Nắng
gió Tây Nguyên
Khâm Đức, 12 giờ trưa. Chúng tôi đến thị trấn này của huyện miền núi Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam, ghé vào một quán ven đường. Duỗi tay
chân, phóng tầm mắt bao quát rồi nhìn xung quanh… Hay thật! Sao ngày hôm
nay mình đến được tận miền núi xa xôi này, nơi hứng chịu chiến tranh ác liệt và
dai dẳng, nơi trước đây mình chỉ biết trên bản đồ chiến sự của báo chí?
Vâng, duyên may đưa tôi đến Tây Nguyên, Tây Nguyên với sức vẫy
gọi huyền bí, Tây Nguyên với các địa danh lạ lẫm, với rừng đại ngàn, với phong
tục tập quán hấp dẫn của đồng bào dân tộc, với đất đỏ ba-dan phì nhiêu, với voi
rừng, nhà rông, cồng chiêng, rượu cần, cà phê, với đường Trường Sơn huyền thoại…
cho dầu chúng tôi chỉ được hai ngày rong ruổi trên đường để đi đến Đà Lạt.
Từ Quốc lộ 1, rẽ vào Quốc lộ 14, chúng tôi bắt đầu vào miền
núi mênh mông. Khác với Quốc lộ 1 rộng rãi và tấp nập xe cộ, qua nhiều thành phố
và thị trấn sầm uất, Quốc lộ 14 hẹp, vắng vẻ, hai bên đường nhà cửa đơn sơ,
thôn xóm đìu hiu. Nhưng khi đến gần Khâm Đức thì con đường rộng
mở, phố xá phong quang. Nắng xuân thật nhẹ, gió mát hơi se lạnh,
chúng tôi cảm thấy khoan khoái, tận hưởng niềm vui cảnh lạ đường xa. Phía trên
cao, rừng núi hùng vĩ chập chùng, bên kia đường là trạm viễn thông cao vút, bên
cạnh quán ăn là quán cà phê khá khang trang.
Sau một hồi ngắm cảnh, chúng tôi vào quán. Nơi
đây có vẻ tương đối lịch sự, và chúng tôi không mong gì hơn là một bữa ăn bình
thường với bụng dạ an toàn tại thị trấn miền núi này, nhưng không ngờ. Một
bữa ăn ngon để đời, với đặc sản tại chỗ. Cần kể thêm một đặc sản nữa, đó là mộc
mạc Quảng Nam: thức ăn trong tô, trong đĩa đầy ắp, thực chất; và tôi nghĩ cái mộc
mạc này vẫn đáng quý vì càng ngày thị trường càng bày vẽ hình thức hào nhoáng để
che đậy nội dung nghèo nàn, kém cả phẩm chất lẫn hương vị.
Trên Quốc lộ 14 qua các thành phố Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma
Thuột, xe cộ lưu thông trên đường không nhiều, có nơi rất
thưa thớt, thỉnh thoảng xuất hiện xe làm đường, đặc biệt là xe công nông,
hình như chở công nhân lâm trường hoặc những người làm trang trại. May mắn lắm
mới thấy rừng nguyên sinh ở những vùng cheo leo khúc khuỷu, thật là xanh tươi dịu
mắt, còn thì đại thể núi non hai bên đường không giữ được nét tự nhiên,
thuần nhất mà bị phân chia từng mảng: nơi thì còn cây cao, nơi thì vỡ hoang dang dở, nơi thì đã canh tác. Cứ tưởng rừng đại ngàn hùng vĩ, trùng điệp, nào
ngờ loang lổ thế này, có lẽ rừng đại ngàn lùi xa hay chăng? Trước đây tôi nghe
nói về hiện tượng du canh du cư, bây giờ du canh du cư xảy ra
ở đâu đâu, chứ ở rừng núi hai bên Quốc lộ này đã có tên người, tên
công ty sở hữu hoặc thuê đất dài hạn, có trang trại, có hợp đồng, chuyên canh,
làm ăn với phương tiện cơ giới hiện đại. Đất ở Tây Nguyên thật là đất
vàng, bao la đất vàng, từ đó mọc lên nào là cà phê, nào là cao su, nơi thì
thành rừng cây cao, đã khai thác lâu năm, nơi thì cây đang độ thanh xuân, nơi
thì bạt ngàn sắn, rồi thì tiêu, điều,… Ấn tượng nhất là cây cà phê, có lẽ thời
gian gần đây cà phê lên giá nên đâu đâu cũng thấy cà phê, mùa này cà phê lúp
xúp ra hoa trắng muốt, trên đồi, trong vườn nhà, hay dọc hai bên đường.
Quốc lộ 14 là con đường gay go nhất đối với người lái xe, nhất là những đường đèo rất quanh co, gấp khúc, cheo leo,
đèo cao, dốc sâu, thăm thẳm… đã thế, con đường lại bị hư hỏng nặng và đang trong
quá trình tu bổ. Phải chăng vì thế mà chúng tôi là du khách hiếm hoi rong ruổi
trên đường này? Một lần như thế cũng “đã” lắm rồi, “đã” nhất khi qua đèo
Lò Xo, quanh co như lò xo, bụng dạ của người trên xe cũng bị ép như lò xo.
Phải vất vả như thế thì chúng tôi mới thăm được các
thành phố Tây Nguyên, dầu phần lớn chỉ thấy quang cảnh hai bên đường.
Thành phố Kon Tum không lớn nhưng xinh xắn. Thành phố Pleiku, thành phố hôm nay
tôi mới đi qua mà từ lâu trong đầu vẫn mang mang câu hát: “Em Pleiku má đỏ môi
hồng”1; lần này tôi không có thời giờ sống ở thành phố cao nguyên này vài hôm để
nhận ra “má đỏ môi hồng”, nhưng chẳng sao, cứ để nét dễ thương đó theo suốt cả
cuộc đời mình; tuy nhiên cái dễ thương nhỏ bé “đi dăm phút đã về chốn
cũ”1 thì đã xa rồi. Pleiku ngày nay phố xá tỏa rộng, vươn cao, đầy khí thế.
Đập vào mắt chúng tôi là thương hiệu Hoàng Anh - Gia Lai nổi bật, với sân
vận động, với nhà máy chế biến gỗ, với Học viện bóng đá Hoàng Anh Gia Lai
– Arsenal JMG, với khách sạn 4 sao Hoàng Anh – Gia Lai, với
nhà máy đá granite. Không có thành phố nào mà tên tuổi và sự nghiệp của đại
gia sáng chói, lẫy lừng như ở thành phố Pleiku, và tên tuổi này được cả nước biết
tiếng qua các hoạt động khai thác gỗ, khách sạn, và nhất là ông bầu của đội
bóng Hoàng Anh – Gia Lai.
Pleiku và Buôn Ma Thuột, hai thành phố gần nhau mà cả hai đều
phồn thịnh. Đối với chúng tôi, Pleiku đem lại ngạc nhiên thì Buôn Ma Thuột cũng
là một khám phá thú vị. Có lẽ Buôn Ma Thuột cũ hơn Pleiku, phát triển sớm hơn,
có chút rêu phong của thời gian. Buôn Ma Thuột được định hướng là đô thị
trung tâm vùng Tây Nguyên, là thủ phủ cà phê. Ra khỏi thành phố Buôn Ma
Thuột, và vẫn trong tỉnh Đắk Lắk, chúng tôi được ngắm hồ Lắk thơ mộng, uốn
lượn qua những đồi núi trùng điệp rừng thông và thăm Biệt điện Bảo Đại.
Biệt điện trên đồi cao, với kiến trúc thanh lịch, còn được giữ gìn như một di
tích và thắng cảnh. Trời về chiều, biệt điện vắng vẻ, quán cà phê buồn
không khách, cây sứ già trụi lá trầm mặc… Chứng tích còn đây, mà xa vắng một thời
Hoàng triều cương thổ.
Giã từ Quốc lộ 14, chúng tôi theo Quốc lộ 27 để về Đà Lạt.
Tôi đã từng đến Đà Lạt nhiều lần; đặc biệt là lần đầu tiên, thời sinh viên, tôi
đã đi tàu hỏa từ Tháp Chàm lên Đà Lạt, một lần đi để lại ấn tượng sâu sắc: đầu
tàu chạy bằng hơi nước, và vì phải vượt qua những dốc cao, nên đường
ray từ Sông Pha lên Đà Lạt phải dùng đường ray răng cưa, và bánh xe
toa tàu là bánh răng cưa. Đoàn tàu hì hục, phì phò lên núi, tiếng rít ma
sát giữa bánh xe và đường ray đinh tai, nhưng bù lại khách đi tàu ngắm cảnh
vật xanh tươi, đồi núi chập chùng thật tuyệt đẹp. Chiến tranh đã khai tử tuyến
đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt, và sau này, hòa bình lập lại, tuyến này vẫn không
được phục hồi, dầu có nhu cầu kinh tế và nhất là du lịch.
Những tuyến đường bộ đến Đà Lạt
đều rất ấn tượng: đường từ TP. HCM đi qua thị xã Bảo Lộc,
nhìn xuống thung lũng xanh xanh bát ngát những đồi chè, rồi từ Bảo Lộc
lên Đà Lạt thật là ngoạn mục; đường từ Diên Khánh (Khánh Hòa) lên Đà Lạt, mới mở
sau này, thu ngắn khoảng cách giữa hai trung tâm du lịch Nha Trang và Đà Lạt, uốn
lượn qua những con đèo, những cánh rừng nguyên sinh, những rặng thông hùng vĩ.
Con đường từ Buôn Ma Thuột về Đà Lạt không đẹp như tôi mơ tưởng,
chỉ gây ấn tượng là cây cà phê, miên man là cà phê, nhưng bao nhiêu vất vả đi
đường bị xóa tan khi xe sắp lên đèo Prenn để về chốn cũ thân yêu Đà Lạt. Thành
phố này khác hẳn các thành phố khác, không phải để đi qua mà để sống, để
thở, để thả lỏng tâm trí, dầu chỉ trong vài ba ngày.
Trong thời gian hiếm hoi đó, chúng tôi không trở lại
thăm những thắng cảnh nổi tiếng của Đà Lạt mà chỉ muốn
rong ruổi đến những miền xa. Bỏ qua hồ Tuyền Lâm, Suối Vàng, chúng tôi đi
sâu vào rừng, len lỏi vào đường mòn xem một đại gia làm du lịch sinh thái, cất
những lều tranh, nhà lá, lại “cắc cớ” làm chòi chót vót trên cây thông
già, tất cả để phục vụ “thượng đế” chán đời bên trời Âu Mỹ; xem dự án của hai vợ
chồng nhà khoa học trẻ Việt Nam từ Pháp trở về, thử nghiệm trồng cây cải
dầu, tiến đến mở nhà máy sản xuất dầu cải tại Đà Lạt. Chúng tôi đến thị trấn Lạc
Dương, vốn trước đây hẻo lánh, giờ đường nhựa đã băng qua đồi núi để đi đến khu
du lịch sinh thái Lang Biang, mà hoạt động thể thao chính là leo núi Lang Biang
(cao 2.167m so với mặt biển), rồi từ đường chính đó, mở ra những con đường mà
hai bên, nào nhà kính trồng hoa, nào vườn rau, nào lán trại, con người cứ bắt đất
đai sinh sôi của cải, đêm cũng như ngày, ánh điện bổ sung cho mặt trời.
Tây Nguyên đọng lại trong tôi hình ảnh của đất đai màu mỡ, của
con người với phương tiện cơ giới hăm hở khai thác núi đồi, “dám” hy sinh
những rừng nguyên sinh, những rặng thông xưa nay là vốn liếng vật
chất và tình cảm của những cư dân lâu năm tại đây, Tây Nguyên
với phố thị phát triển và sức sống dồi dào. Dầu sao, đó chỉ là cảm nghĩ có thể
là hời hợt, chỉ có những thứ mà chúng tôi thấm là nắng và gió Tây Nguyên
vào đầu xuân. Gió mát khi hửng nắng, gió se lạnh khi nắng biến đi. Nắng nhẹ,
vàng ươm, hòa tan vào không khí, vào cây cỏ núi đồi, vào lòng người.
Trong chuyến đi ngắn ngủi này, mà phần lớn thời gian là dành
cho đi đường, chúng tôi ít có cơ hội tiếp xúc với những người địa phương, những
người dân tộc. Chỉ có vài người: cô chủ quán dáng nhỏ xinh, bồng con thơ từ Đà
Nẵng về Khâm Đức làm ăn; hai vợ chồng đứa cháu tài hoa ở thành phố Buôn Ma Thuột,
nguyên là giáo viên, tự nguyện thôi dạy, rồi ăn nên làm ra nhờ mở studio ảnh và
cà phê vườn; anh chị Việt kiều Pháp nho nhã và phong trần, vì mê Đà Lạt và Lâm
Đồng mà quyết chí làm dự án dầu cải, gắn bó đời mình với rừng núi nơi đây; ông
chủ mở nhà hàng ăn ở Đà Lạt từ trước năm 1975, người Huế, vẫn giữ cốt cách
thanh lịch với các món ăn Việt Nam, khách phần lớn là khách Tây,
sau này có thêm khách Hàn Quốc, Nhật Bản, ông chủ thỉnh thoảng sử dụng vốn
tiếng Pháp để giao thiệp với khách.
Tôi chỉ kịp nhìn đại lộ mang tên Anh hùng Núp tại Buôn Ma Thuột
cũng như những con đường mang tên những người anh hùng dân tộc thiểu
số. Cách mạng đã đổi đời đồng bào miền núi Tây Nguyên. Những cấp ủy Đảng, những
cơ quan công quyền, những đoàn thể không thể thiếu những người dân tộc từ chức
vụ bình thường đến cấp cao nhất tại địa phương. Nhưng chắc chắn số
đông cần phải được cải thiện đời sống, vật chất lẫn tinh thần,
trong khi vẫn gìn giữ bản sắc văn hóa Tây Nguyên. Nhìn bên ngoài cảnh phồn
thịnh của các thành phố Tây Nguyên, nhìn phố xá thênh thang, đường
phố rộng rãi, xe cộ hào nhoáng, nào có khác gì các thành phố miền xuôi?
Qua chuyến đi ngắn ngủi này, tất nhiên tôi chưa tìm được giải đáp:
Đâu là không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên?
Tìm đâu một không gian như thế thể hiện một cách tự nhiên trên một địa bàn dân cư? Không lẽ lấy một sản phẩm du lịch để minh chứng điều này? Tôi cứ ngờ ngợ rằng đời sống các thành phố, thị trấn, thôn bản rồi sẽ lần lần Kinh hóa, nếu còn được cái gì đó thì đó là sản phẩm du lịch.
Tìm đâu một không gian như thế thể hiện một cách tự nhiên trên một địa bàn dân cư? Không lẽ lấy một sản phẩm du lịch để minh chứng điều này? Tôi cứ ngờ ngợ rằng đời sống các thành phố, thị trấn, thôn bản rồi sẽ lần lần Kinh hóa, nếu còn được cái gì đó thì đó là sản phẩm du lịch.
Đổi thay đó có vẻ song hành với đổi thay sau đây mà chiều cuối
tuần, đi trên đường, rất dễ nhận thấy. Trong hành trình nắng gió của chúng tôi,
thỉnh thoảng đi qua những nhà gỗ nối tiếp nhau, tuềnh toàng, không
có chút chăm sóc, giấy rác trước mặt nhà và bên vệ đường bay lên khi xe đi qua.
Những con người trong những ngôi nhà đó, trong một chiều chủ nhật, chậm rãi đi trên đường, đi từng người hay theo nhóm nhỏ, im lặng, thành
kính… Giáo đường mở rộng cửa, mở rộng vòng tay đón mời họ. Liệu tiếng
chuông chùa có nhắc nhở họ nhớ đến rừng núi và cồng chiêng?.
Chú thích:
1. Lời bài hát Còn chút gì để nhớ, thơ Vũ Hữu Định, nhạc Phạm
Duy.
Cao Huy Hóa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét