Thứ Tư, 22 tháng 2, 2017

Nguyễn Quang Trần - Trời bốn phương biết em ở phương nao

Nguyễn Quang Trần - Trời bốn phương 
biết em ở phương nao
Xin thành thật chia buồn cùng gia quyến Nhà thơ, Nhà báo Nguyễn Quang Trần, sinh năm Bính Thân (1956) tại Phổ Phong, Đức Phổ, Quảng Ngãi - Ủy viên BCH Hội VHNT Quảng Ngãi, Chủ nhiệm CLB Thơ Trà Giang đã đột ngột từ trần vào ngày 20/8/2016 (nhằm ngày mồng 18 tháng 7 năm Bính Thân). Chuyên mục “Khuôn mặt Văn nghệ Quảng Ngãi” số này xin được giới thiệu bài viết của Nhà văn, Tiến sĩ Mai Bá Ấn và trang thơ Nguyễn Quang Trần cùng bạn đọc xa gần như một nén tâm nhang tưởng nhớ.
“Trời bốn phương biết em ở phương nao?”. Sinh thời, Nguyễn Quang Trần cứ lơ ngơ đi giữa cuộc đời và đã từng tự hỏi lòng mình như thế! Anh tự hỏi lúc người vợ thủy chung của anh - “bài thơ tình thứ nhất” của đời anh rời bỏ cha con anh lại nơi trần thế để vĩnh viễn ra đi sau những ngày bạo bệnh hay anh tự hỏi lòng mình về những bóng hồng đã đi qua cuộc đời thơ cũng không ai biết nữa! Có lẽ là cả hai trong tiên liệu của tâm linh thi sĩ. Còn bây giờ thì… bạn bè anh, người thân anh cũng đang đặt câu hỏi lớn với anh: “Trời bốn phương biết anh ở phương nào?”. Vâng, nhà thơ, nhà báo Nguyễn Quang Trần đã dừng bước trần ai, đột ngột vĩnh biệt chúng ta vào chiều tối ngày 20 tháng 8 năm 2016 (18/7/ Bính Thân) khi vừa tròn 61 tuổi Âm - đúng vòng quay 60 năm của một đời người (anh sinh năm Bính Thân - 1956 và mất đúng năm Bính Thân - 2016). Có lẽ với người thân, bạn bè, cái “sự đi” của anh là đột ngột, nhưng biết đâu, từ nội tại tâm linh, “vòng quay” của đời anh đã hết, đã trọn một đời người?
Thôi thì… dẫu có vì lẽ gì, chúng ta cũng đã mất đi một người thơ, hết lòng vì thơ và chung thủy với thơ. Có lẽ, trong giới làm thơ ở Quảng Ngãi, Quang Trần là người thơ “hồng trần” nhất. Anh lang bạt, bụi bặm, phong trần, cô độc từ dáng người cho đến cả nội tâm thơ. Bài thơ mới nhất của anh, dù trong tư thế đón xuân, đọc lên vẫn cứ da diết một nỗi cô đơn thoát ra từ bản thể:
Ừ thì thôi! Giữa cuộc đời dâu bể
Chốn phong trần ta vẫn cứ là ta!
Ly rượu nhạt. Đêm giao thừa. Độc ẩm
Đón Xuân về trên mỗi nụ hoa (Thơ cho riêng mình - 2016).
“Ta vẫn cứ là ta” trong kiếp phong trần là bản lĩnh của một hồn thơ. Nhưng cho dù bao cuộc trần ai có phủ chụp lên cuộc đời mình, Quang Trần vẫn luôn đặt bản thể mình trong thế “hoàn lương”. Và cho dù đã bao lần trái tim thơ “rớt” suốt dọc đường, lấm láp bụi trần, thì bản thể lãng mạn của một hồn thơ cùng tình yêu vẫn cứ là chiếc cầu nối kiếp tha hương với bổn làng quê quán:
Từ ấy bước chân ta lưu lạc
Phong trần ôm kiếp mộng hoàn lương
Đường về thôn Vạn ôi xa quá!
Nên trái tim ta rớt dọc đường (Thôn Vạn).
Anh quan niệm, tình yêu là mùa xuân vĩnh viễn của đời người cho dù luật tự nhiên có chuyển xoay bốn mùa xuân hạ thu đông thì vẫn thế. Tình yêu đủ sức phủ trùm lên trời đất, chẳng còn đâu ranh giới của các mùa. Hình như, cả đời anh chỉ duy nhất có một mùa: Mùa Yêu:
Tình yêu ta là vĩnh viễn mùa xuân
Ta sẽ đi bên em đến tận cùng trời đất
Hai trái tim hòa chung nhịp đập
Để tình yêu chúng mình đẹp hơn mọi bài thơ (Thơ xuân cho riêng em).
Anh là kẻ khờ khạo cùng tình, hết lòng với tình, ngay với cả thứ tình chưa dám ngỏ:
Ta biết lòng ta thương, thương lắm!
Nhưng nào dám ngỏ một lời yêu
Cứ mỗi chiều về trên đường vắng
Em đi. Ta lặng lẽ nhìn theo  (Đa đoan).

Ngày trao nhau nụ hôn đầu đời cho mối tình đầu (cũng là người vợ thủy chung cùng anh trọn một cuộc đời) khi cùng dạy học trên vùng núi miền Tây Quảng Ngãi, anh cơ chừng như cả suối rừng miền Tây cùng tụ về chứng kiến. Không phải chứng cho nụ hôn đầu mà là nhân chứng cho những lời yêu thương, những điều ước hẹn. Đúng là, trong lòng anh, tình yêu lúc nào cũng thiêng liêng như đinh ninh biển hẹn, non thề:
Người tình ơi, em có nhớ không?
Lời yêu thương ngày xưa mình hẹn ước
Dẫu con sông Trà Bồng có đầy vơi, trong đục
Ta với rừng mãi mãi bên nhau (Nụ hôn đầu).
Và cho dù tất cả các cuộc tình rồi đã vuột qua khỏi thời trai trẻ, đã lùi sâu vào dĩ vãng, thì nỗi cô đơn vẫn như một vết sướt giữa lòng không dễ nhạt phai:
Ta đi suốt một thời trai trẻ
Dĩ vãng quặn mình, tất cả lùi xa
Ta còn lại tóc màu sương muối
Và nỗi cô đơn năm tháng không nhòa (Đa đoan).
Thông thường, kẻ mang hồn thi sĩ thường là “trắng tay” về vật chất, nhưng muôn đời, luôn “ngời xanh” về mặt tinh thần dù có phải cõng tình lách luồn qua bao bão giông trần thế:
Nửa đời người, anh vẫn trắng tay
Gian nhà trống gió lùa rung vách
Chỉ có tình yêu là như hương hoa thơm ngát
Qua nắng mưa bão tố vẫn xanh ngời (Bài thơ tình thứ nhất).
Nguyễn Quang Trần thi sĩ đến mức vụng về. Không phải vụng về trong thơ mà là vụng về đến lóng ca lóng cóng khi đối mặt với những cơm áo đời thường. Vụng về với áo cơm cho dù anh thừa biết “cơm áo không đùa với khách thơ” (Xuân Diệu). Và vì vậy, thơ anh rất trân trọng những điều “vặt vãnh” vì anh tự nhận thấy mình quả là “hơi vô trách nhiệm”:
Nửa đời người, nửa đời em lo toan
Vắng em, anh trở thành thằng vô dụng
Nấu bữa cơn cũng lúng ta, lúng túng
Con khóc nhè, bố phải khóc theo (Bài thơ tình thứ nhất).
Nói, Trần “hơi vô trách nhiệm” với gia đình, với cuộc đời thì hơi quá, vì bản thân anh rất quý trọng người vợ hiền nên một thân một mình chạy thầy, tìm thuốc khắp mọi nơi, ăn nằm suốt ở bệnh viện trong những ngày vợ lâm bạo bệnh. Hai đứa con yêu quý của anh cũng học hành rất giỏi giang và sớm có việc làm ổn định. Nói “hơi vô trách nhiệm” là ở góc độ anh tự thú mà thôi. Mà, phàm những người dám tự thú cái sự “vô trách nhiệm” của mình lại chính là những người đầy trách nhiệm. Thử nghĩ mà xem, là Ủy viên Ban Chấp hành Hội VHNT tỉnh, sáng lập nhóm thơ Thiên Bút thi hữu, Chủ nhiệm CLB Thơ Trà Giang, anh dồn sức lo hết cho bạn thơ từ việc tập hợp thơ đến biên tập và in ấn những tác phẩm thơ chung. Nhưng với bản thân thì đúng là anh lơ ngơ đến chừng như “vô trách nhiệm”. Ai đời, suốt một đời chung thủy với thơ mà đến lúc tròn 60 tuổi đời vẫn chưa hề có một tập thơ riêng. Nói đúng ra thì… đã có, đó là tập “Gửi em một chữ yêu” xuất bản cách đây đã gần tròn 6 năm trường (tháng 11/2010). Một tác phẩm thơ đầu tay cho riêng mình, nhưng hỡi ôi khi đưa bản thảo đến Nhà in, anh lại lơ ngơ thế nào mà khi in ra thì sai sót lung tung đến nỗi không dám phát hành, bạn bè phải xúm vào hỗ trợ để anh in tập thơ khác chỉnh chu hơn dùng để biếu tặng. Cái chất thi sĩ, cái “hơi vô trách nhiệm” của Quang Trần chính là ở đó. Thì đã sao nào, anh đã từng thú nhận như thế cơ mà:
Chạm cốc đi mày, rượu tao lo
Hết tiền mua rượu, tao bán thơ
Những thằng thi sĩ là như thế!
Thiên hạ phong cho: Lũ khù khờ (Uống rượu với thằng bạn thân mới ra tù).
“Khù khờ” như thi sĩ là thế, nhưng với lẽ đúng sai, chân lý cuộc đời thì anh lại hơi “bị” tỉnh. Tỉnh đến độ đạt đạo. Thương người đến độ bao dung:
Chạm cốc nữa đi! Tao với mầy
Vẫn là bạn tốt từ xưa nay
Thằng nào có tội, thì đền tội
Đã gặp nhau rồi, uống thật say! (Uống rượu với thằng bạn thân mới ra tù).
Bên cạnh mảng thơ tình vừa mụ mị vừa trong trẻo, trong những phút giây mê say của một nhà báo chuyên nghiệp, Nguyễn Quang Trần cũng đã kịp để lại cho Quảng Ngãi những bài thơ hay về mảng đề tài quê hương. Thơ quê hương của anh được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và tạo được âm vang trong lòng người nghe trên làn sóng phát thanh, trong các kỳ lễ hội. Quê hương của Trần “thơm thào” và nồng đượm như vị cay “cá bống kho tiêu”, ngọt ngào như hương vị “bát don thơm”, chân tình như “củ khoai trong nắng”:
Nhớ bát don sông Trà thơm thảo hồn quê
Nhớ cá bống kho tiêu có vị cay, vị mặn
Ta lớn lên như củ khoai trong nắng
Từ những giọt mồ hôi thấm đẫm của bao người  (Gởi người em gái xa quê). 
Và dù bước chân thơ có mải mê lang bạt tha phương, thì hồn quê vẫn là nơi chốn quay về bên những thâm tình cố hữu:
Bước phong trần ta lang bạt ngược xuôi
Kỷ niệm quê hương vẫn vẹn nguyên trong ký ức
Nơi ấy, có mẹ, có cha, có bát cơm thơm và nước mắt
Có những người ra đi… từ lũy tre làng (Gởi người em gái xa quê). 
Sinh ra nơi làng quê nghèo (xã Phổ Phong, Đức Phổ) trong một dòng tộc giàu truyền thống cách mạng (anh gọi đ/c Nguyễn Nghiêm - Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi đầu tiên là ông nội thúc), từ năm 1973, anh đã tham gia du kích xã và là thầy giáo ở vùng giải phóng. Chính những bước đi đầu này nên sau hòa bình anh theo học ĐHSP Quy Nhơn và tiếp tục làm nghề giáo cho đến khi chuyển sang nghề báo. Nhưng có lẽ, nghiệp trần gian của anh lại chính là thơ. Và cho đến hôm nay, chuẩn bị đón tuần 49 ngày của anh, trong tôi vẫn cứ thấp thoáng hiện lên mồn một cái dáng dấp phong trần, bụi bặm của một người thơ, đang lơ ngơ đi giữa phố phường với mái đầu vừa điểm bạc. Cứ lơ ngơ kiếm tìm một bóng hình quá vãng rồi thảng thốt kêu lên:
Và cả em - Người con gái ấy
Trời bốn phương, biết em ở phương nào?
Ta hứng gió tìm chút hương ngày ấy
Nhưng gió và mây cứ hờ hững trời cao (Đa đoan).
Xóm Chòi Dầu, đầu Thu 2016.
Đa đoan
Em thì trẻ mà ta thì luống tuổi
Chuyện tình yêu đâu phải dễ dàng
Sao em cứ dập dềnh như sóng
Để tình ta trôi vào cõi đa đoan
Phải kiếp trước ta bị ai phụ bạc
Nên kiếp này cứ đau đáu con tim
Chốn phong trần ta lê chân bước
Tình yêu ta sao cứ gập ghềnh
Ta đi suốt một thời trai trẻ
Dĩ vãng quặn mình, tất cả lùi xa
Ta còn lại tóc màu sương muối
Và nỗi cô đơn năm tháng không nhòa
Em hiện giữa mùa xuân khoe sắc
Tuổi trinh nguyên chúm chím nụ hồng
Ta lặng lẽ ngồi bên ly rượu đắng
Thả lòng buồn vào cát bụi hư không
Ừ! thì để cho trái tim rướm máu
Dập dềnh trôi theo con sóng xô bờ
Ta không dám neo thuyền trên bến đậu
Sợ cái nhìn ai đó thờ ơ
Em thì trẻ, mà ta thì luống tuổi
Chuyện tình yêu đâu phải dễ dàng
Nhưng trời ạ, tình yêu nào biên giới!
Nên trọn đời ta vẫn cứ đa đoan.
Thơ Xuân cho riêng em
Cơn gió chiều thổi dọc triền sông
Để mùa xuân mênh mông nỗi nhớ
Ta thương nhau giữa mùa hoa nở
Như thương dòng sông bên lở, bên bồi
Có điều gì sâu lắng thế, em ơi!
Khi ngàn hoa lung linh khoe sắc
Và đôi mắt em như vì sao xanh biếc
Để đêm về ta thao thức bâng khuâng…
Mùa xuân này ta sánh bước cùng em
Giữa phố thị bao tiếng cười rộn rã
Có giọt nắng chiều rơi trên bóng lá
Có sợi gió chiều cho mái tóc em thơm
Tình yêu ta là vĩnh viễn mùa xuân
Ta sẽ đi bên em đến tận cùng trời, đất
Hai trái tim hòa chung nhịp đập
Để tình yêu chúng mình đẹp hơn mọi bài thơ
Tết Bính Thân - 2016
Gởi người em gái xa quê
Em có về Quảng Ngãi cùng anh?
Nơi có những cánh đồng cò bay thẳng cánh
Nơi có nắng gió miền Trung mang hương thơm
nồng đậm
Và tình người, tình đất miên man…
Em có về thăm dòng Trà Giang?
Nơi trai gái thương nhau như thương bên bồi, bên lở
Nơi có bến Tam Thương với những cánh buồm no gió
Tiếng chèo khuya thao thức đợi ta về…
Nhớ bát don sông Trà thơm thảo hồn quê
Nhớ cá bống kho tiêu có vị cay, vị mặn
Ta lớn lên như củ khoai trong nắng
Từ những giọt mồ hôi thấm đẫm của bao người. 
Bước phong trần ta lang bạt ngược xuôi
Kỷ niệm quê hương vẫn vẹn nguyên trong ký ức
Nơi ấy, có mẹ, có cha, có bát cơm thơm và nước mắt
Có những người ra đi… từ lũy tre làng.
Em có về Quảng Ngãi cùng anh?
Nơi có con đường ngày xưa chúng mình cùng đi học
Chiếc áo mới mẹ may với bao đêm ao ước…
Nhà có thêm người khi tóc mẹ hoa râm.
Bao kiếp người, có lẽ đã ngàn năm
Góp nhặt những vần thơ giữa hai bờ sông nước
Dòng Trà Giang dù mùa trong, mùa đục
Trái tim ta, vẫn trong vắt mối tình đầu.
Thơ cho riêng mình
Ai hiểu được chuyện nhân tình thế thái
Ai hiểu đời ta bằng chính lòng ta
Nhưng có thể có những điều ta chưa hiểu
Nên cuối đời vẫn còn lắm nỗi phong ba.
Ta muốn để cho tâm hồn thanh thản
Kiếp phong trần không vướng nỗi ưu tư
Dăm ly rượu đêm đêm cùng bè bạn
Nhìn cuộc đời vừa thực, vừa hư
Chiều xuân nay, ta tìm về cố quận
Bạn bè xưa giờ đã đâu rồi?
Đứa rời phố lên rừng mưu sống
Đứa rời làng bươn chải muôn nơi
Và cả em - Người con gái ấy
Trời bốn phương, biết em ở phương nao?
Ta hứng gió tìm chút hương ngày ấy
Nhưng gió và mây cứ hờ hững trời cao.
Ừ thì thôi! Giữa cuộc đời dâu bể
Chốn phong trần ta vẫn cứ là ta!
Ly rượu nhạt. Đêm giao thừa. Độc ẩm
Đón Xuân về trên mỗi nụ hoa
Tết Bính Thân - 2016
3 bài thơ mới của Nguyễn Quang Trần
Uống rượu với bạn thân mới ra tù
Ra tù... mầy liền đến thăm tao
Thằng bạn thân thương tự thuở nào
Dù nghèo kiết xác tao cũng tiếp
Tâm sự với mày chuyện tào lao
Chạm cốc đi mày, rượu tao lo
Hết tiền mua rượu, tao bán thơ
Những thằng thi sĩ là như thế!
Thiên hạ phong cho: Lũ khù khờ
Mặc cho thiên hạ, miệng liền tai
Những chuyện bao đồng chẳng thiệt ai
Rượu gạo quê mình là thứ thiệt
Muối ớt, xoài xanh... mình lai rai
Tao nhớ thuở mầy làm giám đốc
Của ngon, vật lạ trải đầy bàn
Chai rượu trời Âu hàng chục triệu
Vung tay mầy rót đổ tràn lan
Mầy đấm bạn bè những vố đau
Thằng nào, thằng nấy ghế ngã nhào
Rút ruột công trình như cơm bữa
Móc túi nhân dân đầy hầu bao
Ngồi ở ghế cao, quyền chức trọng
Biệt thự, xe hơi... chẳng thiếu gì
Gái đẹp bu mầy như lũ kiến
Giờ đây nghĩ lại mầy còn chi?
Đừng có nhìn tao như mắt ếch
Đừng có nghỉ tao giống cô hồn
Bao năm bốc lịch trong nhà ngục
Chẳng lẽ mầy chưa đủ trí khôn
Mầy nên về quê, đi chăn vịt
Vui với vợ con, với ruộng đồng
Gà, vịt dạy mầy biết lẽ sống
Mầy đừng  mơ tưởng chuyện viễn vông
Chạm cốc nữa đi! Tao với mầy
Vẫn là bạn tốt từ xưa nay
Thằng nào có tội, thì đền tội
Đã gặp nhau rồi, uống thật say!
CHÙM THƠ NGUYỄN QUANG TRẦN
(Trong tập thơ “Gửi em một chữ yêu” xuất bản tháng 11/2010) 
1. Nụ hôn đầu
Người tình ơi, em có nhớ chăng?
Khi mùa quế tỏa hương thơm ngát
Anh đến tìm em giữa mùa ong làm mật
Nên nụ hôn đầu cứ ngọt lịm vành môi
Anh đưa em đi dưới bóng trăng rơi
Đêm Cà Đam, rừng thiêng thao thức…
Ánh mắt ai như vì sao xanh biếc
Mà dịu dàng như điệu Xà Ru
Anh lắng nghe từ sâu thẳm thiên thu
Gió vi vút gọi anh về với núi
Để bước chân anh suốt đời rong ruổi…
Vẫn nhớ hoài hai tiếng quê hương
Nhớ bóng ai tần tảo sớm hôm
Nhớ bản làng vào mùa lúa mới
Nhớ bát cơm thơm người vui ngày hội
Rừng chung chiêng theo chén rượu nồng
Người tình ơi, em có nhớ không?
Lời yêu thương ngày xưa mình hẹn ước
Dẫu con sông Trà Bồng có đầy vơi, trong đục
Ta với rừng mãi mãi bên nhau
Đi bên em lòng bỗng nao nao…
Trăng sáng thế! Đại ngàn mênh mông thế!
Ta lặng yên nghe tiếng lòng khe khẽ
Để nụ hôn đầu xao xuyến rừng đêm.
2. Bài thơ tình thứ nhất
Sống bên nhau đã nửa cuộc đời
Anh mới viết nổi cho em bài thơ tình thứ nhất
Năm tháng gian lao tóc tụi mình đã vài sợi bạc
Thương nhau nhiều qua bao nỗi đắng cay
Nửa đời người, anh vẫn trắng tay
Gian nhà trống gió lùa rung vách
Chỉ có tình yêu là như hương hoa thơm ngát
Qua nắng mưa bão tố vẫn xanh ngời
Sống bên nhau đã nửa cuộc đời
Anh càng thấy thương em hơn qua mỗi bữa ăn đạm bạc
Thương cái tính dịu dàng chân chất
Đêm ngày vất vả chuyện chồng con
Nửa đời người, nửa đời em lo toan
Vắng em, anh trở thành thằng vô dụng
Nấu bữa cơn cũng lúng ta, lúng túng
Con khóc nhè, bố phải khóc theo
Nửa cuộc đời – bao nỗi gian lao
Em vẫn lặng lẽ như là hoa cỏ
Lặng lẽ tỏa hương trong gió
Thành bài thơ anh viết lúc nửa cuộc đời.
3. Đa đoan
Em thì trẻ mà ta thì luống tuổi
Chuyện tình yêu đâu phải dễ dàng
Sao em cứ dập dềnh như sóng
Để tình ta trôi vào cõi đa đoan
Phải kiếp trước ta bị ai phụ bạc
Nên kiếp này cứ đau đáu con tim
Chốn phong trần ta lê chân bước
Tình yêu ta sao cứ gập ghềnh
Ta đi suốt một thời trai trẻ
Dĩ vãng quặn mình, tất cả lùi xa
Ta còn lại tóc màu sương muối
Và nỗi cô đơn năm tháng không nhòa
Em hiện giữa mùa xuân khoe sắc
Tuổi trinh nguyên chúm chím nụ hồng
Ta lặng lẽ ngồi bên ly rượu đắng
Thả lòng buồn vào cát bụi hư không
Ừ! Thì để cho trái tim rướm máu
Dập dềnh trôi theo con sóng xô bờ
Ta không dám neo thuyền trên bến đậu
Sợ cái nhìn ai đó thờ ơ
Em thì trẻ, mà ta thì luống tuổi
Chuyện tình yêu đâu phải dễ dàng
Nhưng trời ạ, tình yêu nào biên giới!
Nên trọn đời ta vẫn cứ đa đoan.
5. Gởi người em gái xa quê
Em có về Quảng Ngãi cùng anh?
Nơi có những cánh đồng cò bay thẳng cánh
Nơi có nắng gió miền Trung mang hương thơm
nồng đậm
Và tình người, tình đất miên man…
Em có về thăm dòng Trà Giang?
Nơi trai gái thương nhau như thương bên bồi, bên lở
Nơi có bến Tam Thương với những cánh buồm no gió
Tiếng chèo khuya thao thức đợi ta về…
Nhớ bát don sông Trà thơm thảo hồn quê
Nhớ cá bống kho tiêu có vị cay, vị mặn
Ta lớn lên như củ khoai trong nắng
Từ những giọt mồ hôi thấm đẫm của bao người. 
Bước phong trần ta lang bạt ngược xuôi
Kỷ niệm quê hương vẫn vẹn nguyên trong ký ức
Nơi ấy, có mẹ, có cha, có bát cơm thơm và nước mắt
Có những người ra đi… từ lũy tre làng.
Em có về Quảng Ngãi cùng anh?
Nơi có con đường ngày xưa chúng mình cùng đi học
Chiếc áo mới mẹ may với bao đêm ao ước…
Nhà có thêm người khi tóc mẹ hoa râm.
Bao kiếp người, có lẽ đã ngàn năm
Góp nhặt những vần thơ giữa hai bờ sông nước
Dòng Trà Giang dù mùa trong, mùa đục
Trái tim ta, vẫn trong vắt mối tình đầu.
6. Thôn Vạn
Lâu lắm không về thăm thôn Vạn
Lòng cứ vu vơ nhớ những chiều
Không gian ngan ngát hương hoa lúa
Thẹn thùng cô gái chớm tuổi yêu
Ta biết lòng ta thương, thương lắm!
Nhưng nào dám ngỏ một lời yêu
Cứ mỗi chiều về trên đường vắng
Em đi. Ta lặng lẽ nhìn theo…
Đôi khi bất chợt gặp trên đường
Em chúm chím cười đến dễ thương
Thơm ngát lòng ta hương hoa lúa
Ta về mang nặng nổi tơ vương…
Cho đến một ngày, giữa nắng trong
Chia tay thôn Vạn, em theo chồng
Ta đứng một mình trên đường vắng
Nhặt bóng em đi giấu vào lòng
Vu quy, không có lời tiễn biệt
Chỉ có người đi, kẻ ngóng trông
Đêm ôm gối chiếc, buồn cánh lúa
Gió thổi, hương bay vào hư không…
Từ ấy bước chân ta lưu lạc
Phong trần ôm kiếp mộng hoàn lương
Đường về thôn Vạn ôi xa quá!
Nên trái tim ta rớt dọc đường
Lâu lắm không về thăm thôn Vạn
Lòng cứ vu vơ nhớ những chiều
Có người con gái cười chúm chím
Trọn cuộc đời ta, trọn kiếp yêu!
VIẾT CHO BẠN - VIẾT VỀ CUỘC ĐỜI CHÌM NỔI “PHONG TRẦN” CỦA NHÀ GIÁO, NHÀ BÁO, NHÀ THƠ NGUYỄN QUANG TRẦN
Cầm trên tay và đọc lại tập thơ “Gửi em một chữ yêu” của nhà thơ Nguyễn Quang Trần - Hội VHNT Quảng Ngãi xuất bản năm 2010, kí ức về anh về người bạn văn thân thiết hình như vẫn vẹn nguyên trong tâm trí tôi. Biết và chơi thân với anh Nguyễn Quang Trần hơn 10 năm, chính xác là từ đầu năm 2006 thông qua vài người bạn ở quê. Hình ảnh ấn tượng đầu tiên in vào mắt tôi, anh Nguyễn Quang Trần với mái tóc bồng bềnh phiêu lãng, phong cách ăn mặc bụi bặm. Tố chất thi nhân ấy cô đọng lại trong một con người và sau này chơi thân với anh hơn nó lần lượt được giải mã.
Nhà thơ Nguyễn Quang Trần sinh năm Bính Thân, còn tuổi giấy tờ thì sinh năm 1958, có nghĩa là anh còn vài ba năm nữa mới cầm quyết định nghỉ hưu. Nhưng… chưa kịp đến ngày đó, anh đã rời cõi tạm một cách đột ngột vào chiều tối 20 tháng 8 năm 2016 (tức ngày 18 tháng 7 năm Bính Thân) trên đường đưa ra Đà Nẵng cấp cứu. Lần gặp cuối cùng giữa tôi và anh là sau khi kết thúc Lễ khai mạc Triển lãm Mỹ thuật Khu vực V Nam miền Trung và Tây Nguyên vào ngày 16/8/2016, mà anh được mời dự. Tôi chỉ kịp nhìn anh gật đầu chào, do lu bu công việc của sự kiện và tôi cũng không ngờ đó là lần gặp sau cuối. Đêm hôm anh ra đi, tôi nhận một cuộc gọi điện thoại vào lúc 20h00 của người bạn ở Mộ Đức báo tin anh đã mất. Tôi nghĩ có lẽ ai đó “chọc đùa” vì thỉnh thoảng tôi cũng nhận được vài cuộc gọi tương tự như vậy!? Sợ tin chẳng lành đến với mình giữa đêm khuya nên tôi để điện thoại ở chế độ im lặng … Nửa đêm tỉnh giấc, tôi bật điện thoại thì có nhiều cuộc gọi nhỡ của bạn bè ở thành phố Quảng Ngãi và tôi đã bàng hoàng, rụng rời tay chân… trằn trọc thao thức chờ sáng không ngủ tiếp được vì tin chắc rằng nhà thơ Nguyễn Quang Trần vĩnh viễn ra đi.
Cuộc đời là vậy! Thật ngắn ngủi vô thường, người mới đó còn hiện diện sau đó ta không bao giờ gặp nhau nữa. Có chăng, chỉ là hình bóng mờ ảo khói sương, những kỷ niệm về nhau dần dần sẽ đi vào quên lãng. Hôm tiễn anh về với đất, nơi anh nằm là một nơi cũng gần mộ phần chị Bùi Thị Kim Dung, người vợ hiền của anh và thời tiết giữa thu cũng sụt sùi sau khi quan tài anh dần dần hạ xuống huyệt mộ. 
Có nhiều điều để viết về một nhà giáo, nhà báo, nhà thơ Nguyễn Quang Trần, tôi chỉ chọn một góc nhỏ để tưởng nhớ, một người bạn thơ với những sáng tác về quê hương, về tình yêu thật sâu lắng, ngọt ngào. Một số bài thơ của anh được các nhạc sĩ phổ thành ca khúc giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Anh có về Quảng Ngãi cùng em (nhạc Thy Lộc), Một thoáng Trà Bồng (nhạc Minh Đát), Em trốn nơi nào (nhạc Ni Ni), Người hạnh phúc (nhạc Lê Sinh Dân)…
Nhà thơ Nguyễn Quang Trần có cách dùng từ ngữ ngắn gọn với độ khái quát cao, đầy triết lý và nhân văn. Anh thường trích dẫn những câu danh ngôn mang tính chính luận về triết học, văn học; có lẽ do một phần anh được đào tạo cơ bản chuyên ngành lịch sử - chính trị tại Trường đại học Sư phạm Quy Nhơn, Sau này, anh dành thời gian cho công việc nghiên cứu, giảng dạy Trường Đảng tỉnh Nghĩa Bình và giảng dạy cho học sinh ở một số trường THPT trong tỉnh.
Mỗi địa phương, địa danh nơi anh từng đến công tác hay giao lưu với bạn bè đều được anh ghi lại cảm xúc bằng thơ thật ấn tượng như: Mộ Đức, Minh Long, Trà Bồng, Sơn Tây, Lý Sơn… Một số dòng sông quê hương được anh đưa vào thi ca như: sông Trà, sông Vệ, sông Thoa, sông Liêng, sông Phước Giang… Trong thơ anh còn đưa cảm xúc về làn điệu dân ca Quan họ, Lý thương nhau… Anh còn giới thiệu điệu Xà ru, điệu Ta lêu của đồng bào Hre, Cor, Cadong ở vùng cao Quảng Ngãi và một số bài thơ ghi lại thoáng bất chợt về ánh mắt, mái tóc duyên dáng của “nàng thơ ở Quy Nhơn, Cà Mau, Tiền Giang, Sài Gòn…” làm xuyến xao bước chân lãng tử của anh.
Nguyễn Quang Trần tự cho mình là người “đa đoan”: “Em thì trẻ mà ta thì luống tuổi/ Chuyện tình yêu đâu phải dễ dàng/ Nhưng trời ạ! Tình yêu nào biên giới/ Nên trọn đời ta vẫn cứ đa đoan.” (Đa đoan). Ấy vậy! Mà tình yêu anh dành trọn cho cô giáo Bùi Thị Kim Dung trước sau như nhất, đồng cam cộng khổ: “Sống bên nhau đã nửa cuộc đời/ Anh mới viết nổi cho em bài thơ tình thứ nhất/ Năm tháng gian lao tóc mình đã vài sợi bạc/ Thương nhau nhiều qua bao nỗi đắng cay…” (Bài thơ tình thứ nhất). Anh và chị Dung quen, yêu nhau thời cả hai cùng dạy ở Trường THPT Trà Bồng, được lãnh đạo cơ quan tác hợp và tổ chức lễ cưới tập thể đông vui, hai vợ chồng được trường bố trí ở nhà tập thể không kém phần ấm cúng. Về sau này, chị được chuyển về giảng dạy ở Trường THPT Lê Trung Đình, còn anh được chuyển về công tác Báo Quảng Ngãi làm phóng viên, anh có thời gian làm Biên tập viên chuyên trang Văn hóa, văn nghệ của Báo Quảng Ngãi cuối tuần. Hai vợ chồng khắc phục khó khăn ban đầu là ở nhờ nhà phía bên vợ tận Nghĩa Dõng, cuối cùng anh chị tìm được tổ ấm ổn định riêng mình ở phường Nghĩa Lộ để trọn vẹn hạnh phúc cuối đời. Cháu gái đầu học giỏi tốt nghiệp Đại học Y Huế ra trường nhận công tác ở Bệnh viện Quảng Ngãi, còn cháu trai cũng tìm được việc làm ở Ngân hàng Đông Á. Chỉ tiếc rằng vợ anh chưa kịp vui mừng, chị lâm bạo bệnh và qua đời cách đây hơn 2 năm, anh cũng không còn trên cõi trần nữa! Trong thời gian chị Dung bị trọng bệnh, anh xin nghỉ việc cơ quan để tập trung việc chữa chạy cho vợ. Anh là nguồn động viên, cùng chia sẻ với chị về nỗi đau đớn khi bệnh tật hoành hành, có những đêm trắng không ngủ được ở các bệnh viện trong và ngoài tỉnh. Khi chị Dung được đưa trở về Quảng Ngãi tiếp tục chữa bệnh, có ai bày phương thuốc nào anh cũng lặn lội kiếm tìm mang về cho vợ uống.
Sức khỏe anh cũng từ đó cũng suy kiệt dần, có lúc anh phải nhập viện để điều trị… Và việc gì đến cũng phải đến, anh đột ngột ra đi khi tuổi đời đã vượt qua độ tuổi “tri thiên mệnh” chạm đến tuổi “thọ”. Một vài bạn thân đã chứng kiến, tận tụy giúp anh từ khi được đưa đi cấp cứu cho đến khi anh ngừng thở. Vâng! Anh sống trọn vẹn tình nghĩa với bạn bè và bạn bè cũng đáp lại tình nghĩa đó, trong đời thường và trong lúc “trà dư tửu hậu” anh cùng nhóm bạn chia sẻ nhau chén rượu, ly bia, miếng mồi…
Nhà thơ Nguyễn Quang Trần đã dành nhiều tâm huyết cho Nhóm thơ Thiên Bút Thi Hữu (thành lập vào ngày 16/9/2006) và sau này là Câu lạc bộ Thơ Trà Giang (thành lập vào ngày 28/6/2013) và trong Đại hội lần thứ I của CLB Thơ Trà Giang nhiệm kỳ 2014 - 2016 được tổ chức vào ngày 27/7/2014 thì nhà thơ Nguyễn Quang Trần được anh chị em hội viên tín nhiệm bầu làm Chủ nhiệm. Ngoài ra, anh còn Ủy viên BCH Hội Văn học, Nghệ thuật Quảng Ngãi khóa III (2008-2013) và khóa IV (2014-2019). Anh có những dự định ước mơ xây dựng câu lạc bộ thơ, tuy nhiên do những điều kiện khách quan và chủ quan nên phong trào chưa được phát triển đồng bộ. Tuy nhiên, những đóng góp của anh cho phong trào thơ tỉnh nhà có một số thành tích nổi bật. Nhà thơ Nguyễn Quang Trần cùng số anh em tâm huyết đã xuất bản 03 tập thơ: “Bài thơ tình thứ nhất”, “Dòng sông thao thức” và “Sóng sông Trà” của nhóm thơ Thiên Bút Thi Hữu; tập thơ “Trà Giang thương nhớ” phát hành vào tháng 01/2014 và đang chuẩn bị bản thảo đồng thời xin giấy phép xuất bản tập thơ thứ 2 của CLB Thơ Trà Giang, theo dự kiến của Ban chủ nhiệm tập thơ sẽ hoàn thành in ấn và ra mắt vào tháng 9/2016. Riêng anh chỉ có một tập thơ duy nhất “Gửi em một chữ yêu” được xuất bản vào tháng 11/2010, tập thơ ra đời cũng gặp trục trặc về mặt kỹ thuật, nhóm anh em thân thiết đã chung tay góp kinh phí giúp anh in lại.
Anh Nguyễn Quang Trần xuất thân từ gia đình có truyền thống cách mạng lâu đời (anh gọi Đ/c Nguyễn Nghiêm - Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi đầu tiên là ông nội thúc), từ năm 1973 anh tham gia du kích xã, là thầy giáo ở vùng giải phóng, sau năm 1975 anh sớm được đào tạo cơ bản, chính quy. Trong quá trình phấn đấu công tác của nhà thơ Nguyễn Quang Trần cũng không được suôn sẻ mà luôn gập ghềnh sóng gió ở những giai đoạn nước rút quan trọng để phát triển đi lên. Trong dòng đời xuôi chảy, ta khó nói trước được điều gì, có lẽ cái tên vừa là bút danh “Quang Trần, Phong Trần” đã vận vào cuộc đời “chìm nổi” của anh. Nội dung bài thơ “Miền ẩn tích, “Đa đoan” “Ước gì”… (tên các bài thơ NQT) đã nói lên tất cả và một số dự định ước ao của anh mãi mãi chỉ là “giấc mơ” dài, có phải không nhà thơ Nguyễn Quang Trần!?
Rồi ai cũng sẽ về với đất, đó là quy luật tự nhiên của cuộc đời mỗi người “Đa mang một kiếp phong trần/ Ai nào dám trách trời gần, đất xa…”; “Ừ thì thôi! Giữa cuộc đời dâu bể/ Chuyện người đi, kẻ ở lẽ thường!” (thơ NQT). Hôm tiễn anh đi, trong nhiều giọt lệ của người thân, bà con xóm giềng, đồng nghiệp, bạn văn tiếc thương anh còn có giọt nước mắt thương yêu của một vài “nàng thơ” dành riêng anh, có lẽ chỉ một mình anh biết!? Thời gian rất nghiệt ngã, việc “sinh - bệnh - lão - tử” là điều hiển nhiên ai cũng phải chấp nhận. Đối với tôi, tôi vẫn còn “nợ anh” chia sẻ tâm tình trong ngày tháng cuối, riêng anh vẫn còn “nợ thiên hạ” nhiều thứ lắm! Hình ảnh về người bạn hiền “nhà thơ Nguyễn Quang Trần” và những tình cảm của tôi dành cho anh, nó sẽ còn ám ảnh tôi nhiều ngày nữa mới có thể nguôi ngoai.
Vệ Giang, 27/8/2016
Mai Bá Ẩn
Theo http://phongdiep.net/



1 nhận xét:

  Một nốt nhạc trầm 20 Tháng Hai, 2022 Từ bài thơ Lời tự tình mùa thu của Ngũ Lang Trong thơ ca truyền thống, mùa thu là nguồn cảm hứn...