Báo điện
tử Tổ Quốc vừa mở
ra cuộc bình chọn 99 bài thơ Lục Bát hay của thế kỷ XX. Theo nhà thơ Nguyễn Duy,
đây là bước tôn vinh các giá trị văn học nghệ thuật, mà việc tôn
vinh giá trị thơ Lục Bát là bước đầu tiên. Đó là một việc
làm đáng khuyến khích trong thời điểm trì trệ cuả thơ ca Việt hiện nay. Vì
trong thế giới thi ca tiếng Việt, Lục Bát là một cõi trời mênh mông mà không
hẳn nhà thơ nào cũng có thể vươn tới. Tôi viết những dòng này bằng cảm nhận chủ
quan của một người đọc yêu quý
thơ ca dân tộc mình …
1.
Lời vui, mạo muội xin thưa …
Đối với
người Việt Nam, làm những câu vần Lục Bát, dễ
như thở không khí. Chẳng hạn:
“Hôm nay
mùng tám tháng ba/ chị em phụ nữ đi ra đi vào..” Trong những dịp vui cộng đồng,
những dịp họp mặt, ta thường gặp “nhà thơ dân gian“ ứng
khẩu ngay một bài Lục Bát rồi đọc to lên, mọi người tán thưởng, vỗ tay rôm rốp.
Có người còn vận Lục Bát vào những câu hò như “a li hò lờ“ sôi nổi,
ấn tượng. Không khí cuộc vui trở nên hấp dẫn hơn cả đại hội nhạc Rock
Vậy mà
khi đi tìm những bài Lục Bát hay, tôi phát hiện ra nhiều nhà thơ, kể
cả những nhà thơ nổi tiếng, đã không thể để đời được bài Lục Bát hay
nào trong sự nghiệp thơ cuả mình. Họ có thử bút, nhưng chỉ làm được
những bài “thường thường bậc trung“, chẳng để lại ấn tượng gì, có
khi còn thua ca dao bình dân.
Bây giờ
nếu Hội Nhà Văn tổ chức một cuộc kiểm tra năng lực thơ cuả hội viên
bằng cách mở một cuộc thi Lục Bát, Hội ra đề, mỗi hội viên thơ làm một bài Lục
Bát khoảng 100 câu, tôi dám chắc rất nhiều người phải trả lại thẻ
hội viên (!) Không tin, Hội cứ mở một cuộc tỷ thí, giữa thanh thiên bạch nhật, giữa sân đình làng Văn, có thần dân cả nước
và quốc tế chứng kiến, chắc là cuộc tỷ thí ấy sẽ vang động khắp năm châu, và
người đoạt giải, xứng đáng được khắc bia đặt trong Văn Miếu.
Xin lỗi
các nhà thơ, kẻ viết bài này chỉ nói vui thôi, không dám hoài nghi gì về tài
năng thơ và sự đóng góp văn chương cuả các vị đâu. Bởi vì chỉ cần làm được một
bài thơ hay, không cứ gì Lục Bát, nhà thơ Việt nam đã có đóng góp
cho sự nghiệp văn chương cuả dân tộc rồi. Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Ông Đồ cuả Vũ Đình
Liên, Cuộc Chia Ly Màu Đỏ cuả Nguyễn Mỹ là những thí dụ ..
2. Lục Bát thương kẻ tài hoa …
Đọc ca
dao, đọc truyện Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh), đọc những bài ca vè, và
thơ Lục bát cuả những bậc tài danh, ta nhận ra những khả
năng đặc biệt cuả thể thơ này. Lục Bát có thể miêu tả mọi cảnh ngộ, mọi sinh
hoạt, mọi diễn biến đời sống bằng những lời gần gũi tâm sự, những
lời thiết tha cồn cào tâm can hay những tiếng sắt tiếng vàng binh đao Hán - Sở
chiến trường. Lục Bát có thể nói những điều sâu kín trong tâm hồn bằng ngôn ngữ
tinh tế, trang trọng cảm động, ngôn ngữ châu ngọc lấp lánh, ngôn ngữ làm thơm
tho cả không gian. Lục Bát cũng
có thể nói bông đùa mọi chuyện
trên đời bằng những lời Nôm na, những lời quàng xiên, những lời thô tục, những
lời bốc mùi không ngửi được
Sau khi
thất thân với Mã Giám Sinh, Kiều bị Tú Bà xỉ mắng thậm
tệ. Ngôn ngữ Lục Bát của Nguyễn Du đọc nghe nổi da
gà.
“Cớ sao
chịu trót một bề
Gái
tơ mà đã ngứa nghề sớm sao“
Nguyễn Du
tóm tắt cả truyện Kiều chỉ trong một câu mở và một câu kết truyện Kiều với ý
nghĩa tư tưởng sâu
xa
Trăm
năm trong cõi người ta…
Bùi Giáng
đùa nghịch với ngôn từ. Ông chắp
những từ nối (loại hư từ) thường dùng trong văn chính luận để dựng
nên một đoạn Lục Bát giàu ý nghĩa tư tưởng
- Nếu và
nhưng vẫn ắt rằng
Tuy nhiên
thế nọ thường hằng thế kia
Và nhưng
tuy dẫu là chia
Lìa cha
biệt mẹ bốc tia sinh tồn
(Tuy
nhiên)
Ca dao có
nhiều cách diễn tả chân chất nhưng thú vị bất ngờ
Một tâm
trạng yêu:
Gió sao
gió mát sau lưng
Dạ sao dạ
nhớ người dưng thế này
(ca dao)
Một nỗi
buồn thương man mác
Gió đưa
cây cải về trời
Rau răm ở
lại chịu lời đắng cay
(ca dao)
Một tình
cảnh vất vả, khó xử cuả người phụ nữ nông dân, lúc dậy sớm chuẩn bị cho một
ngày lao động
Đang khi cơm lửa đang nồng
Lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem
Bây giờ cơm chín, lợn im
Con thôi đòi bú, tòm tem thì tòm
(ca dao)
Và một
cuộc rượt đuổi không sao với tới được giữa chàng
và nàng trong tình yêu
Em như
cục cứt trôi sông
Anh như
con chó chạy rông trên bờ
(ca dao)
Nhân
gian từng truyền tụng những câu thơ hiện đại rất thú vị
của Bút Tre như thế này (Tôi không rõ có đúng nguyên văn, hay dân
gian có chế biến đi chăng)
Anh đi
chiến dịch Pờ - Lây
Cu dài
dằng dặc biết ngày nào ra
Hoặc
Chị em
phụ nữ đánh cầu
Lông bay
phần phật trên đầu các cu
Tác giả
đã sử dụng kỹ thuật chơi chữ tài hoa trong việc tách âm
và ngắt dòng chữ Pờ lây cu (tỉnh Pleiku) và môn thể thao vũ cầu (cầu lông),
cùng với kỹ thuật làm méo chữ. Chữ các cụ thành các cu, do vần gieo Lục Bát
phải là vần bằng. Bút Tre lợi dụng ngay cái hiểm hóc của Lục Bát để tạo ra tiếng cười. Dù sự việc
được miêu tả là những việc nghiêm trang.
Lục Bát
thật dễ làm, nhưng làm được một bài Lục Bát hay thật không đơn giản. Đọc thơ
Lục Bát, ta dễ gặp cảm giác này: câu chữ trau chuốt, vần gieo rất chỉnh, âm
điệu du dương, nhưng bài thơ cứ trôi tuột đi, ta cố tìm lấy chút gì để nhớ,
nhưng đành phụ lòng tác giả mà ngậm ngùi lắc đầu. Có khi ta thấy người viết vất
vả quá sức trong từng con chữ, như đánh vật với bằng – trắc,
với vần gieo; bị dẫn vào chỗ sơn cùng thuỷ tận để tìm từ; luẩn quẩn
mãi không sao làm mới được vần điệu. Câu chữ trúc trắc, gò bó, gượng gạo
đến khổ sở. Làm dăm bảy câu Lục bát còn dễ, làm đến vài chục câu đã
khó, nhưng để viết được vài trăm câu hay vài ngàn câu Lục bát (Truyện Kiều
3.254 câu; Thiên Nam Ngữ Lục 8.136 câu) thật khó mà tưởng tượng được sự vất vả
cuả nhà thơ lớn như thế nào. Người phải vắt kiệt sức lực, vỡ òa tim
óc, dốc hết vốn liếng, cày cuốc rũ người trên cánh đồng chữ nghiã, lục mót từ
ngữ, nghiêng ngưả vần gieo, biến tấu nhạc điệu, phối khí bút pháp,
gia giảm khẩu vị, lại phải hoá thân bay lên cõi mênh mông của tình ý nhân gian và cõi vô cùng của tâm linh ngời ngời ánh sáng
(Nguyễn Du từng được coi là người có con mắt nhìn sáu cõi thế gian, tấm lòng
thấu suốt nghìn đời). Chưa một thể thơ nào đòi hỏi quyết liệt tài
năng, sức lực và tâm huyết nhà thơ đến thế. Không có tài không thể
làm được Lục Bát hay.
Lục Bát
là thể thơ cuả những nhà thơ tài hoa, những nhà thơ sống mãi với dân tộc.
Cái hay
của Lục Bát là ở tình ý, lời,
kiểu tư duy và ở chính sự tài hoa cuả cá tính sáng tạo. Đành rằng,
ở thể loại nào, thơ cũng đòi những yếu tố ấy,
song ở Lục Bát thì tình ý phải đi
liền với nhau và sự tài hoa là yếu tố quyết định làm nên đặc sắc Lục Bát. Lục
bát cuả Nguyễn Bính hội tụ được những yếu tố ấy. Ngày nay, Lỡ Bước
Sang Ngang, Cô Hàng Xóm... vẫn
làm rung cảm mạnh mẽ tâm hồn người đọc. Thú thực, mỗi lần đọc Lỡ
Bước Sang Ngang tôi không sao cầm lòng được. Tâm
hồn mình cứ rưng rưng. Sự xúc động như tự thâm sâu cuả hồn quê, cuả
hồn người, cuả bản thể Việt. Sự xúc động có chiều sâu nhân văn, chiều sâu văn
hóa, và cả chiều sâu tâm thức Việt. Bài thơ Đan Áo Cho Chồng cuả T.T.Kh cũng có
cái tình như thế nhưng không có được sự tài hoa. Bài Gửi T.T.Kh cuả Thâm Tâm chỉ có ý,
rất ít tình và nghèo nàn sự tài hoa. Nói đến tình ý và tài hoa, thì Nguyễn Bính
đã để lại những dấu ấn không thể nhòa trong
thơ. Ông mở ra một con đường Lục bát Nguyễn Bính cho nhiều người đi sau Lục Bát
đương đại, ý có thể sâu, nhưng tình thì rất nhạt và thật hiếm
có phong cách tài hoa. Những bài như: Tâm Sự Nàng Thúy Vân cuả Trương Nam Hương, Nỗi Niềm Thị
Nở của Quang Huy và Lời Ru Con Cuả Người Yêu Cũ của Phạm Ngà, có những nét mới
mẻ sáng tạo, tình ý khá hay, nhưng vẫn có chỗ ngượng nghịu thô vụng.
TÂM SỰ NÀNG THUÝ VÂN
Nghĩ
thương lời chị dặn dò
Mười lăm
năm đắm con đò xuân xanh
Chị yêu
lệ chảy đã đành
Chớ em
nước mắt đâu dành chàng Kim
Ơ kià sao
chị ngồi im
Lấy người
yêu chị làm chồng
Đời em
thể thắt một vòng oan khiên
Sụt sùi
ướt cỏ Đạm Tiên
Chị
thương kẻ khuất đừng quên người còn
Mấp mô số
phận vuông tròn
Đất không
thể nhốt linh hồn đòi yêu
Là em
nghĩ vậy thôi Kiều
Sánh sao
đời chị ba chiều bão giông
Con đò
đời chị về không
Chở theo
tiếng khóc đáy sông Tiền Đường
Chị nhiều
hờn giận yêu thương
Vầng
trăng còn lấm mùi hương hẹn hò
Em chưa
được thế bao giờ
Tiết trinh
thương chị đánh lưà trái tim
Em thành
vợ cuả chàng Kim
Ngồi ru
giọt máu tượng hình chị trao
Giấu đầy
đêm nỗi khát khao
Kiều ơi ,
em đợi kiếp nào để yêu?
(Trương Nam Hương)
NỖI NIỀM
THỊ NỞ
Người ta
cứ bảo dở hơi
Chấp chi
miệng thế lắm lời thị phi
Dở hơi,
nào dở hơi gì
Váy em
xắn lệch nhiều khi cũng tình
Làng này
khối kẻ sợ anh
Rượu be
với chiếc mảnh sành cầm tay
Sợ anh
chửi đổng suốt ngày
Chỉ mình
em biết anh say rất hiền
Anh không
nhà cưả bạc tiền
Không ưa
luồn cúi không yên phận nghèo
Cái tên
thơ mộng Chí Phèo
Làm em
đứt ruột mấy chiều bờ ao
Quần anh
ống thấp ống cao
Làm em
hồn viá nao nao đêm ngày
Khen cho
con tạo khéo tay
Nồi này
thì úp vung này chứ xao!
Đêm nay
trời ở rất cao
Sương thì
đẫm quá, trăng sao lại nhoà
Người ta
… mặc kệ người ta
Chỉ em
tất thật đàn bà với anh
Thôi rồi,
đất lắm tiết trinh
Hồn em
nhập bát cháo hành nghìn năm
(Quang
Huy)
Lời ru con của người yêu cũ
Dừng chân
bất chợt, lắng nghe
Tiếng ru mới mẻ gọi về xa xôi
Điệu ru
quen thuộc bao đời
Mà xao xuyến,
mà bồi hồi tiếng ru
Một thời thân thiết dạo xưa
Người con
gái ấy bây giờ ru đây
Tròng trành
tiếng gió tiếng mây
Nưả ru bé ngủ nưả lay gọi lòng
Con
thuyền nói với dòng sông
Cánh cò
nói với mênh mông nắng chiều
Thời gian
nói với tình yêu
Buồn vui
lại nói những điều buồn vui
Xin đừng
ai nưã như tôi
Chuyện
không đâu để buì ngùi tháng năm
Hẳn như
cách trở xa xăm
Thì tôi ru khẽ ru thầm cùng em
Ngủ yên
cho bé ngủ yên
Và người
cha ấy vững bên chiến hào
Qua bao
sông rộng núi cao
Tiếng ru
dẫu ở nơi nào cũng thương
Chẳng làm
con nhện tơ vương
Bao con
đường vẫn một đường quanh nôi
Lời ru
như lưả bừng soi
Bên nhau
ấm những cuộc đời chia xa
Để lòng
mãi mãi thiết tha
Để cho ai
đó vượt qua chính mình
Vô tình, tôi
nhặt được ba bài Lục Bát cùng thể hiện những nỗi niềm, những tâm sự, những số
phận phụ nữ. Trương Nam Hương làm người đọc giật mình (chữ cuả Nguyễn Du), vì
bấy lâu nay ta đã bỏ quên mất Thuý Vân. Nguyễn Du đã quá chú ý đến Kiều mà hy
sinh Thuý Vân, chẳng lẽ người đọc lại vô tình với nàng? Nguyễn Du miêu tả Thuý
Vân là người phúc hậu, nàng được hưởng trọn vẹn hạnh phúc, suốt đời vô tư. Người đọc cũng lầm tưởng như thế. Trái lại, Trương Nam Hương hé
mở số phận bi đát cuả Thuý Vân và lên tiếng nói cho nàng. Tiếng kêu
thương ấy dường như vang mãi trong vô vọng!. Thị Nở cũng là một số
phận như vậy. Một con người dở hơi. Dở hơi là vô tư, là không biết nghĩ, không biết
buồn và không có nhu cầu sống hạnh phúc? Nhưng Thị là một con người, hơn nữa là một phụ nữ, Thị có quyền sống
và khát khao hạnh phúc như mọi người. Tiếc thay, Thị đã bị
vùi dập chẳng khác gì Chí Phèo. Quang Huy đã viết được những câu rất hay về Thị,
tiếp sức với Nam Cao, trả lại cho Thị chút phận người. Ở bài Lời Ru Con Cuả Người
yêu Cũ, Phạm Ngà vẽ nên những hình ảnh đẹp mơ hồ về người phụ nữ, về người
chồng chiến đấu, về tương lai con trẻ và cái tình riêng cuả nhân vật trữ tình. Những tưởng ngòi bút Phạm Ngà sẽ đưa người
đọc đi mãi vào thế giới lãng mạn cuả tâm hồn, ở đó, mọi giá trị cuộc
sống bị vượt qua chỉ còn lại cuộc tình cuả “cái tôi“. Nhưng kết thúc bài thơ là
một câu thật bất ngờ, tuyệt hay về tình ý, sáng lên tiếng nói lương tri. Đó là
cái đẹp cần phải có. Câu thơ có sức làm bừng tỉnh người đọc, về cái
tôi và cuộc sống xung quanh. Xung quanh ta có bao nhiêu người sống
đẹp, ta không thể ích kỷ nhỏ nhoi…
Để lòng
mãi mãi thiết tha
Để cho ai
đó vượt qua chính
mình
3. Lục Bát thế kỷ XX có gì mới?
Đoạn
Trường Tân Thanh (truyện Kiều) là đỉnh thi sơn, là ngôi đền thiêng
Lục Bát Việt Nam đầu thế kỷ 19. Thế giới ấy, ngôi đền ấy là nghệ
thuật, là tâm thức và là tiếng nói Việt. Nguyễn Du với Lục Bát trở thành biểu
tượng thành tựu nghệ thuật cuả dân tộc Việt, trở thành niềm tự hào cuả một dân
tộc giàu lòng nhân ái, vượt lên mọi thăng trầm cuả lịch sử bằng vẻ đẹp nhân văn
sáng trong như ngọc quý.
Thế kỷ XX
là thế kỷ cuả bao nhiêu trào lưu phương Tây tràn vào Việt Nam mà
nhiều
nhà thơ Việt Nam đánh mất mình trong đấy. Bùi Giáng
khẳng định: “Chúng ta quen thói ngóng chạy theo đuôi mọi thứ trào lưu chủ
nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để
thể hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm
châu bốn biển ba bảy sông hồ“ (Thi Ca Tư tưởng) .
May thay,
Lục Bát Việt Nam vẫn là một cõi trời mênh mông mà những nhà thơ tài
hoa Việt Nam tiếp
tục toả sáng những sắc màu rực rỡ, mới mẻ, truyền thống và hiện đại.
Đầu thế
kỷ XX phải kể đến Tản Đà. Ông có những bài Phong Dao thật đặc sắc.
Những bài ấy dùng tình ý và ngôn ngữ ca dao để nói những cảm thức mới.
Ngòi bút Tản Đà nhuần nhuyễn và tinh tế, lãng mạn và tài hoa đáng kinh ngạc.
Tản Đà đã mở ra cách sử dụng chất liệu ca dao để làm thơ Lục Bát mà
sau này nhiều nhà thơ kế tục.
Con cò lặn lội bờ ao
Phất
phơ đôi giải yếm đào gió bay
Em
về giục mẹ cùng thầy
Cắm
sào đợi nước biết ngày nào trong ?
Con
cò lặn lội bờ sông
Ngày
xanh mòn mỏi , mà hồng phôi pha
Em
về giục mẹ cùng cha
Chợ
trưa, dưa héo nghĩ mà buồn tênh
(Tuyển
tập Tản Đà, nxb Văn Học 1986)
Thề Non
Nước là một thành công khác về Lục Bát cuả Tản Đà. Bài thơ vưà có khí vị cổ
điển vưà mở ra chân trời lãng mạn cho thi ca giai đọan sau.
Thơ Lục Bát
cuả những nhà thơ Lãng Mạn (19301945) mới mẻ ở “cái tôi“ cuả nhà thơ Tiểu Tư
Sản. Ngôn ngữ thơ trau chuốt, đạt đến sự tinh tế hiếm có trong nghệ thuật diễn
tả những rung cảm lãng mạn cuả tâm hồn (Ngậm Ngùi – Huy Cận..). Lục Bát Lãng
Mạn có chất giọng riêng. Cho đến nay Lục Bát Lãng Mạn vẫn giữ nguyên cái hay
mặc dù đã qua trên nưả thế kỷ. Ta có thể nhặt ra nhiều hạt châu ngọc
như Ngậm Ngùi (Huy Cận), Thơ Sầu Rụng (Lưu Trọng Lư); Luỹ Tre Xanh, Rằm Tháng
Giêng (Hồ Dzếnh), Huế Đa Tình (Bích Khê), Bến Hàn Giang (Hàn Mặc Tử), Đan
Áo Cho Chồng (T.T.Kh), Gửi T.T.Kh (Thâm Tâm) ...Trong bầu trời Lục Bát Lãng
Mạn, Nguyễn Bính là một nhà thơ rất mực tài hoa. Chân Quê, Lỡ Bước
Sang Ngang, Tương Tư, Người Hàng Xóm … làm xúc động bao nhiêu tâm hồn người đọc.
Giai đọạn
kháng chiến chống Pháp. Lục Bát phát triển theo một hướng khác. Văn hoá văn
nghệ phục vụ công nông binh. Lục Bát gần với Vè kể chuyện, rất ít chất thơ. Chẳng
hạn, Kể Chuyện Vũ Lăng (Anh Thơ); Tình Tháp Mười (Bảo Định Giang) ...Thời
này, đa số các nhà thơ làm thơ tự do, rồi chen vào câu Lục bát. Bài Ca Vỡ Đất,
Bao Giờ Trở Lại (Hoàng Trung Thông); Bầm Ơi; Sáng Tháng Năm (Tố Hữu).
Lục Bát
cuả Tố Hữu giai đoạn này (tập thơ Việt Bắc) và cả giai đoạn sau (tập Gió Lộng;
Ra Trận; Máu và Hoa, Nước Non Ngàn Dặm) có nét chung này: Tố Hữu sử dụng ngôn
ngữ biểu cảm cuả ca dao, ông đưa vào thơ hình ảnh quần chúng, nói cái giọng
quần chúng, nói cái tình kháng chiến, tình công dân. Cái tôi chuyển hoá thành
cái ta, thơ ông hướng về quần chúng mà kêu gọi, động viên, chia xẻ. Trong
thơ, Tố Hữu hay gọi “ơi“. Lối viết này rất nhiều nhà thơ đi sau ông
bắt chước, thậm chí ảnh hưởng đến tư duy cuả cả giai đoạn thơ kháng chiến
chống Mỹ ở miền Bắc.
Bầm ơi có
rét không bầm
Heo heo
gió núi, lâm thâm mưa phùn
(Tố
Hữu-Bầm Ơi)
Cháu ơi
cháu lớn với bà
Bố mày đi
đánh giặc xa chưa về
Sáng hè
đẹp lắm em ơi
Đầu non
cỏ lục mặt trời vưà lên …
…Nỗi niềm
chi rưá Huế ơi
Mà mưa
xối xả trắng trời Thưà Thiên
(Tố Hữu -
Nước Non Ngàn Dặm)
Thành phố
ơi! cám ơn nhjiều
Cho tôi
hiểu suốt hai chiều tâm tư
(Hoài Anh
–Bài Thơ Tình Thành Phố)
Tôi về xứ
Huế mưa sa
Em ơi
Đồng Khánh đã là ngày xưa
(Nguyễn
Duy – Nhớ Bạn)
Anh là
thực đấy anh ơi
Trong em
sáng một mặt trời thương yêu
(Phan Thị
Thanh Nhàn – Không Đề)
Xoá nhoà
ảo tích, em ơi
Chỉ còn
đọng lại mảnh trời lá xanh
(Bửu
Khánh Hồ - Lá Nõn)
Những bài
Lục Bát thực sự thành công cuả Tố Hữu không nhiều. Việt Bắc vận dụng được lối
giao duyên cuả ca dao, Kính Gửi Cụ Nguyễn Du đặc sắc ở nghệ thuật đối thoại với
Nguyễn Du về những vấn đề Tố Như gửi gắm trong thơ. Mẹ Suốt phát triển thể Vè
cuả ca dao, có phong vị lãng mạn và hơi thơ anh hùng ca. Luy Lâu là cảm thức
lịch sử về hai bà Trưng, có hơi thơ anh hùng ca. Lục Bát Tố Hữu gần
với Ca hơn là Thơ và có nét riêng. Nội dung
rao truyền Cách Mạng, tình cảm Cách Mạng, tình công dân.
Chất liệu là hiện thực cách mạng. Tính hiện
đại, tính chính trị, tính quần chúng là phẩm chất chính cuả Lục Bát
Tố Hữu (cũng là cuả thơ Tố Hữu). Nói cho đúng, Tố Hữu chỉ dùng Lục Bát như một
phương tiện chuyển đạt nội dung chính trị, dùng Lục Bát để nói
với quần chúng công nông binh, nói tiếng nói công nông binh, bởi vì
Lục bát hoà thanh dễ lọt tai, dễ nhớ, dễ thuộc. Ông không
sáng tác những bài thơ Lục Bát nghệ thuật. Tuy vậy, những bài Lục Bát cuả Tố
Hữu có những đóng góp nhất định vào sự phát triển cuả thơ Lục Bát
thế kỷ XX.
…Trường
sơn, xẻ dọc, rọc ngang
Xẻng tay
mà viết nên trang sử hồng
Trường
sơn, vượt núi, băng sông
Xe đi
trăm ngả chiến công bốn muà
Trường
sơn, đông nắng, tây mưa
Ai chưa
đến đó, như chưa rõ mình..
(Nước Non
Ngàn dặm – Tố Hữu)
Con
sông Dâu chảy về đâu
Mà
lơ thơ… đến Luy Lâu lại dừng
Cho
ta nhớ thuở bà Trưng
Chiến
thuyền giấu bến, cây rừng giấu binh
Luy
Lâu ngạo nghễ cung đình
Tàn
canh tiệc rượu…Giật mình sấm ran
Bốn
bề nổi lưả Văn Quan
Ba
quân gươm giáo ngập tràn thành đô
Chém
đầu Tô Định, giặc Ngô
Xác
phơi, chín chín đống mồ cỏ hôi
Hai
nghìn năm cũ qua rồi
Sông
Dâu nay đã cát bồi dòng xưa
Luy
lâu còn đó … gió mưa
Vẫn
nghe phần phật ngọn cờ Trưng Vương
(Tố Hữu-15.10.1986 - báo Văn Nghệ số 3-4/1987)
Lục bát
những năm trước và sau 1975 phát triển theo hai hướng: tiếp tục khai thác chất liệu
ca dao, thể hiện những tình tự dân tộc theo hướng Nguyễn Bính, hoặc phản ánh
đời sống, hướng về quần chúng, nói tiếng quần chúng, nói tình ý công dân, theo
hướng cuả Tố Hữu
LỖI
HẸN CÙNG CA DAO
Vườn
nay người khác đã rào
Khóm
mai thay chỗ khóm đào ngày xưa
Em
ngồi giặt áo giưã trưa
Đâu
rồi môi hát vu vơ một mình?
Em
ngồi giặt áo lặng thinh
Vò
cho sạch những vết tình còn vương
Phơi
cho khô hết nhớ thương xa vời…
Đàn
Kiều được mấy khúc vui
Thơ
Kiều có vận vào đời em chăng?
Tình
so chưa đủ ngũ âm
Áo
chồng con đã nặng oằn dây phơi
Áo
ca dao gió cuốn rồi
Câu
ca dao, trả cho người khác qua …
Tóc
mai rủ bóng hiên nhà
Chuyện
xưa dù nhắc vẫn là chuyện xưa
Em
ngồi giặt áo giưã trưa
Rát
bàn tay vẫn vò chưa sạch lòng
(Thanh Nguyên)
LỜI
RU ĐỒNG ĐỘI
Ngủ
đi bạn, ngủ đi anh
Cánh
tay mình ngả ra thành gối êm
Ngủ
đi bạn, ngủ đi em
Ngủ
ngon giấc ngủ gối lên tay mình
Hiếm
hoi cái giấc yên lành
Hành
quân xa, lại tiếp hành quân xa
Bao
anh lính trẻ đã già
Chưa
sang hết suối, chưa qua hết rừng
Ngủ
hầm, ngũ võng, ngủ bưng
Gối
đầu tay ngủ cầm chừng mỗi đêm
Có
người ngủ thế thành quen
Đã
nghe sợi tóc bạc trên tay mình
Trong
hầm biên giới Tây Ninh
Lặng
yên mình ngắm lính mình ngủ yên
Bụi
đường trắng tóc thanh niên
Má này thì lại áp lên tay này
Trái
tim đập ở cổ tay
Tim
ta ru giấc ngủ đầy cho ta
Cánh
tay cặp khẩu A.K
Ngày
là bệ súng, đêm là gối êm
Ngủ
đi anh, ngủ đi em
Ngủ
ngon giấc ngủ gối lên tay mình
(Nguyễn
Duy 8-6-1978)
Lục bát
cuả Hoàng Cầm (Gọi Đôi, Giả Vờ..) tuy tình ý không nồng nàn như
Nguyễn Bính song có được những tứ thơ lạ, cùng với nét tài hoa vốn có trong thơ
cuả ông. Trần Mai Ninh là một khuôn mặt thơ mạnh mẽ, gân guốc và rất lạ. Thơ
Lục Bát cuả ông cũng có được nét ấy (Lời Nương Theo Lòng Nắng Gió, Chờ Lưả,
Nhịp Muôn Đời (1)) Có người ca ngợi Lục bát Đồng Đức Bốn. Thực ra Đồng Đức Bốn
đi con đường Nguyễn Bính đã vạch ra (bài Hoa Dong Riềng, Nhà Quê; Chờ Đợi Tháng Ba …). Nhưng Đồng Đức
Bốn không có cái tài hoa cuả Nguyễn Bính, mà có cái sức cuả một anh lực điền, cố
sức cày sâu cuốc bẫm, cũng nhặt được hạt rơi hạt rụng. Bài sau đây chưa thành
thơ Lục Bát.
Cuối cùng
nếu phải ra đi
Em xin gửi lại những gì cho anh
Em xin gửi lại những gì cho anh
Anh dặn
em bấy nhiêu lời
Khi mang xuống mộ cùng người tri âm
Anh tặng em quả chuông chùa
Khi ba tiếng mở thì mưa bỗng rào…
Khi mang xuống mộ cùng người tri âm
Anh tặng em quả chuông chùa
Khi ba tiếng mở thì mưa bỗng rào…
(Đồng
Đức Bốn - Kính gửi anh Điềm)
Ở
miền Nam, Phạm Thiên Thư tiếp bước Nguyễn Du bằng Lục bát sang trọng, ngôn
ngữ trong veo. Lục Bát cuả Phạm Thiên Thư đạt tới sự hoà điệu cuả tiếng Việt
giản dị, tính tư tưởng cuả Thiền và chất trí tuệ cổ điển phương Đông. Hồn thơ Phạm Thiên Thư thật tinh khôi
…Đôi
uyên ương trắng bay rồi
Tiếng nghe tha thiết bên trời chớm đông
Nửa đêm đắp mảnh chăn hồng
Lại nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu
Tiếng nghe tha thiết bên trời chớm đông
Nửa đêm đắp mảnh chăn hồng
Lại nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu
Bùi Giáng
làm mới Lục bát bằng chữ nghiã trùng trùng điệp điệp, bằng sự đan
cài từ Hán Việt và thuần Việt, bằng tài hoa rất mực trong những lời
cợt đuà như con trẻ, nói chuyện không đâu mà thành tư tưởng. Thơ Bùi Giáng là
thơ tư tưởng. Kiểu ngôn ngữ Bùi Giáng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều nhà thơ
khác ở miền Nam đương thời
Chào em? có lẽ chẳng nên
Nói gì nữa cả? giữa đêm tối mò!
Chào em tính mệnh so đo?
Chào em tính thể tò mò tuyết vân?
Ấy xa xôi? ấy gũi gần?
Từ từ tự hỏi, tần ngần em sẽ thấy ra
Đi về trong cõi người ta
Người là người lạ ta là quá quen?
Anh từ thể dục dưỡng điên
Thành thân thơ mộng thiên nhiên một giờ
Chào em? có lẽ chẳng nên
Nói gì nữa cả? giữa đêm tối mò!
Chào em tính mệnh so đo?
Chào em tính thể tò mò tuyết vân?
Ấy xa xôi? ấy gũi gần?
Từ từ tự hỏi, tần ngần em sẽ thấy ra
Đi về trong cõi người ta
Người là người lạ ta là quá quen?
Anh từ thể dục dưỡng điên
Thành thân thơ mộng thiên nhiên một giờ
(Bùi
Giáng - Chào Em)
Du Tử Lê
thử nghiệm cách tân Lục Bát, bằng cách dùng nhịp lẻ, nhịp
chỏi, ngắt câu, xuống hàng,dùng dấu phẩy (,), dấu gạch nghiêng
(slash). Du Tử Lê cũng có những bài Lục Bát thành công như Chân Dung, Cõi Tôi,
song với lối cách tân ấy, Du Tử Lê đã băm nát nhịp thơ, làm bầm dập
Thi thể, Lục Bát thành ngọng nghịu
quá đỗi.
thắp thêm nến. Gọi vai về
dấu môi Bồ Tát, lá, lìa Austin
biển lần theo chân Quán Âm
ngón tay tràng hạt, nhang, đèn, phố, lu
tóc thơm ngực, múi khuya, mù
trái vun ấn tượng; nẫu lìa, biệt đen.
thắp thêm nến. Giới định, thiền
giải oan chuông, mõ; xóa kinh điển, người
gửi thêm đời, muộn, chút tôi
rớt trên lục tự; rũ ngoài tam quan.
thắp thêm nến. Nhiễu tâm phiền
gió, thâm, tím ngọn, cây tiền thân, mưa.
(Khúc Tháng Hai, Chín Sáu – Du Tử Lê)
dấu môi Bồ Tát, lá, lìa Austin
biển lần theo chân Quán Âm
ngón tay tràng hạt, nhang, đèn, phố, lu
tóc thơm ngực, múi khuya, mù
trái vun ấn tượng; nẫu lìa, biệt đen.
thắp thêm nến. Giới định, thiền
giải oan chuông, mõ; xóa kinh điển, người
gửi thêm đời, muộn, chút tôi
rớt trên lục tự; rũ ngoài tam quan.
thắp thêm nến. Nhiễu tâm phiền
gió, thâm, tím ngọn, cây tiền thân, mưa.
(Khúc Tháng Hai, Chín Sáu – Du Tử Lê)
Lục Bát
hay là ở nhịp điệu tự nhiên như hơi thở, như lời nói. Nhạc cuả Lục Bát là nhạc
cuả tiếng Việt đa thanh mượt mà, với rất nhiều từ láy, từ ghép.
Nhạc cuả Lục Bát là nhạc cuả tâm hồn Việt, bình dị nhưng cao vời.
Nhạc cuả Lục bát là nhạc cuả hình tượng, không phải nhạc cuả kỹ thuật dấu phẩy
(,). Xin thử lắng nghe câu thơ Kiều:
Cánh
hồng bay bổng tuyệt vời
Đã
mòn con mắt phương trời đăm đăm
(Nguyễn Du)
Giai điệu
vút lên, liền mạch, bay bổng, xa thẳm trời xanh muôn trùng, không thể là nhịp
chỏi, nhịp lẻ. Nhạc thơ ấy không thể dùng dấu phẩy mà ngắt ra.
Bởi nếu chặt khúc câu thơ, cánh hồng sẽ gẫy và con chim hồng
tuyệt vời ấy sẽ rơi xuống đất, chết cùng với Lục bát. Cũng vậy con mắt đăm đăm
là con mắt nhìn mãi về xa xăm, làm sao cắt khúc được sự dõi theo không cùng ấy
cuả tâm thức?
Có
những cách làm mới Lục Bát bằng thơ ngắt dòng, thơ bậc thang. Nhưng
Đó chỉ là mới cái dáng vẻ câu thơ, không tạo ra được cái mới nghệ thuật cho Lục Bát.
LỤC
BÁT Ở ĐÈO NGANG
Dập
dềnh bóng núi. Đèo Ngang
Mình
ta
Với
nỗi buồn vàng
Trong
tay.
Đường
xa
Chim
mỏi cánh bay
Chở
theo
Một
khối tình đầy
Long
đong
Qua
vùng nước trắng mênh mông
Tàu
trôi
Ta
cũng bồng bềnh trôi theo
Bướm
non tơ
Khóc
trong chiều
Vẫy
tay
Gửi
một lời yêu
Lỡ
làng
Thôi
thì thôi
Nỗi
buồn vàng
Thả
ta xuống đỉnh trời hoang
Một
mình..
(Phạm
Thị Ngọc Liên -19-10-1990)
VIẾT
TRONG QUÁN CÀ PHÊ
Ly
cà phê nữa
tỉnh
mê
Từng
đôi sớm biết đi về có nhau
Còn
em
lãng
đãng đi đâu
Anh
về
so
sẫm
đũa màu
gỗ
mun
Trơ
vơ riêng chiếc bữa thường
Qua
phin hồng hạnh
giọt
buồn lọc mau
Ai
nhường nưả giọt chung màu
Cho
tôi tỉnh táo khuấy sầu
tan
chăng
(Hoàng
Cầm - 1992)
Gần đây,Trần
Ngọc Tuấn viết Lục Bát Tứ Tuyệt với tư tưởng Thiền. Đó là một chọn lưạ không dễ
dàng chút nào. Tứ Tuyệt có độ nén rất cao. Ca dao lại vút đi rất nhanh trong sự
phát triển tứ thơ. Và không dể để chuyển hoá tư tưởng Thiền thành một tứ thơ
vừa thanh thoát mượt mà Lục Bát, vừa uyên bác trí tuệ
Tứ
Tuyệt. Qua Dốc Sương Mù của Trần Ngoc Tuấn là một thành công bước đầu.
Gánh
củi qua dốc sương mù
Mồ
hôi giọt giọt, gió ù ù bay
Nghìn
tia nắng dệt trang ngày
Bước
chân hoan hỉ, đêm này lửa reo
(tập
thơ Suối Reo - Nxb Hội Nhà Văn 2006)
Những nhà
thơ trẻ như Nguyễn Việt Chiến (Tiếng Trăng, Cát Đợi..), Nguyễn Thế Hoàng Linh
(Bến, Khẩu Vị, Chuyển Hoa, Tinh Mơ..) có chạm đến Lục Bát, nhưng
hồn thơ chưa định hình.
TRẢI
CHIẾU NGẮM TRĂNG
cụ bà trải chiếu giữa sân
cụ ông đập đập hai chân vào ngồi
chán ghê hết thuốc lào rồi
trưa vừa rào lại đấy thôi quên à
tôi bảo hết thuốc lào mà
vừa cơm xong nấu cháo gà gì ông
điếc rồi thế có chán không
cụ bà trải chiếu giữa sân
cụ ông đập đập hai chân vào ngồi
chán ghê hết thuốc lào rồi
trưa vừa rào lại đấy thôi quên à
tôi bảo hết thuốc lào mà
vừa cơm xong nấu cháo gà gì ông
điếc rồi thế có chán không
giờ này
còn định ra sông tắm trời
ông đúng là đồ dở hơi
dở hơi mà lại biết bơi đấy bà
ông bảo gì mà cháy nhà
phỉ phui cái miệng không là chết oan
ông đúng là đồ dở hơi
dở hơi mà lại biết bơi đấy bà
ông bảo gì mà cháy nhà
phỉ phui cái miệng không là chết oan
(Nguyễn
Thế Hoàng Linh 16.6.07)
4. Ai đã đặt chân vào đền thiêng Lục bát?
Người ngồi
trong đền phải là nhà thơ mà Lục bát là sự chọn lưạ cho sự nghiệp cuả mình,
phải có được nhiều bài Lục bát hay (2), phải có những đóng góp làm phát triển
Lục Bát. Và nhất là phải viết được những trường ca Lục Bát có giá trị. Chính
trường ca Lục Bát khẳng định tài năng cuả nhà thơ. Những nhà thơ chỉ tạt ngang hoặc chợt rẽ vào
Lục Bát, vốn sống và vốn từ nghèo nàn, sẽ chết yểu trên đường tìm
vần, sẽ chẳng đủ tình, đủ ý, đủ hơi sức sáng tạo trên con đường càng đi càng
dẫn đến tuyệt lộ.
Nguyễn
Du là người giữ đền, không phải là người xây đền, vì trước Nguyễn Du,
Thiên Nam Ngữ Lục đã là một toà nhà đồ sộ (8.136 câu Lục Bát).
Nguyễn Du làm cho Lục Bát trở thành đền thiêng cuả thi ca dân tộc.
Tiếp
theo, Nguyễn Bính là người bước chân vào đền và ngồi chiếu trên,
vì ông có riêng một góc trời Lục Bát không bị Nguyễn Du che lấp. Tất nhiên Lục
Bát Nguyễn Bính không thể sánh được với Lục Bát Đoạn Trường Tân Thanh.
Tố Hữu
ngồi ở một chiếu khác, Lục Bát Tố Hữu chuyên chở được đời sống hiện
đại, đời sống dân tộc trong kháng chiến (Việt Bắc, Nước Non Ngàn Dặm, Mẹ Suốt..).
Điều mà Nguyễn Du đã không làm được trong thời đại cuả ông. Lục bát Nguyễn Du
không chuyên chở được những biến đổi bể dâu thời Lê-Trịnh-Gia Long,
không ghi lại được những trang hào hùng cuả dân tộc khi Nguyễn Huệ
phá tan quân Thanh 1789.
Người
ngồi ngang hàng với Nguyễn Du là Phạm Thiên Thư. Ông đã
viết 20.000 câu Lục Bát. Đoạn Trường Vô Thanh cuả ông dài hơn truyện Kiều cuả Nguyễn
Du 20 câu. Đưa Em Tìm động Hoa Vàng là một trong những Lục bát tình hiện đại
tuyệt hay. Phạm Thiên Thư sáng tác bằng vô thức, cõi vô thức đã đạt tới bước
đại ngộ cuả Thiền.
Bùi Giáng
là người phá đền và xây mới bằng những câu Lục Bát nghịch ngợm tài hoa, như
không thể nghịch ngợm tài hoa hơn (3).
Còn ai nữa đã bước vào đền, xin bạn đọc bổ khuyết cho…Lục
Bát là cõi trời mênh mông của thi ca
dân tộc. Thế kỷ XXI ai sẽ là người bước vào ngôi đền thiêng ấy? ai
sẽ khai mở được những lối đi mới vào đền? Tôi chưa thấy được bóng dáng nhà thơ
trẻ nào hôm nay chuẩn bị cho hành trình bay vào cõi trời mênh mông
ấy.
Xin
đọc thêm;
(1) Trần Mai Ninh - Nxb Văn Học 1980. tr
73 -74
(2) Bùi Công Thuấn – Đi tìm thơ hay
www.vannghesongcuulong.org. (tháng
5/2007)
(3) Bùi Công Thuấn - BÙI
GIÁNG, AI NGƯỜI CHIA XẺ
Tháng
8/ 2007
Bùi
Công Thuấn
đại lý vé eva air
vé máy bay khứ hồi đi mỹ giá rẻ
hãng máy bay hàn quốc
mua vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch