Thơ và Thiền gặp
nhau trong trực giác và cảm nhận của tri thức. Thơ chứa đựng một yếu
tố siêu tưởng, siêu lý vượt ra ngoài mọi khả năng suy tưởng hơn là biểu lộ cụ thể, thơ
thường tiềm ẩn trong vị trí của tiềm thức, tiềm thức xung đột với lý trí rồi xuất
phát ra từ một trực giác tự nhiên để trở thành thơ.
Vì vậy; thơ không cần
phải có nghiã tự nó đã hiện hữu (Poem should not mean, but be. (Archibald
Macleish) cho nên thơ vô hình dung hoà nhập với thiền tính mà không hay!
Thiền là gì? Là
tĩnh lặng, trầm lắng để hồn siêu thoát, vượt thế tục để đi vào cõi riêng của
không tánh, quán tưởng cái điều không hiểu thấu được; ngược lại, thơ thuộc về tâm
tưởng chủ quan của thi sĩ, người ngoài không thể bắt gặp. Thiền và Thơ nó nằm
trong cái thế giới siêu hình, đôi khi trở thành hữu hình và vô hình.
Đời Đường;lý giải về
thơ rất nhiều nhưng cuối cùng đi tới kết luận “Thi thị khả giảng bất khả giảng
chi gian” có nghiã thơ có cái giảng và có cái không thể giảng được. Thơ và Thiền
nằm trong cái siêu nhiên ấy. Thiền tạo cho tâm lắng đọng và từ sự lắng
đọng phát ra được trí vô sư. hơ cũng thế; đôi khi nó trở thành vô ngôn, nhưng đến
một lúc nào đó khi tâm tĩnh thì nhận ra được, đọc ra một câu thơ,cảm nhận được
thì lúc đó Thiền và Thơ gọi là Ngộ và Nhận. Cả hai dung nạp một tâm thức quán
“Đó là tâm thức và trí tưởng của ta đủ khả năng giúp ta sáng tạo những gì mà ta
nhận thức” G. Bachelard. Do đó giữa thơ và thiền đã nói lên cái biểu tượng (Embodiment) tự nó trong một tư thế riêng biệt (Self-poised). Kết hợp hai điều kiện
trên mà nẩy sinh ra một thứ thi ca ngẫu hứng không suy tư (It is poetically
irrational) .
Trọng tâm của thơ
là cảm xúc hơn là suy tưởng,còn thiền là thức tĩnh để nhận thức. Thơ và Thiền là
hai thế giới bí ẩn và khó hiểu. Thơ nó nằm trong cõi phi ấy nhưng vẫn khởi đi từ
cõi thật để đạt tới chân tâm của thiền. Học giả Lâm Ngữ Đường nói: ”Thơ có nhiệm
vụ thay thế tôn giáo nghiã là nhiệm vụ làm cho tâm hồn thanh khiết, cảm nhận được
cái đẹp của vũ trụ và gây cho con người cảm hoá được giữa người và sinh vật”.
Cũng nên nhớ rằng
thơ không còn lý tưởng hoá mà trở nên thi vị hoá lãng mạn của thơ. Người ta đã
xử dụng thi ca như sứ giả tinh nhã đem thông điệp từ bi bác ái,huyễn đồng với mọi
sinh vật trong vũ trụ để giải thoát con người ra khỏi vô minh.
Thơ và Thiền từ
Đông sang Tây trợ duyên nhau mà làm nên những bài thơ siêu việt.
Phương Đông xưa nay
là quê hương,xứ sở của Thiền. Từ đời Đường cho cuối đời Thanh vẫn còn phản phất
thiền thi. Việt Nam ta từ Lý, Trần đầy đặc thơ thiền,một giòng thơ thiền
của trí tuệ giác ngộ (tinh thần Bát-Nhã-Ba-La-Mật) Bài thơ Không Hữu (Có Không)
của thiền sư Vạn Hạnh rất sâu sắc:
Có thể có tự mảy
may
Không thì cả vũ trụ
này cũng không
Có không ở bóng
nguyệt lòng sông
Đời nhà Lý. Thiền sư
Không Lộ diễn tả thơ trong cái hư vô của thiền đạo. Hai câu thơ tượng trưng;
Không Lộ đã nói lên cái “không” của thiền:
Một thuở lên cao đầu
gió núi
Hú dài một tiếng lạnh
hư không.
Đời nhà Lê. Nguyễn
Trãi dẫu làm quan nhưng ông đã gởi gắm hồn ông với thiên nhiên, cảm hứng với thiền
thơ:
Tình thư một bức
phong còn kín
Gió nơi đâu sương mở
xem.
Đời Đường Trung Quốc(618-907). Vương
Duy thi,họa sĩ, Liễu Công Nguyên, Giả Đảo, Trương Kế. Đại để thơ của mấy vị đều
tiêu sái, thoát tục chẳng hạn:
Chỉ vào trong núi
như mơ
Tìm đâu cũng thấy
mây mờ thâm sâu.
(Chỉ tại thử sơn
trung.Vân thâm bất tư xứ) Giả Đảo.
Thiền thơ thì phải
nói Nhật Bổn là đất gieo thơ vào thiền và thiền cú trở nên Hài Kú; thơ ngắn, ý tứ
cô đọng rất thích hợp với tình cảnh sâu lắng nội tâm của Thiền. Bashô một nhà
thơ thiền lừng lẫy của Nhật tả chùa:
Đám mây hoa
Hồi chuông từ chùa
Ueno?
Hay
Akakusa?
Thơ của
Bashô (1644-1694) và của Trương Kế (Phong Kiều Dạ Bạc) đều dâng lên tiếng chuông
chùa như thức tĩnh khách trần gian làm tiêu tan tục lụy để về với hư vô. Chất
thiền thơ, tự có;trong thơ có thiền trong thiền có thơ.
Phương Tây phải nói
tới William Blake (1757-1827) Blake giỏi về thi,họa và điêu khắc. Ông đã sáng tạo
ra bản in bằng mạ đồng khắc bằng acit, sắc màu tô bằng tay còn được lưu truyền đến
nay.Ngoài ra ông còn nhiều danh họa khác như bức “Hành hương về Canterbury”
Thơ; ông làm lúc 12 tuổi, để lại hai thi phẩm nổi tiếng Bài Hát Ngây Thơ (Song
of innocence) và Bài Hát Kinh Nghiệm (Song of experience) ấn hành năm 1794. Cả
hai tập trên tiêu biểu về sự Hồn Nhiên lẫn Bí Ẩn, Kinh Nghiệm giữa yếu đuối và
áp bức, ông tin rằng: ”tất cả mọi sự vật đều hiện hữu trong trí tưởng” Điều này
giống như Quán Tưởng mà Phạn ngữ gọi là Dhyana, Thiền Na và chuyển thành Thiền. Như
vậy Blake đã sáng tác lúc vào thiền (?).
William Blake là
nhà thơ giàu cảm xúc và suy tưởng sâu sắc, kỳ lạ nhất là bài Những Điềm Báo Thơ
Ngây (Auquiries of innocence) có tính chất triết lý nhân sinh ngụ ý diễn tả về
Chân Như tức là sự thật tuyệt đối vô cùng vĩnh cửu trong hữu hạn. Blake thiền ở
phép dùng nghịch lý để thức tĩnh con người. Vì theo Blake chân lý ở mọi nơi là
Chân Ngã hoặc Viên Không.
Giới thiền tâm đắc
bài thơ này của Blake vì chứa đựng ý nghiã của Bát-Nhã-Ba-La-Mật (Trí tuệ giải
thoát) thơ như sau:
Thấy thế giới trong
hạt cát
Và bầu trời trong
bông hoa dại
Nắm vô cùng trong
lòng bàn tay anh
Và vĩnh viễn trong
một giờ.
(To see a world in
a grain of sand
And a heaven in the
wild flower
Hold infinity in
the palm of your hand
And internity in a
hour) (1880)
Đây là bài thơ có
trước thuyết Tương Đối của A.Einstein mới tìm thấy vào năm 1905.Người đời xem
thi hứng của Blake là thần kỳ như sấm ký sự tượng trưng của Blake trở nên bất hủ.
Thiền thơ và Thơ
thiền hoàn toàn không có nghịch lý, ngôn từ như ta thấy trong chất thơ cũng như
trong những công án của thiền mà sự Vô-Phân- Biệt-Trí (Nirvikalpajnãna) là một
sự chứng nhập thực tại,trực tiếp và tràn đầy không chủ thể, không đối tượng, không
thời gian và không gian vượt thoát ra từ ngôn từ như Jacques Prevert
(1900-1977) đã viết ra tập Ngôn Từ (Paroles) và J.P. đã biểu lộ ngôn ngữ mới lạ
gây cho người cảm nhận được giữa thơ và đời mà tựu chung hướng tới sự vô
ngôn, vượt ra khỏi khuôn phép để đạt đến Chân Như. Chân như của thiền là ấn chứng
sự Vô Phân Biệt. Tô Đông Pha viết ra trong bài Lô Sơn:
Lô Sơn yên toả Triết
giang triều
Vị đáo sanh bình hận
bất tiên
Đạo đắc hoàn lai vô
biệt sự
Lô Sơn yên toả Triết
giang triều
(Mù toả Lô Sơn sóng
Chiết giang
Khi chưa đến đặng hận
muôn ngàn
Đến rồi về lại
không gì lạ
Mù toả Lô Sơn sóng
Chiết giang) (Thích Mật Thể dịch)
Chân lý của Thiền
còn thể hiện được sự lạc quan, yêu đời Thường Lạc của Mãn Giác thiền sư
(1045-1096) Kệ “Cáo Tật Thị Chúng”:
Xuân đáo bách hoa
khai
Xuân khứ bách hoa lạc
Mạc vị xuân tàn hoa
lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất
chi mai.
(Xuân đến trăm hoa
nở
Xuân đi trăm hoa rụng
Chớ bảo xuân tàn
hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở
cành mai).
Cái vô cùng của Thiền
rốt ráo Chân Như tức Vô Ngã, Vô Thường, Vô Tác (không mong cầu không nắm bắt) Kinh
ngạc về Chân Như của Thiền; Xuân Diệu cảm tác như sau:
Ôi từ không đến có
Xảy ra như thế nào
Nay má hây hây gió
Trên lá xanh rào
rào
(Quả sấu non trên
cao)
Huy Cận ngạc nhiên
hơn trước lẽ Không Tịch của Thiền, ông viết:
Các vị ngồi đấy
trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ
trăm chiều.
(Các vị La Hán chùa
Tây Phương)
Thiền thơ trở nên
kinh kệ dành cho tu sĩ và thơ thiền của thi sĩ vô hình dung trở thành lý giải
nhân sinh của nhân gian, giữa đạo lý với con người nhất là đối với người tu Phật
bao gồm Bát Nhã, Sắc Không, Hư Vô, Chân Như và Vô Thường.
Thi ca không có
hình ảnh thì không còn là thi ca nữa cũng như đi vào suy luận siêu hình thì thiền
không còn là thiền nữa. Cho nên ta không lấy làm lạ các thiền sư dùng những câu
thơ thiền làm thiền ngữ goị nôm na là Thiền Thơ mỗi khi một thiền sư có tâm hồn
thi sĩ tự khắc diễn tả thực chứng bằng thi ca và hướng dẫn thiền giả bằng những
hình ảnh thi ca.
Nhưng nếu có sẳn cơ
bản thiền hay ý thức tôn giáo thì người nghệ sĩ; nói chung, trong một giây phút
tình cờ nào đó có thể bộc lộ tâm thức thiền hay ý thức tôn giáo của mình qua
thi,họa,nhạc…
Nếu nói rằng Thiền
cũng là một nghệ thuật thì nghệ thuật đó phải là “không biểu tượng” bởi thiền
không có đối tượng quần chúng, đối tượng của thiền là vô vi, vô cực, hư
không, không có trong mà chẳng có ngoài, không có ta mà cũng không có người(tha
nhân). Cái mà không nói được bằng lời, không hiểu được bằng ý thức, bằng trí luận. Nhận
ra được cái gọi là ”tâm hoa nở” trong thơ, nhạc, tranh khán thính giả chín muồi
tâm thức thiền mới “đồng thanh tương ứng” để tiếp nhận thiền thơ không qua ý thức, không
thông qua trí luận.
Thiền và Thơ giúp
cho con người thoát khỏi những khổ lụy để sống vui, sống thanh thản, không thắc mắc, không
hoài nghi, yếm thế.
Ta về cúi mái đầu
sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng
đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta
nở
Thế giới vui từ nỗi
lẻ loi
(Ta về của Tô Thùy
Yên)
Mới đọc qua có cảm
nhận như một sự từ chối,thái độ bi quan,lời than thở sâu đắm trong tâm hồn
nhưng đọc kỷ sẽ cảm nhận bốn câu thơ đã chứa đựng trọn vẹn chất Thiền của Phật
giáo. Câu đầu tán thán sự bi hùng cho thân phận. Câu hai chữ “từ tâm” tự nó đã
phô diễn một tâm Từ bi, Bồ đề tâm, Tâm Bát Nhã nếu không từ con tim thì làm sao cảm
thấy độ lượng tình thương của trời đất. Câu ba “cảm ơn hoa” hoa đây là tâm, ngộ ở
hoa tâm nở là tâm thông. Câu bốn “nỗi lẻ loi” nói lên nỗi xót thương của con người, nói
lên nỗi cô đơn của nhà thơ đối diện với vực sâu đó là triết lý nhị nguyên, kết hợp
với oan nghiệp (Karma) Nỗi lẻ loi của Tô Thùy Yên là cái tâm hư không mà nhà
thơ thay mặt cho Thiền Thơ. Thiền và Thơ là cái Nhất Như luôn gắng bó mà cả hai
không nói nên lời chỉ nói lên từ tâm thức mà thôi.
Võ Công Liêm
|
Trả lờiXóavé máy bay eva air
phòng vé máy bay đi mỹ
korean air ho chi minh
giá vé máy bay đi mỹ khứ hồi
Vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich