Thế nào
là thơ hay? tại sao thơ Việt Nam hiện nay có rất ít bài thơ hay? Vấn
đề này luôn ám ảnh tôi. Nhân đọc bài “Thơ hay sao không ở chữ nghĩa“ của Nguyễn
Đình San (Văn Nghệ số 23, ngày 9/6/07) tôi thấy có nhiều điều thú vị và muốn
được chia xẻ những cảm nghĩ của mình.
Ông
Nguyễn Đình San chê tất cả các ý kiến tranh cãi là “Rắc rối và sặc
mùi lý luận“, rồi đưa ra ý kiến của mình: “Nhưng tôi lại cho rằng chẳng có gì
đáng phải bàn cãi xung quanh vấn đề thế nào là thơ hay, bởi một bài thơ hay đơn
giản chỉ là: đọc xong người ta thấy thú vị và nhớ“. Ông chỉ ra yếu tố quyết định thơ hay: ”Cho
nên theo tôi rốt cuộc vẫn chỉ là chữ nghiã.” Ông khẳng định: ‘Những người làm
thơ giỏi, tạo nên cái hay chính là biết dùng nó đúng văn cảnh, phù hợp nhất mà
không thể thay bằng từ khác“. Ông kết
luận: “Khuynh hướng cuả nhiều bạn trẻ làm thơ hiện nay..nhiều khi khiến người
đọc chẳng hiểu họ muốn nói gì; thậm chí nếu có hỏi họ muốn diễn tả ý gì thì
chính họ cũng lúng túng, không sao khiến người hỏi có thể hiểu. Nhưng đâu phải họ thiếu tình; chẳng qua
không biết dùng từ ngữ, chữ nghiã đúng chỗ, hợp ‘văn cảnh‘ mà thôi“. Nói gọn một câu, theo ông Nguyễn
Đình San, chỉ cần dùng từ ngữ chữ nghiã cho đúng chỗ, hợp’văn
cảnh’ là có thơ hay.
Tôi
không tin vấn đề lại đơn giản như thế. Đúng là người viết văn làm thơ là những
người phải đánh vật với con chữ, nhiều khi bất lực trước trang giấy trắng,
ngòi bút nặng nề đến nỗi không sao cất lên thành lời. Nhưng cho rằng
người làm thơ muốn có thơ hay chỉ cần “biết dùng từ ngữ, chữ
nghiã đúng chỗ, hợp ‘văn cảnh‘, thì hoá ra bảo rằng nhà thơ Việt Nam hiện
nay không biết dùng từ?. “Biết dùng từ ngữ, chữ nghiã đúng chỗ, hợp ‘văn cảnh‘ là
yêu cầu rèn luyện ngôn ngữ trong những bài tập dùng từ cuả học sinh
Tiểu học. Đó mới chỉ là yêu cầu thấp nhất
cuả việc học ngôn ngữ. Chẳng lẽ làm thơ chỉ cầu yêu cầu như thế? Hơn nưã, khi
thấy ông Nguyễn Đình San chê lý luận, tôi nghĩ chắc ông sẽ khám phá nhiều điều
từ thực tiễn thơ Việt Nam, vì “thực tiễn cao hơn lý luận“. Nhưng cả bài
viết, ông chỉ nhắc đến tên bài bài thơ Học Trò Trường Huyện cuả
Nguyễn Bính, trích một câu cuả Nguyễn Đình Thi, một câu cuả Xuân Diệu
và một vài câu thơ lẻ không ghi tên tác giả (ông gọi là “một
nhà thơ nọ“, một thi sĩ nọ‘), rồi từ đó ông khái quát lên nhận định có tính
chân lý cuả mình, quả thực, cách “lập thuyết“ như thế không thể thuyết phục
được người đọc, vì nó không dựa trên
sự phân tích khoa học những nguồn dữ liệu có đủ độ tin cậy.
Xin đi
sâu vào vài vấn đề.
Ông Nguyễn
Đình San có một đoạn “lý luận“ rất hay (!): “Thơ hay như một cô gái hấp dẫn.
Tiếp xúc qua chỉ một lần cũng khiến trái tim ta rung động. “phải lòng“ rồi ta
cứ vấn vương mãi hình ảnh ấy và luôn luôn ước muốn có được cô trong cuộc sống
cuả mình. Không đạt được thì tơ tưởng, có khi phát ốm. Thơ hay cũng phải giống
như vậy…Bài thơ ấy, cô gái ấy phải vưà quen vưà lạ. Quen dễ khiến ta có lòng tin, còn lạ lại
hấp dẫn, lôi cuốn ta vì nó thoả mãn tính hiếu kỳ cố hữu cuả con người “.
Tôi
phỏng đoán rằng chắc ông tâm đắc với đoạn “lý luận“ này lắm, vì
tôi hình dung ra tất cả sự sung sướng rạng rỡ trên khuôn mặt ông,
tràn ra thành cái say sưa trên câu chữ.
Ai cũng
biết mọi so sánh đều khập khiễng. So
sánh cô gái hấp dẫn với thơ hay càng khập khiễng, vì sự
hấp dẫn cuả cô gái với phái mày râu, trước hết là sự hấp dẫn có căn nguyên dục
tình. Chẳng lẽ thơ hay cũng quyến rũ người đọc như thế? Không lấy được cô
gái hấp dẫn ta có thể tương tư, nhưng trên đời này, tôi chưa thấy ai
không đọc được bài thơ hay, lại cứ tơ tưởng, có khi phát ốm!
Có thể
nhận thấy cách đọc thơ cuả ông là cách đọc cảm tính, nhận thức bằng
cảm giác, tiếp cận tác phẩm bằng trạng thái mơ hồ cuả “trái tim ta rung động…
“phải lòng“ rồi ta cứ vấn vương“. Cảm giác rằng hay thì đó là bài thơ hay,
cảm giác rằng dở thì đó là thơ dở, sự đánh giá hay, dở không cần
theo tiêu chí khoa học cuả cuả bất cứ “lý luận “ gì.
Ông nhấn mạnh: “...một bài thơ hay đơn giản chỉ là đọc xong người ta
thấy thú vị và nhớ…Đọc xong bài thơ, người ta trỗi dậy được một cảm
giác nào đó…Bài thơ ấy, cô gái ấy phải vưà quen, vưà lạ. Quen với cái
nghiã vừa tiếp cận ta đã cảm
thấy có sự gắn bó. Còn lạ thì cũng dễ hiểu: đó là sự độc đáo, có nét riêng,
không lẫn lộn với ai, không giống mọi cái khác phổ biền, tầm thường. Quen dể
khiến ta có lòng tin, nhanh nảy sinh tình cảm thân thương, còn lạ
lại hấp dẫn, lôi cuốn ta vì nó thoả mãn tính hiếu kỳ cố hữu cuả con
người”
Người
ta đã làm thí nghiệm này: Một tay nhúng vào chậu nước thật nóng, tay kia nhúng
vào chậu nuớc thật lạnh, rồi nhúng cả hai tay vào chậu nước vưà, để xem cảm
giác ra sao. kết quả là, tay nhúng vaò chậu nuớc nóng thì cảm thấy mát và
tay nhúng vào chậu nước lạnh thì cảm thấy ấm. Cùng trên một thân thể, cùng
nhúng vào một chậu nước, mà hai tay có hai cảm giác khác nhau.
Rõ
ràng nhận thức bằng cảm giác, cảm tính không cho ta tiếp
cận chân lý. Trong thực tế đời sống, tiếp cận bằng cảm giác, cảm tính luôn
mang đến ngộ nhận. Cũng cần phân biệt cách tiếp cận bằng cảm giác với cách tiếp
cận bằng trực giác. Nếu chỉ bằng cảm giác, cảm tính ta không thể nào xem
được tranh lập thể cuả Picasso, càng không thể thưởng thức đựơc những tác phẩm
Siêu thực, hoặc những bài thơ hiện đại (xin đọc bài Elsa Ngồi Trước Gương cuả L. Aragon hoặc
bài Những Cửa Chớp cũng của L.Aragon - Tạp chí Thơ số 7, 8, tháng 1&2/ 2004 sau đây:)
“Cửa chớp cửa chớp cửa chớp
Cửa chớp cửa chớp cửa chớp
Cửa chớp cửa chớp cửa chớp
Cửa chớp cửa chớp cửa chớp cửa chớp
Cửa chớp cửa chớp cửa chớp cửa chớp
Cửa chớp cửa chớp cửa chớp
Cửa chớp“
Cũng
vậy, bằng cảm giác, ta không thể thưởng thức được những tác phẩm nhạc Giao
Hưởng. Đó là loại nghệ thuật của trí tuệ. Người nghe phải có tri thức về nhạc, về hoà âm, phối khi, về cấu trúc tác phẩm, về các trường phái âm nhạc và
phải hiểu biết cả tư tưởng cuả tác giả nữa ... Không có tri thức Thiền, không
hiểu mỹ học Thiền, không có Trí huệ Bát Nhã, thì người
đọc sẽ hoàn toàn mù trước một bài thơ Thiền, cảm giác không giúp
ích gì.
Tính
“vưà quen vưà lạ“ cũng không là đặc điểm cuả thơ, mà
là đặc điểm cuả nhân vật điển hình trong những truyện viết
bằng bút pháp hiện thực. Thơ nói bằng phương thức trữ tình, không phải phương
thức tự sự như truyện, vì thế phép điển hình hoá không phải là nguyên tắc làm
thơ. Thơ là tiếng lòng, là sự vận động cuả tâm trạng cá nhân, là mạch chảy
không ngừng cuả suy tưởng hiện sinh. Nhà thơ không bao giờ áp
đặt tâm trạng, mạch suy tưởng, trạng thái hiện sinh cuả
cá nhân vào những khuôn mẫu cuả điển hình hoá, để cho ra đời những
bài thơ hay “vưà quen vưà lạ“, để đánh vào tâm lý hiếu kỳ cuả
người đọc. Người đọc tìm đến thơ vì cái hay cuả thơ, để được hưởng
thụ cái đẹp cuả tâm hồn, cuả tình cảm, cuả trí tuệ, thông qua cái
đẹp cuả ngôn từ. Cái đẹp là bản chất cuả nghệ thuật, cũng là cuả thơ
ca. Nghệ thuật là sự sáng tạo ra cái đẹp. Những người đọc thơ vì “hiếu
kỳ“ hoặc để “thoả mãn tính hiếu kỳ“ thì không bao
giờ là tri kỷ cuả nhà thơ được.
Nói
đến tính “vưà lạ vưà quen” như là một tiêu chí cuả thơ
hay, phải chăng Ông Nguyễn Đình San vận dụng quan điểm
cuả các nhà Hình Thức Chủ Nghiã Nga đầu thế kỷ XX? Theo Shklovski, trong đời
sống hàng ngày, ngôn ngữ đã được dùng đi dùng lại quá nhiều lần,
đến nỗi nó trở nên quen thuộc, sờn mòn hết ý nghĩa, nó trở nên trơ, không còn
gây được hiệu quả gì với người nghe, vì thế cần phải lạ hóa thứ ngôn
ngữ quen thuộc bằng từ mới, cách dùng từ độc đáo, hình ảnh lạ...Đúng là viết
văn làm thơ, trước hết là sự sáng tạo ngôn ngữ. Hoàng Cầm, Quang Dũng, Trần
Dần, Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng làm mới thơ sau 1945 trước hết bằng sự sáng
tạo ngôn ngữ. Trước 1945 Xuân Diệu độc đáo trước hết ở khả năng “lạ hoá“ ngôn
ngữ, mà ngày nay đọc lại ta vẫn còn thấy mới. Xin đọc:
“Chiều
mộng hoà thơ trên nhánh duyên
Cây
me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ
trời xanh ngọc qua muôn lá
Những
từ “hoà thơ, cây me ríu rít, nhánh duyên, đổ trời xanh ngọc“
được dùng theo kỹ thuật “lạ hoá“ ngôn ngữ, tạo ra trường nghiã khác với ngôn
ngữ đương đại, đem đến cho người đọc sự thú vị trong việc khám phá ngôn từ.
Nhưng lạ
hoá ngôn ngữ như trong bài Buồn Xưa cuả Nguyễn Xuân Sanh lại là
cách làm cho người đọc tuyệt không thể hiểu bài thơ nói gì. Nguyễn Xuân Sanh
tạo sự “lạ hoá“ bằng cách đem những từ ngữ trong các
trường nghiã khác nhau đặt bên nhau, xé nát cấu trúc hình tượng, rồi lắp ghép
vào những chiều không gian khác nhau, để phá vỡ cách nhận thức bằng
tư duy logic cuả người đọc, khiến bài thơ trở thành một rừng chữ
nghiã, không sao thâm nhập được. Chữ nghiã sờ sờ trước mắt ta, nhưng lại “nằm
ngoài tầm kiểm soát “cuả trí não ta, nằm ngoài cấu trúc và cách mã hoá cuả
ngôn ngữ đời thường. Xin thử đọc:
Quỳnh
hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn
xanh ngắt chở dấu xiêm y
Rưọu
hát bầu vàng cung ướp hương
Ngón
hường say tóc nhạc trầm mi
Đẵng
xuân
Bờ
giũ trái xuân sa
Đáy điã
muà đi nhịp hải hà
Nhài
đàn gót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà
sương cũ dựng rừng xa
Buồn
hưởng vườn người vai suối tươi
Ngàn
mày tràng giang buồn muôn đời
Môi gợi
muà xưa ngực giưã thu
Duyên
vàng do lộng trái du ngươi
Ngọc
quế buồn nào gợi tóc xưa
Hồn xa
chĩu sách nhánh say sưa
Hiến
dâng
Hiến
dâng quả bông hường
Hoàng
tử nghiêng buồn vây tóc mưa
Đường
tàn xây trái buổi du dương
Thời
gian ơi tưới hận chìm tường
Nguồn
buồn lạnh lẽo thoát cung hơi
Ngọt
ngào nhờ chảy tự trăm phương
(Buồn Xưa -Nguyễn Xuân Sanh)
Có
lẽ bài thơ này là bài thơ hay theo đúng tiêu chí cuả ông Nguyễn Đình San vì
nó lạ: “đó là sự độc đáo, có nét riêng, không lẫn lộn
với ai, không giống mọi cái khác phổ biến, tầm thường“. Để đọc bài thơ này,
không thể dung cảm giác mà đánh giá bài thơ hay dở. Tôi nghĩ rằng ngay cả những
tác giả trẻ đang học đòi kỹ thuật thơ Hậu Hiện Đại cũng không hiểu
và làm nổi một bài thơ “hay“ như thế .
Ông
Nguyễn Đình San bác bỏ quan điểm cho rằng ”thơ hay cốt ở cái tình, cái
tâm“, ông khẳng định “ …theo tôi rốt cuộc vẫn là chữ nghiã. Chỉ có điều
cái chữ nghiã ấy có hiệu quả thông tin ra sao mà thôi ..”
Ai cũng
biết điều này: cái đẹp cuả một người hay cuả một tác phẩm là cái đẹp có sự
sống. Khi tách khỏi cơ thể, từng bộ phận sẽ mất đi sự sống, cái đẹp cũng
chết theo. Người ta kể chuyện, nhờ Kinh Kha sang Tần để giết Tần Thuỷ Hoàng
(221-206 trCn), thái tử Yên Đan đã hết sức trọng đãi Kinh Kha. Một lần, cung
nữ dâng rượu cho Kinh kha có bàn tay rất đẹp, Kinh Kha khen bàn tay
ấy. Thấy vậy, thái tử Yên Đan cho chặt bàn tay người cung nữ tặng
cho Kinh Kha. Than ôi! còn đâu bàn tay đẹp.
Cũng
vậy, cái hay cái đẹp nghệ thuật cũng tồn tại trong tổng
thể tác phẩm, trong mọi yếu tố cuả tác phẩm văn chương, từ ngôn ngữ, đến cấu trúc, nhân vật, bút pháp, phong cách, nội dung, tư tưởng… Thơ
hay không chỉ ở “hiệu quả thông tin“ cuả chữ nghiã. Ngôn
ngữ thông tin không phải là ngôn ngữ cuả tác phẩm văn chương, đó là ngôn ngữ
báo chí. Ngôn ngữ thông tin có tính đơn nghiã, tính chính xác, tính
thời sự, tính phổ cập... Ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ nghệ thuật
.Ngôn ngữ văn chương có tính biểu cảm, tính đa nghiã, tính hình tượng,
tính phong cách, tính thẩm mỹ và cả tính hàm hồ.
..
Xin nêu
thí dụ về tính hàm hồ cuả ngôn ngữ văn chương: Câu thơ
“Sông dài trời rộng bến cô liêu“ (Tràng Giang - Huy Cận) đã được
một học sinh thi Đại Học giảng nghiã như sau: “bến
cô liêu“ là bến sông, nơi ấy có cô gái tên Liêu tự tử chết, vì thế
người ta đặt tên bến sông ấy là “bến cô liêu“. Một thí dụ khác:
Câu thơ Kiều nói về Từ Hải “Râu hùm hàm én mày ngài/ vai năm tấc rộng thân
mười thước cao“ có giáo viên giảng rằng: Từ Hải có râu Hùm,
tua tuả như râu mèo. Từ Hải cao lênh khênh vì bề ngang vai chỉ có 5 tấc mà lại
cao mười thước. Câu thơ nói về Mã Giám Sinh “mày râu nhẵn nhụi áo quần
bảnh bao“ cũng một thời gây tranh cãi trên báo … Lấy chuẩn mực nào để bảo
rằng những cách giãi thích ấy là sai? Các nhà Hậu Cấu Trúc Luận
(Post-Structuralism) như Michel Foucault, Jacques Lacan, Roland
Barthes, Jacques Derrida, cho rằng, văn bản là một cái
gì luôn luôn dở dang, luôn luôn được hình thành, tồn tại trong quá trình ‘sản
xuất’ liên tục và vì thế tiến trình tìm giải nghĩa văn bản là một
tiến trình bất định và hầu như vô giới hạn…
Nếu
coi hiệu quả thông tin cuả ngôn ngữ là tiêu chí xét thơ
hay, dở thì bài thơ con cóc (thơ dân gian) sẽ là bài tuyệt
hay, vì đó là ngôn ngữ thông tin chính xác, thoả mãn tính hiều
kỳ cuả người đọc chưa biết con cóc là con gì, sinh hoạt ra sao!
Con
cóc trong hang
con
cóc nhảy ra
con
cóc nhảy ra
con
cóc ngồi đó
con
cóc ngồi đó
con
cóc nhảy đi
Và
như thế bài thơ Con Cóc cuả vua Lê Thánh Tôn sẽ
là thơ dở, vì ngôn ngữ không tạo ra hiệu quả thông tin
Bác
mẹ sinh ra vốn áo sồi
Chốn
hang thăm thẳm một mình ngồi
Chép
miệng dăm ba con kiến gió
Nghiến
răng chuyển động bốn phương trời
Rõ ràng
Lê Thánh Tôn đã tạo ra một thế giới nghệ thuật, thế giới
cuả cái đẹp, trong đó tâm hồn, tư tưởng, khí phách như
mở rộng ra mãi trong không gian, thời gian. Ngôn ngữ biến hoá một
cách tài năng, tạo ra nguồn năng luợng vô tận cho những cảm xúc
thẩm mỹ nơi người đọc …
Câu thơ
sau đây cuả Bùi Giáng, không biết có đem đến cho người đọc thông tin gì không, nhưng khi đọc lên dường như trí não ta không thể gỡ ra được.
Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.
Câu thơ tuyệt nhiên chẳng có chữ nghiã nào xa lạ, nếu không nói đó là ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ được cố ý làm cho trở nên “tầm thường“. Nhưng cái hay cuả những câu thơ Bùi Giáng không ở chữ nghiã mà ở sự tài hoa cuả tác giả.
Cũng vậy, cái hay cuả thơ Nguyễn Bính, Hoàng Cầm, Quang Dũng trước hết là ở sự tài hoa cuả hồn thơ, không chỉ ở chữ nghiã. Ở góc nhìn này, những bài thơ lục bát cuả Đồng Đức Bốn không sao sánh được với thơ lục bát cuả Nguyễn Bính , cuả Phạm Thiên Thư (xin đọc Cô Hàng Xóm - cuả Nguyễn Bính; Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng cuả Phạm Thiên Thư và Chờ Đợi Tháng Ba cuả Đồng Đức Bốn)…Các nhà thơ trẻ hiện nay không ai có được sự tài hoa thần linh cuả Hoàng Cầm (Về Kinh Bắc), tài hoa trác tuyệt cuả Phạm Thiên Thư hay tài hoa diệu kỳ cuả “người điên“ Bùi Giáng. Một tác giả trẻ được công nghệ lăng xê tôn vinh là thiên tài vượt cả Nguyễn Du là Nguyễn Thế Hoàng Linh, nếu so với thế hệ đàn anh cũng chỉ là cậu học trò Tiểu học còn đang tập “dùng từ ngữ, chữ nghiã đúng chỗ, hợp ‘văn cảnh‘ mà thôi “…
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên? Rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm
(Tặng Mã Giám Sinh - Bùi Giáng)
Mây làm thành dáng người bay
linh hồn tao ghép vào mày nhé mây
để bay một phát sang tây
rồi bay trở lại rơi đầy đất đai
(Hân Hoan – Nguyễn Thế Hoàng Linh)
Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.
Câu thơ tuyệt nhiên chẳng có chữ nghiã nào xa lạ, nếu không nói đó là ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ được cố ý làm cho trở nên “tầm thường“. Nhưng cái hay cuả những câu thơ Bùi Giáng không ở chữ nghiã mà ở sự tài hoa cuả tác giả.
Cũng vậy, cái hay cuả thơ Nguyễn Bính, Hoàng Cầm, Quang Dũng trước hết là ở sự tài hoa cuả hồn thơ, không chỉ ở chữ nghiã. Ở góc nhìn này, những bài thơ lục bát cuả Đồng Đức Bốn không sao sánh được với thơ lục bát cuả Nguyễn Bính , cuả Phạm Thiên Thư (xin đọc Cô Hàng Xóm - cuả Nguyễn Bính; Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng cuả Phạm Thiên Thư và Chờ Đợi Tháng Ba cuả Đồng Đức Bốn)…Các nhà thơ trẻ hiện nay không ai có được sự tài hoa thần linh cuả Hoàng Cầm (Về Kinh Bắc), tài hoa trác tuyệt cuả Phạm Thiên Thư hay tài hoa diệu kỳ cuả “người điên“ Bùi Giáng. Một tác giả trẻ được công nghệ lăng xê tôn vinh là thiên tài vượt cả Nguyễn Du là Nguyễn Thế Hoàng Linh, nếu so với thế hệ đàn anh cũng chỉ là cậu học trò Tiểu học còn đang tập “dùng từ ngữ, chữ nghiã đúng chỗ, hợp ‘văn cảnh‘ mà thôi “…
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên? Rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm
(Tặng Mã Giám Sinh - Bùi Giáng)
Mây làm thành dáng người bay
linh hồn tao ghép vào mày nhé mây
để bay một phát sang tây
rồi bay trở lại rơi đầy đất đai
(Hân Hoan – Nguyễn Thế Hoàng Linh)
Nếu
chỉ căn cứ vào chữ nghiã, làm sao người đọc thưởng thức được lối
thơ “ý tại ngôn ngoại“ hoặc thơ “vô ngôn“?
Thiên sơn điểu phi tuyệt
Vạn kính nhân tung diệt
Cô chu toa lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết
(Giang Tuyết - Liễu Tông Nguyên 773-819)
Nghìn non mất bóng chim bay
Muôn con đường tắt dấu giày tuyệt không
Kià ai câu tuyết bên song
Áo tơi nón lá , một ông thuyền chài
(Tuyết Trên Sông - Tản Đà dịch)
Tuyển đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thướng cô phong dính
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
(Không Lộ Thiền Sư–Thiền Uyển Tập Anh)
Dịch:
Kiểu đất long xà chọn được nơi
Tình quê lai láng chẳng hề vơi
Có khi xông thẳng lên đầu núi
Một tiếng kêu vang, lạnh cả trời
(Kiều Thu Hoạch dịch)
Thiên sơn điểu phi tuyệt
Vạn kính nhân tung diệt
Cô chu toa lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết
(Giang Tuyết - Liễu Tông Nguyên 773-819)
Nghìn non mất bóng chim bay
Muôn con đường tắt dấu giày tuyệt không
Kià ai câu tuyết bên song
Áo tơi nón lá , một ông thuyền chài
(Tuyết Trên Sông - Tản Đà dịch)
Tuyển đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thướng cô phong dính
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
(Không Lộ Thiền Sư–Thiền Uyển Tập Anh)
Dịch:
Kiểu đất long xà chọn được nơi
Tình quê lai láng chẳng hề vơi
Có khi xông thẳng lên đầu núi
Một tiếng kêu vang, lạnh cả trời
(Kiều Thu Hoạch dịch)
3. Phải
chăng tác phẩm không có can hệ gì với tác giả?
Sau
khi bác quan điểm coi thơ hay là ở cái tâm cái tình, ông Nguyễn
Đình San phủ định luôn mối quan hệ giưã tác phẩm và tác giả. Ông
viết “Tất cả những câu thơ, bài thơ mà ta thấy hay là nhờ ở
cái gì? Không lẽ ta có ngọn đèn thần mà rọi vào trang giấy để xem thử cái tâm
cuả tác giả hiện lên ra sao chăng? hay vẫn phải căn cứ vào chữ nghiã. Vậy nếu
không cẩn thận thì chúng ta sẽ xem xét một bài thơ lại căn cứ vào những cái
ngoài bài thơ, nhất là căn cứ vào tác giả ..”
Phải
chăng ông Nguyễn Đình San đã nhìn vấn đề theo quan điểm cuả Cấu Trúc
Luận? Cấu Trúc Luận (structuralism) xác định tầm quan
trọng và vai trò trung tâm của ngôn ngữ, văn bản, và tuyên
xưng cái chết của tác giả; Văn chương cuối cùng chỉ còn là cấu trúc
văn bản, đoạn tuyệt với con người?!
Đúng là
mỗi tác phẩm (thơ cũng như truyện) là một sinh thể tồn tại độc lập với tác
giả. Tác phẩm có cấu trúc nội tại riêng, có sinh mệnh riêng, có thần thái
cốt cách riêng, và khi đã ra đời, tác phẩm không còn là cuả tác giả, nhiều
khi tác phẩm nói tiếng nói không trùng khớp với tiếng nói cuả tác giả.
Nhưng
“văn là người“. Từ Plato cho đến các nhà phê bình mới Hoa Kỳ,
trực tiếp hoặc gián tiếp, nhiều hoặc ít, người ta tin rằng một tác phẩm văn học, công trình sáng tạo, là con đẻ của của tác giả, diễn tả bản ngã của chính
tác giả (Theo Nguyễn Minh Quân, "Từ lý thuyết đến phê
bình”). Nội dung cuả tác phẩm chính là những “cuộc bể
dâu“ mà tác giả đã trải nghiệm. Chủ đề, tư tưởng cuả tác phẩm chính là
những vấn đề tác giả nghiền ngẫm, nung nấu. Thông điệp về chân
lý trong tác phẩm mà tác giả muốn gửi tới người đọc, chính là sự
giác ngộ cuả tác giả. Toàn bộ thế giới tâm hồn cuả tác giả được huy động để làm
nên tác phẩm. Vốn ngôn ngữ dùng để viết là ngôn ngữ cuả riêng tác
giả, dù rằng ngôn ngữ ấy là cuả cái cộng đồng. Và caí giọng điệu,
cái tạng riêng cuả tác giả tạo nên cái giọng riêng cuả tác phẩm. Giọng Hồ Xuân
Hương khác giọng Nguyễn Công Trứ. Giọng Trần Tế Xương khác giọng Nguyễn Khuyến, giọng Phạm Tiến Duật khác giọng Tố Hữu, giọng Xuân Quỳnh khác giọng Xuân
Diệu…Không có giọng riêng, sẽ không có văn chương. Không thể phủ định cá tính
sáng tạo cuả nhà thơ nhà văn trong tác phẩm.
K.
Marx chỉ ra bản chất xã hội cuả con người,
“Trong tính hiện thực cuả nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội“ (K.Marx- Luận cương về Feuerbach, đoạn 6).
Con người sống là sống trong xã hội. Nó chịu sự quy định phức tạp cuả ý thức
và các mối quan hệ xã hội (Kinh tế, chính trị, luật pháp, đạo đức, phong
tục, tập quán… ). Chủ nghiã Tân Duy Sử và Duy Vật Văn
Hoá (New Historicism and Cultural Materialism), chịu ảnh hưởng của
chủ nghĩa Mác, quan niệm văn học cần phải được đặt trong bối cảnh xã
hội và văn hoá rộng lớn hơn: mỗi tác giả đều sống trong một thời đại nhất định,
chịu ảnh hưởng và nội tâm hoá một số ý thức nhất định; những ý thức hệ ấy trở
thành một phần trong tác phẩm của họ, bởi vậy tác phẩm của họ bao giờ cũng có
tính lịch sử và bao giờ cũng ít nhiều tham gia vào sự tương tác giữa các quan
hệ quyền lực trong xã hội. (dẫn theo Nguyễn Hưng Quốc)
Hơn bất
cứ thể loại nào khác, thơ là tiếng nói trực tiếp cuả “cái tôi“ tác giả, vì
thế đọc thơ là tiếp cận trực tiếp với tác giả trước khi nhận ra những giá trị
khác cuả tác phẩm.
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần viết vào thơ,
tôi đã giết đi rồi!
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười,
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ,
Tôi giết cái cánh sắp bay…trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời trên biển,
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gày còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình.
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi?
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
Ðã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình!
(Trừ Đi - Chế Lan Viên)
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần viết vào thơ,
tôi đã giết đi rồi!
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười,
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ,
Tôi giết cái cánh sắp bay…trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời trên biển,
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gày còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình.
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi?
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
Ðã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình!
(Trừ Đi - Chế Lan Viên)
Đọc
những dòng thế như thế, người đọc sẽ nghĩ gì về thông điệp mà Chế Lan Viên gửi
đàng sau chữ nghiã?
4. Đi
tìm thơ hay.
Thưởng
thức nghệ thuật là sự cảm thụ riêng cuả cá nhân. Có người thích thơ, có người
cả đời không biết đến bài thơ nào. Một bài thơ có thể là hay với người này và
không hay với người kia; Vì thế không thể có bài thơ hay với mọi người. Chẳng
hạn việc tuyển 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX, ban tuyển
chọn cho đó là hay nhưng có người bảo rằng trong 100 bài thơ ấy có tới 50% hay
70% là bài dở .
Cũng
có một thực tế khác: đã có những bài thơ được nhiều người cho là
hay và được truyền tụng qua nhiều thời, qua nhiều biên giới quốc
gia. Thơ Đường không chỉ là thơ đời Đường (618-906) ở Trung Quốc, mà trở
thành một nền thơ nhân loại. Thơ R.Tagore (Lời Dâng - Gitanjali) được yêu mến trên toàn thế giới. Lịch sử văn chương
Việt Nam cũng để lại nhiều tác phẩm giá tri. Vậy đâu là bản chất cuả vấn đề?
Thơ
hay, dở trước hết tuỳ thuộc vào đối tượng người đọc và thời đại đọc thơ.
Người
đọc là một thành tố quan trọng cuả sáng tạo nghệ thuât. Thuyết Người Đọc
(reader theory) xem người đọc là nguồn nghiã chính. Tác phẩm văn chương
là một cấu trúc khác với thực tại, nó có vô số những điểm bất định: mỗi điểm
bất định như thế là những khoảng trống mà người đọc cần phải lấp đầy và cụ thể
hoá để tác phẩm văn học từ một cấu trúc xương xẩu biến thành một đối tượng thẩm
mỹ thực sự. Công việc lấp đầy các khoảng trống và cụ thể hoá những điểm
bất định này đòi hỏi ở người đọc khả năng tưởng tượng cũng như phán đoán và
chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau như học vấn, trình độ tư duy,
trình độ trải nghiệm, phương pháp đọc, năng lực giải mã ngôn ngữ,.. Trong tác phẩm, tác giả
đặt ra ý nghĩa còn người đọc tạo dựng liên nghĩa; ý nghĩa chỉ có một
và cố định trong khi liên nghĩa có thể thật nhiều và biến đổi theo thời gian,
mọi sự diễn dịch đều là cuộc đối thoại vô tận. Người đọc còn mang theo một hệ
thống liên chủ thể hoặc một hệ thống quy chiếu dùng để
đánh giá khi tiếp cận tác phẩm. Người đọc còn là một thành viên cuả
một ‘cộng đồng diễn dịch’, bao gồm những hệ thống niềm tin, quy phạm
và quy ước chung về văn học để dựa theo đó các cá nhân đọc, diễn dịch và đánh
giá các tác phẩm văn học. v.v... Chính vì vậy, cái đọc biến dạng từ người này
qua người khác, thậm chí, ở từng người, biến dạng từ lần đọc này qua lần đọc
khác (dẫn theo Nguyễn Hưng Quốc - Các lý` thuyết phê bình)
Thời
kháng chiến chống Pháp, người đọc là quần chúng công, nông, binh vưà thoát
nạn mù chữ, lại đọc thơ trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ, thì những bài thơ
giàu tính quần chúng sẽ được quần chúng đánh giá hay.
“Giọt
giọt mồ hôi rơi
Trên
má anh vàng nghệ
Anh
vệ quốc quân ơi
Sao
mà yêu anh thế ..”
(Cá Nước – Tố Hữu)
Cũng vì
thế mà Đất Nước - Nguyễn Đình Thi; Màu Tím Hoa Sim –Hữu Loan; Tây Tiến-Quang
Dũng .. bị phê phán
Vô tri
bất mộ. Không hiểu biết thì không yêu mến, người trẻ hôm nay
không cảm thụ được cái hay cuả Đoạn Trường Tân Thanh nếu
không đuợc giảng giải tường tận về từ ngữ, điển tích, thi pháp, hoàn cảnh xã
hội, tài năng sáng tạo cuả Nguyễn Du. Em Nguyễn Phi Thanh, học
sinh giỏi văn lớp 11A18 Trường THPT Việt Đức, Hà Nội, tại
kỳ thi học sinh giỏi các lớp không chuyên của Hà Nội, tổ chức giữa tháng 3/2005
đã viết như sau: “ Đề bài thi học sinh giỏi năm nay là “Giới thiệu
vẻ đẹp của tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” nhưng thực sự em không hề thích
tác phẩm này, như vậy em có thể viết hay được không? Em có thể chắc chắn rằng
trong số 10 học sinh như em thì có 9 người cũng không thích tác phẩm này. Đơn
giản bởi vì bọn em không sống trong thời chiến tranh, bọn em không thể rung
động trước một bài tế khi mà thực sự bọn em đang sống trong thời bình. Bọn em
không quay lưng với lịch sử nhưng có nhiều cách để bọn em hiểu về lịch sử dân
tộc...Em không thích tác phẩm này vì nó quá cứng nhắc, khó hiểu. Em đọc xong mà
không hề có một chút xúc động hay xót thương, như vậy là lỗi tại em hay tại nhà
văn không truyền tải được đến người đọc?...Lỗi không phải ở em, mà lỗi ở thầy
cô không giúp các em hiểu những giá trị cuả tác phẩm. Tự các em không thể hiểu
được đúng đắn tác phẩm, trình độ tư tưởng, tư
duy nghệ thuật, kiểu ngôn ngữ và thời đại cuả Văn
tế Nghiã Sĩ Cần Giuộc đã khác với thời đại em đang sống. Bằng cảm
giác, em chỉ viết được là “không thích, không thể rung
động ..” mà thôi.
Chương
trình Văn hiện nay, học sinh lớp bảy được học thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, học Cảnh
Khuya, Rằm Tháng Giêng cuả Hồ Chí Minh, tôi nghĩ rằng điều ấy là quá sức đối
với học sinh và với cả thầy cô giảng dạy. Thơ Đường là kiểu thơ tư tưởng. Tư
duy thơ Đường là tư duy thiên về trí tuệ. Tứ thơ Đường là loại tứ thơ “ý tại
ngôn ngoại“. Thơ Chữ Hán cuả Hồ Chí Minh cũng được viết với tư duy nghệ thuật
như thế, hơn nưa, những bài thơ ấy được kết tinh từ tâm hồn một con
người uyên bác văn chương, văn hoá Đông, Tây, lại trải nghiệm mọi cảnh đời
khắp năm châu bốn bể, học sinh lớp 7 làm gì có được trình độ như thế về trải
nghiệm, về tâm hồn, về năng lực đọc, để hiểu và
cảm thơ. Nếu các em có chê thơ không hay, ấy là tại
trình độ cuả các em, không phải tại thơ dở. Đối với người bình dân thì ca dao
là hay. Thơ lãng Mạn (1930-1945) chỉ hạp với khẩu vị thanh niên thành thị Tiểu
Tư sản. Thành
thị đương thời. Vì thế có hiểu thơ mới cảm được cái hay cái đẹp cuả thơ.
Nhưng
để hiểu thơ thật không dễ. Hoàng Cầm tâm sự: khi làm thơ ông phải đào xới mạch
cảm xúc để cho “ngôn thi, tâm thi và thần thi đều có thể xuất hiện
trên trang viết Và cùng lúc đó thì có ba cái "thức" đều phải vận
động, phải làm việc cho thơ. Đó là ý thức, tiềm thức và vô thức, cũng đủ cả một
cặp: trí thức và tâm thức nữa, nhất là với toàn tập Về Kinh Bắc, tôi
đã huy động tất cả nội lực của mình: cả thể lực, trí lực, tâm lực và đương
nhiên, ở tôi, thần lực thường tự động làm bật ra rất nhiều lời thơ lắm khi
tưởng như vô nghĩa, mà ngay bản thân tôi cũng không hiểu những từ ngữ
chính mình viết ra mang ý nghĩa gì cụ thể. Ai hỏi tôi lá Diêu bông, cỏ Bồng thi
là lá gì, cỏ gì, ở đâu? Tôi chịu không giải thích được. Ngay cả nhiều sinh viên
khoa Văn ở Hà Nội cũng đã hỏi tôi: "Miếu Hai Cô" là ở đâu? Hai Cô
nào? Tại sao lại thờ? Hoặc cầu bà Sấm là trên con sông nào, bến cô Mưa là ở
khúc nào của con sông nào, tôi cũng chịu không có lời giải đáp. Hoàng Cầm bày
tỏ một tâm nguyện: “Tôi hy vọng, rất chân thành, được gặp những tâm hồn bầu
bạn, có độ lượng để bao dung, có tấm lòng nhân ái để thông cảm, có tri thức đủ
để hiểu thấu đáo tác phẩm và tác giả, hiểu cả điểm mạnh và điểm yếu của một
người suốt đời lấy Thơ làm cứu cánh, làm mục đích, làm lẽ sống..”
Thơ hay
cuả thời này có thể là thơ không có người đọc ở thời sau đó. Ngày nay đọc lại
thơ Lãng Mạn 1930-1945, người đọc còn tìm được bao nhiêu bài là thơ hay? Kiểu
thơ Tượng Trưng, lối thơ bảy chữ, tám chữ,.. kiểu ngôn ngữ cuả “chàng và
nàng“, kiểu tâm trạng, kiểu “cái tôi“ trong thơ đã trở thành “cổ điển“ so với thời đại hôm nay. Cũng vậy, người đọc hôm nay dường như dị
ứng với lối thơ tụng ca mà nhân vật trữ tình xưng “ta“ tự dại diện cho tất cả, sử dụng kiểu ngôn ngữ hướng về quần chúng: Mẹ ơi! em ơi! , cò ơi! Nghé ơi! Mây ơi!. ..Kiểu thi pháp ấy Tố Hữu, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật đã có
những bài thơ đạt đỉnh cao mà những người đi sau chỉ lặp lại lối mòn.
Thời
hôm nay cần một kiểu tư duy nghệ thuật khác, một kiểu ngôn ngữ khác, một cách
thể hiện khác, đòi hỏi một đối tượng người đọc khác và cách đọc khác.
Mùi quế
hương lưu vong
tấm lưng trần liệm nắng
ngọn râu khoai lườm nguýt mặt đất
những bầu vú ra khơi vắt sữa mặt trời!
tấm lưng trần liệm nắng
ngọn râu khoai lườm nguýt mặt đất
những bầu vú ra khơi vắt sữa mặt trời!
Se
tháng năm vất vưởng đáy rốn
nhúm nhau dạt chân trời
không tổ chức
lụt bão
luật lệ
tử cung
sự giao lưu hoang hoải ngực Mạ
một ngày mai tinh khôi vân tay
một ngày thơ cô đơn rực rỡ mai San Francisco
hao gầy
bóng Mỹ
nợ nần
lửa khói
hoe đáy mắt phù du Thiên Cầm
phủ dụ kiếp biển
mùi nước mắm vàng lên chân lời Hồng Lĩnh
nhúm nhau dạt chân trời
không tổ chức
lụt bão
luật lệ
tử cung
sự giao lưu hoang hoải ngực Mạ
một ngày mai tinh khôi vân tay
một ngày thơ cô đơn rực rỡ mai San Francisco
hao gầy
bóng Mỹ
nợ nần
lửa khói
hoe đáy mắt phù du Thiên Cầm
phủ dụ kiếp biển
mùi nước mắm vàng lên chân lời Hồng Lĩnh
(Văn
Cầm Hải – Hoe Chân Lời)
Với bài
thơ trên thì cách đọc cảm tính hay cách đọc truyền thống có thể sẽ dẫn đến sự
bất lực trong việc tiếp cận tác phẩm.
Theo
tôi, đã có những dấu hiệu cuả cách viết Hậu Hiện Đại
(Postmodernism) trong bài thơ. Đó là sự phá vỡ trật tự
không gian; sự rỉ mòn của cảm thức về thời gian; việc trải chữ lên
bề mặt của văn bản như những ký hiệu vật chất manh mún; sự liên kết lỏng lẻo
giữa các ý tưởng; tính cách đa nghi hoang tưởng (paranoia)… và những cặp vòng
tương tác (vicious circles), (1) Nói cụ thể, cấu trúc truyền thống cuả một
bài thơ đã bị phá vỡ . Không có sự liên kết các yếu tố để tạo ra một cốt
truyện, không có bối cảnh không gian. Ý thức thời gian rạn vỡ, không có nhân
vật trữ tình (yếu tố cốt lõi cuả thơ truyền thống), có sự lắp ghép các mảnh, đem vào những yếu tố ngẫu nhiên, tạo ra sự xáo trộn cuả ngôn từ, phương
thức trữ tình là phương thức đặc trưng cuả thơ được thay thế bằng phương thức
phơi bày trên giấy những hoang tưởng, từ đó người đọc không thể nhận ra nội
dung, chủ đề như trong một bài thơ truyền thống, đáp ứng yêu cầu phủ định
những đại tự sự mà thay vào đó là những tiểu tự sự. Người
đọc không còn nhận ra bất cứ đại tự sự nào trong thơ 45-75 như
kiểu nhân vật trữ tình sử thi, sự thể hiện chủ nghiã anh hùng cách mạng, hình
ảnh nhân dân vĩ đại, tình cảm yêu nước, lòng tự hào dân tộc … mà thay vào đó
là sự vỡ vụn cuả hiện thực: không tổ chức/ lụt bão/ luật lệ/ tử cung/
hao gầy/ bóng Mỹ/ nợ nần/ lửa khói/ hoe đáy mắt phù du/
mùi quế/ lưng trần/ râu khoai/ bầu vú/ đáy rốn/ nhúm nhau/
ngực Mạ/ vân tay ..
Quả nhiên, bài Hoe Chân Lời đã có những dấu hiệu mới mẻ cuả thi pháp. Nhưng bài thơ có hay không, câu trả lời thuộc về sự cảm nhận cuả mỗi người.
Quả nhiên, bài Hoe Chân Lời đã có những dấu hiệu mới mẻ cuả thi pháp. Nhưng bài thơ có hay không, câu trả lời thuộc về sự cảm nhận cuả mỗi người.
Vậy
cái hay cuả thơ tìm ở đâu?
Tác
phẩm nào cũng có những lớp cấu trúc. Những lớp này phải tuân theo những quy
luật cuả ngôn ngữ và tư duy. Nếu xem cấu trúc cuả một tác phẩm văn chương là
những lớp vòng tròn đồng tâm thì lớp ngoài cùng, lớp thứ nhất là ngôn ngữ và
hình thức cấu trúc, bút pháp, cách thể hiện (các yếu tố hình
thức). Lớp thứ hai bên dưới ngôn từ là nội dung, được kể hay
được trình bày hay phơi bày, bộc lộ. Lớp thứ ba bên dưới nội dung là chủ
đề và lớp thứ tư, lớp cốt lõi là tư tưởng, ẩn dưới nội
dung và chủ đề.
Nếu
tác phẩm chỉ mới lạ ở lớp thứ nhất (hình thức ngôn ngữ), thì có chăng chỉ
tạo được sự “hiếu
kỳ“ đối với người đọc (như sự hiếu kỳ dành cho Buồn
Xưa cuả Nguyễn Xuân Sanh và bài Hoe Chân Lời cuả Văn Cầm hải). Cái hay cuả lớp thứ hai (nội dung, tâm trạng) đã đem đến cho tác phẩm ít
nhiều giá trị. Chẳng hạn nội dung các bài thơ: Hai Sắc Hoa
Tygôn; Lỡ Bước Sang Ngang; Chuà Hương, Núi Đôi, Quê Hương (cuả Giang Nam). Cái hay cuả lớp cốt lõi là tư tưởng,
mới làm nên giá trị vĩnh cửu cuả thơ. Sự tồn tại bền vững cuả những bài thơ
những nền thơ lớn luôn là thơ tư tưởng (Thơ Đường, thơ Thiền, R. Tagore(Lời
Dâng - Gitanjali), Walt Whitman (tập Lá Cỏ
- Leaves of Grass). Đoạn Trường Tân Thanh …
Tác
phẩm văn chương là tác phẩm ngôn ngữ. Chức năng quan trọng cuả ngôn ngữ là giao
tiếp, tư duy và thẩm mỹ. Nếu tác phẩm văn chương không đáp ứng được
yêu cầu cuả những chức năng cơ bản này, văn chương sẽ không tồn tại. Cũng
không nên lầm lẫn giưã cái hay cuả tác phẩm với giá trị cuả tác phẩm. Cái hay mới chỉ là một phần nằm trong giá trị thẩm mỹ. Tác
phẩm văn chương còn có những giá trị khác. Những giá trị đích thực và vĩnh cửu
là những giá trị gắn với nhân dân, dân tộc, thời đại, góp phần
làm thăng tiến đời sống, tâm hồn con người.
Trong
đời sống kinh tế thị trường, mọi thứ đều trở thành hàng hoá. Thị trường có
nhiều chủng loại hàng hoá phục vụ cho yêu cầu nhiều đối tượng khách
hàng. Tất cả đều vận hành theo vòng quay cuả chủ nghiã thực dụng, phải đổi mẫu
mã liên tục. Giá trị một món hàng là do quảng cáo, do chiến lược tiếp thị
quyết định. Nhà sản xuất tạo ra thị hiếu, tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Văn chương nghệ thuật không tránh khỏi quy luật ấy. Chẳng hạn trong lãnh vực
âm nhạc, vẫn có người thưởng thức Giao hưởng, có người chỉ nghe
nhạc trữ tình tiền chiến, giòng nhạc trữ tình cách mạng vẫn là tiềng nói tâm
hồn cuả thời đại, nhưng vẫn có nhiều người ghiền nhạc “sến“, các
bạn trẻ bị cuốn vào Hi-Hop, hát Rap như cãi nhau, trên sân khấu
chỉ có ồn ào, nhảy nhót loi choi, người ta đem sinh hoạt đường phố cuả người
bình dân lên sân khấu. Đủ mọi thứ nhố nhăng. Một ca khúc thời trang
trước kia đứng được chừng một năm, giờ không sống được hai tháng. Nhìn vào
thị trường văn chương, nhiều tác giả tác phẩm được tiếp thị nổi đình nổi đám,
và nhiều người đọc đã bị lừa. Cũng đủ thứ thơ rác, thơ dơ, văn chương Sex- thứ
sex bẩn đuợc tác giả tiếp thị là nghệ thuật. Cũng bôi mặt vẽ trò, phô
diễn mông đùi đình đám. Thôi thì cứ muá cho vui, cứ màu sắc cho rực rỡ, cứ sex
cho tươi mát, cứ nhảy nhót cho sinh động, cứ la hét to cho sôm tụ, để được cả
danh và cả tiền…Thị trường mà!
Nhưng
trong cái xô bồ ấy, chỉ những giá trị thực mới tồn tại. Rác rưởi rồi sẽ trôi
lềnh bềnh vào quên lãng. Những bôi mặt vẽ trò mua vui được chốc lát rồi cũng lộ
ra hình hài tầm thường.
Người
yêu thơ, đi tìm thơ hay, sẽ tìm thấy gì trong cái chợ trời ồn ào xô bồ ấy?
Thiên
tài thơ ca rồi sẽ xuất hiện, như đã từng xuất hiện những Xuân Diệu, Nguyễn
Bính, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Hoàng cầm, Quang Dũng, Phạm Thiên Thư …Nhưng
trước hết người đọc thơ phải là ngườ có tấm lòng tri kỷ như mong mỏi cuả Hoàng
Cầm thì mới mong tìm thấy thơ hay: “Tôi hy vọng, rất chân thành, được gặp những
tâm hồn bầu bạn, có độ lượng để bao dung, có tấm lòng nhân ái để thông cảm, có
tri thức đủ để hiểu thấu đáo tác phẩm và tác giả, hiểu cả điểm mạnh và điểm yếu
của một người suốt đời lấy Thơ làm cứu cánh, làm mục đích, làm lẽ sống.
(1)
(Dẫn theo bản dịch cuả Hoàng Ngọc Tuấn từ nguyên
tác "Postmodernism and Literature, or: Word Salad Days,
1960-90", ed. Stuart Sim (Cambridge: Icon Books, 1998).
Tháng
6/ 2007
Bùi Công
Thuấn
đặt vé eva airline
vé máy bay đi mỹ mùa nào rẻ nhất
hãng korean airlines
đặt vé máy bay đi mỹ online
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich