Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2017

Thanh Tâm Tuyền - Thi sĩ tuyệt vọng trần truồng

Thanh Tâm Tuyền
Thi sĩ tuyệt vọng trần truồng
Viết về Thanh Tâm Tuyền là một đề tài nhạy cảm ở thời điểm hiện nay, bởi rất dễ gây ra những ngộ nhận cách này hay cách khác. Vì thế cần nhìn nhận vấn đề trên quan điểm lịch sử và phương pháp phân tích khoa học, cùng với tấm lòng trân trọng thi ca dân tộc. Cũng cần lưu ý rằng có một Thanh Tâm Tuyền ngoài đời, con người xã hội và Thanh Tâm Tuyền trong thơ của ông, con người thi sĩ. Hai con người này không đồng nhất, và không nên đồng nhất hai con người này. Đã có một thời người ta  đồng nhất con người xã hội và con người nhà thơ nhà văn, khiến cho Nguyễn Du, các nhà văn của Tự Lực Văn Đoàn, Vũ Trọng Phụng… một thời không được đánh giá đúng tài năng và những đóng góp cho lịch sử văn chương Việt Nam. Thanh Tâm Tuyền là một hiện tuợng thơ đặc biệt góp phần cách tân thơ ca ở miền  Nam sau 1954, nhưng thơ ông không dễ đọc.
1. “Hoàng đế đầy đủ quyền uy”
Thanh Tâm Tuyền có một vương quốc thơ. Người đọc thơ  ông là người hoàn toàn tự do, có thể đọc và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ. Nhưng nếu muốn nhập lãnh thổ thơ ông, người đọc phải thần phục những luật lệ tinh thần do ông  đặt ra. Ông nói với người đọc:
«Ở đây tôi là hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào trong đất đai của tôi, người hoàn toàn tự do. Để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ. Người hoàn toàn tự do. Và có thể ném cuốn sách ra cửa s.» (1)
Đó là những lời thách thức  cao ngạo đối với độc giả đương thời. Cao ngạo là một thứ bệnh tự huyễn hoặc của nhà thơ, nhà văn. Xưa nay thường thế, vừa như một cá tính, vừa như để bắt thiên hạ phải chú ý đến mình, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Tản Đà, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu …đã từng một thời  cao rao: “Ta là một là riêng là thứ nhất “ (Xuân Diệu), “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn“. Thanh Tâm Tuyền tự phong mình là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy trong lãnh thổ thơ của mình, bắt người đọc phải thần phục, thì cũng là một cách chơi ngông như thế. Nhưng Thanh Tâm Tuyền thách thức thiên hạ, và lời  thách thức ấy cho đến nay dường như vẫn còn nguyên giá trị.
Người ta ca ngợi, người ta khẳng định tài năng Thanh Tâm Tuyền, và đòi phải xác lập vị trí của ông trong thơ ca Việt Nam hiện đại, thế nhưng dường như chưa có ai thực sư thâm nhập được vùng đất đai thơ Thanh Tâm Tuyền. “Người đọc theo dõi, tìm hiểu, chứ thật sự yêu thích thì không nhiều; cũng có người, có bài báo chê trách là thơ lập dị, bí hiểm, hũ nút“ (2)
Chẳng hạn, đọc bài Tĩnh Vật (tạp chí Sáng Tạo, số Xuân 1957), Phạm Việt Tuyền  chỉ tiếp cận được một cách  cảm tính, ông không đọc được bằng  trí tuệ, bởi vì trí tuệ  bất lực trước một cấu trúc ngôn ngữ  mới lạ: “Đấy là thứ thơ phải hiểu bằng trực giác, phải nhờ tưởng tượng và tình cảm để nếm cái khoái trá bí mật nhưng có thật đối với những kẻ định dùng cân lượng của văn xuôi mà đo lường...”
(3)
Phạm Xuân Nguyên, gần 40 năm sau (1994), dẫn bài Tĩnh Vật như là tiêu biểu thơ tự do của ThanhTâm Tuyền, cũng không có một kiến giải nào về bài thơ trên (có lẽ không  nhập được vào lãnh thổ thơ Thanh Tâm Tuyền). Ông muợn ý cuả Phạm Việt Tuyền, Cao Thế Dung và Trương Vũ để kết: “Nhận xét của Cao Thế Dung và Trương Vũ, theo tôi, đã nói được khá chính xác giá trị thơ Thanh Tâm Tuyền và ý nghĩa cuộc đổi mới thơ của ông đối với thơ Việt miền Nam nói riêng và thơ Việt nói chung“ (4)
Vậy làm thế nào để nhập vào được lãnh thổ thơ Thanh Tâm Tuyền? tất nhiên là phải thần phục những luật lệ tinh thần do Thanh Tâm Tuyền đặt ra. Những luật lệ ấy là gì?
Theo tôi đó là “thi pháp“ của thơ Thanh Tâm Tuyền. Không khám phá thi pháp này, không thể đọc thơ ông.
Đặng Tiến cho rằng “Thanh Tâm Tuyền phá vỡ cái vỏ ngữ âm của câu, hay bài thơ: loại trừ vần, không theo nhịp của ngôn ngữ, xáo trộn thanh điệu bằng trắc; muốn như thế, ông phải sắp xếp lại ý tưởng, hình ảnh, để làm mới ngôn ngữ. Thơ xưa đem tư tưởng ra «diễn ca», còn Thanh Tâm Tuyền tháo gỡ guồng máy ngôn ngữ ra từng bộ phận rồi lắp ghép lại thành những chức năng mới, trong văn bản mới.” (5)
Nhận xét trên của Đặng Tiến là có cơ sở, nhưng chỉ ở mặt kỹ thuật viết, kỹ thuật Tân Hình Thức. Điều này Nguyễn Xuân Sanh đã làm rất đạt từ trước Thanh Tâm Tuyền (chẳng hạn bài Buồn Xưa ). Thanh Tâm Tuyền không phá vỡ vỏ ngữ âm cuả câu, hay bài thơ. Đọc thơ Thanh Tâm Tuyền, người đọc luôn nghe một giọng trầm buồn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng. Thanh Tâm Tuyền vẫn triệt để khai thác nhịp điệu thơ. Ông dùng nhiều kiểu  trùng điệp, kiểu ngắt nhịp, kiểu câu dài ngắn xen kẽ, kiểu câu kể xen với câu trữ tình, câu độc thoại…
Vậy cốt lõi thi pháp của thơ Thanh Tâm Tuyền là gì?
Đó là nguyên tắc sáng tác có nền tảng tư tưởng và nghệ thuật dưạ  trên chủ nghiã Hiện Sinh, chủ nghĩa siêu thực và kỹ thuật tân hình thức. Thanh Tâm Tuyền đã kết hợp cả ba ý thức nghệ thuật trên cùng một lúc trong tác phẩm cuả ông để làm nên sự mới lạ trong thơ.
Thơ Thanh Tâm Tuyền (TTT), mỗi bài thơ là một  dòng  ý thức, một trạng thái hiện sinh cuả nhà thơ, không phải dòng chảy tâm trạng như trong thơ Lãng Mạn. Đây là một bước cách tân, đưa thơ Lãng Mạn 193-1945 vào bảo tàng quá khứ. Vì đặc điểm căn bản cuả Thơ Mới là dòng chảy tâm trạng trước thực tại, là sự tồn tại Cái Tôi tiểu tư sản trong thơ. Thơ TTT ở hai tập thơ đầu, được viết với kỹ thuật  dòng ý thức. Thơ là dòng ý thức tuôn chảy, như một sông, ở đó những tư tưởng, cảm xúc, liên tưởng bất chợt, luôn lấn át nhau, đan bện vào nhau kỳ quăc và phi logic. Hiện thực bị cắt vụn, bị phân ly, ném đi mỗi nơi một mảnh. “Cái tôi“ tồn tại trực tiếp trong ý thức. Bài thơ không có bối cảnh hiện thực. Không gian thời gian bị tước bỏ  vai trò làm bối cảnh, chỉ còn cái lõi là dòng ý thức. Dòng chảy ý thức ấy không còn bám rễ được vào hiện thực khiến cho nó trở nên thực sự không hiều được.
Nếu dòng ý thức tạo nên cấu trúc tác phẩm thì những mảng hình ảnh siêu thực lại là phương cách TTT thể hiện ý thức.Thơ Thanh Tâm Tuyền đầy dẫy những hình ảnh siêu thưc, như trong những giấc mơ  quái gở. Giải mã những giấc mơ như thế là vô nghiã. Nhưng nó lộ ra những  vùng sâu thẳm trong ý thức cuả Thanh Tâm Tuyền đối với thực tại . Chẳng hạn: Giấc mơ  “tôi thèm giết tôi“ bằng cách  bóp cổ chết, giấc đi tìm thần chết, nắm tóc bắt thần chết gật đầu …
tôi thèm giết tôi
loài sát nhân muôn đời
tôi gào tên tôi thảm thiết
thanh tâm tuyền
bóp cổ tôi chết gục
(Phục Sinh)
Từ biệt nàng tôi hỏi
Em đã chết rồi chăng?
Trong quan tài nàng đáp
Ôi đất lạnh mưa băng
Tôi tìm thần chết hỏi
Nàng được tự do chăng?
Thần chết câm và điếc
Tôi nắm tóc bắt gật đầu
Và trở về dương thế…
(Sầu Khúc)
Ta đã gặp đâu đây những cơn mộng mị hoảng loạn như thế trong thơ của Hàn Mặc Tử:
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
(Say Trăng)
Đêm nay ta khạc hồn ra khỏi miệng
Để cho hồn bớt nỗi bi thương
Nhưng khốn nỗi, xác ta đành câm tiếng
Hồn đi rồi khôn nhập xác thê lương
(Hồn Lià Khỏi xác)
Quả thật, không phải vô tình mà TTT ca ngợi Hàn Mặc Tử, vì trong dòng Thơ Mới 1930-1945, Hàn Mặc Tử đã vượt qua Tượng Trưng để đến với Siêu Thực.
Về ngôn từ, Thanh Tâm Tuyền dùng nhiều phép so sánh, ẩn dụ. Để hiểu những ẩn dụ này, người đọc phải vượt qua nhiều liên tưởng mới tới được ý nghiã thực. Nhiều ẩn dụ đòi hỏi những bước liên tưởng quá xa, không sao lần ra nguồn cội, người đọc mệt trí và bất lực.
tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng bên bờ sông
nước đen sâu thao thức
(Phục Sinh)
Câu “tôi buồn chết như buồn ngủ/ dù tôi đang đứng bên bờ sông“ là một so sánh bình thường, vế so sánh đã có chút mới lạ. Đến câu “nước đen sâu thao thức“ phép ẩn dụ đã đưa tư duy người đọc đi rất xa, câu thơ trở nên đa nghiã. Có thể là: tôi đứng bên bờ sông nước đen, dòng nuớc sâu thao thức; hoặc tôi đứng bên bờ sông, đêm đen, sâu thẳm, tôi thao thức về trạng thái “buồn chết‘…
Trong một câu thơ, đôi khi TTT lắp ghép thật nhiều hình ảnh thuộc những trường nghiã khác nhau, khiến cho người đọc không sao lần ra những mối quan hệ giưã chúng
bàn tay/  mày/ mắt/  trăng/  môi/  nhiệt đới
chiến tranh còn những khoảng trống đất hoang
(Chim)
Câu thơ TTT cũng được thiết kế theo một cách riêng, ông không  ngắt câu theo cú pháp thông thường , mà viết liền mạch các câuliên tiếp chồng lên nhau hoặc cắt vụn cấu trúc câu ra chỉ còn đơn vị từ. TTT cũng tạo ra nhiều kiểu bố cục mới lạ, ý tứ không được sắp xếp  theo logic  bình thường mà đảo lộn bất thường. Chẳng hạn, mở đầu bài thơ là một loạt những  cận ảnh, sau đó  ống kính lùi dần, lộ ra câu thơ chủ thể. Câu thơ mang ý nghiã  chủ đề có thể đứng ở giưã hoặc cuối bài (Nhịp Ba; Chim; Định Nghiã Một bài thơ Hay; Một Bài Thơ; Cỏ ..) Người đọc phải biết ngắt câu thơ TTT đúng cách, biết tìm ra cấu trúc bài thơ trong đó ý tưởng chủ đạo bị ẩn dấu, bị vây quanh, bị làm nhiễu bởi những hình ảnh siêu thực, những ẫn dụ, nhữ đan bện phi logic pha tạp của ý thức, cả cái thực và cái hoang tưởng. Tức là phải tháo rời bài thơ ra, lắp ráp lại, phải xoay sở tìm cho được cái logic đã bị phá vỡ, giải mã những ẫn dụ, phải đọc nhiều lần bài thơ may ra trí tuệ mới tìm ra lối vào.
Xin đem tất cả những kỹ thuật cuả thi pháp TTT nêu trên để thử sức với bài Tĩnh Vật
(bài thơ mà cả Phạm Việt Tuyền và Phạm Xuân Nguyên, cách nhau gần 40 năm, đều không có một lời minh giải)
Mẩu bánh mì ở góc bàn
Và cốc nước trong như mắt đẹp     
Thôi/ để giấc mơ lên cỏ hoa
Hiện hình nỗi chết
Từ ngón tay
Hết cả niềm hồn hậu
Người đau bằng màu bằng âm thanh
Những ngày nghèo đói
Ăn mày
Cố sức/ tiếng cười trên cổ nõn
Tóc mai

Phố nhỏ lên chiều/ mãi nhớ thương
Người nhổ muôn ngàn giấc máu ra khỏi ngực
Là tĩnh vật
Kẻ đi ngoài kia la vào mồm
Sống.
(Sáng Tạo, số Xuân 1957)
Bài thơ được viết liền mạch, tôi thử tách dòng phân đoạn bố cục, và ngắt ý bằng vạch nhịp, in đậm những chữ cần chú ý, để khi nhìn vào chúng trong tổng thể bài thơ, sẽ nhận ra những  mối quan hệ nào đấy:
Hai câu đầu có thể là bức tranh tĩnh vật, được tả thực với phép so sánh bình thường.
Mẩu bánh mì ở góc bàn
Và cốc nước trong như mắt đẹp     
Đến câu thứ ba,  dòng ý thức hiển lộ nhanh, trực tiếp, pha tạp, đan bện phi logic nhiều
 hình ảnh chớp nhoá. Hiện thực bị cắt ra, vứt chỗ này một mảnh, chỗ kia một mảnh, cần phải hàn gắn chúng lại:
Ta hình dung ra thế này: Đó là buổi chiều, nơi con phố nhỏ, TTT nhìn thấy (trong ý thức cuả mình), những kẻ đi ngoài kia la lối đòi sống. Đó là những số phận nghèo đói, ăn mày, đau thương, nhổ máu ra khỏi ngực, nỗi chết chực chờ, đã cố sức nhưng không sao thoát khỏi nỗi tuyệt vọng, hết cả niềm hồn hậu. Thôi/ để giấc mơ lên cỏ hoa.
Dòng ý thức cứ tuôn chảy. Những hình ảnh xuất hiện liên tiếp như trong giấc mơ hỗn độn, không có gốc rễ. Bức tranh tĩnh vật ở hai câu đầu nhập nhoà với thực tại. Cuộc sống đang bày ra trong dòng ý thức cuả TTT cũng là tĩnh vật. Tại sao lại “Là tĩnh vật“, vì cuộc sống nghèo đói, ăn mày, đau thương, nhổ máu ra khỏ ngực, nỗi chết cuả hiện thực miền Nam lúc bấy giờ cứ bày ra đấy ngày này qua ngày khác, không có gì thay đổi, như bức tranh tĩnh vật treo trên tường kia, chỉ từng ấy sự vật, không thay đổi, một bức tranh chết. Nỗi bi đát cuả những thân phận người  chính là ở chỗ: cuộc sống là Tĩnh vật, tuyệt không có gì thay đổi, dù cố sức mà la vào mồm đòi sống.”La vào mồm“ là một cụm từ lạ. Đó là hình ảnh những con người trong một cuộc đấu tranh xô xát ở ngoài kia, (chẳng hạn trong những cuộc biểu tình xô xát với cảnh sát), mặt đối mặt, sấn sổ vào nhau, mồm sát mồm, gào thét lên như “la vào mồm“ nhau, quyết liệt
Trước thực tại “hiện hình nỗi chết, Hết cả niềm hồn hậu ấy“, Thái độ tình cảm cuả TTT là gì? TTT bi thương, phẫn nộ, tuyệt vọng. Thái độ tình cảm ấy ẩn dấu trong những hình ảnh, những động từ mạnh “nhổ máu ra, la vào mồm/ sống. Nhịp thơ ngày càng ngắn lại, quyết liệt, sau cùng chỉ còn duy nhất mộ chữ SỐNG  cuồng nộ bi thương.
Phố nhỏ lên chiều/  mãi nhớ thương
Người nhổ muôn ngàn giấc máu ra khỏi ngực
Là tĩnh vật
Kẻ đi ngoài kia la vào mồm
Sống.
TTT dành tình cảm sâu nặng cho những kiếp người nghèo đói, ăn mày,  đau thương, nhổ máu ra khỏi  ngực , nỗi chết chực chờ, đã cố sức nhưng không sao thoát khỏi nỗi tuyệt vọng  trong thế giới này. TTT đau nỗi đau thân phận thời đại. Giọng thơ buồn sâu thẳm, bi phẫn.
Bạn đọc sẽ hỏi, vậy những chữ trong bài thơ tôi chưa nói tới có ý nghiã gì? thực ra đó là những từ cuả phép ẩn dụ (so sánh ngầm). Nó tạo ra sự phong phú cuả hình ảnh thơ, tạo ra sự lấp lánh cuả nhiều lớp nghiã , và có tác dụng gây nhiễu với kiểu đọc logic. Hiểu được chúng cũng được, bỏ qua cũng không sao, cái chính là nắm cho được dòng ý thức cuả TTT, nhận cho ra cái  hiện thực TTT đang đối diện và đào xới cho được cái mạch ngầm tình cảm ẩn trong con chữ tưởng như trơ trơ. Đồng thời phải vượt qua đuợc nhiều bước liên tưởng cuả câu chữ ẩn dụ để tìm đến cái nguồn TTT muốn nói. Nhưng yêu cầu quan trọng là người đọc phải nhập đuợc vào dòng ý thức cuả TTT.
Chẳng hạn câu Và cốc nước trong như mắt đẹp. Cốc nước trong là yếu tố thực được miêu tả. Cụm từ so sánh “như mắt đẹp“ chỉ tôn thêm cái trong cuả cốc nước và tạo thêm cái lạ trong cách so sánh, hiểu hay không hiểu chẳng thêm gì cho yếu tốc chính là “cốc nước trong‘. Câu “Phố nhỏ lên chiều mãi nhớ thương” phải được ngắt ra làm hai ý: ‘Phố nhỏ lên chiều/ mãi nhớ thương”. Bối cảnh suy tư cuả TTT là phố nhỏ, có thể là chiều đã lên. Trong bối cảnh ấy TTT thấy lòng mình mãi nhớ thương. Câu thơ tiếp nối dòng ý thức là “Người nhổ muôn ngàn giấc máu ra khỏi ngực“ có thể là TTT nhìn thấy trong ý thức nhiều người đang ngủ (muôn ngàn giấc) đấy là những con người khốn khổ, lao lực kiệt sức (nhổ máu ra khỏi ngực). Phép ẩn dụ tạo nên nhiều liên tưởng, nhờ vậy câu thơ đa nghiã, đồng thời có cả thái độ bi phẫn cuả TTT.
Miêu tả dòng ý thức, đem vào thơ những giấc mơ hoang tưởng siêu thực, sử dụng những kỹ thuật xáo trộn ngôn ngữ, rõ ràng TTT chịu ảnh hưởng những trào lưu hiện đại phương Tây, đó là bước cách tân cuả TTT. Nếu nói TTT cách tân thơ ca thì chính là kỹ thuật này, ở TTT đó là một kiểu tư duy nghệ thuật , một thi pháp
ai hỏi anh ngoài hàng dậu
lãng mạn lập thể siêu thực dã thú đa đa
(Chim)
Hiển nhiên các trào lưu hiện đại đang mời gọi TTT. Trước các trào lưu Lãng mạn, Lập thể, Siêu thực, Dã thú, Đa đa, TTT chọn thái độ nào?
Hồn nhiên tôi trở thành thi sĩ ca dao
(Mưa Ngủ)
không đa đa siêu thực
thẳng thắn
khởi từ ca dao sang tự do 
(Một Bài Thơ)
Nhưng TTT đã không trở thành thi sĩ ca dao như ông muốn vậy. Ông không có được những bài Lục bát hay. Bài Xuân Ca đăng báo Dân Chủ ở Saigòn 1957 là một bài Lục bát hiếm hoi. TTT chỉ  làm thơ tự do  theo các trào lưu hiện đại. TTT cho rằng: “Thơ bây giờ là một sự xáo trộn ngôn ngữ. Ta phải ghi nhận công của phái siêu thực Tây phương đối với ngôn ngữ. Tôi làm thơ, ngoài mối ám ảnh chung về tư tưởng đức lý nói trên, còn theo đuổi một mối ám ảnh về ngôn ngữ. “
Điều này khác xa với Bùi Giáng. Bùi Giáng triệt để phủ định ãnh hưởng trào lưu phương Tây. "Chúng ta quen thói ngong ngóng chạy theo đuổi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ." (6)
Điều lạ lùng là cả hai nhà thơ, dù rất khác nhau về quan điểm, lại từng là bạn cuả nhau và đã có những đóng góp đặc biệt làm mới thơ ca Việt Nam. Thanh Tâm Tuyền và Bùi Giáng đã là những phong cách nghệ thuật độc đáo, những cá tính sáng tạo nổi bật  trên thi đàn miền Nam Việt Nam nưả sau thế kỷ XX, mà những thế hệ sau có muốn học tập cũng không dễ gì vượt qua được.
II. Hoàng đế cô độc
Sau khi đã vượt qua những luật lệ và nhập được vào lãnh điạ thơ cuả Thanh Tâm Tuyền, chúng ta hãy đến thăm vị hoàng đế và dạo quanh lãnh thổ cuả người, để tìm kiếm, và may ra, tìm thấy  kỳ hoa dị thảo, tìm thấy những suối nguồn tươi mới, và tìm thấy một tân thế giới  chưa từng ai đặt chân đến chăng?
Trên hành trình sáng tạo của mình TTT người bộ hành cô đơn (Chim), người nghệ sĩ đơn độc, Người ý thức sâu sắc và quyết liệt thân phận cô độc. Cô độc, buồn sầu trong sự chọn lưạ con đường thơ, chọn lựa làm một tên hề buồn nhất thế giới.
Như kẻ say rót rượu lấy mà uống
Cho vui thêm cuộc hành trình
(Đúng rồi những người thù ghét thơ tôi ơi)
Cuộc hành trình hoàn toàn cô độc.
(Bao Giờ)
Mày chỉ là tên hề buồn, tên hề buồn nhất thế giới chẳng làm ai cười nổi.
(Sầu Khúc)
TTT cô độc trong ý  thức hiện sinh, sợ hãi cả cây cột đèn, hoang vu lạnh lẽo và trần trụi, trong tâm trạng một người sống sót (Cỏ ), thường trực đối diện ám ảnh cuả sự nỗi chết ôm ghì, chết đuối, bóp cổ chết, súng bắn vào đầu đạn nổ nhịp ba, cuả biển đen sầu hận, cuả  hư vô không cùng
Anh sợ những ngôn ngữ bơ vơ
Sau những chiều động bão
Những ngày kín sương mù
niềm hắt hủi
Khói tím buồn
hàng thân cây cô đơn như mình anh
vùi hận sầu đen tối
Chôn xuống đáy biển sâu
chiều dốc lạnh
Con đường duỗi dài cánh tay người chết đuối
thành phố bỏ trốn
Em có thấy hư vô đắp dưới mền tóc dày
(Bài Hát Buồn)
Trong nỗi cô độc ấy, TTT khao khát xẻ chia, dù trái tim đã thành hòn đá vô tri tĩnh mịch rỗng tuếch
Bạn bè chia tay ném bỏ lại cô đơn
Một mình anh mang nặng
Và chua cay
Vùng biển đen
Mùa hè thiêu đốt cả cô đơn
Em biết không? Em biết không? …
(Sầu Khúc)
Hòn đá vô tri tim tĩnh mịch
Biết gì về tình yêu, anh, đâu biết gì về tình yêu
Đi đâu? Em đâu? Đây một mình anh
Một mình anh tôi mọi lũ một mình
Hoang vu phập phồng trong trái tim rỗng tuếch
(Tặng Vật -1962-1963)
TTT cô độc giưã quê hương đoạ đày
Tôi ngồi khóc bên bờ sông trôi mãi
Em bỏ đi
Những người thân nhất đều hắt hủi
Giữa xứ sở đau thương tôi chịu đoạ đầy
(Về Quách Thoại)
TTT nói Tôi Không Còn Cô độc, và dù đã Tìm Thấy Mặt Trời trong Đêm, nhưng suốt hành trình thơ, TTT ngày càng cô độc và tuyệt vọng
Bị xua đuổi khỏi nơi trú ngụ
Hắn làm tên du thủ vong tình
Cùng xứ sở mắc vòng khốn đọa
Trên hoang phế sau đêm thảm họa
(Hắn Rũ Bỏ Ký Ức Và Ra Đi)
Căn nguyên cuả nỗi cô độc hiện sinh ấy là gì?
Ta phải tìm câu trả lời trong bối cảnh thời đại TTT đang sống. Đặng Tiến cho rằng:
“Về nội dung chính yếu, chất liệu trong thơ văn Thanh Tâm Tuyền là ý thức thất bại. Thất bại của con người trước định mệnh nói chung, cụ thể là sự bất lực của giai cấp trí thức tiểu tư sản Việt Nam trước thời cuộc. Viết văn, làm thơ, làm nghệ thuật nói chung, là cố gắng vượt qua sự thất bại đó, biến nó thành nghệ thuật. “(7). Nói như vậy phải chăng cũng đồng nhất TTT với những nhà thơ nhà văn Lãng Mạn 1930-1945. Họ là những trí thức tiểu tư sản thất bại trong chính trị (chẳng hạn Nhất Linh, Khái hưng.. ), tìm vào văn chương như một phương cách thoát ly, như một sự tự lưà mị chính mình?
Trường hợp TTT, theo tôi là khác. Bối cảnh thời đại TTT sống đã khác rất xa bối cảnh xã hội Việt Nam trước 1945. TTT sinh năm 1936, đến khi toàn quốc kháng chiến chống Pháp 1946, ông mới 10 tuổi. Theo Đặng Tiến (8), những năm 1950, ông hoạt động trong Tổng hội Sinh viên Hà Nội, cùng với những người sẽ trở thành bạn văn nghệ về sau: Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế ...Sau kháng chiến, đất nước chia đôi, ông vào Nam. Tại Sài Gòn, 1955, ông viết cho các tuần báo Dân Chủ, Người Việt, tham gia biên tập báo Sáng Tạo (1956-1960) do Mai Thảo đứng tên, và ông thường được xếp vào «nhóm» Sáng Tạo. 1962, bị động viên vào Trường Sĩ quan Thủ Đức, được giải ngũ, rồi tái ngũ, phụ trách chủ yếu việc huấn luyện văn hoá, «tám năm quân ngũ chưa nổ một phát súng với địch» (1972), cấp bực cuối cùng là đại uý. Sau 1975, ông bị bắt đi học tập, gần mười năm, tại nhiều trại cải tạo miền Bắc. Sau khi ra trại ông sang định cư tại Hoa Kỳ từ đầu thập niên 1990.
Miền Nam những năm sau 1954, và nhất là từ 1963 trở đi, là một xã hội đầy biến động, đầy âu lo. Chiến tranh ngày càng ác liệt, nỗi chết trở thành ám ảnh thường trực. Sự sụp đổ, sự băng hoại, sự tan rã là không tránh khỏi. Nỗi tuyệt vọng bao trùm, phủ lấp những tròng mắt thâm u, tiềm ẩn trong từng hơi thở. TTT không tránh khỏi hoàn cảnh và tâm trạng này. TTT chìm trong ý thức Hiện sinh .Ông không có một lý tưởng để vươn tới, để dấn thân, để cuộc sống có nghiã. Ông không có niềm tin  tâm linh để có thể vác lấy thập giá định mệnh mà vượt qua, ở thời đại cuả ông thượng đế đã chết (Nietzsche). Ông cũng không có đủ Bi ,Trí, Dũng cuả một bản thể tự tại để đương đầu với sóng cuồng bão động, và quan trọng là ông không có được quan hệ máu thịt với dân tộc và cội nguồn để trở về,
“Giữa quê hương ngoảnh mặt làm ngơ Không còn nơi chốn nào thân thiết”, “đắm giạt Làng-quê Không-có-đâu”. Ông sống không có  niềm tin, dù “đôi khi anh muốn tin“ (Lệ Đá Xanh) để rồi sau cùng lại ra đi,  xa lánh lặng lẽ đìu hiu khuất lấp.
Đi Xa lánh Như người xưa
lặng lẽ điềm nhiên rảo gót về
bên triền lũng khuất nắng quái hoặcĐạm bạc chiếc bóng đìu hiu  
(Chia Tay - 1990)  
Nỗi buồn sâu thẳm trong tất cả những bài thơ cuả TTT là nỗi buồn cuả hiện sinh quy tử, cái chết vội vàng, cái chết tan tành không cưỡng lại được. Cũng là nỗi buồn trước thực tại đất nước. Ông dùng hình ảnh ẩn dụ để nói về thời đại mình. Ông không dám nói thật sự tàn bạo cuả nỗi chết. Ông che dấu sự bộc lộ trực tiếp những nghĩ suy về thời cuộc, che dấu sự bi đát thân phận, che dấu mình để khỏi bị trả thù bởi móng vuốt bóng đêm. Ông trốn chạy, ông buông xuôi “bập bềnh lả theo trời“, mặc định mệnh. Không có tương lai, không có ánh sáng, chỉ có hoang vu lạnh vắng, chỉ có sợ hãi đớn đau ôm ghì, chỉ có những hoảng loạn đớn hèn đe doạ được vẽ ra bằng những hình ảnh ẩn dụ: xứ sở mắc vòng khốn đọa, trên hoang phế sau đêm thảm họa, giông bão, mùa đông dài ác nghiệt, núi nhọn, lưả cháy, biệt ly, đau thương đoạ đày, nhục nhằn, chó dữ, những con chó sói, con mắt đen đen đen, tròng mắt ma quỉ soi, rượt bắt, chập chùng hố huyệt, hấp hối, nỗi chết ,..
Tôi chờ đợi
lớn lên cùng giông bão
Đất nước có một lần
tôi ghì đau đớn trong thân thể
những giòng sông những đường cầy núi nhọn
những biệt ly rạn nức
Tôi chờ đợi
phổi đầy lửa cháy
môi đầy thẹn thùng
vục xuống nhục nhằn tổ quốc
(Bài Ca Ngợi Tình yêu)
sợ chó dữ
con chó đói không màu
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang
(Phục sinh)
Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Sao tuổi trẻ quá buồn …
anh đưa em đi trốn
những dày vò ngày mai
(Dạ Khúc)
Mày gặp mày không nhìn nổi ra mày trong bờ bụi
Cơn rượt bắt cuồng cơn hấp hối ngu xuẩn  ở trong luồng thôi thúc dữ
Linh hồn cuả con mắt đen đen đen và sáng như cơn mưa rào đầu muà
Mày ở trong mày hai chân lún và ẩn náu
Và đêm ngã vấp và ngày vỡ toang…
Mày còn tấm tặng phẩm, tấm tặng phẩm đớn hèn trên tấm thân mang hiến
Cái chết vội vàng như quả rục cái chết tan tành như tiếng kêu.
(Tặng Phẩm -1962,1963)
Mùa hiu hắt thổi hoang vu quyện
Lòng ta lạnh vắng như cỏ cây…
Như phiến gỗ nặng thả theo nước
Bập bềnh trôi nổi ta về xuôi
Như lau lách mọc chen bờ bãi
Phất phơ tóc bạc lả theo trời.
(Đỉnh Non Xa -Giai phẩm Văn 3.9.1974)
TTT ôm ghi lấy đất nước đau thương, cùng chia xẻ vòng khốn đoạ với xứ sở, cùng vục xuống nhục nhằn tổ quốc, cùng xớt chia nỗi chết với bao người , còn hy vọng “rằng anh còn trở về/ rằng anh còn người yêu. Trong nỗi bi thương thê thiết ấy Thái độ chính trị cuả TTT là gì?  TTT thấm thía thân phận một dân tộc nô lệ (Đen). Thời ấy, người trí thức miền Nam nào cũng đau nỗi đau tủi nhục về thân phận nhược tiểu cuả “người nô lệ da vàng“ (chữ cuả Trịnh Công Sơn). TTT đứng về phiá những người vô tội chối từ khí giới, phản đối chiến tranh, vì chiến tranh còn những khoảng trống đất hoang (Chim), khao khát hòa bình, khao khát một ngày yên vui, đất nước trổ hoa,  người người mừng vui, Hà Nội Huế Sàigòn ôm lấy nhau nức nở
Nhịp ba
Sóng bồi phù sa
Ruộng lúa trổ hoa
Núi cao uốn cây rừng
Nhịp ba nhịp ba nhịp ba
Tình yêu tự do mãi mãi
Đất nước ào ào vỗ nhịp
Triều biển chập chùng
Hà Nội Huế Sàigòn
Ôm nhau nức nở
(Nhịp Ba)
Người đọc nghe trong thơ TTT  nhịp đập cuả một trái tim yêu nước không gọi rõ tên, tuy sâu thẳm nhưng mơ hồ, bởi vì  trước 1975 đất nước còn bị chia đôi, đất nước ông nói đến là miền nào? Không, đó là một  đất nước trong thể thống nhất, TTT nhìn thấy “Đất nước ào ào vỗ nhịp/ Triều biển chập chùng/ Hà Nội Huế Sàigòn/ Ôm nhau nức nở”
Trong viễn cảnh ấy, dường như TTT đã thức tỉnh? TTT trở về sự thật , “Rưả sạch mặt mũi lem luốc chùm ảo vọng“, tự “bóp cổ chết gục” để phục sinh
Tôi đứng đấy như con công tôi múa
xoè bộ mã đời mình nũng nịu
như trên chót đỉnh khoe khoang
Tôi đứng đấy những tơ giăng phù phiếm
con nhện rớt hoài
trong màng lưới rách bung
của lời đong đưa trắc nết
(Thầm Nhủ - 1969)
Tan rồi trái cầu không tưởng
Cuộc phiêu lưu chết sững chốn vô cùng
(Tặng Phẩm- 1962,1963)
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật.
(Phục sinh)
Linh hồn phục sinh cuả TTT đã ánh lên một chút, (chỉ một chút thôi vì nó ẩn mật) nỗi đau  với những con người đau khổ, với quê hương đất nước. Tâm hồn ấy dường như cháy bỏng khát vọng tự do. Lúc đầu thơ ông vang lên tiếng ca ngợi  tự do chính trị, sau đó  là chuyển sang tư tưởng cuả tự do Hiện Sinh, nhưng TTT chưa buớc chân vào được chân trời tự do hiện sinh ấy, thơ ông chưa đạt tới tầm vóc cuả thơ tư tưởng .Người đọc chỉ thấy thấp thoáng những tín niệm cuả chủ nghiã Hiện Sinh như buồn nôn, tự do (La Nausée- J.P .Sartre); kẻ xa lạ (L’Etranger-A. Camus);  sự đánh mất đức tin (“Thượng đế đã chết “- Nietzsche). TTT muốn thơ mình là tiếng nói là tiếng khóc cuả những con người vô tội yêu tự do, là tiếng thơ là tiếng cười cuả Việt Nam ngày mai, nhưng sẽ chẳng bao giờ TTT đạt được uớc nguyện ấy. Đó là tất cả bi kịch cuả TTT.
Anh nhớ em cùng một lúc với thành phố
với những con đường anh đi qua một lần
anh nâng niu cuốn sách nói đến cách mạng
nói đến người  tâm hồn trái tim tự do
(Liên, Những bài thơ tình thời chia cách)
Nhịp ba
Tình yêu
Tự do
mãi mãi
Tình yêu tự do mãi mãi
Tình yêu tự do
mãi mãi anh ơi
(Nhịp Ba)
Tôi chờ đợi
một người  không
nhiều người
ở thành phố thiếu thốn
ở làng mạc đoạ đầy
tôi là tiếng nói là tiếng khóc
những người bỏ đi hẹn trở về
những người mím hơi thừa chịu đựng
tôi chờ đợi
tôi là tiếng thơ là tiếng cười
mai Việt Nam hỡi mai Việt Nam
(Bài ca ngợi tình yêu)
Sự sống còn một người
Sự sống còn nhiều người
Những người vô tội
Nhân danh
Tình yêu tự do  người
Tôi được quyền kêu gọi  
Những người đã chết xin có mặt
Những người còn sống xin giơ tay 
(Nhân Danh)
anh hứa trở về không đối diện với thù
giòng sông chỉ còn tiếng sóng vỗ
cười tung lồng ngực chứa chan
(Liên, Những bài thơ tình thời chia cách)
cuộc sống phải thừa như không khí
cuộc sống phải thừa như sớm mai
xin trao thi sĩ vòng hoa tặng
chúng ta đã thắng giữa cuộc đời
(Gửi Quách Thoại)
Nhân vật em trong thơ TTT có thể là cái phao bấu víu sau cùng cuả tâm hồn ông, cũng là người ông chia xe nỗi niềm. Giọng thơ nói với em là giọng tâm tình chia xẻ, như là bám víu, như là hy vọng trong tuyệt vọng, giọng buồn biền biệt. Thực ra đó là cách TTT bày tỏ  lòng sầu héo, nỗi buồn rưng rưng, sự sợ hãi bị bóp chết trong tuyệt vọng trần truồng
Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai
(nếu đời người không có những sớm mai)
anh trở dậy đọc thơ Nguyễn Du 
những câu lục bát buồn 
rưng rưng cuối đường của một ngày
(LIÊN, NHỮNG BÀI THƠ TÌNH THỜI CHIA CÁCH)
Anh nằm trên đồi
Trời chiều ôm dưới ngực
Gió thổi hơi nồng trưa xa khuất
Trưa kia trời cháy đốt trên lưng
Những bãi cỏ khô trơ
Như mắt mở
Đêm trôi dàn
Trên ngánh sông dài như chẳng có
Như cánh tay trườn
Mai Hoa Mai Hoa em
(Tặng Phẩm - 1962)
Phải làm mới tình yêu
Coi chúng ta là những người thứ nhứt
Trên trái đất này biết yêu nhau
Để những cặp tình nhân khác bắt chước
Để con cái sau này không khổ đau.
(Bài Thơ Cuả Tháng Giêng)
Đêm về khuya tình đã vắng như màn trời
Này em đan cho anh những ảo tưởng
Với ngây thơ nào em còn sót…
Vàm sông nước xoáy như tiếng cười thầm
Ở sau lưng ở trước mặt
Anh thả người trôi nổi
Em biết không? Em biết không? 
Anh đốt dần xác thịt như cành nhọn
Giữa chiều mùa đông ở đây trong cốt tuỷ
Tuyệt vọng trần truồng
(Sầu Khúc)
Thơ Ở Đâu Xa  đuợc TTT viết trong thời gian ông ở trong trại cải tạo có khuynh hướng tư tưởng, bút pháp và thái độ sống khác hẳn. Theo Phạm Kiều Tùng (9),  thơ TTT sau 1975 là một giai đọan sáng tác khác: “… giai đoạn sáng tác cuối đời của anh, một giai đoạn tạm gọi là giai đoạn “không còn muốn kể nữa”, vì “không có gì đáng kể”?”. Phạm Kiều Tùng căn cứ vào bài học cuả TTT ghi trong cuốn sổ tay mà trước khi sang Mỹ định cư, TTT đã gửi cho ông:
Bài học Đạo Đức Kinh:
Như thể không có sự gì xảy ra, đáng kể; ngoài các câu được viết.
Lời không của ai, không nói với ai.
Cùng một lúc mở và đóng, ở ngoài và ở trong.
Bùi Vĩnh Phúc (10) trong bài Biệt khúc cho Thanh Tâm Tuyền, đọc lại Thơ ở đâu xa, đã viết khá thuyết phục về chặng đường thơ TTT sau 1975. Ông nhận xét: “Thơ ông trong tập này đằm chín và sâu lắng. Kinh nghiệm cuộc đời và sự thẩm thấu khổ đau, cái nhìn vào pháp tướng của mọi sự vật trong đời đã làm cho những bài thơ ông mang một tố chất gì đó rất gần với sự tỉnh thức và chấp nhận trong tinh thần giáo lý Công giáo, cùng lúc, cũng mang trong chúng một thiền chất khiến ta thấy chúng, có những lúc, có cái tinh thần đốn ngộ của Thiền tông và cái tinh thần bát nhã của đạo Phật. “. ..” Trong Thơ ở đâu xa, người ta thấy có nỗi buồn và có niềm đau. Có đấy. Có sự cảm nhận buốt sắc về hiện sinh, về định mệnh mình. Nhưng kẻ thi sĩ ấy vẫn không chịu ngã gục hoặc nằm vùi trong sầu khổ.”
Phạm Kiều Tùng (11) lý giải theo một cách nhìn khác: “Tôi nghĩ đơn giản: Anh đã “thoát”. Thanh thoát. Anh đã tìm về – và tìm được, tìm về được – cái minh triết của cổ nhân… Minh triết của cổ nhân dạy rằng thấu hiểu bản chất của những sức mạnh bất khả kháng, thấu hiểu quyền uy của bóng tối chính là chinh phục chúng, là trở nên lớn lao hơn chúng.” (Phạm Kiều Tùng – Bài Học Đạo đức Kinh cuả Thanh Tâm Tuyền)
Nếu tổng hợp ý kiến cuả Bùi Vĩnh Phúc và Phạm Kiều Tùng lại, thì phải chăng tư tưởng cuả TTT sau 1975 là sự tổng hợp cả Phật (Tinh thần Bát Nhã), Nho (định mệnh), Lão (Bài học Đạo đức Kinh) và Thiên Chuá Giáo?
Tôi không tin rằng TTT có thể tổng hợp được tư tưởng cuả các tôn giáo lớn ấy, bởi vì thơ TTT không phải là thơ tư tưởng. Trong thơ, TTT hoàn toàn không thể hiện  sự giác ngộ chân lý nào cuả các tôn giáo ấy. Bảo rằng  “Ông đã sống trong tù như một hành giả, như một thiền sư “với tâm thế“ Thiền lao “(Bùi Vĩnh Phúc) tôi e rằng sẽ là một ngộ nhận, bởi vì TTT đâu có nhìn thực tại là vô thường, vô ngã, đâu có nhận ra Phật tánh trong vạn vật, đâu có vượt qua sắc không ngũ uẩn, đâu có đuợc uy lực Thiền để “Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư“. TTT cũng không tự nhận lấy chén đắng và vác lấy thập giá đời mình bước đi, lên đỉnh núi kia, tự đóng đinh, để cưú lấy cuộc đời. TTT đâu có tri Thiên Mệnh, biết nhận ra “ lẽ hưng phế“ để sống thuận theo Thiên Mệnh. TTT cũng chẳng màng đến triết lý
“vô vi‘ để sống an nhiên.
Trước sau TTT vẫn là người tuyệt vọng.  Hắn Rũ Bỏ Ký Ức và Ra Đi rồi Chia Tay,
 từ bỏ mảnh đất nghèo khổ Việt Nam mà có lần TTT nghĩ rằng mình “Ðứng vững không khuỵu chân“ . Sau đó là sự im lặng. TTT đã im lặng trong suốt quãng đời còn lại (từ 1990 đến 2006, 16 năm, thời gian dài hơn những năm tháng trong trại cải tạo). TTT cũng  từ bò  tập bản thảo viết sau thời gian ra trại trước khi đi Mỹ, như là từ bỏ chính mình. Tôi hiểu nỗi tuyệt vọng của TTT là vô phương cứu chữa, tuyệt vọng trần truồng, không che dấu.
Dù sao những bài “thơ trong đầu“ cuả TTT cũng là một chặng đường sáng tác mới trong hành trình thơ cuả ông. Ngày 30/4/75 ập đến như bão táp, lật đổ tất cả, quét sạch tất cả những ảo tưởng. TTT cũng như bao người ở miền Nam lúc ấy hoang mang lo sợ, không biết tương lai sẽ thế nào.  Những năm tháng sống trong môi trường cải tạo, TTT từ con người cuả  ý thức hệ duy tâm trước kia giờ đây trở về với cái thực đời thường , sống thật với  sự sống cuả chính mình, sống cùng với sự tồn tại cuả người khác, không còn phải sống trong xáo trộn, xô bồ, lo sợ chết chóc, đối diện với những bất trắc tráo trở phản bội đớn hèn đau thương trước đó. Tâm hồn TTT trở nên yên tĩnh, bình an, trong sáng hơn. Ninh Hạ Nguyễn Đức Tâm kể (12): “Năm đầu cùng chung trại Long Giao. Anh lán 9. Tôi lán 6. Lán là nhà mái tôn dài, trại lính cũ. Gặp tôi, anh mừng rỡ. Năm đầu ở đây, chưa phải lao động nhiều nên có thì giờ nhàn rỗi.” Một dịp tết, Nguyễn Đức Tâm kể: “ngày Tết lén cắp rượu đem vô. Tôi chia cho Thanh Tâm Tuyền một nửa. Anh không uống được nhiều rượu. Một hai chung như thế cũng đủ cho thi sĩ của chúng ta có hứng khởi làm những câu thơ về xuân về Tết trong tù tuyệt vời.“
“...Trời có mấy độ xuân?
Ðất bao nhiêu miền lạ?
Chưa ngấy tiệc trần gian.
Hồn run xanh búp lá.”
Bây giờ xung quanh TTT là rừng thâm u, hẻm núi dốc, đèo cao, trời xanh, gió  mưa, trăng sao, đồi nương. TTT lao động, sống đời sống người lao động như bao nhiêu người lao động khác, tất nhiên là khổ hơn, như chính dân tộc này mấy ngàn năm qua: thức khuya dậy sớm, làm những công việc lao động: Chủ Nhật Lên Núi Kiếm Củi, Hái Trà Dưới Trời Mưa Tháng Bảy, Trưa tháng chín trên đồi cọ, Thơ làm khi đi nuôi cá, Tháng mười cấy rau lấp, Chiều nắng hanh trên đồi hương nhu, Ngã trên núi Việt Hồng ở Yên Báy khi đi vác nứa …
Khung cảnh thiên nhiên đất nước cùng với  cuộc sống lao động này đã thức tỉnh hồn thơ dân tộc ở TTT? Ta gặp những cảm xúc, cách nghĩ, chất liệu thơ TTT giai đoạn này có bóng dáng cuả thơ Thiền (thời Lý, Trần), có âm điệu thơ Nguyễn Trãi (khi ở Côn Sơn), có chút tình cuả thơ Nguyễn Khuyến  (khi về sống với nông dân). Hồn thơ TTT sáng trong. Cỏ cây hoa lá, trăng sao, núi rừng, đồi cao,  mưa gió và công việc lao động ánh lên nhiều vẻ đẹp và rực rỡ chất thơ, rực rỡ huơng sắc, chất ngất tình say. Dường như TTT đã trở về được với cuộc đời chân thực, hội nhập được với tâm hồn dân tộc (?)
Bây giờ TTT “Ngóng tiếng gà trong thôn“, “đứng vững trên mảnh đất nghèo khổ“, nhìn ngắm trời xanh như giếng ngọc, nhận ra Ðất hiền thở hương nắng thênh thang, nghe Vang Vang Trời Vào Xuân. Đi hái trà mà hồn lãng mạn quên về, Thiếp mê tình tứ trên đồi cỏ, cả trong mưa vẫn đẹp, Mưa rơi đều hạt mưa phơi phới
Cỏ hoa thầm thì hát
Ngoài vườn trăng đêm nay
Xuân ngàn mùa vẫn một
Hương sắc không hề phai
Sự trôi chảy mãi thật
Tình đơn sơ còn đây
(Xuân Tứ)
Ðứng ngây trời ẩm sũng
Ngóng tiếng gà thôn gần
(Dậy Sớm)
Ðứng vững không khuỵu chân
Trên mảnh đất nghèo khổ
(Vang Vang Trời Vào Xuân)
 Một tay chống gậy tay dao quắm 
Bò leo dốc đứng thở mang tai
Lên cao trông xuống lũng xanh bấy
Cớ sao lòng chẳng buồn nhớ ai.
(Chủ Nhật Lên Núi Kiếm Củi)
Trời xanh cao vút giếng nước ngọc
Ðất hiền thở hương nắng thênh thang.
(Xuân)
nghe gần gũi sa đà trời tháng bảy
gió xa xôi từ mạn lãng quên về
(Hái Trà Dưới Trời Mưa Tháng Bảy)
nhìn nắng loé ánh trên tàn lá
cơn sốt tình rực rỡ đắm say
(Trưa tháng chín trên đồi cọ)
gánh cỏ trên vai thơ trong đầu
trời chớm thu hạ mường tượng hồng au
(Thơ làm khi đi nuôi cá)
bước xuống ruộng hồn bỏ trên bờ
chân giẫm bùn tay cấy thẩn thơ
(Tháng mười cấy rau lấp)
trong suốt trời sông
vô vàn bóng nguyệt
đêm lộng gương tạc
nhẹ thênh hình dung
(Bến Mộng)
Tuốt những chùm bông hạt già úa
Ðộng nhánh cành trơ trụi xác xơ
Hè cháy rụi sót hoa nám lửa
(Chiều nắng hanh trên đồi hương nhu)
Tuột dốc té nhào trên hẻm núi
Chết điếng toàn thân trong giây lâu
Mưa rơi đều hạt mưa phơi phới
Ngày đang tàn hiu quạnh rừng sâu
(Ngã trên núi Việt Hồng ở Yên Báy khi đi vác nứa)
Tháng Năm nắng trong ủ mật hương
Óng biếc sau mưa những rừng thông
Thiếp mê tình tứ trên đồi cỏ
Ngày nhởn nhơ khoác áo huy hoàng
(Bài Ru Tháng Năm – 5/1981)
Những bài thơ trích ở trên có thể góp cho thơ ca dân tộc những tứ thơ rất đẹp, mang đuợc vẻ đẹp cuả tâm hồn Việt nam bình dị, sáng trong. Thật hiếm thấy được những tứ thơ như vậy trong thơ TTT trước 1975. Thơ ở Đâu Xa là tâm hồn TTT phục sinh trong cuộc sống lao động, gắn bó với thiên nhiên đất nước, toả sáng nhiều vẻ đẹp có bề sâu cốt cách tâm hồn Việt Nam. Quả thực, những trải nghiệm bể dâu cuả TTT đã thăng hoa thành những bài thơ, thực sự có giá trị.
Chỉ tiếc rằng từ đề tài, chất liệu đến cảm xúc và cách thể hiện, TTT đã không vượt qua được những nhà thơ dân tộc đi trước ông.
Nói đến TTT người ta dè dặt về những tháng ngày ông ở trong trại cải tạo. Tôi gọi đó là những tháng ngày bể dâu, và thực ra cả những năm tháng trước đó ở miền Nam, ông đã sống cuộc đời  bể dâu rồi. Nếu nhìn nhận một cách khách quan thì những trải nghiệm bể dâu cuả TTT cũng là những trải nghiệm  tử sinh nhiều nhà thơ, nhà văn lớn cuả dân tộc đã đi qua, mỗi người mỗi hoàn cảnh riêng do lịch sử quy định. Đó là mối kỳ oan nghiệt ngã cuả khách phong vận ( Phong vận kỳ oan ngã tự cư - Nguyễn Du): Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,  Hoàng Cầm, Phùng Quán, Trần Dần, …Mỗi người tự vượt qua số phận cuả chính mình bằng sức mạnh cuả lòng tin vào giá trị cuả nghệ thuật, bằng sức mạnh gắn bó với nhân dân, và mang lấy những thăng trầm cuả lịch sử dân tộc, chính nhờ thế họ trở thành những nhà văn nhà thơ lớn cuả dân tộc (*). Hãy nghe Hoàng Cầm tâm sự (13): “Phải nói thật một điều, thường người ta khó tin, là hồi đó tôi không mang trong lòng – dẫu chỉ một ly – nỗi oán hận, nỗi buồn phiền, hoặc trách móc hờn giận gì ai. Đôi lúc, chỉ nghĩ về chính số phận mình, có chút cay đắng, có xót xa. Nhưng vì “đã mang lấy nghiệp vào thân” như Nguyễn Du nói, cái nghiệp thơ đầy đau khổ, oan trái, nhưng cũng nhiều hào quang toả ra từ tâm linh và từ những câu chữ kỳ diệu đã đem đến cho mình không ít giờ phút say sưa, ngay trong cuộc sống bình nhật cũng không ít hạnh ngộ đẹp, tôi được gặp nhiều người nam, người nữ rất trong sáng, yêu thương mình hết lòng. Dân tộc là thế đấy, thưa các bạn“.
Tuy vậy,  cũng có người không vượt qua được, đành rơi vào bi kịch. TTT ở vào trường hợp này. Đối diện với số phận nghiệt ngã, tầm vóc TTT không thể sánh được với tầm vóc cuả Nguyễn Trãi, tấm lòng cuả TTT không thể sánh được với “tấm lòng thấu suốt nghìn đời“ cuả Nguyễn Du, sức sáng tạo cuả TTT không theo kịp với Hoàng Cầm,  bản lĩnh cuả TTT không ngang cân  với thái độ dứt khoát bỏ về đi cày, đi bừa, đi thồ, đi đốn củi, đi xe đá cuả Hữu Loan
Rất tiếc là TTT đã không đi tiếp con đường trở về với dân tộc, gắn bó với nhân dân như các bậc tiền bối. Đọc thơ ông, trước sau, người đọc nhận ra sự thiếu vắng một lý tưởng, TTT không có niềm tin, không có đời sống tâm linh, không tìm đuợc cho đời mình một ý nghiã. Ông  không vượt qua đuợc cái tôi tiểu tư sản quay quắt trong hiện sinh.
Sau khi ra trại, trở lại đời thường, có lẽ chứng kiến nhiều chuyện đau lòng, đổ vỡ, TTT  lại rơi vào tình trạng tuyệt vọng, thế là Hắn Rũ Bỏ Ký Ức và Ra Đi,  từ bỏ tất cả. Ninh Hạ Nguyễn Đức Tâm, một người bạn cuả TTT kể rằng (14): “Thanh Tâm Tuyền và tôi vào tù cùng ngày cùng chỗ. Gần chín năm sau, ra tù cùng chỗ cùng ngày…. khi về Sài Gòn, hơn tháng trời tôi và đứa con gái 13 tuổi trên chiếc xe đạp cà rịch, ngày ngày tìm đến những địa chỉ khắp cùng ngõ ngách trao thư tận tay những người vợ, người mẹ, người cha, người tình. Sài Gòn, Thủ Đức, Biên Hòa.
Nơi xa xôi thì gửi theo bưu điện. Qua việc làm này, tôi đã chứng kiến bao nhiêu chuyện buồn vui tủi nhục của những bạn bè cùng cảnh… Tôi đã có ý định ghi lại những hoạt cảnh xã hội này, nhưng cuối cùng không thực hiện vì trân trọng những đau thương đổ vỡ riêng tư. “Trước khi ra đi TTT  đưa cho Phạm Kiều Tùng (15) tập bản thảo và bảo: “Cậu xem có dùng được gì thì dùng, không dùng được thì hủy đi, tôi để cậu toàn quyền quyết định” anh cười nói thêm “Hủy đi, như Gogol, Kafka, như Kleist”. Đó là xấp bản thảo TTT viết trong khoảng thời gian từ sau ngày ông được thả khỏi trại cải tạo tới trước ngày ông rời bỏ quê hương.
Tôi nghĩ rằng, TTT lâm vào tình trạng bi đát, tuyệt vọng như chưa bao giờ bi đát  tuyệt vọng hơn thế. Giống như Gogol, trong tình trạng khủng hoảng tinh thần, đã đốt bản thảo Những linh hồn chết tập I năm1845, tập II năm1852; và F. Kafka để lại di chúc muốn đốt hết tác phẩm cuả mình…
TTT sang định cư ở Mỹ, đất nước cuả nữ thần tự do, cuộc sống vật chất dư đủ, tại sao ông lại sống im lặng, ông lặng im như không tồn tại, tại sao ông từ bỏ sáng tác?. Điều này buộc chúng ta phải tìm câu trả lời, bởi vì khi còn ở trong trại cải tạo, cuộc sống tù đày khốn khổ như thế, ông vẫn viết được những bài thơ trong đầu tuyệt bút, vậy mà lúc tự do, ông lại từ chối sự tồn tại cuả chính mình? Hay phải chăng lại một cuộc bể dâu khác cuả thân phận lưu vong nơi xứ người? lại chứng kiến những cảnh đau lòng, và một lần nữa, lại sụp đổ những ảo tưởng cuả cuộc  hành trình đời mình chăng?
cuộc hành trình thiêng liêng đi mãi bằng giòng máu 
hoàn thành bao nhiêu tác phẩm
chỉ để sau rốt kết luận một lời
anh hãy từ biệt mọi người bằng tác phẩm của mình
(Định Nghiã Một Bài Thơ Hay)
Thi sĩ, giòng giống bị bức triệt
Nương náu miền đầy ải thâm u
Không ngớt tay cuốc xẻng đào huyệt
Tự vùi chôn gương mặt phai nhòa.
(Hắn Rũ Bỏ Ký Ức và Ra Đi)
III. Giá trị cuả Thơ Thanh Tâm Tuyền
TTT chủ trương cách tân thơ ca , ông đã thực hiện được sự cách tân trong hai tập Tôi Không Còn Cô Độc (1956) và Liên  Đêm Mặt Trời Tìm Thấy (1964). Trong hai tập này, TTT đã cách tân thơ bằng cách miêu tả dòng ý thức, kết hợp với  việc ghi lại những cơn mê sảng Siêu Thực và sử dụng nhiều ẩn dụ,  viết liền mạch câu thơ không ngắt ý, hoặc ngắt ý không tuân theo quy luật ngữ pháp thông thường để tạo sự tối nghiã, sự hàm hồ. TTT có nhiều hình ảnh thơ khá mới lạ.
Nhưng TTT không đi tiếp con đường cách tân ấy, ông lại trở về với thơ ca truyền thống. Từ  dòng ý thức, ông trở về với  thơ tâm trạng cuả thơ Lãng Mạn (1930 -1945), từ Siêu Thực ông trở về Hiện Thực, từ  ẩn dụ bí hiểm ông trở về với chất liệu đời thường . TTT từ bỏ lối thơ lạ và bí hiểm trở về với lối thơ chân chất tự nhiên. Điều này có ý nghiã gì? TTT nhận ra con đường  cách tân  là con đường đi vào ngõ cụt. Đó chỉ là những khoe khoang phù phiếm trắc nết, những  không tưởng,
“không tưởng cuả những cuộc phiêu lưu chết sững”.
Nếu đặt TTT trên dòng lịch sử Văn học Việt Nam hiện đại , bên cạnh  những nhà thơ cùng thời như Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Trần Dần…, TTT có thể có một vị trí nào đó. TTT có công cách tân thơ, đem tư duy thơ miền Nam từ Tượng Trưng đến Hiện Sinh kết hợp với Siêu Thực và kỹ thuật Tân Hình Thức, tạo thành một thi pháp riêng. Nhưng những cách tân cuả TTT chỉ dừng ở mặt kỹ thuật viết, chưa đạt tới tầm tư tưởng nghệ thuật, vì thế không tạo ra được một trào lưu như thời kỳ Thơ Mới (1930-1945). Tôi trộm nghĩ rằng, ngay cả ở chính sự cách tân ấy, TTT chỉ đi tiếp con đường cuả Xuân Thu Nhã Tập trước đó, tất nhiên là có những đóng góp mới hơn, và tồn tại như một hiện tượng thử nghiệm, để rồi chính TTT từ bỏ con đường ấy, không có người  tiếp bước.
Nói cách tân trong thơ Việt Nam nửa sau thế kỷ XX, trước hết là cách tân tư duy thơ.
Sau 1945, thơ Việt Nam đã có nhiều cách tân. Lần cách tân thứ nhất là trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, thơ được đưa trở về với quần chúng, lấy quần chúng công nông binh làm nhân vật trung tâm, bỏ lại sau lưng “cái tôi“ nhà thơ tiểu tư sản. Tiếp theo, những năm  sau 1954, Hoàng Cầm và nhóm bạn Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng tiếp tục tìm kiếm con đường đổi mới thơ. Hoàng Cầm kể (16):
 “ …tôi đề xướng với các bạn: lúc này chính là lúc bọn mình phải để tâm vào việc phá ra về thi pháp, phải phá ra khỏi… kiểu thơ cũ mà mình đã chán ngấy. Thế là bốn anh em thống nhất về đường lối sáng tác.” Tập thơ Về Kinh Bắc cuả Hoàng cầm được viết vào năm 1959, trong ý thức cách tân thơ cuả Hoàng Cầm. Thơ ca miền Bắc những năm kháng chiến chống Mỹ tiếp tục có những cách tân về tư duy nghệ thuật, tạo nên một nền thơ chính luận trữ tình anh hùng ca, mà trước đó chưa có. Sự bế tắc cuả thơ ca những năm sau 1975 là do chưa có được một tư duy nghệ thuật mới khả dĩ  vượt qua được kiểu tư duy nghệ thuật trước đó.
Nói như thế để thấy rằng không chỉ có TTT là người cách tân thơ Việt Nam. TTT có góp phần vào sự cách tân thơ, nhưng nỗ lực cuả ông không đạt được như ý nguyện. Ông đã phủ định con đường cách tân ấy .  
Thơ TTT có  ít thành công nếu so sánh  với lời nhạc cuả Trịnh Công Sơn. Thực ra  ca từ cuả Trịnh Công Sơn  là thơ. TTT và Trịnh Công Sơn có một bút pháp gần giống nhau khi viết lời, Trịnh Công Sơn nghiêng về Ấn Tượng. Lời nhạc cuả ông thâm nhập được vào công chúng, thể hiện được nhiều trạng thái tâm hồn cuả công chúng, phát hiện ra nhiều cái đẹp cuả cuộc sống, làm phong phúc đời sống tinh thần cuả thời đại .Trái lại, thơ TTT là một lãnh địa bí hiểm ít người vào được. Có lẽ vì thế mà Võ Phiến đánh giá rằng TTT là nhà văn hơn nhà thơ. Kiệt Tấn kể (17): “Hồi Võ Phiến sang chơi Paris và đóng đô tại nhà tôi ở Bagnolet, có bận tôi hỏi, theo ông, Thanh Tâm Tuyền là một nhà thơ hay nhà văn. Võ Phiến đã đáp không do dự: là một nhà văn.”
Công bằng mà nói, TTT trong  thơ cách tân, đã có được nhiều bài thơ hay như:
Phục Sinh, Lệ Đá xanh, Nhịp Ba, Đen, Bài Ca Ngợi Tình yêu, Dạ Khúc, Tĩnh Vật ,…nhưng thật khó tìm thấy bài thơ nào cuả TTT được công chúng yêu mến rộng rãi và lâu dài như Tây Tiến, Đôi Mắt Người Sơn Tây (Quang Dũng), Bên Kia Sông Đuống, Mưa Thuận Thành, Lá Diêu Bông (Hoàng Cầm) Màu Tím Hoa Sim (Hữu Loan).. .
Thơ TTT không thâm nhập được vào trái tim người đọc , vì tiếng thơ ấy không nói tiếng nói cuả công chúng, không  nói tiếng nói cuả trái tim Việt Nam trong một giai đọan lịch sử mà thơ ca phải là ngọn lửa toả sáng, soi đường và cháy rực  lên sức sống, sức mạnh của một dân tộc. Thơ phải nói tiếng nói của dân tộc truớc thời đại và lịch sử. Thơ ca phải ngang với  tầm vóc cuả thời đại  lịch sử (như thơ ca thời Lý Trần , thơ ca thời Nguyễn Du, ..). TTT không có được tiếng thơ đó.
Có lẽ người đọc hôm nay nên  tôn trọng ý kiến của ông:
Tôi đã chết nghẹn ngào
ôm tình yêu tự do chật ngực
tôi chết và chối từ
đừng ai gọi tôi là thi sĩ …
(Tôi Không Còn Cô Độc)
*Trong bài viết, tôi trích dẫn nhiều thơ TTT để  bạn  đọc có thể thâm nhập trực tiếp thơ ông, có đủ cứ liệu  để hiểu về ông. (BCT)
Chú thích:
(1) (2) (5) (7) (8) Đặng Tiến, Thanh Tâm Tuyền ,Talawas 4.4.2006
(10) Bùi Vĩnh Phúc, Biệt khúc cho Thanh Tâm Tuyền , (Đọc lại Thơ ở đâu xa).Talawas 21.4.2006
(12) (14) Ninh Hạ Nguyễn Ðức Tâm ,Thanh Tâm Tuyền - Những điều nhớ, Talawas 15.5.2006
(17) Kiệt Tấn, Tôi có còn cô độc? Talawas 6.8.2006
(3), (4) Phạm Xuân Nguyên, Biến cố thứ nhất của văn học thời hậu chiến: Thanh Tâm Tuyền Talawas 23.9.2006
(*) (*) “Thực ra, tôi biết nhiều trường hợp các nhà tu Công giáo hay Phật giáo, trong chỗ riêng tư, đều nhìn nhận thời gian học tập cải tạo hay ở tù chính trị như một thử thách giúp họ trở lại với tinh thần tôn giáo, lý tưởng tu trì mà trước đó họ đã ít nhiều xa rời, thậm chí phản bội nữa, nhất là những kẻ có quyền hành đạo đời. Do đó họ coi học tập cải tạo, ở tù như một hồng ân Thiên Chúa ban cho họ để tu tỉnh lại.”
(GS. Nguyễn Văn Trung - I. Tha thứ và xin tha thứ Dũnglạc.net)
(13) (16) Hoàng Cầm, Về Kinh Bắc (1959-1960) (phần Vĩ thanh), Talawas 5.4.2007
(6) dẫn theo Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng, hồn thơ bị vây khổn. Talawas. van học miền nam trước 1975
(9) (11) (15) Phạm Kiều Tùng, “Bài Học Đạo đức Kinh” của Thanh Tâm Tuyền”, 3/1/2007  www.thotanhinhthuc.org“.
Tháng 7/2007
Bùi Công Thuấn
Theo http://www.vanchuongviet.org/


1 nhận xét:

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát Lời hát giao duyên kể về nỗi niềm cô gái thương thầm chàng trai/ Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát/ ...