"Đào bắc, Mai
nam". Đó là câu thành ngữ cho thấy sự đối xứng quan trọng của hai loài hoa
xuân này trong tâm thức người Việt. Ở miền nam, nói đến ngày Tết là nói về vẻ
yêu kiều, lộng lẫy của hoa mai. Trong thơ văn nước ta có rất nhiều bài viết về
hoa mai, thể hiện một tình yêu nồng nàn đối với loài hoa này. Mai Am công chúa,
em của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, là một người rất thích hoa mai. Song có lẽ,
kẻ tôn sùng hoa mai nhất chính là Chu Thần Cao Bá Quát (1809-1854). Ông là người
gốc Phú Thị- Kinh Bắc xưa, có tài làm thơ hay đến độ được phong là "thơ
Thánh" (Thần Siêu, Thánh Quát). Vốn là một người ngang tàng khí phách, chẳng
hề run sợ trước bất cứ quyền lực của ai, dẫu là vua chúa đi nữa, thế nhưng Cao
Bá Quát lại "cúi đầu" trước hoa mai:
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhứt sinh đê thủ bái hoa mai
(Mười năm bàn đạo giao du,
khó như tìm gươm kiếm cổ
Một đời chỉ biết cúi đầu trước
hoa mai)
Ở Trung Quốc, mai là loài
hoa nở đầu tiên trong năm, ngay từ tiết lập xuân giá lạnh. Vào thời điểm ấy một
số loài hoa chưa kịp khoe hương khoe sắc, còn một số khác thì đã héo tàn, do đó
hoa mai được xưng tụng là "Bách hoa khôi", tượng trưng cho cho
cốt cách của người quân tử. Tuy nhiên, người Trung Hoa xưa kia không đánh đồng
các loài mai cùng một đẳng cấp. Họ phân chia thứ bậc rõ ràng. Loài mai quí nhất
là Khánh khẩu mai, kế tiếp là Hà hoa mai, Đàn hương mai, Ban khẩu mai và cuối
cùng là Cẩu đăng mai.
- Khánh khẩu mai: loài
mai mọc ở vùng núi cao khánh khẩu.
- Hà hoa mai: cánh mai
giống như cánh hoa sen ôm tròn lấy nhụy.
- Đàn hương mai: loài
hoa có cánh vàng sậm như màu gỗ từ đàn. Loài này sai hoa, hương lan tỏa khắp
không gian và thường nở trước các loài mai khác.
- Ban khẩu mai: đóa hoa
hơi cúi xuống, cánh cong cong, khi nở cánh không xòe ra.
- Cẩu đăng mai: hoa nhỏ,
chẳng có mùi thơm.
Vào thời nhà Đường (Trung Quốc),
nhà thơ Lô Đồng đã sáng tác bài hữu sở tư đầy tâm sự yêu đương và ông đã liên
tưởng đến hoa mai để diễn đạt tâm hồn mình:
Mỹ nhân hề! Mỹ nhân
Bất tri mộ vũ hề! Vi triêu
vân
Tương tư nhất dạ mai hoa
phát
Hốt đáo dông tiền nghi thị
quân
Diễn nghĩa:
Người đẹp này! Người đẹp
Bây chừ là mưa chiều hay mây
sớm
Một đêm nhớ nhau, mai nở hoa
Trông thấy hoa trước cửa sổ,
ngỡ bóng nàng
Xét về góc độ Đông y,
có tài liệu cho rằng toàn bộ cây mai đều có thể dùng làm vị thuốc. Nếu đem hoa
mai ngâm với dầu vừng thì thành thuốc trị bệnh viêm rất hiệu quả. Ai bị viêm
tai giữa, chỉ cần nhỏ vài giọt vào tai thì vài phút sau sẽ thấy bớt đau ngay.
Còn nấu cháo chung với hoa mai ăn vào sẽ thấy tinh thần sảng khoái, mọi mệt nhọc
đều tan biến đi….
Và dĩ nhiên, cây mai còn là
một loại cây cảnh rất tuyệt vời. Cây mai Việt Nam có nhiều loài, hoa phổ biến
nhất là màu vàng, kế tiếp là đỏ, trắng và cả màu hồng. Tùy theo loài mai, đặc
biệt là mai vàng và mai chiếu thủy Việt Nam, các nghệ nhân có thể uốn tỉa cây
mai thành nhiều thế khác nhau, theo phong cách kiểng xưa hay hiện đại đều được.
Bây giờ, mời bạn bước vào thế giới muôn hình muôn vẻ của hoa mai.
A. Thuật ngữ về cây mai
Trước tiên chúng ta thử tìm
hiểu về cách gọi loài cây này. Từ "mai" là một từ Hán-Việt. Trong từ
điển tiếng Hán từ này có hai nghĩa: cây mơ và cây mai. Trong tiếng Việt ngày
nay hai loài cây này cũng khác nhau, do đó ta không thể lẫn lộn từ"mai"
với từ "mơ" được. Thế mà có người vẫn "vô ý" về điều này.
Nhiều nhà nghiên cứu khi viết
về cây mai nói chung hay cây mai vàng Nam bộ họ thường chú thích tên tiếng Anh
thông thường của cây này là "apricot tree" và gọi hoa mai hay hoa mai
vàng là "apricot blossom". Những người khác thì chú thích tên tiếng
Anh của cây mai và hoa mai là "plum tree" và "plum
blossom". Có lẽ họ căn cứ vào một số quyển tự điển Việt-Anh hay Anh-Việt để
dẫn chứng như thế. Tuy nhiên cách gọi như vậy chưa thật sự chưa chuẩn xác, bởi
vì cây mai tiêu biểu cho miền nam là mai vàng 5 cánh, có tên khoa học là Ochna
integerrima (thuộc họ Ochnaceae). Còn "apricot" có tên khoa học
là Prunus armeniaca l., được sắp đặt cách phân giống chung với
"plum" (Prunus domestica).
Cái từ "plum" thường
dùng để chỉ một loài cây ăn quả được gọi là "mận", chứ không phải là
"mai". Nếu nó được dùng theo nghĩa là "mai", thì nó và
apricot chỉ là cách chú thích tên tiếng Anh cho một loài mai cụ thể nào đó có
tên khoa học bắt đầu bằng từ "Prunus" (từ chỉ giống cây).
Nhìn chung, chúng ta chỉ có
thể sử dụng hai từ này để nói về một chi (giống) mai cá biệt nào đó ở Việt Nam
hay trên thế giới, thí dụ như nói về chi mai trắng ở bắc bộ, gọi là "chi
mai" hoặc mai Nhật (Japanese apricot) - cả hai đều cùng một loài và có tên
khoa học là Prunus mume sieb. Et zucc.
Chi mai tuy có hoa màu trắng
nhưng nó lại khác với bạch tuyết mai (một giống mai trắng khác có tên khoa học
là Serissa foetida, họ Rubiacace) và lại càng không giống mai chiếu thủy ở
Nam bộ (Wrightia religiosa, họ Apocyiaceae). Như vậy nếu sử dụng từ
"apricot" và "plum" để chỉ bạch tuyết mai hay mai chiếu thủy
lại càng không đúng.
Trong tự điển Anh-Việt
"apricot" có nghĩa là cây mơ. Nếu hiểu theo nghĩa tiếng Việt thì ta
chỉ có thể gọi nó là "mai mơ". Tóm lại, sử dụng hai từ
"apricot" và 'plum" để chỉ tổng quát các loại cây mai ở Việt Nam
là chưa thoả đáng, chúng tôi đề nghị vài cách chú thích đơn giản như sau:
- Cây mai (Vietnamese Mai
plant…).
- Hoa mai (Vietnamese Mai
blossom hoặc Vietnamese Mai bloom…).
Như vậy người nước ngoài mới
hiểu chính xác đó là một loài cây hoa của Việt Nam. Họ sẽ không nhầm lẫn cây
mai nước ta với cây apricot hay plum phân bố nhiều nơi trên thế giới.
Và nếu cần chú thích tên của
một chi mai cụ thể nào đó ở Việt Nam, ta nên viết tên khoa học của nó, như vậy
mới chuẩn xác và giúp các nhà nghiên cứu dễ dàng tìm hiểu.
Người nước ngoài, khi viết về
hoa mai vàng (hoặc mai tứ quí) Việt Nam, họ không gọi là "apricot
blossom" hay "plum blossom" mà gọi là "Ochna integerrima
blooms". Thí dụ: "the most celebrated flower in Vietnam, ochna
integerrima blooms profusely on the occasion of 'Tet', the Vietnamese new
year." (trích từ top tropicals.com, mục vietnamese mickey mouse plant).
Chúng tôi in đậm cụm từ "Ochna integerrima blooms" để bạn đọc dễ nhận
ra.
Hai từ "bloom" và
"blossom" đều có nghĩa chung là hoa. Khi sử dụng từ "bloom"
là muốn nói đến sự nhận thức, tri giác chung về một loài hoa", còn
"blossom" là từ nói tổng quát về các loài hoa, đặc biệt là hoa của những
loài cây ăn quả được. Ngoài ra, trong tiếng Anh còn có từ chỉ hoa là
"flower". Từ này dùng để biểu thị chung cho các loại hoa cảnh, dùng để
trưng bày cho mọi người thưởng lãm.
Bây giờ, để tiện tìm hiểu về
cây mai một cách khoa học, chúng tôi mời bạn đọc mục dưới đây.
B. Cách phân loại quốc tế
Cách phân loại này rất chi
tiết, ở đây chúng tôi xin trình bày thật vắn tắt để bạn hình dung. Cây mai,
cũng như bất kỳ loài cây nào khác, đều được xếp loại theo từng cấp độ từ nhỏ tới
lớn: thứ (nòi), loài, chi (giống), họ, bộ, lớp và ngành. Nhiều loài có những đặc
điểm tương tự sẽ được xếp vào cùng một chi, nhiều chi có những điểm chung sẽ được
xếp vào một họ và cứ thế tiếp tục cho đến đơn vị lớn nhất là ngành. Do trang
sách có giới hạn, chúng tôi chỉ bàn về loài, chi và họ.
I. Chi hay giống (genus) và
loài (species - viết tắt là sp.)
Thông thường, khi nói về
"genus", người ta sẽ sử dụng từ "giống" cho các động vật và
từ "chi" cho các thực vật. Trong sinh vật học, Ernst Mayr là người đầu
tiên định nghĩa về các loài và đây là quan điểm phổ biến nhất. Ông viết:
"các loài là những nhóm có khả năng sinh sản để gây giống một cách tự
nhiên…". Song trên thực tế ta còn thấy nhiều định nghĩa khác nữa.
Theo cách phân loại khoa học
(qui ước quốc tế), một loài được chỉ định bằng một tên khoa học theo tiếng
Latin. Cái tên này gồm có hai phần và được in nghiêng. Phần đầu tiên là từ nói
về chi hay giống (viết hoa), còn phần thứ hai là từ chỉ loài. Thí dụ:
- Loài người có tên khoa học
là Homo sapiens.
- Loài mai vàng có tên khoa
học là Ochna integerrima.
Homo, Ochna là những từ nói
về chi (giống); còn sapiens và integerrima là những từ chỉ loài. Tuy nhiên bạn
sẽ bắt gặp nhiều trường hợp không chỉ có hai từ. Thí dụ:
- Lúa có tên khoa học là Oryza
saliva L.
- Một loài mai vàng khác có
tên khoa học là Ochna integerrima (lour.) Merr.
- Một loài mai vàng khác nữa
có tên khoa học là Ochna sp.
Những từ viết tắt phía sau
hai từ chính là từ chỉ tên người mô tả loài đó đầu tiên ( L. Và Lour.); còn từ
Merr là tên người chỉnh lý. Nếu một loài nào đó nhà khoa học không biết rõ,
nhưng theo nhận định cá nhân ông ấy có thể chỉ định loài đó vào một chi (giống)
cụ thể và sử dụng từ viết tắt "sp." ngay vị trí phần thứ hai của tên
khoa học (như trong từ Ochna sp.). "sp." là từ viết tắt của
species (loài), dùng để chỉ số ít, còn khi miêu tả số nhiều người ta sẽ viết là
"spp.".
Trong trường hợp, đứng sau
tên loài là một từ hay một cụm từ viết trong dấu nháy thì loài đó có tính chất
địa phương hay do một người nào miêu tả hoặc lai tạo ra. Thí dụ:
- Serissa foetida 'kyoto'
(bạch tuyết mai "kyoto")
- Serissa foetida 'mt.
Fuji' (bạch tuyết mai 'mt. Fuji')
Một điều đặc biệt khác bạn cần
lưu ý: một loài cây nào đó hiếm khi có một tên khoa học duy nhất. Thí dụ:
- Sesbania grandiflora
pers. Còn có tên là Agati grandiflora desv.; Coronilla grandiflora willd
hay Aeschynomene grandiflora L.
Do đó khi đọc về mai vàng và
mai tứ quí bạn sẽ thấy trong bài này này ghi tên khoa học của nó là Ochna
integerrima, nhưng trong sách của tác giả khác mai vàng có thể mang tên là Ochna
harmandii, h. Lec; còn mai tứ quí lại có tên Ochna atropurpurea.
Vì sao có một loài lại có
nhiều tên như thế. Đấy là do những nhà khoa học tìm ra một loài nào đó và họ tự
xếp loại, mô tả theo cách riêng của họ. Và dĩ nhiên, để làm chuẩn chung, người
ta sẽ căn cứ vào tên khoa học của một loài do người đầu tiên mô tả nó, hoặc căn
cứ vào cái tên khoa học nào phổ biến hơn cả trên toàn thế giới.
2. Họ (family)
Họ là đơn vị lớn hơn chi (giống).
Nói cách khác, các chi giống nhau nhất sẽ được xếp chung thành một họ. Thông
thường trong một họ lại có nhiều nhóm giống nhau, do đó ta có thể phân họ thêm
thành họ phụ (surfamily).
Tên của một họ cây thường được
đặt từ tên chi + tiếp vĩ ngữ aceae. Thí dụ: chi Ochna có họ là
Ochnaceae; chi Musa có họ là Musaceae…Tuy nhiên, có một số họ khác không tuân
theo qui tắc này. Lý do là những họ đó đã quá quen thuộc nên người ta muốn giữ
lại. Thí dụ: họ Compositae, Cruciferae, Gramineae, Guttiferae, Labiatae,
Leguminosae và Palmae…
Theo định nghĩa của chúng
tôi, cây mai có nhiều chi và trong mỗi chi lại có một số loài. Trên thế giới có
ít nhất là 50 loài mai, phân bổ rải rác ở những vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Song chủ yếu tập trung ở châu Á và châu Phi. Phần lớn những chi mai vàng và một
vài chi mai đỏ thuộc họ Ochnaceae. Còn những chi mai trắng, hồng hoặc mai đỏ lại
nằm trong họ Apocynaceae và Rubiaceae. Chúng ta sẽ lần lượt tham khảo những chi
mai này.
I. Mai vàng
Nhìn chung, mai vàng có nhiều
chi và loài với tên khoa học khác nhau, tuy nhiên xét về hình thức hoa thì
tương tự như nhau. Tất cả đều có màu vàng. Trong bài anh cho em mùa xuân, nhà
thơ Kim Tuấn đã bay bổng với tình yêu và mai vàng:
Anh cho em mùa xuân
Nụ mai vàng mới nở
Chiều đông nào nhung nhớ
Đường lao xao lá đầy
Chân bước mòn hè phố
Mắt buồn vin ngọn cây
Anh cho em mùa xuân
Mùa xuân này tất cả
Lộc non vừa trảy lá
Lời thơ thương cõi đời
Bầy chim lùa vạt nắng
Trong khói chiều chơi vơi…
Mai vàng của Kim Tuấn là mai
vàng thuần chất Việt Nam, còn trên thế giới hiện nay một số loài như sau: Ochna
integerrima, Ochna integerrima (lour.) Merr, Ochna multiflora, Ochna
serrulata, Ochna serrulata (hochst.) Walp. và Ochna thomasiana…
Mỗi loài mai vàng có những
nét đặc trưng riêng và người ta thường căn cứ vào sự khác biệt của lá, cánh hoa
hay hương thơm để đặt tên cho chúng. Tùy theo loài mà chúng có cánh hoa lớn hay
nhỏ, nhọn hay tròn, cánh dúm hay thẳng, có viền hay không viền cánh. Nhụy có thể
thẳng hay cong hoặc lá cuốn hay thẳng. Màu lá cũng có nhiều sắc độ: xanh trong,
xanh bóng, xanh sậm, xanh nhạt hay gần với màu trắng.
Có một điều đặc biệt cần lưu
ý, những loài nêu trên có thể khác chi song lại rất có thể cùng một họ. Do chưa
có tư liệu rõ ràng về từng loài nên chúng tôi tạm xếp chung vào mục "Mai
vàng". Trong tương lai, nếu có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu, chúng tôi
sẽ cung cấp thông tin chính xác hơn.
Khi đọc tài liệu nước ngoài,
chúng tôi lại khá bất ngờ trước cách gọi cây mai vàng của một số nghiên cứu ngoại
quốc, có người gọi chúng là "cây chuột Mickey Việt Nam"
(Vietnamese Mickey mouse plant). Theo chúng tôi, cách gọi này quá chung chung
và cũng chưa thỏa đáng. Bởi vì mai vàng Nam bộ không thể giống (gương mặt) chuột
Mickey được, chỉ có loại mai vàng sau khi nở hoa, cánh rụng đi hết còn những
đài hoa màu đỏ gọi là mai tứ quí mới giống gương mặt đỏ mũi đen của chuột
Mickey. Có lẽ do mai tứ quí cùng giống với mai vàng (Ochna integerrima) nên họ
nhân tiện gộp chung và gọi như thế.
1. Mai vàng Việt Nam
Đây là loài hoa mà ngày xưa
thi sĩ Đông Hồ và Mộng Tuyết thường nhắc đến:
Muôn cánh mai vàng muôn cánh
bướm
Tưng bừng yến tiệc nào làng
hoa.
Mai vàng còn được gọi là lạp
mai. Lạp có nghĩa là sáp ong, nó giống như màu vàng tươi thắm của hoa mai. Còn
khi nhắc đến từ lạp nguyệt, người ta lại liên tưởng tới loài mai vàng, bởi vì lạp
nguyệt là tháng chạp, mà mai vàng chỉ nở một lần trong năm vào cuối tháng chạp,
tức tháng 12 Âm lịch. Giống cây mai vàng Nam bộ đặc trưng nhất là loại có hoa 5
cánh màu vàng. Tuy giống này mọc khá nhiều ở miền nam Việt Nam, song người ta
còn thấy chúng phân bố ở một số nước Đông Nam Á.
Mai vàng là loài cây
hoa tiêu biểu trong ngày Tết ở miền nam Việt Nam. Chúng mọc từng cây
riêng lẻ, đôi khi lại có dạng cây bụi. Chúng có tên khoa học là Ochna
integerrima, họ ochnaceae.
Mai vàng là loại cây sống
lâu năm, thân to xù xì, cành nhánh nhiều. Nếu uốn thử cành mai vàng ta sẽ thấy
mềm mại hơn cành đào. Chúng có hoa màu vàng thơm thoang thoảng, mọc thành chùm
trên cuống dài treo lơ lửng bên cành. Lá rụng vào mùa đông, hoa nở vào mùa
xuân. Ta có thể trồng mai vàng ngoài vườn, trước sân nhà, trong bồn hay chậu đều
được. Mai vàng dễ chăm sóc hơn đào. Chúng thích môi trường nhiều nắng và đất
luôn ẩm, song phải dễ thoát nước. Nếu trồng mai vàng ở miền bắc, ta cần chú ý
giúp chúng tránh mưa gió. Chúng có thể ra hoa chậm sau tết.
Tại Việt Nam, nơi có nhiều
mai vàng nhất là những khu rừng thuộc dãy Trường Sơn và các tỉnh từ Quảng Nam,
Đà Nẳng cho tới Khánh Hòa. Các vùng núi ở đồng bằng sông Cửu Long cũng có nhiều
loài hoa này, ở cao nguyên cũng có, song số lượng ít hơn. Mai vàng mọc hoang dã
trong rừng gọi là "mai núi". Do phải chen chúc sống chung với những
loài cây khác ở địa thế khắc nghiệt, mai núi buộc phải "vùng lên".
Chính vì thế đôi khi ta bắt gặp những cây mai ấy có hình dáng lạ kỳ. Loài mai
này có hoa khá nhiều cánh, khoảng từ 12 đến 18 cánh.
Ngày xưa, khi cha ông ta vào
miền nam khai hoang lập nghiệp đã lấy cành của loài cây này chưng trong ngày Tết,
thay thế cho cành đào phương bắc. Từ đó mai vàng có vị trí quan trọng hơn trong
đời sống tâm linh người việt. Chúng trở thành loại cây cảnh nổi tiếng và rất đặc
thù của miền nam.
Một loài mai vàng khác mọc ở
triền cát, ở những khu rừng ven biển được gọi là "mai động". Loài mai
này có thân suông, tròn, hoa trổ chi chít trên cành. Nếu chúng có hoa với 5
cánh nhỏ thì gọi đó "mai sẻ". Loài mai này rất sai hoa, rất thích hợp
với câu thơ của Lưu Vũ Tích đời nhà Đường (Trung Quốc): "Mai hoa nhất dạ
mãnh nam chi" (Hoa mai một đêm nở đầy cành phía nam). Mai động hay mai sẻ
phân bố rải rác ở các tỉnh miền trung từ Quảng Bình, Quảng Trị trở vào miền
nam, cho tới tận Đồng Nai và Tây Ninh…
Thông thường mai vàng có mùi
hương rất khó nhận ra, do đó trong bài tụng của Hoàng Bá Hy Vân mới có câu: Tranh
đắc hoa mai phốc tỷ hương (hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương), song ở nước ta
lại có một loài mai khá đặc biệt, cánh hoa của nó có kích cỡ bình thường như
mai vàng 5 cánh, nhưng hương thơm lại "đậm" hơn những loài mai khác
nên người ta gọi chúng là "mai hương". Chúng còn có tên khác là
"mai thơm" (thường được trồng ở Bến Tre) hay "mai ngự" (mọc
khá nhiều ở Huế). Xin trích bài Mai hương của Hồng Mai Phi để bạn thưởng lãm:
Mai cành búp nở chào xuân
Hương vàng nắng tỏa từng cơn
trên ngàn
Mai em có nhớ tiếng đàn
Hương thơm đừng chất phủ
phàng theo mưa
Mai về anh nhớ năm xưa
Hương thầm quyện lối so vừa
bước chân
Mai còn lắng đọng ngoài sân
Hương thơm lơ lửng chào xuân
hoa vàng
Mai đây em có ngỡ ngàng
Hương thơm đọng lại bóng
chàng yêu thơ
Mai em còn nhớ hay mơ
Hương ơi! Hãy nhớ vần thơ
anh làm
Mai kia vẫn nở rộn ràng
Hương êm vẫn khép nép vàng dễ
thương
Mai hoa còn khép mùi hương
Hương thơm đọng lại liễu nhường
hoa mai.
Riêng loài mai có cánh hoa lớn
kích cỡ bình thường người ta gọi nó là "mai châu" (đọc trại từ
"trâu" thành "châu"). Loài mai có nụ hoa nhỏ, cánh dài và
nhọn được gọi là "mai cánh nhọn". ở Thái Lan cũng có loài mai cánh nhọn,
hình dáng hoa tương tự như loại mai vàng cánh nhọn Việt Nam song cánh lại dài
hơn và nó có hoa màu trắng (cùng giống với mai chiếu thủy Việt Nam). Loài có 5
cánh tròn, khít bên nhau gọi là "mai cánh tròn". Riêng loài có cánh
to, nhăn nheo như miếng giấy thấm nước thì người ta gọi nó là "mai cánh
dúm".
Xét về góc độ sai hoa, ngoài
mai sẻ, chắc chắn ta cũng cần phải nhắc đến "mai chùm gửi". Loài này
có thân cứng, trên cành mọc lên những khối u, chung quanh khối u đâm ra rất nhiều
tược non và từ đó nụ hoa mọc khá dầy. Khi nở những đóa hoa san sát vào nhau tạo
thành một bó rất đẹp. Người ta còn gọi loài này là "mai tỳ bà" hay
"mai vương". Còn loài mai rừng có thân màu nâu, lá to xanh bóng, có
răng cưa ở viền lá, hoa màu vàng, mọc thành chùm theo hình chủy nên người ta gọi
nó là "mai chủy". Loài có thân nhỏ, cành giòn, lá xanh bóng hình oval
có răng cưa, hoa màu vàng nhạt mọc rất nhiều ở rừng cà ná được đặt tên là
"mai rừng cà ná". Một loài mai hoang dã khác cũng khá đặc biệt, phân
bố rải rác ở vùng núi vĩnh hảo. Nó có thân cứng, cành nhỏ giòn, hoa vàng từ 10
đến 16 cánh thẳng. Loài mai này nặng khoảng gấp rưởi loại mai vàng bình thường,
được gọi là "mai đá" (có lẽ cái tên xuất phát từ thành ngữ "nặng
như đá").
Ngày nay, các nghệ nhân đã
có công lai tạo, tháp ghép và nhân giống nên có nhiều loại mai vàng mới xuất hiện,
hình dáng hoa rất lạ và đẹp. Màu hoa tỏ ra khá phong phú: từ vàng nhạt, vàng
mơ, vàng chanh cho đến vàng tươi; từ vàng nghệ, vàng thau, vàng cam cho đến
vàng sậm…và cũng từ cách căn cứ màu sắc hoa nên người ta đặt tên cho chúng là
"mai kem, mai nghệ, mai thau hay mai cam v.v.".
Ngoài ra, trên cùng một cánh
hoa cũng có sự thay đổi sắc độ khác nhau, có loại cánh màu vàng nhạt nhưng
chung quanh viền cánh lại màu vàng sậm, có loại cánh vàng viền đỏ hay viền trắng.
Đặc biệt nhất là loại có mặt ngoài cánh màu đỏ, mặt trong màu vàng.
Cây ra hoa cũng có số lượng
cánh khác nhau. Lúc đầu giới mộ điệu tỏ ra thích thú trước loại mai giảo 12
cánh của những nghệ nhân ở Thủ Đức và Bến Tre. Song bây giờ họ không còn lạ nữa,
bởi vì nhiều loại mai vàng đa cánh khác đã được trình làng, tỏ ra chiếm ưu thế
hơn bởi sự độc đáo của số lượng và tầng cánh (thường là 3-4 tầng cánh trở lên).
Trong đó phải kể đến mai Huỳnh Tỷ 24 cánh, mai Chín Đợi 24 cánh, mai cúc Thủ Đức
24 cánh và mai Gò Đen 48 cánh…; tuy nhiên số lượng cánh hoa không chỉ giới hạn ở
mức độ đó, ngày nay đã có những loài mai vàng đã được một số nghệ nhân đưa lên
tầm cao mới với số lượng cánh rất khó tin: mai Thủ Đức 80 cánh hay mai Bến Tre
120 cánh, thậm chí 150 cánh…
2. Mai vàng campuchia
Loài mai này có tên khoa học
là Ochna integerrima (lour.) Merr., họ Ochnaceae. Hoa thường có 5 đến
9 cánh, khi nở mãn khai những cánh hoa úp ngược về phía cuống. Màu hoa hơi vàng
tái. Loài này còn được tìm thấy ở Việt Nam với tên khoa học là Ochna
integerrima Merr., họ Ochnaceae. Chúng là loài cây hoang dã mọc trong rừng
ở miền nam và miền trung, phân bố từ nơi khô cằn cát nóng cho tới chỗ ven sông
râm mát. Chúng thuộc dạng cây gỗ, nhánh gầy mảnh và dài, lá dơn màu xanh nhạt
bóng, mọc thưa trên cành. Mép là có răng cưa nhỏ. Hoa mọc thành chùm ở nách lá.
Cuống hoa ngắn, đài hoa xanh bóng không che kín nụ.
Nhìn chung, loài này ở
Campuchia hay Việt Nam đều đã được nâng cấp số lượng cánh lên rất nhiều. Ngày
nay người ta có thể nhìn thấy loài này có hoa 40 cánh trở lên. Và không chỉ có
màu vàng, mà còn có thêm màu trắng hoặc màu đỏ. Do đó người ta thường sử dụng
chúng làm cây cảnh, chưng vào dịp Tết Nguyên đán.
3. Mai vàng Nam Phi
Hiện nay người ta nhận thấy
có khoảng 12 loài mai vàng thuộc chi Ochna phân bố rải rác khắp Nam Phi, bao gồm
dạng cây lẻ và cây bụi. Song phổ biến nhất là những loài mai vàng có tên khoa học: Ochna
pretoriensis (magalies plane) và Ochna pulchra (peeling plane).
Hai loài này xuất hiện rộng khắp những vùng đồi thuộc Koppie. Chúng có hoa màu
vàng.
Loài Ochna pulchra cao
khoảng 7 m, vỏ cây thường bị tróc ra, lá dễ rụng. Chúng mọc hoang dã trong rừng,
vỏ cây màu xám nhạt, xù xì ở phần gốc. ở phần trên thân cây vỏ bị tróc lộ ra
màu trắng kem nhạt. Gỗ cây ít được sử dụng vì giòn và dễ gãy. Loài này có hai
loại: hoa màu vàng và màu hồng. Tương truyền rằng chỉ cần mang một phần rễ của
loài Ochna pulchra đi theo, người thợ săn sẽ có được nhiều may mắn
trong lúc đi săn. Có một điều lạ là, người ta bảo trong cây có chất dầu độc,
song một số hãng mỹ phẩm ở nước này lại chiết xuất chất dầu đó để sử dụng cho
tóc.
Ở Nam Phi còn có một số loài
mai vàng khác, có tên khoa học là Ochna serrulata, Ochna multiflora
và Ochna tropurpurea. Tất cả đều thuộc họ Ochnaceae. Người nước ngoài gọi
chúng là Mickey mouse plant, bird's eye bush, small-leaved plane và
carnival bush. Những loài này có màu hoa khó xếp loại chúng vào nhóm mai vàng
hay mai đỏ, bởi vì có một số loài mai vàng về sau rụng cánh còn lại đài hoa đỏ
nên có thể gọi chúng là mai đỏ. Nói chính xác, chúng khá giống với mai tứ quí
việt nam, cũng có tên là "chuột mickey". Hoa thu hút nhiều ong và bướm.
Khi trái chín, chim chóc thường kéo đến ăn trái. Do đó, chúng tôi mạn phép xếp
những loài mai vàng này vào mục mai đỏ (sẽ trình bày ở phần sau).
4. Mai vàng Miến Điện
Ở đất nước này, có những
loài mai vàng giống như ở Nam Phi (Ochna serrulata). Hình thức hoa có khác đôi
chút ở chỗ cánh bẹt hoặc có bầu noãn đỏ tồn tại khá lâu trước khi hoa rụng.
5. Mai vàng Indonesia
Những loài mai này có tên
khoa học là Ochna kirkii oliv., Ochna serrulata (hochst.)
Walp. và Ochna serrulata. Chúng đều có nguồn gốc ở Nam Phi, tuy nhiên
"ngoại hình" lớn hơn. Có loài hoa nở vào mùa xuân và mùa hè hoặc nở
quanh năm.
6. Mai vàng châu Phi
Người ta bắt gặp một loài
mai phân bố rải rác khắp những nước nhiệt đới ở châu phi. Chúng cũng có 5 cánh
màu vàng như ở việt nam, song lại khác tên khoa học. Đó là loài ochna
thomasiana, thuộc dạng cây bụi. Lá hình oval, đầu lá bén, dài khoảng 10 cm. Hoa
nở rộ trên cành vào mùa xuân, song đôi khi cũng nở bất chợt vào mùa hè với số
lượng hoa ít hơn. Cánh hoa màu vàng, dài khoảng 2 cm. Đài hoa bung rộng ra và
trở thành màu đỏ tía bên trong có trái non màu xanh, khi già màu đen. Những người
nước ngoài nhìn hoa của loài mai này, họ tưởng tượng như gương mặt của chuột
mickey hay mắt chim, do đó họ mới đặt tên cho chúng là Mickey mouse bush và
bird's eye bush.
7. Mai vàng Madagascar
Loài mai này có 5 cánh tròn,
dúm, giống như mai cánh dúm của Việt Nam. Lá dài và rủ xuống từng chùm. Chúng
có tên khoa học là Ochna greveanum.
Họ Ochnaceae
Họ này chủ yếu là những chi
cây riêng lẻ, song cũng có một số thuộc chi cây bụi và một vài chi thuộc loại
thảo mộc. Các chi cây thuộc họ Ochnaceae được tìm thấy ở những vùng nhiệt đới
và cận nhiệt đới (châu Phi, châu Á và châu Mỹ). Song nhiều nhất là ở những nước
Đông Nam Á. Họ Ochnaceae có khoảng 53 chi và 600 loài, thuộc bộ Malpighiales, lớp
Magnoliopsida, ngành Magnoliophyta.
I. Miêu tả
Lá của tất cả những cây
trong họ Ochnaceae đều có cuống, đôi khi lại khá dai (như lá của những cây thuộc
chi Ochna). Phần lớn đều là lá đơn, mọc liên tiếp ở hai bên cuống. Tuy
nhiên cũng có loại lá mọc thành chùm, hình chủy hay hình lông chim (rất hiếm).
Lá có hình lông chim là đặc trưng của chi Godoya. Những loài cây thuộc họ
ochnaceae đều có cơ quan sinh dục đực lẫn cái.
II. Những họ phụ (subfamily)
A. Ochnoideae
Họ phụ này có đặc tính chung
là không có nội nhũ (endosperm) trong hạt, có bốn nhóm chính:
1/ Nhóm Elvasieae gồm có:
- Chi Elvasia ( Hostmannia,
Trichovaselia hay Vaselia).
2/ Nhóm Lophireae (đôi khi đứng
một mình với họ riêng là Lophiraceae).
3/ Nhóm Ochneae gồm có:
- Chi Ochna và Diporidium.
4/ Nhóm Ourateeae gồm có:
- Chi Ouratea và Kaieteuria.
B. Luxemburgoideae
Họ phụ này cũng có đặc tính
là không có nội nhũ trong hạt.
Nhóm Euthemideae gồm có:
- Chi Euthemis
- Chi Gomphia
(Campylospermum, Idertia, Rhabdophyllum)
Nhóm Luxernburgieae gồm có:
- Chi Godoya.
- Chi Luxemburgia
(Charidion, Hilairella, Epiblepharis, Periblepharis, Plectanthera).
-Nhóm Sauvagesia
(Neckia, Leitgebia, Lavradia, Pentaspatella, Roraimanthus, Vausagesia ). Riêng
chi Vausagesia đôi khi được xếp vào nhóm Sauvagesieae.
-Nhóm Schuurmansia.
- Nhóm Wallacea.
Những chi khác thuộc họ
Ochnaceae: Adenarake, Blastemanthus, Brackenridgea (also Pleuroridgea),
Cespedesia (còn gọi là Fournieria), Fleurydora, Indosinia (còn gọi là
Distephania or Indovethia), Lophira, Krukoviella (còn gọi là Planchonella),
Perissocarpa, Poecilandra, Rhytidanthera, Schuurmansia, Schuurmansiella ,
Sinia, Testulea, Tyleria (còn gọi là Adenanthe).
II. Mai đỏ
Mai đỏ có một số chi khác
nhau song hình thức về hoa thì tương tự hay ít nhất cũng có màu đỏ. Tùy theo
chi và loài, mai đỏ cao từ 2 đến 8 m và nở hoa quanh năm. Theo tài liệu mà
chúng tôi có được, mai đỏ gồm có những loài như sau: Ochna integerrima,
Ochna serrulata, Ochna multiflora, Ochna thomasiana, Ochna mossambicensis,
Jatropha pandurifolia, Jatropha integerrima và Wrightia dubia. Như vậy,
xét về chi thì mai đỏ cũng có một số loài cùng chi với mai vàng là Ochna, chỉ
có chi Jatropha và Wrighita là khác.
1. Mai tứ quí Việt Nam
Có tên khoa học là Ochna
integerrima, họ Ochnaceae. Đây là một loài mai vàng sau khi ra hoa cánh màu
vàng rụng hết còn lại những đài hoa màu đỏ giống như cánh và có trái bên trong.
Lúc còn non trái màu xanh, đến khi chín trái chuyển sang màu đen. Tùy theo loài
mỗi đóa hoa sẽ có số lượng trái từ 1 đến 6.
Mai tứ quí Việt Nam còn được
gọi là Nhị độ mai. Nó cao khoảng 2-3 m, còn những loài mai tứ quí khác ở Thái
Lan và một số nước khác thuộc châu Á thì có thể cao đến 8m, hoa có đường kính
khoảng 4cm, cánh hoa màu đỏ và thường có hai tầng cánh, trái non màu
xanh, trái già màu đen. Cây ra hoa từ tháng 2 đến tháng 5 Dương lịch, có trái từ
tháng 4 đến tháng 6. Người ta có thể nhân giống mai đỏ bằng hạt, chiết cành hoặc
giâm cành.
Người nước ngoài gọi mai tứ
quí Việt Nam là " Mickey mouse ", bởi vì hình dáng của những cánh hoa
đỏ với hạt đen bên trong khiến họ liên tưởng đến gương mặt của chuột Mickey.
Tuy nhiên chúng không có hai tầng cánh. Lá màu xanh đậm. Chúng sống trong môi
trường có độ ẩm vừa phải, đất nhiều mùn và có ánh sáng từ 30 đến 50%.
2. Mai tứ quí Thái Lan
Cùng tên khoa học và cùng họ
với mai tứ quí Việt Nam, tuy nhiên mỗi hoa thường có 6 trái màu đen. Loài này
có lá không to lắm. Cây cao từ 2 m trở lên. Hoa cũng nở quanh năm.
3. Nhất chi mai Việt Nam
Mãn Giác thiền sư có bài thơ
rất nổi tiếng khi nhắc đến loài mai này:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thiện lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi
mai
Ngô Tất Tố dịch:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành
mai.
Nhất chi mai còn là nguồn cảm
hứng cho những văn nhân thi sĩ khắp nơi, và dường như mai thường đi chung với
ái tình. Có một bài thơ khuyết danh đã diễn đạt sâu sắc cái tận cùng nhớ nhung
của kẻ đang yêu:
Vị tình lai ký nhất chi mai
Ký nhất chi mai hữ biệt hoài
Hữu biệt hoài chi mai nhất
ký
Chi mai nhất ký vị tình lai
Diễn nghĩa:
Vì tình ai gửi lại một cành
mai
Gửi lại cành mai xa nhớ hoài
Xa nhớ hoài cành mai gửi lại
Cành mai gửi lại vì tình ai
Nhất chi mai có tên khoa học
là Jatropha pandurifolia, họ Euphocbiaceae. Loài mai này có thân to. Đường
kính lá khá lớn, đầu lá hơi nhọn. Hoa có năm cánh màu đỏ, trái bằng đầu ngón
tay.
Người ta có thể trồng nhất
chi mai bằng hạt hay giâm cành đều được. Loài này thích hợp với khí hậu và môi
trường đất ở nam bộ, trồng chậu làm kiểng bonsai hay làm hàng rào đều có tính
thẩm mỹ cao.
4. Mai đỏ Thái Lan
Ở Thái Lan ngoài mai tứ quí
ta còn gặp hai loài mai đỏ khác là Ochna multiflora ( hoa giống như
mai tứ quí Việt Nam) và Wrightia dubia (hoa rất lạ, tuy có 5 cánh
song nhụy lại nằm sâu bên trong lỗ tròn giữa những cánh hoa. Loài này nằm chung
với những loài mai khác của thái lan nên chúng tôi giới thiệu với các bạn, song
cũng không dám tin rằng đây là một loài mai!).
5. Mai đỏ Cuba
Ở Cuba có vài loài mai đỏ tương
tự như mai tứ quí Việt Nam, chúng có tên khoa học là Jatropha integerrima,
Jatropha hastata và Jatropha curcas. Những loài này thuộc họ
Euphorbiaceae. Chúng còn có tên thông thường là spicy jatropha, coral plant,
peregrina và physic nut.
Mai đỏ Cuba là những loài
cây cảnh nhỏ, thuộc dạng cây riêng lẻ hoặc cây bụi. Chúng cao khoảng 3 m trở
lên, cành nhánh thường thưa thớt. Lá màu xanh nhạt, hoa nhỏ mọc thành chùm lớn,
có màu đỏ tươi hoặc màu hồng với cuống hoa màu đỏ, thu hút bướm và chim tìm đến.
Những loài này dùng để trồng
chậu rất đẹp, song cũng có thể trồng ở sân vườn nhỏ như một loại cây làm viền
cho vườn hoa. Chúng thích nghi với nơi có ánh nắng đầy đủ hoặc ánh nắng từng phần
và đất rút nước tốt. Người ta có thể nhân giống những loài mai đỏ này bằng cách
giâm cành hoặc gieo bằng hạt. Khi gieo hạt sẽ nẩy mầm dễ dàng, do đó có thể
nhân giống với số lượng lớn. Mỗi tuần cần tưới cây khoảng 3 đến 5 lần. Cây có
thể thích nghi với khí hậu ở bờ biển, chịu được nước mặn.
6. Mai đỏ Nam Phi
Ở Nam Phi có một số loài mai
đỏ có tên khoa học là Ochna serrulata, Ochna multiflora và Ochna
atropurpurea. Tất cả đều cùng họ Ochnaceae. Người nước ngoài gọi chúng là
Mickey mouse plant, bird's eye bush, small-leaved plane và carnival bush.
A. Loài ochna serrulata
Còn có tên khác là Ochna
mossambicensis, họ ochnaceae. Tên tiếng anh là the Mickey mouse plant. Loài mai
đỏ này thường nở hoa vào cuối mùa đông hoặc mùa xuân và nở hoa lần nữa vào đầu
mùa hè. Hoa có mùi thơm ngào ngạt. Đây là loài hoa mà người Nam Phi thích trồng
trong chậu, đặt nơi có nhiều nắng trời. Loài Ochna serrulata cũng thuộc
dạng cây bụi nhỏ, cao từ 1 đến 2 m, nhưng đôi khi có cây lại cao đến 6 m,
tuy nhiên người ta vẫn cho rằng nó là loài cây nhỏ. Nó có thân mảnh khảnh với vỏ
cây nhẵn, màu nâu bóng. Cành nhánh phủ những đốm nhỏ, màu sáng. Lá hình elip
dài khoảng 13-50 mm, song đôi khi lá lại hẹp, đầu lá tròn. Lá dầy và dai. Mép
lá có gai nhọn thẳng, lá có gân giữa lớn và những gân phụ hai bên rất dễ nhận
thấy. Vào mùa xuân cây có tán lá non màu đồng thiếc pha hồng nhạt sau đó chuyển
sang màu xanh bóng.
Loài cây bụi tuyệt đẹp này nở
hoa màu vàng hoặc cam vào mùa xuân (tháng 7 đến tháng 11), hoa có đường
kính khoảng 20 mm. Tuy những cánh hoa rụng khá sớm, song chúng vẫn kịp
cho người đời nhìn ngắm vẻ đẹp của nó. Trong hoa có khoảng từ 5 - 6 trái
hình cầu, giống như trái mọng. Lúc đầu trái màu xanh, khi chín chuyển thành màu
đen. Những trái này gắn chặt vào đài hoa một cách dẻo dai khi đang phát triển.
Những đài hoa nở rộng dần và trở thành màu đỏ, trong phần lớn trường hợp toàn bộ
cây như phủ một màu đỏ.
Người ta tìm thấy loài Ochna
serrulata ở bờ biển cận nhiệt đới của Nam Phi. Chúng mọc ở những nơi ngang
với mặt nước biển cho tới độ cao 1.800m. Người ta còn nhận thấy chúng ở mọc ở
mép của những khu rừng, trên triền đá của ngọn đồi và cả trên đồng cỏ. Tuy mọc
thành bụi trong rừng, song chúng có thể tăng trưởng ở nhiều môi trường khác
nhau.
Hoa của loài mai này thu hút
nhiều ong và bướm tìm đến. Chim thường ăn trái chín của loài cây này. Hạt được
gieo rắc khắp nơi bởi chim và nước. Nhìn chung, cây thích nghi với nơi có ánh nắng
đầy đủ hoặc từng phần. Tưới cây mỗi tuần từ 3 đến 5 lần.
Ở Nam Phi, tộc người Zulu sử
dụng nước sắc của loài mai này để làm giảm bớt nỗi đau của trẻ con khi chúng bị
bệnh về xương hay viêm ruột hoại thư (gangrenous rectitis).
Một loài mai đỏ khác rất giống
với loài Ochna serrulata cũng được tìm thấy ở Nam Phi, đó là loài Ochna
serrulata (hochst.) Walp., họ Ochnaceae.
Nhìn chung, tên chi Ochna xuất
phát từ chữ Ochne trong tiếng Hy Lạp cổ, một chữ dùng để chỉ cây lê
hoang dã, vì lá của giống này tương tự như lá của cây lê nên người ta mới
đặt tên chi như thế. Còn cái tên loài serrulata được đặt như thế vì
mép lá có răng cưa.
B. Loài Ochna
multiflora và Ochna atropurprea
Tên thông thường: Mickey
mouse bush, small-leaved plane, carnival bush, fynblaarro oihout (afr.),
umbomvane (zulu) và ilitye (xhosa). Hai loài mai đỏ này thuộc dạng cây bụi, cao
khoảng 2,5m, thích bóng râm. Chúng thích nước ở mức độ trung bình trở xuống,
thích đất có tính hơi acid một chút. Vào mùa hè chúng nở hoa vàng và đỏ.
3. Loài Ochna
thomasiana
Còn tên gọi khác là Ochna
kirkii. Loài mai đỏ này thuộc dạng cây bụi hay cây nhỏ, cao từ 1,5 đến 5m. Thân
có nhiều "hột mụn" màu trắng. Hoa nở quanh năm và có 5 cánh màu vàng,
đường kính khoảng 3 - 6 cm, tỏa hương thơm ngát. Chúng có đặc điểm là không có
lá kèm và cuống lá. Hình dạng lá như hình elip hẹp, màu xanh. Lá xen kẻ nhau,
kích cở từ 2,5 đến 5 cm, có một số lông cứng trên bề mặt lá. Bầu nhụy ở
trung tâm hoa.
Một khi những cánh hoa rụng,
các lá bắc (bracts) sẽ trở nên màu đỏ tươi, bên trong có từ 1 đến 5 trái màu
xanh (hoặc vàng nhạt). Trái có kích cở khoảng 1,3 cm dựng thẳng trong những lá
bắc giống như làm bằng sáp. Những lá này sẽ tồn tại một thời gian dài trong
giai đoạn trái chín trở thành màu đen. Loài mai này có hoa lớn hơn loài Ochna
serrulata, thích hợp với lượng nước trung bình.
5. Mai đỏ Nhật Bản
Những loài mai này có tên
khoa học là Prunus armeniaca L.), họ Rosaceae. Chúng có hoa giống như
hoa đào. Thân cây đầy những mảng trắng, cành nhánh mọc thẳng, khẳng khiu. Hoa
có phần giống như mai mơ hà nội, song lại màu đỏ hoặc hồng. Do đó ta có thể coi
chúng là mai mơ Nhật Bản. Ngoài những loài vừa kể, ở Nhật Bản còn một loại mai
hoa hồng nhạt rất lạ. Nó có cành rủ, hoa màu hồng nhạt và rất sai hoa. Người ta
gọi chúng là mai liễu.
Những loài mai đỏ phổ biến
nhất ở Nam Phi có tên khoa học là Ochna serrulata, Ochna thomasiana và Ochna
mossambicensis. Tất cả đều cùng họ Ochnaeace. Trong đó có một loài rất đặc biệt:
hoa vàng xen kẻ với hoa đỏ (có trái đen). Thông thường, có loài mai sau khi rụng
hết cánh vàng, chỉ còn lại đài hoa màu đỏ (mai tứ quí), còn loài mai này lại có
cả hai màu hoa cùng xuất hiện một lúc. Ngoài ra, còn một loài mai đỏ khác
không có liên quan gì với những loài và chi kể trên, chúng có tên khoa học là Clerodendrum
tomentosum. Hoa chùm màu đỏ, có năm 5 cánh bầu tròn với đỉnh cánh nhọn. Giữa nụ
hoa là một trái màu đen lớn, trùm kín cả phần bên trong hoa. Nhìn chung hoa rất
nhỏ so với lá.
III. Mai trắng
Sái Thuận (1.441- ?) Là người
làng Song Liễu, Thuận Thành. Ông đỗ tiến sĩ vào thời Lê, giữ chức Hiệu lý ở hàn
lâm viện. Về sau ông được vua Lê Thành Tông giao chức sái phu trong nhóm Tao
đàn Nhị thập bát tú. Ông là người giỏi văn chương thi phú, rất yêu hoa mai, đặc
biệt là hoa mai trắng. Bài thơ mai hoa sau đây, trích trong Lã Đường thi tập của
ông đã toát lên được sự thanh cao của loài mai trắng:
Băng thu bất thụ hồng trần
uyển
Tố chất năng hàm bạch ngọc
tu
Nghĩa là:
Phong tư như băng tuyết chẳng
nhuốm bụi hồng
Phẩm chất trong trẻo, hàm chứa
vẻ thẹn của viên ngọc trắng
Nhà thơ Lư Mai Pha (Trung Quốc)
cũng có bài Tuyết mai nhị thủ", miêu tả cảnh khoe hương sắc giữa mai và
tuyết:
1
Mai tuyết tranh xuân vị khẳng
hàng
Cao nhân các bút phí bình
chương
Mai tu tốn tuyết tam phân bạch
Tuyết khước thâu mai nhất đoạn
hương
2
Hữu mai vô tuyết bất tinh thần
Hữu tuyết vô thi tục liễu
nhân
Nhật mộ thi thành thiên hựu
tuyết
Dữ mai tịnh tác thập phần
xuân
Hải đà dịch:
1
Mai,tuyết giành xuân chẳng
chịu nhường
Thi nhân đành bỏ chuyện giai
chương
Mai thua tuyết ấy vài phân
trắng
Tuyết hẳn nhường mai mấy bậc
hương
2
Giành xuân mai tuyết chẳng
nhường
Thi nhân cạn hứng giai
chương, thở dài
Nhờ khoe trắng tuyết hơn mai
Mai thời hơn tuyết một vài
thoáng hương
Không biết hai nhà thơ trên
muốn nhắc đến loài mai trắng nào, bởi vì mai trắng có rất nhiều loài. Ở đây,
chúng tôi xin phép giới thiệu một số loài như sau: Ochna mauritiana,
Serissa foetida, Serissa foetida"kyoto", Serissa foetida 'mt. Fuji',
Serissa foetida 'flore pleno', Wrightia arborea, Wrightia antidysenterica,
Wrightia religiosa, Wrightia religiosa variegata, Wrightia religiosa (Echites
religiosa), Wrightia sp., Wrightia tomentosa và Wrightia zeylanica…
1. Mai chiếu thủy Việt Nam
Có tên khoa học là Wrightia
religiosa, họ Apocynaceae. Người ta còn thấy loài mai này ở thái lan. Chúng có
tên thông thường là sacred buddhist, wild water plum và water
jasmine.
Mai chiếu thủy là một trong
những loài hoa đẹp nhất, hữu ích nhất và khiến nhiều người say mê nhất trong
các loài hoa thơm nhiệt đới. Chúng thuộc dạng cây bụi, hoa thơm ngọt mọc dọc
theo những cành cây mảnh khảnh. Loài mai này rất khỏe, tăng trưởng nhanh, thích
hợp với nhiều môi trường sống khác nhau. Tuy nhiên cũng có loài tăng trưởng rất
chậm. Mai chiếu thủy rất thích nước, do đó người nước ngoài còn gọi nó với
cái tên là "hoa nhài nước" (water jasmine). Chúng có những đặc tính của
loài cây và khi được tạo thành bonsai thì trông giống như một cây cổ thụ thu nhỏ.
Mai chiếu thủy có lá nhỏ,
hoa tỏa mùi thơm ngọt trong không khí. Tuy nhiên, những đặc tính thú vị nhất của
chúng là: bạn có thể tạo dáng cho chúng ở mọi thế bonsai mà bạn có thể nghĩ ra.
Mai chiếu thủy có thân xù
xì, vỏ cây màu nâu với những miếng trắng nhỏ. Có nhiều cành nhỏ mọc từ gốc
thân, dễ uốn tỉa. Lá mỏng màu xanh bóng và có hình oval, mọc đối nhau ở hai bên
cành. Hoa thơm, màu trắng, thường mọc thành chùm, có cuống dài thòng xuống. Mai
chiếu thủy có loại cánh đơn và loại cánh kép. Quả đôi dài hẹp thòng xuống. Hạt
có lông mềm.
Mai chiếu thủy tăng trưởng tốt
trong môi trường có độ ẩm từ trung bình đến cao, nơi có ánh sáng đầy đủ hoặc một
phần bóng râm. Anh sáng càng nhiều thì lá càng xanh hơn và tán lá sẽ trở nên dầy
đặc. Nếu thiếu phân và nước, lá sẽ ngả sang màu vàng. Mai chiếu thủy có ưu thế
là thích nghi với bất kỳ loại đất nào ngoại trừ trồng trên cát. Cây có nhiều
dáng thế khác nhau một cách tự nhiên, thông thường nhất là phần gốc có tán lá rộng
hơn phần đỉnh và có nhiều tầng lá.
Mai chiếu thủy có 3 loại: lá
kim, lá trung và lá to.
- Lá kim (lá nhỏ):
loài này có lá nhỏ nhất trong 3 loại, khi trồng chậu thì lá giảm kích cỡ xuống.
Cây dễ chăm sóc nhưng không chịu nỗi sự thiếu quan tâm như loại lá to. Nếu là
cây nhập khẩu, chúng vượt qua stress giỏi hơn hai loại còn lại. Hoa của mai chiếu
thủy lá kim nhỏ hơn loại lá to và khó ra hoa hơn một chút. Đây là loại cây làm
kiểng bonsai rất tốt, song phải mất nhiều thời gian để chúng phát triển thân to
bè và lá nhỏ lại.
- Lá trung: loại này có
lá hẹp hơn loại lá to, song cách chăm sóc thì như nhau. Chúng có thể khó ra hoa
hơn loại lá to.
- Lá to: loại này dễ
chăm sóc, nhưng cần có nhiều ánh sáng hơn. Một điều đặc biệt là, chúng không chịu
nỗi sự ẩm ướt bộ rễ trong mọi thời điểm hoặc sẽ cho thấy bệnh vàng lá (khiến lá
vàng úa).
Loại lá to và lá trung thường
được trồng trong các chậu kiểng lớn ngoài trời, còn loại lá nhỏ rất thích hợp để
làm kiểng bonsai. Người ta có thể ghép ba loại này với nhau để tạo nên một cây
mai chiếu thủy lạ và đẹp. Thông thường họ sử dụng những cành mai chiếu thủy lá
nhỏ ghép vào gốc cây mai chiếu thủy lá to hay ghép với loài lồng mức để tạo
dáng cây cổ thụ. Loại mai chiếu thủy được ưa chuộng nhất là loại cây có gốc to,
xù xì mà người ta thường gọi là mai chiếu thủy gù.
Người ta nhân giống mai chiếu
thủy bằng cách chiết và giâm cành. Loài mai này thích nơi có bầu khí quyển giống
như trong rừng hoặc ở nơi gần với bờ biển. Khả năng chịu ngập nước của chúng
khá tốt. Hoa nở quanh năm và khá thơm. Khi trồng cây này bạn cần tưới nước
mỗi tuần từ 3 đến 5 lần.
2. Mai chiếu thủy Thái Lan
Ở Thái Lan có một loài mai
chiếu thủy giống như mai chiếu thủy Việt Nam. Nó có tên khoa học là Wrightia
religiosa. Ngoài loài này còn một loài khác có tên khoa học là Echites
religiosa. Cả hai cùng họ là Apocynaceae. Tên thông thường của hai loài mai chiếu
thủy này là sacred buddhist, wondrous wrightia, wild water plum và water
jasmine. Chúng là hai loài cây phổ biến nhất ở Thái Lan. Bạn có thể thấy chúng ở
bất kỳ nơi đâu dọc theo những con đường, hàng rào, bờ dậu, sân vườn hay ở trong
chậu.
Mai chiếu thủy Thái Lan có
trái đôi, dài khoảng 23 cm. Loài mai này rất dễ trồng, không cần tốn nhiều công
chăm sóc mà chỉ cần tưới nước thường xuyên. Chúng dễ bị ảnh hưởng bởi thời tiết
giá lạnh. Nếu nhiệt độ hạ xuống 65o F thì cây sẽ bị rụng lá và nhiệt độ
càng giảm hơn nữa thì cây sẽ càng trở nên xấu xí. Trong môi trường nhiệt đới và
cận nhiệt đới mai chiếu thủy Thái Lan sẽ tăng trưởng tươi tốt, lá mọc nhiều và
rậm. Hoa sẽ nở quanh năm và có mùi thơm lan tỏa trong không khí. Do những loài
mai này có tỷ lệ tăng trưởng nhanh nên người ta dễ tạo chúng thành cây bonsai
trong một thời gian ngắn. Theo truyền thống, người dân Thái Lan có thể sử dụng
loài mai này như một loại thảo mộc làm thuốc.
Ở Thái Lan còn có những loài
mai chiếu thủy khác khá đẹp. Cánh hoa màu đỏ hoặc cam chứ không trắng như mai
chiếu thủy Việt Nam và hoa nở quanh năm. Giống này có tên khoa học là Wrightia
coccinea. Riêng giống mai chiếu thủy có tên khoa học là Wrightia pubescens là
"đặc sản" của các tỉnh miền bắc Thái Lan.
3. Mai chiếu thủy Indonesia
Loài mai này rất đẹp, không
mọc thành chùm nhỏ chứ không nhiều như mai chiếu thủy Việt Nam. Thân cành màu
nâu, lá có gân. Hoa trắng 5 cánh. Nó có tên khoa học là Wrightia religiosa,
họ apocynaceae.
4. Mai trắng Thái Lan
Ở đất nước này có vài loài
mai trắng với tên khoa học là Wrightia dubia, Cameraria dubia và Wrightia
cambodiensis. Tất cả đều nằm trong họ Apocynaceae. Những loài này hiếm khi có
mùi thơm, tuy nhiên hoa của chúng thì khiến nhiều người phải ngạc nhiên. Hoa có
hình dáng như con sao biển, rộng khoảng 5 cm và trông giống như một vật bằng
sáp, do con người chế tạo ra. Cây có thể là một cây nhỏ đơn lẻ hay dạng cây bụi.
Rất dễ tổn thương trước thời tiết lạnh giá.
Ngoài những loài trên, ở
Thái Lan còn có hai loài mai trắng khác có mùi thơm.
- Loài Wrightia
tomentosa, họ apocynaceae, có hoa lớn màu trắng, mùi thơm dịu. Loại này thuộc dạng
cây bụi, cao từ 1,5 - 3 m. Thích nghi với nơi có ánh nắng đầy đủ. Mỗi tuần cần
tưới cây từ 3 đến 5 lần.
- loài Wrightia sp.,
họ Apocynaceae, có mùi thơm ngào ngạt. Người ta còn gọi nó là Thai cherry
wrightia. Loài này thuộc dạng cây bụi, thân gỗ và mọc như cây leo. Người ta có
thể uốn tỉa chúng để thành cây nhỏ xinh đẹp hoặc một bụi cây duyên dáng. Song tốt
nhất là để chúng bò leo tự do: những nhánh xoắn của chúng sẽ tạo thành hình thù
kỳ lạ. Cây tăng trưởng chậm, cao từ 1,5 - 3m, song đôi khi lại có cây cao tới 7
m và thích hợp với nơi có ánh nắng đầy đủ. Mỗi tuần cần tưới nước khoảng 3 đến
5 lần.
Cây có lá to giống như những
loài mai trắng có mùi thơm khác. Lá dài khoảng 7- 10 cm, rộng khoảng 5 cm, khiến
người ta dễ liên tưởng đến lá của cây táo. Hoa có màu trắng và rất thơm, thu
hút ong bướm và chim chóc. Cây nở hoa rất nhiều vào mùa xuân và mùa hè.
5. Mai trắng Indonesia
Có tên khoa học là Wrightia
arborea, họ apocynaceae : hoa có kích cở khoảng 2 - 3 cm, mọc thành chùm trên
cành. Hoa thường có màu trắng, song cũng có khi lại màu xanh hoặc màu vàng nhạt.
Thân và cuống lá có lông. Bao phấn hình nón quanh vòi nhụy, hoa nở vào thánh
năm và tháng sáu.
6. Mai trắng Sri Lanka
Có tên khoa học là Wrightia
antidysenterica, họ apocynaceae. Loài này còn có những tên phổ biến khác là
snowflake, milky way, winter cherry tree, arctic snow, pudpitchaya, sweet
indrajao và hyamaraca.
Mai trắng Sri Lanka đôi khi
được xếp vào giống Holarrhena, có tên khoa học là Holarrhena pubescens.
Chúng là loài cây bụi, gồm có hai loại: loại bụi nhỏ cao khoảng 0,5 đến 1,5m;
loại bụi lớn cao từ 1,5 đến 3m, mọc chen chúc rậm rạm và có hoa nở quanh năm.
Hoa màu trắng khoảng 2,5cm, nhìn từ xa trông giống như những ngôi sao nhỏ. Cây
thích nghi với nơi có ánh nắng đầy đủ, mỗi tuần cần tưới từ 3 đến 5 lần. Đây là
loài cây cảnh lý tưởng để trang trí trong sân nhỏ hoặc hàng hiên. Có thể tăng
trưởng dễ dàng như những loại cây trồng trong nhà. Không cần phải cắt tỉa cành
lá. Nhìn chung, cây thu hút bướm và chim.
Ở Ấn Độ người ta dùng loài
cây này để làm thuốc. Vỏ cây có đặc tính chống lại vi khuẩn và infammatory, do
đó người ta thường chiết xuất tinh chất của nó để chữa bệnh đau miệng (mouth
sores). Lá dùng để điều trị một số rối loại của da, bệnh vẩy nến (psoriasis) và
những bệnh viêm da không rõ ràng…Vỏ cây còn được dùng để làm giả một loại thuốc
nổi tiếng là Holarrhena antidysenterica.
Mai trắng Sri Lanka liên
quan với loài mai có tên khoa học là wrightia tinctoria, một loài cây
phân bổ rải rác ở những vùng nhiệt đới. Người ta thấy chúng ở những cánh rừng
mưa và đầm lầy của Ấn Độ và Malaysia. Chúng là loài cây có kích cở từ nhỏ cho tới
rất cao. Bộ rễ rộng và thường bung ra.
7. Mai trắng Miến Điện
Có tên khoa học là Wrightia
zeylanica, họ Apocynaceae. Loài mai này khá giống với mai chiếu thủy Indonesia,
song hoa to hơn, có 5 cánh suôn và dài hơn. Cuống hoa khá dài.
Ở Việt Nam có hai loài mai
trắng khác mà người ta cũng gọi là mai miến điện. Chúng còn có tên là mai cẩm
thạch, mai đốm hay mai Long Xuyên.
Loài thứ nhất rất lạ và đẹp,
chỉ có ở vài tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Chúng có cành nhánh như cây
mai vàng, lá hơi to, màu nửa trắng nửa xanh. Hoa có từ 10 đến 13 cánh màu trắng
xòa rộng, to và tròn. Dọc theo cánh hoa có vài đường gân nổi lên, trông rất lạ.
Giữa hoa là một chùm nhụy dài màu vàng nghệ. Đài hoa màu xanh nhạt, bên trong
màu xanh xám.
Loài thứ hai hoa có 5 cánh
tròn, chùm nhụy dài, bên ngoài chùm nhụy là những sợi màu vàng nhạt, còn bên
trong là những sợi màu vàng sậm. Hoa mọc thành bó trên cành rất đẹp.
Họ Apocynaceae
Apocynaceae là họ của những
cây hoa nhiệt đới, bao gồm loại cây đơn, cây bụi, thảo mộc và dây leo. Người ta
tìm thấy nhiều loài cây trong họ này phân bố ở các rừng mưa nhiệt đới và phân lớn
chúng sinh trưởng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Một vài loài khác
thuộc dạng thảo mộc lại phân bố ở những vùng ôn đới. Nhiều loài có nhựa
trắng đục và có nhiều loài khác lại chứa chất độc ăn vào rất nguy hiểm. Tuy
nhiên một vài chi khác thuộc họ này như chi Adenium lại có nhựa mủ trong và đục.
Còn riêng chi Pachypodium thì hoàn toàn có nhựa trong.
Họ Apocynaceae thuộc bộ
Gentianales, lớp Magnoliopsida, ngành Magnoliophyta.
Hiện nay người ta công nhận
họ Apocynaceae gồm có 1.500 loài nằm trong khoảng 424 chi. Họ này có 5 họ phụ
là: Rauvolfioideae, Apocynoideae, Periplocoideae, Secamonoideae và
Asclepiadoideae. Tuỳ theo sự phân loại của những nhà khoa học, đôi khi ta lại
thấy ba họ phụ phía dưới (3,4,5) lại được xếp vào họ Asclepiadaceae.
Miêu tả
Các chi cây thuộc họ
Apocynaceae đều có lá đơn và lá thường đối nhau, chéo góc hoặc uốn thành vòng.
Hoa thường có màu sắc sặc sở, những cánh hoa đối xứng với nhau trên một trục
tròn chính. Hoa nở riêng từng đóa hoặc tập hợp lại thành thành chùm và đều
có cơ quan sinh dục cả đực lẫn cái với năm đài hoa có dạng thùy. Nhụy hoa nằm
bên trong và bầu ngụy thường phồng lên. Quả thường thuộc dạng hạch, hột hoặc
nang.
8. Chi mai
Chi mai là một trong tứ quí
theo quan niệm của Trung Quốc: "Tùng-Cúc-Trúc-Mai". Nó có tên khoa học
là Prunus mume sieb. Et zucc. Loài mai này cũng là đặc sản của miền bắc
giống như hoa đào vậy. Chi mai cùng họ với mận và đào (rosaceae). Nó là giống
mai trắng, có "ngoại hình"nhỏ nhắn. Nhìn chung cả thân, lá và hoa của
nó đều nhỏ hơn so với mơ ăn quả, nhất là những loại mơ ở vùng Hương Sơn và núi
Hòa Bình của Chu Mạnh Trinh. Nó không giống như mai vàng hay mai tứ quí ở Nam bộ.
Chi mai rụng lá vào mùa đông
và bắt đầu nở hoa khi mùa xuân đến, đặc biệt là vào dịp tết nguyên đán. Lúc mới
nở hoa có màu đỏ hồng sau đó chuyển sang màu trắng, có mùi thơm thoang thoảng rất
khó nhận ra. Chúng có thể sinh trưởng tốt trên đất khô cằn, ở nơi nhiều nắng và
chịu được thời tiết lạnh. Nó là loài cây thích khô chứ không ưa nhiều nước. Người
ta có thể nhân giống chi mai bằng cách giâm cành hay chiết cành bánh tẻ đều được.
Tuy nhiên hiệu quả nhân giống sẽ tốt hơn khi ta áp dụng vào đầu mùa xuân.
9. Bạch tuyết mai
Ở Việt Nam người ta còn gọi
loài mai này là bạch ngọc mai. Người phương Tây gọi nó là hồng tuyết (snow
rose). Loài này có nguồn gốc từ Trung Quốc với tên khoa học là Serissa
foetida, họ Rubiaceae. ở Trung Quốc người ta còn gọi nó là cây Thiên tú, còn
người phương Tây gọi nó là "tree of a thousand stars" hay
"Chinese flowering white serissa". Nó thuộc dạng cây bụi, phát
triển cành nhánh sum suê và có thời gian ra hoa khá dài.
Loài hoa này mọc hoang dã ở
những vùng rừng cận nhiệt đới và những cánh đồng ẩm ướt. Bạch tuyết mai cao khoảng
45 - 60 cm, lá hình oval khá dầy và có màu xanh lá cây đậm. Khi héo lá có mùi vị
khó ngửi (do đó người ta mới gọi nó là foetida). Nhánh mọc thẳng và tỏa ra mọi
hướng, tạo thành một mái vòm rộng và rậm. Thân cây tròn, màu xám, xù xì và thô
nhám, trồng lâu năm thân cây sẽ có màu sáng, nhạt hơn. ở miền bắc trung quốc cũng
có giống hoa này, tuy nhiên hoa nhỏ hơn, có hình loa kèn.
Bạch tuyết mai còn có loại
hoa đôi và trên lá có thể điểm những đốm nhỏ hay màu sắc sặc sở. Loài này còn
những thứ khác như: variegata, variegated pink, pink mystic, snowflake,
snowleaves, mt. Fuji, Kyoto và Sapporo.
Bạch tuyết mai nở hoa quanh
năm, đặc biệt là từ đầu xuân đến cận thu (vào dịp Lễ Tạ ơn hay Lễ Giáng sinh ở
phương Tây). Hoa có hình cái phễu, rộng 1cm. Lúc mới nở nụ hoa có thể có màu trắng
tinh hoặc từ màu hồng nhạt chuyển dần sang màu trắng hoàn toàn. Bạch tuyết mai
là một trong những loại hoa bonsai phổ biến nhất ở Nhật Bản. Việc trồng và chăm
sóc giống hoa này không khó, song bất tiện ở chỗ nó thường bị lá rụng khi hứng
chịu những trận mưa kéo dài hay bị ngập trong nước. Ngoài ra nó không thích hợp
với điều kiện thời tiết quá lạnh hay quá nóng bức, thậm chí khi dời nó đến vị
trí mới thì lá cũng có thể bị rụng. Tuy nhiên, cây sẽ phục hồi và tăng trưởng
trở lại sau khi được chăm sóc tốt. Trong giai đoạn cây ra hoa ta cần đặc biệt chú
ý đến việc bón phân. Bạch tuyết mai tăng trưởng nhanh, khi cần thiết ta có thể
cắt bỏ hết những cành nhánh phụ hoặc cắt cành thường xuyên để tạo dáng cho nó.
Do cây có bộ rễ phát triển nên người ta thường trồng ở thế "rễ lộ hay rễ
leo đá" (exposed root or root over rock styles).
Nhìn chung có thể trồng loài
mai này theo mọi phong cách, ngoại trừ áp dụng thế trực (thẳng đứng) hay thế chổi.
Nếu đặt cây trong nhà cần có ánh sáng khoảng 1.000 lux. Tốt nhất cần có đèn khoảng
12 giờ mỗi ngày. Nếu nhận quá ít ánh sáng cây sẽ tăng trưởng chậm.
10. Bạch tuyết mai Nhật Bản
- Bạch tuyết mai
'variegated pink': hình dáng như ngôi sao, màu hồng nhạt, rộng khoảng 1,30cm.
Hoa nở vào cuối xuân cho tới mùa thu. Cây có tán lá màu xanh đậm, khá rậm rạp,
phản ứng tốt trước việc cắt tỉa. Người ta có thể trồng chúng trong chậu hoặc trồng
làm hàng rào thấp. Cây trưởng thành cao khoảng 76,2 cm, rộng 91 cm.
- Bạch tuyết mai
'kyoto': tán lá màu xanh đậm rậm rạp và rất nhỏ. Người ta thường dùng loài này
để làm bonsai. Nó tăng trưởng chậm. Nếu trồng ngoài trời thì cần cung cấp bóng
râm một phần cho cây, còn trồng chậu trong nhà thì cần có nhiều ánh sáng.
- Bạch tuyết mai 'mt.
Fuji': lá nhỏ màu xanh đậm, mép lá có viền màu trắng kem. Hoa nở suốt mùa xuân
và mùa hè. Người ta thường trồng cây này để làm bonsai trong chậu hoặc trồng
làm hàng rào thấp. Cây thích môi trường có bóng râm.
- Bạch tuyết mai 'flore
pleno': loài này thuộc dạng cây bụi khỏe mạnh, có hoa đôi màu trắng, dường như
nở liên tục quanh năm. Trồng cây này làm hàng rào thấp rất đẹp. Cây không bị ảnh
hưởng khi được cắt tỉa. Cây có thể tăng trưởng tốt ngoài nắng hoặc nơi có bóng
râm từng
Tất cả những loài bạch tuyết
mai trong mục này đều có tên khoa học là Serissa foetida, họ Rubiaceae, bộ
Gentianales, lớp Magnoliopsida, ngành Magnoliophyta.
11. Mai Nhật
Có tên khoa học là Prunus
mume sieb. Et zucc và cùng họ với hoa anh đào. Do đó nó khá giống với loài
hoa này. Cây chi mai miền bắc Việt Nam cũng là một loại mai Nhật. Xét về ngôn
ngữ, cái từ "apricot" sử dụng cho những giống mai Nhật tỏ ra chính
xác hơn là chỉ chung cho mai Việt Nam.
Mai Nhật có nhiều loại, giống
mai màu trắng nở sớm hơn mai hồng. Có loại mai cành cứng, vươn thẳng lên và có
loại cành rủ xuống như cành liễu, do đó người ta thường gọi là mai liễu.
Ở Nhật, mai là loài hoa đứng
thứ hai trong bốn loài hoa tiêu biểu cho mùa xuân: anh đào-mai-đào-mận. Mới
nhìn bốn loại hoa này người ta khó phân biệt vì dáng vẻ bên ngoài của chúng khá
giống nhau, tuy nhiên khi quen nhìn và quan sát kỹ một chút ta vẫn có thể phân
biệt được chúng.
Mai nhật có nguồn gốc từ
Trung Quốc, du nhập vào xứ sở Phù Tang vào thời Nara (thế kỷ thứ 8). Còn hoa
anh đào thì mãi đến thế kỷ 17-18 (thời Edo) người Nhật mới hoàn toàn "quen
biết" loài hoa này. Mai Nhật ra quả vào khoảng tháng 6-7 hàng năm, tức khoảng
tháng 5-6 Âm lịch ở Nhật.
Ở xứ sở Phù Tang, chi hoa
này tượng trưng cho những người sinh vào ngày 1 tháng 1 và ngày 3 tháng 2. Hai
ngày này mang ý nghĩa là sự tươi mới và tốt đẹp vượt qua mọi khó khăn, bởi vì
trong những ngày này thời tiết ở nhật thường khắc nghiệt, song chúng vẫn nở hoa
tươi thắm, khoe sắc điệu đàng và bất chấp hoàn cảnh. Ngày 1 tháng 1 chính
là ngày đầu năm, còn 3 tháng 2 là ngày Setsubun, khởi đầu cho một mùa xuân mới.
Lúc đầu xuân, nếu dạo chơi
trên đường phố Tokyo bạn sẽ thấy hoa mai nở. Do thời tiết còn khá lạnh nên bạn
chỉ thấy được loài hoa này, mãi đến giữa tháng ba hoa anh đào, hoa mận và hoa
đào mới thật sự rộn ràng sắc xuân. Để thưởng thức mai nhật, bạn hãy dành thời
gian đến vùng tây-bắc Tokyo, rảo bước ở khu vực gần chùa Kinkaku và đền Kitano
Tenmangu, nơi đây hoa mai nở rất nhiều. Chắc chắn tâm hồn bạn sẽ trở nên thanh
khiết và an bình hơn.
12. Mai mơ
Nhà thơ Nguyễn Bính có câu
"Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi" là nói về loài mai này. Chúng còn được gọi
là hạnh mai. Tên khoa học là Prunus mume, họ Rosaceae.
Mai mơ Việt Nam là một cách
gọi của dân ta, chứ thực chất chúng là cây mơ, cùng một chi với mai Nhật, tuy
nhiên khác loài hay cùng một loài mà khác thứ, bởi vì chi cây mơ có đến khoảng
300 loài trở lên. Mai mơ là loài cây cao từ 6 đến 9 m, lá rộng tròn và dài, đầu
nhọn, chung quanh mép lá có răng cưa. Hoa nở vào mùa xuân, sau đó lá mới đâm chồi.
Loài này có hoa màu đỏ tía hay xanh thẫm hoa màu trắng hoặc hồng. Loài có hoa
màu trắng được gọi là lục ngạn mai, hoa kết thành quả, lúc còn non quả màu
xanh, khi chín chuyển sang màu vàng. Trái có vị chua ngọt, mùi thơm dịu.
Người ta thường lấy trái mơ
rim với đường để làm ô mai xí muội, một món ăn mà thanh thiếu niên rất thích,
nhất là nữ giới. Có lẽ ô mai gắn liền với thiếu nữ nên có nhà văn mới đặt ra từ
là "tuổi ô mai" để chỉ những cô gái mới lớn. Còn từ "xí muội"
được gọi theo âm Quảng Đông có nghĩa là tiểu mai.
Mai mơ Việt Nam mọc nhiều ở
vùng rừng núi quanh chùa Hương, thuộc địa phận Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây ở miền bắc.
Song người ta còn thấy chúng xuất hiện ở nhiều nơi khác, cũng ở miền bắc.
13. Mai mù u
Còn gọi là nam mai, có tên
khoa học là Ochrocarpus samensis, họ Guttiferae. Loài mai trắng này phân bố
rộng khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra người ta còn thấy chúng mọc rải
rác ở vùng Thừa Thiên - Huế. Nam mai xuất phát từ sự tích vua Gia Long Nguyễn
Ánh "sa cơ thất thế" tìm đường bôn tẩu. Tuy gọi là mai, song thực chất
loài này chính là cây mù u, họ măng cụt.
Mù u là loài cây thân mộc,
dùng để làm cột nhà, cầu khỉ và cả làm cối xay, làm chày…nó có lá dày, to bằng
bàn tay người lớn. Hoa có 5 cánh giống như loài bạch mai. Trái tròn, to bằng
ngón chân cái, ăn không được. Người ta dùng vỏ trái để làm gáo múc nước mắm, nước
cốt dừa, còn hột thì ép làm dầu thắp đèn. Loại dầu này không sáng lắm và có rất
nhiều khói. Nhà thơ kiên giang có bài thơ về cây mù u buồn man mác, gợi nhớ đến
làng quê, đậm đà tình nghĩa:…
Lượm tiếp ngoại mù u mới rụng
Xe đèn thắp đỡ tối ba mươi
ở nhà quê nhớ thời đồ khổ
Đèn đuốc mù u vẫn sáng trời
…móc ruột mù u chừa vỏ mỏng
Anh làm gáo nhỏ, chơi nhà
chòi
Nước mưa, em uống năm, mười
gáo
Uống nước nhà quê nhớ suốt đời
…cây mù u cỗi người ta đốn
Làm cối, làm chầy, giã gạo
thuê
Mất ngoại, xa em, buồn héo
ruột
Mình anh thờ thẫn dạo đường
quê
Đèn mù u, chiếc gáo mù u
Đã lắng chìm trong bụi mịt
mù…
Cây mù u còn là nguồn cảm hứng
để trịnh hoài đức và một số cây bút tên tuổi khác sáng tác nên thi tập bất hủ
"mộng mai đình".
14. Bạch mai
Còn gọi là Bạch khê hay Mai
khê. Đây là một loài mai có hoa trắng tinh giống như loài sứ trắng, hoa có 4
cánh dày, mùi thơm ngào ngạt và rất quí hiếm ở việt nam. Bởi vì số lượng loài
mai này chỉ đếm được trên đầu ngón tay, chúng tôi chưa có tài liệu để biết tên
khoa học chính xác của loài mai này.
Có người cho rằng cây bạch
mai cao đến 15 m, như vậy loài mai này xứng đáng là "vô địch" về kích
cỡ so với các loài mai khác ở Việt Nam, xứng đáng được ghi tên vào sách kỷ lục
của nước nhà. Loại mai nầy gốc sần sùi, lá xanh bóng giống như cây mù u, song
lá nhỏ hơn. Nó không có mủ như cây mù u. Theo các nhà nghiên cứu, ngày
xưa bạch mai mọc trong vùng núi Bà Đen, tỉnh Tây Ninh là nhiều nhất. Song ngày
nay hình như không còn nữa. Chùa Giác Duyên thuộc địa phận chợ lớn, Tp. Hồ Chí
Minh cũng có loài mai này. Ở lăng Mạc Cửu (Hà Tiên, Kiên Giang) cũng có bạch
mai, nhưng chẳng nơi nào có được một cây mai thân to như cây cổ thụ "trụ
trì" trước sân đình phú tự xã Phú Hưng, tỉnh Bến Tre. Đây là cây mai to nhất,
thọ nhất ở Việt Nam (trên 300 tuổi), được gọi là mai thần.
Theo nhà nghiên cứu An San, ở
Việt Nam "…chỉ còn một gốc mai này mà thôi. Cho nên đình Phú Tự luôn
được trùng tu, và cây bạch mai được gọi là "thần mai", được tuyên
dương là danh thắng nườc nhà. Dân tứ xứ về đây chiếm bái linh thần và ngưỡng
vọng vẽ thanh u cổ kính và thanh nhã của bạch mai. Danh mộc thì ở rừng
sâu, mai thần thì ở núi cao, sao lại mọc tại làng Phú Hưng. Rừng sâu núi
thẳm là nơi thích nghi cho loài kỳ hoa dị thảo, nhưng bạch mai về đây là chọn
chốn địa linh chăng? Hẳn từ xưa tại làng bảo thành mây trời chớn chở, sóng nước
bổ gành mà mai đã về đây. Mai về đây là bảo vệ cho ngôi đình làng, bảo vệ
cho tỉnh lỵ Bến Tre, nơi phượng thờ Phan Thanh Giản tức Phan Lương Khê được
bình an: "tam Kiến, nhứt Chương" là một Chương Thiện và 3 tỉnh bắt đầu
bằng chữ Kiến là Kiến Tường, Kiến Phong và Kiến Hòa là các nơi mà cuộc chiến quốc
cộng tàn phá nhiều nhứt. Trước đó, Tây cũng ruồng bố và đốt phá các tỉnh
nầy, sổ bộ, nhà cửa tiêu tan. Thế nhưng, đa số các ngôi đình còn nguyên,
nhứt là cây mai thần, thân không bị một vết đạn, một mảnh bom.
Mai chỉ trổ bông vào rằm
tháng giêng, cũng tiết xuân, nhưng mà xuân muộn. Cũng không như nhị độ
mai, vì mai thần chỉ trổ một lần trong 1 năm. Tương truyền người mình có
lệ hay đi hái lộc bẻ bông về chưng 3 ngày Tết. Nơi nào có cạy mai đẹp là
được chiếu cố 1 cành. Do đó mai thần cũng nằm trong số nạn nhân bị chiết
cành, chặt nhánh. Ông từ đình Phú Tự, thấy cây mai đẹp như vậy nếu năm
nào cũng bị chặt bẻ thì còn gì là mai!. Ông bèn khấn nguyện linh-thần phú
tự và ra quỳ trước gốc mai van váy:" nếu là mai thần thì từ nay trở đi xin
đừng trổ bông vào dịp Tết. Chỉ chờ sau đó ít lâu mà ra bông, sẽ thoát khỏi
cảnh chặt cành bẻ nhánh.
Lời khấn nguyện linh ứng sao
đó, mà từ hơn 300 năm nay, gốc mai thần chỉ trổ bông vào dịp rằm thượng ngươn
mà thôi. Đã là thần mai, hẳn xoay quanh có rất nhiều huyền thoại. Ai tin hay không tùy ý, nhưng thực tế gốc mai còn đó. Và ban quý tế đình
làng phú tự đang chờ đợi sự góp tay của đồng hương hãi ngoại để vun quén một kỳ
tích duy nhứt còn lại tại việt nam sau bao hưng phế của cuộc đời".
Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê, tức
Sương Nguyệt Ánh, ái nữ của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu vốn là người
rất yêu hoa mai, đặc biệt là bạch mai. Bà cùng quê với hai danh nhân Phan Thanh
giản và Võ Trường Toản, cũng đều xuất thân từ rừng mai Ba Tri, và bà đã có bài
thơ viết về cây bạch mai kể trên như sau:
Non linh đất phước trổ mai
thần
Riêng chiếm vườn hồng một cánh
xuân
Tuyết đượm nhành tiên in sắc
trắng
Sương sa bóng nguyệt trổ màu
ngân
Mây lành gió tạnh nương hơi
chánh
Vóc ngọc mình băng bặt khói
trần
Sắc nước hương trời nên cảm
mến
Non linh đất phước trổ mai
thần.
Ghi chú: có tài liệu về bài
thơ kể trên khác vài từ do với bài thơ mà chúng tôi giới thiệu. Trong đó, cụm từ
"hoa thần" thay thế cho cụm từ "mai thần".
Nhìn chung, ngoài "chức
danh" được phong tặng là "thần", bạch mai từng có một thời huy
hoàng trên thi đàn Việt Nam, bởi vì nó chính là biểu tượng của nhóm "Bạch
mai thi xã". Theo Gia Định Thành Thông Chí của trịnh hoài đức, vào giữa thế
kỷ 19 nhóm thi xã này đã ra đời chùa Viên Giác, gò Cây mai. Nhóm này qui tụ nhiều
cây bút lừng danh của Nam kỳ như Phan Văn Trị, Tôn Thọ Tường, Nguyễn Thông, Trần
Thiện Chánh, Hồ Huấn Nghiệp và Huỳnh Mẫn Đạt v.v.
15. Bạch song mai
Loài hoa này mọc khá nhiều ở
huyện Thanh Trì (miền bắc Việt Nam). Hoa có màu trắng tinh. Loài này ra hoa kết
trái đôi nên được gọi là song mai. Chúng là một trong những loài mai trắng đẹp
nhất ở miền bắc, do đó những nghệ nhân thích uốn tỉa cây mai này làm cây cảnh
riêng, chưng bày cho người đời thưởng thức và ngợi khen.
16. Mai trắng Pháp
Đây là một loài mai trắng
khá đặc biệt, vì nó thuộc chi Ochna, trong khi đó những loài mai trắng kể trên
lại nằm trong những chi khác. Loài mai này có tên khoa học là Ochna
mauritiana. Người pháp gọi chúng là bois bouquet banané, bois bouquet bonne
anneé, arbre à bouquets.
Mai trắng Pháp là loại cây bụi,
cao từ 1,4 đến 4m, hoặc loại cây nhỏ cao từ 3 đến 8m. Thân cây nhẵn. Vỏ của
nhánh cây màu nâu vàng. Lá màu đỏ hơi lục. Chúng có cuống lá dài 3-5mm. Mép lá
có hình răng cưa. Những lá kèm (stipules) dài 3-5mm, có hình tam giác hẹp.
Hoa nở thành chùm, mỗi chùm
từ 8 đến 14 đóa. Cuống hoa dài 1,5 - 2,5 cm. Cánh hoa màu trắng, hình oval hẹp,
kích cỡ 8-10 2.5-3 mm.
Có 20-30 nhụy hoa trong một
đóa với những sợi nhỏ dài 2,5 đến 4 mm. Bao phấn màu vàng, dài 1,5 - 2 mm, bung
ra theo chiều dọc. Có 5-8 lá noãn. Vòi ngụy ngắn, chia ở đầu thành 5 nhánh, mỗi
nhánh dài 1,5 mm.
Mai trắng Pháp khá đẹp, người
ta có thể trồng trong sân nhà để tăng thêm giá trị thẩm mỹ của bố cục sân.
Họ Rubiaceae
Rubiaceae là một họ cây hoa,
được gọi khác nhau theo từng trường hợp. Nó có thể là họ cây thiên thảo, họ
bedstraw hay họ cây cà phê. Những cây trồng thông thường ở đây là cây cinchona,
partridgeberry, gambier, ixora và oni. Một số họ được công nhận trước đây
(Dialypetalanthaceae, Henriqueziaceae, Naucleaceae và Theligonaceae) đã được nhập
vào họ Rubiaceae hiện nay. Theo nghiên cứu di truyền học của nhóm Angiosperm
Phylogeny group thì vào thời điểm này họ Rubiaceae có 600 chi và hơn 10.000
loài.
Vương Trung Hiếu |
Thứ Năm, 2 tháng 2, 2017
Ngày xuân nói chuyện cây mai
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme
Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme Bạn đọc yêu thơ hẳn còn nhớ tới một trong những thi phẩm đầu tay của nhà thơ ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét