Nhạc tiền
chiến là dòng nhạc đầu tiên của tân nhạc Việt Nam mang âm hưởng trữ tình lãng
mạn xuất hiện vào cuối thập niên 1930.
Các bài hát
tiền chiến thường có giai điệu trữ tình và lời ca giàu chất văn học. Ban đầu
khái niệm nhạc tiền chiến dùng để chỉ dòng nhạc mới tiếng Việt theo âm luật Tây
phương trước khi nổ ra chiến tranh Việt - Pháp sau khái niệm này mở rộng bao
gồm một số sáng tác trong chiến tranh (1946-1954) cùng phong cách trữ tình lãng
mạn như Dư âm của Nguyễn Văn Tý Sơn nữ ca của Trần Hoàn và cả sau 1954 đối với
một số nhạc sĩ miền Nam như Phạm Đình Chương Cung Tiến...
Những nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc tiền chiến: Đặng
Thế Phong Phạm Duy Văn Cao Lê Thương Đoàn Chuẩn Dương Thiệu Tước... Các ca khúc
như Giọt mưa thu Con thuyền không bến Thiên Thai Về miền Trung Trương Chi Hòn
vọng phu...
Bối cảnh ra đời của nhạc tiền chiến
Bối cảnh ra đời của nhạc tiền chiến cũng chính là bối cảnh ra đời của tân nhạc Việt Nam. Đó là Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20 xuất hiện sau phong trào thơ mới và dòng văn học lãng mạn vài năm.
Bối cảnh ra đời của nhạc tiền chiến cũng chính là bối cảnh ra đời của tân nhạc Việt Nam. Đó là Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20 xuất hiện sau phong trào thơ mới và dòng văn học lãng mạn vài năm.
Sau Thế chiến thứ nhất ở Việt Nam xuất hiện một giai
cấp mới đó là giai cấp tư sản. Chủ nghĩa tư bản của người Pháp cùng với nền văn
hóa phương Tây vào Việt Nam gây nên những xáo trộn lớn. Nhiều giá trị tư tưởng
bền vững mấy ngàn năm trước đó lại bị giới trẻ có tây học xem thường thậm chí
trở thành đối tượng để mỉa mai của nhiều người. Một tầng lớp tiểu tư sản ở
thành thị hình thành.
Giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên
(trí thức viên chức cao cấp) đã có một lối sinh hoạt thành thị mới với nhiều
tiện nghị theo văn minh Tây phương . Họ ở nhà lầu đi ô tô dùng quạt điện đi
nghe hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay
cả trong cách ăn mặc của thanh niên mốt quần áo thay đổi mỗi năm. Những đổi
thay về sinh hoạt cũng đồng thời với sự thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Những
thay đổi đó cũng do sự tiếp xúc với văn hóa lãng mạn Pháp.
Nếu như những nhà văn lãng mạn thi sĩ của phong trào
thơ mới chịu ảnh hưởng bởi văn học lãng mạn Pháp thì những nhạc sĩ tiền chiến
cũng chịu ảnh hưởng bởi âm nhạc phương Tây.
Ảnh hưởng của âm nhạc Tây phương
Tino RossiĐầu thế kỷ 20 những bài hát Âu Mỹ được phổ biến mạnh mẽ tại Việt Nam dưới hình thức đĩa hát loại 78 tours (vòng) hoặc trên màn ảnh những phim nói. Các thanh niên thời đó không còn thích đàn tranh đàn bầu đàn nhị đàn nguyệt nữa mà thay vào đó là mandoline guitare hơn nữa là violon piano để có thể làm quen với những bài hát nước ngòai mà họ ưa thích. Rồi họ bắt đầu soạn lời Việt cho những ca khúc nước ngoài chủ yếu để hát trong bạn bè cho nhau nghe.
Tino RossiĐầu thế kỷ 20 những bài hát Âu Mỹ được phổ biến mạnh mẽ tại Việt Nam dưới hình thức đĩa hát loại 78 tours (vòng) hoặc trên màn ảnh những phim nói. Các thanh niên thời đó không còn thích đàn tranh đàn bầu đàn nhị đàn nguyệt nữa mà thay vào đó là mandoline guitare hơn nữa là violon piano để có thể làm quen với những bài hát nước ngòai mà họ ưa thích. Rồi họ bắt đầu soạn lời Việt cho những ca khúc nước ngoài chủ yếu để hát trong bạn bè cho nhau nghe.
Nhưng người thành công nhất trong việc sử dụng nhạc
điệu Âu Mỹ để đưa ra những bài hát mới chính là nghệ sĩ Huỳnh Thủ Trung tức Tư
Chơi. Ông vừa là diễn viên vừa là soạn giả và còn muốn là người soạn nhạc nữa
cho nên ông đã sáng tác những ca khúc ngắn mà ông gọi là "bài ta theo điệu
tây" và soạn ra những tiểu ca kịch (opérette) mà ông đặt tên là "hoạt
kê hài hước" (opérette comique) trình diễn trên sân khấu các đoàn hát xuất
xứ từ miền Nam là Trần Đắt và Phước Cương (gánh hát của Bạch Công Tử) vào khoảng
1933-1934.
Trên sân khấu các đoàn Trần Đắt và Phước Cương ngoài việc soạn ra những tích tuồng mới phản ảnh xã hội Việt Nam vào lúc đó nghệ sĩ Tư Chơi còn muốn cải cách cả phần âm nhạc. Ông không muốn dùng các bài bản có tính chất cổ truyền như Lưu Thủy Hành Vân trong opérette của mình. Với sự phổ biến của máy hát chạy bằng lò xo những "bài hát theo thời" (chansons à la mode) Âu Mỹ đã bắt đầu thịnh hành trong xã hội đô thị Việt Nam. Những bài Pháp như J ai Deux Amours Quand On Est Matelot... đã được nhiều người biết đến.
Có thể nói việc làm của nghệ sĩ Tư Chơi đã thành công.
Một số bài dù khởi đầu phóng tác từ một điệu Tây về sau được coi là điệu Việt
Nam hoàn toàn. Ví dụ bài Hoà duyên nằm trong nhạc mục của ngành ca kịch cải
lương ít người biết nó khởi sự là một bài ta theo điệu Tây của Tư Chơi Huỳnh
Thủ Trung.
Cùng một lúc với việc Tư Chơi tung ra trên sân khấu
những "bài ta theo điệu tây" thì trong giới yêu nhạc cũng có phong
trào chuyển ngữ các bài hát Tây do các ca sĩ thời thượng như Tino Rossi Rina
Ketty Albert Préjean Georges Milton... hát vào đĩa hát 78 tours (vòng). Các
nghệ sĩ sân khấu Việt Nam như Ái Liên Kim Thoa lại được các hãng đĩa của người
Pháp Odéon Béka mời thu thanh các bài ta theo điệu tây.
Trong năm từ 1935 cho tới 1938 rất nhiều các bài hát
của Pháp như Marinella C est à capri Tant qu il y aura des étoiles Un jour loin
de toi Celle que j aime éperdument Les gars de la marine L Oncle de Pékin
Guitare d amour Créola Signorina Sous les ponts de Paris Le plus beau tango du
monde Colombella... (phần lớn là sáng tác của nhạc sĩ người Pháp Vincent
Scotto) và của Mỹ như Good bye Hawaii South of the border... đã được phổ biến
mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt soạn bởi một nhà báo trẻ tên là Mai Lâm và bởi
những tác giả vô danh khác.
Đã có những hội "Ái Tino" được thành lập ở
Hà Nội ở Hải Phòng... Một thanh niên có giọng hát tốt sau này là một nhạc sĩ
được nhiều người biết tới nhạc sĩ Canh Thân bắt đầu cuộc đời ca hát của anh
bằng cái tên Tino Thân.
Phạm Duy gọi giai đoạn từ 1935 cho tới 1938 là Thời kỳ
chuẩn bị của Tân nhạc Việt Nam
Tân nhạc hình thành 1938
Năm 1938 được coi là điểm mốc đánh dấu sự hình thành của tân nhạc Việt Nam với những buổi biểu diễn và thuyết trình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên tại Hà Nội.
Năm 1938 được coi là điểm mốc đánh dấu sự hình thành của tân nhạc Việt Nam với những buổi biểu diễn và thuyết trình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên tại Hà Nội.
Bài hát được công nhận ca khúc đầu tiên của tân nhạc
là Cùng nhau đi Hồng binh của Đinh Nhu sáng tác 1930. Sau Cùng nhau đi Hồng
binh cũng có nhiều nhạc sĩ khác bắt đầu sáng tác ca khúc như Bẽ bàng (1935)
Nghệ sĩ hành khúc (1936) của Lê Yên Tiếng sáo chăn trâu (1935) Bên hồ liễu
(1936) Bóng ai qua thềm (1937) của Văn Chung Xuân năm xưa (1936) của Lê Thương.
Nhưng các nhạc sĩ đó sáng tác và trình bày những ca khúc của mình chỉ trong
phạm vi bạn bè. Nguyễn Văn Tuyên là người đầu tiên trình bày ca khúc nhạc cải
cách trước công chúng và sau đó những bài hát này được phổ biến rộng rãi trên
báo chí.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên khi đó ở Sài Gòn là người
Việt duy nhất tham gia hội Ái Nhạc (Philharmonique). Ông bắt đầu hát nhạc Tây
và đạt được cảm tình của báo chí và radio. Năm 1937 Nguyễn Văn Tuyên phổ một
bài thơ của một người bạn và viết thành ca khúc đầu tiên của ông. Nhà thơ
Nguyễn Văn Cổn khi đó làm việc cho đài Radio Indochine có đưa thơ cho Nguyễn
Văn Tuyên và giúp ông soạn lời ca. Nguyễn Văn Cổn còn giới thiệu ông với thống
đốc của Nam Kỳ (Cochinechina) khi đó là Pagès (có tài liệu ghi Rivoal). Thống
đốc Nam Kỳ nghe Nguyễn Văn Tuyên hát và đã mời ông du lịch tới Pháp để tiếp tục
học nhạc nhưng Nguyễn Văn Tuyên từ chối vì lý do gia đình. Thay vì vậy ông lại
đề nghị và được thống đốc Pagès tài trợ đi một vòng Việt Nam tới các thành phố
Huế Hà Nội Hải Phòng Nam Định để quảng bá những bài nhạc mới này. Chính Nguyễn
Văn Cổn là người đặt tên cho loại nhạc mới là "âm nhạc cải cách"
(musique renovée).
Tới Hà Nội vào tháng 3 năm 1938 Nguyễn Văn Tuyên có
nói chuyện tại hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc vận động cải cách ông đã gặp một
cử tọa đông đảo ồn ào không trật tự. Một phần thất bại buổi đó do giọng nói địa
phương của ông được ít người hiểu. Hơn nữa có thể nhiều thanh niên Hà Nội lúc
đó cho rằng việc hô hào của ông là thừa vì bài hát cải cách đã có sẵn tại đó.
Tại hội Tri Tri Hải Phòng Nguyễn Văn Tuyên đã may mắn
hơn. Tuy số khán giả chỉ độ 20 người nhưng ông đã có người thông cảm. Trong
buổi nói chuyện này một vài nhạc sĩ của Hải Phòng cũng trình một bản nhạc mới
của miền Bắc. Sau đó nhân kỳ hội của trường Nữ Học Hoài Đức Nguyễn Văn Tuyên
còn trình bày tại rạp chiếu bóng Palace một lần nữa. Và lần này cử tọa rất tán
thưởng giọng hát của ông trong bài Bông cúc vàng.
Tiếp đó tháng 9 1938 tờ Ngày Nay của Nhất Linh một tờ
báo uy tín bấy giờ cho đăng những bản nhạc đầu tiên Bông cúc vàng Kiếp hoa của
Nguyễn Văn Tuyên Bình minh của Nguyễn Xuân Khoát Bản đàn xuân của Lê Thương
Khúc yêu đương của Thẩm Oánh Đám mây hàng của Phạm Đăng Hinh Đường trường của
Trần Quang Ngọc...
Nhiều ca khúc sáng tác từ trước được các nhạc sĩ phát
hành. Đầu 1939 nhiều bản nhạc của các nhóm nhạc sĩ được bày bán tại các hiệu
sách. Tân nhạc Việt Nam chính thức hình thành.
Các nhóm nhạc và nhạc sĩ tiên phong
Nguyễn Xuân Khoát
Được xem như người anh cả trong tân nhạc Việt Nam. Nguyễn Xuân Khoát tuy sáng tác không nhiều vào thời kỳ tiền chiến nhưng những sáng tác của ông lại làm nên những mốc giá trị. Trước khi tác phẩm đầu tay là Bình minh ra đời ông đã có nhiều bài khảo cứu hay thuyết trình cho sự cải cách nhạc Việt được đăng nhiều kỳ trên báo Ngày nay của Tự Lực Văn Đoàn. Tác phẩm Mầu thời gian của ông phổ thơ Đoàn Phú Tứ vừa ra đời đã được hoan nghênh lớn.
Được xem như người anh cả trong tân nhạc Việt Nam. Nguyễn Xuân Khoát tuy sáng tác không nhiều vào thời kỳ tiền chiến nhưng những sáng tác của ông lại làm nên những mốc giá trị. Trước khi tác phẩm đầu tay là Bình minh ra đời ông đã có nhiều bài khảo cứu hay thuyết trình cho sự cải cách nhạc Việt được đăng nhiều kỳ trên báo Ngày nay của Tự Lực Văn Đoàn. Tác phẩm Mầu thời gian của ông phổ thơ Đoàn Phú Tứ vừa ra đời đã được hoan nghênh lớn.
Lê Thương
Nhạc sĩ Lê Thương khi đó dạy học ở Hải Phòng. Ông là một trong những người có sáng tác sớm nhất. Lê Thương cùng Hoàng Quý Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ) Phạm Ngữ Canh Thân tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ. Ông đã để lại nhiều ca khúc đặc biệt là những bài truyện ca bất hủ như Bản đàn xuân Nàng Hà Tiên Một ngày xanh Thu trên đảo Kinh Châu và Hòn vọng phu.
Nhạc sĩ Lê Thương khi đó dạy học ở Hải Phòng. Ông là một trong những người có sáng tác sớm nhất. Lê Thương cùng Hoàng Quý Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ) Phạm Ngữ Canh Thân tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ. Ông đã để lại nhiều ca khúc đặc biệt là những bài truyện ca bất hủ như Bản đàn xuân Nàng Hà Tiên Một ngày xanh Thu trên đảo Kinh Châu và Hòn vọng phu.
Văn Cao
Văn Cao cũng ở Hải Phòng. Ban đầu ông thuộc nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý và có những sáng tác đầu tay như Buồn tàn thu Vui lên đường. Năm 1941 Văn Cao lên Hà Nội ông đã viết những nhạc phẩm giá trị vượt thời gian như Trương Chi Thiên Thai Suối mơ Bến xuân... Sau đó Văn Cao tham gia Việt Minh và viết Tiến quân ca năm 1944 và Trường ca Sông Lô năm 1947.
Văn Cao cũng ở Hải Phòng. Ban đầu ông thuộc nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý và có những sáng tác đầu tay như Buồn tàn thu Vui lên đường. Năm 1941 Văn Cao lên Hà Nội ông đã viết những nhạc phẩm giá trị vượt thời gian như Trương Chi Thiên Thai Suối mơ Bến xuân... Sau đó Văn Cao tham gia Việt Minh và viết Tiến quân ca năm 1944 và Trường ca Sông Lô năm 1947.
Đặng Thế Phong
Đặng Thế Phong thuộc nhóm Nam Định nhưng ông sớm rời bỏ thành phố để lên Hà Nội. Đầu 1941 Đặng Thế Phong vào Sài Gòn rồi sang Campuchia. Cuối 1941 ông trở lại Hà Nội và mất vào năm 1942 bởi bệnh lao. Đặng Thế Phong chỉ để lại ba nhạc phẩm Đêm thu Con thuyền không bến và Giọt mưa thu. Các sáng tác của ông được xem là tiêu biểu cho dòng nhạc tiến chiến và có ảnh hưởng đến những nhạc sĩ sau đó.
Đặng Thế Phong thuộc nhóm Nam Định nhưng ông sớm rời bỏ thành phố để lên Hà Nội. Đầu 1941 Đặng Thế Phong vào Sài Gòn rồi sang Campuchia. Cuối 1941 ông trở lại Hà Nội và mất vào năm 1942 bởi bệnh lao. Đặng Thế Phong chỉ để lại ba nhạc phẩm Đêm thu Con thuyền không bến và Giọt mưa thu. Các sáng tác của ông được xem là tiêu biểu cho dòng nhạc tiến chiến và có ảnh hưởng đến những nhạc sĩ sau đó.
Phạm Duy
Ban đầu là ca sĩ của gánh hát Đức Huy nên Phạm Duy còn được xem như một trong những người đầu tiên đem thể loại nhạc này đi phổ biến khắp mọi miền đất nước. Phạm Duy gia nhập làng nhạc sĩ năm 1942 với bài Cô hái mơ phổ thơ Nguyễn Bính tiếp đó là những bản nhạc lãng mạn như Cây đàn bỏ quên Tình kỹ nữ Tiếng bước trên đường khuya hay đậm chất dân ca như Em bé quê Tình ca Bà mẹ quê Gánh lúa...Phạm Duy và Văn Cao là hai người bạn thân nên thường giúp đỡ nhau trong nghề họ từng sáng tác chung các ca khúc Bến xuân Suối mơ.
Ban đầu là ca sĩ của gánh hát Đức Huy nên Phạm Duy còn được xem như một trong những người đầu tiên đem thể loại nhạc này đi phổ biến khắp mọi miền đất nước. Phạm Duy gia nhập làng nhạc sĩ năm 1942 với bài Cô hái mơ phổ thơ Nguyễn Bính tiếp đó là những bản nhạc lãng mạn như Cây đàn bỏ quên Tình kỹ nữ Tiếng bước trên đường khuya hay đậm chất dân ca như Em bé quê Tình ca Bà mẹ quê Gánh lúa...Phạm Duy và Văn Cao là hai người bạn thân nên thường giúp đỡ nhau trong nghề họ từng sáng tác chung các ca khúc Bến xuân Suối mơ.
Phạm Duy là
người có công đầu trong việc đem chất dân ca vào tân nhạc điều này khiến nhạc
cải cách xích lại gần với tầng lớp nông dân dân nghèo.
Nhóm Myosotis
Myosotis có nghĩa là hoa lưu ly nhóm nhạc này gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh Dương Thiệu Tước Phạm Văn Nhượng Trần Dư Vũ Khánh... trong đó hai thành viên quan trọng nhất là Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước. Hai xu hướng chính của nhóm là:
Myosotis có nghĩa là hoa lưu ly nhóm nhạc này gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh Dương Thiệu Tước Phạm Văn Nhượng Trần Dư Vũ Khánh... trong đó hai thành viên quan trọng nhất là Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước. Hai xu hướng chính của nhóm là:
Sáng tác nhạc mới nhưng có âm hưởng nhạc dân tộc do
Thẩm Oánh chủ trương.
Sáng tác hoàn toàn theo nhạc ngữ Tây phương do Dương Thiệu Tước chủ trương.
Từ 1938 cho tới 1942 nhóm Myosotis với hai nhạc sĩ chính Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước đã để lại nhiều nhạc phẩm giá trị phần lớn theo phong cách trữ tình lãng mạn.
Sáng tác hoàn toàn theo nhạc ngữ Tây phương do Dương Thiệu Tước chủ trương.
Từ 1938 cho tới 1942 nhóm Myosotis với hai nhạc sĩ chính Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước đã để lại nhiều nhạc phẩm giá trị phần lớn theo phong cách trữ tình lãng mạn.
Nhóm Tricéa
Nhóm Tricéa gồm ba thành viên Văn Chung Lê Yên và Doãn Mẫn. Tên nhóm Tricéa có nghĩa: 3 chữ C và 3 chữ A được viết tắt từ tiếng Pháp: Collection Des Chants Composés Par Des Artistes Annamites Associés: "Tuyển chọn các tác phẩm âm nhạc của nhóm người viết nhạc Annam".
Nhóm Tricéa gồm ba thành viên Văn Chung Lê Yên và Doãn Mẫn. Tên nhóm Tricéa có nghĩa: 3 chữ C và 3 chữ A được viết tắt từ tiếng Pháp: Collection Des Chants Composés Par Des Artistes Annamites Associés: "Tuyển chọn các tác phẩm âm nhạc của nhóm người viết nhạc Annam".
Những năm khoảng 1939 nhiều ca khúc của nhóm được quần
chúng yêu thích như: Ca khúc ban chiều Trên thuyền hoa Bóng ai qua thềm của Văn
Chung; Biệt ly Sao hoa chóng tàn Tiếng hát đêm thu của Doãn Mẫn; Bẽ bàng Xuân
nghệ sĩ hành khúc Ngựa phi đường xa Vườn xuân của Lê Yên. Cả ba nhạc sĩ của
Tricéa đều thành công trong đó hơn cả là Doãn Mẫn. Họ đã để lại nhiều nhạc phẩm
giá trị một số trong đó được đánh giá vượt thời gian
Nhóm Đồng Vọng
Nhóm Đồng Vọng được thành lập năm 1939 bởi nhạc sĩ Hoàng Quý xuất phát từ những tráng sinh biết âm nhạc của phong trào Hướng đạo. Xuất hiện ngay từ những năm đầu gồm nhiều nhạc sĩ tên tuổi Phạm Ngữ Đỗ Nhuận Lưu Hữu Phước Văn Cao Canh Thân và Hoàng Phú (tức Tô Vũ)
Đồng Vọng mở ra dòng nhạc hùng trong tân nhạc Việt Nam.
Nhóm Đồng Vọng được thành lập năm 1939 bởi nhạc sĩ Hoàng Quý xuất phát từ những tráng sinh biết âm nhạc của phong trào Hướng đạo. Xuất hiện ngay từ những năm đầu gồm nhiều nhạc sĩ tên tuổi Phạm Ngữ Đỗ Nhuận Lưu Hữu Phước Văn Cao Canh Thân và Hoàng Phú (tức Tô Vũ)
Đồng Vọng mở ra dòng nhạc hùng trong tân nhạc Việt Nam.
Ngoài những bản hùng ca viết cho thanh niên phong trào
khỏe và hướng đạo nhóm Đồng Vọng còn để lại nhiều bản tình ca khác. Cùng với
nhóm Nhóm Tổng Hội Sinh Viên của Lưu Hữu Phước Đồng Vọng đã có những ảnh hướng
lớn tới tân nhạc Việt Nam.
Nhóm Tổng Hội Sinh Viên
Tổng Hội Sinh Viên được thành lập bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Cùng với nhóm Đồng Vọng Tổng Hội Sinh Viên mở ra dòng nhạc hùng trong tân nhạc Việt Nam nhưng so với Đồng Vọng thì Tổng Hội Sinh Viên manh tính chính trị nhiều hơn.
Tổng Hội Sinh Viên được thành lập bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Cùng với nhóm Đồng Vọng Tổng Hội Sinh Viên mở ra dòng nhạc hùng trong tân nhạc Việt Nam nhưng so với Đồng Vọng thì Tổng Hội Sinh Viên manh tính chính trị nhiều hơn.
Tổng Hội Sinh Viên được khởi đầu trong nhóm sinh viên
ở Hà Nội trong đó nhiều sinh viên miền Nam tỏ ra có khả năng văn nghệ. Tổng Hội
Sinh Viên chú trọng đặc biệt đến việc dùng Tân nhạc trong việc đấu tranh chính
trị chống Pháp và Nhật. Lưu Hữu Phước cùng với nhóm sinh viên trong Tổng Hội đã
tung ra nhiều ca khúc giá trị khơi dậy lòng yêu nước trong dân chúng đặc biệt
là những học sinh sinh viên. Những ca khúc như Tiếng gọi sinh viên Hồn tử sĩ
Bạch Đằng giang Ải Chi Lăng Hội nghị Diên Hồng Hờn Sông Gianh... đã để lại dấu
ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam.
Giai đoạn 1945-1954
Từ năm 1946 nhiều nhạc sĩ lên chiến khu và viết ca khúc kháng chiến của Việt Minh chống Pháp. Nhưng nhiều người trong số họ vẫn có những sáng tác lãng mạn như Nguyễn Văn Tý với Dư âm Trần Hoàn với Sơn nữ ca Tô Hải với Nụ cười sơn cước Việt Lang với Tình quê hương...
Từ năm 1946 nhiều nhạc sĩ lên chiến khu và viết ca khúc kháng chiến của Việt Minh chống Pháp. Nhưng nhiều người trong số họ vẫn có những sáng tác lãng mạn như Nguyễn Văn Tý với Dư âm Trần Hoàn với Sơn nữ ca Tô Hải với Nụ cười sơn cước Việt Lang với Tình quê hương...
Trong vùng đô thị Pháp tạm chiếm cả hai dòng nhạc yêu
nước và lãng mạn tiếp tục được trình diễn trên đài phát thanh trong vũ trường
và các quán rượu. Năm 1950 tạp chí Việt Nhạc của đài phát thanh Hà Nội đã xuất
bản một danh mục hơn 300 ca khúc Việt Nam họ đã phát thanh gồm cả những bài hát
lãng mạn và những bài hát mới được sáng tác dành cho những người lính kháng
chiến trong rừng núi. Cho tới lúc chấm dứt hoạt động vào năm 1954 họ đã phát
thanh được hơn 2000 bài của hơn 300 tác giả.
Sau 1954 ở miền Nam
Sau năm 1954 Việt Nam chia làm hai miền với chế độ khác nhau. Những nhạc sĩ tiền chiến ở lại miền Bắc không còn sáng tác hoặc không phổ biến những ca khúc trữ tình lãng mạn. Những nhạc phẩm tiền chiến cũng giống như các tác phẩm văn học lãng mạn (ví dụ tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn) không được phép lưu hành. Những bài hát ở miền Bắc khi đó thường để cổ vũ chiến đấu xây dựng đất nước đấu tranh cách mạng... và được xếp vào dòng nhạc đỏ.
Sau năm 1954 Việt Nam chia làm hai miền với chế độ khác nhau. Những nhạc sĩ tiền chiến ở lại miền Bắc không còn sáng tác hoặc không phổ biến những ca khúc trữ tình lãng mạn. Những nhạc phẩm tiền chiến cũng giống như các tác phẩm văn học lãng mạn (ví dụ tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn) không được phép lưu hành. Những bài hát ở miền Bắc khi đó thường để cổ vũ chiến đấu xây dựng đất nước đấu tranh cách mạng... và được xếp vào dòng nhạc đỏ.
Một số nhạc sĩ khác di cư vào miền Nam năm 1954 như
Hoàng Trọng Văn Phụng... hoặc từ trước đó như Lê Thương Phạm Duy... và những
nhạc sĩ trẻ hơn như Phạm Đình Chương Cung Tiến... đã tiếp tục dòng nhạc tiền
chiến tại miền Nam.
Những nhạc sĩ này trong khoảng 1954 đến 1975 có những
sáng tác đa dạng trong đó nhiều ca khúc của họ vẫn được xếp chung vào dòng nhạc
tiền chiến có thể kể đến là Mộng dưới hoa Trường ca Hội trùng dương Đôi mắt
người Sơn Tây của Phạm Đình Chương Hương xưa Thu vàng của Cung Tiến. Những nhạc
phẩm tiền chiến thường xuyên được trình diễn và thu âm bởi những tiếng hát hàng
đầu như Thái Thanh Khánh Ly Lệ Thu Duy Trác Hà Thanh...
Số phận nhạc tiền chiến sau 1975
Tại Việt Nam
Tại Việt Nam sau 1975 phần lớn những ca khúc tiền chiến vẫn không được lưu hành. Cho tới năm 1987 Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đưa ra quyết định "cởi trói văn nghệ" một số bản nhạc tiền chiến mới được trình diễn trở lại. Từ đó những nhạc phẩm của Văn Cao Đoàn Chuẩn Đặng Thế Phong... được các ca sĩ trình diễn nhiều nơi trong đó phải kể đến những nỗ lực của ca sĩ Ánh Tuyết.
Tại Việt Nam sau 1975 phần lớn những ca khúc tiền chiến vẫn không được lưu hành. Cho tới năm 1987 Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đưa ra quyết định "cởi trói văn nghệ" một số bản nhạc tiền chiến mới được trình diễn trở lại. Từ đó những nhạc phẩm của Văn Cao Đoàn Chuẩn Đặng Thế Phong... được các ca sĩ trình diễn nhiều nơi trong đó phải kể đến những nỗ lực của ca sĩ Ánh Tuyết.
Những năm đầu thế kỷ 21 những ca khúc đầu tiên của
dòng tân nhạc ấy vẫn thường xuyên được các ca sĩ trẻ trình diễn và thu âm. Và
một vài người trong số đó đã thanh danh nhờ dòng nhạc này.
Ở hải ngoại
Sau sự kiện 30 tháng 4 1975 nhiều ca sĩ và nhạc sĩ của miền Nam rời Việt Nam định cư tại nhiều nước trên thế giới tập trung nhất ở Hoa Kỳ. Tại hải ngoại các nhạc sĩ như Phạm Đình Chương Văn Phụng Hoàng Trọng Cung Tiến... ít sáng tác. Có thể nói không nhạc phẩm nào ra đời ở hải ngoại được xếp vào dòng nhạc tiền chiến.
Sau sự kiện 30 tháng 4 1975 nhiều ca sĩ và nhạc sĩ của miền Nam rời Việt Nam định cư tại nhiều nước trên thế giới tập trung nhất ở Hoa Kỳ. Tại hải ngoại các nhạc sĩ như Phạm Đình Chương Văn Phụng Hoàng Trọng Cung Tiến... ít sáng tác. Có thể nói không nhạc phẩm nào ra đời ở hải ngoại được xếp vào dòng nhạc tiền chiến.
Nhưng dòng nhạc đó vẫn được yêu thích những ca sĩ đã
thành danh trước 1975 như Khánh Ly Lệ Thu Thái Thanh Hà Thanh Mai Hương Quỳnh
Giao... hay những ca sĩ trẻ như Trần Thái Hòa Ngọc Hạ... thường xuyên trình
diễn những nhạc phẩm này.
Lê Trung Ngân
hãng eva airline
Trả lờiXóavé máy bay đi boston mỹ
hãng korean air
vé máy bay đi mỹ khoảng bao nhiêu
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thức Du Lịch