Tượng,
hoa, và sương mù
Tách lời khỏi nhạc để tìm thơ
Cây có cội, nước có nguồn
Huế mưa, Huế lá, Huế em...
La đà, cà-phê, và khói nhang
"Môi vẫn hay môi cho đời bớt lạnh"
Hương hoa, diễm tình, diễm từ
Em sóng em mưa
Giống mà không giống
Diễm nhạc
Tách lời khỏi nhạc để tìm thơ
Cây có cội, nước có nguồn
Huế mưa, Huế lá, Huế em...
La đà, cà-phê, và khói nhang
"Môi vẫn hay môi cho đời bớt lạnh"
Hương hoa, diễm tình, diễm từ
Em sóng em mưa
Giống mà không giống
Diễm nhạc
Tượng,
hoa, và sương mù
Nghe
nói ở Đà Lạt sắp có tượng Hàn Mặc Tử và Trịnh Công Sơn. Nghệ sĩ miền Trung đứng
giữa phố thị miền Trung. Nhà thơ lãng mạn siêu thực (1) cùng nhà nhạc tình
"trừu tượng" sánh vai trên những đường hoa trong thành phố sương mù.
Sáng kiến đáng chú ý. Nhân dịp, thử "lắng" lại đôi chỗ âm vang độc
đáo trong dòng nhạc Trịnh.
Tách
lời khỏi nhạc để tìm thơ
Trong
tập III của Hồi ký, Phạm Duy kể: "Tình khúc Trịnh Công Sơn (...) chỉ
trong một thời gian rất ngắn đã chinh phục được tất cả (?) người nghe (...) So
sánh với những tình khúc ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công
Sơn rất mới."(2)
Mới
thế nào? Phạm Duy nhận định: "Toàn bộ âm nhạc của anh đẹp như một bức họa
trừu tượng hơn là tả thực. Cả nhạc lẫn lời, cả xác lẫn hồn thơ, nghe lãng đãng,
mơ hồ, khó phân định cho đúng nghĩa."(3)
Nhạc
trừu tượng? Không dễ hiểu. Trang chữ thiếu tiếng đàn giọng hát làm cơ sở cho
suy nghĩ, làm minh họa cho lập luận. Đành để nhạc đấy mà đi "nghe" lời.
Nếu đổi
chỗ lẫn nhau với thơ "chánh hiệu con nai vàng", thì ca từ thua thiệt.
Thơ mà đem phổ nhạc, nếu nhạc hay thì thơ thường được hay lây, được tưởng là
hay dù thơ dở. Thực ra chẳng cần phổ phiếc cầu kỳ, chỉ nhờ một ngâm sĩ có giọng
ngâm thiên phú ngâm lên thật não nùng là thơ con cóc có khi cũng hóa phong độ
như ai. Ngược lại, ca từ mà bắt đem phơi mình trên trang giấy giữa thanh thiên
bạch nhật thì e đa số sẽ trở nên ngơ ngác, lạc loài, mà trăm mắt trông vào chực
thưởng thức thơ e sẽ bị chưng hửng, trơ... mắt ếch.(4)
Viết
về nhạc Trịnh, Ngự Thuyết nhận xét nếu tách lời ra khỏi nhạc thì ta không gặp
những bài thơ hay, mà ta gặp nhiều chất thơ.(5)
Ca từ
phải "hôn phối" với nhạc, nên mấy khi sẵn là thơ. Nếu quả thực giàu
thi vị, có lẽ đã đủ cớ để trầm trồ.
"Hạt
bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi tuyệt vời
Mặt trời soi một kiếp rong chơi
(...)
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi
Ôi cát bụi mệt nhoài
Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi"
(Cát Bụi)
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi tuyệt vời
Mặt trời soi một kiếp rong chơi
(...)
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi
Ôi cát bụi mệt nhoài
Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi"
(Cát Bụi)
"Mưa
vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu
(...)
Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua...
Trên bước chân em âm thầm lá đổ
Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa
(...)
Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
Làm sao em biết bia đá không đau
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Để người phiêu lãng quên mình lãng du"
(Diễm Xưa)
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu
(...)
Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua...
Trên bước chân em âm thầm lá đổ
Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa
(...)
Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
Làm sao em biết bia đá không đau
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Để người phiêu lãng quên mình lãng du"
(Diễm Xưa)
"Đôi
khi nắng lên phố xưa làm tôi nhớ
Đôi khi có mưa giữa khuya hồn tôi bỗng vu vơ"
(Rồi Như Đá Ngây Ngô)
Đôi khi có mưa giữa khuya hồn tôi bỗng vu vơ"
(Rồi Như Đá Ngây Ngô)
"Chiều
chủ nhật buồn
nằm trong căn gác đìu hiu
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều
Trời mưa trời mưa không dứt
ô hay mình vẫn cô liêu"
(Lời Buồn Thánh)
nằm trong căn gác đìu hiu
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều
Trời mưa trời mưa không dứt
ô hay mình vẫn cô liêu"
(Lời Buồn Thánh)
"Chiều
hôm thức dậy
Ngồi ôm tóc dài
Chập chờn lau trắng trong tay"
(Chiếc Lá Thu Phai)
Ngồi ôm tóc dài
Chập chờn lau trắng trong tay"
(Chiếc Lá Thu Phai)
"Ta
về nơi đây phố xưa dấu đạn
Con đường bên sông cỏ lá buồn tênh
Ta về nơi đây tháng năm quá rộng
Đường xưa em lại thấp thoáng bàn chân
(...)
Ta về nơi đây thoáng nghe gió lạnh
Hết mùa thu sang đã đến ngày đông
Những hàng cây xanh đón em áo lộng
Bây giờ ta nhìn khói trời mênh mông"
(Khói Trời Mênh Mông)
Con đường bên sông cỏ lá buồn tênh
Ta về nơi đây tháng năm quá rộng
Đường xưa em lại thấp thoáng bàn chân
(...)
Ta về nơi đây thoáng nghe gió lạnh
Hết mùa thu sang đã đến ngày đông
Những hàng cây xanh đón em áo lộng
Bây giờ ta nhìn khói trời mênh mông"
(Khói Trời Mênh Mông)
"Bao
nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về
(...)
Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa
Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ
Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ
Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà"
(Một Cõi Đi Về)
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về
(...)
Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa
Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ
Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ
Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà"
(Một Cõi Đi Về)
"Có
đường xa và nắng chiều quạnh quẽ
Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên"
(Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng)
Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên"
(Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng)
"Một
đêm bước chân về gác nhỏ
chợt nhớ đóa hoa tường vi
Bàn tay ngắt hoa từ phố nọ
Giờ đây đã quên vườn xưa
(...)
Ngày xuân bước chân người rất nhẹ
Mùa xuân đã qua bao giờ
Nhiều đêm thấy ta là thác đổ
Tỉnh ra có khi còn nghe"
(Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ)
chợt nhớ đóa hoa tường vi
Bàn tay ngắt hoa từ phố nọ
Giờ đây đã quên vườn xưa
(...)
Ngày xuân bước chân người rất nhẹ
Mùa xuân đã qua bao giờ
Nhiều đêm thấy ta là thác đổ
Tỉnh ra có khi còn nghe"
(Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ)
"Em
còn nhớ hay em đã quên
Nhớ Sài Gòn những chiều lộng gió
lá hát như mưa suốt con đường đi
Có mặt đường vàng hoa như gấm
có không gian màu áo bay lên..."
(Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên)
Nhớ Sài Gòn những chiều lộng gió
lá hát như mưa suốt con đường đi
Có mặt đường vàng hoa như gấm
có không gian màu áo bay lên..."
(Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên)
Năm,
sáu trăm ca khúc của Trịnh Công Sơn còn nhiều lời khác tương tự. Cộng lại, thì
ca từ Trịnh có lẽ giàu chất thơ hơn toàn bộ thi phẩm của không ít thi sĩ chính
thức.
Trong
những lời đẹp của Trịnh, không phải lời nào cũng "lãng đãng, mơ hồ".
Tuy nhiên, nhìn chung, khuynh hướng trừu trượng quả có nổi bật.
Cây
có cội, nước có nguồn
Trong
số những người thưởng thức nhạc Trịnh Công Sơn, có Văn Cao. Trên trang cuối của Tuyển
tập những bài ca không năm tháng, tác giả Thiên Thai tâm sự:
"Mãi
hơn một năm sau ngày 30 tháng 4, chúng tôi mới thật sự mặt nhin mặt tay cầm tay
lần đầu, nhưng tôi có cảm giác như chúng tôi đã là bạn của nhau tự bao giờ, mặc
dù giữa tôi và Sơn còn cả một thế hệ đệm. Nói cách nào đó, tôi đã gặp Sơn từ những
ngày đất nước còn chia hai miền và còn chìm trong khói lửa. Tôi muốn nhắc đến ở
đây một kỷ niệm không thể quên ở nhà một người bạn trẻ. Đêm ấy lần đầu tiên tôi
nghe (cũng có nghĩa là gặp) Trịnh Công Sơn... Những bạn trẻ hát cho tôi nghe gần
suốt đêm hàng loạt ca khúc Trịnh Công Sơn (không biết họ học ở đâu), hát say
sưa đến nỗi đứt cả dây của chiếc đàn ghi-ta duy nhất có trong nhà (...) từ cái
đêm chiến tranh ấy, tôi biết mình đã gặp một tâm-hồn-chị-em (?) xẻ chia "Một
Cõi Đi Về" (...) tôi viết lời bạt này cho tập nhạc của Sơn như giữ một lời
hẹn thầm chưa ngỏ, lời hẹn của một tri âm với tri âm..."
Kẻ
tri âm, người bạn vong niên, nhạc sĩ lão thành lừng lẫy ấy phát biểu như sau về
nhạc Trịnh: "Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca bởi ở Sơn, nhạc và thơ
quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ (...)
Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc
bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra
(...) Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn có lẽ là chính ở chỗ đó (...) Với những
lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một
hình thức của dân ca hầu như không thay đổi."
Cảm
xúc nhạc thơ tự nó trào ra thành tranh trừu tượng đẹp đẽ, độc đáo, hay thật.
Nhưng hẳn chính thứ cảm xúc tuyệt vời ấy cũng là do một thứ gì khác trào ra mà
thành chứ. Đọc loại thơ chân quê của Nguyễn Bính, Hoài Thanh liên tưởng đến
"hồn xưa của đất nước"(7). Đọc những Theo Đuổi, Về Với Ta, Lá Diêu
Bông v.v. của Hoàng Cầm, ta cảm rõ hồn xưa Kinh Bắc. Trong những đoạn ca từ
giàu chất thơ của Trịnh Công Sơn sao khỏi thấp thoáng "vang bóng một thời"
"ở một nơi ai cũng quen nhau"(8)?
Huế
mưa, Huế lá, Huế em...
Có ai
để ý nhạc Trịnh Công Sơn tuyệt nhiên không mang âm hưởng Huế.
Thật
lạ. Người ở đâu đâu ra, vô xứ thần kinh chỉ thời gian ngắn là đã có thể ngấm đủ
"hương sông" để viết nên nhạc giá trị có chất Huế hẳn hoi, như Dương
Thiệu Tước viết Đêm Tàn Bến Ngự, như Phạm Duy, Phạm Đình Chương viết trong trường
ca Mẹ Việt Nam, Hội Trùng Dương, như Minh Kỳ viết Mưa Trên Phố Huế, Lê Dinh viết
Huế Buồn. Nhạc sĩ Huế như Phạm Mạnh Cương sáng tác Giã Từ Cố Đô rất đượm mùi
Hương. Thế mà trước sau Trịnh Công Sơn dường như không chịu "ca Huế"
lần nào.
Không
làm gì có chuyện con đẻ không mang máu mẹ. Con không giống mẹ bên ngoài, ắt giống
bên trong. Trường hợp nhạc Trịnh, chất Huế lẩn khuất trong ý, trong lời.
Diễm
Xưa chắc chắn là ca khúc Việt Nam được nhiều người nước ngoài biết đến nhất. Suốt
34 năm từ ngày Khánh Ly trình diễn tại Hội chợ Quốc tế ở Osaka, "Mưa vẫn
mưa bay..." không lúc nào tạnh trên các làn sóng điện ở Nhật. Diễm Xưa mới
đây lại được một đại học Nhật đưa vào chương trình giáo khoa.(9) Diễm quốc tế
và Diễm "rất Huế" (10): nào những tầng tháp cổ, những hàng lá nhỏ, nhất
là những chuyến mưa qua...
Về
mưa, về lá, Trịnh Công Sơn có lần kể rõ:
"Thuở
ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua những hàng cây long não lá li ti
xanh mướt để đến trường (...) Mùa xuân mưa Huế, người con gái ấy đi qua nhòa nhạt
trong mưa giữa hai hàng cây long não mù mịt (...) buổi ấy những người con gái
Huế (...) đa số (...) chậm rãi đến trường bằng những bước đi thong thả hoàng
cung (...) Đi để được những con mắt chung quanh nhìn ngắm nhưng đồng thời cũng
(để) tự mình có thì giờ nhìn ngắm trời đất, sông nước và hoa lá (...) Long não,
bàng, phượng đỏ, muối, mù u và một dòng sông Hương chảy quanh thành phố đã phả
vào tâm hồn thời con gái một lớp sương khói lãng mạn thanh khiết".(11)
Nhạc
sĩ cao hứng nói thay các cô gái Huế. Nhưng đến phiên các cô tự bày tỏ cảm tưởng
về cái "không gian liêu trai" ấy, thì cũng nhất trí thôi:
"Chúng
tôi đạp xe bên nhau nhẹ nhàng, áo trắng tung trong gió, gió ban mai phả vào mặt
mát lạnh. Buổi sáng tháng ba non xanh như lộc cây bàng vừa chớm nụ, hơi ấm từ
phía Thuận An dồn đến, hơi nước từ núi rừng Kim Phụng tràn sang, quyện tròn với
nhau thành những vùng mây khói mờ ảo trên đường dọc theo sông. Qua khỏi cầu
Đông Ba, bỗng thấy mình chơi vơi trong một vùng sương mù dậy hương thơm ngào ngạt
đến ngây cả người. Chặng đường từ cầu Ðông Ba lên đến cầu Gia Hội thời ấy không
biết ai đã trồng một dãy cây sầu đông hai bên vệ đường. Tháng ba hoa nở, những
cành cây chi chít hoa giao nhau trên không kết thành vòm che kín cả bầu trời.
Hoa sầu đông màu trắng như sữa, giữa hoa lấm tấm những điểm nhỏ màu tím nhạt
như những điểm sương tụ lại. Trong buổi sáng đầy sương mù, hoa với sương hòa lẫn
với nhau (...) trên đường đi mọi vật mờ ảo như một giấc mộng. Cả bọn con gái đạp
xe đi như những chiếc bóng mơ hồ bồng bềnh, tà áo trắng ẩn hiện (...) không ai
nói năng chi (...) lặng lờ đi theo "tiếng" của hương thơm ngây ngất tẩm
lên da thịt và tóc, cảm giác đê mê như đang trôi giạt trong những lớp sóng
sương gió thổi ngược vào người."(12)
Huế
có sáng sương mù dậy hương thơm như mộng. Huế lại có trưa "hoa trái quanh
tôi" (13) thơm như đời. Trịnh nhớ: "Đôi khi nhớ trong tóc em mùi cây
trái thơm tho".
Chẳng
những có mưa, sông, thành, tháp, hoa, lá, trái, có gái đi bộ, gái đạp xe, Huế
còn có nhiều "tiếng" lạ: "Thời gian trôi đi ở nơi đây lặng lẽ
quá (...) tiếng nói thì thầm của lăng miếu, bia mộ ở những vùng đồi núi chung
quanh...". Trịnh không quên: "Nghe trăm tiếng ngậm ngùi / nghe lăng
miếu trùng vây / Nghe xa cách cuộc đời / nghe hoang phế cạnh đây" (Nghe Tiếng
Muôn Trùng).
Hoài
niệm về Huế chiếm phần quan trọng trong ca từ Trịnh, nhưng ca từ Trịnh dường
như không một lần gọi Huế đích danh, riêng rẽ.
Ra Hà
Nội mùa thu, rồi Trịnh Công Sơn sáng tác Nhớ Mùa Thu Hà Nội, gọi tên thủ đô
vang lừng. Phải thôi. Một đằng còn mới mẻ, hơn nữa dẫu thích vẫn xa, vẫn cách,
nên cần... cao giọng. Một đằng là chính mình rồi, nên chỉ ngâm khe khẽ, tỉ tê:
"Chiều một mình qua phố, âm thầm nhớ nhớ tên em...".
La
đà, cà-phê, và khói nhang
So
sánh mình với người tri âm cách một thế hệ, Trịnh Công Sơn viết: "Âm nhạc
của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà giữa cõi con người."(14)
Phát biểu vắn tắt ấy dễ gây ngộ nhận.
Thực
ra, chính nội dung ca từ của nhạc Văn Cao mới là thuộc rất dứt khoát về cuộc sống.
Ngay Thiên Thai, dù thần tiên, diễm ảo đến thế nào thì bây giờ, qua chính lời
tác giả (15), cũng chỉ còn giá trị một biểu tượng cũ kỹ cho mơ ước lãng mạn của
con người. Văn Cao dùng Thiên Thai thuần túy để diễn tả một khao khát yêu đương
hoàn toàn vô vọng, chứ không hề có ý bày tỏ một trăn trở siêu hình. Đâu có gì
đáng ngạc nhiên: chất "tiến thủ hăng hái" (16) của cư dân vùng châu
thổ sông Hồng đã từ lâu không để loại tư duy kém thực tế phát triển.
Phần
lời của nhạc Trịnh, ngược lại, vừa luôn la đà trên các phố thị, phố thành, phố
Phái, phố Sơn (17), rong chơi đều đặn nơi các quán cà-phê cà pháo, vừa thường
xuyên... siêu thực.
Cần
nói ngay, nội dung triết lý trong lời nhạc Trịnh không có gì mới. Tác giả không
ngại tâm sự cặn kẽ: "Phật giáo tác động rất sâu xa trong đời sống tâm linh
của tôi. Cái phần siêu hình trong ngôn ngữ của tôi là do ảnh hưởng của Phật
giáo... Không hiểu sao, trong những năm gần đây, tôi thường nghĩ về Phật giáo
như là một tôn giáo mang nhiều tính hiện sinh nhất (...) Phải biết sống hết
mình trong mỗi sát na (...) Với tôi, Phật giáo là một triết học làm cho ta yêu
đời hơn, chứ không phải làm cho ta lãng quên cuộc sống (...) Mỗi người cần phải
nỗ lực (...) xây dựng (...) một ngôi chùa (...) trong lòng mình (...) Với tôi,
đó cũng là thiền (...) Tôi hát là tôi hiện hữu."(18) Như sợ bị hiểu lầm,
tác giả còn nhấn mạnh: "... không phải hiện sinh theo kiểu sống vội sống
vàng, mà ở đây, con người sống bình thản trong từng sát na."(19)
Phật
giáo, triết học, tính hiện sinh, sát na, chùa, thiền, "hát là hiện hữu"...
Triết Đông xen tí triết Tây, ca từ uyên bác đôi khi có thể khiến ta lầm tưởng
Trịnh là một triết gia hoặc thiền sư đang dùng nhạc để phổ biến kiến giải độc
đáo. Sự thực, phần lời ca của nhạc Trịnh Công Sơn tuy có "trí thức"
(20) hơn hẳn ca từ của đa số các nhạc sĩ khác, vẫn không nên bị nhầm với những...
công án!
Chịu ảnh
hưởng Phật, nhưng nói chung ca từ Trịnh giữ được khoảng cách cần thiết với tôn
giáo. Họa hoằn Trịnh mới trịnh trọng "khoác áo chân như", "long
lanh giọt lệ thiên thu" mà "bước tới hư vô". Và dù thỉnh thoảng
có mang hình thức băn khoăn khá rõ ràng: "Tôi là ai, là ai, là
ai...", lời Trịnh vẫn mật thiết với cảm xúc mà đố kỵ suy tư.
Tạm gọi
thứ lời như thế là ca từ cảm tính có phảng phất mùi siêu thực. Chủ yếu, mùi
nhang.
"Môi vẫn
hay môi cho đời bớt lạnh"
Gần đầu Tuyển
tập những bài ca không năm tháng, có dòng thủ bút của tác giả: "Sống giữa
đời này chỉ có thân phận và tình yêu."
Kẻ hết
sức hâm mộ những bài ca ấy là Bùi Bảo Trúc thì dứt khoát: "... tình yêu là
ám ảnh lớn hơn tất cả các đề tài khác của Trịnh Công Sơn."(21)
Tình
yêu vẫn đều đều chiếm vị trí cao trong vô số nghệ phẩm, nhất là trong các thi
phẩm, nhạc phẩm. Có điều gì đáng nói chăng, chủ yếu là ở cái cách từng tác giả
rước tình lên ngôi trong văn chương, âm nhạc của mình.
Nguyễn
Bính, Vũ Hoàng Chương, Văn Cao đều lừng danh về loại thơ, nhạc lấy yêu đương
làm đề tài. Nguyễn chân quê, Hoàng thư sinh, Văn lãng mạn. Cả ba giống Trịnh ở
chỗ đều thất tình. Cả ba khác Trịnh là thất bại xong, ít lâu bèn lấy vợ, trong
khi Trịnh sau Diễm suốt đời cứ tiệm cận hết em nọ đến em kia, cứ lượn, rồi dợm
đáp, rồi luyến tiếc bay lên, rồi ít lâu làm bài hát trừu tượng để ca cuộc tình!
Cùng
đề tài, Trịnh ca, còn tu sĩ Phật giáo Phạm Thiên Thư thì tụng. Lời yêu hết mực
tài hoa của Phạm có đặc điểm chayrất ngộ nghĩnh, từng được Võ Phiến phát
hiện.(22) So với lời ấy, ca từ của Trịnh có vẻ trần tục hơn vì hơi nhiều
môi: nào môi em hồng nhạt, hồng vừa, rất hồng, nào môi thơm, môi ngon, môi là đốm
lửa v.v.
Lại cần
nhắc Nguyễn Bính và Vũ Hoàng Chương. Nguyễn yêu thật sớm, yêu mê tơi, yêu hết
cô hàng xóm đến cô hàng quà, hết cô hái lúa đến cô hái mơ, yêu từ thôn Đông qua
tới thôn Đoài, yêu từ Nam Định vô tận Hà Tiên, vậy mà trước sau thơ Nguyễn chỉ
có đại khái giậu mồng tơi xanh với con bươm bướm trắng, chứ có chi tiết gì
"hay ho" về gái quê gái tỉnh gái Bắc gái Nam đâu? Vũ chắc yêu sớm
không kém, yêu đắm đuối, suốt đời làm thơ yêu, cuối đời tự tuyển thơ yêu của
mình mà in thành tập Ta đợi em từ ba mươi năm để lưu truyền hậu thế,
vậy mà thơ Vũ cũng toàn hoa phong nhụy với trăng rằm chứ có mô tả cụ thể gì về
"Tố của Hoàng" đâu?
Xét
mô tả đối tượng, Phạm không dè dặt hơn Nguyễn, hơn Vũ. Sở dĩ thơ Ngày Xưa Hoàng
Thị... v.v. mà bị tri hô là không đủ mặn, ấy chẳng qua chỉ do cái giọng khép
nép, rụt rè!
"Phạm
Thiên" tu nên thơ yêu có giọng khép nép. Còn Trịnh Công không tu, khi ca
thì môi kia môi nọ tưng bừng, nhưng "Công" chỉ môi đầu lưỡi chót cho
vui chứ không phải thực đắm đuối xác thân cụ thể, nên lời tình ca có đặc điểm
"trừu tượng, lãng đãng, mơ hồ"...
Trông
tượng này rồi nhớ tượng khác.(23) Nhớ những lời "vẩn đục" của Hàn Mặc
Tử, những ôm, siết, ghì bốc lửa, những tuyên ngôn đòi "thân thể" (24)
của Xuân Diệu.
Ngoài
thiên tính, hoàn cảnh của người nghệ sĩ, kể cả sức khỏe, hẳn có ảnh hưởng đến
cái phong cách yêu đương của người ấy. Mà yêu như thế nào, đến lượt nó, hẳn lại
góp phần quyết định cái phong cách viết về yêu. Điển hình, ta không biết gì về
phong cách yêu của một tác giả, mà ví dụ có biết, cũng không chắc sẽ nhận ra được
mối liên hệ giữa nó với phong cách viết.
Riêng
trường hợp Trịnh Công Sơn, giữa "nhân" đời và "quả" nhạc
tình hình dường như có dễ hiểu hơn chút đỉnh.
Hương
hoa, diễm tình, diễm từ
Bửu Ý
bảo "Tình yêu, với Trịnh Công Sơn, là diễm tình (...) Cái đẹp ở đây là cái
đẹp siêu thực (...) Tình yêu lên ngôi. Một đỉnh chiêm ngưỡng đúng hơn là một điểm
hẹn (...) Trịnh Công Sơn nguyện là kẻ hái lộc chứ không phải hái
trái."(25)
Hái
trái để ngấu nghiến xuân hồng, hái lộc nhằm hưởng ý nghĩa, hương hoa. Nhớ Ðinh
Cường từng kể chuyện Trịnh yêu Thanh Thúy Tàu (vì lai Tàu), tổ chức đám cưới,
đãi tiệc nhà hàng hẳn hoi. Tan tiệc, đôi uyên ương lên phòng tân hôn, bạn bè ra
về. Chợt nhóm Đinh Cường nghe tiếng giày lóc cóc đuổi theo. Quay lại, thấy Trịnh!
"Bỗng dưng ở một mình trong phòng với một người đàn bà, moa sợ
quá."(26) Trịnh mở tiệc cốt chiêm ngưỡng tình yêu chứ đâu phải người yêu,
cốt hít chút thơm tho, chứ đâu thực định ăn trái (không cấm). Hú hồn.
Sau
này, khi "phác thảo chân dung tôi"(27), Trịnh Công Sơn cho biết
"Qua ca khúc, tôi đã đến gần và đã đi xa những chuyện tình". Còn qua
hành động trước ca khúc, đến gần là như làm đám cưới, đi xa là như chạy lóc cóc
theo Đinh Cường, phải chăng? Tình có lúc tự ý xa tôi như tình Diễm, có lúc bị
tôi đào tẩu như tình Thúy, chung qui trước sau dường như vẫn nguyên hình... lộc.
Quá
trình hoa thơm, bướm lượn, bướm bay... rồi diễn đi diễn lại dài dài. Sài Gòn một
dạo xôn xao về tin nhạc sĩ (năm ấy đã ngoại ngũ tuần) chuẩn bị xây dựng gia
đình với Á hậu Vân Anh. Rồi lời ong tiếng ve về quan hệ với ca sĩ Hồng Hạnh, ca
sĩ Thanh Thúy (khác), ca sĩ Hồng Nhung v.v. Om sòm. Vậy mà rồi dường như đâu có
"em" nào nỡ trách Trịnh là Bạc tình lang?
Nhớ
trong một băng hình Văn Cao tâm sự: "Tôi cũng như Trịnh Công Sơn, suốt đời
rồi chỉ có mình."(28) Như là như thế nào? Văn Cao lúc đầu thất
tình vì thất thế (nghèo), về sau thành danh lại không còn hoàn cảnh để
"bay nhảy", chứ Trịnh tuy lúc dầu dường như cũng bại trận vì thất thế,
nhưng về sau vừa nổi tiếng vừa độc thân vừa nhiều cơ hội tiếp xúc với các người
đẹp, ưu thế hơn anh Văn đứt đuôi đi chứ. Hơn nữa, Văn Cao đối diện mỹ nhân
thì... á khẩu, chứ Trịnh đâu có tiếng đồn nhát nói. (Mà Thiên Thai chỉ ngại tán
gái, chứ gặp đoàn quay phim thì phát biểu vô tư ra phết, ăn nói thật thà cứ y
như trong nhà mình không từng có "ai"!)
Diễm
tình là tình đẹp. Muốn tình đẹp, phải theo "luật" Hồ Dzếnh:
"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở..." Vì lý do riêng tư nào đó, Trịnh
Công Sơn đã tích lũy thật nhiều những mối tình "lý tưởng" oái ăm ấy.
Mở đầu Tuyển
tập..., Trịnh có mấy lời bí ẩn: "Mỗi bài hát của tôi là một lời tỏ tình với
cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín về những nỗi niềm tuyệt vọng...". Rồi
nơi này Trịnh mở: "Vì có tình yêu nên có âm nhạc. Vì có khổ đau nên có âm
nhạc."(29), nơi kia Trịnh úp: "Hát để thăng hoa đồng thời cũng để an ủi."(30)
Thăng hoa, dĩ nhiên, nhưng an ủi?
Dù
sao, ca từ Trịnh rõ ràng không phải "thường" từ, mà là diễm từ,
có liên hệ sao đó với những ngày diễm ảo (31) rất đỗi "vàng
sen" (32).
Em
sóng em mưa
Lời
ca Trịnh phảng phất mùi siêu thực, lại thấp thoáng hình bóng em. Ngẫm nghĩ, có
lúc thấy vì em cứ lãng đãng không xương không thịt mãi mà em hóa siêu thực, có
lúc lại thấy như thể chính siêu thực đã mượn môi mượn mắt để hóa lãng mạn, hóa
em.
Thử đọc:
"Em
đứng lên gọi mưa vào hạ
từng cơn mưa, từng cơn mưa, từng cơn mưa,
mưa thì thầm dưới chân ngà"
(Gọi Tên Bốn Mùa)
từng cơn mưa, từng cơn mưa, từng cơn mưa,
mưa thì thầm dưới chân ngà"
(Gọi Tên Bốn Mùa)
"Tóc
em từng sợi nhỏ
rớt xuống đời làm sóng lênh đênh
(...)
Gió sẽ mừng vì tóc em bay
cho mây hờn ngủ quên trên vai
(...)
nghìn giọt lệ rớt xuống thành hồ nước long lanh"
(Như Cánh Vạc Bay)
rớt xuống đời làm sóng lênh đênh
(...)
Gió sẽ mừng vì tóc em bay
cho mây hờn ngủ quên trên vai
(...)
nghìn giọt lệ rớt xuống thành hồ nước long lanh"
(Như Cánh Vạc Bay)
"Có
khi
mưa ngoài trời là giọt nước mắt em
Đã nương theo vào đời làm từng nỗi ưu phiền"
(Ru Đời Đi Nhé)
mưa ngoài trời là giọt nước mắt em
Đã nương theo vào đời làm từng nỗi ưu phiền"
(Ru Đời Đi Nhé)
"Ru
mãi ngàn năm từng ngón xuân nồng
Bàn tay em năm ngón anh ru ngàn năm
giận hờn sẽ quên, dáng em trôi dài,
trôi mãi trôi trên ngàn năm"
(Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng)
Bàn tay em năm ngón anh ru ngàn năm
giận hờn sẽ quên, dáng em trôi dài,
trôi mãi trôi trên ngàn năm"
(Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng)
"Em
đi trong sương mù gọi cây lá vào mùa"
(Tôi Ru Em Ngủ)
(Tôi Ru Em Ngủ)
Em gọi
cây, gọi lá, gọi mưa, mưa thì thầm dưới chân em, mây ngủ quên trên vai em, tóc
em rớt xuống làm sóng, nước mắt em rớt xuống thành mưa, thành hồ, dáng em trôi
dài trên ngàn năm... Em to lớn quá, em miên viễn quá. Tên em đã thôi là Diễm,
hoặc có khi thực ra vốn chẳng bao giờ là Diễm.
Trở lại
với hai pho tượng ở Đà Lạt. Xét nghệ phẩm, xét đời, xét người, thi sĩ với nhạc
sĩ quả có đôi chỗ tương đồng. Nhưng trong cái giống có cái khác.
Dù
cõi ngoài hắt hiu như đời Hàn hay xôn xao như đời Trịnh, thì cả hai đều rất
"cõi trong hiu hắt". Ở Hàn, thơ chuyển biến sau khi Hàn lâm bệnh. Ở
Trịnh, ca từ "thở dài" ngay từ Ướt Mi, từ đầu. Ðau thương của Hàn diễn
tiến gấp rút, bạo liệt, làm thơ Hàn cũng xoay dọc, xoay ngang, bước vút lên trời,
bước lao xuống vực. Nỗi khổ nào đó của Trịnh êm ái hơn nhưng phát khởi có lẽ rất
sớm rồi lì lợm đeo đẳng, lặp đi lặp lại suốt đời, làm "tiếng buồn rơi đều",
rơi "không dứt" như mưa mùa đông Huế. (33)
Nghệ
phẩm của cả hai cùng nổi tiếng về nét siêu thực. Thơ siêu thực đã hiếm, mà ca từ
siêu thực càng hiếm. Không phải hễ đau khổ đúng mức là thực hóa siêu. Nghệ sĩ
Việt Nam gặp rủi đâu phải ít, mà ngoài Hàn, Trịnh còn bao nhiêu trường hợp nghệ
phẩm "siêu hóa" nữa? Mặt khác, lại có những Huy Cận, Chế Lan Viên, Võ
Phiến: số phận họ đều từ đỏ nhiều đến đỏ ít đến đỏ đỏ đen đen chứ đâu phải rặt
một màu xám, mà sao họ cũng thơ "siêu" văn "siêu"? (34)
Xem lại,
Trịnh cũng như Hàn, như Huy, như Chế, như Võ, đều là người miền Trung.
Có phải
cái nét siêu hình trong thơ trong văn trong lời ca vốn ẩn sẵn ngay trong người
họ, chỉ chực lấy cớ này cớ nọ để xông ra?
Xem lại
nữa, thì cái siêu thực trong thơ Hàn rùng rợn, hãi hùng, e không phải chỉ do
căn bệnh quái ác, mà phần nào do chất Bình Định "quằn quại dị thường"
(bên dưới bề ngoài "thàn hậu") (35), trong khi cái siêu thực ở ca từ
Trịnh lãng đãng, mơ hồ, e cũng không phải chỉ do tình nhẹ rơi rơi, mà phần nào
chính do chất Huế nhu mì, dỏ dẹ (36).
Lại
xem lại thêm tí nữa, trong thơ Hàn cái siêu thực mở rộng, khai phá, phi tôn
giáo (37), trong ca từ Trịnh nó ổn định, phảng phất mùi nhang, phải chăng vì
người Bình Định nói chung chưa thấm nhuần đạo Phật kỹ như người Huế?
Diễm
nhạc
Quá
nhiều lời về lời đã làm "căng".
Để
"giãn", hãy nhờ thứ nhạc không lời.
Trong
u cốc giữa đô thị, kẻ đại ẩn vừa ngắm "rung rinh một giọt cà-phê" (38)
vừa lắng "mưa vẫn mưa bay" từng hàng nốt nhỏ...
Không
Tây cũ, không ta xưa, chỉ "dân ca trí thức" đều đều, "hầu như
không thay đổi", mà thiền thật, Diễm thật!.
(1)
Xem bài Lụt Trăng Mưa Sao.
(2)
Phạm Duy, Hồi ký, tập III, Mỹ, 1991, tr. 285.
(3)
PD, sđd.
(4)
Trong Viết về bè bạn (nxb. Hải Phòng, VN, 2003, tr. 509), Bùi Ngọc Tấn
cho biết: "... giống tôi, Nguyên Hồng không thích ngâm thơ. Ghét nữa. Giọng
véo von trầm bổng làm mất âm điệu của ngôn ngữ. Nó giết chết nhạc của thơ. Nó
có thể tạo nên một lớp công chúng không biết gì về chất nhạc này."
(5)
Ngự Thuyết, "Trịnh Công Sơn và những phố xa", tạp chí Văn Học,
California, Mỹ, số 216, ?-2004, tr. 5.
(6) Tất
cả lời ca TCS trích dẫn trong bài này đều rút ra từ Tuyển tập những bài ca
không năm tháng (nxb. Âm Nhạc, VN, 1998).
(7)
Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam, nxb. Hoa Tiên, Sài Gòn, tr. 358.
(8) Ở
một nơi ai cũng quen nhau là tên một tập truyện của Hoàng Ngọc Tuấn.
(9)
Theo nhật báo Người Việt, California, Mỹ, số ra ngày 14-7-04.
(10)
Tên một ca khúc không nhớ của nhạc sĩ nào.
(11)
TCS, "Hồi ức", Thơ, VN, số 3, quý 3 năm 2003.
(12)
Thái Kim Lan, Một Ngày Vui Trên Ngọn... Sầu... Đông!, Tuyển tập nhớ Huế, Mỹ,
2002.
(13)
Tên một tùy bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
(15)
Xem băng hình Văn Cao - giấc mơ một đời người.
(16)
Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, nxb. TP HCM, VN, 1992, tr. 327.
(17)
Bửu Ý: "Hình ảnh phố phô mình phân rãi trong ca khúc anh" ("Thay
lời tựa", TTNBCKNT). Ngự Thuyết: "Văn Cao (...) không hề đề cập
đến phố xá (...) Phạm Duy (...) có mấy bài nhắc nhở đến đô thị (...) TCS là nhạc
sĩ đầu tiên nói đến phố phường nhiều nhất" (bài đã dẫn).
(18)
TCS, Một cõi TCS, nxb. Thuận Hóa, VN, 2002, tr. 166-168 (dẫn theo Lê Hữu,
"Ảo giác Trịnh Công Sơn", tạp chí Văn Học, Mỹ, số 214 & 215,
2 & 3/2004).
(19) TCS
- Một người thơ ca, một cõi đi về, nxb. Âm Nhạc, Hà Nội, 2001 (dẫn theo Lê Hữu,
xem chú thích trước).
(20)
Nguyễn Mộng Giác cho rằng "nhạc của họ Trịnh (...) nghe (...) "trí thức"
(...) không giống như những ca khúc phổ thông (khác)" (dẫn theo Quỳnh
Giao, "Trịnh Công Sơn, như cánh vạc bay", tạp chí Văn Học, Mỹ, số
186 & 187, 10 & 11 / 2001, tr. 204).
(21)
Bùi Bảo Trúc, "Về Trịnh Công Sơn", tạp chí Văn, Mỹ, số 53 &
54, 5 & 6 / 2001, tr. 46.
(22)
Võ Phiến, Văn học Miền Nam - Thơ, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, 1999, tr. 3021-3031.
(23)
Bàn về từ vựng trong tiếng Việt, Phạm Quỳnh phân biệt từ trừu tượng và từ cụ tượng.
(24)
Xuân Diệu có đôi câu thơ: "Không nền, sao dựng lầu thơ? / Không thân thể,
chỉ bâng quơ cái hồn".
(25)
Bửu Ý, "Thay lời tựa", TTNBCKNT.
(26)
Câu chuyện này đăng trên tạp chí Hợp Lưu, Mỹ, hình như trong năm 2002. Lời
TCS là ghi theo trí nhớ, vì tác giả không còn số báo này trong tay.
(27)
TCS, "Phác thảo chân dung tôi", Thơ, VN, số 3, quý 3 năm 2003.
(28)
Băng Văn Cao, giấc mơ một đời người.
(29)
TCS, "Để bắt đầu một hồi ức", tạp chí Văn, Mỹ, số 53&54,
5&6/2001, tr. 138.
(30)
TCS, "Viết và thở", Thơ, VN, số 3, quý 3 năm 2003.
(31)
Tên một tác phẩm của Nhất Linh.
(32)
"Sen vàng lãng đãng như gần như xa" (Truyện Kiều).
(33)
TCS có những tình ca vui tươi, nhưng là số ít. Ở đây muốn bàn về một vài nét thật
đặc biệt, chứ không có ý bao quát đủ mọi khía cạnh của nhạc tình Trịnh.
(34)
Xem bài Đất Nào Văn Nấy và bài Một Miền, Ba Dấu.
(35)
Về đặc tính của người Bình Định, xem Võ Phiến, sđd., tr. 3171. Về loại thơ ghê
rợn ở Bình Định, thời tiền chiến còn có Chế Lan Viên, thời chiến tranh Nam-Bắc
có Võ Chân Cửu. Sức khỏe của hai thi sĩ này không nghe nói có gì bất thường.
(36)
Tức nhỏ nhẹ ghi theo cách phát âm của người Huế.
(37)
Hàn Mặc Tử theo Công giáo. Thơ Hàn có những bài mang rõ tính cách tôn giáo,
nhưng có rất nhiều bài khác mà nội dung siêu thực không liên hệ gì với đạo
Chúa. Xem bài Lụt Trăng Mưa Sao.
(38)
Võ Phiến, "Giọt cà-phê", Tùy bút II, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, 1987,
tr. 180, 185.
Thu Tứ
hãng bay eva
vé máy bay eva đi mỹ
hang may bay korean
vé máy bay đi mỹ mùa nào rẻ nhất
vé máy bay đi canada giá rẻ
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch