Nhà thơ Trương Đăng Dung - Trôi chảy cùng
dòng sông thời gian để truy vấn tồn tại người
Sự
ghi nhận của nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy, thơ Trương Đăng Dung là thơ
thời gian, thời gian ở bên trong con người, thời gian là chính con người, so với
thời gian thơ mới là thời gian ở ngoài con người, và Trương Đăng Dung là con
người của hiện tại, đó dường như là những phát hiện chính xác nhất về thơ
Trương Đăng Dung.
Anh
không thấy thời gian trôi
chỉ
thấy những đám mây di chuyển
và những
chiếc lá vàng không muốn lìa cây
gió
rung, lá rơi còn vẫy vẫy.
(Anh
không thấy thời gian trôi)
“Di
chuyển”, không muốn lìa”, “vẫy vẫy”, đó là ý muốn và sức sống của con người mà
nhà thơ nhìn thấy trong vạn vật. Qua các hình tượng thiên nhiên mây, lá,
cây, gió cùng các trạng thái của nó, tác giả đã vẽ ra sự vận hành của một
đời người, khát vọng sự sống và tình yêu của họ. Nhà thơ xưng anh như
đang nói với người tình, và tình yêu là nơi duy nhất xứng đáng để nhà thơ nương
nhờ và đối thoại. Câu thơ bâng khuâng, da diết, lạ, mối quan tâm của nhà thơ
thuộc về vĩnh cửu. Vấn đề thời gian cũng là vấn đề tồn tại bao quát chi phối tất
cả mọi đời người. Ý chí của thi sĩ ráo riết muốn lùng tìm bóng dáng của thời
gian và sự cứu rỗi.
Tiếp
tục truy tìm bóng dáng của thời gian, nhà thơ bắt gặp những dấu vết của con người
(lá thư, dấu chân ta) giữa thời gian (cơn mưa), nhưng dần theo năm tháng lá thư
cũng đã bạc màu, còn dấu chân thì bị bôi xóa. Những dấu vết nhỏ nhoi để lưu dấu
con người cũng không còn nữa, ta chếnh choáng trong cơn say nhạt nhòa, hãi sợ
vì sự biến mất của chính mình. Màu sắc, thanh âm, hình thể không còn gì; sự biến
mất, hủy hoại xảy ra trong từng khoảnh khắc. Ta chới với trong bàng hoàng, thảng
thốt:
Anh
không thấy thời gian trôi
chỉ
thấy mùa thu vừa lạ vừa quen
những
gương mặt những nụ cười mới gặp
chưa
kịp thân đã thấy khác đi rồi.
Những
thanh trắc như những điểm nhấn thảng thốt, hoang hoải đi tìm chân tướng của thời
gian và sự tồn tại. Trương Đăng Dung suy tư về thời gian qua số phận, sự sống,
tình yêu và sự tồn tại cụ thể của một con người là bản thân thi sĩ. Xét cho
cùng mọi thứ trong thời gian đều biến động vi tế và chỉ có tính chất tương đối.
Ai hiểu được thời gian là bí ẩn vô bờ làm biến dạng mọi vật, thì họ sẽ không
kiêu ngạo, tự tôn về mình. Bởi Kinh Thánh đã nói con người chỉ là những xác
phàm, có thể bị hư nát chỉ vì một cơn gió! Thơ Trương Đăng Dung chân thật, đầy
sức nặng, như bản chất của tồn tại và sự thật.
Mỗi
ngày trôi qua đều rút ngắn của con người sự sống, và dù có cố gắng truy hỏi họ
cũng chẳng bao giờ biết được thời gian là gì. Thời gian nuôi nấng mọi vật, bảo
bọc ôm chứa và cũng đẩy vạn vật đến sự lụi tàn. “Sợi tóc rụng bàn tay nào giữ
được”. Anh không thấy thời gian trôi, điệp khúc ấy đã dẫn tới nỗi buồn và
niềm luyến tiếc sâu xa đối với sự tồn tại của kiếp người. Con người ngẩng lên đối
thoại với trời xanh rồi lại cúi xuống thân phận mình nhỏ bé, và khôn nguôi khát
khao một giá trị đời mình. Thơ Trương Đăng Dung có cái nhìn u buồn tĩnh lặng của
người đàn ông từng trải, đã trả giá, đớn đau vì cuộc sống.
Anh
không thấy thời gian trôi
thời
gian ở trong máu, không lời
ẩn
mình trong khóe mắt, làn môi
trong
dáng em đi nghiêng nghiêng như đang
viết
lên mặt đất thành lời
về kiếp
người ngắn ngủi.
Khổ
thơ cuối của bài thơ bừng dậy một sắc màu và ánh sáng tươi mới. Nó rộ lên, xô
nghiêng mặt đất; con người đã khát vọng, đã viết, rạch lên mặt đất dấu ấn bất tử
của mình. Kiếp người là hữu hạn, nhưng vẫn có ánh sáng, niềm hân hoan được sống
- thi sĩ muốn ta sớm nhận ra điều đó để tự cứu rỗi chính mình. Đây là một bài
thơ tiêu biểu về tính triết lý và nhạy cảm của thơ Trương Đăng Dung. Tâm thế của
người viết đứng bên trên sự sống nhìn nhận về sự sống, tin tưởng tuyệt đối rằng
ngôn từ nghệ thuật và giá trị tinh thần sẽ chiến thắng được thời gian. Không gì
minh triết và hiền từ như những vần thơ Trương Đăng Dung. Ngôn từ chắt lọc, giản
dị, biếu cảm, chân thật và tinh tế như sự sống, nhưng lại thành thật đến cục mịch
với chính mình! Nhà thơ đang nhìn vào bên trong con người, nhìn vào trong chính
mình để nói. Những từ ngữ lăn tròn như một giọt máu; có giọt máu nào không đáng
quý đâu?
Một
khía cạnh rất nhỏ nhưng có giá trị và rất đáng chú ý trong thơ Trương Đăng Dung
là đề tài tình yêu. Tình yêu không đứng riêng để tự nói về mình, mà tình yêu đứng
chung trong cuộc đời để nói về cuộc đời. Trương Đăng Dung là một nhà thơ rất đa
tình và tinh tế với tình yêu. Tình yêu trong thơ ông ẩn kín ở rất nhiều vỉa tầng
sâu thẳm, song rất diễm lệ, son sắt, như nhất và chung thủy. Ta hãy đọc bài thơ Ảo
ảnh:
Bao
năm rồi anh tìm em
trong
những bình minh không có mặt trời
trong
những lâu đài chỉ có cánh dơi
trong
những giấc mơ không đầu không cuối.
Vẫn
là anh nói với em, đó là một phong thái trữ tình, một tư thế rất
Trương Đăng Dung. Anh và em đối thoại trong im lặng, và một
tình yêu mặc định là khát vọng bất tử của sự tồn tại linh hồn. Tình yêu trong
bài thơ là một cuộc kiếm tìm, bằng thời gian và niềm mong đợi. Sự tưởng tượng
thăng hoa. Cái gì mà chẳng có thể. Sự phi lý rung rợn đã bắt đầu. Bình minh
không mặt trời, lâu đài vắng người ở, giấc mơ - cơn hoang tưởng không đầu không
cuối, nhưng có một khát vọng - sợi chỉ đỏ của tình yêu hạnh phúc là căn nguyên
của một cuộc kiếm tìm trong ảo ảnh. Anh tìm em bằng niềm tin son sắt và khát vọng
tinh thần, sự kiếm tìm cũng thể hiện niềm suy tưởng và ước mơ về giá trị tinh
thần là cái cao cả và kiêu hãnh nhất của tồn tại. Tinh thần thống trị đời người.
Em là hiện thân của tình yêu, cái duy nhất vô giá đáng sống. Đây là một lý lẽ rất
riêng biệt và tuyệt vời của nhà thơ Trương Đăng Dung. Những ai may mắn được
giác ngộ tận cùng, người ta mới nhận ra tình yêu đôi lứa là cái duy nhất mà người
ta đáng sống. Vì tình yêu có thiên tính bất tử hóa con người. Tình yêu đồng
nghĩa với tồn tại và cứu rỗi.
Giấc
mơ về hạnh phúc mới vừa hé mở đã gây hoang mang vô định, dù cho cuộc kiếm tìm vẫn
tiếp diễn:
Anh hỏi
dòng sông về hạnh phúc trên đời
sông
trả lời anh sông chỉ biết trôi,
anh hỏi
ngọn núi
núi
trả lời anh núi chỉ biết ngồi,
anh hỏi
con người
người
trả lời anh bằng nước mắt rơi!
Vẫn
là tâm thế của con người muốn đi tìm quy luật của sự tồn tại và sự cứu rỗi. Con
người quan tâm kiếm tìm hạnh phúc, nhưng thiên nhiên yên lặng vô thường và vĩnh
cửu trong sự tồn tại của nó. Sông trôi, núi ngồi, nước mắt rơi: sự bất lực,
mệt mỏi, và chấp nhận những quy luật. Ngay cả con người sứ mệnh là sáng tạo
cũng chỉ biết rơi nước mắt vì số kiếp. Nhà thơ dường như muốn đi đến tột cùng bản
chất của sự tồn tại và ý nghĩa đời sống.
Thôi
em đừng khóc
rồi sẽ
qua đi kiếp người ngắn ngủi,
một
ngày kia hết mọi buồn vui
chui
xuống cỏ ta sẽ nằm dưới cỏ
bàn
tay ta bất động giữa đất dày
bàn
tay ta thôi tìm nhau run rẩy.
Điều
kỳ diệu trong thơ Trương Đăng Dung là ông đồng hành với con người nhưng lại cao
hơn con người một bước, và ông an ủi được con người. An ủi con người bằng niềm
an ủi vĩnh cửu, không ngần ngại vẽ ra một viễn cảnh bi đát cho ngày sau. Nhưng
dù ngày ấy có đến cũng không đáng sợ. Thơ Trương Đăng Dung rất riêng biệt ở chỗ,
nó định vị sự tồn tại, kêu gọi sự chấp nhận, thấu hiểu và đi qua sự tồn tại để
đến với chung cuộc. Ngoài sự tồn tại và chung cuộc, nó không có thiên đường địa
ngục, kiếp trước kiếp sau, không một giấc mơ uy nghi phù phiếm. Mà sự thật là
con người ta chỉ sống được phần đời ngắn ngủi, rồi phần lớn cuộc đời là chuẩn bị
cho cái chết của mình. Cũng tuyệt nhiên không ai chia sẻ cái chết với mình được.
Ông viết cho sự sống và cho cả cái chết nữa. Những hành vi yêu thương rất đỗi
con người, thân thuộc, gần gụi, nhưng cũng bộc lộ nhiều sợ hãi và bất lực khi
con người sẽ biến mất giữa thời gian nghiệt ngã. Giá trị lớn nhất của gia tài
thơ Trương Đăng Dung là sự cảnh báo với con người về cuộc đời ngắn ngủi và tàn
bạo. Cảnh báo về kết cục thảm khốc nhỡn tiền để con người ý thức về sự tồn tại,
mà sống cho đúng nghĩa con người. Nghệ thuật lớn nhất của thơ Trương Đăng Dung
là điểm nhìn nghệ thuật của ông rất cao xa, luôn đứng bên trên con người nhưng
lại là chính con người để soi rọi về cuộc sống.
Em ở
lại
một lần
nữa cùng anh giữa mùa trăng sắp lụi
ta
cùng nghe tiếng muôn loài hấp hối
tiếng
côn trùng trong cát bụi sinh sôi.
Mối
yêu thương là sợi chỉ đỏ níu kéo lại tất cả, ở giữa sự tàn lụi và sinh sôi là
thế gian bất tận, không bao giờ dừng lại. Muôn loài, côn trùng, thiên
nhiên, lúc nào thơ Trương Đăng Dung cũng có những cái đó như là sự ám ảnh triền
miên không dứt. Như dở dang như nuối tiếc sự sống tình yêu hồi sinh tàn lụi. Dù
sao cuộc sống vẫn là nơi duy nhất đáng sống và tình yêu là báu vật duy nhất để
tôn thờ.
Anh
nhìn vào mắt em
thấy
hình anh ở đó
Nếu mắt
em khép lại
ảnh
hình kia chỉ còn lại trong em
anh
không còn thấy anh trong hiện tại
chỉ
thấy em với những hình những ảnh
của
mùa hè đang qua
một
góc vườn và mấy khóm hoa
chiếc
ghế bỏ quên cơn mưa mùa hạ
tóc
bà bạc xóa
thấp
thoáng bên khung cửa
Anh
chỉ tồn tại trong tình yêu, trong cái nhìn, trong hạnh phúc mà em soi chiếu. Nếu
em khép mắt, chết, từ chối nhìn, hoặc thờ ơ, không còn nhìn nữa, thì sự vật nào
lại trả về sự vật ấy, an nhiên, lặng phắc, cô đơn, tồn tại vô nghĩa lý. Tình
yêu chính là quan hệ tương hỗ, quy luật tình cảm, quy luật của yêu thương, gắn
kết người với người, anh với em. Nắng mưa khung cửa tóc bạc cùng những sự ngẫu
nhiên thầm lặng. Nếu mất em trên thế giới này thì anh cũng không còn tồn tại. Sự
vật chỉ có ý nghĩa khi ta cấp nó một ý nghĩa. Tứ thơ lạ, cao sâu, thâm thúy.
Thơ Trương Đăng Dung là những hình ảnh, liên tưởng đến độ phi lý, khó hiểu, như
một bức tranh sinh động bởi màu sắc, đường nét, ngôn từ nghệ thuật. Khung cảnh
cuối bài thơ gợi buồn và phai nhạt, xa vắng, không còn con người, cũng chẳng có
tình yêu nữa. Không gian như loãng ra, im ắng vô thường, câm lặng, như đã trôi
qua ngàn kiếp đời, không còn gì nữa cả.
Em ngồi
bên anh nhìn dòng sông
chảy
từ phía chân trời
đầy nắng,
mưa và gió.
(Trên
đồi Vọng Cảnh)
Thơ để
cảm, để hiểu, tri giác nhiều hơn là phân tích. Người ta thấy một văn bản đẹp và
người ta mổ xẻ bằng cảm nghiệm trong máu họ, vị tất nhiều lời. Lời thơ và hình ảnh
trôi chảy và rất thật, về một kiếp người sẽ bị lãng quên giữa thiên nhiên bao
la, bao trùm, lấn át. Con người thật nhỏ bé, thoảng qua, và không đáng kể.
Không
một cành khô, lá khô
sông
thanh thản kéo trời
trôi
theo mình lặng lẽ.
Không
mang theo những gì để trở thành bất tử
sông
chảy vô tư bên những lăng mộ im lìm
những
đền đài quạnh quẽ
Đang
mùa xuân hay đã sang hè
mà
hoa tím rụng đầy mặt nước
chảy
về đâu, sông ơi
Sao
chỉ thấy một con thuyền thấp thoáng?
Cái ý vọng
cảnh ấy cũng thể hiện phần nào tư tưởng của nhà thơ. Con người đứng ở cảnh
giới nào mà nhìn thế giới? Thế giới đẹp vô cùng. Dòng sông trong trẻo trôi êm đềm
lặng lẽ. Sông hay là chính con người? Dòng sông chính là giá trị của tình yêu
và văn hóa chảy mãi không ngừng về vô tận. Chảy như một điều trăng trối, giối
giăng. Bóng dáng và hoạt động của con người rất nhỏ nhoi, vô tăm tích. Người ta
nhận ra dòng sông cuộc đời vô định, những vết tích của con người rồi cũng không
còn nữa.
Em
nhìn anh và nhìn dòng sông
anh
có thực và dòng sông có thực,
anh
nhìn em và nhìn dòng sông
em có
thực hay dòng sông có thực?
Tôi
không hiểu đây là điểm nhìn, tầm nhìn của nhà thơ, hay chính nhà thơ đã trải
qua những niềm đau khổ ấy để suy tư về kiếp người. Về mặt nào đó thơ Trương
Đăng Dung là thơ tự vấn, hoài nghi, đi sâu vào mình, trưng bày cuộc đời dở
dang, sự tồn tại, như ảo ảnh. Nếu ta tĩnh tại và lắng sâu hơn một chút, ta sẽ
nhận ra những vần thơ Trương Đăng Dung vừa dịu dàng, nhẫn nại, vừa dữ dội, lạ
thường. Và đó thực sự là những vần thơ toàn bích. Các hình ảnh luân
chuyển, các khái niệm, các góc nhìn luân chuyển không ngừng soi rọi để tìm ra bản
chất của tồn tại, đi xuyên qua ảo ảnh. Anh tin vào em và tồn tại trong em,
nhưng anh không dám tin vào mình. Câu hỏi cật vấn về sự thật, sự hiện diện này
thực ra cũng liên can đến thời gian và tồn tại. Đó là một hệ thống nhất quán
trong thơ Trương Đăng Dung. Câu hỏi không mệt mỏi không ngơi nghỉ về sự tồn tại
đã tạo ra nội dung, môi trường và phong cách thơ Trương Đăng Dung. Hiền hòa
xuôi chảy, hiện thực và tồn tại, thời gian và sự sống; đó là những nỗi ám ảnh lớn.
Anh sợ
đến một ngày dòng sông ngừng trôi
đất
khô cứng, những giọt buồn hóa đá,
anh sợ
đến một ngày hồn anh từ cõi lạ
trở về
đây mà không có dòng sông.
Những
câu thơ đóng đinh như lời thề bằng đá. Khi ta không còn hình hài, trở về thăm
cõi thiên nhiên xưa, thì dòng sông dường như ngừng chảy, sự sống cũng không
còn. Mạch suy tư bỗng chững lại. Bởi vì dòng sông đã biến mất, cõi sống bỗng lạ
lùng, dừng lại, bãi bể dâu bồi, khung cảnh viễn tưởng, linh hồn cũng chẳng con
nơi trú ngụ, và nhà thơ đã đẩy tưởng tượng đi quá xa. Hình ảnh trong thơ Trương
Đăng Dung rất gần gụi chân thành xuyên suốt, ngôn từ chắt lọc tinh tường và thấm
đẫm chân thiện mỹ, tạo ra cho người đọc một niềm tin cậy vững chắc.
“Anh
chiếm chỗ bóng đêm” theo tôi là bài thơ tình yêu hay nhất trong thơ Việt Nam hiện
đại. Trước ánh sáng tình yêu và sự sống, thì bóng đêm, sự mờ ám và tàn lụi cũng
phải trốn chạy. Tình yêu chiếm lĩnh bóng đêm, ánh sáng huy hoàng dần dần xua
tan lạnh lẽo, tàn lụi và cái chết. Ánh sáng lấn dần bóng tối, sự sống lấn dần
cái chết, chỉ một niềm hạnh phúc, hân hoan tràn ngập.
Anh
nghe bóng đêm tan trên cơ thể em
bóng
đêm chạy trốn.
Những
khoảnh khắc trong đêm
những
đường cong như sóng vươn về phía trước
hơi
thở như gió
đắm
say và gấp gáp.
Đó là
một cuộc tranh đấu, giành giật của tình yêu với cái chết, sự tàn lụi và lãng
quên. Ai cũng có tình yêu, và đối với con người tình yêu là tuyệt diệu, nhưng
“nghe bóng đêm tan trên cơ thể em” thì đến thơ Trương Đăng Dung sao mà lãng mạn,
hiện sinh và đắm say đến thế. Từng phút giây tranh đấu để giữ lấy tình yêu và sự
sống, sự sống và tình yêu vươn lên như sóng. Bóng đêm như tên tội phạm, thần chết
chạy trốn, vì không thể chống đỡ.
Anh
chiếm chỗ bóng đêm
cơ thể
lún sâu đến kiệt sức
những
khoảnh khắc trong đêm
sâu lắng
và bí ẩn.
Bóng
đêm chạy trốn
Thủy
triều lên từng đợt, từng đợt
Bãi
cát mịn mượt mà dâng hiến.
Viết
về tình yêu mà hòa quyện đam mê rất con người. Vẫn là những khoảnh khắc bị ám ảnh. Cơ
thể lún sâu, kiệt sức, thủy triều, bãi cát mịn mượt mà dâng hiến, từng đợt, từng
đợt, nhà thơ phát hiện những đắm say thảng thốt và những sâu lắng bí ẩn
trong cuộc yêu, trong cuộc sinh tồn. Tình yêu như thế thật sâu sắc đậm đà ý
nghĩa. Lặp lại “bóng đêm chạy trốn” như khẳng định sự chiến thắng của tình yêu.
Là con người ai cũng có trái tim nên ai cũng có tình yêu và những sắc thái cảm
xúc. Nhưng tìm được cái tứ và viết lên ẩn dụ ngàn đời thì chỉ có nhà thơ mới
làm được.
Anh
chiếm chỗ bóng đêm
anh
gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông
để
cho em rạng rỡ.
Có cảm
tưởng đây là một cuộc leo núi, thật không còn gì lãng mạn, tình tứ và sâu sắc
hơn thế nữa. Hiểu cái nguyên cớ căn bản ở sâu bên trong người đàn ông, gom ánh
sáng tự ngàn đời để cho em rạng rỡ. Con người sống bằng các tế bào mà tổ tiên
truyền lại, cưu mang trong mình nòi giống, đam mê, tình yêu. Một tình yêu như
thế là tuyệt diệu, nhưng ở đây nhà thơ đặt nó trong thời gian, thiên nhiên tàn
nhẫn, tình yêu hiện sinh mà không thắng được cái hữu hạn hư vô. Làm sao ánh
sáng trong từng khoảnh khắc bằng sức lực nhỏ bé của con người lại thắng được
cái ngàn đời.
Có phải
chúng ta đang bị tự nhiên lừa
để
kéo dài sự sống?
anh vẫn
muốn bị lừa
để
chiếm chỗ bóng đêm
để có
em vĩnh viễn!
Ở đây
có nhắc lại ý của Schopenhauer, “tự nhiên lừa”. Nhưng đã là con người mang thể
xác hữu hạn thì phải tin tưởng, bám vào sự sống và những cái hiện tồn, tin vào
tình yêu và những khả năng cứu rỗi. Dù bị lừa, dù sự thật cuộc đời là hữu hạn,
vẫn ham muốn và khao khát được chiếm hữu tình yêu, vẫn tin vào sự tồn tại và sợi
dây yêu thương của kiếp người, vẫn đấu tranh không ngừng nghỉ để chiến thắng sự
tàn phai và cái chết, để được hạnh phúc hiện tồn và vươn đến ý niệm bất diệt.
Ai mới yêu đã không tin tình yêu là bất diệt thì thật là buồn. Nhưng tình yêu sẽ
không thắng được thiên nhiên, tình yêu chỉ là ý niệm bất diệt và cứu rỗi được
con người trong cõi sống. Tình yêu đã tuyên chiến, tách mình ra khỏi tự nhiên,
và muốn vươn đến ý niệm vĩnh cửu, đó là ý chí trường tồn của loài người. Mọi thứ
không tự dưng sinh ra mất đi mà chỉ biến đổi tự dạng này qua dạng khác. Thơ
Trương Đăng Dung cô đọng được hạnh phúc, sợ hãi, gắng gỏi, điên cuồng và nước mắt
vào trong một khoảnh khắc của tình yêu, đó là một tâm hồn và bản lĩnh lớn.
Bài
thơ Ánh sáng này là tình yêu này dịu dàng đằm thắm. Nó diễn trôi mọi
thứ, thì thầm về một đời sống tình ái nhưng vẫn nhuốm nỗi buồn. Trong dung nham
của tình yêu thương, người ta còn tồn tại và quên đi hữu hạn. Nhà thơ vẫn tập
trung vào ánh sáng. Ánh sáng tình yêu như ánh sáng của một vì sao chập chờn
hư thực, ánh sáng của một linh hồn. Tình yêu đam mê run rẩy, đắm say, cuồng siết,
thậm chí đến mức lẩn thẩn. Nhưng tình yêu chỉ còn khi có được anh và em, nếu
thiếu khuyết đi một, nhầm lẫn đi một, thì tình yêu không còn. Tình yêu giữ cho
thế giới không tan vỡ về mặt tinh thần, mà trường tồn và kế tục. Thơ Trương
Đăng Dung rất nhất quán về tư tưởng. Thế giới biển chuyển trong thời gian,
không còn cái hôm qua, mọi vật luôn sinh ra vô cùng tận, mãi mãi, tái sinh, cuồng
khấu.
Sau một
giấc say ngủ bừng dậy với niềm vui, sự sống, hy vọng cho mai sau. Sự tồn tại, cảm
nghiệm thời gian và nỗi buồn thân phận, cùng sự thành thật, đôi mắt nhìn thế giới
giữ được sự điềm tĩnh, dung dị, lắng sâu của muôn đời. Trương Đăng Dung chọn được
những điều cần nói, những hình tượng rất thơ được biểu đạt dưới sự tinh túy của
ngôn từ nghệ thuật. Điều đáng lưu ý là thế giới thơ Trương Đăng Dung thế giới
tinh thần, tư tưởng của con người; thiên nhiên có hiện ra thì rất nhỏ nhoi, thấp
thoáng, và chỉ hiện ra qua sự khúc xạ của con người. Nhiều cái tứ rất sâu rộng,
rất đời, có trường liên tưởng rộng, cao xa về triết học và điểm nhìn. Nếu không
có con người thì cái thiên nhiên ấy chẳng là gì cả. Ngôn từ, hình ảnh trong thơ
Trương Đăng Dung rất dung dị, ít gợi sự chú ý. Cái gợi sự chú ý trong thơ
Trương Đăng Dung chính là cái tứ, cái tứ sâu sa, sắc sảo, chân thành, thành khẩn
với chính mình, đối thoại với chính mình và muốn loan truyền cùng thế giới
thông điệp hãy yêu thương để cứu lấy sự tồn tại.
Sợ
bóng tối sẽ tràn vào
khi
em mở tung cửa sổ
cơ thể
chúng ta thôi rạng rỡ.
Sợ thời
gian rình trong từng sợi tóc
khi
môi ta rời nhau
hơi ấm
đã thuộc về quá khứ
(Vật
chứng)
Thơ
Trương Đăng Dung không dừng lại ở hạnh phúc, mà đi xuyên về phía sau hạnh phúc.
Cảm nhận về thời gian trong thơ Trương Đăng Dung là thời gian sự sống, nó gây bất
ngờ vì nó đúng. Các động từ rời, thôi, rình, thuộc, thuộc về trong
bài thơ trên là những biến đổi quá nhanh, theo thế tiệm tiến. Căn phòng trống
rỗng, xếp lại chăn màn, bước chân em đi xa dần, sỏi trong vường đang ngủ, không
ai biết về một tình đã từng diễn ra nơi đây. Anh hoang hoải, trống trênh với kỷ
niệm. Anh không tin vào ký ức của mình. Mục đích không là hạnh phúc, mục đích
là sự tồn tại, hiện tồn của bản thân hạnh phúc. Thử đặt mình vào bối cảnh đó ta
cũng thấy một nỗi buồn sâu đậm. Ta cứ tin tưởng ở bề mặt cuộc đời, nhưng ở bề
sâu là những phút giây đi về cái chết. Trương Đăng Dung là một nhà thơ mãnh liệt
khám phá về khía cạnh sinh tồn đó của con người. Chủ đề thơ Trương Đăng Dung
không phải là tình yêu, hạnh phúc, cuộc sống, mà là sự tồn tại và chuyển giao của
kiếp người, trong sự thật lụi tàn của nó.
Em đừng
xếp lại chăn
em đừng
chải lại tóc
em đừng
tô lại môi
cứ để
nguyên áo quần trên ghế
cứ để
nguyên hiện trạng căn phòng.
Anh cần
vật chứng, cần xác nhận về một khoảnh khắc thiêng liêng đã từng tồn tại. Anh cần
xác nhận mình đã sống, đã yêu. Nghĩa của bài thơ rất rộng. Mọi thứ vô cùng và
tương đối, còn biến đổi không ngừng, có ngàn vạn con đường cho số phận con người.
Nhưng rồi theo chọn lọc tự nhiên, mà con người vẫn tồn tại, vui buồn sướng khổ.
Nhưng Trương Đăng Dung đặt mình cao hơn những thứ đó, con người đau khổ đó để
viết về cuộc sống. Ông ghi lại dẫu một dấu vết nhỏ nhoi về con người, đã từng sống,
từng yêu, gắn kết và hy vọng. Cũng còn hơn là không có cái gì thuộc về con người.
Điều này khẳng định giá trị văn hóa trong quá khứ và giá trị tinh thần trường tồn
với thời gian. Con người sống vì tin vào tổ tiên đã từng tồn tại, mặc
định trong mọi giá trị đã được trường tồn. Mặc cho thời gian tàn nhẫn.
Có thể
em quên rằng anh đã gặp em
hai
mươi ba ngàn năm về trước
ở một
bến sông.
Có thể
em đã quên cánh buồm nâu ngày ấy
trôi
giữa trời xanh không biết đến bao giờ.
Có thể
em đã quên những dấu chân em trên cát
nơi
bình minh tạm trú trước hoàng hôn.
Anh cảm
nhận thời gian qua từng giọt nước
hai
mươi ba ngàn năm trong giọt nước mắt này,
giọt
nước của ngày xưa còn lại đến hôm nay.
(Có
thể)
Tên tập
thơ là Những kỷ niệm tưởng tượng. Ban đầu nó có hai nghĩa: có thể từ thời
gian hiện tại, anh tưởng tượng ra những kỷ niệm; có thể những kỷ niệm đã từng
diễn ra trong quá khứ của anh cũng chỉ là tưởng tượng mà thôi; và vì thế nó có
muôn vàn nghĩa. Đây là sự suy tưởng trên cái nền thời gian về sự tồn tại của
con người theo chiều dài của thời gian, sự sống, thời gian tưởng tượng đến vô
cùng. Tưởng tượng thì vô cùng, không ai ngăn được, thậm chí đó là một dòng chảy
tinh thần nuôi dưỡng sự sống. Ta hãy xem cuộc gặp gỡ tình cờ, duyên ngộ, và rồi
vòng quay lặp lại. Cuộc gặp gỡ, bến sông ngày ấy, thời gian 23 nghìn năm, dấu
chân em trên cát, trí nhớ phai tàn, bình minh, hoàng hôn, bờ cát. Giọt nước mắt
này, tâm tình này, tế bào, niềm đau khổ hạnh phúc này đã từng tồn tại. Điều còn
lại là tinh thần anh, tình yêu anh, mong muốn anh, nỗi nhớ và công cuộc kiếm
tìm dĩ vãng trong trí nhớ, trong máu xương, trong tinh thần anh. Đó là sự đòi hỏi
khẩn thiết của sự tồn tại.
Anh
trở về với bến sông xưa,
em
không nhớ thời gian nước chảy
anh
không biết những ngày thơ bé ấy.
Những
giọt nước qua má, qua môi
rơi
xuống bàn tay nóng ấm hơi người.
Ta
soi bóng.
Sông
vẫn bình yên hát khúc vô tư
trời
vẫn xanh như thế tự bao giờ
em tỏa
sáng giữa đời anh lặng lẽ...
Từ
suy tưởng quá khứ vụt trở về với hiện tại, với hạnh phúc ấm nóng, gần gụi, rất
đỗi con người. Dòng thời gian lặng lẽ, thiên nhiên vô tư, và tình yêu là bến bờ
để con người nương tựa để đi qua hành trình thống khổ đến với cái chết. Tuy
nhiên cái con người ấy không bình an, mà luôn bất an, thắc thỏm về những bí ẩn,
giấc mơ trong quá khứ, sự luân chuyển vô hình của tồn tại. Con người có sinh ra
thì có chết đi, có khởi đầu thì có kết thúc. Giọng thơ buồn, chân thực, và vẫn
giữ nét riêng, khiêm nhường, lặng lẽ, thành thực.
Anh
không biết dòng sông trôi về đâu
bốn
mươi sáu ngàn năm nữa.
Có thể
em vẫn nhớ một ô cửa của con tàu
nơi
anh đứng,
và
bàn tay thấp thoáng vẫy trong đêm.
Có thể
em vẫn nhớ những vầng trăng thức trắng
lá
rơi thảng thốt trước thềm.
Có thể
em vẫn nhớ một bóng hình, giọng nói
đã
tan trong sương khói
những
kiếp người…
Cho đến
bây giờ tôi chưa cắt nghĩa được 23 ngàn năm, 46 ngàn năm là ẩn số gì. Có lẽ lúc
ấy trái đất đã lần đầu tiên sinh ra và trái đất tận diệt chăng?... Nhưng cũng
có thể đó chỉ là chiều sâu của sự suy tưởng. Sông trôi, ô cửa, con tàu, bàn tay
vẫy vẫy, vầng trăng sáng tỏ, lá rơi trước thềm, bóng hình giọng nói, có thể em
sẽ nhớ trong ký ức, trong tế bào, nhớ kỷ niệm tình yêu, nhớ thời gian, nhớ cảnh
sắc, nhớ sự tồn tại của chính mình, có thể em vẫn nhớ về sự sống, dù nó đã tan
đi trong sương khói những kiếp người. Những điều lạ và phi lý, những suy tưởng
vô căn cứ, nhưng nó rất hợp với lô gích, vì sự tưởng tượng, trí tuệ con người
là vô tận, cũng như trí nhớ về mặt di truyền thế hệ là có, nên điều gì cũng có
thể xảy ra. Có thể Trương Đăng Dung đã linh cảm về một sự quay vòng số phận,
hay đã tin tưởng vào sự chuyển giao của kiếp người. Điều này đã có triết học,
khoa học và tôn giáo dần dần minh chứng. Thể xác, tinh thần, ký ức có một sự vận
hành, trường tồn riêng trong sự sống, vì con người ta sống có linh hồn, và nếu
còn yêu thương còn niềm tin là còn hy vọng.
Em
chưa đến ngày chưa tỏa sáng
sông
mênh mang nỗi nhớ một con đò
núi lặng
lẽ đứng chờ bóng đổ
ba
mươi năm hay ba triệu năm rồi.
Kìa
hoàng hôn rạng rỡ mặt trời
kìa đồng
cỏ phập phồng ngực thở
em đã
đến thổi màu vào ngọn lửa
ba
mươi năm hay ba triệu năm rồi.
Em đã
sống những ngày không đợi
anh
đã đi không một phút bình yên
chân
trời dấu những điều không đến
ba
mươi năm hay ba triệu năm rồi.
Đây
là một bài thơ có tứ lạ. Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi. Ba mươi
năm là thời gian đời người; ba triệu năm là hành trình vũ trụ. Nhan đề bài thơ
khiến ta giật mình. Con người vẫn là tâm điểm của thế giới. Nhà thơ với cái
nhìn cao xa cảnh tỉnh muốn cứu rỗi một đời sống quá đỗi u mê đau buồn và vô vọng.
Một đời sống đã được tiên tri trong kinh sách, các triết gia, phơi mở trong các
bầu trời văn học. Nếu người ta biết rằng thế giới đã trôi qua ba triệu năm thì
người ta đã không sống tồi tàn đến thế. Ai đang còn sống thì vẫn còn hy vọng đổi
thay và cứu chuộc chính mình. Có một cái bóng nắng vô hình, bí ẩn vẫn đi cùng
những vần thơ Trương Đăng Dung, khiến ông có thể phóng lên rất cao để nhìn mọi
vật và nhìn chính mình. Ông có thể phóng chiếu ra ra, đến nỗi trần gian ông sống
chỉ là những sân khấu nhỏ và tồi tàn, trên đó những diễn giả của ông đang khua
múa mà không biết cái hữu hạn chính mình đã bị ông nhìn thấy. Ông thể hiện rõ một
nỗi u buồn, một niềm đau tủi và những giọt nước mắt xót xa trong tất cả những vần
thơ để khóc cho u mê lừa dối của con người, khi cái chết đang sồng sộc đến. Đó
là một hiện thực của thơ ông.
Em
nói mùa xuân, anh chỉ nghe
em
nói trời xanh, anh chỉ nghe
nói
đi em, mặt trời sắp lặn
nói
đi em, mặt trời sắp lặn.…
Em hỏi
niềm vui nào anh đã thấy?
anh
không còn nhớ nữa, hôm nay.
em hỏi
trang thơ nào anh đã đọc?
anh
không còn nhớ nữa, hôm nay.…
Em
nói trời xanh anh chỉ thấy mắt em
em
nói mùa xuân anh chỉ thấy môi em
hoàng
hôn xuống đã trùm lên hết thảy
bóng
hai ta nhỏ bé giữa đất dày.
Anh im
lặng lắng nghe trong mình thời gian đang chảy ngấm ngầm một dòng vô tận. Mùa
xuân, trời xanh, mặt trời sắp lặn… là những ẩn dụ cho một đời người. Anh lắng
nghe và tin ở tiếng nói, hơi thở của con người. Mắt em, môi em là điều anh tin
vì sự sống. Hoàng hôn xuống, đời tàn lụi, con người nhỏ bé sẽ biến tan, đó là nỗi
ám ảnh khổ hình trong thơ Trương Đăng Dung. Tuy nhiên nghệ thuật là nghệ thuật,
hãy bình tĩnh, đừng chịu sự thôi miên của các ngôn từ, mà hãy đọc ý tứ, sắc
thái, sợi chỉ đỏ niềm tin. Những niềm vui và sự gấp gáp, hối hả, cuộn sôi, vì
trước mắt là sự kết thúc. Viết tốt về cái chết cũng là viết về cái sống. Tình
yêu thương - cây cầu nối giữa hai miền đó là tất cả đời người, ngoài các giá trị
đó ra con người không còn gì nữa. Con người chẳng thể kiêu ngạo khi sự sống của
nó mong manh như cơn gió. Dù muốn dù không nó cũng sẽ kết thúc. Trương Đăng
Dung đã không từ chối tất cả những điều có thể suy nghĩ về con người, khát khao
sự tự cứu rỗi và tự giác ngộ, sớm tỉnh ngộ để hồi sinh, tái sinh, làm lại cuộc
sống. Sự làm lại không bao giờ là muộn. Mọi sự cũng chẳng còn gì quan trọng.
Nhưng Trương Đăng Dung muốn cảnh tỉnh để làm lại cuộc sống một lần, tất nhiên đối
với những ai thấu hiểu tấm lòng và tư tưởng của ông.
Anh
không còn gì ngoài em
sau
tuổi năm mươi ngả bóng.…
Mỗi
ban mai khép cửa
anh vẫn
ngoái nhìn em lần nữa
ngoài
kia mây bay
gió
thổi mong manh rèm cửa đóng
ngoài
kia trời rộng
ở đâu
đó đang gầm lên tiếng súng
ở đâu
đó bao người ngã xuống
mắt
nhắm rồi chưa một bữa ăn no…
(Anh
không còn gì ngoài em)
Tại
sao anh không còn gì ngoài em? Vì tình yêu là cái duy nhất vô giá mà anh
được sống. Con người khi tìm được tình yêu họ sẽ bất tử trong đời, được tận hưởng
nguồn năng lượng phi phàm, không sợ cái chết. Họ sẽ thấy mất đi tình yêu đời
người thành vô nghĩa. Ai không yêu hoặc không tìm thấy tình yêu, họ sẽ sống một
cuộc đời vô nghĩa, nhưng họ chưa từng yêu nên cũng không hề biết đến sự vô
nghĩa ấy. Tình yêu cuộc đời được gửi gắm trong một con người cụ thể - là em, đó
là may mắn của đời thơ Trương Đăng Dung. Song dù yêu nhau đến mấy, gắng gỏi đến
khôn cùng, con người cũng không thoát được quy luật sống chết. (Không giữ được
đâu em). Lời thú nhận cuối bài thơ là lời thú nhận đau xót và lạc điệu trước nỗi
đau thương của một kiếp người. Thời gian trôi qua từng sợi tóc bạc màu. Thơ
Trương Đăng Dung viết nhiều về nỗi buồn, nỗi đau thương thân phận của con người.
Ông đã chọn cách suy tưởng về con người, đó là thế mạnh sẽ tạo nên chiều sâu
nhân bản và giá trị lâu dài của nghệ thuật thơ ông.
Ở bài
thơ Thành phố phía chân trời, chuyến tàu chạy ngược chiều ký ức không vào
ga chính là một ẩn dụ để an ủi con người. Rồi những gương mặt lướt qua nhanh
chóng như những con số trên đồng hồ điện tử có vẻ vô tình thản nhiên nữa. Cả những
điều đó cũng gây nên đau khổ; nhịp điệu hối hả, vô cùng vô tận, chạy về vô biên,
đi tìm thành phố phía chân trời là một viễn tưởng trọn vẹn và viên mãn về hạnh
phúc, khiến người ta khát vọng, và lo âu, sợ hãi, lo âu, bất an về cuộc sống.
Bao
nhiêu lần khép cửa
em vẫn
thấy mình chưa ở bên trong
Và cặp
môi hồng
“Bao
nhiêu lần khép cửa/em vẫn thấy mình chưa ở bên trong” là một quan sát vô cùng
tinh tế, sắc sảo về tâm lý của thi nhân. Đôi khi thơ Trương Đăng Dung chân thực
hiền lành như một lời khuyên nhủ ông nói với bạn bầu. Con người ông luôn suy tư
đi tìm chân lý, luôn đứng trên tầm cao tư duy để nhìn về cuộc sống, thương yêu
con người, thương yêu và hờn giận vì họ nông cạn tội lỗi, nhưng rồi ông cũng
thông cảm, chia sẻ, đồng hành với con người, hướng dẫn cho con người, bằng sự
trải nghiệm, hiểu biết và nỗi đau của chính mình. Nếu sự cứu rỗi chưa đến với mọi
người thì cũng đã đến được với chính ông, một cách trực diện và hữu ích nhất.
Ông là một người làm thơ quả thật hạnh phúc, đã tìm thấy trong thi ca một sợi
dây gắn kết số phận mình. Ông viết bằng máu, bằng niềm tin và tư tưởng, phơi
bày những vấn nạn của con người.
Thấy
không em đường chân trời trước mặt?
anh
đã từng đến đó trong mơ.
có
khi như Jesu đi trên mặt nước
lòng
anh cao thượng, sáng trong,
có
khi như một tên tội phạm
anh bước
đi uất hận trong lòng,
có
khi như một đứa trẻ
hân
hoan, ngơ ngác, chờ mong...
(Chân
trời)
Bản
thể con người đã trải qua tất cả, cao thượng sáng trong tội đồ ngơ ngác. Giêsu,
tội đồ, con trẻ, kẻ cứu rỗi, kẻ gieo rắc đau khổ, kẻ ngây thơ vô tội. Những phi
lý dị hình về cuộc đời, những oái ăm tham vọng, ươn hèn, ảo tưởng, ngạo mạn,
không tưởng, ung nhọt, u mê, sai lầm và vô ích; trong thế giới tinh thần đầy rẫy
oái ăm, hài hước ấy, những điều phi lý phi nhân cùng tồn tại. Thế giới đầy mâu
thuẫn, giả tạo, trá hình, trái về bản chất, tiếng nói, chức năng, nhiệm vụ.
Trong đêm đen anh vẫn mãnh liệt khao khát và hy vọng về ánh sáng của
tình yêu, về phía chân trời, niềm khát khao mãnh liệt: “Khao khát một thứ gì nồng
cháy như mặt trời/ ngọt ngào như quả chín.”.
Ở bài
thơ “Những bức tường” nói về những hào lũy vô hình của tinh thần, khoảng cách,
nguy cơ ở khắp nơi len vào ngăn cách, chia rẽ con người, làm tha hóa con người.
Bức tường khắp nơi, vô hình, không nhìn thấy. Bức tường nghịch lý và đau thương
ấy, có sự tham dự của thời gian, nằm sâu trong bề mặt có vẻ bình thường, và nó
làm biến dạng mọi vật từ trong bản chất.
Khi
ta ngước mắt nhìn trời xanh
trên
mặt đất đã có những bức tường,
khi
ta cúi xuống nhìn mặt đất
xung
quanh ta đã có những bức tường
khi
ta nghĩ đến những miền xa
phía
trước ta đã có những bức tường.
Những
bức tường, những bức tường,
những
bức tường
có mặt
khắp nơi,
trong
những lời vui đoàn tụ
trong
những lời buồn chia tay,
những
bức tường ta không xây
những
bức tường không thể phá...
Đêm
đêm anh vẫn nghe lũ quạ
cười
nói huyên thuyên trên những bức tường này.
Những
bức tường vô hình của tình người, xa cách, nghi kỵ, sự biến đổi chệch hướng, vô
thường, không ngờ tới. Bức tường dày đặc, không thể công phá. Và bức tường ấy
là dấu hiệu của cái chết, tử vong, tuyệt vọng, không thể cứu vãn về một thế giới
tha hóa, tan rã, những chia ly, sum họp, hứa hẹn, phù du... Có cái gì bí mật đằng
sau. Đó là phát hiện của nhà thơ về những bức tường, sự ly gián của tâm hồn con
người, ông nhận ra sự hủy diệt và tha hóa, hiện thực mà ông trưng bày là thực tế
của cuộc sống. Bức tường ấy là nguy cơ cạn kiệt, tha hóa và cái chết, vậy con
người có thể thay đối chút gì chăng. Tuy chỉ là những bài thơ, không phải là
kinh sách, nhưng nó cũng giúp bạn đọc nhận ra nhiều điều. Muốn cho cuộc đời đừng
tha hóa phải thiết lập lại thế giới và vô hiệu hóa những bức tường đi, nếu
không cái chết bủa vây thế giới con người ngay khi họ còn sống.
Trương
Đăng Dung viết về thân phận con người - tồi tàn, rách rưới, đớn đau, nham nhở đời
thường, dở sống và dở chết (Những người đàn bà). Ông không tránh né mà viết rất
thật về họ, với lòng cảm thông và đau xót, dường như ông cũng chỉ là con người
trong số đó. Điều rất lạ trong thơ Trương Đăng Dung là tâm thế của nhà thơ khi
cầm bút. Ông là người trong cuộc rất đau thương. Nhưng ông lại đạt một cái nhìn
cao hơn họ, song không hề trịnh thượng. Giữa cái đồng nhất và cái cao hơn, đó
là khoảng cách rất lạ lùng mà ông đã làm được.
Bài
thơ Những con kiến đầy kịch tính. Nói lên lòng ban phát của con người,
ảo tưởng, tạo ra sự oan khốc cho họ. Bài thơ xót đau về thân phận của kiến, nỗi
cần cù, đam mê, chân thành và cả tin của kiến, như là lòng tận tụy của nhân
dân. Tuy hai khổ cuối có vẻ lạc ra, nếu cắt đi tôi vẫn thích hơn. (Tôi đã hiểu
gì về kiến?/Số phận và lo toan của kiến làm sao tôi hiểu được? Chỉ có kiến mới
hiểu và chịu đựng được số phận của kiến mà thôi!). Nhưng tiếp tục mạch thơ ám
chỉ thì để hai câu này cũng đạt được mức độ khái quát phổ biến, nó bẻ ngoặt
sang một cục diện, một góc nhìn khác. Bài này gợi ám ảnh về thân phận con người,
thân phận con sâu cái kiến, lòng kiên nhẫn, đức hy sinh, chịu đựng, gánh vác và
oan trái của kiến, thân phận con người.
Bài
thơ Những kỷ niệm tưởng tượng ông làm năm 29 tuổi. Đó lại là một
trong những bài thơ hay nhất của thơ ông. Nó ghi lại những kỷ niệm trong ký ức
mà trí óc non nớt của một đứa trẻ, vẽ ra những đổ nát, kinh hoàng của cuộc đời
đầy máu, hỗn mang, đổ nát, sát thương. Tưởng tượng phi lý, lộn ngược thời gian
và ký ức. Cảnh vật nham nhở màu sắc, ngổn ngang xương máu. Đây có thể là một ám
chỉ về lịch sử đẫm máu của loài người.
Đêm đầu
tiên ta nghe những tiếng động đầu tiên
những
chú chuột ăn cắp tã vá của ta làm áo choàng
vào bệnh
viện
chúng
sờ lên mặt ta tìm môi ta liếm liếm
rồi
chúng ra đi, ta hồi hộp nằm chờ.
Chúng
ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó
cùng
nhau thấy những con trâu vừa kéo cày
vừa
đái bừa xuống ruộng
cùng
nhau thấy những gái điếm ngủ dọc bờ sông
đầu gục
xuống…
Bài
thơ tiếp tục vẽ ra cảnh đổ nát khốn cùng với những thủ đoạn của loài người như
ăn cắp, khả nghi, bặm trợn, khát máu, ăn thịt người, gieo rắc sự sợ hãi thấp thỏm.
Sự sống nguyên sơ chịu quá nhiều cực hình thảm khốc rùng rợn phi lý phi nhân, lớn
lên thấy đời sống trịch thượng ngông cuồng, cảnh lao khổ cực nhọc và kiếp người
ô nhục tha hóa, trong bức tranh loang lổ của đời sống - cái nhịp điệu của cuộc
đời vừa gấp gáp vừa mai mỉa, cảnh tượng cùng khốn, tả tơi, méo mó… Đó là những ẩn
dụ kinh hoàng về sự khủng bố tinh thần, làm biến dạng nhân cách. Tàu chở vũ khí
đi gieo rắc chiến tranh và cái chết, khủng bố, nực cười trẻ nhỏ người già ngồi
trên nóc toa. Vậy mà điều đáng nói là chúng ta “cùng nhau” thay đổi được gì.
Con người cứ sinh ra chết đi như vậy để làm gì, mà không biết sống hạnh phúc và
tự cứu rỗi. Sự đau thương của con người đã trở thành huyền thoại, từ lâu quạ
cũng thờ ở với mùi đau khổ. Ở nơi thiên nhiên vô tội, sự rùng rợn phi nhân tính
của loài người cũng diễn ra, con quạ mang xương ống về làm đồ chơi cho con trẻ.
Em tôi sinh ra trong bản năng đã biết sợ loài người, sợ những khổ đau truyền kiếp.
Sáng
nay em gái tôi đột ngột ra đời
khi
nhìn thấy tôi mẹ tôi cười đau khổ,
(mẹ
ơi mẹ sinh em đâu phải là tội lỗi)
em
tôi nằm mặt cau có đầy nhăn
giữa
ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn.
Bài Có
một thời có tứ lạ, đầy nghịch cảnh. Có một thời, mẹ già ăn cháy cứng, răng
rụng thản nhiên, tuổi già và cái chết đến thản nhiên, trẻ con sợ búp bê và
không thích sữa, anh đi bên tôi thân thiện chân tình mà sao cách trở. “Có một
thời đi về đâu mà ai cũng vội./ Có một thời hạt bụi cũng quẩn quanh/ Có một thời
nghe hát dân ca lòng ta mệt mỏi./ Có một thời nghe lá vàng rơi lòng ta không
xào xạc./ Có một thời đứng trước tổ chim lòng ta đầy mưu toan độc ác./ Có một
thời em rực rỡ mà hồn tôi sa mạc./ Có một thời/ có một thời ta đã sống thật
sao?”. Có một thời đã trôi qua, như trong thánh kinh, ta giật mình bởi cái tứ,
cái tứ đã đẩy xa thời gian và cuộc sống con người bằng điểm nhìn và tầm nhìn mới,
đậm chất suy tưởng. Cái nhìn bay bổng phóng thích con người và thời đại ra xa,
câu hỏi thật kinh hoàng, ánh mắt nhìn thế giới, ta sống mà như không sống, tồn
tại mà như không, ta không tin vào chính mình, tình yêu cũng chẳng vẹn nguyên đồng
điệu, tình yêu cũng chỉ lệch pha và là bi kịch kéo dài trong kiếp sống. Nhà thơ
thốt lên những điều như vậy, còn cảm thụ ra sao là tùy bạn đọc.
Bài
thơ Tôi lại nhìn thấy họ cũng có tứ rất lạ. Tôi lại nhìn thấy họ, một
giấc mơ, một cơn hoang tưởng hay sự thật, ký ức sống dậy, tương lai hiện hình.
Thơ Trương Đăng Dung rất gợi, khắc họa đường nét, màu sắc như một bức tranh, bức
họa, khắc ghi vào trí nhớ. Những con chữ chân thành dồn đuổi, ký ức và thời
gian bị đảo lộn, chiến tranh đã trở thành ám ảnh kinh hoàng, thật bi kịch cho
con người sinh ra từ đó. Tác giả muốn đẩy xa, phóng tác bức tranh thành huyền
thoại. Ta đang sống đây mà có lúc nào ta nghĩ tới con người?...
Tôi lại
nhìn thấy họ
đang
bước từ bình minh. Họ đi
trên
bãi cát, dã tràng nghe
giật
mình.
Tôi lại
nhìn thấy họ
những
người vợ suốt đêm vá lưới
mắt
quầng thâm nhìn chồng. Ngoài kia
biển
dâng triều, sóng cồn lên sôi động
Tôi lại
nhìn thấy họ
dỡ
nhà đi sơ tán. Từng đoàn người tay xách
nách
mang, lầm lũi đi qua cánh đồng bạc trắng.
Tôi lại
nhìn thấy họ
những
xác người được tìm thấy
trong
lớp đất bom vùi. Những người mẹ
chết
vẫn ôm con, những đứa con chết
mặt
úp vào ngực mẹ.
Tôi lại
nhìn thấy họ
quấn
khăn tang ra đồng. Tay vẫy
người
đi xa, mắt buồn
hun
hút bóng...
Tôi lại
nhìn thấy họ
đêm
đêm giữa trời Âu
những
người tôi mới gặp lần đầu
Nỗi
đau này không dành riêng cho bất cứ con người cụ thể, cuộc đời cụ thể nào, mà
dành cho tất cả mọi người, mọi tầng lớp. Thơ này mang tính toàn cầu nhân loại,
châu Âu, châu Á, khắp nơi, cho cái chết, sự sống, cho những thứ những thứ đã xảy
ra và chưa từng xảy ra. Suy tưởng toàn nhân loại với những gì chân thực và nhân
hậu nhất. Như bài Ghi chép hè 2009 là một bài thơ tiêu biểu.
Bom nổ
ở một Thánh đường Hồi giáo
máu
người nhuộm đỏ sách Kinh
bom nổ
ở một chợ Bagdad
thịt
người trộn vào rau quả
(…)
và người ngồi xem nỗi đau qua màn ảnh nhỏ.
Trong
bài Chúa đã ra đi người ta sững sờ bởi câu: Tôi lớn lên biết nói
tiếng con người! Điều này rất sâu rộng, đa thanh. Nói tiếng con người là
bài học vỡ lòng để làm người. Cũng có nhiều kẻ mang vóc dáng con người nhưng
chưa hẳn đã biết nói tiếng con người, đã biết làm người. Rồi tác giả viết
tiếp: Tôi lớn lên ngơ ngác cõi người/ tình thương, thù hận, buồn, vui/ hun
hút đường xa cát bụi/ người đi không biết về đâu. Trong cơn đi vô định của
con người, ngoài thân phận họ, chẳng còn gì nữa cả. Khổ thơ cuối gây kinh
ngạc, bởi nó nói được cái thống khổ sâu xa kỳ vĩ của thế giới, chỉ bằng một
câu: “Chúa đã ra đi/ Chúa không thể nào ngờ!”. Ta thấy lòng ta nghẹn lại, vì sự
thực khủng khiếp là chỉ có mình ta đối diện với thế giới mà thôi.
Trong
những vần thơ Trương Đăng Dung, ta thấy hiện lên rất nhiều vết thương, xương
máu, tội ác của con người, ta thấy nỗi buồn nỗi đau của tồn tại, thấy con người
Trương Đăng Dung rất kiêu hãnh nồng nàn trong một tình yêu rộng lớn là tình yêu
đối với con người. Tôi đã không nhầm – ông viết bằng máu đấy. Những trí tuệ,
suy nghĩ, máu huyết, tâm hồn và linh cảm của một trí thức lớn của thời đại. Và
nếu chúng ta đã từng gặp Trương Đăng Dung thì sẽ nhận ra rằng ông viết cũng giống
như ông sống, với đôi mắt u buồn nhìn sâu vào cuộc đời, sẵn sàng đem đời mình
trả giá cho con người. Tôi không biết nỗi buồn của ông rồi sẽ ra sao? Tôi hy vọng
những vần thơ ông viết bằng máu mình sẽ trả về cho ông cuộc sống (đã bị mất từ
lâu!).
Giấc
mơ của Kafka
Ở New
York chiều chiều
những
con voi nhảy từ tầng mười một xuống sông
cứu
những con chim sẻ.
Ở Paris trước
cửa Viện bảo tàng
người
nằm ngáp
trâu
xếp hàng mua cỏ.
Ở
Moskva những thiếu phụ da vàng
chơi
với hổ
trên
quảng trường ngập nước.
Ở Tokyo nữ
phát thanh viên truyền hình
không
có miệng
huơ
tay chào khán giả
Khắp
nơi
những
đôi mắt
dính
trên cổ những người không có mặt
những
tiếng kêu
phát
ra từ miệng những người không có cổ
những
bàn chân
càng
bước càng lún sâu vào đất.
Ở bài Giấc
mơ của Kafka là đỉnh điểm của sự phi lý, phi nhân, không trật tự, không lô
gích. Những điều không có thực, những hiểm nguy rình rập con người, những nguy
cơ, những trò diễn lố bịch đau buồn, những chi thể mảnh vụn của con người vẫn cố
gắng làm điều không tưởng, mà không biết cuộc đời thật đau thương đi về nơi cái
chết. Mỗi bước đi càng lún sâu vào đất, mỗi bước tiến lên thì lại sa lầy vào
tuyệt vọng, vô hồn. Thơ Trương Đăng Dung là hiện sinh tư duy và tồn tại, nhưng
ông không ảo tưởng mộng mơ về thế giới bên kia, thậm chí ông không nghĩ là tồn
tại thế giới đó. Ông chỉ là người bạn trung thành của tồn tại, cuộc đời hiện
sinh thế, đau thương thế và nên chấp nhận rồi yêu thương lẫn nhau, chứ đừng trốn
chạy. Cũng đừng ngạo mạn ảo tưởng về đời người, đừng mơ đong đếm cái vô cùng bằng
thân xác hữu hạn.
25
bài thơ trong tập, bài nào cũng sâu sắc và toàn bích, dường như nó gom góp tất
cả tư tưởng, tình yêu và nỗi đau của một đời thơ Trường Đăng Dung. Những cảm nhận
rất chân thực song cũng cao xa về cuộc sống và thân phận con người, với tấm
lòng hiền từ, dịu dàng. (Tôi thức với trái tim/ những ý nghĩ lang thang
trong lồng ngực/ không còn đủ sức/ chạy theo con tàu – Đêm ở Rôma). Nhà
thơ ghê sợ cuộc đời giả tạo, tượng giả, chết giả, xương giả, sẽ không còn gì để
sống, để trú ẩn. Có thể trong ngàn vạn bối cảnh, con người vẫn không hiểu nhau
và cô đơn trong thời gian tuyệt cùng (Nơi thi sĩ đến).
Đây
là lời ông dặn đứa con: “Bố chỉ mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng/ trước
mọi vui buồn bất hạnh của thời con.”. Con vừa sinh ra, thế giới đã chuẩn bị sẵn
cho con đau thương và sầu khổ. Con học đi, lê từng bước, con học nói, bà hàng
xóm thều thào. Khởi đầu và kết thúc một đời người, chúng ta phải làm sao, thơ
Trương Đăng Dung mở ra được những chân trời suy tư và cứu rỗi. Nhiều người đã
phải hy sinh giữa hai đầu cuộc sống đó. Khi con lớn lên thì bố cũng ra đi và
không còn nắm bắt được sự thật. Nên bó chỉ dặn con một điều, như là lời chúc
phúc, con hãy sống sao cho giống con người!
Thì
ra, cuộc đời và nghệ thuật là một màn trình diễn tương đối và phi lý của con người
trong cuộc tồn tại thống khổ. Vậy mà vì người ta duy lý và duy vật quá, nên cứ
tưởng hiện thực là tất cả của tồn tại người. Thơ Trương Đăng Dung đã hé lộ nhiều
bí mật đắng cay của tồn tại, để hòa vào tâm thức bất an của thời đại. Thế giới
tự do vô biên về tinh thần con người, nên rất bấp bênh và đầy rẫy nguy cơ. Cuộc
sống là những thỏa thuận, thỏa hiệp, mở ra ngàn vạn con đường. Nhưng người ta sống
được vì thỏa thuận với cuộc đời, với con người và thỏa thuận với chính mình để
sống và triển khai cuộc sống. (Thỏa thuận). 25 bài thơ là 25 mệnh đề tỏa ra
muôn vàn đường hướng, muôn vàn ý nghĩa, tạo ra một tầm vóc tư tưởng và phong
cách thơ Trương Đăng Dung. Với ngần ấy bài thơ, với nhân cách và trí tuệ lịch
lãm, ông xứng đáng là một thi sĩ xuất sắc của nền thơ Việt Nam hiện đại.
Hà
Nội, 10/2011
Trần
Thị Ngọc Lan
vé máy bay eva air khuyến mãi
ve may bay hang eva di my
korean airlines
vé máy bay đi mỹ mùa nào rẻ nhất
giá vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Kien Thuc Du Lich