1. Về nguồn gốc của chữ Nam 南và
Bắc 北 trong Hán ngữ
1. 1. Nguồn gốc chữ Nam 南 trong
tiếng Hán
Trong Giáp cốt văn 甲骨文 có chữ
Nam 南, nghĩa gốc là một loại chuông. Có người cho rằng
đó là một loại nhạc khí làm bằng đất nung. Chữ Nam 南 trong
hệ thống phương vị từ của cổ văn là một chữ Giả tá 假借.
Khảo sát từ góc độ ngữ nguyên, trong Hán ngữ Từ hội dữ
Hoa hạ văn hóa 漢 語 詞 匯 與 华 夏 文 化, Dương Lâm 楊 琳 cho
rằng: Chữ Nam 南 có mối quan hệ với chữ Nhâm 任/ 妊 (có nghĩa là nuôi dưỡng vạn vật),
và có thể khẳng định rằng chữ Nam 南 là từ chữ Nhâm
mà ra [01;76]. Với nét nghĩa đó, chúng ta có thể khẳng định Nam 南, Nam 男 và Nhâm 任 là một. Người Trung Quốc cổ đại gọi chín phương trời
là cửu dã 九 野 hay cửu thiên 九天 bao gồm trung ương và tám phương hướng – tức là tứ
chính 四 正 (Đông, Tây, Nam, Bắc) và tứ ngung 四 隅 (Bốn góc: Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc).
Vì phương Nam đón ánh mặt trời nên thuộc dương 陽. Khi xét về nguồn gốc của chữ Nam, Hán thư 漢 書 có viết: Thái
dương giả, nam phương, nam, nhiệm dã, dương khí nhiệm dưỡng vật, ư thời vi hạ 太 陽 者,
南 方, 南,
任 也, 陽 氣 任 養 物, 於 時 為 夏) (Thái dương ở hướng nam, hướng
nam là trách nhiệm, khí dương có trách nhiệm nuôi nấng vạn vật, thời của nó là
mùa hạ) [5; 176]. Chữ Nhậm 任 là chữ cổ của chữ
Nhâm 妊. Thiên Ngũ hành五 行, trong sách Bạch Hổ Thông 白 虎 通 có
chép rằng: “Nam Phương giả, nhậm dưỡng chi phương, vạn vật hoài nhậm dã 南 方 者,
任 飬 之 方, 萬 物 懐 任 也”
(Phương Nam là hướng nuôi dưỡng, vạn vật được nuôi dưỡng), vì thế trong cổ thư
lại có câu “Nam phương chủ trưởng dưỡng 南 方 主 長 飬” (Hướng Nam là chủ về việc nuôi dưỡng lớn).
Trong sinh hoạt thường nhật của con người và theo kinh nghiệm
thực tế cho thấy, sườn núi phía Nam là nơi đón nhận nhiều ánh sáng nhất nên cây
cối của phía này luôn tươi tốt, xum xuê, trái lại ở sườn núi phía Bắc vì thời
gian mặt trời chiếu ít, ngắn nên băng giá đóng thường kỳ, cỏ cây thưa thớt, cảnh
vật đìu hiu, không khí hoang lạnh, thê lương. Đỗ Phủ 杜 甫 trong bài Vọng Nhạc 望 嶽 rằng: “Âm dương cát hôn hiểu 陰 陽 割 昏 晓” (Âm dương chia ra sớm và tối) là để ám chỉ hiện tượng này. Có lẽ vì thế
mà cổ nhân thường gọi sườn phía Nam của núi là Dương 陽,
sườn núi phía Bắc là Âm 陰, cây cối mà hướng về phía Nam
thì sinh trưởng tươi tốt, còn mọc ở mạn phí Bắc thì què quặt, không tốt tươi.
Từ cơ sở hướng Nam là nơi ấm áp, đón lấy được nhiều ánh sáng
mặt trời khiến cho vạn vật sinh trưởng tươi tốt, cuộc sống con người được phồn
thịnh mà trong quá trình phát triển của nền văn hóa văn học đã phái sinh ra nhiều
nghĩa phái sinh. Chính từ những nét văn hóa mới này của chữ Nam đã có những
đóng góp quan trọng trong việc chuyển tải và xây dựng các giá trị thuộc về nội
dung và hình thức của ngôn ngữ văn học cổ điển.
Trong Giáp cốt văn chữ Bắc 北 được
viết gần giống như hình dáng hai người quay lưng lại với nhau, đó là chữ
ban đầu của chữ Bối 背, có thể nói chữ Bắc là từ chữ Bối
mà ra. Khổng An quốc truyện 孔 安 國 傳 có
chép: “Bắc, do bối dã 北, 猶 背 也” (Bắc giống như Bối) [01;
102]. Trong Tề sách lục 齊 策 六 ở Chiến Quốc Sách 战 国 策cũng có
chép: “Sĩ vô phản bắc chi tâm 士 無 反 北 之 心” (Kẻ sĩ không có lòng phản bội).
Trong đó, hai chữ Phản Bắc反 北 mang
nghĩa là Phản bội反背. Bởi lẽ chữ 背 có
hai âm đọc cơ bản là Bối (cái lưng) và Bội (quay lưng lại). Ban Cố 班 固 trong Hán Thư 漢 書 phần Cao đế kỷ 高 帝 纪 cũng chép rằng: “Hạng Vũ truy bắc 項 羽 追 北”
(Hạng Vũ bị đuổi về phía Bắc). Nhan Sư Cổ đã chú thích rằng: “Bắc, u âm chi xứ,
cố vị thoái bại bôn tẩu giả vi Bắc 北 幽 陰 之 處. 故 謂 退 敗 奔 走 爲 北”
(Bắc là nơi u tối, vì thế gọi kẻ bị thua cuộc, bại trận bỏ chạy là bắc)
Hướng Bắc là nơi u tối, cách xa và thiếu ánh sáng mặt trời
nên trong cuốn Lã Thị Xuân Thu 呂氏春秋 đã
gọi tên hướng Bắc theo quan niệm trời đất chia thành chín phương, gọi là Cửu dã
九 野. Người Trung Quốc cổ xưa khi định danh các phương vị
từ đã gọi phương Bắc là Huyền Thiên 玄天 (Huyền: màu
đen huyền), tức là Bắc gắn với nơi tối tăm, nên gắn với màu đen, thuộc âm.
Trong Sử ký 史 記 có viết: “Bắc
phương thủy, thái âm chi tích, chủ đông nhật nhâm quý 北 方
水, 太 陰 之 績, 主 冬 日 壬 癸”
(Phương Bắc thuộc Thủy là chỗ chứa Thái âm, chủ về ngày mùa đông nhâm quý) [5;
168].
Phía Bắc là nơi u tối, lạnh lẽo vì ít nhận được ánh sáng mặt
trời, trong Tập truyện 集 傳 có đoạn: “Sóc
phương, Bắc hoang chi địa... Nhật hành chí thị, tắc luân vu địa trung, vạn tượng
u ám, cố viết U đô 朔 方, 北 荒 之 地...日 行 至 是, 則 淪 于 地 中, 万
象 幽 暗, 故 曰 幽 都” (Phương Sóc là nơi hoang vu phía
Bắc...mặt trời đi đến đó thì chìm vào trong đất. Cảnh tượng u tối, nên gọi là U
đô). Chính vì thế, mục Thuyết nhật 說日, quyển Luận hành 論 衡 của Vương Sung 王充 có ghi: “Bắc
phương âm dã 北 方 陰 也” (phương Bắc là âm) [01;
104].
Mọi vật ở phía Bắc đều có đặc điểm là đen tối, cho nên trong
quá trình phát triển những từ ngữ liên quan đến hướng Bắc đều mang nghĩa u tối,
không tốt lành. Có thể thấy, từ ngữ có hàm nghĩa văn hóa ngoài việc định danh
ra còn gợi lên một sự liên tưởng nhất định nào đó và phụ thuộc vào nét riêng
văn hóa từng nơi. Có nắm được nguồn gốc ra đời cũng như những đặc điểm mà những
từ ngữ văn hóa hàm chứa độc giả mới có thể hiểu thấu đáo những thông điệp văn
hoá đã được gửi gắm trong những từ ngữ này.
2. Hàm nghĩa văn hoá của hai chữ Nam 南,
Bắc 北
Từ ngữ văn hóa nói riêng và ngôn ngữ văn hóa nói chung có giá
trị như một loại mã hóa trong ngôn ngữ văn học trung đại. Những sắc thái văn
hóa ấy cùng những lớp nghĩa văn hóa của dân tộc được thể hiện trong tác phẩm dưới
dạng tiềm ẩn sau lớp vỏ ngôn ngữ. Khi đã giải mã được lớp vỏ ngôn ngữ này,
chúng ta sẽ cảm nhận được cái hay, cái đẹp mà tác phẩm mang lại và lí giải được
ý nghĩa văn hoá của thời đại.
Chữ Nam và chữ Bắc ngay từ khi ra đời đã được gắn với những ý
nghĩa nhất định và dần dần cùng với sự phát triển của xã hội các từ này đã
khoác lên mình những lớp nghĩa văn hóa phong phú, sâu sắc. Những từ ngữ văn hóa
này mang tính hệ thống và được phân bố thành những hệ nhỏ với chức năng và phạm
vi hoạt động đa diện. Dưới đây là những tìm hiểu và đánh giá bước đầu về việc vận
dụng những hàm nghĩa văn hóa của chữ Nam và chữ Bắc trong văn học trung đại Việt
Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX.
2.1. Một số nét nghĩa văn hóa cơ bản của chữ Nam
Người Trung Hoa cổ xưa, khi quan sát sự chuyển dịch của vạn vật
trong vũ trụ đã đã định ra bốn phương Đông – Tây – Nam - Bắc trong trời đất,
góp phần thuận lợi cho việc định vị vạn vật, trong đó hướng Đông 東 được xem là nơi xuất phát của mặt trời, đem lại sức sống
cho tràn trề cho vạn vật, từ đó mà suy ra các hướng còn lại là Tây 西, Nam 南, Bắc 北.
Trong Hán ngữ Từ hội dữ Hoa hạ văn hóa, cùng với việc nhận định hướng Đông
là nơi xuất phát của mặt trời, là nơi cho chúng ta ánh sáng và sự ấm áp thì khi
nói về hướng Nam, Dương Lâm cũng cho rằng khi quan sát sinh hoạt hằng ngày
chúng ta nhận thấy rằng bên sườn núi phía Nam vì thời gian mặt trời chiếu rọi
dài cho nên cây cối tươi tốt, um tùm.
Vì hướng Nam đón được nhiều ánh mặt trời đem lại sự ấm áp,
tươi tốt, người xưa cũng đã nhận thấy rằng: ở phía Nam cả buổi sáng lẫn buổi
chiều đều không bị nắng chiếu, vừa tránh được cái nóng từ phía tây, cái bão từ
phía đông và gió lạnh từ phương Bắc (gió bấc) nhưng vẫn tận dụng được gió mát từ
phương nam. Cổ nhân có câu: Một trăm người hầu không bằng ở đầu ngọn gió,
nhất là ngọn gió đó lại là gió nam thì nhất, vì "gió Nam chưa nằm đã ngáy"
nên từ xưa mọi người đều chọn được hướng Nam để làm nhà.
Như vậy có thể nói nét nghĩa văn hóa đầu tiên của chữ Nam là
tươi tốt, sinh dưỡng, do hướng Nam là chủ về sinh. Trong Thi Kinh 詩 經có câu:
“Nam phong chi huân hề
南 風 之 熏 兮
Khả dĩ giải ngô dân chi uẩn hề”
可 以 解 吾民 之慍兮
Nam phong 南 風 là gió nam, tức là gió từ phương Nam thổi đến, gió Nam
thổi mát mẻ, sảng khoái. Nam phong còn gọi là Huân phong 熏 風 nghĩa là gió mát, vui
hòa, đem lại sức sống cho con người và vạn vật.
Người xưa thường dùng Nam chi 南 枝 - cành nam để ví nơi ấm áp. Ngoài ra, cành phía nam của
cây mai nở rất sớm nên Nam chi còn được dùng để ám chỉ hoa mai.
Về nguồn gốc chữ Nam, như đã trình bày, chữ Nam và chữ Nhâm 任 đều xuất phát từ cùng một gốc mà ra. Kẻ thống trị tự
cho mình là người nuôi dưỡng nhân dân và xếp mình ở vào vị trí của người nuôi
dưỡng - Nam diện 南 面.
Hướng Nam chủ về sinh nên trong một số trường hợp nói đến công việc nhà nông
cũng xuất hiện chữ Nam: Nam mẫu 南 畝 - mẫu ruộng phía nam, Nam trì 南 池 - ruộng phía nam, Nam
mạch南 陌 - bờ phía
nam, Nam viên南 園- khu
vườn phía nam... Những từ này đều chỉ những nơi có đất đai tốt, cây cỏ xum xuê.
Có sinh trưởng mới sum suê, tươi tốt. Vinh hoa, phú quý của con người cũng giống
như sự sum suê tươi tốt của cây cỏ, cho nên bên cạnh nét nghĩa về sinh dưỡng,
chữ Nam còn tượng trưng cho phú quý. Trong Nam Kha thái thú truyện 南 柯 太 守 傳, Lý Công Tá 李 公 佐 đời
Đường 唐 có dùng từ Nam Kha 南 柯 - tức là cành cây hướng
về phương Nam (kha 柯 là cành cây lớn thẳng) kể về
câu chuyện Thuần Vu Phần 淳 于 棼 nằm ngủ dưới gốc cây hòe mé Nam nhà, mơ được lấy công
chúa Hòe An quốc 槐 安 國 và làm thái thú Nam Kha sống trong giàu sang, vinh
hoa, khi tỉnh dậy mới biết là giấc mộng mà thôi. Từ Nam Kha 南 柯 có dụng ý chỉ giấc mộng vinh
hoa, phú quý, sự giàu sang.
Trong các nét nghĩa hư chỉ, Nam đi cùng phú quý, Bạch Cư Dị
có câu: “Nam hạng hữu quý nhân 南 巷 有 貴 人”
(Ngõ Nam có quý nhân)
Nam còn mang nghĩa là tốt đẹp, Nam giản 南 澗 là khe suối phía Nam
mang nghĩa chỉ nàng dâu thảo. Trong Thi kinh có câu: “Nam giản chi tần
南 澗 之 蘋” (Hái rau tần ở phía Nam để dâng ông bà bên chồng)
Nam tượng trưng cho sinh mệnh, gắn với sự trường thọ, trong
văn học hay dùng từ Nam sơn 南 山, Nam nhạc 南 嶽 để chỉ sự trường thọ, sống lâu, ngoài ra còn có từ Nam
cực 南 極 cũng
mang ý nghĩa trường thọ, vì thế trong truyện thần tiên Trung Quốc, hình tượng Nam
Cực tiên ông南 極 仙 翁 luôn được thể hiện qua
hình ảnh ông lão râu tóc bạc phơ, tay bưng quả đào trường thọ.
Đào Uyên Minh 陶 淵 明 đời Tấn晋 đã phát triển nét nghĩa hư chỉ của Nam từ trường thọ của
chữ Nam tương thông với nghĩa là ẩn dật, ẩn cư: Diên mục thức Nam lĩnh
延 目 識 南 嶺 (Đưa
tầm mắt nhìn biết Nam lĩnh). Thức Nam lĩnh 識 南 嶺tức là tự mình đã rõ chân tướng
của ẩn cư. Từ nghĩa trường thọ, Nam sơn 南 山 còn có nghĩa là kiên cố, không dao động. Thơ Đào Tiềm 陶潛 cũng có câu:
Thái cúc đông ly hạ
採 菊 東 籬 下
Du nhiên kiến Nam
Sơn
悠 然 見 南 山
(Hái cúc ở giậu đông/ Thản nhiên nhìn núi Nam)
Cây cối ở phía Nam phát triển tươi tốt, nhà cửa quay mặt về
Nam đón được không khí ấm áp, an lành nên hướng Nam thuộc dương, sáng rõ gọi là Nam
dương 南 陽. Vì Nam là dương
nên liên quan đến nam giới, phía Nam vì thế thường là vị trí gắn với người con
trai, như Nam giao南 郊.
Để chỉ đàn ông có dung mạo tuấn tú, người ta dùng Nam phong南 風 hoặc có thể thay bằng Nam
sắc 男 色, Nam sủng 男 寵,
Nam phong 男風 [01; 104].
Trong lĩnh vực chính trị, chữ Nam, phương Nam ở vào địa vị thấp,
Nam là dưới, nên gọi là Nam hạ 南 下. Quan lại bị biếm trích lưu đày cũng bị đưa xuống phía Nam,
cách trung tâm đất nước nên Nam thiên 南 遷 nghĩa là quan lại bị biếm trích và từ Nam thán 南 嘆 thể hiện sự bất mãn khi
bị biếm trích ở phương Nam.
Nam chủ về sinh, nên có nghĩa là sống vì thế mới có từ Nam
tào南 曹, Nam tinh南 星 để nói về những vị thần nắm
giữ sự sống của con người. Trong Tả truyện 左 傳, Tấn hầu 晋 侯 đi thăm quân tử gặp Chung Nghi 鐘 宜 người nước Sở 楚 bị bắt
ở tù. Tấn hầu bảo đánh đàn, Chung Nghi ôm đàn gảy những bài đàn phương Nam
(khúc Nam âm 南 音)
của nước Sở, tỏ ý nhớ về Tổ quốc nên Nam âm南 音 mang nghĩa là thương nhớ Tổ quốc, lòng sắt son, trung
thành với Tổ quốc.
Từ nghĩa ban đầu là chủ về sinh, chỉ sự nuôi dưỡng, ấm áp,
tươi tốt, chữ Nam đã phái sinh ra nhiều hàm nghĩa văn hóa khác nhau. Bên cạnh
những ngữ liệu mang chữ Nam đều mang nghĩa tích cực thì trong ngôn ngữ văn học
cũng xuất hiện một số ngữ liệu mang tính tiêu cực, phản ánh tâm trạng buồn chán
của con người.
2.2. Một số nét nghĩa văn hóa cơ bản của chữ Bắc 北
Như trên đã trình bày, người Trung Hoa xưa kia đã căn cứ vào
sự chuyển hóa, sinh trưởng của trời đất, vạn vật mà định ra bốn phương. Nếu như
hướng Đông 東 là nơi mặt trời mọc, hướng Nam 南 là hướng đón lấy ánh sáng mặt trời. Hướng Tây 西 là nơi mặt trời lặn và hướng Bắc 北 theo
quan điểm nghiên cứu của Dương Lâm và một số nhà nghiên cứu cổ văn cho rằng, sườn
núi phía bắc vì thời gian mặt trời chiếu rọi ngắn nên băng đóng trường kì, cây
cỏ thưa thớt, không mọc được nên cảnh sắc ở đây hoang lạnh, tiêu điều. Như vậy,
trái ngược hoàn toàn với hướng Nam là sáng lạn, tươi tốt thì bắc lại gắn với u
tối, chết chóc. Bắc gọi là U 幽 và Nam gọi
là Minh 明. Nếu Nam thường mang những hàm
nghĩa tốt đẹp thì Bắc lại mang nghĩa tiêu cực, không tốt lành.
Là phương hướng ít được sự chiếu rọi của ánh sáng mặt trời, Bắc
thường mang nghĩa u tối, đất phương Bắc thường là vùng u tối. Từ Bắc sơn 北 山 hay Vũ sơn 羽 山 là để chỉ nơi u tối. Có
lúc người ta dùng U Châu 幽 洲 hoặc U Đô 幽 都 để chỉ những nơi u tối nói chung và âm phủ nói riêng.
Vì Bắc gắn liền với u tối, lạnh lẽo nên mang nghĩa không tốt đẹp, tượng trưng
cho sự bần hàn, hèn kém: “Bắc lý hữu hàn sĩ 北 里 有 寒 士” (Ở hẻm phía Bắc có kẻ hàn sĩ). Ngữ liệu Bắc lý 北 里 vừa mang nghĩa thực chỉ
đề cập đến nơi cụ thể của kẻ hàn sĩ là phía Bắc, vừa mang ý nghĩa hư chỉ, ám chỉ
sự nghèo khó của hàn sĩ. Do gắn với sự nghèo nên một số trường hợp xuất hiện từ
Bắc là điềm báo không may, không tốt. Chẳng hạn, mơ thấy Bắc thủ 北 首 là nói đến điềm mất, có
nghĩa tương phản hoàn toàn với ngữ liệu Nam Kha 南 柯 là ý muốn được giàu sang, phú quý.
Nam thuộc dương gắn với nam giới, Bắc là u tối, thuộc âm, có
mối liên quan đến nữ giới. Bắc đường 北 堂 là nơi phụ nữ cư trú, sinh hoạt và còn có nghĩa trực
tiếp là chỉ người mẹ. Ngoài ra để nói về mẹ, người ta cũng có thể dùng Bắc
đường huyên 北 堂 萱.
Thời xưa, các kĩ viện cũng được gọi là Bắc lý 北 里, chỉ nơi xấu xa, gắn với phụ
nữ, thường đặt ở phía Bắc thành 北 城 [1; 105]. Cho nên, cụm từ Vũ nhạcBắc lý 舞 樂 北 里 được dùng để ám chỉ loại nhạc dâm dật. Nếu Nam còn
mang hàm nghĩa chỉ sự sống, chủ về sinh trưởng, Bắc chủ về tử, hướng Bắc là hướng
tử vong, là nơi thu gom cất giấu muôn vật. Trong dân gian, để chỉ nơi chết chóc
người ta thường nói đến Bắc Mang 北 邙 hoặc Bắc Mang 北 芒, vốn trước có nghĩa là một vùng đất chuyên chôn cất người
chết. Trong tập quán tang tế của người phương Đông nói chung, người Đông Á nói
riêng, hướng Bắc luôn gắn với nơi an nghỉ của người chết, hai ý nghĩa này không
thể tách rời, vì thế người chết thường được mai táng ở phía Bắc, đầu quay về hướng
Bắc, gọi là Bắc thủ 北 首.
Trong các nét nghĩa văn hóa cơ bản của chữ Bắc, nét nghĩa gắn
với sự chết chóc thường được người ta sử dụng, chẳng hạn từ Bắc quân 北 君 là thần phương Bắc, thần
chủ về tử vong. Theo quan niệm dân gian, trên trời luôn có hai vị thần giữ sổ
sinh tử, quyết định vận mệnh con người, đó chính là Nam tào南 曹 giữ sổ sinh và Bắc
đẩu 北 斗quản sổ tử.
Trong Vu thuật cổ đại, người có thể gọi hồn người chết, nói chuyện với người chết
gọi là Bắc hải thuật 北 海 術. Từ địa danh núi Bắc Mang, nơi chôn cất của những bậc vương
hầu công khanh, người ta còn mượn từ Bắc Mang 北 邙 để chỉ cuộc đời phù sinh, tỏ nỗi lòng u hoài. Hình ảnh Bắc
thủ 北 首mô tả trạng
thái con người chết quay đầu về Bắc còn có nét nghĩa ám chỉ sự phản bội, đầu
hàng, thuần phục.
Như vậy, xét trong tư thế tương quan đối lập giữa hai chữ Nam
và Bắc, hệ thống nét nghĩa văn hóa của chữ Bắc luôn thể hiện ý nghĩa tiêu cực,
chết chóc, u ám. Vì vậy, trong các tác phẩm văn học hoặc cách phương thức diễn đạt
trong ngôn ngữ sinh hoạt, nếu xuất hiện những ngữ liệu mang từ tố Bắc thường
thiên về sắc thái âm tính.
3. Sự thể hiện của các nét nghĩa văn của Nam, Bắc trong văn học
trung đại Việt Nam
3.1. Hàm nghĩa văn hóa của chữ Nam trong văn học trung đại
VNam
3.1.1. Chữ Nam với nét nghĩa đầu tiên là chỉ về phương Nam,
hướng Nam trong tương quan với 3 phương hướng Đông, Tây, Bắc còn lại đã
xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học cổ điển:
Tự tùng biệt hậu đông nam kiếu
自 從 別 東 南 徼
Đông nam tri quân chiến hà đạo
東 南 知 君 戰 何 道
Chinh phụ ngâm
(Chàng từ sang đông nam khơi nẻo/Biết nay chàng tiến thảo nơi
nao)
Hay:
Đòi cơn gió táp mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm tòa cửa Nam
Truyện Kiều
3.1.2. Hướng Nam là hướng đón ánh nắng mặt trời, là nơi nuôi
lớn của trời đất, muôn vật được nuôi dưỡng, đem lại sức sống cho vạn vật nên
người xưa luôn quan niệm gió Nam (Nam phong 南 風) mang đến sự tốt lành, yên bình. Trong bài Hiểu
quá Hương giang曉 過 香 江 của Cao Bá Quát 高 伯 适 cũng
có câu:
Kiều đầu xa mã phi ngô sự
橋 頭 車 馬 非 吾 事
Phả ái Nam phong giác chẩm biền 頗 愛 南 風 角 枕 緶
(Đầu cầu xe ngựa ta nào tưởng Tưởng trận Nam phong quạt
giấc nồng)
Nam thường mang ý nghĩa tốt đẹp. Trong Lục Vân Tiên 陆 雲 仙, khi Vân
Tiên cùng Hỷ Đồng đến nhà Võ Công ra mắt, Võ Công liếc coi tướng mạo chàng thấy
“mày tằm, mắt phụng, môi son”, mang cốt cách của bậc tài hoa, đấng quân tử nên
đã cất lời khen ngợi Vân Tiên xứng đáng là con rể quý để kết duyên cùng Võ Thể
Loan xinh đẹp, ngoan hiền, đúng mực là nàng dâu thảo:
Nhắm đà đẹp đẽ hòa hai
Kìa dâu Nam giản, nọ trai Đông sàng
Nguyễn Đình Chiểu đã dùng tích Nam giản 南 澗 trong Kinh thi để chỉ nàng dâu hiền thảo. Trong Sơ
liêm đạm nguyệt mai hoa 初 廉 淡 月 梅 花 của Miên Thẩm 綿 審 cũng có câu:
Nam chi khai biến
南 枝 開 變
Xuân lai bất giác
春 來 不 覺
(Cành nam nở hết, Xuân sang chẳng biết)
Hướng Nam chủ về sinh, Nam gắn với sự sống, trong văn học thường
dùng hình ảnh Nam tào南 曹, Nam
tinh南 星 vốn là tên chòm
sao để chỉ vị thần giữ sổ sinh tử của người trần:
Phải chi hỏi đặng Nam Tào
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau...
Lục Vân Tiên
Hay trong Sơ kính tân trang 梳鏡新妝,
sau khi phong trào Cần vương thất bại, vợ chồng Phạm Công lần lượt qua đời (đỉnh
dĩ- chỉ mẹ, ngàn thông- chỉ cha), Phạm Kim bày tỏ nỗi buồn đau trước cảnh mất
mát người thân, “Nam tinh”- là ngôi sao chỉ sự sống, quản sự sống nay đã bị mây
lồng cũng giống như sao Bắc cực đã chìm mất:
Sương đỉnh dĩ, tuyết ngàn thông
Sao chìm Bắc cực, mây lồng Nam tinh
Sơ kính tân trang
3.1.3. Hàm nghĩa văn hóa của chữ Nam gắn liền với phú quý.
Trong Cung oán ngâm khúc 宮怨吟曲, người cung nữ
sau những ngày đầu được quân vương yêu chiều, say đắm, nay đã bị đấng cửu trùng
lãng quên, nàng cảm nhận được rằng hạnh phúc chỉ như một giấc mộng hão, đêm
khuya lạnh ngắt giữa chốn tiêu phòng nàng giật mình thổn thức cho số phận của
mình:
Giấc Nam Kha khéo bất bình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không
Cung oán ngâm khúc
Hay Nguyễn Đình Chiểu trong Dương Từ Hà Mậu 楊徐何茂 cũng viết:
Bên hang có tấm đá hoa
Chạm vào bốn chữ Nam Kha mộng sàng
3.1.4. Nam mang ý nghĩa là trường thọ, ẩn dật. Đây là một
trong những nét nghĩa thường thấy trong các điển cố văn học cổ điển Việt Nam.
Chẳng hạn, Nguyễn Công Trứ trong bài Vịnh Nhàn đã viết:
Dưới giậu thu thấp thoáng bóng Nam San
Ngoảnh mặt lại cửu hoàn xem cũng nhỏ
Từ Nam San 南 山 được lấy ý từ trong thơ Đào Tiềm 陶 潛:
Thái cúc đông ly hạ 採 菊 東 籬 下
Du nhiên kiến Nam
Sơn 悠 然 見 南 山
(Hái cúc dưới giậu đông, Thản nhiên nhìn núi Nam)
Qua câu thơ trên, dường như Tồn Chất tiên sinh muốn nói lên
tâm sự muốn được sống ẩn dật, an nhàn của bản thân, ông muốn được tránh xa chốn
quan trường xô bồ, bon chen.
Hoặc như Cao Bá Quát đã từng tâm sự:
Quần sơn Nam vọng độc chi
di
群 山 南 望 獨 之夷
Dao tưởng tiên sinh vị lão thùy
遥 想 先 生 未 老 垂
Họa Uy Viễn thất thập tự thọ 畫 威 逺 七 十 字 夀
(Đứng ngắm núi Nam chỉ một mình, Nhớ ngày trai trẻ của tiên
sinh)
Cùng nỗi niềm u uất ấy, thi sĩ Tố Như 素如 cũng
đã hạ bút:
Tha nhật Nam qui tương hội phỏng
他日南 歸 相 會 訪
Lục Đầu giang thượng hữu tiều ngư 六 頭 江 上 有 樵 漁
Lưu biệt cựu khế Hoàng 留 別 舊 契 黃
(Về Nam mai mốt lân la, Lục Đầu bến nước hỏi tra ngư tiều)
Hàm nghĩa văn hóa của chữ Nam gắn liền với ý niệm về sự trường
thọ, trong bài Thơ họa mừng tiệc sinh nhật Thanh Xuyên hầu, Phạm Thái
đã viết rằng:
Nam đài vâng nghĩ dâng thơ thọ
Phận mọn, ơn sâu, nghĩ vắn dài…
Nhà thơ dùng từ Nam đài 南 台 vốn xuất hiện trong Kinh Thi (Nam Sơn hữu đài 南 山 有 台) để ngỏ ý khen ngợi người hiền lại được sống lâu. Với thi
liệu này, Phạm Đan Phượng vừa ngầm khen Thanh Xuyên Hầu là bậc hiền nhân, vừa
ngầm chúc ông được sống lâu trăm tuổi.
3.1.5. Vì Nam chủ về sinh nên Nam thuộc dương và có mối liên
hệ với con trai, cho nên phương mà người con trai ở thường gắn với Nam,
hoạt động cũng gắn với Nam. Trong văn học cổ trung đại Việt Nam, ý nghĩa này
cũng được các văn nhân sử dụng khá nhiều. Trong Chinh phụ ngâm, người
chinh phụ sau nhiều năm xa chồng, nỗi nhớ thương ngày càng chồng chất, choáng
ngợp tâm hồn nàng. Vì thế nàng ngồi hướng vọng theo phương chồng đi chinh chiến:
Nam lai tỉnh ấp bán binh trần
南 來 井 邑 半 兵 塵
Lạc nhật bình sa lộ nhất quần
落 日 平 沙 鷺 一 群
(Trông bến nam bãi chia mặt nước, Cỏ biếc um dâu mướt màu
xanh)
Đôi khi chữ Nam còn được sử dụng để thể hiện chí khí của người
quân tử, chẳng hạn Cao Chu Thần đã từng mô tả như sau:
Bờ Nam Đức Giang, đỉnh núi Nguyệt Hằng
Trên có cây tùng, cây bách đang chết dở
Giữa trời đông rét mướt mà vẫn đứng hiên ngang?
Ba cái roi song
Và có lúc, chữ Nam còn dùng để hư chỉ chiến công của người
con trai, trong Truyện Phan Trần, sau những tai biến và lưu lạc, chàng
Phan Sinh cùng nàng Kiều Liên đã được đoàn tụ, Phan Sinh đi thi, lập nên công
danh và được vua cử đi dẹp giặc, chàng trở về trong chiến thắng vinh quang:
Đông Nam chỉ ngọn cờ mao
Non xanh sấm dậy, ba đào gió rơi
Cũng giống như chữ Đông, Nam cũng gắn với con trai, Nam
lâu 南 樓 tức lầu ở
phía Nam, đây ám chỉ về nam giới hoặc nơi ở của con trai:
Cửa trình thoắt đã gần gần
Nam lâu dưỡng tính, tây tân kén tài
Sơ kính tân trang
Xiết bao kể nỗi thảm sầu
Khắc canh đã gục Nam lâu mấy hồi
Truyện Kiều
Chữ Nam, từ nghĩa ban đầu là chỉ về một trong bốn phương của
trời đất trong quá trình phát triển cùng với nền văn hóa của nhân loại nói
chung và của văn hóa phương Đông nói riêng đã phái sinh thêm nhiều nghĩa mới. Một
điều dễ nhận thấy là những hàm nghĩa văn hóa mới này đều mang ý nghĩa tốt đẹp,
tích cực. Trong những tác phẩm khi có chữ Nam xuất hiện dường như đều mang lại
những niềm vui, sự hạnh phúc.
3.2. Hàm nghĩa văn hóa chữ Bắc trong văn học trung đại
Việt Nam
3.2.1. Chữ Bắc là một phương vị từ trong tứ phương của
trời đất, là một trong những phương vị cơ bản của hệ thống định vị tứ
phương của con người, Bắc cũng đã đi vào trong tác phẩm văn thơ cổ như một ngữ
liệu quan trọng giúp thi nhân có thể phản ánh không gian nghệ thuật của thi phẩm:
Bấy lâu Nam Bắc Đông Tây
Bước chân xa cách, tấc lòng quặn đau
Nhị độ mai
Thi hào Nguyễn Du 阮攸trong Phản
chiêu hồn 反招魂 cũng sử dụng từ này để miêu tả
không gian của sự cô đơn, lạc lõng của nhà thơ Khuất Nguyên 屈原 trong
buổi loạn ly, phải chăng đó cũng là tâm sự của một kẻ du ca đang đi tìm một
phương trời để nương tựa:
Hồn hề! Hồn hề! Hồ bất
qui? 魂 兮! 魂 兮! 乎 不 歸?
Đông Tây Nam Bắc vô sở y 東 西 南 北 無 所 依
(Hồn ơi, hồn ơi, sao chẳng về, Đông tây nam bắc không tựa
kề)
Để phác họa không khí chia xa, cách trở đôi đường trong một
khung cánh chia li, Đồ Chiểu cũng sử dụng hai phương vị từ Nam – Bắc:
Hai hàng lụy nhỏ ngọc sa
Trời Nam đất Bắc xót xa đoạn tràng...
Lục Vân Tiên
3.2.2. Bắc gắn với u tối, lạnh lẽo, vì thế những câu thơ xuất
hiện chữ Bắc thường tạo nên một âm hưởng hoang vắng, tàn tạ, nhạt nhòa. Trong
tâm trạng nhớ nhung người chồng nơi chiến trận, người chinh phụ đã dõi mắt theo
hướng Bắc ngóng trông bóng dáng chinh phu, thế nhưng nàng chỉ thấy ở phương đó
chỉ toàn là những cảnh hoang vắng, lẻ tẻ vài chòm quán khách, giữa muôn trùng
núi non, nghe tiếng địch trên lầu cao tê tái nỉ non:
Bắc lai hòa thử bán hoang
thành 北 來 和 此 半 荒 城
Vi vũ giang lâu địch nhất thanh
微 雨 江 樓 笛 一 聲
Chinh phụ ngâm
(Trông đường Bắc đôi chòm quán khách
Rườm rà cây xanh ngắt núi non
Lúa thành thoi thóp bên cồn
Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu)
Hàm nghĩa văn hóa của phương vị Bắc luôn gắn với u tối nên gợi
ra tâm trạng buồn bã. Cao Bá Quát khi làm quan ở kinh thành Huế, một hôm gặp
được người ở quê vào kinh đô chơi, sau những lời trò chuyện tâm tình trong lòng
ông thổn thức nỗi nhớ cố hương, nhớ gia đình nên viết:
Trường đình Bắc cố vân thiên viễn 長 亭 北 固 雲 千 遠
Xuân tận thùy chiêu vị tử hồn?
春 盡 誰 昭 為 子 魂?
(Đoái trông nẻo Bắc trời mây thẳm, Chưa chết xuân đi ai gọi hồn)
Nam trung tạp ngâm 南 中 雑 吟 là
tập thơ chất chứa tiếng thở dài, một tâm trạng u uất, bế tắc, một trái tim luôn
tha thiết với nhân dân, với quê hương của Tố Như Tử, trong Tân thu ngẫu hứng 新 秋 偶 興, ông đã viết:
Giang Thành nhất ngọa duyệt tam
chu
江 城 一 卧 悅 三 周
Bắc vọng gia hương thiên tận đầu
北 望 家 鄉 天 盡 頭
(Giang Thành nằm mãi ba năm rồi, Ngóng Bắc quê nhà cuối tận
trời)
Ngữ liệu Bắc vọng 北 望 trong hai câu thơ trên chính là sự mong ngóng nhớ
nhung về quê nhà trong nỗi cô đơn, u hoài. Đó cũng là tâm sự của những ngày làm
quan ở Huế nhưng lòng luôn đau đáu nỗi nhớ quê hương.
3.2.3. Ngoài những nét nghĩa trên, hàm nghĩa văn hóa của chữ
Bắc còn gắn liền với cõi âm, thiên về nét nghĩa chỉ sự chết chóc, thê lương.
Trong Nhị Độ Mai, nàng Hạnh Nguyên từ biệt Mai Sinh khi bị cống cho quân
Sa Đà đã trao tặng chàng cành thoa để hẹn ước duyên về sau:
Rồi đây kẻ Bắc người Nam
Cành thoa xin tặng để làm duyên sau
Cụm từ kẻ Bắc người Nam vừa chỉ hiện thực rồi đây
hai người đôi ngả- nàng về phương Bắc làm Yên Chi, chàng ở lại phương Nam, câu
thơ như có sự dự báo về cái chết của nàng, bỏi lẽ trong cụm từ trên, chữ Bắc vừa
thực chỉ phương hướng nhưng cũng vừa hư chỉ sự chia ly, tang tóc. Quả thật, ở
đoạn sau của thiên truyện, nàng đã trầm mình xuống đầm tự tử nhưng đã may mắn
được Chiêu Quân cứu thoát. Còn Mai Sinh (Mai Lương Ngọc) khi đến nhà họ Châu vì
làm mất thoa nên mang bệnh nặng, thuốc thang không chữa được, mới có lời rằng
khi chết hãy chôn mình theo hướng Bắc để hàng ngày được dõi theo bóng Hạnh
Nguyên – người con gái mà chàng ngày đêm ngóng trong đang bị cống cho giặc Hồ ở
phương Bắc, đồng thời đó cũng chính là hướng của người chết:
Dù khi giải kết bao giờ
Phong phần chính Bắc xin nhờ nhớ cho
Hướng Bắc là nơi tối tăm, lạnh lẽo, mang ý nghĩa tử
vong không tốt lành, và đây là nơi trú ngụ của linh hồn người chết
cho nên trong Phan Trần đã dùng hình ảnh Bắc cực để
nói về cái chết :
Sương đỉnh Dĩ, tuyết ngàn thông
Sao chìm Bắc cực, mây lồng Nam tinh...
3.2.4. Cũng giống như Đông - Tây, Nam thuộc dương, gắn liền với
nam giới, Bắc thuộc về âm, chỉ về nữ giới, thường nơi ở của nữ giới nằm ở hướng
Bắc:
Cửa Bắc cây chen màu “thảo dĩ 草 已 ”
Lầu Nam nguyệt rạng vẻ “trường cung 長 弓”
Lầu vàng đúc vành gương báu
Vành vạch châu trao chiếc lược hồng...
Sơ kính tân trang
Bốn câu thơ nhắc lại ước cũ hai nhà Trương - Phạm xưa kia: họ
Phạm trao cho nhà họ Trương chiếc lược (Sơ 梳) ngọc mà ở
cửa Bắc Quỳnh Nương đang giữ: “thảo dĩ” tức là chỉ vật đính ước của nhà họ Phạm:
Thảo艹+ Dĩ 已 = Phạm 范. Còn họ Trương giao cho họ Phạm gương vàng (kim 金), và ở phía lầu Nam, Phạm Kim luôn đeo vật đính ước của nhà
họ Trương bên mình, chữ Trường cung nghĩa là: Trường 長 + Cung 弓 = Trương 張.
Như trên đã trình bày, nếu Nam 南 thiên
về nghĩa sinh sôi, tốt đẹp thì Bắc北 lại hàm chứa sự
u buồn, lạnh lẽo và chết chóc. Đối với những tác phẩm, những câu thơ chứa đựng
từ Bắc luôn gợi cho người đọc không khí u hoài, buồn bã, chia cách. Việc sử dụng
chữ Bắc và các hàm nghĩa văn hóa trong văn chương đã giúp cho sự diễn đạt sinh
động hẳn lên, làm cho các hình tượng văn học lấp lánh những ánh sáng mới đồng
thời khiến cho các câu văn, đoạn thơ trở nên gọn gàng, ý vị đầy sức thuyết phục.
Nhìn chung, xét từ góc độ trường văn hoá, ý nghĩa phái sinh của
Nam và Bắc được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam đã thể
hiện sự phù hợp với kiểu tư duy và thi pháp mang tính quy phạm của thời trung đại.
Nó phù hợp với đặc tính giàu biểu cảm, thâm thúy, chuộng bộc lộ cái thần, cái cốt
lõi, nói ít hiểu nhiều của ngôn ngữ văn chương cổ điển Việt Nam. Sự xuất hiện
các từ ngữ văn hóa trong ngôn ngữ tác phẩm cổ điển đã giúp cho nghệ thuật phô
diễn trở nên súc tích, linh hoạt, thần tình và đa dạng hơn, góp phần tạo nên một
nét đặc trưng tiêu biểu cho tư duy biểu tượng của các tác gia văn học trung đại
Việt Nam.
Tài liệu tham khảo chính
1. Dương Lâm (1996), Hán ngữ Từ hội dữ Hoa hạ văn hóa 漢 語 詞 匯 與 华 夏 文 化, Nxb Ngữ văn Trung Quốc (bản Trung văn)
2. Võ Minh Hải (2008), Hàm nghĩa văn hóa của hai chữ
Đông và Tây trong văn học trung đại Việt Nam, TC Ngôn ngữ và Đời sống (Số
1 và 2).
3. Nhiều tác giả (2000), Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập
5, 6), Nxb KHXH, H.
Quy Nhơn, 8/11/2011
Võ Minh Hải
Trả lờiXóaeva air
các hãng máy bay đi mỹ
korean air vietnam office
vé máy bay đi mỹ bao nhiêu
vé máy bay đi canada tháng nào rẻ nhất
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich