Có
thành ngữ “Nước mắt cá sấu” để ám chỉ những giọt nước mắt giả dối. Nhưng dường
như với nhà văn Nam Cao, ông là không tin vào hình ảnh đó, ý nghĩa đó. Ông tỏ
ra là người rất tin tưởng vào giọt nước mắt hướng thiện, thiên lương của con
người. Nhà văn đã có hẳn một truyện ngắn mang tên Nước mắt. Ông lấy
lời của nhà văn, nhà thơ Pháp Francois Coppée (1812 - 1908) làm đề từ cho
truyện ngắn của mình: “Người ta chỉ xấu xa, hư hỏng trước đôi mắt háo
hoảnh của phường ích kỷ; và nước mắt là một miếng kính biến hình vũ trụ.” Qua
lời đề từ ấy, ta có thể hiểu được cách nhìn đời, nhìn người của nhà văn hiện
thực và nhân đạo. Với “đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỷ”, tức là với cái
nhìn hời hợt, nông nổi, hẹp hòi, lạnh lùng, người ta chỉ thấy thế giới này
toàn là xấu xa, hư hỏng, toàn là cái đáng buồn, cái làm cho ta buồn.
Ngược
lại, nếu cảm nhận cuộc sống và con người bằng “nước mắt”, tức là đánh
giá, nhìn nhận bằng tình thương và sự trân trọng, bằng trách nhiệm, ta có thể
thấy vũ trụ này “biến hình”, nghĩa là ta có thể bắt gặp những vẻ đẹp cao
quý, thánh thiện ngay trong những điều tưởng chừng như là “gàn dở, ngu
ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi …”. Với “đôi mắt” của tình yêu
thương, tin cậy, ta có thể đi sâu phát hiện bản chất đích thực của con người
và cuộc đời.
Nói
cách khác, lời của nhà văn Pháp cũng là chân lý nghệ thuật của Nam Cao: vấn đề
không phải người ta nhìn thấy cái gì, mà quan trọng hơn là người ta nhìn thấy
như thế nào, bằng cách nào; “đôi mắt” đúng đắn nhất - cách nhìn đời,
nhìn người đúng đắn nhất - là dựa trên tình thương, dựa trên chủ nghĩa nhân đạo
cao quý. “Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên bên trên tất cả các bờ
cõi và giới hạn, phải là tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng
một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng
thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn.” (Đời
thừa)
Với
một quan niệm như thế, nhà văn “Nam Cao đã để lại những áng văn nóng hực
của một nhân cách và một tài năng lớn” (Chu Văn Sơn) (1). Bằng lòng yêu
thương, gắn bó, ân tình sâu nặng đối với những người nghèo khổ, Nam Cao đã hướng
đến những số phận hẩm hiu, bị bần cùng đến mức thê thảm. Trong Một đám
cưới, vì nghèo mà gia đình Dần ly tán. Dần phải cho cưới vì khi mẹ Dần mất,
nhà không còn một đồng xu nào, đã nhận của người ta hai mươi đồng bạc cưới.
Sau đám cưới, người cha phải ngược lên rừng kiếm ăn, các em Dần thì gửi nhờ
hàng xóm. Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên thì không còn gì để ăn, vì phải
giữ lại mảnh vườn cho con nên ăn bả chó tự tử. Nhân vật Hộ, Thứ, Điền… (trong Đời
thừa, Sống mòn, Trăng sáng…) phải luôn đối mặt với gánh nặng áo cơm, luôn
điên người lên để xoay tiền, đã không ít lần cư xử thô bạo với vợ con.
Nam
Cao không chỉ nhìn thấy bi kịch của sự đói nghèo, đôi mắt nhân đạo sâu sắc, mới
mẻ của nhà văn còn giúp ông phát hiện những tấn bi kịch tinh thần đau đớn,
day dứt, nhưng không kém giằng co, dữ dội trong tâm hồn những con người cùngkhổ (trong Lão Hạc, Chí Phèo, Đời thừa, Sống mòn…). Ở đây, Nam Cao
đã phát hiện ra những cái chết (cái chết sinh học của lão Hạc, Chí Phèo, cái
chết tinh thần của Hộ, Thứ…) nhưng đó là những “cái chết đòi được sống.”
Ở một
số tác phẩm, nhất là những tác phẩm viết về người nông dân, bằng cái nhìn tuy
lạnh lùng, tỉnh táo nhưng không “ráo hoảnh”, Nam Cao còn phát hiện một
quy luật của xã hội cũ. Đó là sự hà hiếp, áp bức, bóc lột tận cùng của giai cấp
thống trị đã đẩy những người dân nhỏ bé, tội nghiệp đến sự tha hoá, đánh mất
lòng tự trọng, mất lương phẩm. Một bà lão ngót nghét bảy mươi, đói đến mức
nghĩ ra một kế : lần mò đi kiếm một bữa ăn trong sự mắng nhiếc sa sả của bà
phó Thụ. “Một bữa no” của bà lão già ốm yếu, đói vàng cả mắt ấy, tội
nghiệp thay, cay đắng thay, là một bài học cho những ai cố “ăn tộ vào” vì “người
ta đói đến đâu cũng không thể chết, nhưng no một bữa là đủ chết.”! Anh
cu Lộ (Tư cách mõ) là “một anh mõ chính tông”, “cũng đê
tiện, cũng lầy là, cũng tham ăn” và càng lúc càng “tiến bộ mãi
trong nghề nghiệp mõ. Người ta càng khinh hắn, càng làm nhục hắn, hắn càng
không biết nhục.” Nhà văn đã lý giải nguyên nhân của sự tha hoá của những
kiếp người cùng khổ ấy là do hoàn cảnh, do sự đẩy đưa, thúc ép của hoàn cảnh.
Vì thế trên những trang văn chua xót ấy, người đọc vẫn cảm nhận được ân tình
của nhà văn đối với các nhân vật của mình.
Một
mặt, Nam Cao không bao giờ nhìn cuộc đời bằng “con mắt ráo hoảnh của phường
ích kỷ”, mặt khác nhà văn luôn nhìn nhận, đánh giá con người và cuộc sống bằng
nguyên tắc của tình thương. Nếu nhìn nhận cuộc đời bằng nước mắt - tức là con
mắt của tình thương- thì “vũ trụ sẽ biến hình”, “cuộc đời chưa hẳn đã
đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”(Lão Hạc).
Trong những con người bất hạnh vẫn âm ỉ cháy những đốm lửa nhân tính. Họ là
những người “đáng kính”, bậc chí thiện, những thiên lương cao quý. Và những
lúc nhân vật Nam Cao trở lại nguyên vẹn bản chất tốt đẹp, lương thiện, đúng
nghĩa của hai chữ CON NGƯỜI, thì giọt nước mắt lại xuất hiện, lại lấp lánh
trên những con chữ, những trang văn của ông.
1.
Gần như truyện nào cũng có giọt nước mắt
Truyện
của Nam Cao trước Cách mạng là những câu chuyện buồn về kiếp sống lay lắt,
xác xơ của những người nông dân khố rách áo ôm hay những người trí thức thường
xuyên thất nghiệp, quẩn quanh ở xó nhà quê hay những xóm trọ nghèo nàn. Vì thế
có thể thấy gần như truyện nào của Nam Cao cũng đều có giọt nước mắt. Hình ảnh
nước mắt xuất hiện với tần số khá cao vì cuộc đời nhân vật Nam Cao đều là những
tấn bi kịch. Ngay cả truyện ngắn mang tên là Cười thì cái cười cũng
là tiếng khóc lộn ngược. Nhân vật “hắn” lúc “mỉm cười với
trăng”, khi “cười khanh khách”, “cười rũ rượi, cười ngặt nghẽo” bởi
với hắn tiếng cười là “liều thuốc giải uất”. Tiếng cười “tự kỷ ám
thị” hắn cứ phải dùng hoài vì không lúc nào là gia đình không túng bấn,
vợ chồng không cãi nhau, con lúc nào cũng nheo nhéo, the thé khóc, vợ lúc nào
cũng nhăn nhó, gắt gỏng. “Nhà um lên những tiếng dứt lác, dằn vặt, hắt hủi
và khóc lóc.” Hắn cười vì hắn “sợ cái chết trong lúc sống: cái chết
đáng buồn của những người sống sờ sờ ra đấy, nhưng chẳng dùng sự sống của
mình vào công việc gì …”
Đám
cưới lẽ ra là chuyện vui, là hạnh phúc nhưng Một đám cưới của Nam
Cao thì chẳng khác chi một đám ma, thậm chí một đám ma nhà nghèo. Cả nhà gái
nhà trai chỉ vỏn vẹn có sáu người. Ông bố vợ kéo mấy cành rào rấp ngõ và đám
cưới ra đi. Mẹ chồng quần đụp, áo vá. Cô dâu sụt sịt khóc, đi bên cạnh mẹ chồng.
Chú rể dắt đứa em lớn. Thằng bé thì ông bố cõng. “Cả bọn đi lủi thủi
trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi
tìm chỗ ngủ …” Một đám cưới nhưng thực chất là chia người ra để chạy trốn
cơn đói. Sau đám cưới là gia đình phân ly. Vì vậy ban đầu Dần “sụt sịt
khóc” rồi Dần “khóc nấc lên, nức nơ”, “thằng lớn chực
khóc, thằng bé ngây mặt ra, người cha thấy lòng thổn thức…”
Nam
Cao có hẳn một truyện đặt tên là Nước mắt đẫm đầy nước mắt: nước mắt
đầm đìa của Điền, của cái Hường - con Điền, nước mắt giàn giụa của ông Phán
láng giềng nhà Điền. “Chỉ vì người nào cũng khổ cả, vì người nọ cứ tưởng vì người kia mà khổ” nên “nghiến rứt” nhau, đối xử “tàn
nhẫn” với nhau, “làm khổ lẫn nhau”.
Rồi Sống
mòn, Trăng sáng, Đời thừa, Chí Phèo, Lão Hạc, Từ ngày mẹ chết, Bài học quét
nhà, Dì Hảo, Điếu văn…truyện nào cũng chan chứa, đầm đìa những giọt
nước mắt cay đắng, tủi cực… góp phần làm nên một đặc điểm thi pháp truyện Nam
Cao trước Cách mạng.
2.
Giọt nước mắt gắn liền với những cảnh đời bi kịch
Nghệ
thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Nam Cao không tách rời những vấn đề xã hội.
Xã hội thực dân phong kiến Việt Nam trước năm 1945 là một xã hội bất công,
phi nhân tính, giam hãm con người triền miên trong đói khổ, tù túng và dốt
nát. Không phải ngẫu nhiên mà GS. Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét truyện Nam Cao
xoay quanh vấn đề cái đói và miếng ăn. “Nếu như tác phẩm của Ngô Tất Tố là tiếng
kêu cứu đói, thì ở tác phẩm của Nam Cao lại là tiếng kêu cứu lấy nhân cách,
nhân phẩm, nhân tính của con người đang bị cái đói và miếng ăn làm cho tiêu
mòn đi, thui chột đi, huỷ diệt đi.”(2) Với những người nông dân đáng
thương, Nam Cao đã tập trung khắc hoạ bi kịch quẫn bách vì bần hàn, đói rách,
thậm chí vì thấp cổ bé họng mà họ còn bị bọn thống trị dồn đẩy vào ngõ cụt
nên quay ra chống trả bằng con đường tha hoá, lưu manh hoá. Vì cứ phải triền
miên đối mặt với đói rét, ốm đau nên các nhânvật của Nam Cao hay khóc. Đằng
sau luỹ tre xanh, đây đó lại dội lên tiếng khóc của những cố nông than thân
trách phận, hờn trời oán đất, kể lể tình cảnh bi ai của mình.
Một
bữa no là một tiếng khóc như thế. Bà cái Tý đã phải nhịn đói mấy hôm rồi
nên bà hờ con suốt đêm, bà hờ thê thảm lắm, bà khóc đến gần mòn hết ra thành
nước mắt. Đến gần sáng thì bà không còn sức mà khóc nữa. Vì vậy mà óc bà “sáng
suốt”, bà nghĩ ngợi và tìm ra một kế : bà đi “ăn rình” nhà bà phó Thụ một bữa! Bà lão bằng mọi giá phải được “một bữa no” trong sự lườm nguýt, chì chiết,
nhục mạ của bà phó. Bà ăn ngay, ăn vội vàng, lập cập vì sợ người khác ăn hết.
Rồi bà còn cạo nồi sồn sột, bà trộn mắm, bà rấm nốt. Nam Cao bề ngoài có vẻ
thản nhiên, lạnh lùng miêu tả chậm rãi từng chi tiết nhưng kỳ thực trang văn
đã đẫm đầy những giọt nước mắt thương cảm, chua xót trước cảnh vì đói khát mà
có những người nông dân phải đổi nỗi khổ về vật chất lấy nỗi nhục về tinh thần,
từ bỏ cả lòng tự trọng và nhân cách con người.
Dì
Hảo là một truyện gần như không có chuyện, xoay quanh cuộc đời buồn tủi,
bất hạnh của dì Hảo từ ngày dì đi lấy chồng, một người chồng không yêu
dì, mà lại còn khinh dì nữa. Dì phải nai lưng đi làm nuôi hắn. Mỗi ngày người
đàn bà nhẫn nại ấy kiếm được hai hào. Dì ăn có năm xu. Còn một hào thì hắn
dùng vào uống rượu. Khi ông trời bắt dì phải đẻ một đứa con, đứa con chết mà
dì thì tê liệt, mỗi ngày không còn hai hào nữa, hắn đã chửi nhiều lắm. “Dì
Hảo chẳng nói gì. Dì nghiến chặt răng để khỏi khóc nhưng mà dì cứ khóc. Chao
ơi! Dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc nấc lên, khóc như người ta thổ. Dì thổ
ra nước mắt.” Nhưng rồi bệnh dì cũng qua, dì Hảo lại đi làm, lại có tiền,
người chồng bỗng trở về, về với một người vợ theo trơ tráo. Ban đầu thì dì ngạc
nhiên, rồi tức tối nhưng rồi dì nhẫn nại: nếu hắn không về thì cũng thế. “Dì
chẳng hé răng nói nửa lời nhưng dì khóc ngấm ngầm khi chúng cười vui”. Rồi đến
một ngày không thấy con vợ bé đâu, hắn lại uống rồi hắn lại chửi. “Dì Hảo
cắn răng lại để cho khỏi khóc nhưng cứ khóc”. Cuối cùng hắn lại bỏ đi. “Dì
Hảo ngạc nhiên, rồi tức tối. Sau cùng thì dì nhẫn nại. Phải, nhẫn nại là hơn
: nếu hắn cứ ở nhà thì cũng thế.”
Truyện
về nông thôn của Nam Cao cũng không thiếu giọt nước mắt của trẻ thơ – những nạn
nhân tội nghiệp của sự thiếu đói, nghèo túng. Trong Bài học quét nhà là
bé Hồng mới có năm tuổi “có một lúc kia, ngước đôi mắt giàn giụa nước mắt
nhìn bố như cầu cứu” khi người mẹ vì “lo lắng quá” mà sinh ra
có cử chỉ “vô lý và tàn nhẫn” đối với con. Từ ngày mẹ chết, ba
năm là chuỗi ngày đẫm đầy nước mắt của Ninh và Đật, nhưng thê thảm nhất là
ngày thầy Ninh bán nhà vì thua xóc đĩa. Người ta đến dỡ nhà, tiếng dùi đục
chan chát nghe ghê rợn như tiếng đóng cá chiếc săng của mẹ, Ninh mếu máo rồi
Ninh oà lên khóc. Bữa tiệc thịt chó của một thằng-cha mất hết tính người là một
bữa khóc của một người mẹ rất còm cõi và bốn đứa con gầy ốm. “Thằng cu
Con khóc oà lên. Nó lăn ra, chân đập như một người giãy chết, tay cào xé mẹ.
Người mẹ đỏ mũi lên và mếu xệch đi, rưng rức khóc. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ
cũng oà khóc theo.” (Trẻ con không ăn được thịt chó)
Năm
1941, Chí Phèo được in thành sách lần đầu với cái tên Đôi lứa
xứng đôi, người ta đã nhận thấy đây là tấn bi kịch thê thảm nhất của người
dân cày trong xã hội cũ. Chí Phèo là một cố nông lương thiện đã từng có mơ ước
hết sức bình dị “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt
vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba
sào ruộng làm.” Nhưng Bá Kiến vì ghen tuông đã đẩy Chí Phèo vào tù. Nhà
tù thực dân đã biến anh nông dân cố cùng nhưng lương thiện ấy thành một tên
lưu manh. Tiếng chửi mở đầu truyện lúc Chí Phèo say rượu, khật khưỡng giữa đường
làng với ba con chó dữ tưởng chừng như không gì điên rồ hơn. Ai lại đi chửi
Trời, rồi chửi Đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những ai không chửi nhau với hắn
và chửi cái đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thằng Chí Phèo. Song, cứ xem xét cách
thu hẹp dần đối tượng từ không đâu nhất, xa xôi nhất đến sát sạt hơn, ta sẽ
hiểu đó không phải là tiếng chửi của kẻ say không biết trời đất là gì. Nhà
văn viết: “Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không chửi. Khổ cho hắn và khổ
cho người, hắn lại không biết hát. Thì hắn chửi…” Bài chửi kia là bài
hát lộn ngược của Chí Phèo. Cũng có thể nói bài chửi kia là âm bản của tiếng
khóc của một linh hồn méo mó và đau khổ, tiếng khóc khắc khoải của loài “quỷ
dữ”!
Nếu
ở đề tài về người nông dân, Nam Cao thường đi vào những bi kịch của sự bần
cùng hoá, lưu manh hoá thì với đề tài người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao
xoáy vào bi kịch bị vỡ mộng, bi kịch chết mòn của họ. Môi trường sống của họ
là những không gian chật hẹp, tù túng, quẩn quanh, suy nghĩ của họ cũng trơ
nên tầm thường, nhỏ nhen, vô vị. Đời họ thường không có biến cố gì to tát
nhưng lại không thiếu những sự kiện làm cho buồn đau đến tê tái, u uất. Trong Đời
thừa, văn sĩ Hộ nhiều khi không chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, “hắn
đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hằm hằm, vùng vằng đi
ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn.” Điền trong Trăng sáng đang ngắm
trăng, thả hồn vào trong giấc mộng văn chương lãng mạn thì vụt cái trăng mất
đẹp: trong nhà đưa ra tiếng vợ gắt gỏng, tiếng nức nở, nôn oẹ của đứa con
gái. Điền cúi mặt, bẽn lẽn như bị bắt gặp làm việc xấu. “Một nỗi chua
xót gần như là thuộc về thể chất, ứ lên trong lòng Điền. Nó dâng lên đến cổ,
xông lên óc. Nước mắt Điền ứa ra.” Nhà văn Điền trong Nước mắt nhiều
lần “tưởng có thể khóc oà lên được” vì nhọc, vì nhục, vì những lớp
buồn tủi chất chứa thêm vào lòng… Đó là những giọt nước mắt cay đắng, bất lực,
bế tắc của những người trí thức vốn đa sầu, đa cảm, đa đoan lại phải sống
trong một môi trường luôn “đầu độc” con người.
3.
Giọt nước mắt là biểu hiện của nhân tính
Giọt
nước mắt trong truyện Nam Cao giai đoạn trước Cách mạng đều là những giọt nước
mắt gắn liền với những số phận đầy bi kịch bị thử thách khốc liệt bởi cái
đói, cái nghèo nhưng vẫn cố giữ lấy nhân phẩm, nhân cách trong sạch, cao đẹp.
Nhìn đời bằng đôi mắt nhân đạo, Nam Cao quan niệm giọt nước mắt là biểu hiện
của tính người, là tiêu chuẩn để xác định giá trị con người, phân biệt con
người và con vật. Nước mắt được nhà văn sử dụng như một phương tiện để nhân vật
bộc lộ mình, nỗ lực vươn lên. Quan trọng hơn, nước mắt được nhà văn xem là một
tín hiệu nghệ thuật để “biến hình vũ trụ”, từ bề ngoài tưởng chừng
như xấu xa để đi vào khám phá bản chất lương thiện.
Với
trình độ mới của chủ nghĩa hiện thực, Nam Cao chủ trương đi sâu miêu tả, phân
tích thế giới nội tâm con người. Truyện ngắn Lão Hạc là quá trình từng
bước một để ông giáo nhận ra bản chất đích thực của lão Hạc. Chi tiết lão Hạc
bán cậu Vàng thật đắt. “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười
như mếu và đôi mắt ầng ậng nước.” Rồi “mặt lão đột nhiên co rúm lại.
Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về
một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…” Đó
là tiếng khóc của một con người suốt đời chưa hề lừa dối ai, vậy mà giờ đây
đã trót lừa một con chó. Vì thế đó là tiếng khóc ân hận, ray rứt đến đau đớn.
Sâu xa hơn, khi chứng kiến cái chết vật vã dữ dội của lão Hạc, chúng ta càng
hiểu thêm nguyên cớ tại sao lão day dứt như thế khi bán con chó. Bán chó là
chấm dứt niềm hy vọng ngày con trở về, bán chó là chuẩn bị cho cái chết của
mình. Bán chó là chuyện hệ trọng bậc nhất của đời lão Hạc vì vậy lão khóc,
khóc cậu Vàng, khóc cậu con trai và khóc cho chính mình. Giọt nước mắt lão Hạc
tuy thê thảm nhưng lại có sức toả sáng vẻ đẹp của một bậc chí thiện.
Cuộc
đời nhân vật Chí Phèo đã thê thảm thì càng thê thảm hơn từ khi gặp thị Nở. Bởi
vì chỉ khi gặp thị Nở, Chí Phèo mới ý thức được tình trạng tha hoá của mình.
Nhận bát cháo hành từ tay thị Nở, ban đầu hắn ngạc nhiên, rồi hắn thấy “mắt
hình như ươn ướt.” Sự thức tỉnh của các nhân vật của Nam Cao đều cùng với
nước mắt và bằng nước mắt. Chí Phèo cũng vậy. Sống trong xã hội làng Vũ Đại
khô héo tình người, giọt nước mắt Chí Phèo tưởng đã khô cạn, tiêu tan nhưng
hoá ra vẫn chảy len lỏi, âm thầm và trong suốt. Nước mắt đã chảy là tính người
đã hồi sinh, con người lương thiện đã hiện nguyên bản. “Hắn thèm lương
thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường hắn.”
Nhưng
bà cô thị Nở đã gạt phắt một cách phũ phàng, đánh vỡ mơ ước được sống cho ra
một con người của Chí. Đau đớn cùng cực, Chí Phèo lại mang rượu ra uống.
Nhưng lần này khác tất cả mọi lần, càng uống hắn lại càng tỉnh ra. “Hắn
ôm mặt khóc rưng rức”. Hy vọng : khóc, tuyệt vọng : khóc. Khởi đầu sự tỉnh thức
là nước mắt và cuối cùng cũng lại là nước mắt. Nhưng nếu khởi đầu là giọt nước
mắt cảm động, ăn năn thì cuối cùng là giọt nước mắt tuyệt vọng.
Các
nhân vật trí thức của Nam Cao càng có nhiều lần “khóc cho cái chết của
chính tâm hồn mình.” Giáo Thứ (Sống mòn) nghe tin Đích sắp chết,
một ý nghĩ vụt loé lên trong óc “giá Đích chết ngay đi”, Thứ “chẳng
rỏ được một giọt nước mắt nào tuy lòng y cũng bồi hồi”. Nhưng rồi ngay sau đó
nước mắt Thứ ứa ra cho sự ích kỷ, đồi bại, tàn nhẫn, khốn nạn của mình. Trên
chuyến tàu về quê, với ý nghĩ “Đời y sẽ mốc lên, sẽ rỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục
ra ở một xó nhà quê. Người ta sẽ khinh y, vợ y sẽ khinh y, chính y sẽ khinh
y. Rồi y sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống”, Thứ “thấy nghẹn
ngào”, khóc cho kiếp sống mòn (hay chết mòn) trong vô vị, vô nghĩa, vô vọng của
mình.
Trong
truyện ngắn Đời thừa, nhân vật Hộ khi tỉnh rượu, nhớ lại hành vi cục
súc, thô bỉ của mình, anh đã hối hận đến đau đớn. Nhìn người vợ đáng thương với
cái dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não, “Nước mắt hắn bật ra như nước
một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc! Hắn
khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc.” Giọt nước mắt của Hộ lúc
này là tiếng khóc hối hận, đau đớn vì thương vợ, thương mình và vì cả giận
mình. Chuyện kết thúc nhưng cuộc đời Hộ chưa khép lại. Cảnh cuối cùng với những
giọt nước mắt Hộ đã làm người đọc ít nhiều hy vọng nó sẽ thanh lọc tâm hồn,
nâng đỡ nhân cách của anh, giữ anh lại trước vực thẳm sa ngã.
Có
thể nói, giọt nước mắt của các nhân vật Nam Cao đều là phần nhân phẩm, nhân
tính được cố giữ hay bị vùi lấp, hễ có cơ hội là trỗi dậy. Chi tiết giọt nước
mắt đã thể hiện niềm tin tưởng, trân trọng của nhà văn đối với con người, thể
hiện chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của ông. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành
Khung vì thế đã viết: “Trong sáng tác, Nam Cao đã nhiều lần đề cập và
ca ngợi nước mắt. Nhân vật tiểu tư sản của ông có không ít tật xấu và lỗi lầm,
nhưng thường là những người hay bị hối hận giày vò và thường khóc vì hối hận.
Đó không phải là thứ hối hận ồn ào, hời hợt của những kẻ lấy việc xỉ vả mình
để khoe khoang, cũng không phải thứ hối hận có chu kỳ của nhiều kẻ tiểu tư sản
dùng để xoa dịu cái lương tâm rách nát của mình trong khi vẫn buông mình theo
cái xấu. Mà đó là sự giằng xé chảy máu của những tâm hồn trung thực,
khát khao lương thiện. Với Nam Cao, nước mắt là biểu tượng của tình thương và
giọt nước mắt là “giọt châu của loài người”, là “miếng kính biến hình vũ trụ.”(3)
Chi
tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Những chi tiết giọt nước mắt đã góp phần làm
nên thành công của nhà văn lớn Nam Cao. Nó đã khái quát lên một chân lý nghệ
thuật: nghệ thuật chân chính không những tìm thấy cái bình thường trong sự
phi thường mà còn phát hiện cái phi thường trong sự bình thường, thậm chí tầm
thường. Chỉ có nhà văn lớn có khối óc và trái tim lớn mới làm được điều đó.
(1)
Nhiều tác giả - Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại, tập 1 - NXB Giáo dục, Quảng Bình, 2005, tr 278.
(2)
Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong cách –
NXB Trẻ, TP HCM , 2000, tr 283.
(3)
Trần Đình Sử (tuyển chọn) - Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr 245.
|
eva air vn
vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ nhất
đặt vé máy bay korean air
vé máy bay khứ hồi đi mỹ giá rẻ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich