Hoàng Hạc Lâu
là thắng cảnh nổi tiếng ở Vũ Hán gắn liền với sông Trường Giang và là một trong
“Tứ đại danh lâu” của Trung Hoa. Ngôi lầu nằm bên bờ sông Dương Tử và nhìn ra
thành phố Vũ Hán, tỉnh Hà Bắc. Biết bao thi nhân, có cả Thôi Hiệu và Lý Bạch,
đã từng viết nên những áng thơ nổi tiếng về ngôi lầu này. Truyền thuyết kể rằng
Hoàng Hạc Lâu được xây dựng để tỏ lòng tôn kính với một vị Đạo tiên.
Truy ngược lịch
sử, thì thời Tam Quốc, ba nước phân hùng. Ai cũng biết ngã ba sông Trường Giang
và Hán Thủy là vị trí chiến lược. Bên Đông Ngô đã chi xây ở đây một ngôi lầu
tháp để kiểm soát những thuyền bè qua lại và tình hình thời cuộc. Trải qua bao
nhiêu lần lở bồi của sóng gió Trường Giang, ngôi lầu này bị đập phá rồi xây dựng
lại không biết bao lần. Cùng với đó là những truyền thuyết, huyền thoại. Đáng
lưu ý nhất là câu chuyện về Phí Vĩ lên tiên, cỡi hạc vàng và đã dừng chân nghỉ
trên ngọn tháp quan sát của Ðông Ngô thời Tam Quốc. Vì sự tích này mà tháp này
được đặt tên là Hoàng Hạc Lâu.
Theo Trần
Nguyên Thắng thì trong “Liệt tiên toàn truyện” của Vương Thế Chinh và Uông Vân
Bằng đời Minh kể thêm rằng sau khi lên tiên, Phí Vĩ hay thơ thẩn đi chu du đây
đó, nhất là hay thả bộ dọc theo bờ sông Trường Giang. Ông thường hay ghé vào một
tửu lầu ở cuối đồi Hoàng Hạc Sơn uống rượu nhưng ông không có tiền nên uống rượu
“ghi sổ”. Nhưng chủ nhân tửu lầu họ Tân vẫn luôn vui vẻ cho ông thiếu tiền rượu
mà không hề đòi. Nhiều năm trôi qua như thế, cho đến một ngày Phí Vĩ gọi chủ
nhân họ Tân lại nói: “Tôi nợ ông tiền rượu quá nhiều rồi. Bây giờ là lúc tôi
xin trả cho ông”. Nói xong, Phí Vĩ một tay cầm vỏ cam, gọi hạc vàng đến. Phí Vĩ
cưỡi hạc vàng bay dọc theo bờ tường của tửu lầu nói vọng theo: ”Mỗi khi có
khách đến uống ruợu thì ông hãy vỗ tay và hát lên thì ngay lập tức hạc vàng sẽ
từ tường hiện ra và múa theo điệu ông hát”. Nói xong Phí Vĩ bay mất!
Người họ Tân
tuy nghi ngờ về những điều Phí Vĩ nói nhưng rồi vì tò mò ông ta cũng làm theo
những gì mà Phí Vĩ đã dặn. Và đúng như thế, mỗi lần họ Tân vỗ tay và hát thì
chim hạc luôn luôn hiện ra nhảy theo nhịp hát của ông. Cứ như thế, mười năm
trôi qua, chủ nhân tửu lầu họ Tân giờ đây trở nên rất giàu có, nhưng lòng lúc
nào cũng nhớ đến Phí Vĩ. Chợt một hôm Phí Vĩ trở lại gặp họ Tân và hỏi rằng:
“Chim hạc của tôi đã trả nợ đủ tiền rượu cho tôi chưa?“. Ðể cám ơn, họ Tân đã mời
Phí Vĩ dùng cơm tối, nhưng Phí Vĩ không nói gì, ông lấy ra một ống sáo bằng ngọc
và thổi lên một tấu khúc. Chỉ trong chốc lát, một cụm mây trắng từ trời sa xuống,
hạc vàng bay đến chỗ ông. Phí Vĩ cưỡi chim hạc và bay theo vầng mây trắng mất
hút vào trời không. Chủ nhân họ Tân đóng cửa tiệm rượu và dùng hết số tiền mình
có để xây Hoàng Hạc Lâu, để tưởng nhớ đến Phí Vĩ và hạc vàng. Từ đó người đời
sau dùng câu “bạch vân hoàng hạc” để ám chỉ về sự tích này.
Nhắc tới thơ
Đường, nhắc tới Hoàng Hạc Lâu, tôi chợt nhớ lời bình “không theo khoa học” Tây
Phương nhưng thấm tâm can của Kim Thánh Thán: “Nếu chọn 10 nhà thơ Đường, không
có Thôi Hiệu. Nếu chọn 10 bài thơ Đường không thể không có HOÀNG HẠC LÂU“.
Chính Thi Tiên
Lý Bạch đến định đề thơ nơi đây nhưng khi đọc Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu đành
thôi. Ông nói lý do này bằng một bài thơ. Và đây cũng là bài thơ nổi tiếng. Nó
như đôi cánh của Hạc Vàng bay vào một thế giới trong khiết. Lý Bạch theo Đạo
Gia. Tâm thái tự nhiên như thiên nhiên của người tu luyện khiến ta nhìn ông với
sự cảm phục không ngờ. Lý Bạch vĩ đại nhưng ông hình như không biết điều đó.
Ông nhìn thấy “nhà thơ của một bài” thật vĩ đại.
Theo cuốn TOÀN
ĐƯỜNG THI được biên tập thế kỷ 18, thời nhà Thanh có 5 vạn bài thơ với 2000 nhà
thơ nổi danh. Nghe nói nếu san định lại thì con số này còn khổng lồ hơn.
Nhiều lúc, tôi
tự thốt ra lời: “Muôn năm Lý Thế Dân Đường Thái Tông! Ông sống thời Thịnh thế
Trinh Quán chưa đến 60 mà sao có sự nghiệp như vậy! Chỉ thơ Đường thôi, đã quá
tuyệt vời rồi!”.
Người ta thường
kể giai thoại, khi Thi tiên Lý Bạch đến Lầu Hoàng Hạc du ngoạn, định đề thơ,
nhưng ông đành gác bút, ngửa mặt lên trời mà than rằng:
“Nhãn tiền hữu
cảnh đạo vô tắc,
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu”
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu”
Tạm dịch:
Cảnh đẹp nhường
kia sao khó viết.
Trên đầu Thôi Hiệu đã đề thơ!
Trên đầu Thôi Hiệu đã đề thơ!
Thực ra, Hoàng
Hạc Lâu cũng cho Lý Bạch một thi phẩm tứ tuyệt để đời. Đó là: Hoàng Hạc lâu tống
Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng 黃鶴樓送孟浩然之廣陵 (Lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng)
黃鶴樓送孟浩然之廣陵
故人西辭黃鶴樓,
煙花三月下陽州。
孤帆遠影碧空盡,
惟見長江天際流。
煙花三月下陽州。
孤帆遠影碧空盡,
惟見長江天際流。
Phiên âm:
Cố nhân tây từ
Hoàng Hạc Lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Dịch nghĩa
Bạn cũ từ biệt
tại lầu Hoàng Hạc đi về phía tây,
Tháng ba hoa khói, xuống Dương Châu.
Bóng chiếc buồm đơn màu xanh mất hút,
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy bên trời.
Tháng ba hoa khói, xuống Dương Châu.
Bóng chiếc buồm đơn màu xanh mất hút,
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy bên trời.
Bản dịch của
Ngô Tất Tố
Bạn từ lầu Hạc
lên đường
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
“Nhạc Phi một
danh tướng thời Nam Tống, mỗi lần trên đường đem quân lên phía Bắc với ước mơ
quét sạch quân Kim để thu hồi giang sơn cho nhà Ðại Tống (nhà Tống lúc đó bị
nhà Kim đánh chiếm nên lui về đóng đô ở Hàng Châu. Sử gọi là nhà Nam Tống), ông
đều ngừng lại ở Hoàng Hạc Lâu, và với bao nhiêu cảm khái về nơi chốn này, ông để
lại cho hậu thế một ca từ bất tử “Mãn Giang Hồng, Ðăng Hoàng Hạc Lâu hữu cảm”.
Thế nhưng sau khi Nhạc Phi bị vợ chồng Tần Cối và tên vua hèn nhát độc ác bức hại
thì Hoàng Hạc Lâu một lần nữa lại bị phá hủy.
Và bây giờ,
xin hãy cùng cảm nhận bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu
Nguyên tác tiếng
Hán:
黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Hoàng Hạc lâu
Tích nhân dĩ
thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa:
Người xưa đã
cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc.
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại,
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không.
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một,
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi.
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn!
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc.
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại,
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không.
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một,
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi.
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn!
Bản dịch của
Ngô Tất Tố
Người xưa cưỡi
hạc đã lên mây,
Lầu hạc còn suông với chốn này.
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Ngàn năm mây bạc vẩn vơ bay.
Vàng gieo bên Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngắt châu Anh, lớp cỏ dày.
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây!
Lầu hạc còn suông với chốn này.
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Ngàn năm mây bạc vẩn vơ bay.
Vàng gieo bên Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngắt châu Anh, lớp cỏ dày.
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây!
Bản dịch của Tản
Đà
Hạc vàng ai cưỡi
đi đâu?
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xưa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng aỉ.
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xưa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng aỉ.
Bản dịch của
Trần Trọng Kim
Người đi cưỡi
hạc từ xưa,
Đất này Hoàng Hạc còn lưu một lầu.
Hạc vàng đi mất đã lâu,
Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông.
Hán Dương cây bóng lòng sông,
Bãi kia Anh Vũ cỏ trông xanh rì.
Chiều hôm lai láng lòng quê,
Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu.
Đất này Hoàng Hạc còn lưu một lầu.
Hạc vàng đi mất đã lâu,
Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông.
Hán Dương cây bóng lòng sông,
Bãi kia Anh Vũ cỏ trông xanh rì.
Chiều hôm lai láng lòng quê,
Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu.
Bản dịch của
Trần Trọng San
Người xưa cưỡi
hạc bay đi mất,
Riêng lầu Hoàng Hạc vẫn còn đây.
Hạc đã một đi không trở lại,
Man mác muôn đời mây trắng bay.
Hán Dương sông tạnh, cây in thắm,
Anh Vũ bờ thơm, cỏ biếc dày.
Chiều tối, quê nhà đâu chẳng thấy
Trên sông khói sóng gợi buồn ai.
Riêng lầu Hoàng Hạc vẫn còn đây.
Hạc đã một đi không trở lại,
Man mác muôn đời mây trắng bay.
Hán Dương sông tạnh, cây in thắm,
Anh Vũ bờ thơm, cỏ biếc dày.
Chiều tối, quê nhà đâu chẳng thấy
Trên sông khói sóng gợi buồn ai.
Bản dịch Bùi Đại
Dũng:
Người xưa cưỡi
hạc đi rồi
Chơ vơ lầu vắng bên trời đứng trông
Hạc vàng đi có về không
Ngàn năm mây trắng như lòng vấn vương
Cây in sông lặng Hán Dương
Bãi Anh Vũ cỏ đơm hương, xanh rì
Chiều buông, đâu lối về quê
Trên sông khói tỏa sóng về buồn dâng.
Chơ vơ lầu vắng bên trời đứng trông
Hạc vàng đi có về không
Ngàn năm mây trắng như lòng vấn vương
Cây in sông lặng Hán Dương
Bãi Anh Vũ cỏ đơm hương, xanh rì
Chiều buông, đâu lối về quê
Trên sông khói tỏa sóng về buồn dâng.
La Vinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét