Thứ Năm, 23 tháng 2, 2017

Bắc Ninh thi thoại 2

Bắc Ninh thi thoại 2
Tập II
(Phần ngoại biên)
Tặng: Người em đồng hương 
Tiến sỹ Nguyễn Văn Hoa
Bài 1:
VĂN NHƯ SIÊU QUÁT..?
Vào giữa thế kỷ 19, tại đất Thần Kinh (Huế) xuất hiện “Trường An tứ kiệt” với hai câu nhận xét cho là của Vua Tự Đức:
Văn như Siêu Quát vô tiền Hán
Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường

Tạm dịch:
Văn như Siêu và Quát, thì đến văn đời tiền Hán cũng không có giá trị gì; Thơ đến Tùng Thiện công và Tuy Lý công thì như bỏ qua cả thời Thịnh Đường”.
Sở dĩ, cho là của Tự Đức là hai câu trên nói theo khẩu khí đế Vương, gọi xách mé tên tục Phó bảng Nguyễn Văn Siêu là “Siêu”; cử nhân Cao Bá Quát là “Quát” thì chỉ có Đức Kim Thượng (Vua đương thời) mới dám gọi “thần Siêu, thánh Quát” như thế; còn bình thường tôn trọng đều gọi “Nguyễn Phương Đình” và “Cao Chu thần”. Tùng ở đây là Tùng Thiện công (Nguyễn Phúc Miên Thẩm) và Tuy là Tuy Lý công (Nguyễn Phúc Miên Trinh)- sau hai vị này được truy tặng là Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương (1936) đều là con Vua Minh Mạng, ở vào hàng chú của Vua Tự Đức.
Vừa qua, nhân chuyến di khảo miền Trung của Hội VNDG Hà Nội. Đoàn có đến viếng Phủ Tùng Thiện Vương và phủ Tuy Lý Vương ở Huế. Tại đây, rõ ràng hai câu trên đều không ghi tác giả, con cháu trong Phủ của hai Vương đều nói: Đó là của người đời! (dân gian truyền tụng). Đối với các danh sĩ đương thời thì “Trường An tứ kiệt” là những nhà văn, nhà thơ bậc thầy, chữ nghĩa nhiều như Vua Tự Đức mà còn “nhờ” Miên Thẩm duyệt thơ hộ nữa là… “Trường An tứ kiệt” không những nổi tiếng trong nước, các vị còn được các nhà thơ, nhà văn Trung Hoa ngày ấy đánh giá rất cao. Tiến sĩ Lao Sùng Quang, sứ thần nhà Thanh khi tựa đề “Thượng Sơn thi tập” đã nhận xét Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương) là người luôn tự bồi dưỡng về đạo đức nên thơ ông đã đề cao được tính giáo hoá của nó. Nhan Sùng Hoành ở “Việt Đông thi xã” (Quảng Đông) thì cho tài thơ của Miên Thẩm không hề thua kém Tào Thực, con trai Tào Tháo (đi bảy bước làm một bài thơ). Về số lượng thơ Miên Thẩm sáng tác đứng đầu thời bấy giờ (14 thi tập với 2200 bài) – còn chất lượng của “Trường An tứ kiệt” là bốn đỉnh cao văn thơ thời Tự Đức. Điều độc đáo là tình bạn, tình thơ của các vị thật trong sáng (không phân biệt tầng lớp xuất thân, địa vị xã hội, sự khác nhau về khuynh hướng tư tưởng và con đường đời). Khi Cao Bá Quát bị bắt đi hiệu lực ở Giang Lưu Ba, Miên Thẩm là người duy nhất dám “rút kiếm, vì anh hát một khúc bi ca”. Khi Cao Bá Quát bị Vua Tự Đức hạ lệnh chém đầu, Phương Đình (án sát Siêu) vẫn có đôi câu đối viếng:
Ta tai! quán cổ tài danh, nan đệ nan huynh, bán thế ngẫu sinh hoàn ngẫu tử;
Dĩ kỹ! đáo đầu sự thế, khả liên khả ố, hồn trần lưu xú diệc lưu hương.
Tạm dịch:
Thương thay tài điệu tót vời, khó anh khó em, một cặp cùng sinh lại cùng thác;
Thôi nhỉ sự có đến vậy, đáng yêu đáng ghét, dây xấu cũng dây thơm.
“Chữ tài liền với chữ tai một vần” cứ như một định mệnh?
Còn câu:
Một người làm quan cả họ được nhờ;
một người làm thơ cả họ bơ phờ…
Xưa nay, âu cũng có phần chí lý!
Viết tại Huế, 10 tháng giêng 2007
Bài 2: CÂU ĐỐI “NHẤT SINH ĐÊ THỦ BÁI MAI HOA”
CÓ PHẢI CỦA CAO BÁ QUÁT?
Trong tạp chí Diễn đàn văn nghệ VN số 3/2006, nhà thơ nổi tiếng Phạm Tiến Duật (Tổng biên tập) có đăng bài thơ “cây mai trắng trong phòng Tổng Biên tập” tặng nhà văn, thiếu tướng Hữu Ước, có dẫn ở phần “đề từ” câu đối của Cao Bá Quát:
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
Dịch là:
Mười năm lặn lội tìm cây kiếm cổ
Một đời chỉ biết lạy hoa mai)
Theo các tài liệu đã được các nhà nghiên cứu tiền bối công bố, thì đôi câu đối trên có xuất xứ như sau :
Theo “Như Thanh Nhật ký” năm Mậu Thìn (1868) vua Tự Đức cử đoàn sứ bộ sang triều cống nhà Mãn Thanh: cầm đầu là chánh sứ Lê Tuấn (đỗ Hoàng Giáp năm 1853); phó sứ là Nguyễn Tử Giản (Hoàng Giáp năm 1884); phó sứ thứ 2 là cử nhân Hoàng Tịnh.
Hành trình của sứ bộ theo lối xưa từ ải Nam Quan đến Yên Kinh “bộ khôn bằng bộ, thuỷ khôn bằng thuyền” mất 181 ngày (lưu trú 64 ngày đi 117 ngày trong đó 44 ngày đường bộ, 73 ngày đường thuỷ). Khởi hành ngày 1/8 Mậu Thìn, sau 125 ngày thì đến huyện thành Hà Dương tỉnh Hồ Bắc, ở đó đoàn Sứ bộ Việt Nam được viên tri phủ Hán Dương là Ngải Tuấn Mỹ đón tiếp và tặng đôi câu đối cho chánh sứ Lê Tuấn :
Hữu Khẩu tu ngôn thiên hạ sự
Kháng hoài bất nhượng cổ chi nhân
Tạm dịch :
Có miệng nên nói việc thiên hạ
Nghị lực không chịu nhường người xưa.
Câu đối tặng Nguyễn Tử Giản :
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
Tạm dịch :
Mười năm chọn bạn như tìm thanh kiếm cổ
Một đời chỉ biết cúi đầu lạy hoa mai
Câu đối tặng Hoàng Tịnh:
Truyền thần cổ hữu Lý Tư Huấn
Vấn tự kim vô Dương Tử Vân
Tạm dịch :
Truyền thần xưa có Lý Tư Huấn
Hỏi chữ nay không Dương Tử Vân.
Sự kiện trên được chép trong “Yên thiều bút lục” của Nguyễn Tử Giản (1823-1890) sách viết tay của thư viện khoa học Trung ương, số A.852 tờ 18a-b; Cứ liệu trên đã được các học giả Tảo Trang và Hoa Bằng đưa ra trên tạp chí văn học số 2-Hà Nội năm 1972, trang 61 và 64).
Câu đối “… bái mai hoa” của Ngải Tuấn Mỹ tặng Nguyễn Tử Giản là vào năm 1868, trước đó 14 năm, Cao Bá Quát đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (Giáp Dần 1854)… phải chăng người đời do quá yêu Cao Chu Thần nên cứ thích tương truyền câu “nhất sinh đê thủ bái mai hoa” là của ông như một giai thoại để đời?
Góc Thành Nam-Hà Nội ngày 5-12-2006
Bài 3: ĐÔI LỜI VỀ NGƯỜI DỊCH BÀI THƠ ”PHONG KIỀU DẠ BẠC”
Bài PHONG KIỀU DẠ BẠC của Trương Kế viết khoảng trước năm 754 là một bài thơ rất nổi tiếng và được nhiều người yêu thơ Việt Nam biết đến, nhất là qua bản diễn Nôm:
Đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều
Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Đến nay đã có nhiều bản dịch nhưng không có bản nào dịch hay bằng bản đã chép ở trên (dù rằng câu thứ ba chỉ dịch thoát ý) nhưng âm điệu của giọng thơ lục bát lững lờ, kì ảo đi vào lòng người Việt Nam ta thật khó mà thay đổi được !? Vậy ai là tác giả bài dịch thơ trên? Trước đây, Trần Trọng San (1957) và Lý Văn Hùng (1961) đều ghi là Tản Đà dịch. Đến năm 2003 Nguyễn Quảng Tuân khi khảo lại di cảo của Đinh Nhật Thuận (1841) đỗ Tiến Sĩ thời vua Minh Mạng (là bạn của Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh) là tác giả ”Thu dạ lữ hoài ngâm”. Thời gian Cao Ba Quát bị nạn, ông bị giam lỏng ở Huế… một đêm ngồi trong thư phòng bên bo sông Hương, ông nhớ đến Trương Kế với bài Phong kiều dạ bãc… Ông hạ bút:
Đăng tiền độc đối thư trai
Thương tâm khách địa hữu hoài cố nhân
Hương thuỷ ngoại hốt văn ngư vận
Tòng hà lai trạo tấn giang biên
Bồi hồi nguyệt dạ sương thiên
Hàn San ám nhận khách thuyền cánh phi.
Đại ý là : Trong phòng văn một mình ngồi trước ngọn đèn, chạnh lòng đất khách, sực nhớ đến người xưa (Trương Kế). Ngoài sông Hương chợt nghe hò mái đẩy của kè Phường chài từ đâu mà chèo tới bến sông thế nhỉ? Đêm trăng trời sương, lòng luống những bồi hồi, đoán chúng là thuyển khách bên chùa Hàn Dan (Trương Kế) nhưng đó chỉ là mơ…
Cái độc đáo của Đinh Nhật Thân ở đây là mượn lời thơ của Trương Kế tả cảnh “Nguyệt dạ sương thiên” và thay vào tiếng chuông chùa Hàn San bằng tiếng chuông chùa Diệu Đế ( ở Huế) ” Dạ văn diệu đế chung thanh không bằng chữ Nôm mà bằng chữ Hán theo thể song thất lục bát. Đây là trường hợp đặc biệt duy nhất trong văn học Việt Nam xưa nay. Chia sẻ với nỗi lòng của bạn, Nguyễn Hàm Ninh đã diễn Nôm Phong Kiều dạ bạc, nguyên gốc là:
Quạ kêu, trăng lặn, trời sương
Lửa chài le lói, sầu vương giấc hồ
Thyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Thật đúng là “diễn Nôm” như Tố Như với truyện Kiều, thi sĩ đã không bám câu bám chữ để dịch như nguyên tác… mà là mượn văn bản gốc, diễn ra tiếng Việt lấy cái hồn của tác phẩm để thoả mãn một nhu cầu ( một tâm trạng) để gửi gắm nỗi lòng… Hiểu như vậy, chia sẻ như vạy thì ta sẽ không bắt bẻ ” dịch sai”, văn chương nhất là thơ vốn là một trò mua vui, âu cũng chí lí là vậy.
So nhiều bản dịch xưa nay thì bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh đáng là “tài hoa tột bậc”, chỉ tiếc là ông đã để rơi mất chữ “Phong” kèm chữ “Giang” (theo mô típ thơ xưa thì “Phong” là biểu hiện mùa thu, “Phong lạc ngô giang lãnh” – lá phong rụng làm sông Ngô lạnh. “Giang Phong” ở đây cùng với “sương đầy trời” là cảm nhận “khí thu”, đồng thời để diễn tả một cách kín đáo nỗi sầu của thi nhân lãng tử. Tuy nhiên, trong một bài thơ 4 câu (dịch) lại có 2 chữ “bến” thì không thể gọi là toàn bích được.
Chao ơi, dịch thơ phải đạt “tín-đạt-nhã” rồi là “hớp” hồn mà cái “tuyệt” nhất lại là cái hồn thơ ai do chop được cái “thần” do diễn giải ra bằng chữ nghĩa (ngôn từ) để lại các áng thơ bất hủ như Phong Kiều Dạ Bạc, Hoàng Hạc Lâu, Tỳ Bà Hành… thì cũng bõ công dịch thuật, mà xưa nay như vậy phỏng được mấy người?
Hà Nội 19/7/2006
Bài 4: THĂM HÀN SAN TỰ
Đến Tô Châu ai cũng háo hức đi thăm Hàn Sơn Tự.Đó là ngôi chùa do Thiền sư Hy Thiên, pháp danh là Hàn Sơn Tử Giả xây vào khoảng năm Thiên Giám đời Lương, thuộc Nam Triều (Thế Kỷ Vl),tại trấn Phong Kiều bên ngoài Xương môn,phía tây thành Cô Tô (Nay là Tô Châu). Thiền Sư lấy tên hiệu (pháp danh) của mình đặt tên cho chùa ”Hàn Sơn Tự” để làm kỷ niệm. Từ đây thiền sư lại vân du đi chơi núi Lạnh(Hàn San) đó là núi Thiên Thai(nơi sinh ra dòng tu Thiên Thai Tông) kết bạn với Thiền sư Thập Đắc Phong Can.Bức hoành phi với bốn chữ đại tự”Hàn Sơn Thập Đắc” có nghĩa là chùa Hàn Sơn lấy tên hai người là Hàn Sơn và Thập Đắc mà lưu danh.
Trải qua nhiều biến động của các triều đại,chùa Hàn San bị binh lửa đời Thanh đốt cháy(năm 1860),đến năm Quang Tự thứ 3(1904) chùa được xây dựng lại với quy mô dáng dấp như còn thấy ngày nay,gồm có : Đại điện,Tàng kinh lâu(lầu chứa kinh),Chung lâu(lầu chuông),Phong giang lâu(lầu ngắm rừng phong bên sông),bi lang(hành lang đặt bia).Điều thú vị là trong sân chùa có đặt tượng thi sĩ Trương Kế,mà theo tục lệ:các tao nhân mặc khách tứ xứ đến viếng chùa ai nấy đều tới vuốt nhẹ vào bàn tay pho tượng với ước nguyện để được tăng thêm nội lực,được chia sẻ một chút hồn thơ…đồng thời trong chùa còn giữ nhiều cổ vật quý giá,trong đó có tấm bia khắc bài thơ nổi tiếng Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế đời Đường(khoảng trước năm 754).
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch thơ:
Trăng tà,tiếng qụa kêu sương
Lửa chài,cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Nguyễn Hàm Ninh
(Trước đây cho là của Tản Đà dịch)
Dịch “Thuyền ai đậu bến Cô Tô” là dịch thoát ý,dịch đúng phải là:
Trăng lặn,sương mờ,nghe tiếng quạ
Lửa chài cây ánh,giấc chưa yên
Cô Tô bên mái Hàn San Tự
Đêm muộn chuông ngân vẳng đến thuyền.
Bùi Khánh Đản
Quạ kêu,trăng xế,sương tuôn
Lửa chài cây bến,giấc buồn ngó nhau
Chùa Hàn San mé Tô Châu
Nửa đêm bỗng tiếng chuông đâu đến thuyền.
Hoài Anh
Sự ra đời của bài thơ: theo giai thoại thì Trương Kế người Tương Châu một lần đi thi trượt (tiến sỹ), theo dòng Vận Hà bắc nam,đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều (bến Cây Phong) bên chùa Hàn San (Hàn San đây là tên chùa,chứ không có núi Lạnh như một số dịch giả suy diễn qua văn bản thơ…vào thời bấy giờ (đời Đường) người ta có”phân dạ Chung” (chuông chia đêm) đánh vào lúc nửa đêm…Thi Sỹ buồn (vì thi trượt) nằm trong thuyền chập chờn bên ngọn lửa của ngư ông(lão đánh cá) giữa trời sương,trăng lặn lảnh tiếng quạ kêu cùng tiếng chuông chùa Hàn San nửa đêm vọng tới…tức cảnh sinh tình, Trương Kế hạ bút hồn cất cánh thơ để lại một Phong Kiều Dạ Bạc lưu truyền hậu thế.Cũng nhờ có thơ Trương Kế mà Hàn San Tự trở nên nổi tiếng hấp dẫn khách năm châu bốn biển được các thi nhân viếng thăm đề vịnh. Xin dẫn một vài ví dụ với đôi câu thơ hay: . Ô đề nguyệt lạc kiều biên tự (Quạ kêu trăng xế chùa bên cầu) Tần Thục – đời Tống . Lãnh tận Hàn San cổ tự phong (Lạnh đến cả cây phong bên chùa cổ Hàn San) Khang Hữu Vi – đời Thanh Còn một điều cực kỳ thú vị nữa là:theo Giáo sư Kiều Thu Hoạch thì thơ Trương Kế không chỉ ảnh hưởng đến thơ Việt (kể cả nhạc Văn Cao) mà còn ảnh hưởng đến cả đời sống văn hoá – ngôn ngữ của người Việt.Số là cái bát canh mà ở Bắc Việt hiện nay vẫn gọi là ”bát ô tô”, Nam Việt gọi là “tô” thì Đại Nam Quốc Âm tự vị (Sai Gon – 1895) của Paulus Của giải thích là”bát thành Cô Tô làm ra,bát lớn mà khéo”.Tuy nhiên ý kiến của Paulus Của chỉ đúng một nửa. Theo ý kiến của giới ngôn ngữ học thì đó chỉ là cái bát có vẽ cảnh Cô Tô theo ý thơ “Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự”. Người Bắc Việt nhân đó gọi là bát Cô Tô, rồi gọi chệch là “bát ô tô”, còn dân Nam Việt gọi tắt là “bát tô”, rồi “tô”. Xem thế,đủ thấy sức lan toả về mặt văn hóa của một kiệt tác văn học quả là sâu rộng lắm thay!. 

Tô Châu - Hà Nội 6-2006
Bài 5: DỊCH SAI
Xưa nay không thiếu gì chuyện”dịch sai”.
Có hai lý do:
. Một là do người dịch không hiểu ý tác giả hoặc là vốn chữ nghĩa (cả hai phía ngôn ngữ) không đủ…
. Hai là người dịch kiến thức uyên bác nhưng cố tình dịch sai với một ý đồ riêng (xuyên tạc để phục vụ chủ ý của mình); cũng không ít trường hợp “dịch sai” mà lại thành “hay” rất được phổ biến, để người đời tưởng đó là thật, cứ dùng, không chấp nhận bản “dịch đúng nguyên tác” – xin ví dụ:
1. Trong bài MINH LƯƠNG (vua sáng tôi hiền)của vua Lê Thánh Tông,câu 3 + 4 là:
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh
Dịch đúng là:
Văn chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng
Binh giáp Lê Khôi bụng chứa đầy
Dịch sai là:
Ức Trai lòng sáng tựa sao khuê…
Ở đây Lê Thánh Tông chỉ khen ngợi (Nguyễn Trãi) về mặt tài năng,chứ không nói về nhân cách. “Khuê tảo” là một từ kép đối với”binh giáp”.”Khuê” là ngôi sao chủ về văn chương,”tảo” là một loại rong rêu có mầu sắc đẹp đẽ, do đó”khuê tảo” là văn chương đẹp đẽ; nếu chỉ dịch là “sao khuê” tức là bỏ từ “tảo” một cấu thành của từ kép “khuê tảo” là làm lạc mất nghĩa của từ kép này. Lý do: Vua cháu (Lê Thánh Tông) khi minh oan cho Nguyễn Trãi (sau vụ án Lệ Chi Viên) cũng chỉ phong tặng cho là tước Trụ Quốc Tán Trù Bá (kém cái tước Quan Phục Hầu mà vua ông (Lê Thái Tổ) đã ban, là vì “Trẫm phải có trách nhiệm giữ gìn uy tín của triều trước(ông cha)”… Với cách dịch ví sánh Nguyễn Trãi với sao khuê chỉ thấy xuất hiện đầu tiên trong sách Nguyễn Trãi (nhà xuất bản sử học 1963) và trong quyển ”Mấy vấn đề sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi (nhà xuất vản khoa học 1963). Nhờ lời dịch sai như trên lại đem đến cho đời một lời bình phẩm sáng giá, một hình ảnh rạng tỏa về con người Nguyễn Trãi.Có lẽ vì thế mà lời dịch,lời thơ dễ được thiên hạ chấp nhận? (lời dịch sai đã đi vào tâm thức của nhân dân).
2. Về bài “Tân Xuất Ngục Học Đăng Sơn” (mới ra tù tập leo núi):
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần
Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.
Nam Trân dịch:
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Lòng sông gương sáng bụi không mờ
Bồi hồi dạo bước Tây phong lĩnh
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa.
Với bút danh T.Lan (Hồ Chí Minh) tác giả đã dịch đúng là:
Mây ôm núi,núi ôm mây
Lòng sông sạch chẳng mảy may bụi hồng
Bùi ngùi dạo đỉnh Tây phong
Trông về cố quốc chạnh lòng nhớ ai.
“Ức cố nhân” = nhớ ai, đây là người yêu của Anh Ba (Nguyễn Tất Thành).
3. Chữ Hán dịch bằng 2 chữ Việt chứa đủ cả Ý, Tình, Sự – Hồ Chí Minh quả là một thi sỹ tài hoa,sử dụng cả hai thứ ngôn ngữ Việt – Hoa vào loại bậc thầy. Giỏi như Nam Trân (1907-1967) 12 tuổi đã thông Hán văn trường Ốc, rồi đỗ Tú tài,làm tới Tá Lý Bộ Lại (trước 1945) sau này làm viện phó viện văn học,tác giả nổi tiếng với tập thơ “Huế đẹp và thơ”… Thế mà so về Thơ (Thi tài) xem ra còn thua Hồ Chí Minh 1 bậc – tuyệt vời thay!.
Góc thành Nam Hà Nội 5-4-2006
Bài 6: ĐẾN HẠNH HOA THÔN UỐNG RƯỢU
Ai yêu thơ Đường mà lại không thuộc bài THANH MINH của Tiểu Đỗ (Đỗ Mục, đỗ tiến sĩ năm 828):
Thanh minh thời tiết vũ phồn phồn
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn
Tá vấn tửu gia hà xứ thị
Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn
Dịch:
Thanh minh lất phất tiết mưa phùn
khiến khách đường xa thấm nỗi buồn
“Quán tửu đâu đây?…nhờ mách hộ”
Mục đồng xa chỉ: “Hạnh Hoa thôn!”
(Khương Hữu Dụng)
Thanh minh lất phất mưa phùn
khách đi đường muốn đứt hồn…xót xa
hỏi thăm”- Quán rượu đâu à?
trẻ chăn trâu chỉ:c”Hạnh Hoa thôn kìa”!

Bài thơ bất hủ đã nghìn năm, ngày xuân các nhà thơ hay đàn đúm rủ nhau đi uống rượu quê, lúc đương líu ríu dìu nhau tìm nơi tửu quán thường ngâm vang lên bài thơ trên. Vậy, Hạnh Hoa thôn trong thơ Đỗ Mục là ở đâu? Để cho khách lãng du “tá vấn” tửu gia?
Ở bên Tầu cũng như bên ta, cái thôn Hạnh Hoa (Xóm Hoa Hạnh) đâu có ít, có khác nào rượu làng Vân, làng Mai, xóm cây Phượng, cây Gạo… Đến “Biệt điện Bảo Đại” cũng có ở bốn năm nơi kia. Người viết bài này, cũng đã có phen đến “Quán cây Phượng” ở Phan Thiết ẩm tửu để rồi viết trong lúc say:
Đêm Phan Thiết biển thì thầm to nhỏ
ta tựa kề bên Phượng uống lân khân
57 năm xưa Hàn Mặc Tử
lầu ông Hoàng kia ngồi với Mộng cầm…
Bài thơ trôi nổi cùng bạn bè sang mãi New York, Cali… Mỗi khi sa đà vào thơ và quán rượu – kể cũng là cái thú của nghiệp thi ca.
Còn Hạnh Hoa thôn ở bên Tầu, theo các nhà khảo cứu Trung Hoa thì có đến 3 nơi:
. Một là, ở huyện Phần Dương, tỉnh Sơn Tây – nơi đấy có rượu ngon nổi tiếng.
. Hai là, ở phía tây huyện thành Quý Trì, tỉnh An Huy; năm 844 Đỗ Mục từng giữ chức Thích Sử tại đây, cũng có Hạnh Hoa thôn nổi tiếng về rượu.
. Ba là, ở phía đông nam huyện Phong, tỉnh Giang Tô – nơi Đỗ Mục từng qua lại nhiều lần. Nơi đây Tô Đông Pha (đời Tống) cũng đã từng có đến đây uống rượu và có thơ để lại.
Chao ôi, thơ và rượu mà lại là rượu nơi xóm quê dân giã, còn gì ấm lòng hơn khi “một chén rượu uống trong chiều lạnh cóng” cùng ai đó ngồi bên bếp lửa bập bùng giữa một trời mưa phùn với hoa Hạnh hoa Mai, tửu nhập thơ xuất là vậy!
Góc thành Nam Hà Nội một chiều Đông, 5-12-2006
Bài 7: CA DAO HAY THƠ BÀNG BÁ LÂN
Hồi năm 1994, Giáo sư Huyền Viêm (Sài Gòn) có gửi cho Nguyễn Khôi (KN) bài viết nghĩ về ”một câu ca dao”. Vừa qua NK, nhân viết cuốn: ”Bàng gia vọng tộc”, lại được gia đình Bàng thi sỹ gửi cho tập: ”Thơ Bàng Bá Lân”, gồm các bài thơ chọn lọc trong các thi phẩm: ”Tiếng Thông Reo, Xưa, Tiếng Sáo Diều, Vào Thu”, do nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê in 1957 tại Sài Gòn.
Trang 25 phần trích thơ: ”Tiếng Thông Reo “có bài:
Trăng Quê
Trời cao, mây bạc, trăng tròn
đê than hiu quạnh, tre buồn nỉ non
diều ai gọi gió véo von
cành xoan đùa ánh trăng suông dịu dàng
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc trăng vàng đổ đi?
Sau khi tốt nghiệp truòng trung hoc bảo hộ ( trường Bưởi -Lycée du Protectorat) đậu Diplôme d’Etudes Primaire Superieurs, về điền trang của gia đình ở Kép (Bắc Giang) tiếp tục học để thi Tú Tài, không có thì giờ rảnh, Bàng Bá Lân ở tuổi 22 bắt đầu ham thích chụp ảnh và làm thơ. Tháng 12-1934 Bàng Bá Lân xuất bản thi phẩm đầu tay: ”Tiếng Thông Reo” do nhà xuất bản Thanh Hoa Tùng Thư ở Hà Nội in.
Ngay khi Tiếng Thông Reo ra đời, trên báo An Nam Nouveau ngày 11-4-1935 nhà thơ Chùa Hương Nguyễn Nhược Pháp (sinh 1914) đã nhận xét: ”Tiếng Thông Reo đượm một mối sầu bâng khuâng kín đáo dịu dàng, một vẻ buồn lành mạnh và điềm đạm .
Nàng thơ của Bàng Bá Lân không phải – như ngưòi ta tưởng – ngưòi ông yêu dấu mà là Cánh đồng quê với Luỹ tre xanh.
Bàng Bá Lân có thể tự hào là một trong nhũng nhà thơ Việt Nam đầu tiên biết hưởng thú quê .
Hai câu kết của bài Trăng quê ở trên, lâu nay đã đuọc dân gian hoá thành ca dao:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?
Nhu ta đã biết: ca dao là thơ dân gian, có nội dung trữ tình (và trào phúng), ta có thể hát, ngâm, đọc … ở câu thơ này chữ ánh xem ra có vẻ phi lý, nhung nó lại làm cho hình tượng thơ đẹp hẳn lên – mà đẹp lại là tuyệt đỉnh của thơ.
Có ý kiến cho rằng thêm chứ ánh làm non hẳn bài thơ, nhưng còn giữ được chữ múc nghĩa là còn giữ được gần trọn thi vị hai câu thơ này .
Tất cả duyên dáng và thi vị là ở chữ múc và đổ, nó giúp ta hình dung được nhũng động tác (tát nước đêm), gợi cho ta cái tiếng xich xòm . Bài thơ bốn câu trên là tả cảnh sáng trăng ở thôn quê để xuống dưới có thể hạ chữ múc trăng mà không đột ngột. Chữ lại tỏ ý trách móc: Trăng đẹp thế mà sao cô lại vô tình múc đổ đi?
Ta hãy trở lại xem xét hai câu thơ độc đáo này
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô lại múc ….?

đọc đến đây, theo tư duy thuận chiều là đã tát nước ở câu lục (6), nên ta dễ nghĩ vế tiếp theo chữ múc thường hạ chũ nước – Thê nhung nhà thơ đã không viết xuôi nhu vậy mà là : trăng vàng đổ đi?
thì có sự Vênh hẳn khỏi sụ đoán trước thông thường, Bàng Bá Lân đã dùng trăng vàng đặt đắc địa vào chỗ vốn là của nước, làm cho sự ưóc đoán (của bạn đọc) bị Hẫng – và do đó lượng thông tin dành cho từ này thật là to lớn, chúng ta (bạn đọc) thì bị bất ngờ và cái kết hợp giả định đó (múc + trăng vàng) đã cho ta sự hứng khởi (hồn chũ có cánh) để thưởng thức một hình tượng thơ Đẹp của một sự mới mẻ múc trăng vàng – một cảm xúc đầy tính thẩm mỹ của thơ.
Bàng Bá Lân, Nguyễn Nhược Pháp đều đã đi vào thiên cổ, nhung thơ còn mãi với đời … theo lẽ công bằng thì: ”Cái gì của Cesar phải trả lại cho Cesar” 4 chũ múc ánh trăng vàng, vùa là của nhà thơ vùa là của dân gian, Đẹp – để cho ta bâng khuâng với hồn dân tộc , âu cũng là cái độc đấo của Thơ Việt nam là thế chăng?
Góc thành Nam Hà Nội ngày 26-12-2006
Bài 8: ĐÔI LỜI VỀ NGƯỜI DỊCH BÀI THƠ
”PHONG KIỀU DẠ BẠC”
Bài PHONG KIỀU DẠ BẠC của Trương Kế viết khoảng trước năm 754 là một bài thơ rất nổi tiếng và được nhiều người yêu thơ Việt Nam biết đến, nhất là qua bản diễn Nôm:
Đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều
Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Đến nay đã có nhiều bản dịch nhưng không có bản nào dịch hay bằng bản đã chép ở trên (dù rằng câu thứ ba chỉ dịch thoát ý) nhưng âm điệu của giọng thơ lục bát lững lờ, kì ảo đi vào lòng người Việt Nam ta thật khó mà thay đổi được !? Vậy ai là tác giả bài dịch thơ trên? Trước đây, Trần Trọng San (1957) và Lý Văn Hùng (1961) đều ghi là Tản Đà dịch. Đến năm 2003 Nguyễn Quảng Tuân khi khảo lại di cảo của Đinh Nhật Thuận (1841) đỗ Tiến Sĩ thời vua Minh Mạng (là bạn của Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh) là tác giả ”Thu dạ lữ hoài ngâm”. Thời gian Cao Ba Quát bị nạn, ông bị giam lỏng ở Huế… một đêm ngồi trong thư phòng bên bo sông Hương, ông nhớ đến Trương Kế với bài Phong kiều dạ bãc… Ông hạ bút:
Đăng tiền độc đối thư trai
Thương tâm khách địa hữu hoài cố nhân
Hương thuỷ ngoại hốt văn ngư vận
Tòng hà lai trạo tấn giang biên
Bồi hồi nguyệt dạ sương thiên
Hàn San ám nhận khách thuyền cánh phi.
Đại ý là: Trong phòng văn một mình ngồi trước ngọn đèn, chạnh lòng đất khách, sực nhớ đến người xưa (Trương Kế). Ngoài sông Hương chợt nghe hò mái đẩy của kè Phường chài từ đâu mà chèo tới bến sông thế nhỉ? Đêm trăng trời sương, lòng luống những bồi hồi, đoán chúng là thuyển khách bên chùa Hàn Dan (Trương Kế) nhưng đó chỉ là mơ…
Cái độc đáo của Đinh Nhật Thân ở đây là mượn lời thơ của Trương Kế tả cảnh “Nguyệt dạ sương thiên” và thay vào tiếng chuông chùa Hàn San bằng tiếng chuông chùa Diệu Đế ( ở Huế) ” Dạ văn diệu đế chung thanh không bằng chữ Nôm mà bằng chữ Hán theo thể song thất lục bát. Đây là trường hợp đặc biệt duy nhất trong văn học Việt Nam xưa nay. Chia sẻ với nỗi lòng của bạn, Nguyễn Hàm Ninh đã diễn Nôm Phong Kiều dạ bạc, nguyên gốc là:
Quạ kêu, trăng lặn, trời sương
Lửa chài le lói, sầu vương giấc hồ
Thyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Thật đúng là “diễn Nôm” như Tố Như với truyện Kiều, thi sĩ đã không bám câu bám chữ để dịch như nguyên tác… mà là mượn văn bản gốc, diễn ra tiếng Việt lấy cái hồn của tác phẩm để thoả mãn một nhu cầu ( một tâm trạng) để gửi gắm nỗi lòng… Hiểu như vậy, chia sẻ như vạy thì ta sẽ không bắt bẻ ” dịch sai”, văn chương nhất là thơ vốn là một trò mua vui, âu cũng chí lí là vậy.
So nhiều bản dịch xưa nay thì bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh đáng là “tài hoa tột bậc”, chỉ tiếc là ông đã để rơi mất chữ “Phong” kèm chữ “Giang” (theo mô típ thơ xưa thì “Phong” là biểu hiện mùa thu, “Phong lạc ngô giang lãnh” – lá phong rụng làm sông Ngô lạnh. “Giang Phong” ở đây cùng với “sương đầy trời” là cảm nhận “khí thu”, đồng thời để diễn tả một cách kín đáo nỗi sầu của thi nhân lãng tử. Tuy nhiên, trong một bài thơ 4 câu (dịch) lại có 2 chữ “bến” thì không thể gọi là toàn bích được.
Chao ơi, dịch thơ phải đạt “tín-đạt-nhã” rồi là “hớp” hồn mà cái “tuyệt” nhất lại là cái hồn thơ ai do chop được cái “thần” do diễn giải ra bằng chữ nghĩa (ngôn từ) để lại các áng thơ bất hủ như Phong Kiều Dạ Bạc, Hoàng Hạc Lâu, Tỳ Bà Hành… thì cũng bõ công dịch thuật, mà xưa nay như vậy phỏng được mấy người?
Hà Nội 19/7/2006
Bài 9: MAO TRẠCH ĐÔNG 
ĐẶT TÊN VỢ TỪ THƠ ĐƯỜNG
M ao Trạch Đông sinh năm 1893 quê ở Hồ Nam Trung Quốc. Sinh thời Mao Trạch đông có 3 nguòi vợ. Vợ thú nhất ở quê do cha mẹ lấy cho. Vợ thú hai là nũ chiến sỹ hồng quân, lấy nhau qua cuộc vạn lý truòng chinh.. Vợ thú hai đi chũa bênh ở Liên Xô thì Mao Trạch Đông làm quen với cô diễn viên Lâm Bình quê Thượng Hải đã ly dị chồng. Sau đó hai nguòi lấy nhau.
Xuất phát từ hai câu thơ của Tien Khơi:
Khúc chung nhân bất kiến
Giang thuọng sổ phong thanh
mà Mao Trạch Đông đặt tên cho vợ thú 3 vốn là Lam Bình thành Giang Thanh.
Tương truyền tác giả câu thơ trên quê ở Chiết Giang. Một lần đáp thuyền lên mạn Bắc, đến Trường An dụ thi. Đến Nhạc Châu (quê Mao Trạch Đông). Tác giả dùng thuyền lên bờ thăm danh thắng cổ tích gần hồ Động Đình. Màn đêm buông xuống chị Hằng nhô lên mặt nuóc. Thĩy nổi húng thơ, khoác áo ra khỏi nhà, ngâm ở ở trong đình đình Chiết Liễu. Tương truyền, lúc thi sỹ ngâm thơ, bống nghe từ trong Viện Lạc gần bên cũng vọng ra tiếng ngâm thơ. Thy sỹ nín thở lắng nghe, nhưng cũng chỉ nghe đuọc hai câu:
Khúc chung nhân bất kiến hư
Giang thượng sổ phong thanh
(Người đàn ở đâu chẳng thấy
Trên sông nổi mấy ngọn núi xanh)
Thi sỹ rất ngạc nhiên , tán thưởng 2 câu thơ đã tả đuọc cái thần diệu ảo ảo thực thực mơ hồ trong cái tĩnh lặng trên dòng sông trăng như dải lụa nhuộm sắc núi xanh. Thy sỹ vén tay áo, cất bước đến Viện bên mà không thấy ai. Thi sỹ thầm nghĩ chắc là mình gặp quỷ thần, sợ đến nỗi hồn phiêu phách lạc, cố chạy về phòng, nhưng đuổi theo vẫn là tiếng ngâm 2 câu thơ của quỷ thần! Năm 750, thy sỹ đi thi tiến sỹ ở Trường An. Kết thúc bài thi của mình, thy sỹ bống nghe vẳng bên tai câu thơ thần
Khúc chung nhân bất kiến hư
Giang thuọng sổ phong thanh
Dùng hai câu thơ thần này, thi sỹ kết thúc bài thi của mình.
Bài thi tiên sỹ của ông được đánh giá rất cao.
Cả bài thơ có hai câu thơ thần này, NK xin tạm dịch nhu sau:
Tương Linh đánh đàn sắt
Tay giỏi đánh đàn sắt
Thường nghe Thái tử Linh
Khiến Phùng Di tụ múa
Khách Sở khó vô tình
Điệu khổ tê vàng đá
Âm vang cõi u minh
Thương Ngô hờn mến mộ
Bạch chỉ phòng hương linh
Khúc tàn , người chẳng thấy
Trên sô ng mấy non xanh
Điều kỳ lạ là hơn 1200 năm sau, không biết có phải ma đưa lối quỷ dẫn đường mà Mao Trach Đông lại lấy chữ từ hai câu thơ quỷ thần đó để đặt tên cho vợ thứ 3 của minh vốn là diễn viên người Thượng Hải tên Lâm Bình thành Giang Thanh.
Và kỳ lạ thay Giang Thanh cũng kết cục bi thảm như Duong Quý Phi nguòi đẹp của ông vua tài hoa Đường Minh Hoàng (cùng thời thi sỹ thi tiến sỹ Tiến Khoi viết hai câu thơ quỷ thần trên).
Bài 10: TRỞ VỀ VỚI BẢN GỐC
THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
Cũng giống như “thơ Bút Tre” hiện nay,từ một type thơ “Bút Tre thật” dân gian đã sáng tác cả trăm, ngàn câu thơ “Bút Tre mới”…Thơ nôm Hồ Xuân Hương đi vào cuộc sống dân Việt Nam ta đã ngót 200 năm (bản in sớm nhất là “Xuân Hương di cảo” in năm 1914; các bản khắc ván ”Xuân Hương thi tập” in năm 1921, in năm 1923;bản chép tay ”Quốc Văn Tùng Ký” soạn vào thời Tự Đức đến đầu Duy Tân; các bản chép tay”Xuân Hương thi sao”, ”tạp thảo tập”, ”Quế Sơn thi tập”, ”Xuân Hương thi vịnh”,”Liệt truyện thi ngâm” và “Lĩnh Nam quần hiền văn thi văn diễn âm tập”). Vậy bài nào là chính gốc thơ Hồ Xuân Hương trong số 213 bài đang được lưu hành khá rộng rãi?
Sau hơn 40 năm âm thầm.ấp ủ,nghiền ngẫm…Giáo sư Tiến sĩ Kiều Thu Hoạch (Người cùng quê xứ Đoài với Phó bảng Kiều Oánh Mậu– người có công lớn trong việc hiệu đính truyện Kiều) – một chuyên gia hàng đầu về chữ Nôm,qua nhà xuất bản văn học, ông đã công bố cuốn ”Thơ Nôm Hồ Xuân Hương” với 84 bài thơ, câu đối. Có thể nói: cuốn sách là một công trình khoa học hoàn chỉnh, đầy đủ, đúng chuẩn nhất về văn bản, dịch nghĩa, dịch thơ, khảo cứu, chú giải, chú thích, chữ Nôm, đáp ứng lòng ái mộ của tất cả bạn đọc yêu quý những bài thơ bất hủ của Bà chúa thơ Nôm Việt Nam.
Tiếp cận thơ Nôm từ góc nhìn văn bản học,cuốn sách của Kiều Thu Hoạch, chí ít cũng cho chúng ta 3 thông tin rất có giá trị:
– Một là: thời điểm xuất hiện ”Xuân Hương thi tập” là thời Vua Minh Mạng (1820-1840)
- Hai là, lúc bấy giờ Hồ Xuân Hương đã nổi tiếng hay thơ Nôm.
- Ba là, lúc bấy giờ Xuân Hương vẫn còn trẻ, còn được người đời (qua văn bản) gọi bằng “cô”.
Qua các văn bản chữ Nôm xưa, Kiều Thu Hoạch đã loại trừ được một số bài thơ bị gán cho nữ sĩ như các bài: ”Đánh cờ người”, ”tát nước”, ”cái nợ chồng con”, ”đánh đu”, ”bà đanh”, ”đồng tiền hoẻn”, ”ông cử võ”…
Xin giới thiệu một số bài thơ Nôm Hồ Xuân Hương (bản gốc) để bạn đọc cùng thưởng thức:
1. VỊNH THĂNG LONG HOÀI CỔ
Ngân ngất tầng mây một dải cờ
Kinh thành ngày trước,tỉnh bây giờ
Tượng đồng Trấn Vũ hương còn ngát
Bia đá Khuê Văn chữ chửa mờ
Bảo Tháp lơ thơ chòm cỏ mới
Hồ sông lai láng bóng trăng xưa
Nào ai Cố lão ra đây hỏi
Chốn cũ phồn hoa đã phải chưa?
2. CHƠI KHÁN ĐÀI
Êm ái chiều xuân tới khán đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Bốn mùa triêu mộ chuông gầm sóng
Một vũng tang thương nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào là cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây chín rõ mười.
3. CANH KHUYA
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan mấy nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy chòm
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình son trẻ tí con con.
4. LẤY CHỒNG CHUNG
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm chừng mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Nỗi này ví biết dường này nhỉ
Thời trước thôi đành ở vậy xong.
5. KHÔNG CHỒNG MÀ CHỬA
Cả nể cho nên hóa dở dang
Sự này có thấu hỡi chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận liễu sao mà nảy nét ngang
Cái tội trăm năm chàng chịu cả
Chữ tình một khối thiếp xin mang
Quản chi miệng thế lời chênh lệch
Chẳng thế nhưng mà thế mấy ngoan.
6.THƠ THỊ ĐỂU
Kén chọn làm chi thế ối anh
Lấy ai khuynh quốc lại khuynh thành
Vô duyên nên nỗi người chê “đểu” (1)
Có đẹp chăng thời gái ở tranh
Ghét mặt cục vàng ra cục đất
Tắt đèn nhà ngói bẵng nhà gianh
Thay lời mượn bút đem thư gửi
Nghĩ lại sao cho để được đành 
(1) Nguyên văn chữ Nôm là “điểu” là chim,có dấu cá nháy – theo tự điển Việt Pháp và Việt Nam tự điển (1931) thì “đểu” có nghĩa là hạng người hèn mạt / mạt hạng.
7. CHI CHI CHUYỆN ẤY
Chi chi chuyện ấy đã đành lòng
Vó ký phen này quyết thẳng rong
Non nước chơi hoài non nước đó
Gió giăng nào phải gió giăng không
Mặt càng đối mặt tình ngao ngán
Tay chửa rời tay bước ngại ngùng
Lão Nguyệt lẽ nào trêu quải mãi
Chén đồng xin hẹn khắc đêm đông.
8. NÚI BA ĐÈO
Một đèo một đèo lại một đèo
Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo
Cửa son tía ngắt lơ thơ móc
Đường đá xanh rì lún phún rêu
Phưởng phất chồi thông cơn gió tốc
Mịt mờ ngọn cỏ lúc sương reo
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo.
9.MIẾU SẦM THÁI THÚ
Ghé mắt trông lên thấy bảng treo
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
10.KHÓC TỔNG CÓC
Hỡi chàng ôi hỡi chàng ôi
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
11.KHÓC QUAN VĨNH TƯỜNG
Trăm năm Quan Phủ Vĩnh Tường ôi
Cái nợ phù sinh có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Nắm xương dưới đất chau mày khóc
Hòn máu trên tay mỉm miệng cười
Đã thế thời thôi cho mát mẻ
Trăm năm Quan Phủ Vĩnh Tường ôi.
12.TIỄN NGƯỜI LÀM THƠ
Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền
Cũng đòi học nói nói không nên
Ai về nhắn nhủ phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
13.VỊNH QUẢ CHUÔNG
Năm ba thằng ngọng đứng xem chuông
Nó bảo nhau rằng ấy ái uông.
14.CHƠI HOA
Đã chót chơi hoa phải cố trèo
Trèo lên trèo xuống mỏi xương kheo
Cành la cành bổng vin co vít
Bông chín bông xanh để lộn phèo.
15.VÔ ÂM NỮ (1)
(Gái không âm hộ)
Mười hai bà mụ ghét chi nhau
Đem cái xuân tình cắm ở đâu
Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu
Nào ai biết được vông hay chóc
Nọ kẻ chia ra cuống mấy đầu
Thôi thế thời thôi thôi cũng rảnh
Trăm năm càng khỏi tiếng làm dâu.
(1): Các bản khác ghi là “Quan thị”
16. NGÃ TỐC VÁY LÀM THƠ TỰ VỊNH
Vén đám mây lên tỏ mặt trời
Lác coi từng đám rõ từng nơi
Giang sơn đâu đó nhô đầu dậy
Hoa cỏ quen hơi mỉm miệng cười.
17. BÙN BẮN LÊN ĐỒ
Xuân Hương đi đường lội, bùn bắn lên đến “đồ”, tức cảnh vịnh:
Nê ninh thượng thức cao thâm xứ
Mạc quải anh hùng lưỡng thủ mô
(Bùn kia còn biết nơi cao thẳm
Chẳng trách anh hùng thích mó tay).
18. ĐI ĐÁI BÙN NẨY
Quân tử anh hùng đâu vắng tá
Để cho nê thổ nảy chơi xuân.
19.XƯỚNG HỌA VỚI QUAN TẾ TỬU HỌ PHẠM 
(Bài 2)
Xuân Hương xướng:
Kìa ai tỉnh,kìa ai say
Kìa ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Khoan khoan xin hãy dừng tay lại
Chớ mó hang hùm nữa mất tay.
Họ Phạm (Chiêu Hổ) họa lại :
Nào ai tỉnh nào ai say
Nào ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Ví dầu hang chẳng cho ai mó
Sao có hùm con bỗng trốc tay.
20. Câu đối CHƠI ĐÈO NGANG
– Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hòn ngược để đơm người đế bá;
– Trách con tạo lừa cơ tem hẻm,chuốt núi xuôi cho lọt khách cổ kim.
Thật vui, ”cái gì của Xuân Hương trả lại cho Xuân Hương” – Giáo sư Tiến sỹ Kiều Thu Hoạch đã dành trên 40 năm trời để Làm ĐƯỢC cái công việc có giá trị đích thực này – thật là đáng kính trọng.
(Góc thành Nam – Hà Nội 30-3-2008)
Bài 11: Làm Thế Nào Để Có Thơ Hay?
(thử nhắc lại về bếp núc nghề thơ)
Ai làm thơ chẳng mong có thơ hay: một bài, một câu, thậm chí một chữ độc đáo nổi tiếng để đời (ví dụ: chữ (từ) SÁNG trong câu :”một tiếng chim kêu sáng cả rừng” của Khương Hữu Dụng) đó là những hào quang của chữ nghĩa làm cho thơ bất hủ.Đó là trạng thái tâm hồn làm bừng phát tình yêu, khởi điểm của một ý thơ.
Người làm thơ trước tiên phải có THI HỨNG (nói theo Max Jacob thì đó là trực giác, cái đó gọi là sự quyến rũ). Khi nội tâm gặp cảnh sinh tình bật ra cái HỨNG (sự khởi phát bột trào thành THƠ). Trước thời điểm đó là” chút linh cầu mãi không về, phân vân giấy trắng chưa nề mực đen” như Hồ Dzếnh đã tả, cái phút hứng chưa đến ấy được Tản Đà ghi lại bằng hình ảnh “đêm qua ra ra vào vào, quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì THƠ”. Và “TỨ THƠ chỉ có khi cưỡi lừa đi trên cầu BÁ dưới trời tuyết” như Trịnh Khải xưa đã nói. Đó là vụ nổ Big-Bang để hình thành ra vũ trụ – cái ý tưởng vụt trào ấy trong hồn tung ra TỨ THƠ. Cái TỨ là sự linh ứng – nghĩ ra, phát hiện ra một cái gì đó nó co thể khiến cho cái THẦN (tinh thần) của nhà thơ cảm nhận thấy được sự vật để viết ra những câu thơ (nội dung) mang tư tưởng và tình cảm của tác giả. Ý là do suy nghĩ mà ra. LỜI là do Ý mà đến. Nhà thi sĩ bậc thầy (ông Hoàng của thi ca nước Việt) đã từng dạy “TỨ là hình tượng thơ diễn đạt được một ý trọn vẹn, từ chỗ có Ý sẽ đẻ ra TỨ, có TỨ tất có Ý, nhưng có Ý chưa hẳn có TỨ. Ví dụ: Ý là muốn nói tới sự say đắm si mê của chàng với nàng (đó mới là chung chung chưa rõ ràng), chỉ đến khi thi sĩ thể hiện bằng một hình tượng thơ cụ thể:
Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.
(Lưu Trọng Lư)
thì đã là một TỨ thơ độc đáo. Có Ý (ý tưởng) nhà thơ phải tìm tòi sáng tạo để dựng TỨ (như khung nhà, kiểu dáng nhà trong cái ý muốn xây nhà) để thể hiện được sự trọn vẹn của Ý, gợi lên những cảm hứng gây xúc động lòng người, tạo ra những mối liên tưởng rộng mở, có giá trị thẩm mỹ cao (biến cái mông lung chưa có hình thù gì trong trí não thành hình tượng thơ, cấp cho nó một khuôn khổ nhất định). Thi sỹ vắt nặn ra TỨ THƠ khác nào nghệ nhân vắt nặn ra đồ gốm sứ vậy. Những câu thơ HAY thường là đã mang trọn vẹn một TỨ THƠ:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn
(Chế Lan Viên)
Không ở rể mà vẫn là rể quý
Để mỗi năm lại lên Tết Chiềng Ly
(NK)
Dù tản mát khắp chân trời góc bể
Còn tấc lòng vẫn gửi gắm nơi quê.
(NK)
Tháng giêng ngúng nguẩy thẹn thò
Bàn tay ủ ấm đôi vò rượu tăm.
(Lê Đình Cánh)
Khi em đến gương trăng vừa lặn mất
Em dịu hiền tươi mát một vầng trăng.
(NK)
Thầy giáo dạy NK hồi cấp 3 đã nói: đọc thơ, về thực chất là ta đang thưởng thức một TỨ THƠ. TỨ trong toàn bài là một hình tượng THƠ xuyên suốt cả bài thơ, thể hiện tư tưởng nghệ thuật của bài thơ. TỨ THƠ mang đặc điểm của cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ.(mỗi người một cách).
Như vậy công việc quan trọng cốt lõi của người làm thơ là phải tìm được TỨ THƠ (lao tâm khổ tứ là vì thế) – nó tương tự như nhà tiểu thuyết phải có “cốt truyện” vậy. Đầu để bài thơ nhiều khi đã chứa đủ cái TỨ THƠ trong đó, nói cách khác là: đầu đề thơ ôm trùm TỨ THƠ, khiến người đời đọc xong nhơ mãi, biến thành ấn tượng ăn sâu vào tâm hồn người đọc (Bóng cây Kơnia, Núi đôi, Gương mặt quê hương, Cuộc chia ly mầu đỏ…)
Khi sáng tác cấu TỨ (vắt nặn ra TỨ THƠ) người làm thơ thường có hai cái lo: ai đó mà mạch suy nghĩ bế tắc thường thơ nghèo nàn . Kẻ lắm lời thường là thơ lộn xộn. Hiểu biết rộng thì cứu được sự nghèo nàn. Nắm lấy một điểm (ý chính) để xâu suốt tất cả, đó là thứ thuốc chữa bệnh lộn xộn. Tình cảm tư tưởng của bài thơ vô cùng phức tạp và khó nắm bắt. Hình thức của nó cũng khác nhau và thay đổi.Có khi lời thô kệch lại nảy sinh cái ý (Tứ) hay, có khi việc tầm thường làm toát ra ý mới.
Một bài thơ đạt tiêu chí HAY phải là ý mới, tứ lạ, đồng thời còn lệ thuộc vào cái tài hoa trong việc diễn đạt tình cảm tư tưởng với ngôn từ điêu luyện (sáng tạo từ mới), không lặp lại các chữ (từ) đã sáo mòn cũng như thủ pháp triển khai cấu TỨ sao cho hình tượng thơ sống động…Trong một bài thơ phải có những câu đột xuất, chữ độc đáo (nhãn tự- chữ mắt) đầy hình tượng, gây ấn tượng sâu sắc vào lòng người đọc để cho bài thơ bất tử,trẻ mãi không già.
Tóm lại TỨ THƠ là đặc sản của tâm hồn thi sỹ, mỗi người tạo ra cái riêng, cái cốt cách độc đáo của mình với một ngôn ngữ giọng điệu không giống ai. TỨ THƠ là rường cột kết cấu nên bài thơ làm nổi bật tư tưởng chủ đề của bài thơ (chứa đựng triết lý sâu sắc nội dung có tầm bao quát lớn).
Cái “Siêu” của một số nhà thơ có tay nghề cao là đã biết cắt tỉa bớt lá cành rườm rà của một Ý thơ để làm bật TỨ là phần tinh túy nhất của bài thơ (ví như bông hoa) để thêm phần rực rỡ (Là ngụy trang, Ngọn đèn đứng gác, Dáng đứng Việt Nam).
Theo thiển ý của NK thì ngoài những lý sự trên, người làm thơ muốn có thơ HAY phải là người có tâm hồn, nung nấu, ấp ủ một cái gì đó để rồi bất chợt tức cảnh sinh tình bật ra thi hứng, tạo ra TỨ THƠ…(chứ không phải cố nghĩ, cố rặn ra thơ, ghép vần rồi tự vỗ đùi “tuyệt tác!”). THƠ HAY không lệ thuộc vào thể loại cũ mới, vấn đề là có hồn hay vô hồn, ý mới , tứ lạ và có ĐẸP hay không? và THƠ HAY còn phải là thơ để cho người đời ngâm, đọc một cách thích thú nữa kia. Nói thì dễ, làm thì khó, thôi thì:
Ta dù lếch thếch lôi thôi
Mong thơ sinh hạ cho đôi ba dòng.
(Nguyễn Duy)
Hà Nội ngày 13 tháng Giêng năm 2002
Bài 12: TIÊU CHÍ TỰ ĐÁNH GIÁ (THẨM ĐỊNH)
MÌNH ĐÃ LÀ NHÀ THƠ HAY CHƯA?
Anh chỉ là thi sĩ
Khi luyện văn thành thơ
Hãy sáng tác những loại thể lớn như 5 chữ, lục bát, 7 chữ, 8 chữ, để thấy được độ sai lệch rõ rệt về cấp bậc giữa hoài niệm và vè, dân tộc và diễn ca, hàn lâm và vịnh, hoành tráng và tấu, có thể diễn trên đồ hình sau:
A 5 chữ B
Vè <——————————————————–> Hoài niệm
Lục bát
Diễn ca <——————————————————–> Dân tộc
7 chữ
Vịnh <——————————————————–> Hàn Lâm
8 chữ
Tấu <——————————————————–> Hoành tráng
Qua đó sẽ thấy được tầm cỡ (đẳng cấp) nhà thơ.
Cái mạnh của thơ 5 chữ là chất hoài niệm
Ví dụ:
Tháng giêng bụi mù trời
Tháng giêng buồn một thuở
Thèm một hạt mưa rơi
Thấm ướt lời than thở.
(NK – Tháng giêng Buôn Ma Thuột)
Hễ non tay thì sẽ thành Vè.
Ở tầm một khúc ca dao:
Con trời chẳng biết mặt cha
Lớn lên trung dũng tài ba lạ thường.
(NK – con gái Phủ Từ)
Đến lục bát là rõ rệt nhất: làm được tốt thì đấy là tính dân tộc, còn không thì chỉ ở tầm diễn ca.Đó là hồn thơ dân tộc, nói như Giáo sư Cao Xuân Huy thì quân thế biểu hiện trong niêm luật lục bát thật là bằng phẳng, không gì lật đổ được, khác với quân thế của thơ Đường co khi rất chênh vênh nguy hiểm. Có người nói: “cho tôi xin một ít lục bát, tôi sẽ thưa: anh có phải là nhà thơ thứ thiệt hay không?”
Lá hồng rơi lặng ngõ thuôn
Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương
Chỉ một câu “sương trinh…” đã đủ đưa Xuân Diệu lên hàng Siêu thi sĩ rồi.
Thứ lục bát “đanh” đến lạnh người của tác giả”độc hành ca”, theo kiểu ”nẻo về chật chội áo cơm” thì đến nay vẫn chưa có ai viết nổi. Đỉnh cao la Nguyễn Du, còn rơi tõm xuống loại “thơ Bút Tre”:
Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên
Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về.
Thì ôi thôi cho thơ rồi!
Cái mạnh của 7 chữ là nét Hàn lâm:
Vượt biển, chơi hồ, trở quá giang
Bỗng dưng lại thấy nhớ ao làng
Cái đêm hè ấy ai ra tắm
Để cả bầu trời phải tắt trăng.
(NK – Ao làng)
Yếu sức thì rơi vào Vịnh.
Cái mạnh của 8 chữ là nét hoành tráng:
Thôi, cứ để cho thời gian gió thổi
Gieo vào lòng một chút sóng Sông Lô.
(NK – Gửi Tuyên Quang)
Nhưng nếu làm không khéo thì thành ra Tấu.
Ôi biết bao nhiêu người say sưa làm văn vần, giỏi diễn ca cứ tưởng mình là nhà thơ đích thực. Thơ HAY phải có ý mới, tứ lạ, hình tượng rõ, tình đậm, ngữ nghĩa đổi mới và chứa chất đầy tâm hồn thời đại kia?
(NK Biên soạn lại theo Nguyễn Phan Cảnh để tự thẩm định lại thơ của mình)
Đình Bảng Xuân Tân Tỵ 2001
Bài 13:
Đọc lại bài tựa truyện Kiều năm 1820
của
TIÊN PHONG MỘNG LIÊN ĐƯỜNG
chủ nhân
Ngày trước, các ấn phẩm in truyện Kiều (đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du, mở đầu thường có hai bài tựa:
– Bài thứ nhất của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân (1820)
– Bài thứ hai của Phong Tuyết chủ nhân Thập thanh thị (1828)
Cùng bài thơ chữ Hán (đề từ – thi vân) của Lương Đường Phạm Lập Trai (Phạm Quý Thích)
Về bài “tựa thứ nhất” của Mộng Liên Đường, viết vào năm 1820, đây là năm Canh thìn, Vua Gia Long băng hà, Vua Minh Mệnh nối ngôi – đồng thời cũng là năm Đại thi hào lâm bệnh qua đời ở kinh đô Huế trong một nạn dịch bệnh đương thời làm chết hàng vạn người. Nói theo kiểu cổ nhân: Mộng Liên Đường đề “tựa” Đoạn trường tân thanh mà Nguyễn Du viết vào khoảng năm 1814 sau khi đi sứ nhà Thanh(bên Tàu) về…
Nghĩa là truyện Kiều đã trình làng được 6 năm, tác giả của nó cũng vừa qua đời; người viết có đủ điều kiện và xúc động ở thời điểm vừa “cái quan định luận” để đề “tựa”. Bài viết ngắn gọn, xúc tích dài chưa đầy hai trang giấy mà có nhiều câu người đời sau dẫn đi dẫn lại. Mở đầu bài “tựa”, Mộng Liên Đường lý giải rất khéo về hai chữ “đoạn trường”: “trong trời đất đã có người tài tình tuyệt thế, tất thế nào cũng có việc khảm kha bất bình.Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê, đó là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy”.
Sau khi nói về cái lý do mà Tố Như tử đem truyện Thúy Kiều chép trong Lục Phong Tình rồi “dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả tình đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy?…
Ta lấy một thiên mực nhạt, xa viếng nàng Kiều, tuy lời văn quê kệch, không đủ sánh với bức giao thiên, song đủ tỏ ra rằng cái nợ sầu của hai chữ tài tình, tuy khác đời mà chung một dạng. May được nối ở đằng sau quyển “Tân thanh” của Tố Như tử, cũng là một khúc đoạn trường để than khóc người xưa.”
tháng hai, niên hiệu Minh Mạng (1820)
viết ở Thán hoa hiên đất Hạc Giang
TIÊN PHONG

Mộng Liên Đường chủ nhân
Tiên Phong và Mộng Liên Đường (đình) là tên hiệu của Quan chức – nhà văn Nguyễn Đăng Tuyển(1795-1880) hậu duệ Trạng Bịu (Nguyễn Đăng Đạo 1651- 1719) quê ở thôn Thượng(tên nôm là làng Bịu Thượng) xã Hoài Bão, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh.
– Nguyễn Đăng Đạo, đỗ Trạng Nguyên năm 33 tuổi, niên hiệu Chính Hòa, đời Vua Lê Hy Tông 1683. Năm 1687 ông được cử đi sứ sang Tàu vào chầu Vua Khang Hy nhà Thanh.
Do đối đáp, thi thố văn tài với sứ thần các nước, có các bài đệ lên ngự lãm, được Vua Khang Hy (một vị Vua nổi tiếng hay chữ) phê cho Trạng Bịu: “Bắc Triều đệ nhất Trạng Nguyên”. Theo sử sách: ông là người trung thực, thương dân, làm tới chức Tham Tụng(Tể Tướng). Ông mất năm Vĩnh Thịnh thứ 15 – vua Lê Dụ Tông phong tặng Lại Bộ thượng thư, Thọ quận công, ban cho bốn chữ “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên” và một đôi câu đối:
Tiến sĩ, thượng thư, thiên hạ hữu
Trạng Nguyên, tể tướng, thế gian vô.
– Ông nội của Mộng Liên Đường là Nguyễn Đăng Vỹ, đỗ tiến sỹ năm Bảo Thái (1720 – 1729) đời Lê, làm quan tới hàm Thiếu Bảo, tước Kế Thiện hầu .
– Cha Mộng Liên Đường là Nguyễn Đăng Chiểu đỗ hương cống (cử nhân) làm quan đến Hồng Lô tự khanh. Cuối đời Lê loạn lạc ông đưa vợ con lánh lên xứ Đoài, làm nhà thuộc huyện Tiên Phong, trấn Sơn Tây. Thời Lê huyện lỵ Tiên Phong đóng ở xã La Phẩm (nay thuộc huyện Ba Vì – Hà Nội).
– Nguyễn Đăng Tuyển từng đỗ Tú Tài được bổ làm giám sinh ở Quốc Tử Giám. Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836) được bổ làm tri huyện Vị Xuyên (Tuyên Quang) sau chuyên về Kinh làm chủ sự ở Bộ Hộ rồi được thăng Thừa Chỉ, Thị Độc. Ông là người “vì văn học mà được Vua biết đến” thường được Vua Tự Đức cho ngồi bên cạnh dự các kỳ thi do Vua chủ trì, ông đã soạn các quyển”Đào hoa mộng ký”, “Nam thị quốc phong”, dâng Vua xem, được tán thưởng, chuyển làm trước tác rồi được sung chức Biên Tu Quốc Sử Quán. Năm 1856, ông được bổ Tri Phủ Thuận Thành (Bắc Ninh) rồi xin hưu trí. Tuy đã về hưu,ông vẫn được
Vua cho người về thăm hỏi, lại sai làm Vịnh sử ca.Vào dịp Vua 50 tuổi (ngũ tuần đại khánh), ông dâng thơ tụng, được ban thưởng, vài năm sau thì mất, thọ 86 tuổi.
Nguyễn Đăng Tuyển – một cây bút tài hoa, ông lưu danh cùng Tố Như tử với tên hiệu “Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân” (bài tựa) được dịch in trong sách “Truyện Thúy Kiều” do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo, in năm 1925 và tái bản nhiều lần.Nay đọc lại lời bình sâu sắc của ông”xem đến chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn nguyên vẫn gỡ chưa rồi; khúc đàn bạc mệnh ấy gẩy xong mà oán hận vẫn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên ”đoạn trường tân thanh” cũng phải.”
Nay đã qua 189 năm, đọc lại bài tựa truyện Kiều của Mộng Liên Đường, kẻ hậu sinh (NK này) vướng duyên hàn mặc (bút mực) vẫn thấy văn chương của bậc tiền bối như nước chảy mây trôi, sâu đậm tình người truyền lại cho con cháu cái tài, cái tình theo cánh Rồng bay lên quả là hứng khởi biết chừng nào?
Cẩn Bút
Góc thành nam Hà Nội, 2-9-2009
Bài 14: NHÀ THƠ HOÀNG CẦM
Thi sĩ sinh đêm 12 tháng giêng năm Nhâm Tuất (tháng 2 – 1922) đêm trước của hội Lim quan họ; mất lúc 9h sáng ngày mùng 6-5-2010 tại Hà Nội.
Tên khai sinh là Bùi Tằng Việt (Họ Bùi, ghép tên làng nơi sinh: Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang). Quên cha: thôn Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh(cụ thân sinh là đồ Nho có tham gia Đông du và Đông Kinh Nghĩa Thục). Mẹ là chị hai quan họ làng Bịu Xim,  huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
Hoàng Cầm nổi tiếng ngay từ năm 1942 với kịch thơ Kiều Loan; thời kháng chiến chống Pháp, nổi tiếng với bài thơ dài “Bên kia sông Đuống” (1948); và hình như câu thơ mở đầu thi phẩm tuyệt tác này (đầy chất quan họ và hồn quê Kinh Bắc): “Em ơi buồn làm chi…” như một tuyên ngôn đời, tuyên ngôn thơ Hoàng Cầm, rất định mệnh, rất tiên chi của một đấng tài hoa xứ Kinh Bắc rất hiểu đời, vượt trên mọi cái trầm luân của đời thường, cứ “đường ta ta cứ đi”, đi dưới “mưa Thuận Thành”, đi tìm “lá diêu bông”… luôn đổi mới, cách tân thi pháp để có những vần thơ bất tử, đọc lên nghe xao xuyến lòng người như ” váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…” để “từ thuở ấy/em cầm chiếc lá/đi đầu non cuối bể/gió quê vi vút gọi… diêu bông hỡi… ới diêu bông! “
Thơ Hoàng Cầm là đặc sản văn minh tinh thần của quê hương Kinh Bắc – miền quê Quan họ.Xứ của một cộng đồng làng xã, rất Đại Việt, khá dân chủ, bình đẳng. Con người ở đây lấy tình làng nghĩa xóm làm trọng. Phép Vua thua lệ làng. Hội đồng kỳ lão có quyền cao hơn chức dịch. Ra đường phải cúi đầu chào các già làng, còn với chức dịch như Chánh Tổng, Lý Trưởng xưa thì tùy, không chào cũng không sao. Đi hát quan họ, vào đám hội thì mọi người đều bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo, chức vị, không dè bỉu “tiền án, tiền sự”… Tất cả chỉ là “liền anh, liền chị”, các quan viên họ cùng say đắm với “yêu nhau cởi áo cho nhau” và “bao giờ thấy lá diêu bông/để cho váy lụa buông
chùng… mà hay!”
Thơ Hoàng Cầm cũng do xuất phát từ hồn quê là thế, với bút pháp độc đáo, một phong cách rất riêng không giống ai, ngôn ngữ tinh luyện siêu đẳng.Thường bất chấp văn phạm.Ông là người kế tục Thơ Mới và đi xa hơn về phía hiện đại – một lối thơ siêu thực hôm nay. Đó là tiếng nói đầy chiêm nghiệm và cũng tràn trề giải thoát. Thơ Hoàng Cầm, chất quan họ Bắc Ninh đạt tới độ Hàn Lâm.Từ thực tại đã thăng hoa tới miền hư viễn của tâm linh.Rất nhiều đam sy, trầm ẩn nên không hiếm khoảnh khắc hồn thơ thi sỹ nhập vào vô thức. Như lời ca quan họ, thơ Hoàng Cầm là ngọn lửa sưởi ấm tình người, là tia nắng mới tỏa sáng nơi chân trời cũ, như ai đó dù đi đâu, đến đâu vẫn gửi hồn về Kinh Bắc thân thương. Thơ Hoàng Cầm đang đi từ chân trời xưa cũ đến chân trời nay tươi mới để ta thêm yêu những chân trời đang có người bay với những người bay đang tới một chân trời đổi mới đầy xán lạn, rất thơ.
Đình Bảng ngày mùng 1 Tết Ất Dậu (2006)
Hà Nội ngày 6-5-2010
SƯƠNG CẦU LIM
Chấp chới lá chè non
          Cầu Lim, Nội Duệ
The Hà Đông đón kiệu
          Bỏ quê Xim
Ếch Quế Dương xếp đùi tròn gõ trống
Sáo sậu Phù Ninh
         rợp nắng
Về Thăng Long
Đá nghển trông con
        gục đầu sườn núi Dạm
Lụa vàng xé lộc rắc tro tiền
Đè ngang khói bếp
Bặt mùi khoai nướng
Đầu rau nằm sấp toạc môi
Trống Chờ thúc chín tiếng
Chuông Trõ nện ba hồi
Mõ Phù Lưu khua bến đò Lo
Thầy Phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo
Biết lòng chim sáo ri
Gái Cầu Lim,Nội Duệ đã đi
Hoàng Cầm
Lời Bình Của Nguyễn Khôi:
Đọc thơ Hoàng Cầm có khác nào đọc  Marcel Proust (văn hào Pháp 1871-1922) với “Đi tìm thời gian đã mất”… đó là kết tinh của cuộc sống nội tâm với những trăn trở về quá khứ. Tất cả thời gian đã mất trong khi quan sát dòng xoáy ngoài đời, nay thi sỹ đã tìm thấy lại, một hồi tưởng tha thiết biến kết quả quan sát thành chất liệu của thi phẩm.Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hành trình thơ Hoàng Cầm.
Cũng như “lá diêu bông” đến “sương cầu Lim”, nhà thơ Kinh Bắc lấy những địa danh cụ thể để nói những cái không cụ thể (một thế giới riêng hư ảo, ẩn hiện giữa một không gian mênh mông của miền quê Quan họ), có khác nào một thoáng Đường thi miêu tả cái cao bằng cái rộng (dục cùng thiên lý mục-cánh thướng nhất tầng lâu). Bắt Hòn Đá và Ông Đầu Rau thành người, đó là cái “mã” chuyển hóa các giác quan, một nghệ thuật bậc thầy mà trong thơ Hoàng Cầm nào đâu có ít. Thơ Hoàng Cầm giàu âm điệu, như ông nói ”nhạc là cái xe chở hồn của bài thơ”. Ở đây những câu thơ dìu dặt luyến láy là do sắp đặt, nhưng giai điệu bài thơ thì lại xuất thần vượt khỏi sự chủ ý của tác giả, như tự mình nó (văn bản thơ) dựng được cả một không gian tinh thần (không khí và văn hóa Quan họ), một vương quốc thơ của riêng Hoàng Cầm.
Về ngôn ngữ thơ: Hoàng Cầm rất tài tình trong việc sử dụng các động từ (như “đá nghển”…lụa vàng xé lộc…rồi nện, khua… thật kỳ diệu với thơ).
Cùng với Lá Diêu Bông, cây Tam Cúc thì Sương Cầu Lim là một trong những bài cao thủ, độc đáo nhất của Hoàng Cầm, một tìm tòi thành công trong thi pháp của nhà thơ hôm nay.
Viết tại quê xóm Đình, xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
Mồng 1 Tết Ất Dậu (2005)
Bài 15: ĐÔI ĐIỀU VỀ VÁY ĐÌNH BẢNG & LÁ DIÊU BÔNG
NK tôi- nhà ở Xóm Đình,làng Đình Bảng (tên Nôm là làng Báng-kẻ Báng), Từ Sơn, Bắc Ninh…nơi có ngôi Đình nổi tiếng Xứ Bắc:
Thứ nhất là đình Đông Khang
Thứ nhì đình Báng,vẻ vang đình Diềm.
Đình Bảng cùng với Chợ Giầu (Phù Lưu) là 2 làng Buôn bán lừng lẫy,ở Quê nhưng đã đô thị hóa. Người Đình Bảng sớm tiếp thu văn minh phương Tây: trai complê-Càvạt,nữ áo dài váy lụa; đặc biệt là đã cải tiến sáng tạo ra “nếp váy Đình Bảng” - đó là một kiểu váy đẹp của con gái Đình Bảng-Chợ Giầu thời trước năm 1945, thường mặc trong lúc giao tiếp hoặc đi hội. So với “váy nùm rơm” (Phúc Yên), hay “váy bó que” (Hà Nam ) thì Váy Đình Bảng (lụa) cùng với áo dài tân thời đạt tiêu chí sang trọng hợp với các “bà chủ”,”cô chủ” trong giao tiếp làm ăn trên thương trường, tiện cho sự đi lại lên tầu xuống xe…chính vì yêu cầu của cuộc sống mà chiếc váy Đình Bảng được cách tân hợp thời trang ra đời là thế.
Đó là loại váy lụa,váy lĩnh…màu đen,nhiều nếp gấp,buông chùng tới mắt cá chân,phía trước lượn hình lưỡi Chai (con Chai, con hến). Cô Tuyết, cô Nhung, mợ Loan, mợ Thảo lúc bấy giờ đầu tóc vấn khăn nhung, ra khỏi nhà là có khăn vuông to bằng lụa Hà Đông hay khăn nhung khăn len (bông bát tơ-Pháp) tùy mùa bịt to hó, mỏ quạ che đầu. Yếm trúc bâu trắng che bầu ngực đầy sung mãn, áo phin hay cát bá trắng may bó sát eo lưng, cài khuy bấm, thắt lưng lụa màu hoa đào hay phấn hồng,áo dài khoác ngoài màu sắc tùy theo lứa tuổi. Bàn chân gót đỏ đi hài nhung hay dép Săngđan da; váy buông chùng chỉ vừa hở mũi hài. Đồ trang sức là đôi hoa tai mặt đá kim cương, kiềng Vàng, vòng tay đá cẩm thạch, nhẫn mặt ngọc. Đóng bộ đầy đủ xong, các chị, các mợ xuất hành:
Anh về vui với cày bừa
để em tay nải gió đưa phương trời…
Đó là một Nàng Giáng Kiều thướt tha yểu điệu, thông minh xinh đẹp-cô gái Bắc Ninh sinh ra từ vùng quê Văn hiến giầu có, trình độ dân trí cao, đảm đang năng động (đã đi ra khỏi lũy tre xanh vào thành phố) tiếp cận thị trường nhanh, sớm trở thành các nhà triệu phú, tỉ phú lừng danh trên thương trường thời bấy giờ .
Thi sĩ Hoàng Cầm (quê làng tranh Đông Hồ) thuở niên thiếu từng sang chơi Hội Đình Bảng, và đã phải lòng “một chị” mặc váy Đình Bảng, để rồi theo gió quê vi vút gọi thơ thẩn đi tìm Lá Diêu Bông…NK tôi nhà ngay bên đình, đọc thơ của Bác HoàngCầm, hứng khởi đôi vần:
NGƯỜI ĐI TÌM LÁ DIÊU BÔNG
Người đi tìm Lá Diêu Bông
Mình về nhặt những Lá Hồng xếp chơi
Còn duyên buôn Quế bán Hồi
hết duyên Lá Bưởi nhóm phơi ngoài đồng
bao giờ thấy Lá Diêu Bông
để cho váy lụa buông chùng…mà hay
Mình như một kẻ lạc loài
Xóm Đình chả “dạm”…dạm ngoài Kiến An.
Đình Bảng, rằm tháng ba
Bài 16: Lá diêu bông “Chiêu độc của Hoàng Cầm”
LỜI DẪN: Theo nhà thơ Hoàng Hưng ( VN Lagi & Talawas ngày 19-09-2010) thì: Nhà thơ Hòang Cầm viết tập thơ “về Kinh Bắc” từ 1959– 8/1982, chủ yếu lưu truyền bằng chép tay (ngoài luồng) – đây là một sự kiện “hậu Nhân văn – Giai Phẩm”, trong đó bộ 3 “cây-lá- quả” (cây tam cúc – lá Diêu bông – quả vườn ổi) là nổi bật nhất vì chúng được (giới Văn nghệ) xì xầm diễn giải như một lời oán trách của “Em” (văn nghệ sĩ) với “chị” … đại khái là “Em” yêu “chị” , nhưng “chị” đã lừa “Em”, cho “Em” ăn toàn “quả rụng”, rồi bỏ mặc “Em” bơ vơ để đi lấy chồng.
Theo Hoàng Cầm kể, thì 1974 Công An Hà Nội có kêu tác giả lên răn đe về việc lưu truyền những bài thơ “có nội dung xấu ấy” … Hoàng Cầm phải ngưng… hậu quả vụ án “về Kinh Bắc” là :
– Hoàng Cầm bị đi tù 16 tháng
– Hoàng Hưng vì xin được, có trong tay mấy bài thơ trên nên bị đi tù 39 tháng
– Nam Dao (Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng) – Việt kiều yêu nước Canada bị “cấm cửa” không được về Việt Nam trong 20 năm.
Sau” Đổi mới” (1986) mãi tới 1994 “Về Kinh Bắc” mới được NXB VH in bằng loại giấy xấu.
BÌNH: LÁ DIÊU BÔNG
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thơ thẩn đi tìm
Đồng chiều
cuống rạ
Chị bảo
Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày Em tìm thấy lá
Chị chau mày
đâu phải Lá Diêu Bông

Mùa đông sau Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới Chị
Em tim thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt Chi không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời…
… Ới Diêu Bông… !
BÌNH: Bài này có 2 cách hiểu:
1) Theo kiểu ngây thơ, coi đây là một bài thơ tình thứ thiệt, là một khúc hồi tưởng (viết trong một cơn mơ “vô thức” mà “Thần Linh đọc Diêu Bông”, tôi chép Diêu Bông, thế thôi.)
Đó là mối tình đơn phương của cậu bé 12 tuổi (HC) với Chị Vinh (20 tuổi) ở ga Việt Yên, Bắc Giang thời trước 1945 … một thứ tinh yêu đơn phương của một chú bé ngây thơ huyễn tưởng với một bà Chị sành sỏi” tung ra cái Lá Diêu Bông (ảo huyền) “dứ” trêu chú bé ngây ngốc?
Bài thơ mở đầu bằng “Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng” là Thi Sỹ đã lấy cái địa danh (quê Vua Lý) với cái Váy lưới Chai của gái Đình Bảng nổi tiếng thời bấy giờ để tạo sức hút (gây ấn tượng)… tiếp theo là Tác giả tung ra cái Lá Diêu Bông (lá Trời) , huyền ảo, sắc sắc không không như một phép thần thông của “Chị” bủa vây giăng lưới “bẫy” Chú “Em” ngây thơ chạy theo mối tình hư ảo vô vọng…
Thủ pháp “Váy Đình Bảng/Lá Diêu Bông” quả thực là LINH NGHIỆM đã mê hoặc bao lớp độc giả say thơ Hoàng Cầm… Để rồi có Nhạc sỹ phổ thơ Lá Diêu Bông, Cô Nàng Sài Gòn mở “Quán Diêu Bông” như một tình thơ đẹp thu hút rung động bao con tim, trí tưởng tượng của một thời “gió quê vi vút gọi …”
2) Hiểu theo cách: Thơ “ẩn dụ”, cái thâm nho của Thi sỹ (con nhà chữ nghĩa người làng Hồ – xứ Kinh Bắc) mượn truyện tình (bịa) để nói truyên Đời của một thời sau vụ NV-GP… Để ai đó tự suy diễn mà chia sẻ nỗi đau với tác giả.
VỀ NGHỆ THUẬT bài thơ: Đây là nghệ thuật bậc thầy. Thi Sỹ Hoàng Cầm tạo ra hình tượng thơ “Lá Diêu Bông” huyền ảo gây mê hoặc lòng người: – yêu (tình) thì rất tình mà đau (hờn đời) thì thấm tới cõi Thần Linh ma quái… Phải có một hồn thơ siêu viêt, một bút pháp kỳ tài (như viết trong mơ), nỗi đau tình, đau đời, ẩn hiện trong nhau, chữ ít ý nhiều – kể cả đầy ẩn ý … Về ngôn từ: Thi Sỹ dùng cách nói của người Kinh Bắc rất Quan họ như: Trông nắng vãn bên sông (lưu ý tử VÃN), xe chỉ ấm trôn kim, xòe tay phủ mặt… rất dân gian mà cũng rất Hàn lâm; Tất cả ý tứ chữ nghĩa quyện vào nhau để Lá Diêu Bông còn mãi với Đời .
Tóm lại: Bài thơ Lá Diêu Bông nằm trong tập thơ liên hoàn Về Kinh Bắc là “một lâu đài tráng lệ với không gian văn hóa cổ kính hòa trộn với tâm linh hiện đại, những ẩn ức về thân phận con người cùng khát vọng sống của nó” – qua phía âm bản của thơ ta thấy được tiếng kêu bi thương thầm thĩ của người nghệ sỹ tài hoa đầy tính nhân văn, sự ám ảnh về thân phận con người nghệ sỹ trí thức, nỗi thất vọng to lớn giữa lý hưởng và hiện thực cuộc sống của một thế hệ văn nghệ sỹ. Theo thiển ý của NK thì có lẽ sau Tây Tiến (Quang Dũng) thì Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm là một trong những đỉnh cao trên thi đàn Việt Nam hiện đại. Sáng tác Lá Diêu Bông là Hoàng Cầm muốn gửi một thông điệp đến bạn đọc để giãi bày cái đau tình, đau đời mà Thi Sỹ ẩn nhẫn câm nín bao ngày không nói ra được.
“Lá Diêu Bông” là một bài thơ “thần khẩu hại xác phàm” thời nay, nó rất định mệnh – rất ĐỘC – ai nặng tình vướng phải nó (ở một thời chưa Đổi mới mở cửa) thì đều chuốc lấy TAI HỌA!
Này đã qua 50 năm, mấy nhân vật chính đã đi vào thiên cổ… thế mà nghe lại chuyện cũ (đọc) vẫn thấy sởn tóc gáy:
Diêu Bông hời …
Ới Diêu Bông …
Góc Thành Nam Hà Nội 20-09-2010
Nguyễn Khôi – cẩn bút …
Bài 17: THƠ VỀ PHỐ KÉP
“KÉP” là địa linh trong lịch sử Việt Nam,là 1 trong 4 thôn thuộc xã Liệt Hạ (Đông, Hà, Kép, Phù Mỹ) thuộc Tổng Thịnh Liệt, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, Kinh Bắc xưa, nay thuộc T.P Bắc Giang.
Địa danh KÉP xuất phát từ 2 địa danh xưa là “Cần Trạm” và “Cần Dinh” mà ngày 14-10-1407, nơi quân Minh xâm lược, do Tổng binh Trương Phụ và Đô đốc Liễu Thăng chỉ huy đã tập kết quân sĩ để chuẩn bị công phá Thành Xương Giang của Đại Việt…Thời 1955-1975 ở đây có “sân bay Kép” đã nhiều lần “Én bạc” của Không quân Việt Nam xuất kích bắn hạ nhiều máy bay “Thần Sấm”, ”Con ma” của không lực Hoa Kỳ leo thang xâm lược nước  Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa!
  Năm 1916 cụ Bàng Nguyên Dũng (thân sinh ra Thi Sĩ Bàng Bá Lân) lên đây khai khẩn đất hoang,lập Ấp, khai sinh ra “Thị trấn Kép”…mà biểu tượng là phố trồng toàn Cây Bàng (còn nguyên vẹn cho đến tận hôm nay…)
NK xin giới thiệu chùm “Thơ về Phố Kép” xưa & nay để các bạn đọc cùng thưởng thức:
 *1- THƠ ĐỀ GỬI CÁC CON
Cha, cõi phong trần đã trắng râu
Con, tuần khôn lớn mới xanh đầu
Tên nêu bia bảng to là thực
Nghiệp nối cơ cừu phải nhỏ đâu
Cửa hiếu đựng trăm đường sự nghiệp
Nhà Nho riêng một mối sang giầu
Non sông dẫu cách,lòng không cách
Giấy ngắn tình dài dặn mấy câu.
Bàng Nguyên Dũng (1874-1950)
*2- TRĂNG QUÊ
Trời cao, mây bạc, trăng tròn
Đê than hiu quạnh, tre buồn nỉ non
Diều ai gọi gió véo von
Cành xoan đùa ánh trăng non dịu dàng
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi? (1)
Bàng Bá Lân (1912-1988)
(1) đây là 2 câu thần cú đã được dân gian “ca dao hóa” trở nên bất hủ:
  
   Hỡi cô tát nước bên đàng
     Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
*3- LIÊN NGÂM
Tô Hoài, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương
Còi thét vào ga Phủ Lạng Thương
Sở tại Bàng quan chầu xuống xóm
Thi nhân Bá ngọ chuyến lên đường
Dòng trong dòng đục thêm ngao ngán
Chùm chín chùm xanh uổng vấn vương
Nằm muỗi qua đêm chờ sàng dậy
Còi xe phong hỏa xé màn sương.
Nguyễn Bính-Vũ Hoàng Chương (1942)
*4- LÊN KẾP HỌP
(THƠ LIÊN NGÂM)
Một đoàn Văn nghệ lang thang
Kéo nhau lên Kép thăm Bàng Bá Lân
Đầu trò có Lão thi nhân
Đầu đội nón lính, tay cầm ba toong
Người ngông ăn mặc cũng ngông
Thẩn thơ toàn lối “ngược dòng” nói ngang
Theo chân thất thểu hai nàng
Nàng Thơ, nàng Quý cùng làng thơ văn
Một nàng yểu điệu thanh tân
Túi thơ khép mở ái ân đợi chờ…
Một nàng cặp mắt lơ mơ
Áp xe vận tải thẫn thờ thương ai
Ai đây là một chàng trai
Áo xanh cà vạt ngang vai tải đồ
Hai nàng có chiếc Te-rô
Cưỡi không được cưỡi,ô hô dắt dài…
Anh Đồ Thư dáng bảnh trai
Aó Tây nón lá địu dài trên lưng
Tâm tình kín mít như bưng
Ngoài xem cử chỉ nói năng dịu dàng
Này đây khổ chủ họ Bàng
Giầy “giôn”,găng trắng,vai mang ống hình
Gặp nhau bao xiết cảm tình
Mà xem Văn hóa tiếp mình cũng cao.
Tú Mỡ-Anh Thơ - Đào Dương (1947)
*5- TỪ GA KÉP
Đôi lứa ban đầu mất lạc viên
Cho ta ngán kiếp nhớ thiên duyên
Chiều nay mộng thắm vừa tơ nối
Vườn cũ ngòi vàng lại gió lên
mây nước dâng cao hồn chắp cánh
trần ai rũ sạch nẻo về tiên
Bao la trăng động miền ân ái
Giọng hát chim trời líu ríu men
Vũ Hoàng Chương
(Đây là thời ân ái của Vũ & Đinh Thị Thục Oanh (chị gái Đinh Hùng) tá túc ở nhà Đào tiến Đạt-Nhà thơ, trưởng Ga Kép (1942)
*6- SÂN GA CŨ
Tàu không dừng bánh sân ga cũ
Vội vàng qua gửi lại hồi còi
Lan trong gió nhòa dần khói trắng
Buồn bâng khuâng như tiếng thở dài
Cây Bàng già dấu xưa còn lại
Hững hờ buông đôi chiếc lá rơi
Nền cũ chơ vơ chiều nắng quái
Sân ga buồn chờ khách vãng lai
Họa Sĩ Tạ Thúc Bình (1917-1998) quê Kép
*7- THĂM PHỐ KÉP
Hẹn tự thuở nào lên xứ Bắc
Phố cây Bàng đồi núi nhấp nhô
Đâu Cần Trạm,Cần Dinh…Ơi phố Kép
Tiếng còi tàu thức dậy những trang thơ
Ai lên lập Ấp ngày xưa ấy
Đồng đất hoang vu hóa phố phường
-Mấy chàng Thi Sĩ phi ngưạ bạch
Lững thững đi vào trong khói sương…
Quê hương lạc bước về đâu nhỉ
Nhà cũ ông cha dấu gạch mòn
Sông Thương đôi ngả tình muôn ngả
Thơ nói gì đây với cội Bàng?
Nguyễn Khôi
3-11-2006
*8- GỬI MỘT NGƯỜI GỐC KÉP
Trượt qua thế kỷ vẫn mang mang
Thương nhớ còn đây dãy phố Bàng
Lá non bướm đậu cành xanh lại
Quả chín sao bay gốc cũ càng
Em đi đăm đắm cười xuôi nắng
Tôi ở dưng dưng vọng ngược làng
Ngần ấy năm giời bao trận gió
Tình mà không đáy cũng vang vang…
Anh Vũ (quê Từ Sơn, đang cư trú ở Kép) 2010
Đình Bảng, rằm tháng ba
Bài 18: Tây Tiến, Tuyệt Chiêu của Quang Dũng
I/ Tiểu sử Quang Dũng: 
Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Dậu (tức Diệm)sinh năm 1921 tại làng Phượng trì, tổng Đại Phùng, huyện Đan Phượng (Hà Tây). Quang Dũng là lấy tên con trai làm bút danh(năm 1952 viết tập ký sự “Đoàn võ trang tuyên truyền Việt-Lào”, ký tên là Trần Quang Dũng. Cụ thân sinh là một chức dịch, mẹ là người phụ nữ đảm ven Đô (làm ruộng và buôn bán nhỏ). Gia đình khá giả nên Quang Dũng gửi ra Hà Nội học văn, học võ, học vẽ, học đàn…để sau này, trong lĩnh vực nào anh cũng có những thành tựu đáng kể, trong đó kiệt xuất phải nói là thơ.
 Từ sau ngày Tổng khởi nghĩa 19-8-1945, Quang Dũng được cử làm Phái viên Quân Sự Bắc Bộ, làm công việc cất dấu máy móc quân sự, đi các địa phương tìm mua súng đạn, giành chiếc máy bay Nhật ở Ba Vì. Rồi với tư cách Chính trị viên phó Đại đội Tổng vệ binh Cảnh vệ Khu 2…khoảng cuối năm 1947 anh gia nhập đoàn quân Tây tiến. Sau một thời gian chiến đấu ở Lào trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 51. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948, rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ,chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (Kim Bảng-Hà Nam) thi sĩ bồi hồi viết “nhớ Tây tiến”, bài thơ xuất thần viết liền một mạch trong một đêm để trở thành kiệt tác thơ Việt Nam thế kỷ xx.
 Trước Tây tiến, Quang Dũng đã có “đôi mắt người Sơn Tây” rất nổi tiếng với “Vầng trán em mang trời quê hương/mắt em dìu dịu buồn tây phương/Tôi nhớ xứ Đoài mây trăng lắm…”. Về Nhạc thì có “Ba Vì mờ cao” với “từ xa thương nhớ Ba Vì ơi !/thời gian như muốn phai bóng người/giang hồ dừng bước/nhớ nhung Ba Vì ơi ! Sau Tây tiến còn là “Những lang đi qua”,”vườn ổi”,”em mãi là tuổi 20″,”mây đầu ô”,,,cũng như các bài buổi đầu làm thơ ”Chiêu Quân”, “cố Quận” đều là những bài thơ hay riêng một chất thơ Quang Dũng.
 Nếu ví Hoàng Cầm (thơ) là tinh hoa của hồn quê Quan họ thì Quang Dũng là “bạch vân thiên tải không du du” là hồn thơ của mây trắng xứ Đoài với “Sông Đáy chậm nguồn qua phủ Quốc? Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng” cùng “mây ở đầu ô mây lang thang…”
Lang thang lãng tử thích ngao du sơn thuỷ đi đó đi đây là kiếp đoạn trường của đời nghệ sĩ…cái tinh thần thượng võ, cái khí, cái thần của người thơ ấy được đúc nên từ lòng yêu quê hương xứ sở-yêu đời, đời đẹp như thơ, như đời người chiến sĩ chỉ biết hi sinh, chỉ biết phụng sự lý tưởng và đất nước mà nhà thơ đã đi trọn cuộc đời.
Nhà thơ Quang Dũng từ trần ở Hà Nội ngày 13-10-1988. Ông đã được Giải thưởng Nhà Nước về Văn học. Bài thơ Tây tiến đã được chọn một đoạn khắc vào Đài tưởng niệm các Liệt sĩ Tây tiến ở Châu Trang, xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn (Hoà Bình) ngày 20-12-1990, và tượng đồng bán thân của Vệ Quốc Quân Quang Dũng được đặt tại Trường Tiểu học quê nhà là một minh chứng về sự tôn vinh của Nhà Nước-Nhân dân đối với Nhà thơ yêu quí của chúng ta. 
II Về địa danh Tây Tiến 
Thời điểm 1947 thuộc “Đội vũ trang tuyên truyền Tây Tiến (trung đoàn 52). BCH Đội gồm Đoàn Hải làm chỉ huy trưởng, Phúc Thảo làm chỉ huy phó, Văn Sinh & Quang dũng làm uỷ viên. Trong 2 năm 1947-1948 quân ta đã bám sát quần nhau với địch ở vùng biên giới Việt-Lào, ngoài sự hy sinh, tổn thất trong chiến đấu, trên 200 chiến sĩ Tây tiến đã ngã xuống vì bệnh sốt rét ác tính, suy dinh dưỡng (đoàn binh không mọc tóc/Quân xanh màu lá…) là vậy ! 
Mường Lát là một bản dân tộc Thái vùng biên giới Việt-Lào, bên tả ngạn Sông Mã (Thanh hoá) nhưng lại giáp với Mộc Châu (Sơn La) về phía bắc,giáp Hoà Bình về phía nam. Núi rừng ở đây trùng điệp lên tới tận Sài Khao, nơi cư trú của bản Người dân tộc Dao (Man,Mán-“hèn lên Man điệu…”) quanh năm sương phủ. Mùa mưa ở Mường Lát, cả đất trời đẫm trong hơi nước như mây khói bốc lên ngùn ngụt, mịt mù trong đêm. Hành quân từ rừng về bản, bộ đội phải đốt đuốc soi đường,Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” là thi sĩ đặc tả “lửa” ở đây được cách điệu thành “hoa” (như kiểu ”đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông”).
Câu”trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” là câu thơ tài hoa, làm ta liên tưởng tới câu ca dao xứ Mường : 
Trăm thứ hoa không bằng hoa con gái
trăm thứ trái không bằng trái bông cơm
trăm thứ thơm không bằng thơm con mái…
Mà trái bông cơm là lúa gạo,con mái là con gái tuổi dậy thì…Các chàng trai “Vệ Trọc “(đầu trụi không còn tóc) vừa ở rừng ra thấm đượm tình nghĩa Quân dân, được các em (hoa rừng) chèo thuyền đi đón…thì làm sao quên được “hồn lau nẻo bến bờ”?. Thơ Quang Dũng vừa trữ tình vừa bi tráng là vậy! 
III  Bài thơ buổi đầu trình làng: 
Theo tạp chí Văn nghệ số 11-12 tháng tư, tháng năm năm 1949-Văn nghệ Bộ Đội của Hội Văn Nghệ Việt Nam- Thư ký Toà Soạn: Nguyễn Huy Tưởng thì bài thơ in ở trang 17, toàn văn như sau:
NHỚ TÂY TIẾN
Sông Mã xa rồi,Tây tiến ơi
Nhớ về rừng núi,nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi;
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời;
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Lương mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ ôi ! Tây tiến cơm lên khói
Mai châu mùa em thơm nếp xôi.
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội giáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
QUANG DŨNG (Đoàn quân nhân văn nghệ L.K.3)
Chú ý: Pha Lương=Pha luông.giáng kiều=dáng kiều.
Bài thơ thiếu hẳn 1 đoạn 8 câu”doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…trôi dòng nước lũ hoa đong đưa ?” 
IV  TÂY TIẾN 
Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
(Phù Lưu Chanh, 1948)
Và nhà thơ Xuân Diệu phê bình TÂY TIẾN:
Trong tập TIẾNG THƠ (15-5-1949) Xuân Diệu viết:”…Bài thơ hơi buồn, có đoạn buồn lắm:tứ thơ không mới, có những câu văn hoa. Nhưng toàn bài rung rung như những dây đồng. Đọc lên, trong miệng còn ngân âm nhạc. Cái cảnh miền Tây gian nan đặc biệt: bộ đội Tây tiến là một trong những bộ đội nhiều hy sinh. Đánh giặc đã đành,mà người với rừng núi còn tranh nhau ai thua ai được. Một bạn tôi lên thăm bộ đội quá thượng du Thanh Hoá, trên biên giới Việt-Lào kể rằng: “Núi giăng màn trùng điệp;một anh đội viên chỉ quãng chập chùng trước mặt nói: -Một mình tôi phụ trách 5 cây số núi”. Lên đến nguồn Sông Mã, còn đâu là đồng bằng? Lúc mới đầu chưa quen thổ ngơi, nhiều chiến sĩ chết.có lẽ cái rùng rợn buổi đầu ấp sâu vào tâm hồn tác giả. Những chiến sĩ lưa thưa giữa nghìn trùng rừng núi chắc cảm thấy mình”cheo leo chòi biên cương”, cảm thấy mình lạc đời. Những anh con trai Hà Nội lên đến đây cạo trọc đầu, hay là sốt rét rụng cả tóc, người mặc áo chàm hay là mặt lây sắc lá,hay là ốm tái màu da; giặc sợ các anh như sợ hùm :nhưng các anh dù thế nào cũng nhớ Hà Nội cho được:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Bài thơ chỗ thì đẹp, chỗ thì ghê, man rợ rồi lại êm ái; đoạn sau cùng đầy những tiếng từ ly. Những tên đất Sài Khao, Mường Lát, Pha Lương…ngân động. Đến cái tên Sầm Nứa thì câu thơ buồn mà hay quá; hồn đây là tâm hồn người sống nghĩ chuyện bên Lào:
Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
VI  BÌNH của Nguyễn Khôi:
a) Bài bình 1:
Tây Tiến là một trong vài bài thơ hay nhất của thơ Việt Nam 1945-2000. Đọc Tây Tiến,ta cứ ngỡ như đang đọc một bài Cổ phong-Tương tiến tửu (của Lý Bạch) đương đại? Cái lối “tráng sĩ hề”-một đi không trở lại ngang tàng hào hoa của các chàng trai Hà Nội (thời 1946). Với thủ pháp nghệ thuật độc đáo theo kiểu 1 câu chia 2 vế âm /dương đối nhau:
dốc lên khúc khuỷu/dốc thăm thẳm
heo hút cồn mây/súng ngửi trời…
đã tạo sự cân bằng hằn vào trí nhớ của người đọc; còn “đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm” là câu thơ để đời “tử bất hưu” nghìn năm mới mới xuất hiện!
Cái tài hoa của thi sĩ về mặt dùng “chữ” thì xưa nay ít ai có được,ví dụ như: trong bài thơ có 3 chữ “Hoa” (hoa là ám chỉ về con gái-phái nữ):
– Câu “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” đây là cái “cảm” của Nhà thơ về cái mùi thương yêu ấy (trong bài thơ “Gửi Tuyên Quang” của NK viết sau 45 năm cũng có cái “cảm” đồng điệu ây:
Đêm Hà Nội đã nhạt mùi hoa sữa
tưởng tóc ai phảng phất hương rừng…)
– Câu “đêm trại bừng lên hội đuốc hoa”:Đuốc hoa đây là “hoa chúc” tưng bừng của cái”kìa em xiêm áo” với “nàng e ấp”…
– Câu “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”, Ai đã từng ”đi Châu Mộc chiều sương ấy” đây là vùng thượng nguồn Sông Mã chung giữa ta và Lào (Sầm Nưa) thường là đi thuyền mà Câu thơ Sống Chụ Son Sao đã tả “hoa Áy rờn trôi ngang Sông Mã” đôi bờ là hoa rừng và các cô gái Thái (VN) - Lào ra sông tắm giặt…
Câu kết “hồn về Sầm Nua chẳng về xuôi” là thể hiện”làm trai có chí xông trời thẳm” của anh Bộ đội Cụ Hồ đi giải phóng dân tộc với tinh thần Quốc tế cao cả!
Quang Dũng với Tây Tiến đã góp phần đưa thơ Việt Nam đương đại lên môt dỉnh cao nghệ thuật lãng mạn cách mạng,hoành tráng với tâm chí “Nay ở trong thơ nên có thép” thật là tuyệt vời Xưa nay hiếm là vậy!
b) Bài bình 2 (đăng trong thông tin Họ Bùi ở Việt Nam):
Cho đến nay Tây tiến vẫn là một đài thơ (Thi Sơn) đầy kỳ bí. Cái ma lực, cái âm hưởng của bài thơ Tây tiến…chưa ai lý giải hết được. Phải chăng cái hay là bởi lời thơ,ý thơ,hình tượng thơ Giầu nhạc điệu được chứa trong một hồn thơ thật mới lạ và rất sâu sắc? Con người nồng hậu, nét bút tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ đã làm nên kiệt tác thơ Tây tiến. Cái độc đáo của bài thơ là không có cấu tứ, cái kết của bài thơ (của cuộc hành binh) lại không nằm ở cuối bài mà lại nằm ở 2 câu 13 = 14/34:
Nhớ ôi,Tây tiến cơm lên khói
Mai châu mùa em thơm nếp xôi
Với Tây tiến, Quang Dũng dưa ta đi vào một thế giới đầy mùi hương hoài niệm, của sự vọng tưởng diệu huyền. Với Tây tiến, Quang Dũng đã xây tượng đài về anh Bộ đội Cụ Hồ (Vệ Quốc Đoàn-Vệ Út-Vệ túm-lính râu ria) thời kháng chiến 9 năm đầy gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng-Cái buổi đầu đi làm cách mạng của những trai tài gái sắc đất Hà thành(và ven ĐÔ) hiên ngang,hào hoa phong nhã, cái thời ”chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh” (tả thực) với “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” (lãnh mạn).
Bút pháp bậc thầy của Tây tiến là Nhà thơ đã vận dụng sáng tạo kỹ xảo thơ truyền thống (thơ Đường) với “phép đối” trong từng câu, đoạn thơ,từng khổ thơ tạo ra 2 vế âm/ dương ,tương phản trong một “Trường đối nghịch” (thủ pháp đối lập) nhằm tô đậm ý tưởng ”không ca ngợi một chiều” mà là phản ánh đúng hiện thực của cuộc chiến…đó là sự đói chọi,sự tàn khốc của chiến tranh lấy ý chí (Việt Nam) chọi lại sắt thép(thực dân Pháp). Thủ pháp đối ý, đối âm trong Tây tiến với những câu thơ ăm ắp hồn chiến sĩ,tạ nên khẩu khí bi tráng của toàn bài. ĐÓ là lối diễn đạt độc đáo, cao thủ mà hình như chỉ riêng Quang Dũng một mình trong cõi thơ ”dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/heo hút cồn mây súng ngửi trời” để Tây tiến ở một vị trí tượng đài vút lên trời xanh giữa núi rừng Tây bắc hùng vĩ của Tổ Quốc!
Trong Tây tiến có một hình tượng thơ đã làm không ít người thắc mắc, đó là ”có nhớ dáng người trên độc mộc/trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”…đó chẳng qua là một từ HOA ”ẩn dụ” cảm từ câu ca dao Xứ Mường ”trăm thứ hoa không bằng hoa con gái” mà con gái Thái-Mường là “bông hoa rừng” chèo thuyền độc mộc đưa Bộ đội qua sông đang mùa nước lũ…Qua rồi để nhà thơ lãng mạn lưu giữ một bóng dáng cô lái đò trên “Châu Mộc chiều sương ấy” cứ đong đưa trong con mắt Người Sơn Tây đẹp đến lạ lùng.
 Cái chết (hy sinh) của người chiến sĩ nay không phải là “da ngựa  bọc thây” mà là ”chiến bào thay chiếu anh về đất” để Sông Mã gầm lên như súng thần công bắn vang trời tiễn đưa người anh hùng…
Dùng cái bi, cái mất mát để tôn vinh cái hào hùng…Với cảm hứng lãng mạn cách mạng được đặc tả trên cái nền hiện thực đã tạo nên âm hưởng, ma lực kỳ diệu của bài thơ Tây tiến rất kinh điển mà cũng rất hiện đại- Đó là một trong những bài thơ hay nhất của thơ Việt Nam thế kỷ XX đặt trong hành trang ta mang theo đi vào thế kỷ XXI, hội nhập cùng làng thơ thế giới hôm nay. 
VII Trao đổi với bạn ý Như:
Về 2 bài thơ TÂY TIẾN và ĐỒNG CHÍ:
Theo thiển ý của NK thì 2 bài này đều viết về NGƯỜI LÍNH, đều do 2 Nhà thơ Lính, cùng thời viết ra nhằm ca ngợi, tôn vinh Anh Bộ đội (thời kháng chiến 9 năm chồng thực dân Pháp xâm lược ); Hai bài thơ này đều thuộc “diện” THƠ HAY (trong số 100 bài thơ chọn lọc thế kỷ 20-nxb Hội Nhà Văn 2007), được nhiều người yêu thích và đều được đưa vào Sách Giáo khoa giảng dạy trong Nhà trường CHXHCN VN. Tuy nhiên, cách bình phẩm,cách thưởng thức 2 bài thơ này,với riêng NK cảm nhận thì:
-Bài TÂY TIẾN là 1 trong 5 bài thơ vào loại HAY NHẤT trong số 100 bài chọn lọc kể trên; Với bút pháp Hàn Lâm, đó là con chim đại bàng vẫy lên đôi cánh mênh mông trên trời thơ xứ Việt…Nó đẹp hoành tráng,kỳ bí-đọc phải suy ngẫm, rất nhiều ý tại ngôn ngoại…chắc là kể cả mai sau, TÂY TIẾN còn tốn nhiều giấy mực người đời bình phẩm về nó? 
– Bài ĐỒNG CHÍ, với bút pháp bình dân, đó là thứ ca dao được chắt lọc cô đọng: lời lẽ ngắn gọn dễ hiểu, vừa tầm với những người Nông dân (bần cố) mặc áo Lính (thời 1947), đó là Con chim Sáo, chim Bồ câu gần gũi thân thương với quảng đại quần chúng thời buổi đầu Cách mạng. 
VIII Đôi lời kết:
Tây Tiến ra đời đến nay đã qua 62 năm, bài thơ cũng như thân phận tác giả đã nếm đủ nỗi thăng trầm thế sự, có một thời khá dài người ta đã cố ý” trẩm” (chìm) nó đi tưởng nó đã đi vào quên lẵng? – Nhưng không, thây giáo của NK từng bảo: chỉ sợ Thơ anh không hay thôi, con hay đích thực thì sẽ bất hủ Tây Tiến với Quang Dũng quả là vậy. Đây là TUYỆT CHIÊU của Quang Dung- một áng thơ đạt tiêu chí “kim cổ kỳ thi” của dân tộc Việt Nam ta, có bị “đánh” cũng không chết! Nó có thể sánh với HOÀNG HẠC LÂU của Thôi Hiệu, TƯƠNG TIẾN TỬU của Lý Bạch – những thiên thi ca kỳ bí, thiên hạ sẽ còn tốn nhiêu bút mục”bàn” về nó. Ở Việt Nam ta đương đại có 3 Thi sỹ Họ Bùi:
– Hoàng Cầm (Bùi Tằng Việt) với Lá Dieu Bông …
– Quang Dũng (Bùi Đình Diệm) với Tây Tiến, Đôi Mắt người Sơn Tây …
– Bùi Giáng với Mắt Buồn …
Đó là 3 trái Núi thơ (Thi Sơn) sừng sững trên bầu trời thơ Việt đứng sau Nguyễn Trái, Nguyễn Du….Để cho ta tự hào về sự tài hoa trong sáng của tiếng Việt đầy ắp hồn quên. Để thêm yêu tiếng Việt như “ngàn mày tràng giang” say muôn đời.
Góc thành nam Hà Nội ngày 7-10-2010
Bài 19: TÌM HIỂU CÁCH LÀM THƠ CỦA NGƯỜI XƯA
Con người ta sở dĩ bay lên được là nhờ hai cái cánh: văn học và khoa học.
Văn là người có học vấn (trái với võ), văn hóa là dùng văn tự (chữ nghĩa) mà giáo hóa con người. Bậc thánh nhân thì́ lập đức, danh tướng lập công, sỹ đại phu lập ngôn.Thi thư là những bộ môn rường cột của văn học.Thuở sơ khai, các bậc huynh trường dùng thơ ca để dạy con em, để chúng trở thành người chính trực ôn nhu, rộng lượng, kiên nghị, cứng cỏi mà không thô bạo, giản dị mà không ngạo mạn.Thơ dùng để nói chí, ca dùng để ngân dài lời thơ.Thơ ở trong ḷng là chí, phát ra lời là thơ (chí có nghĩa là dừng ở trong lòng nên nó được gắn với hai chữ tình và lý).
Ông cha ta xưa làm thơ là học theo lối Đường-Tống: “Nhà thơ khi có thi hứng thì hồn thơ cất cánh bay bổng lên những khoảng trời cao rộng. Luật lệ quy tắc (các thể thơ) là để điều khiển cái hứng, giúp cho lối phô diễn được hoàn hảo, đẹp đẽ hơn, du dương hơn chứ không phải để bóp chẹt cái hứng, phải biết vứt bỏ luật lệ để giữ cái hứng, chứ không nên hi sinh cái hứng cho luật lệ.Thơ là để tả nỗi lòng, tả bằng hình thức nào cũng được (cổ phong,luật thi..)Hễ tả mà cảm động được lòng người là mục đích đã đạt.Thơ không phải chỉ là những chữ ghép cho thành vần, cho có đối, cho đủ bằng trắc.Các bậc tài hoa theo luật mà không chịu nô lệ nó. Họ biết phá luật để theo hứng, đã tạo nên những bài thơ bất hủ như “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu, “Anh Vũ Châu” của Lư Bạch, “Đăng Cao” của Đỗ Phủ …đều thoát khỏi sự câu thúc của niêm luật”. Sự tác động qua lại của thi hứng và luật lệ có thể tăng cường hoặc trói buộc thi hứng – nhà thơ phải lao tâm khổ tứ để tạo được những bài thơ hay là thế.
Công việc làm thơ đầu tiên là luyện chữ: cách dùng “từ”(chữ) như thế nào, bố cục thơ ra làm sao. Đỗ Phủ đă tâm sự “ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu”(chữ chẳng kinh người, chết chẳng yên).Bì Nhật Hưu thì nói ”bách luyện thành tự, thiên luyện thành cú” (trăm lần luyện mới thành chữ, nghìn lần rèn mới thành câu. Đến luyện câu thì khởi – thừa –chuyển – hợp như thế nào, khử đối ngẫu ra làm sao, luật bằng trắc ra sao, gieo vần thế nào? Luyện chữ đă khó, (ví dụ “chữ mắt“ (nhăn tự) đặt ở đâu để nó tỏa sáng. Câu thơ hay phải có chữ hay đó là những hạt linh đan làm cho đá biến thành vàng. Luyện chữ để cho chữ linh hoạt, sống động, cựa quậy, không nằm bẹp trên trang giấy). Luyện câu lại khó hơn, rồi đến luyện ý (tạo ý mới, tứ lạ) và bao trùm là luyện cách…thơ không có “thi cách” (phong cách riêng của từng nhà) thì coi như vứt đi, loại bỏ. Bảng nhãn Lê Qúy Đôn từng dạy: ”một bài thơ hay phải có đủ t́nh, cảnh, sự – mà trong đó Tình là người, Cảnh là trời, Sự là hợp cả trời đất mà quán thông…”
Người xưa dùng đạo lý SÁNG/TỐI để tìm hiểu thơ ca, với quan niệm ”nhìn không thấy không phải là không có, mà là chúng ta không thấy mà thôi”.Ví dụ: mặt trăng vào thượng tuần đến ngày mùng 7, mùng 8 nó mới xuất hiện 1 nửa, c̣n một nửa kia không thấy được.Cái nhìn không thấy ấy là đạo lý, điều mà ta nh́n thấy là sự thật.Ta dùng hình tròn của mặt trăng để biểu thị THI VŨ (vũ trụ thơ) khi mặt trăng hiện ra hình bán nguyệt, một nữa phát sáng để biểu thị mặt sáng trong thơ, nửa kia không phát sáng đại biểu bằng hư tuyến(màu đen) để biểu thị mặt tối trong thơ, hai mặt này đồng thời tồn tại.
Mặt biểu hiện bề ngoài của thơ (mặt sáng) ta thấy được đó là phong cách của thơ, ư và t́nh được diễn đạt bằng cú pháp, luật bằng trắc, cách gieo vần bằng các con chữ, ấy là mặt ta có thể thấy được (hiển hiện trên mặt giấy viết); c̣n những cảm thụ mà thơ mang đến cho ta (cái thứ ẩn dụ, ý tại ngôn ngoại, một thứ “tiếng thầm” – đáo địa nhất vô thanh (là mặt tối) ta không thể trông thấy nhưng ta cảm được.Sự linh diệu, thần diệu của thơ là vậy.
5 BƯỚC CỦA VIỆC LÀM THƠ
Bước 1: Mới bắt đầu học làm thơ
Đó là đi từ các con chữ ghép vần theo thể thơ (5 chữ, lục bát, 7 chữ …) tiếp là “theo thơ t́m lư” (đạo lý) trong thơ có lý:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
- Đồ Chiểu
Bước 2: Đã biết làm thơ theo các thể loại một cách thành thạo (ví dụ: lục bát là phải có “vần”) trong thơ có lư (tức là bài thơ đă có nội dung để nói lên một tư tưởng nào đó) với ”từ lư bàn thơ” tức là nội dung và h́nh thức phải “ăn khớp” nhau.
Bước 3: Làm thơ đă có thành tựu
Đã làm được các bài thơ gọi là có giá trị truyền cảm nghĩa là đă đạt tới mức”thể dụng như nhất”,”lý chính là ở nơi thơ” ”trong thơ có lư”.
Bước 4: Thành NHÀ THƠ (thi nhân)
Lúc này trình độ đă đạt “dùng thể để hiển dụng”, dùng lư để luận thơ, dùng lư để thành thơ.
Đó là các Nhà thơ đạt tiêu chí ”Thi sỹ” – thơ của các vị này đă có “thương hiệu” , đă có những câu thơ, bài thơ Hay cho người đời biết đến, ngâm nga thưởng thức, đă có thơ trong các Tuyển Tập Thơ Quốc Gia.
Bước 5: Thành “Thi Hào”
Đó là nhà Thi sĩ đại danh (grand Poète)
Đó là thơ đã đạt trình độ “thể dụng đều mất” “biến hóa không dấu vết”, nghĩa là “thơ thành lư lập”.Đó là các vị như Lư Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, Nguyễn Trăi, Nguyễn Du…
Tuy vậy các bậc tài hoa ấy lại rất khiêm tốn:
*Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương”
- Viên Mai
*Thi phú suốt đời, vô ích thật
Sách đàn đầy giá, có ngu không!
- Nguyễn Du
Ngày nay chúng ta làm thơ theo lối “thơ mới” là đă tiếp thu, vận dùng nhuần nhuyễn cái “cách” ẩn dụ của thơ Đường, tính tượng trưng của thơ Pháp để có những Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử, Nguyễn Bính, Hữu Loan, Quang Dũng, Bùi Giáng… với những vần thơ đọc lên xao xuyến ḷng người, rất hiện đại và đầy bản sắc Việt – đó là những chiếc “áo lụa Hà Đông” của người Việt Nam ta : ĐẸP, nền nă, tươi mát để cho các Thi khách ta đi vào thi đàn thế giới với một tư thế đàng hoàng, cao sang và đầy ấn tượng.
Góc Thành Nam Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2009
Bài 20:BÙI GIÁNG VỚI MẮT BUỒN
(Tặng: Bùi Trần Tự)
Thi sĩ Bùi Giáng (1 trong 3 thi hào đương đại Việt Nam: Hoàng Cầm (Bùi Tằng Việt), Quang Dũng (Bùi Đình Diệm).Ông sinh năm 1926 tại Quảng Nam (nguyên quán: Vĩnh Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam), từ trần ngày 7-10-1998 tại Tp HCM (Sài Gòn) thọ 72 tuổi.
Bùi Giáng nổi tiếng về thơ “lục bát cách tân”, Ông đã in 7 tập thơ.Ngoài thơ, Bùi Giáng còn viết sách giáo khoa, bình luận Truyện Kiều, Bà Huyện Thanh Quan, Phan Văn Trị…Dịch nhiều tác phẩm Văn, Triết từ tiếng Pháp, tiếng Đức ra Việt ngữ.
Có ý kiến cho rằng: ”Văn học Việt Nam hiện đại có hai “đột phá khẩu” trong ngôn ngữ văn chương là Văn Nguyễn Tuân và Thơ Bùi Giáng”? Trước cả núi tác phẩm độc đáo “khó đọc” với cái bút pháp “xí lắt léo” có một lối chơi ‘cà ngẳng”, “cà rỡn” trong thơ cũng như cuộc đời đầy kỳ bí cuồng si của Thi sĩ để hậu thế còn tốn nhiều giấy mực luận bàn về Thơ & Đời Bùi Giáng.
Cũng như các vị tiền bối Nguyễn Du, Tú Xương…luôn tỏ ra vô cùng thương cảm cái biệt nghiệp “hệ lụy nhân sinh” của “Tấn trò đời” (Balzac) mà xưa nay là cái thói riêng của “giống hữu tình”. Ông sinh ra gặp thời loạn lạc, lớn lên bao nõi ưu phiền. “Con mắt thơ” nhìn đời thấy mọi giá trị đảo lộn. Nếu coi thơ là thế giới ảo, thì ông là Thi sĩ đi giữa hai bờ thực/ ảo cuộc đời ở trong vùng Nam Bộ- nam Trung Bộ suốt một thời đảo điên (1945-1975).Năm 1965 ông viết như một lời tự thuật:
Sơ sinh phát tiết muộn lời
Tâm hồn như lộc, trang đời như điên
Muộn lời chậm tiếng đầu tiên
Liền tâu Thần nữ mối phiền lão phu.
(Đề từ tập Rong Rêu)
Thây kệ đời ô trọc, ông “điên” giữa phố thị Sài Gòn. ông là Đười Ươi trong rừng rú còn hơn “lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ”. Đó là cái điên của một con người đã hồn nhiên tin rằng : cuộc đời là một cuộc chơi, ngao du cho qua ngày tháng.Thơ Bùi Giáng cho ta hình ảnh một gã Trung Niên Thi Sĩ khờ khạo đến sâu sắc, ngủng ngẳng một cách nghiêm túc, điên một niềm tin trí tuệ rất triết học thành ra VÔ NGÔN, quê mùa. Thơ Bùi Giáng là tiếng lòng không bình yên, ông đã phá chấp một cách Vô thức, đáng yêu. Con người mang tiếng điên (một dạng cuồng sĩ) cứ nhón chân để rình bắt chính mình (nói như T.V Thiên An).
Thơ Bùi Giáng là một týp thơ “bụi”, chịu chơi, phóng khoáng của “Bác hai Nam Bộ” (kiểu bác Ba Phi), không ít những câu thơ quý hiếm, lạ lùng… mới bập vào tưởng là Dân gian, đọc ngẫm nghĩ thấy rất Hàn lâm Bác học- đó là một tài thơ đặc biệt trên Thi đàn Việt Nam hậu thế kỷ 20.
Yêu nhau, ngàn vạn não nường
Biển dâu lớp lớp mộng trường so le.
Hiểu như Tản Đà (đời là một giấc mộng) thì ở Bùi Giáng là một cách diễn tả hình tượng thơ thật đọc đáo: vừa truyền thống vừa hiện đại là vậy.
MẮT BUỒN
Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão giông
Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng
Tạ từ tháng chạp quay nghiêng
Ấm trang sử lịch thu triền miên trôi.
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu, bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên đời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con.
Bùi Giáng
BÌNH: Đọc Bùi Giáng là ta du hành lang thang vào cõi thơ, miền tâm thức của ông (cõi miên trường) qua mọi ngõ ngách của mộng, của tình, của lẽ tử sinh, của nỗi xao xuyến bàng hoàng của một Trung Niên Thi Sĩ “ngày xưa ông ấy là Giáo sư, ngày xưa ông ấy làm thơ, ngày xưa ông ấy giầu có lắm, ngày xưa ông ấy là Tô Vũ chăn dê…Ông ấy uống rượu dưới trăng khuya, đọc thơ nơi quán vắng. Đó là một chàng Thi sĩ ôm trái tim cô đơn, lãng tử, tình yêu đơn phương (người chẳng yêu ta, ta cứ yêu),làm bạn với nhiều trăng gió, phấn hương…Cái hình dáng xưa ấy tuy đã bị “bóng mây trời cũ hao mòn” nhưng trong tâm hồn chàng thì không bao giờ chịu cũ? và đến khi chỉ còn; Bây giờ riêng đối diện tôi” thì bồng nhiên Người ấy cứ hiện về. Thương người để quá thương thân .
“Gái một con trông mòn con mắt” như trước mặt mà đã tuột khỏi tầm tay…Tất cả chỉ còn trông theo và tiếc nuối…Người ta đã an bài ngời ngời hạnh phúc! -còn ta? “còn hai con mắt khóc người một con” thật là não nuột, thật là chung tình, thật là thơ mộng. thật là khờ khạo…thật là đáng yêu vì tình chỉ đẹp khi tình dang dở kia mà?!
Và…chỉ có Trịnh Công Sơn (Nhạc sĩ số 1 Việt Nam) là đủ tài hoa để chia sẻ nỗi đau cùng Thi sĩ “còn hai con mắt khóc người một con/ còn hai con mắt một con khóc người/con mắt còn lại nhìn đời là không/ nhìn em hư vô, nhìn em bóng nắng…nhìn em ra đi, lòng em xa vắng…”
Chao ôi, thơ với nhạc- đôi bạn lòng tri âm tri kỷ để MẮT BUỒN của Bùi Giáng… đưa ta về cội nguồn của nỗi đau đời đầy ngẫu nhiên và phi lý, nhưng vẫn còn “mai sau hẹn với ban đầu/ chờ nhau ngõ khác ngõ màu nguyên xuân”.
Góc Thành Nam Hà Nội 21-1-2005 
Thân tặng…
Bài 21: Về Câu Thơ ”Lá trúc che ngang mặt chữ Điền”?
Kể từ khi Tử viết bài thơ “Đây thôn Vỹ DẠ” gứi Cúc đến nay đã được 71 năm…mà cái “án” văn chương này còn biết bao điều kỳ bí để người đời tốn biết bao bút mực (hàn mặc) bàn tán về Nó? Đấy là cái duyên thơ, cái “son phấn có thần,thơ vô mệnh” cho dù người viết tặng và người được tặng đã đi vào thiên cổ nhưng Thơ thì vẫn cứ làm day dứt lòng người yêu Nó?
Nguyên tác bài thơ là “Ở ĐÂY THÔN VỸ GIẠ”- Thi sĩ viết khi đang nằm trên giường bệnh(1939) là lúc Hàn Mạc Tử đang đau khổ lánh mình với nguồn thơ tuôn 2 dòng lệ…rồi chết sau đấy đúng 1 năm tròn! Đây là tình yêu đơn phương của Tử với Hoàng Thị Kim Cúc( bút danh “Hoàng Hoa thôn nữ”) - HMT sinh 22/9/1912 Nhâm tý.HTKC sinh 5/12/1913 Quí sửu- trai hơn 1 đẹp đôi, nhưng Nhâm/quí thì thôi rồi…Số là mùa hè năm 1939 Cúc nể tình Người em họ (Hoàng Ngâm- bạn thân của Tử) khuyên ” Chị nên viết thư thăm Tử (mặc dù không yêu) hãy an ủi 1 tâm hồn đau khổ” thay vào viết thư, Cúc đã gửi 1 bức ảnh chụp phong cảnh nhỏ vừa bằng cái Carte Visite. Trong ảnh có mây có nước,có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò,có mấy khóm tre (không có cau), có cả ảnh ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước…Cúc viết mấy lời thăm sức khỏe sau bức ảnh mà không ký tên, rồi nhờ Ngâm trao cho Tử.Sau đó 1 tháng Cúc nhận được 1 bì thư trong đó có bài thơ ” Ở đây thôn Vỹ Giạ” cũng do Ngâm gửi về cho chị. Đây là một sự “không ngờ” về sức tưởng tượng phi thường của Thi nhân quá khác thường: đã biến bức ảnh thành hình ảnh Bến sông Thôn Vỹ Giạ lúc hừng đông hay đêm trăng, trong đó có cả Cô gái “lá trúc che ngang …” làm người ta liên tưởng là cô gái đó mặc áo trắng vì câu “áo em trắng quá nhìn không ra” rất ảo huyền viễn mộng…Bài thơ Tử ký 11/1939.
Ở ĐÂY THÔN VỸ GIẠ
Sao anh không về chơi thôn vỹ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Bài thơ mở đầu như “thác” lời của Cúc gửi Tử, rồi là niềm tâm sự của thi nhân với ”ý trung nhân” – “mặc Nàng không yêu, ta cứ yêu” Nàng Thơ của lòng ta ?. Bài thơ có 2 cái đáng chú ý:
*-1,Nguyên tác “Ở đây thôn Vỹ Giạ”. Chữ ”Ở” Thi sĩ dùng có chủ ý nhằm nhấn mạnh cái tên Thôn Vỹ “ở đây sương khói mờ nhân ảnh” (tình yêu với Cúc chỉ là ảo, sương khói mà thôi…).
*-2, Về Cô gái trong “Lá trúc che ngang mặt chữ Điền” đó là cô gái do sức tưởng tượng của Thi nhân mà hiện ra thôi “…Nay ta xem lai di ảnh Nhà Giáo- cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc (1913-1989) thì đúng là Cúc có khuôn mặt chữ ĐIỀN phúc hậu…chứ không phải như ai đó (Thang Ngọc Pho và V,V…) quả quyết đó là chữ ĐIỀN- Hán tự đắp nổi ở “mặt trước phía trên cổng các nhà Quí tộc Huế ” hay ở các tấm bình phong trước nhà…
Cảm thương về chàng Thi sĩ tài hoa từng thầm yêu trộm nhớ mình, nay đã khuất…”Hoàng Hoa thôn nữ” đã âm thầm viết bài thơ (và ở vậy suốt đời?):
ĐỀ TẶNG HƯƠNG HỒN ANH HÀN MẠC TỬ
Bao năm Hoa sống nơi thôn Vỹ
Thầm giữ trong lòng một ý thơ
Cũng biết cách xa ngoài vạn dặm
Tình anh lưu luyến cảnh quê mơ
Một mình một cõi với trời mây
Với cả đau thương với hận này
Anh khéo lột hết tài nghệ sĩ
Tiếng vang muôn thuở vẫn còn đây
Hồn anh lẩn khuất ở đâu xa
Hoa biết cùng ai thổ lộ ra
Tuy sống giữa cảnh đời náo nhiệt
Tình ai ai vẫn cứ đậm đà.
Đầu xuân Tân tỵ-1941
Hoàng Hoa
NK tôi vốn yêu thơ Hàn Mạc Tử từ khi còn đi học, mùa hè năm 2006 vào Huế đến Thôn Vỹ Giạ tìm dấu Người xưa, cảm tác:
HỌA THƠ THÔN VỸ
Đã bao người họa Thơ Thôn Vỹ?
Dù mới ngang qua đã chạnh lòng
Thoáng nét thôn xưa chừng bỡ ngỡ
Gieo chút buồn xưa để bâng khuâng
Sao không về lại…ai kia nhỉ?
Cứ như Lá trúc chắn nẻo về
Thà cứ là mây theo lối gió
Xin mãi là Trăng trong mộng mê
Ừ, sao ta không về Thôn Vỹ?
Tìm dấu Người xưa để ngẩn ngơ
Tình như sương khói mờ nhân ảnh
Để vẩn vơ hoài Thơ với Thơ.
Huế 6-2006
Nguyễn Khôi
Bài 22 Về câu thơ: “Mỹ nhân tự cổ như danh tướng”
Giới làm thơ ngày trước ai mà chả thuộc 2 câu thơ cổ:
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu
tạm dịch:
(Người đẹp từ xưa như tướng giỏi
Chẳng hẹn chờ ai thấy bạc đầu)
Còn xuất xứ 2 câu này ở đâu? ( Đường thi,Tống thi ư? chủ nhân của 2 câu thơ bất hủ đó là của ai?…thì để còn “hỏi Thầỳ”, tra cứu kho tàng chữ nghĩa Trung Hoa đã? Rồi ậm ừ qua vài trăm năm…có dư…
Thế rồi,có một “con mọt sách” ĐỤC xuyên qua cuốn ”Tùy Viên thi thoại” của Viên Mai (đời Thanh) gồm 16 quyển và 19 quyển “bổ di”- tổng cộng là 26 quyển, dịch ra tiếng Việt dày ngót 1000 trang, khổ 16×24…đó là một thứ “tùy bút” nhàn đàm về Thơ, với quan điểm:
Chịu khó tìm Thơ sẽ có Thơ
Tâm linh điểm ấy chính Thầy ta
mà điều kiện cần có của Người làm thơ là 3 chữ “tài, học và thức (kiến thức) - thiếu 1 đều không được!
Tùy Viên tiên sinh kể rằng: Người bạn (của ta) là Quan Thị độc( cỡ Viện trưởng-cố vấn cho vua) họ Đông có việc phải rời Kinh thành đi Thiên Tân công cán,qua nhà họ Tra, gặp Tiến sĩ Đồng Duệ, vị Tiến sĩ này có nói rằng:
- Thân mẫu Triệu phu nhân, không may sớm là góa phụ, đã ở vậy thờ phụ thân (không tái giá) nuôi dạy con cái nên người, lại hay chữ nghiã, thường làm Thơ…có bài tuyệt cú “cúng ông Táo” như sau :
Tái bái Đông Trù Tư mệnh thần
Liêu tương thanh thủy tiễn hành tôn
Niên niên phá ốc đa trần thổ
Tư nhứ phu vong tử ấu nhân
Tạm dịch:
Kính xin thần bếp Đông Trù
dâng ngài chén nước tiễn đưa cầu trời
Bao năm phá (nhà) cửa bụi rồi
Hãy thương mẹ góa con côi một bầy.
Nhân đó, vị Tiến sĩ này kể thêm: ”Chú của tiểu nhân, có làm bài “Điệu vong cơ”, khóc Người thiếp (vợ lẽ) qua đời, nhiều người họa lại…trong đó có bài của Người thiếp họ Đông, tên là Diễm Tuyết, thì thật là tuyệt diệu. 2 câu kết của bài rằng:
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu
2 câu này,có tứ thơ khá gần với câu sau đây của thi sĩ Lạp Điền (đời Tống):
Bạch phát tòng vô đáo mỹ nhân
(mái đầu tóc bạc từ nay trở đi không bao giờ đến với người đẹp cả…)

Lời bàn thêm: Thật đúng như Bảng nhãn Lê Quý Đôn đã nói:
Văn chương là của chung thiên hạ
Ý mỗi người mỗi khác
Phân tích thì được
Chứ không nên chê mắng.
Còn Andre’ Che’nier (Pháp) thì viết:
Nghệ thuật chỉ làm nên bài thơ
Còn trái tim mới là Thi sĩ
Ở ta,năm 1934 Thi sĩ Leiba (Lê văn Bái) đã tâm đắc:
Người đẹp vẫn thường hay chết yểu
Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai?
Thế mới biết tài tử giai nhân xưa nay đều có chung một một “nỗi sầu nghìn thu ” rồi cùng làm thơ là vậy?
Góc Thành Nam Hà Nội -25-8-2010
Nguyễn Khôi
- thân tặng…
Bài 23: Hoàng Hạc lâu - ba bản dịch độc đáo 
Trong ”Toàn Đường Thi” (gồm 42.863 bài thơ của 2520 Thi sĩ đời Đường) - Nếu chỉ lấy 1 bài thơ tiêu biểu thì chắc là ai cũng chọn đó là “Hoàng Hạc Lâu” cuả Thôi Hiệu?
“Hoàng Hạc Lâu” thuộc hàng đệ nhất luật thi đời Đường.Tác giả của thiên kỳ thi tuyệt hảo này là Thôi Hiệu (?-754) người Bịện Châu (Khai Phong-Hà nam) đỗ Tiến sĩ năm Khai nguyên 13 (725) làm Quan tới chức Tư huân viên ngoại lang, hàm tứ phẩm (cỡ Vụ phó ngày nay). Ông tính lãng mạn, ham đánh bạc, rượu chè “của lạ” (thay vợ đến 4 lần). Hồi trẻ thơ ông diễm lệ bóng bẩy,đến cuối đờiphong thái cốt cách mạnh mẽ rắn rỏi, sáng tạo tân kỳ có thể theo kịp Giang Yêm, Bão Chiếu…Ông khổ vì ngâm vịnh đến trở bệnh xanh xao hốc hác cả người (hết mình vì thơ là vậy); Bạn ông nói đùa ”không phải Bác bệnh đến như vậy, bởi khổ vì ngâm thơ nên gầy thôi”!
Lầu Hoàng Hạc xây dựng từ thời Tam Quốc, vốn là “tửu quán” -đó là 1 trong tam đại danh lâu của xứ ”Giang Nam hảo “nơi hội tụ cuả các văn nhân tài tử đến đây uống rượu và làm thơ…Theo sách ”Cổ đại thi tứ cố sự” thì Thôi Hiệu đề thơ ở Lầu Hac Vàng ở tư thế: thi sỹ nhìn Hán Dương ở bờ sông bên kia, “Tình Xuyên Các” bị che lấp trong ráng chiều ta, bãi Anh Vũ giữa sông phủ một lớp cỏ dày…
Thầy giáo của NK đã từng giảng giải: cái diệu của Thôi Hiệu ở chỗ chỉ một câu tả “Lầu”, còn 3 câu kia đều tả “người xưa”… trong đó câu 1 là tả “người xưa”, câu 3 là nghĩ “người xưa”, câu 4 là ngóng “người xưa”, cứ như phớt lờ không nhắc gì đến “lầu”.Câu 5-8 tiền giải là tả “người xưa”, hậu giải tả “người nay”, tuyệt nhiên không tả đến “lầu”… Thi sỹ chỉ nhất ý tựa cao trông xa, riêng thổ lộ hoài bão của mình. Rồi “hương quan hà xứ thị” (ở nơi này) với cây thì “lịch lịch” (in rõ), bãi thì “thê thê” (tươi tốt), riêng có mắt thì ngóng “hương quan” là không biết “hà xứ” (nơi nào). Rồi với hai chữ “nhật mộ” (chập tối lúc chim về tổ, gà vào chuồng) đặt ngang lên câu thơ làm cho 24 con chữ trong 4 câu tiền giải cùng nhảy múa tạo nên tuyệt tác để “đời sau đừng ai làm thơ về Hoàng Hạc Lâu nữa mà chuốc lấy hổ thẹn.”
Vâng, đúng là thế: cái diệu của Thôi Hiệu là trong 8 câu, chỉ có một câu nói đến Lầu (câu 2).Câu 3 “Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản” là câu rất đặc biệt: dùng liên tiếp 6 chữ “trắc” trong câu thơ 7 chữ, bất chấp luật bằng trắc, với bút pháp ấy khiến câu thơ mang sức mạnh (nội lực) khác thường.Để làm gì? – để nhấn mạnh cái ý “tiền bất kiến cổ nhân”
– “nhất khứ” là một đi – “bất phục phản” là không trở lại… câu này nói lên cái lẽ vô thường của mọi người, mọi việc.
Câu 3 đối câu 4: ý là thôi, đừng hoài niệm mãi nữa
Hoàng Hạc Lâu với cái ý tại ngôn ngoại đó là cái độc đáo của Đường thi mà nó là tiêu biểu số 1; và chính cũng vì lẽ đó mà xưa nay các nhà thơ ta đã bị Hoàng Hạc Lâu “thôi miên” ám ảnh, hết thế hệ này đến thế hệ khác lao tâm khổ tứ “dịch” nó, đến nay đã có ngót 100 bản dịch. Theo thiển ý của NK thì có 3 bản dịch đáng lưu ý là:
1.
Bản dịch của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục
(Nam Phong tạp chí – năm 1923)
Người tiên xưa cưỡi Hạc vàng cút,
Ở đây chi những lầu hạc trơ.
Hạc Vàng đã cút chẳng về nữa,
Mây trắng nghìn năm còn phất phơ.
Sông bạc Hán Dương cây xát xát,
Cỏ lên Anh Vũ bãi xa xa.
Ngày chiều làng cũ đâu chăng tá?
Mây nước trên sông khách thẫn thờ.

Đây là bản dịch khá chối tai (rất trúc trắc) nhưng khá công phu, khá già tay (túc Nho); công phu ở chỗ: theo sát nhạc điệu của nguyên tác, sát cả ở những chỗ sai niêm, thất luật.
2. Bản dịch của Tản Đà
In ở tạp chí Ngày Nay số 80, ngày 10-10-1937
Đay là một bản dịch tài hoa, bay bướm nhẹ nhàng, văn chương trầm bổng theo cung điệu lục bát (đượm hồn dân tộc). Ở nguyên tác đó là cái không khí mang mang day dứt nỗi bơ vơ hiu quạnh của thân phận con người, lạc lõng giữa trần gian trong một chiều nắng tắt.Mà thiên đường thì đã mù mịt lối về.Cái không khí Hàn Lâm ấy đã bị Tản Đà thuần hóa trở nên nhu mì, mềm mại, nhẹ nhàng, trôi chảy trong dòng ca dao (lục bát). Cái HAY của Tản Đà là ở chỗ ấy, nó vào hồn người Việt là vì lẽ ấy, nhưng đó cũng là cái hụt hẫng khi dịch như thế?
3. Bản dịch của Vũ Hoàng Chương
Xưa Hạc Vàng bay vút bóng người,
Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi.
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi,
Trắng một màu mây vạn vạn đời.
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu,
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi.
Gần xa, chiều xuống, đâu quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!
Như ta đã biết: Thôi HIệu (con người phát ốm vì làm thơ đã vận dụng hết 10 phần công lực phá vỡ luật thơ thất ngôn, sử dụng 6 thanh “trắc” liên tiếp mới nói được:
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch Vân thiên tải không du du
Để đến độ hùng tâm dũng khí như Đại thi hào Lý Bạch vẫn phải gác bút (đạo bất đắc) chịu thua, cúi đầu ra đi…
Còn thi sỹ Vũ Hoàng Chương sau 1000 năm thì ung dung rút kiếm, giữa trời thơ, phóng con mắt nhìn đời dõi theo cánh hạc đã mù khơi bay mất mà thong thả dụ dắt nó quay về trong cung bậc thất ngôn niêm luật (nói theo Tô Thẩm Huy). Đó là hai câu thực của Vũ bay bổng giữa trời ảo diệu:
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời
Một màu vàng lóe lên giữa trời vụt tắt, một màu vàng tung lên rồi vĩnh viễn ra đi, không bao giờ trở lại, nhưng mãi mãi lấp lánh trong tâm tưởng và thâm phận con người (kiếp nhân sinh). Đọc đến câu cuối “đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi thì là cả một trời Đường thi bỗng lay động”. Giá Thôi Hiệu phục sinh đọc bản dịch của Vũ thì chắc cũng bái phục: “Sóng ơi, sầu đã chín, xin người thôi giục,đó là sóng của bể dâu, hưng phế.”
Ta thử đọc lại hai câu theo âm Hán/ Việt:
– Yên ba giang thượng sử nhân sầu
– Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!
Thì sẽ thấy nội công thâm hậu của Vũ:
– Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Nếu đưa chữ “hạc” lên đầu câu:
– Hạc vàng tung cánh đi đi mãi
Thì cả một trời thơ lung linh tối sầm lại? Thi tài là thế – và có lẽ sau Vũ Hoàng Chương không ai nên dịch lại (Hoàng Hạc Lâu) nữa?
Góc thành nam Hà Nội ngày 27-3-2010
Nguyễn Khôi - Cẩn bút
Bài 24: LÝ BẠCH VỚI ANH VŨ CHÂU
Lý Bạch (701-762), người  thơ số 1 đời Đường, làm thơ tới mức xuất thần nhập hóa, người đời gọi là “Thi tiên”. Thơ Lý Bạch thường giống như mưa và gió tranh nhau bay, rồng cá biến đổi trăm lần, lại như sông lớn không có gió mà sóng tự gào, mây trắng trên không thay đổi theo gió, đúng là có thể nói quái dị lớn lao- đại danh bao trùm vũ trụ là vậy. Đỉnh cao Đời và Thơ của ông gắn với thời Thịnh Đường (Vua Đường Huyền Tông),sau loạn An- Sử (755-761) sang đời Vua Túc Tông, vì dính vào vụ Vĩnh vương Lân- năm 758 ông bị biếm trích tới Dạ Lang (Quý Châu). Trên đường đi đày qua Bãi Vẹt (Anh Vũ Châu)  bên bờ bắc sông Trường Giang, gần Hán Dương (Hà Bắc) thời Tam Quốc đây thuộc Đông Ngô nên khúc sông này gọi “Ngô giang”…Đây chính là nơi cai trị của Thái thú Giang Hạ “Hoàng Tổ”, con trai trưởng ông ta là “Xạ” làm Thái thú Chương Lăng, một hôm bày tiệc trên bãi sông; có người dâng chim Anh Vũ (Vẹt), Thái thú Xạ đưa lồng chim cho danh sĩ Nễ Hành và nói ” -xin tiên sinh làm bài Phú tả cho”- Nễ Hành hạ bút viết liền một mạch thành bài Phú, không ai thêm bớt được chữ nào, ngôn ngữ vô cùng diễm lệ. Sau Nễ Hành bị Hoàng Tổ giết, từ đó có tên “Anh Vũ Châu” để ghi lại sự tích bi tráng trên?
 Lý trích tiên, sau cái lần “đăng Hoàng Hạc Lâu” thấy thơ Thôi Hiệu ở trên đầu, rồi “đạo bất đắc” cúi đầu ra đi trong lòng còn vương vấn ”bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ thơm” thì nay lại đứng giữa ngay cái “phương thảo thê thê” này, nhớ tích xưa, đang cảnh đi đày, Thi sĩ cảm khái hạ bút:

        Anh Vũ lai qua Ngô giang thủy
        Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh
        Anh Vũ tây phi Lũng Sơn khứ
        Phương Châu chi thụ hà thanh thanh
        Yên khai lan diệp hương phong khởi
       Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh
       Thiên khách thử thì đồ cực mục
       Trường khâu cô nguyệt hướng thùy minh
- Anh Vũ Châu
  Dịch:   BÃI ANH VŨ
         Xưa chim Anh Vũ đến Trường Giang
         Anh Vũ đến nay bãi nổi danh
         Anh Vũ về tây , qua núi Lũng
         Bãi thơm mượt lá sao xanh xanh
         Khói tan, Lan hiện gió thơm nổi
         Đào nở bờ liền sóng gấm lan
         Khách biếm  trông hoài non nước thẳm
        Vì ai trăng sáng mãi mênh mang
        (Trần Văn Nhĩ)
“Anh Vũ Châu” không phải là tuyệt tác của Lý Bạch, nó xếp sau Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu với cái duyên nợ cùng “phá luật thi” : câu 3 và câu 4 trong nguyên bản “không đối” về ý và từ. Theo Kim Thánh Thán thì : 
 (1-4) Tiền Giải (đi từ không đối đến đối) giải này hẳn là mô phỏng Hoàng Hạc Lâu, nhưng chữ “khứ” lại lạc đến cuối câu 3, đó là “một con cua không giống một con cua vậy, nhất giải như nhất giải”.Nhờ được 7 chữ của câu “Phương châu” mà chợt nổi lên mạnh mẽ, nếu không thế thì chỉ như một ông lão hèn cất bút ngâm vang, mong sao khỏi đói. 
Lý tiên sinh anh hùng khi mà người thường không tự tiếc làm như vậy-“phương thảo chi thụ hà thanh thanh” chỉ với 7 chữ đó mà làm cho ngoời ta lòng mắt mờ mịt biết bao, không xét đến khói, đến như vậy là hết nước . 
 (5-8) Hậu giải :(đối đến không đối): Các câu 5 -6,”lan điệp…phong khởi”,”đào hoa lãng sinh”, chính là 2 chữ “thử thời” (lúc này) trong “thử thời cực mục” vậy. Chữ “phong”, chữ “lãng” nói rằng : ta muốn đoạt thuyền căng buồm, hô gió phá sóng thẳng lên Kinh đô Tràng An (nơi Vua ở, hi vọng được trọng dụng) bức xúc lắm rồi, ta không thẻ chờ đợi 1 khắc (giờ) nào được nữa (ảo mộng), thế nhưng “mây nổi kín trời, trăng sáng không soi (cô nguyệt) - đó là thực tại cô độc phũ phàng, vô vọng, thì rốt cuộc không biết làm sao? Bi kịch là tuy”oán” mà không dám “chê” bai Thánh chủ (nhà Vua đã sai chém đầu Lý Bạch vì tội đi làm mưu sĩ cho Vĩnh vương Lân làm phản triều đình!? - Sau thấy oan đã ân xá) cho nên mới hỏi ”trường châu cô nguyệt” (trăng lẻ bãi dài).. 
  Chao ôi, Thơ là Người, thơ là Đời…là thân phận con người bị sóng gió cuộc đời dập vùi, nên dù lãng mạn như Lý tiên sinh thì vẫn phải chịu cái đau nhân thế phũ phàng,chính trong cái cảnh bi phẫn ấy Nhà thơ đã viết “Anh Vũ Châu” để gửi gắm niềm tâm sự ” với cái sầu nghìn thu” làm sao mà giết được?! 
Góc Thành Nam Hà Nội 26-3-2011 
Nguyễn Khôi
Bài 25: Đọc lại bài thơ Lý Bạch: TẶNG UÔNG LUÂN
Tương truyền đời nhà Đường, vào năm Thiên Bảo thứ 13 (754) có Uông Luân là một Hào sĩ ở Kinh Xuyên, tuy tài năng không thể so sánh với Lý Bạch, nhưng ông cũng là dòng dõi hào kiệt, đã từng làm Huyện Lệnh ở Kinh huyện, rất thích giao du với các danh sĩ, hết sức mến mộ Lý Bạch: Nghe nói Lý Bạch sắp đi chơi qua đây, Uông Luân bèn gửi thư đón mời và trong thư có nói dối rằng:”Tiên sinh thích ngao du chăng?- ở đất này có vạn nhà hàng rượu”…Lý Bạch vui vẻ mà đến,  Uông Luân bèn nói thật rằng: ”Đào Hoa đây là tên một cái đầm (đàm), thật không có hoa đào gị cả. Vạn nhà đây chỉ có “tửu điếm họ Vạn”, chứ thật không có hàng vạn quán rượu nào đâu”…Lý thi nhân nghe xong bật cười to, ở lại chơi vài ngày. Sau đó, Uông Luân tặng 8 con ngựa và 10 cuộn gấm đẹp rồi đích thân tiễn đưa. Lý Bạch cảm vì chân thành nên hạ bút xuất thần bài “tuyệt cú Đào hoa đàm đề”:
TẶNG UÔNG LUÂN
   Lý Bạch thừa chu tương dục hành
   Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh
   Đào hoa đàm thủy thâm thiên xích
   Bất cập Uông Luân tống ngã tình .
Dịch: 
      Sắp đi Lý Bạch ngồi thuyền
Trên bờ chân giậm, nghe liền tiếng ca
      Nước đầm nghìn thước Đào Hoa
Uông Luân, tình bác tiễn ta sâu nhiều
-Tản Đà (1938)
Lý Bạch thuyền chèo sắp vượt ra
Trên bờ lanh lảnh tiếng thanh ca
Đầm Đào thăm thẳm sâu nghìn thước
Khôn đọ tình Uông tiễn tống ta.
- Trúc Khê (trước 1945)
BÌNH: Đây là sự cảm kích của Lý Bạch đối với Uông Luân lúc chia tay, bài thơ gây xúc động lòng người.
- Câu 1; tác giả tự nói về mình. 3 chữ “tương dục hành” là diễn tả cảnh bịn rịn tiễn biệt…
- Câu 2: chữ “hốt” là sự “chuyển” sang động thái lên đường, thật là có “thần” (không tả mình mà tả chủ nhân với cử chỉ “đạp ca”- một lối hát dân gian nhiều người cùng dang tay nhau và giậm chân làm nhịp – như kiểu “xòe Thái” hay Lăm Vông Lào ?)
 Chữ “thanh” là chỉ tác giả (người được tiễn) nghe thấy…cùng lúc lên thuyền (thừa chu).
-Câu 3: bút lực của Thi hào đã “chuyển” vào cõi trời đất (đàm thủy).
-Câu 4: là bút pháp đảo ngược lấy cái sâu của đầm Đào Hoa ví với cái thâm tình của Uông Luân.
Toàn bài nổi bật 2 chữ “tương” và “hốt”, đó là dạng “nhãn tự” (chữ mắt) như có thần tỏa sáng cả bài thơ.
Truyện Sử còn kể tiếp : đến đời nhà Thanh (Khang Hi thứ 55) trở đi, Nhà Thơ Viên Mai (1716-1797) đã chép: ”Ngày nay thì đầm Đào Hoa đã cạn, đường qua đây đã tắc nghẽn, Nhà thơ Trương Tĩnh Trai đã cảm thán rằng (xin chép băn dịch):
      Rừng vắng ve chuyền chiếc lá rơi
      Đào Hoa nẻo ấy dễ tìm thôi
      Lạ gì tình bạn nay hời hợt
      Đầm cũ xem ra cạn khác rồi.
- Trương Đình Chi (dịch)
 Chao ôi, “tình bạn ngày nay đã khác xưa/ nghĩa tình e sớm nắng chiều mưa”…Đọc lại thơ Lý Bạch, ngẫm thời thế mà buồn vui lẫn lộn thật  khó tả làm sao?
Góc Thành Nam Hà Nội 17-9-2006
Nguyễn Khôi
Bài 26: Đọc lại TUYỆT CÚ của ĐỖ PHỦ
“Tuyệt cú” là tên một thể loại Thơ cổ Trung Hoa có từ thời Lục Triều (439-581), nhưng phải đến đời Đường, đặc biệt là dưới triều Khai Nguyên -Thiên Bảo (712-756) Đường Huyền Tông thì Tuyệt cú Đường thi mới đạt đỉnh cao…”tuyệt” ở đây có nghĩa là “dứt” dùng để đối lập với chữ “liên” (=liền).Tuyệt cú gồm các loại thơ ngũ ngôn, lục ngôn,thất ngôn 4 câu tạo thành 1 bài, dùng vần bằng hoặc vần trắc.
Đỗ Phủ có 4 bài Tuyệt cú, chọn 1 bài:
Lưỡng cá Hoàng Ly minh thúy liễu,
Nhất hàng Bạch lộ thướng thanh thiên;
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.
dịch nghĩa:
 Hai con chim Oanh vàng kêu (hót) trong cụm liễu xanh,
 một hàng cò trắng bay trên lưng chừng trời;
 Trước song  ngậm tuyết nghìn thu ở núi Tây Lĩnh,(1)
 Ngoài cửa thuyền Đông Ngô từ muôn dặm đến đậu.(2)
 Đây là bài “Tuyệt Cú” Đỗ Phủ làm năm 764, lúc trở lại Thảo Đường ở Thành Đô (Thục). 4 câu đều đối. Mỗi câu 1 cảnh: -(1) chỉ núi Dàn Sơn phía tây Thành Đô,tuyết phủ quanh năm không tan, câu này có nghĩa là: cửa sổ ngó ra núi,như ngậm lấy núi cho nên nói ” song hàm”.
-(2) Sông Thục chảy về phía đông, từ Thành Đô lên thuyền có thể đến đất Đông Ngô ( Giang Tô ): Đỗ Phủ có ý muốn rời Thục đi Ngô.
*-1-Bản dịch của Tản Đà :
Hai cái Oanh vàng kêu liễu biếc,
Một hàng cò trắng vút trời xanh;
Nghìn năm tuyết núi song in sắc,
Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.
Đây là bản dịch ĐẸP…nhưng Tản Đà “tác” mạnh hơn “dịch”? Dịch chữ “cá” là”cái”, “minh” là “kêu” không sai,nhưng ít vẻ thơ; câu 3 đưa thêm “sắc” không có trong nguyên bản. Đặc biệt câu 4 đưa thêm vào “rập rình” là hoàn toàn gượng gạo, nhầm vần với chữ “xanh” ở câu 2?
*-2- Bản dịch của Tương Như:
Liễu xanh hót cặp Oanh vàng,
Trới lam trắng điểm một hàng cò bay;
Song lồng mái tuyết non Tây,
Thuyền Ngô muôn dặm đỗ ngay cửa ngoài.
 Đây là một dạng “diễn Nôm” theo gót Tố Như tiên sinh khi sáng tác Truyện Kiều…phải nói là “đẹp mượt” tuyệt tác…nhưng hơi xa nguyên tác (Việt hóa đến cao độ) làm giảm mất cái thần khí cao sang -đặc trưng về thể loại Tuyệt Cú Đường thi .
*-3- Bản dịch của Lê Kim Giao (Nhà thơ Hà Nội):
Liễu biếc Oanh vàng đôi chiếc hót,
Trời xanh cò trắng một hàng lên;
Song in Tây Lĩnh nghìn thu tuyết;
Cửa đậu Đông Ngô vạn dặm thuyền.
Ai đã từng vào dầm mình trên bãi biển Lăng Cô (làng cò Thừa Thiên-Huế) 1 trong 3 bãi biển đẹp nhất Việt Nam, rồi chợt trông lên : chiều tà hắt nắng hè, xa xa một đàn cò trắng bay lên ngang trời in trên nền dãy núi Hải Vân đệ nhất hùng quan xanh thẳm…tai nghe đôi hồi tiến Oanh hót trong các bụi Liễu nơi Resort bên bờ, ngoài khơi một chút là các con thuyền về đậu dập dờn trên sóng biẻn xanh…bỗng nhiên trong đầu ta (Thi nhân) vang lên bài Tuỵêt Cú của Đỗ Phủ với bản dịch của Lê Kim Giao thì quả là tuyệt diệu như thưởng thức một bữa tiệc tâm hồn (thơ) đầy ý vị…một bản dịch mới lạ? !
 Cái dụng ý “thi trung hữu họa” dùng MÀU TRÊN MÀU mà tác giả và dịch giả đồng cảm đó là “màu xanh của trời (xa), làm nền cho màu xanh của Liễu (gần), màu trắng cuă tuyết (xa) với màu trắng của cò (gần) mà chính do độ co giãn của tầm mắt (nhìn) xa/gần nên ta hoàn toàn tưởng tượng ra độ đậm nhạt ấy, rồi thú vị biết bao khi ta lại thấy màu vàng của đôi chim Hoàng Ly đan xen vào làm bức tranh thành tuyệt mỹ.”
  “Tuyệt cú” của Đỗ Phủ là viên ngọc trong Đường thi, bản dịch của Lê Kim Giao sau 1000 năm vấn rất tri âm tri kỷ, tài hoa xảo diệu…âu cũng là cái độc đáo xuất thần của chàng Công tử Hà Thành- thi sĩ Lê Kim Giao vậy chăng?
Góc Thành Nam Hà Nội - 3/10/2010 
Nguyễn Khôi - cẩn bút…
Bài 27: Đọc lại thơ Viên Mai:
LẬP THÂN TỐI TIỂU THỊ VĂN CHƯƠNG

Xưa & Nay ở Việt Nam ta trong giới làm thơ vẫn truyền tụng 2 câu thơ của Viên Mai:
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương
(mỗi bữa không quên ghi thẻ trúc,
Lật thân thấp(hèn) nhất ấy văn chương)
-trúc bạch=tre và lụa,người xưa chép Sử (thơ) bằng thẻ tre hoặc lụa,khi chưa có giấy viết,nên gọi Sử là ” thanh sử” (Sử xanh).
Nguyên tác của 2 câu thơ đó theo Viên Mai trong “Tùy Viên thi thoại” quyển XIV-đoạn 66 được Trương Đình Chi dịch in ở thoại 449,trang 662 nxb VN tp HCM thì: ”Tôi lúc còn bé, trong một bài thơ “vịnh hoài” (nói lòng mong muốn) có câu rằng:
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối tiểu thị văn chương
Giải: mỗi bữa ăn không quên nghĩ đến tre lụa (sử xanh),
Xây dựng danh tiếng nhỏ bé nhất là làm văn chương.
Dịch: Mỗi lúc hằng mong ghi Sử sách,
Lập thân nhỏ nhất ấy văn chương.
Viên Mai (1716-1797) quê Tiền Đường (Hàng Châu) đỗ Tiến sĩ và làm Quan Tri huyện. Năm 40 tuổi cáo quan về ở ẩn trên núi Tiểu Thương Sơn ngồi viết “Tùy Viên thi thoại” (nói truyện thơ ở vườn Tùy) và “Tử bất ngữ” (cái gì cụ Khổng chẳng nói thì ta nói)…
Cái thú vị, tai quái của văn chương là “ẩn dụ”- ý tại ngôn ngoại vận dụng vào tùy thời thế, hoàn cảnh mà “ám” vào với thân phận của người thưởng thức …mà nói thế nào cũng được? từ tốt sang xấu, từ “cực” nọ sang cực kia vẫn chỉ là tác phẩm ấy, câu thơ ấy!
Câu ”lập thân tối tiểu…” có người nói là : Ông khuyên chúng ta nên đi nghề võ, nghề buôn (kẻ cả buôn Vua) gì đấy, chứ đừng nên học hành văn chương thi đỗ dấn thân vào chốn Quan trường (ở Việt Nam ta tấm gương tày liếp là gia đinh Tiến sĩ Ngô Thì Sĩ- Ngô Thì Nhậm, cánh Nhân Văn Giai Phẩm…). Theo thiển ý của NK: hiểu thế thì e đơn giản quá? Viên Mai thâm Nho hơn nhiều. Lập ngôn là sáng tác văn chương, “tối tiểu” ở đây là đầy ý khinh miệt. Ý của Viên Mai là ám chỉ những kẻ làm nên Quan chức quyền nghiêng thiên hạ là nhờ vài ba cuốn sách xu thời, dăm báy bài thơ ”nịnh” Đức Vua… rồi cứ thế mà hưởng trọn đời (ăn hại tiền dân đóng thuế)?!
Ở Trung Hoa xưa & nay…cứ sau một vụ án Văn chương là khiến cho bao người cầm bút run sợ, tự gác bút hoặc có viết thì tránh xa sự thật, làm trò “Phu Chữ”, chạy vào thơ “tình yêu” (già cốc ra rồi vẫn còn “anh anh /em em” cứ như thuở mới đi tìm “lá diêu bông” ấy!)…Yên thân hơn cả là “di chúc” cho con cháu chỉ sống bằng nghề làm ruộng hoặc đi buôn, không cả thèm đi học và tránh xa chốn Quan trường?!.
Ô hô, i hi…Viên Mai quả sâu sắc là vậy!.
Trích ”Bắc Ninh Thi Thoại” - 1997.
Nguyễn Khôi 
Góc Thành Nam Hà Nội, 5/10/2011
 Theo https://nghiencuulichsu.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát Lời hát giao duyên kể về nỗi niềm cô gái thương thầm chàng trai/ Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát/ ...