạch Thần Kiếm ta còn nghe được tiếng hát “Hái Sen ở Giang Nam” hòa với tiếng
hồ cầm, thánh thót của A Bích tại Yến Tử Ổ ở Giang Nam
Giang Nam ta
hãy hái sen
Lá
sen dày khít mọc chen thành đồng
Cá
đùa bên lá phía đông
Cá
đùa bên lá sen hồng phía tây.
Những
tiếng hát đẹp nhất mang nặng tính chất triết lý vẫn là tiếng hát Tiểu Siêu cô
gái lai Ba Tư. Tiểu Siêu trở thành ả hầu của Trương Vô Kỵ; 16 tuổi mà đã thầm
yêu Trương Vô Kỵ. Nàng biết đó là điều tuyệt vọng,nỗi đau đó khi nàng hát cho
Minh chủ Trương Vô Kỵ nghe. Bài ca nầy cũng rút ra từ thơ của Ôn Ca Mạc và được
tác giả Kim Dung chuyển ngữ sang Quan Thoại nói lên khát vọng giữa tử sinh:
Lai
như lưu thủy hề thệ như phong
Bất
tri hà xứ lai hề hà sơ chung.
(Chợt
đến như dòng sông nước chảy, thoát tan như gió qua mau. Chẳng biết đâu mà đến, cũng
chẳng biết nơi đâu mà về)
Kim
Dung tiên sinh đưa âm nhạc vào tiểu thuyết võ lâm; bởi vì theo quan
niệm của tác giả âm nhạc là võ công là hóa giải từ lòng thù hận đến lòng yêu
thương, từ vô thủy vô chung đến đạo làm người giữa người và bá tánh, ông xây dựng
bối cảnh lịch sử trong truyện qua âm nhạc, thần tượng hóa các nhân vật trong
truyện từ lịch sử hay huyền thoại, từ cái “vô ảnh” sang hình ảnh hiện thực, tiềm
tàng trong lịch sử đấu tranh của người Trung Quốc từ thời Xuân Thu chiến quốc
cho đến thời kỳ cách mạng văn hóa ngày nay.
Kim
Dung viết tiểu thuyết không nhất thiết là truyện “chưởng”, bên cạnh đó tác giả lồng
vào những chuyện tình đầy tính lãng mạn, pha lẫn tính hài hước dí dõm để truyện
trở nên phong phú, sâu sắc thần kỳ. Nhất là âm nhạc Kim Dung đã biện minh bằng một
lý lẽ nhân sinh tương quan giữa người với người.
Vì
vậy đọc truyện kiếm hiệp Kim Dung, ta lắng nghe chất nhạc qua từng thời kỳ, từng
triều đại với địa danh lịch sử Trung Quốc. Kim Dung thần tượng hóa trong các bộ
môn nghệ thuật. Chính trong cái dung nạp này; Kim Dung chứng tỏ được rằng ông rất
điêu luyện về âm nhạc trong kỷ thuật viết truyện võ hiệp.
eva air vn
vé máy bay đi mỹ tháng nào rẻ nhất
hang may bay korean
vé máy bay đi mỹ giá rẻ
mua vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich