1.GIỮA CHỢ ….KHÔNG AI HỎI?
Quái lạ, suốt bao nhiêu năm làm báo ở Hà Nội, bao
nhiêu lần đạp xe qua phố Hòa Mã, mà sao mình không biết ở đó có nhà của thi sỹ
Hồ Dzếnh?
Đó là câu hỏi có phần ngạc nhiên và ân hận, khi tôi
xin được địa chỉ của nhà ông. Lúc này đã vào năm 1991 khi tôi đã chuyển vào Sài
Gòn sống, lúc nào nghĩ về quê nhà xa xôi là liền nhớ về trên cái “gam“ nền những
rung động buồn thương thuở thiếu thời ôm cuốn “Chân trời cũ “ …
Mà chợt nhớ ra, những năm tháng sống ở Hà Nội ấy
không biết mình từng đi qua cửa nhà Hồ Dzếnh cũng phải. Thời đó nắng to
lên một cái là đạp xe như ma đuổi, chạy cho nhanh xa những phố phường gần
nhà máy, trận địa cao xạ, Hay đơn giản là chẳng gần đâu cả, nhưng phố nắng người
thưa đang trong hồi còi báo động. Nhà thi sỹ ở ngay “phố nhà rượu“, rất dễ là mục
tiêu bắn phá của máy bay Mỹ.
Và cũng quanh quanh gần mấy phố này thôi, nhà thơ
tài năng – Quang Dũng (Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn - Về ngắm Sài Sơn lúa
chin vàng-….Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc- Sáo diều vi vút thổi đêm trăng -
ông tả quê tôi đấy ) đã từng sống những ngày nghèo khó thiếu ăn. Như nhà văn
Thanh Châu miêu tả, Quang Dũng thích ăn khoai lang hàng bà cụ phố Tuệ Tĩnh. Kẹo
vừng ông lão chợ Hôm. Nước chè tươi, cơm đầu ghế… Tất cả đều gần gũi quanh đây,
sao ngày đó tôi không tìm họ?...
Sau những năm bom đạn ấy, lại tiếp thời bao cấp đói
nghèo Hà Nội. Vất vả nuôi con, thiếu thốn và mải miết với những xếp hàng mua gạo
thịt tem phiếu. Với những chuyến đi. Với những rắc rối cơ quan nhà nước nào
cũng có… Suốt ngày sấp mặt xuống đến nỗi sau này vào Sài Gòn hát nhạc Trịnh
công Sơn tả Hồ Tây với “đàn sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời…” tôi cứ tự hỏi, quái
lạ, mình sống ven Hồ Tây mà suốt đời có bao giờ nhìn thấy loài chim
nào gọi tên Sâm Cầm đâu.
Cũng không biết ngay đầu phố mình, ven Hồ có nhà
văn Phùng Quán sống bằng “cá câu trộm “ ở Hồ Tây, làm cái chòi ngay mép nước
trường Chu văn An nơi con tôi học ở đó…
Cuộc sống vất vả nhất – cũng có thể là bị hủy hoại
bởi nhiều thứ chán ghét nhất đó khiến tôi không thể tách mình ra mà hiểu hết được
cái thời mình đang sống, để tìm gặp những người mình rất ngưỡng mộ sau
này là những danh nhân chẳng thể nào gặp nữa.Sao mình không phỏng vấn Võ Nguyên
Giáp, Tôn Thất Tùng, Văn Cao, Trần Duy Hưng, Phạm Tiến Duật, Quang Dũng, Lưu
Quang Vũ, Xuân Quỳnh ….? Thật là một khoảng trống không thể tha thứ đối với một
người đã từng làm báo ở Hà Nội.
Với tất cả nỗi “day dứt Hà Nội “đó, vợ chồng tôi
tìm đến phố Hòa Mã.
Năm 91- những năm đầu Việt Nam mở cửa, đã mấy năm
bước vào Đổi Mới rồi, nhưng vẫn còn nghèo. Các ký giả phương Tây vào nhiều. Họ
tả Việt Nam với lời khen ngợi nhưng vẫn là một Việt nam theo góc nhìn tường thuật
riêng …” Nơi gặp gỡ lạ lẫm giữa Đông và tây “…” Xóm ổ chuột, phụ nữ chẻ tre,
bán trái cây, làm ruột cá. Đàn ông thu gom sắt vụn, sửa nhà cửa …””
.Chưa đến cái thời “giàu nhanh, mất định hướng và hỗn
loạn “như sau này
Trời Hà Nội vừa nắng gắt đã chuyển mưa nên nhiều
người bị cảm cúm thành dịch giữa mùa hè. Vợ nhà thơ cũng bị cúm nên quán sách của
ông bà đóng cửa. Hồ Dzếnh đi vắng.
Bà Nguyễn thị Hồng Nhật, dù đang ốm nghe chúng tôi
tự giới thiệu “Độc giả hâm mộ từ Sài Gòn ra” thì vội thay chồng tiếp khách.
Khi chúng tôi muốn bà phác họa trước vài nét tính
cách cá tính của nhà văn, bà cười với vài lời ngắn gọn:
“Nghĩ đến ăn là sợ. Có lẽ một ngày bữa ăn quan trọng
nhất của nhà tôi là sáng sớm, một bát phở hàng quen, cho rất ít bánh. Ông bị
hen phế quản nên khó thở và yếu.. Đêm không ngủ được, cứ kêu thừa thì giờ phí
quá, lại ngồi viết.”
Rồi bà như giải thích: Tính tình âm thầm trầm lặng
ít phô phang, không bao giờ thích nói tâm tư mình. Có lẽ vì thế nó…. tích thành
bệnh.
Chúng tôi nhìn quanh nhà, trên tường có một tấm
hình đề chụp 1957 ở sân bay Gia Lâm- Cụ Hồ đang nhận bó hoa từ tay một phụ nữ
thay mặt đoàn người . Bà Hồng Nhật giải thích:”Hồi đó tôi hoạt động công
tác Mặt trận ra tiễn Cụ Hồ đi thăm các nước.”
Căn phòng ấm cúng trang trí giản dị theo lối gia
đình Hà Nội gốc trong căn biệt thự Pháp hầu hết đã cũ kỹ.
Thế là chỉ bước qua quán sách nhỏ, ta bỏ lại sau
lưng phố xá nhốn nháo thời “hiện đại “ hàng quán có cả trăm thứ chuyện bực mình
để bước vào một thế giới dịu êm thuần khiết của “người Hà Nội xưa “. Những gì
văn hóa, thanh nhã xa với tiền bạc vẫn đang sống kín đáo, trở nên một phong
cách riêng mà trên phố xá ta nào thấy được.
Bà kể có lần, một người không rõ từ đâu đến đứng chọn
mua sách rồi hỏi “thưa có phải đây là nhà của thy sỹ Hồ Dzếh không, sau khi
nghe trả lời đúng rồi, anh ta hát lên:”Trên đường về nhớ đầy….chiều chậm đưa
chân ngày …” rồi cúi chào bước đi
Quán sách bán không chạy (đã vào cái thời …mấy ai đọc
sách nữa..). Bà chọn những cuốn sách văn học có giá trị, bày vào cái tủ kính nhỏ.
Đoạn gần Chợ Hôm mới nhiều người qua lại bán mua. Đoạn phố Hòa Mã này không phải
nơi sầm uất, nên không mấy khách tìm tới. Thành ra chiếc tủ sách nhỏ phải lui
vào im lặng bên trong, nhường chỗ cho hàng hóa khác treo la liệt ngoài cửa hiên
nhà.
Nhà thơ cho thuê rẻ cái góc cửa nhỏ, giúp đỡ cho
các thanh niên chưa có việc làm có chỗ bán hàng tạm.
Một lúc sau, thi sỹ Hồ Dzếnh về.
Dù đã tranh thủ “điều tra “ trước qua bà vợ
ông, dù đã đọc nhiều bài viết về ông trên sách báo, chúng tôi vẫn ngạc nhiên và
vui mừng được thấy ngay trước mắt mình một người thanh nhã, ý nhị và rất gần
gũi, rất phù hợp với mối xúc cảm mà tất cả chúng ta từng được khơi dậy từ “Chân
trời cũ “.
Khi biết đây là khách “tận trong Sài Gòn “ ra thăm
chỉ vì ái mộ, vợ chồng ông mời chúng tôi ở lại ăn cơm. Rất tiếc là thời gian eo
hẹp quá nên ông tìm ra giải pháp mời chúng tôi đi ăn sáng vào hôm sau. Ăn sáng
tốn ít thì giờ hơn, ra tiệm,khách khỏi áy náy sợ phiền “không ai phải nấu nướng
cả “, nhất là ông có hàng phở quen, ngon lắm.
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi đến cổng, đã thấy ông đứng
chờ ngay dưới gốc cây. Thật cảm động khi thấy” người thi sỹ trong mơ “ của
mình, ăn mặc tề chỉnh giản dị, tóc chải mượt ra phía sau y như trong các tấm
hình chúng ta thường thấy.
Hình như quán phở đường Lê văn Hưu? Không nhớ nữa.
Chúng tôi cảm động quá,, ngồi ăn phở và uống café sữa. Ông rất vui, cho biết
chúng tôi đến thăm vô tình đúng vào ngày sinh nhật lần thứ 75 của ông.
Hôm ấy, ông kể chuyện mình đi vào Nam và đến chùa
Pháp Hoa tìm thăm nhà văn Nguyễn minh Châu,, nhưng không gặp. Đó là những năm
cuối đời, Nguyễn minh Châu bệnh nặng, vào Chùa Pháp Hoa lúc đó đang nổi tiếng
trị được trọng bệnh theo một thứ thuốc riêng. Cho mãi sau đến lúc gặp được
nhau, đã là lúc Nguyễn minh Châu sắp mất.
“Những người mà mình yêu mến, hình như không bao giờ
được gần”
Nhà văn nói khẽ, không biết có phải ông đang nhớ lại
những ngày gặp Thạch Lam vào năm 1941 trên chuyến xe lửa Hải Dương-Hà Nội hay
không. Trên chuyến tàu đó, Hồ Dzếnh ngồi xem lại tập bản thảo của mình thì một
người ngồi bên cạnh hỏi mượn xem. Lúc đó ông đâu biết người ấy chính là Thạch
Lam, nhà văn nổi tiếng của Tự Lực Văn Đoàn.
Sau lần ấy, Thạch Lam phát hiện, khuyên nhủ góp ý,
giúp cho tập truyện được xuất bản. Chính Thạch Lam đã viết lời tựa đầu tiên cho
tập “Chân trời cũ “ của Hố Dzếnh. Nhưng khi sách ra được, thì Thạch Lam đã mất.
“Với Nguyễn Minh Châu và Thạch Lam, nếu tính thời
gian theo cả giây cả phút thì tôi cũng chỉ được gặp hai ông trong 3-4 tiếng đồng
hồ là cùng.”
Nhìn vẻ mặt xúc động của ông, tôi chợt hỏi:
“Cả đối với bác nữa- thưa bác,cháu có một điều
không rõ: Vì sao bác vẫn sống ngay giữa Hà Nội, vậy mà sự gặp gỡ cũng như tin tức
về bác hầu như rất ít, rất mù mờ. Có người còn đồn rằng hình như bác ở mãi đâu
bên Mỹ, Canada…”?
Hồ Dzếnh cười hiền:
“Tôi vẫn sống ở đây thôi. Bần cư trung thị vô nhân
vấn. Nhà nghèo thì ở ngay giữa chợ cũng không ai hỏi đến. Vậy mà mình bần, hôm
nay vẫn có các bạn đến hỏi đây này.”
Dù đã đọc nhiều, chúng tôi vẫn muốn nghe từ chính
ông chuyện sáng tạo ra những vần thơ vì sao nó ở mãi trong lòng người,. Ông
sáng tác bài “Chiều “ có mối sầu vạn cổ chất vào trong một buổi chiều ấy như thế
nào… Các nhân vật được ông viết trong “Chân trời cũ “ ám ảnh buồn thương da diết
ấy là ai, có còn không…
Hồ Dzếnh kể rằng bài Chiều chỉ làm ngẫu hứng tại Lạng
Sơn, khi đó ông là một chàng trai lên chơi với người anh làm hỏa xa.. Ở đó,
chàng đứng một mình giữa rừng biên giới, lòng buồn vô hạn vì thấy quê cha Trung
quốc, quê mẹ Việt nam. Hai quê hương mà không có nơi chốn nào để đến cả. Cả hai
đất nước đều bị xâm chiếm. Mình đứng giữa thấy một nỗi buồn lạ lùng. Và bài thơ
thả vào không gian nỗi buồn đó.
“Còn những nhân vật trong “Chân trời cũ “ có còn ai
không ư,còn chị Đỏ Đương, giờ đã 80 tuổi rồi. Muốn về thăm cụ ấy….”
Hồ Dzếnh:” Không. Thí dụ như cụ Đỏ Đương 80 tuổi rồi
ấy, mù chữ.Đâu có biết đến văn chương. Họ sống cuộc đời cho mình lấy làm tài liệu
nhưng không bao giờ đọc.”
Ông nói chậm, nhẹ, ngậm ngùi. Tôi bỗng nhớ lại câu
chuyện lúc nãy bà vợ ông kể cho chúng tôi về cái ngày họ vào Sài Gòn được dự một
đám cưới người quen. Khi quan khách được nghe giới thiệu rằng có mặt nhà thơ Hồ
Dzếnh, thì tất cả bỗng lặng đi, ngạc nhiên. Rồi lập tức mấy cậu trai trẻ nhảy
lên sân khấu, cầm đàn hát ngay bài “Chiều “.
Nhớ chuyện ấy, tôi nghĩ mình cũng đang có một cơ hội
ngồi trước mặt thi sỹ, tôi liền cũng hát cho ông nghe bài “Chiều “ đó. Tiếng buồn
vang trong mây, tiếng buồn vang trong mây……
Âm điệu buồn thương giữa rừng cao biên giới ấy, mặc
kệ, bây giờ giữa quán phở có màn hình tivi đang mở nhạc Rock ầm ỹ ấy, mặc kệ,
nó vẫn vang lên trong các tâm hồn cảm động.
Đã đến lúc tôi có thể hỏi ông về nhận xét của các
nhà nghiên cứu văn học “phê bình “ rằng văn chương ông có chút yếu đuối.
Ông gật đầu:
“”Yếu đuối và lãng mạn ư?Phải cần tới nó.Đó không
phải là yếu đuối, mà là cái TÌNH luôn giữ được trong con người. Một góc nào đó,
nó giúp con người kiên gan. Cháu thấy không, người mẹ chỉ có cái ruột tượng thắt
bụng nuôi con, chẳng bao giờ hé răng kêu.”
Thật kỳ lạ. Chỉ bước ra khỏi quán sách im ắng của
nhà ông thôi, ta lại đối mặt với cuộc sống ào ào, khá tàn bạo. Vậy mà bên trong
ấy,vẫn có một dòng chảy khác, khá lãng mạn nâng đỡ tâm hồn con người.
Cảm ơn Hồ Dzếnh. Hình như ông vừa bước ra từ “Chân
trời cũ “ để thả vào cuộc sống hôm nay một lời xao xuyến nhắc nhở về tình người.
2. MÌNH VỪA LÀ CHỊ, LÀ EM….
Lần thứ hai tôi ra Hà Nội-khoảng năm 1992, tìm đến
nhà, dù biết chẳng còn gặp Hồ Dzếnh được nữa. Ông đã mất ngày 13-8-1991.
Tôi đến để thắp hương.
Tôi hơi bang hoàng vì sự thay đổi nhanh chóng, cứ
như là người vừa đi là dấu vết mới đây thôi cũng đi theo.. Ngôi nhà không còn
là quán sách và những người buôn bán vặt l a liệt không còn ở đó nữa.
Bà Hồng Nhật tiếp tôi cũng không còn ở căn phòng ấm
cúng lần trước kiểu Hà Nội xưa, mà là ở căn phòng lớn mặt tiền.Ở đó có một bàn
thờ hiếm có:Do bà bày tất cả sách, báo viết về ông lên đó và ngày ngày thắp
hương, trò chuyện trong im lặng.Bàn thờ độc đáo giống như một quầy sách khá lớn.
Bài báo nhỏ của tôi viết về cuộc gặp mới đây, đăng
lên, ông chưa kịp đọc cũng nằm đó, lọt thỏm giữa các tác phẩm đồ sộ.
Bà chẳng nói được gì nhiều như lần gặp đầu tiên vui
vẻ. Khách cũng khá run rẩy trong lòng nên buổi viếng đó chỉ dành để lướt qua những
gì tha thiết nhất người ta viết về Hồ Dzếnh.
Cuộc đời ông hiện ra thật khổ đau qua lời Vũ Bằng:…”Chiến
tranh chạy về làng Neo Thọ Xuân Thanh Hóa- dọc bờ sông Nông Giang dạy học. Vợ
bán sách cũ và thảm tình trong những ngày kháng chiến, vợ bị bệnh tả chết để lại
đứa con trai mới 5-6 tháng:
“Lấy võng đưa xác vợ chạy đi chôn trong chiều tím
ngắt tím hoa sim đúng như trong thơ Hữu Loan Màu tím hoa sim.”
Trong trí nhớ Vũ Bằng, …”mặc áo bành tô cứt ngựa,
đi dép, địu con trên lưng, lúc thì đi vơ vẩn ở bãi bến đầu sông, lúc thì chui
vào bờ bụi tránh máy bay. Hễ gặp người nào như thế, không ai nói ai nhưng ai
cũng biết đó là Hồ Dzếnh. Không cách gì mà sai được. Là vì ở Khu 4, mà chắc chắn
khắp cả trong nước không có một người đàn ông thứ hai nào nuôi con khổ cực đến
như Hồ Dzếnh. Một mặt lo chạy loạn, một mặt lo ăn,, một mặt nữa lo sao cho con
có sữa sống qua ngày.”…
Tôi gập cuốn sách lại, liếc nhìn vẻ mặt bà Hồng Nhật
dưới vành khăn để tang còn mới. nhưng trong khi tôi nước mắt lau trộm thì bà lặng
lẽ, lật tìm những bài khác đưa cho tôi.
Bà bảo, ông địu con đi xin bú nhờ (gọi là bú thép.
Thế nên mới hay nói câu:Vợ góa nhà văn lấy nhà văn góa vợ- Con nuôi nước Việt,
nhờ nước Việt nuôi con…)
Bà Hồng Nhật-như ta biết- là cô gái bán sách tiệm
Bình Minh, đẹp nhất nhì Hà Nội một thời, là vợ góa của nhà thơ Trần trung
Phương. Chồng mất, bà cũng nuôi đứa con trai nhỏ mới mấy tháng như Hồ Dzếnh và
rồi hai người đã trở thành bạn đời.
Đây là lời Du Tử Lê: ”Hồ Dzếnh là người bạn thiết của
những kẻ lang thang. Hồ Dzếnh đã đi vào đời tôi bằng một khung cửa buổi chiều.
Hồ Dzếnh đã ở trong tôi không như một Huy Cận cao ngất khinh mạn, không như một
Nguyễn Bính ngọt ngào mật đồng nội. Hồ Dzếnh đến và ở lại trong tôi như một chiếc
bóng âm thầm. Muộn phiền và tơi tả “.
Còn Mai Thảo – Hồ Dzếnh “một người Tàu nghèo khổ bỏ
một nước Tàu nghèo khổ.Đi qua Vân Nam. Đi từ Dương Tử đi tới Hồng Hà. Đi từ
Trung Hoa đi tới Việt Nam.” Khi nói tới người mệ Việt của Hồ Dzếnh, Mai Thảo dẫn
ra tác phẩm “Quê ngoại- là chiếc khay vàng hiến dâng mẹ hiền một niềm biết ơn
trang trọng.”….
Bà Hồng Nhật thắp thêm ngọn nến khác thay vào ngọn
đã cháy hết. Chúng tôi cứ im lặng chẳng nói gì, chỉ lần giở qua những tác phẩm
bày đầy một bàn, sửa sang cho ngay ngắn.
Chia tay bà, tôi nhớ câu của nhà văn Nguyễn Khải:”Hiện
nay,tầng dưới ngôi nhà phố Hòa Mã vẫn chỉ có hai vợ chồng. Ông luôn mỉm cười ngồi
ở trên cao kia, còn bà mỗi ngày một mỏng đi.”
Cái dáng “mỗi ngày một mỏng đi “ ấy đưa tôi ra tận
đầu đường mới chịu quay lại.
Tôi chợt nhớ bài thơ Hồ Dzếnh viết tặng vợ:”Mình vừa
là chị, là em-Tiếng lòng người mẹ, trái tim bạn đời-Mai này tới lúc chia phôi-
Hai ta ai sẽ là người tiễn nhau.-Xót mình đã lắm thương đau- Tôi xin là kẻ đi
sau đỡ mình….”
Hồ Dzếnh ơi, vội ra đi trước, vậy là ông đã nuốt lời
hứa rồi sao….?
3. GỌI TÊN VANG GÓC PHỐ
Vào năm 2000 tôi lại có dịp ra Hà Nội và không quên
ghé phố Hòa Mã để thắp hương ông và thăm bà Hồ Dzếnh.Dự định là Sẽ ngồi với bà
thật lâu.
Lần này sẽ hỏi bà nhiều chuyện tâm tình mà lần trước
sát ngay những ngày đau thương, không thể tiện hỏi. Chuyện tình yêu, gia đình,
chuyện Hồ Dzếnh bảo với chúng tôi trong lần gặp đầu, ông đang viết cuốn sách có
tên “Chuyện viết lúc 5 giờ chiều “. Ông viết về người thân, bạn bè, theo một kiểu
giống “Chân trời cũ “. Không rõ viết xong chưa, đã in chưa…
Tôi đến trước cổng nhà phía Ngô Thời Nhậm, nơi ngày
đó Hồ Dzếnh ăn mặc chỉnh tề đầu chải mượt đứng chờ để đưa chúng tôi đi ăn phở.
Giờ đây không có ông nữa rồi, không còn dáng ”Hồ Dzếnh thường đi lặng lẽ, lủi
thủi một mình trên hè phố….như bóng dáng của nhân vật từ chân trời xa vắng….(Võ
Văn Trực )
Cách cả chục năm rồi còn gì. Lúc đó, ngôi nhà 2 mặt
tiền của ông có vẻ chưa có nhiều ý nghĩa kinh tế gì lắm. Cái thời mà nhà báo nước
ngoài tả Hà Nội có những người đàn ông đội mũ nồi, áo vải nhăn chậm rãi đạp xe
qua những hồ nước phẳng lặng. Thành phố toát lên bầu không khí trí thức tinh tế.
Bây giờ thì không đúng nữa rồi. Mặt tiền nhà phía
Hòa Mã đã không còn như cũ. Một tiệm thời trang đã thuê để kinh doanh. Mấy cái
Manocanh khiến ta giật mình như có ai đang chặn hỏi.Như nó mắng tôi, mắt để
đâu, làm gì còn có ngày xưa….
Chiếc cửa phía Ngô Thời Nhiệm vẫn thế, có cái xích
lớn vòng qua lỗ cửa và một chiếc khóa lớn đóng im ỉm.
Tôi bắt đầu đập mạnh vào cái dây xích, gọi cửa. Mãi
mới có một thanh niên ra tiếp. Anh giới thiệu mình là Trần trung Cường, con
trai của bà Hồng Nhật.
Anh hốt hoảng hỏi nãy giờ chị gọi tên ai. Rồi ngậm
ngùi: Chị vừa kêu tên mẹ em vang khắp phố. Mẹ em mất rồi.Mất thừ năm 1998 cơ.
….Câu chuyện hôm đó đưa chúng tôi trở lại quá khứ.
Chuyện về bố của Cường. Ông là nhà thơ viết về thiếu nhi nổi tiếng Trần trung
Phương.thường viết cho tờ Tin Mới dưới bút danh Tổng Nhĩ. Ông hoạt động Cách mạng,
bị Pháp bắt và mất năm 1945, khi Cường mới 5 tháng. Mẹ Hồng Nhật nuôi con, mở
tiệm sách Bình Minh và tham gia hoạt động yêu nước cách mạng. Rồi mẹ kết hôn với
Hồ Dzếnh.
Thế còn câu chuyện mẹ anh là người phụ nữ đẹp nhất
nhì Hà Nội thế nào?
Anh Cường:”Không có thi cử như bây giờ. Không ai bầu.Nhưng
Hà Nội lúc đó nhỏ, giới trí thức, trung lưu hay đồn nhau. Họ cho rằng mẹ em và
vợ nhà nhiếp ảnh Lê Vượng cũng tên là Vượng- là hai người phụ nữ đẹp nhất Hà Nội
Em nhớ một chuyện, hồi chiến tranh chống máy bay Mỹ bắn phá miền Bắc,phải đi sơ
tán về Hương Canh Vĩnh Phú.Em đem theo cái đài bán dẫn ban đêm nghe.Một lần có
buổi phát thanh từ Đô thị miền Nam, có bài viết Nhớ về Hà Nội.Họ tả phố xá, món
ăn, nhớ cả hiệu sách Bình Minh có cô bán sách rất đẹp và lịch thiệp.Em vặn to
lên cho mẹ em nằm bên cùng nghe”
Anh Cường giờ đây đã trở thành giảng viên của Nhạc
viện Hà Nội. Anh Chính-người con trai xưa Hồ Dzếnh bế đi xin “bú thép “ nay
cũng đã là một giáo viên dạy toán. Còn người đẹp Hà Thành năm xưa nay cũng đã mất
ở tuổi 83.
“Khi mẹ đau ốm nặng, bạn bè chúng em vào thăm. Nói
rằng khi đi tưởng tượng ra bà cụ 83 chắc là già lắm. Vậy mà đến nơi thấy bà còn
đẹp quá. Đó là mẹ đã gày đi còn một nửa và mẹ bảo cảm ơn các anh tôi đã sa sút
nhiều lắm rồi đấy ạ.”
“Mẹ là một phụ nữ rất chỉn chu lo toan trong họ
ngoài làng. Lại rất văn minh, lịch thiệp, có văn hóa. Em không ngờ khi tuổi cao
gần mất, mẹ rất thuộc thơ văn.Thơ chồng đã đành.Còn biết rất nhiều điển
tích,khi nói rát hay vận dụng, mà em nhiều khi không hiểu hết mẹ mình.
Mẹ đoan trang quý phái, nghĩ ngợi nhiều, ít giao tiếp
bên ngoài. Ăn mặc nền nã, hay mặc áo màu chìm, áo dài đen.Phấn son nhẹ nhàng,
tóc nhuộm không bao giờ để bạc.Tóc nhuộm lần cuối trước khi vào bệnh viện. Bàn
tay búp măng đẹp lắm. Đây còn cái áo mẹ mậc khi vào Sài Gòn chơi, được tặng hoa
ông Võ nguyên Giáp.
Gia đình em 2 dòng máu, mẹ cha đều yêu thương hai Tổ
Quốc Cách mạng”
Trước lúc mất, dù là người cao tuổi nhất đoàn,”theo
tour cho kịp là khó khăn”, bà vẫn gắng cùng bạn bè đi du lịch Trung
Quốc một lần “cho biết quê chồng “, dù rằng chỉ biết quê ông ở Quảng Đông.
Không còn dấu vết cũng như họ hàng thân thích nào. Bà đi theo một số địa danh
có tên trong các bài thơ nhớ thương bàng bạc của chồng.
Chính vì gốc tích, quê hương mơ hồ mà nỗi thương nhớ
của thi sỹ Hồ Dzếnh trong người vợ đến quê chồng ”Tô Châu lớp lớp phủ Kiều-Trăng
đêm Dương Tử mây chiều Giang Nam- Rọc rời vó ngựa quá quan-cờ treo ý cũ, mây
dàn mộng xưa …”càng thêm da diết xót xa.
“Lúc từ bệnh viện về, mẹ đòi đưa tập hình ảnh chụp
chuyến đi Trung Quốc để giữ bên mình trong túi áo. Mẹ muốn giữ kỷ niệm sâu sắc
và niềm vui mãn nguyện cuối đời đã thay chồng về cho biết quê hương.”.
Tôi tạm biệt Cường với căn nhà mỗi lần đến là một lần
thay đổi.
Những cảm xúc buồn thương ấylạ quá, sao nó không mất
đi được theo năm tháng.?
“Nát thân không nát nỗi buồn-Lẫn trong cái chết
vẫn còn nỗi đau –(Tưởng chuyện ngày sau- Hồ Dzếnh ). Những giọt lệ khóc cố
hương “có 1 chút buồn Tư Mả, 1 chút nhớ Chiêu Quân “ “ Một thế giới mang nặng nỗi
buồn u kín của ngày xưa “(Vũ Bằng ).Bâng khuâng trăng sáng trời Viên Hán- Một
giải Giang Nam nước rợn màu “ Nhưng, Quê hương thật sự trong ông chính là đất
Việt, quê mẹ, nơi có gió đầu mùa xa xôi, có bãi dâu vẫn đợi dòng sông vẫn chờ.
Đó là quê hương “Hỡi nước Việt nam, tôi nghiêng
lòng xuống Người trên những luống cày hương thơm còn phảng phất, vì tôi đã từng
uống nước và nói tiếng nói của Người. Vì tôi đã thề yêu Người trên bậc tuyệt vời
của Tôn giáo. Trên dải đất xúc tích những tinh hoa của văn chương, những công
trình lịch sử, tôi còn ghi cả những bóng dáng người xưa tôi thương yêu “(Chị
Yên - Chân trời cũ).
Người ta bảo thơ Hồ Dzếnh buồn bắt nguồn từ “Lòng sầu
xứ cộng với nỗi đau khổ”. Khi nhớ quê hương biền biệt không bao giờ biết “Mây
ơi có tạt về phương Bắc-Chầm chậm cho ta gửi mấy lời –Từ thuở ly hương ta vẫn
nhớ-nhưng tình xa lắm gió mây ơi-(Tư Hương ).
Nhưng quê Việt lại có một tình sâu nặng, có thật,
không biết là nhớ thương nơi nào nặng lòng hơn nơi nào:”Tôi yêu nhưng chính là
say-Tình quê hương Việt-bàn tay dịu dàng-Thơ tôi đê thắm bướm vàng-Con sông be
bé cái làng xa xa.”(Lũy tre xanh ).
Tạm biệt Cường và căn nhà Hồ Dzếnh, tự nhiên tôi nhớ
đến người mẹ đã khuất của tôi và tự hỏi:Ngày xưa mẹ nói đúng, còn tôi đã sai?
Thuở ấy tôi đang là sinh viên Văn khoa, đang dùi
mài kinh sử với các lý luận văn học.Với các lý thuyết và chủ nghĩa về hiện thực
và tranh đấu cao xa. Về hè, mẹ ngồi khâu trong trưa vắng ở Hải phòng, cũng một
phòng của căn biệt thự Pháp cũ phố Cát Dài.
Bà là trí thức do Pháp đào tạo và chỉ mê văn học
Pháp. Có lần bà bảo tôi,- lâu ngày chỉ nhớ đại ý là,- nguồn gốc cái tình căn bản
làm nên áng văn chương chính là tình mẫu tử. Văn chương còn lại lâu bền chính
vì nỗi buồn …”Và tôi biết tất cả những tác phẩm bất hủ chỉ là những tiếng
khóc.”
Tôi không nhớ mẹ đã trích dẫn từ ai. Nhưng hôm nay
rời nhà Hồ Dzếnh, những lời của mẹ tôi sống dậy.
Vì sao “thơ có cùng mới hay “? Vì sao nỗi buồn của
ông Hồ Dzếnh-như Thạch Lam viết trong lời giới thiệu tập “”Chân trời cũ“ lại
liên quan đến xúc cảm của tôi hôm nay?
Thạch Lam: ”Điều mà ta nhận thấy ở ông Hồ Dzếnh,
cũng là một điều gần giống ở bà mẹ ông. Nghĩa là sức chịu đựng đau khổ.”
Sao đau khổ của ông Hồ Dzếnh, mắc mớ chi lại làm
cho bao thế hệ, mãi mãi người sau rung động y chang nỗi buồn đó? Và dù đã
“xếp ông ngồi một chiếu “ với Thạch Lam và Thanh Tịnh, các nhà nghiên cứu vẫn cứ
tìm tòi đặt tên tuyệt vời cho “kiểu buồn“ của riêng ông không lẫn được với ai.
Đó là “”Buồn chiều, buồn Hồ Dzếnh. Nhanh hơn slow,
chậm hơn Valse…Mỏng nhẹ như sương.”(Nhà nghiên cứu Thụy Khuê )…
Tạm biệt Cường và căn nhà Hồ Dzếnh không biết bao
giờ trở lại, tôi tự hỏi về nỗi buồn thương của mình: sự truyền cảm tha thiết đó
chẳng cần đi tìm lời giải thích gì nữa.Mẹ tôi đúng rồi và tôi
đang nhớ Người bằng chính tình thương mẹ sầu thảm của Hồ Dzếnh.
Bất chấp mọi thứ chủ nghĩa, nó chính là tính
trường tồn của Văn chương bất hủ.
NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét