(Đọc tập thơ “Thành phố đại dương”
của Khánh
Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2013)
Đây là tập thơ thứ hai của Khánh Phương, sau tập
thơ trình làng “Hai bầu trời” (Nxb Hội Nhà văn & Bách Việt Books, 2010). Chị
là nhà thơ theo khuynh hướng cách tân, cùng thế hệ với các tác giả, Lê Vĩnh
Tài, Đinh Thị Như Thúy, Lê Ngân Hằng, Đỗ Doãn Phương…
Thơ Khánh Phương sớm định hình phong cách. Chị thường kết nối
các phương chiều không gian và thời gian, tạo sự đồng hiện, qua đó, kiến tạo vườn
thơ riêng với những “trái tưởng tượng” mới lạ. Phương pháp này làm xuất hiện
những yếu tố tương phản, nảy sinh một hệ thống những mối liên hệ thị giác, đem
đến cho bạn đọc nhiều liên tưởng mới lạ về những hiện tượng xảy ra nơi hiện thực
đời sống và trong tâm tưởng. Có thể nói, tính đồng hiện là một đặc trưng thi
pháp thơ Khánh Phương. Nó bắt nguồn từ các trào lưu nghệ thuật hiện đại phương
Tây, nhằm tìm kiếm những hình thức biểu đạt mới với quan niệm đa dạng về
hiện thực xuất hiện đồng thời trong đa điểm nhìn.
Trong tập thơ “Thành phố đại dương”, Khánh Phương
đã kết hợp nhuần nhuyễn cảm xúc và suy tưởng để tạo ra dòng chảy riêng biệt,
siêu hình: người đàn bà từ ba ngàn năm trước/ cõng trên vai đứa bé/ vừa chết/
chiều nay (Kanji, 7). Để đạt được điều đó, chị đã hóa thân thành một thế
giới riêng biệt, tái hiện hình tượng từ nhiều nguồn ẩn ức, xung động, hòa trộn
cùng những dữ liệu của đời sống thực tại: Tôi lục lọi những ý nghĩ tìm bạn/
buổi sớm mai, cánh rừng đang cháy, mặt hồ/ ly nước, màu vàng của trái chuối, cuốn
sổ, chiếc khăn tay…/ bóng bạn trùm xuống bờ vịnh tối/ như cây cọ (Viết cho
Machzumi Dawood). Hình ảnh “bóng bạn” như “cây cọ” trùm lên câu
thơ được kết nối vào những mảnh vỡ tuyệt đẹp của tưởng tượng. Chúng ta thất
lạc nhau có lẽ từ một trận sóng thần/ kiếp trước/ đến bây giờ/ em vẫn chưa có
anh (Con tàu như cây kim trên mặt biển). Đó là cách nói ám thị trực tiếp,
nhưng có vẻ như ai cũng tin, không chút đắn đo, nghi ngờ: chúng ta từng
cho đi/ cả kho ngọc vàng châu báu.
Cách liên tưởng của Khánh Phương khá dị biệt và đa dạng. Chị
thường dồn nén cảm xúc, cuốn theo xác tín, đam mê của mình. Những hình ảnh cứ
thế được nhân lên, phóng đại gấp nhiều lần so với hiện thực: Bờ biển một
ngày nở phồng lên/ Tôi quên mình là ai/ Trần truồng đi xuống bến tắm (Chakti).
Chị hay đảo lộn những khái niệm thông thường, đan cài những hình ảnh được khuếch
đại hoặc thu nhỏ theo cách của riêng chị, và biến hóa chúng thành máu thịt
trong cơ thể, đời sống: Ánh sáng chậm/ như bóng tối/ trời anh đào ngực em/
Còn thở/ Mạch máu chảy thành những con đường nước Nhật…/ Mặc áo cho biển/ vạt
áo thêu hoa dạ hội/ Tiếng chuông đánh mặt trời (Kan ji, 6).
Cách hòa trộn hình ảnh trong thơ Khánh Phương cũng rất lạ và
có phần quái đản, nhưng vẫn được bạn đọc chấp nhận vì chúng xuất hiện và chuyển
động logic, tạo những hình dung về một thế giới vừa quen vừa lạ, vừa ló rạng
sinh sôi, vừa héo rũ tàn úa: Người ta cắt động mạch/ những bình minh/ em
làm sao thoát sống/ máu chúng ta nhuộm đen những câu chuyện/ xưa/ ngực anh giấc
mơ quay lại (Sang…). Nhiều hình ảnh đứng cạnh nhau nhưng rất khác biệt,
như không hề liên quan, được kết nối, tạo nên những trường nghĩa sinh động và độc
đáo. Chiếc rốn/ Bông anh đào biến mất (Kanji, 7). “Chiếc rốn” và
“bông anh đào” là hai hình ảnh khác nhau cả ý nghĩa lẫn biểu trưng. Nhưng khi
nhà thơ xếp chúng gần nhau, thì hai hình ảnh ấy bất ngờ chuyển động, hoán đổi
ngữ nghĩa cho nhau, vượt qua giới hạn liên tưởng và cảm xúc thông thường. Khổ cuối
bài thơ “Kanji 7”, gồm ba câu thơ với ba ý nghĩa riêng biệt, nhưng được
Khánh Phương liên kết, tạo dựng một trường xúc cảm mạnh và xuyên suốt. Chúng hiện
thực hóa sự biến chuyển từ thế giới hữu hình sang vô hình, giới hạn thành vô hạn: cỏ
mồ lan xanh dưới lưng ân ái/ cắn chặt cái hôn/ quà của anh từ cõi khác. Trong
khổ thơ sau đây, chị dồn nén nhiều hình ảnh trong mạch cảm xúc nhất quán, bằng
cách đan cài những chuyển động của muông thú, cỏ cây lẫn với hoạt động của con
người: Gieo tóc anh xuống khu vườn/ Mọc lên cây/ Chùm trái tóc như trái
phá/ Gọi tới ăn/ Bầy chim biết nói tiếng người (Vết cắt). Những hình ảnh
“tóc”, “cây”, “trái”, “bầy chim” trong khổ thơ trên vận động tương hỗ theo quy
luật riêng của nhà thơ trong một “khu vườn”, để dẫn đến kết cục “Bầy chim
biết nói tiếng người”.
Thơ Khánh Phương cho bạn đọc cảm nhận được bản chất và chuyển
động của sự vật, hiện tượng trong thế giới riêng, dị biệt. Thế giới ấy hiển thị
ngổn ngang, thô mộc, nhưng lạ lẫm và tự nhiên. Đó là khoảng không tự do không bị
bất kỳ bàn tay nào sắp đặt, can thiệp, dù các sự vật mang bộ mặt lương thiện
hay khăm ác, cứ ngẫu nhiên/ ngang nhiên “xưng xưng” xuất hiện trong thơ chị: tiếng
bò dê kêu trong chuồng..., lượn sóng trắng theo chân..., áo quần không thời
trang..., vết thương tím bầm ở bụng..., ánh mắt có lửa của chó sói..., cái miệng
giá lạnh của tuyết đêm..., hay chòm ria, nấm mộ, người ăn mày ở góc
chợ… Những âm thanh và hình ảnh ấy hiện lên như chứng nhân lịch sử, “vết bỏng”
của những cuộc hỏa hoạn, tao loạn... Đan xen cùng những hình ảnh gai góc ấy,
thơ Khánh Phương còn xuất hiện những bóng dáng rất đáng yêu, thơ ngây đến nao
lòng, như “mỗi chiếc lá giấu một con chim” trên cây dâu (Cây dâu của
chị Hà Thị Kim Liên), người đàn bà bước vào khoảng không (Trong phòng
đợi), Cù ký trẻ nhỏ trong nôi/ Cười rúc rích (Gọi...), Trong hồn
tôi xanh/ Một chú thỏ nâu tới ngồi.../ Hạt cát/ Còn run rẩy/ Khi nước triều rút
xuống/ Bình thản trong ánh mặt trời.../ Vẻ đẹp là đóa hoa nở không ngừng suốt
đêm đen (Đọc Chú Đại Bi)… Những hình ảnh này hé mở từng cánh cửa, có khi rất
nhỏ, để bạn đọc biết được trái tim nhân hậu, lòng vị tha, vẻ đẹp tinh khôi
trong tâm hồn nhà thơ.
Những hình ảnh trong thơ Khánh Phương không rậm rạp, đan xen,
và thường xuất hiện như một sự tình cờ. Những hình ảnh của bài thơ “Trong nắng”
sau đây đã liên tục biến hóa, mở ra nhiều liên tưởng theo câu chuyện kể “chiều
chúng ta ngồi bên cửa biển”. Rồi cũng ngẫu nhiên chị chạm vào “thế giới của
loài hải âu trắng”, cả những “linh hồn còn lẩn khuất”… Nhà thơ như tình cờ “nhậu
với món cá xanh xương nướng… đi tiểu trong rừng dương”, rồi bất ngờ đưa
câu chuyện sang một không gian - thời gian khác xa lạ, “kể về tro cốt
chúng ta mai sau bay trên sóng”. Đây chính là “ma thuật” trong thi pháp thơ
Khánh Phương. Nó cho bạn đọc tri nhận về một thế giới vừa hiện hữu vừa mơ hồ,
muốn theo đuổi nhưng rất khó nắm bắt: Chiều rút nước chầm chậm/ lộ ra thân
thể biển/ sau cuộc làm tình. Thời gian trong bài thơ, phải chăng đã dần trôi
sang một thời điểm khác, trái đất đã quay sang một khung cảnh khác. Những hình ảnh
về cuộc gặp gỡ bạn bè trên bãi biển như cũng lùi vào dĩ vãng. Khi tấm màn của một
vở kịch vừa khép lại, thì những hình ảnh kỳ lạ khác của vở diễn khác lại tiếp tục: Sớm
mai lấy ra những dây muống biển xanh rì/ Cái ôm hôn tạm biệt…
Thơ Khánh Phương chuyển động trong không gian mở, bởi mỗi bài
thơ của chị là một điểm “khai phóng” cho giai đoạn tiếp theo. Bài thơ “Thành phố
đại dương” cho thấy, những bí ẩn của đời sống con người và vũ trụ khi đồng hiện,
thì mạch thơ chuyển động đa tầng, phức rối, khó nắm bắt hơn. Đây là bài thơ tổng
hòa các thủ pháp sáng tác của Khánh Phương, đồng thời cũng cho bạn đọc nhìn thấy
giai đoạn thơ tiếp theo của chị: Lửa rực hồng dưới biển sâu/ Tôi vươn
mình/ Tóc xanh dài trong nước.
Cách kết thúc bài thơ gây hiệu ứng bất ngờ cũng là nét độc
đáo trong thơ Khánh Phương. Nó đẩy bài thơ sang một liên tưởng khác với những
gì ta đã gặp trước đó, biến cái vô lý thành có lý, cái lỏng lẻo, lan man thành
điểm hội tụ. Trong bài thơ “Thành phố”, nhà thơ kể bâng quơ, như huyên thiên
nhiều mẩu chuyện rời rạc. Từ chuyện cơn đau trở dạ của một người đàn bà, những
phát đại bác, rồi đột ngột nhảy sang “Những đội thuyền được tiếp thêm nhiều
buổi sáng yên tĩnh trước lúc ra khơi”, đến chuyện “Nhặt được người một chiều
lang thang”… Nghe như đã nhàm chán, chẳng muốn nhớ, chẳng muốn quan tâm nữa.
Nhưng bất ngờ ở khổ thơ cuối, hình ảnh người đàn ông và người đàn bà “xuyên
lấy nhau”, mãnh liệt và hoang dại trong cơn dâng hiến đã đẩy bài thơ sang một
chủ đích khác: Như nhặt được mối tình/ trước cửa/ super market lúc 13 giờ
đêm/ xuyên lấy nhau/ cùng anh/ lại sinh hạ thành phố.
Bài thơ “Chiếc bình bát”, từ tên bài đến nội dung đều rất giản
dị. Đa phần những hình ảnh trong đó được tác giả thuật lại với giọng điệu chậm
rãi, mệt mỏi, như “chán không thèm nói”: Đựng nắm nếp xôi dính tay/ vốc đậu
phụng, mảnh cơm dừa/ trái xoài chín rục… Có lúc nhà thơ như một võ sỹ ngái ngủ,
rồi bất chợt giật mình rút thanh gươm ra khỏi vỏ, ánh thép chạm vào bầu không
sáng lên: Có khi rỗng không/ soi bóng bầu trời. “Chiếc bình bát” bỗng hé mở
cho bạn đọc nhìn thấy những chi tiết, chuyển động từ đầu bài thơ, tựa những vật
ký sinh chênh vênh trên cõi tạm: Có cô bé bỏ vào một trái chanh/ nó lăn tới
lăn lui/ theo nhịp bước chân… Đoạn kết bài thơ cho bạn đọc nhìn thấy những chuyển
động dị thường qua cửa sổ quan sát một thế giới thu nhỏ.
Hình ảnh thơ Khánh Phương gợi nhiều liên tưởng hoang sơ, bí ẩn...
Trong bài thơ “Tôi thấy”, Khánh Phương hóa thân thành một cây con “mọc
trên tường ngôi nhà sắp đổ”. Hình ảnh Anh cún con ngoạm thử lá tôi/ ngạc
nhiên thấy chảy máu đã gợi cho tôi cảm giác được chạm tới cái cốt lõi
hiện hữu và cũng thật mong manh của kiếp người; cũng ớn lạnh, rờn rợn khi nhìn
thấy quy luật sinh-diệt khắc nghiệt của đời sống. Bài thơ đem đến nhiều liên tưởng
khác lạ, có phần dị biệt. Khổ cuối lại gợi cho tôi hình dung một bông hoa bị
sâu đục gần hết những cánh mỏng bấy bớt, nhưng phần còn lại vẫn ung dung mịn
màng tỏa hương: Chiều qua/ anh xe ủi tới lui chỗ này/ không cán phải tôi/
Chúng tôi cùng lớn dưới mặt trời. Cái “cây con” mà chị đã tự nhận ấy dẫu non nớt,
nhưng đầy kiêu hãnh, tự tin trong mọi hiểm họa luôn rình rập. Bạn đọc còn được
gặp tâm thế ấy trong khá nhiều bài thơ của Khánh Phương. Hãy ngồi/ Cho ban
mai thấm vào thịt da/ Ý nghĩa của đời (Tôi thấy, II). Đó là thái độ sống của
nhà thơ, là cách hướng thiện, lòng tin cậy mãnh liệt vào những điều giản dị, đẹp
đẽ của đời sống.
Thơ Khánh Phương ít lệ thuộc vào hiện thực diễn
ra hàng ngày. Có vẻ như chị không hoàn toàn chú tâm vào việc phản ánh nó, nhưng
một vài hình ảnh dù chỉ thoáng qua, vẫn cho ta hình dung một thực tại khốc liệt,
lạnh lùng và đôi khi quá phũ phàng đang hiện hữu: Cô gái điếm đợi khách/
Trong hành lang cầu vượt/ Người ghiền xì ke nằm trên đống rác/ Đàn muỗi vuốt mắt
cho anh ta (Tôi thấy); Hoa trắng rơi không ngừng/ Phủ lên điều không
biết/ Những người chết nửa đường tự do (Chakti).
Khánh Phương luôn tin tình yêu mãi là ngọn lửa sưởi ấm và hóa
giải mọi biến cố của đời sống. Giọng thơ của chị thường biểu cảm chân thành,
cho bạn đọc cảm nhận sự thiêng liêng của tình yêu, một ân phước mà thượng đế đã
ban tặng: Anh yêu/ chỉ tình đôi ta/ mới làm nên điều đó. Và, chị luôn
tin tình yêu có thể làm được nhiều phép lạ: Khi cái hôn em gửi lên môi
anh/ giữa mặt biển mênh mông/ bỗng mọc lên hòn đảo/ mọc lên cây xanh, âm nhạc,
con người (Trong rừng Pahang). Trong bài thơ “Ca dao”, hình ảnh “chàng về
với em” vừa dịu dàng, vừa quấn quyện, chảy xiết và hài hòa như dòng nước, để từ
đó sinh ra những điều cao quý nhất: Như ánh trăng rơi trên lưỡi kiếm, con
đường xa khỏi bàn chân…/ Về với em/ Như giọt sương tan dần, phiến đá ấm mặt trời…/
Với em/ Như tách trà sớm mai, chuyến xe khuất trong bụi đường, hơi thở người
hàng xóm trở bệnh chiều qua, trái đêm nở ngôi sao xanh, đoàn người đi qua cây cầu
gỗ lúc 1h sáng, đụn khói canh mùa thu, cây bạch dương khắc lên nền trời, giọt
nước vạch lá sen, mùi mưa ẩm. Mọi chuyển động trong bài thơ trên đều khơi lộ vẻ
đẹp của thế giới, nó diễn tiến tự nhiên như hơi thở, ánh sáng, như khí trời…
Trong câu thơ cuối, nhà thơ đã thảng thốt khi nhìn thấy ánh hào quang tỏa rạng
từ khi “chàng về với em”. Hình ảnh này từng xuất hiện từ đầu bài thơ: Như
một ngày ngả vào lòng đất/ hắt ánh lên bầu trời sáng rực. Ánh sáng trong câu
thơ đã trùm lên những hình ảnh khác trong bài, làm cho “anh” và “em” hiện lên
thành biểu tượng của tình yêu mãnh liệt và thủy chung. Bài thơ “Tiếng đàn”, là
cách chị phục dựng câu chuyện xưa về tình yêu. Ngay từ khổ thơ đầu,Tình em/ giọt
sương nằm trong lá sen/ mặc gió lay giật cho thấy vẻ đẹp lạ kỳ của tình
yêu, nhưng cũng thật chênh vênh, dễ tan vỡ... Các hình ảnh hiện lên trong bài
thấp thoáng nét “cổ trang”, nhưng được bài trí hiện đại, cho bạn đọc cảm giác
được sống trong không gian đương thời, rồi bất chợt chìm sâu vào xa xưa cổ
tích. Chị sử dụng ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, nửa hư nửa thực khó nắm bắt: Hãy
nằm nghỉ nơi đây/ mái nhà ta/ trong tiền kiếp/ mặt trời sẽ vén lên ngực chàng/
mảnh chăn ấm của em.
Khánh Phương có nhiều bài thơ, câu thơ độc đáo về tình
yêu. Trong bài “Thơ viết cho anh ngày bệnh”, chị viết: Biển nuốt mất nửa
thân anh/ thức dậy em cầu nguyện ngày lên. Người đàn bà trong thơ chị đã yêu để
hóa thân, tan chảy: Em còn một nửa người đàn ông/ nửa kia là biển/ đổ vào
em những sóng…/ Anh chệnh choạng bên rìa sóng/ Đêm xuống không ai biết mình ép
làm một. Chị yêu để đồng nhất, để thoát xác và hòa nhập với cái vô cùng trong một
cõi khác. Và đây là phút giây chị viên mãn trở về trái đất: Đem cái hôn
chúng mình xuống mặt đất/ Gió thốc/ Sáng loà. Bạn đọc còn bắt gặp ánh sáng
tinh khôi này trong nhiều câu thơ khác của Khánh Phương. Thơ tình của chị không
hoàn toàn mới lạ, nhưng thu hút người đọc ở sự trong sáng, và luôn trở thành một
trong những cái cớ để bộc lộ những tiêu chí đa dạng của cái đẹp, nhân cách và
nhân tính. Vậy mà mình yêu/ Như cơn gió đêm bão/ Không còn chốn lùi…/ Giấc
mơ/ ta bước sang nhau trộn vào nhau cái hôn vô biên/ trên những đứt gãy vỏ trái
đất (Chuông buổi sớm).
Thơ Khánh Phương đa giọng điệu, mạch thơ thường chuyển động
chậm rãi. Có lúc nhà thơ biểu lộ nhẹ nhàng như những lời tâm sự chân thành, cho
bạn đọc đủ hình dung tình tiết của câu chuyện, rồi ngay sau đó, chúng được biến
hóa vào những không gian tưởng tượng, đầy ắp mộng mị. Bài thơ “Trong rừng Pahang”,
chị bình tĩnh bầy đặt một khung cảnh bằng giọng văn kể, những hình ảnh và tình
tiết giản đơn như ta vẫn thường gặp: Sương đêm dâng tới cửa sổ tầng bảy/
nhòa trắng những ngọn đèn. Nhưng ngay sau những hình ảnh quen thuộc như bất động
kia, nhà thơ đã bất ngờ mở ra liên tưởng mạnh “những con đường không dấu tích
trên cao”, và sau đó, chị đã bình tĩnh lý giải ý nghĩa của điều kỳ diệu ấy: Anh
yêu/ chỉ tình đôi ta/ mới làm nên điều đó. Những tình tiết “sương”, “cửa sổ”,
“ngọn đèn” trong câu thơ trên được nhà thơ chắp cánh, bay bổng cùng với những
con đường “trên cao” trong khoảng không rộng lớn và thanh tĩnh. Thơ
Khánh Phương hát lên bằng nhiều cung bậc. Tôi nói chị “hát”, vì những thi ảnh của
chị thường biến thành âm thanh có giai điệu, nhịp điệu dội vào tâm trí bạn đọc. Chúng
ta đợi mặt trăng lên và nó đang xuống/ Đàn muỗi bay đi hút đêm và sự sống từ
đêm/ giản dị như cái chết (Viết cho Thúy). Đoạn thơ trên cho ta hình dung
chị đứng hát thầm một mình trong bóng tối, mọi hiện hữu khi ấy như tạm dừng lại
trên ranh giới giữa tĩnh và động, sáng và tối, xuất và nhập v.v. Trong bài thơ
“Hiện thân”, Nơi thân thể chúng ta chạm nhau, câu thơ thăng hoa trong tiết
tấu nhanh, gấp gáp như tiếng gió rít qua cánh đồng rộng, làm cho tất cả cây lá
trên đó như rạp xuống: làm thành thứ ánh sáng không ai chịu nổi/ sức nóng/
không gì chịu nổi. Bài thơ “Lá” là một tiêu biểu cho cách “hát” của Khánh
Phương. Mở đầu là tiếng lá: Bay lên cao cùng nắng/ không trung triệu chiếc
cầu vồng/ Chìm xuống vực sâu/ mang theo trái tim em. Đó là thần thái của chiếc
“Lá” đang ngự trị/ trị vì trên trái đất. “Lá” vô danh, vô tình, nhưng cũng hữu
tình che chở con người. Và trái tim chị đã hóa thành trái tim “Lá”, biết đau đớn,
rộn ràng trước mọi biến thái của thiên nhiên, đời sống. Kết thúc bài thơ là khúc
ca run rẩy, đắm say khi “môi anh” xuất hiện với nhiều tầng nghĩa: Ghé môi
anh/ Uống/ soi gương vào lá/ ly thuốc mang em đi xa…
Những bài thơ của Khánh Phương trong “Thành phố đại
dương” được hoàn thiện và ổn định hơn so với tập thơ “Hai bầu trời”. Vẫn cách
liên tưởng lạ, tạo dựng không gian rộng và mở nhiều lối tiếp cận, ngôn ngữ hiện
đại, giàu biểu cảm, đa nghĩa…, nhưng thơ Khánh Phương đã định hình rõ phong
cách, gây ấn tượng hơn trước. Đó là cách liên tưởng táo bạo, gây cảm giác mới lạ,
được sáng tạo trong cảm xúc mạnh. Nếu trong tập “Hai bầu trời”, chị sử dụng nhiều
thể loại thơ (tự do, thơ-văn-xuôi, hai-kư, tân hình thức…) với cách chuyển dịch
ngôn ngữ gần với Siêu thực, Tượng trưng…, thì đến tập thơ thứ hai này, chị đã
thoát khỏi những khuynh hướng ấy. Chị chú ý biểu đạt bằng ngôn ngữ giản dị,
tinh lọc, và chúng được đặt trong những ngữ cảnh đặc biệt để diễn tả rõ nét những
chuyển động hỗn mang của hiện thực đời sống, của tâm thức: Xe hủ tiếu vết
bỏng đêm sương/ những bậc thang không dẫn ta đi/ lưng chừng bóng tối/ Sao ngăn
lòng đừng khiêu vũ/ gió thổi bay hết áo anh (Hoa).
Đọc thơ Khánh Phương, tôi vẫn muốn, giá như tên một số bài
thơ có thể gợi mở hơn nữa. Đặt tên bài thơ cũng là một thủ pháp quan trọng. Nó
gọi ra phần còn khuất lấp, mơ hồ của nội dung bài thơ, hoặc gợi cho bạn đọc những
liên tưởng khác nữa. Tôi thấy chưa thật thỏa mãn tên một số bài thơ mà chị đã đặt,
như “Viết cho Thắng…”, “Viết cho Thúy”, “Nhớ”, “Thành phố I, II, III”…
Khánh Phương sáng tác thơ không nhiều và cũng ít công bố. Một
lẽ, do tính cách chị lặng lẽ, muốn trốn tránh nơi đông đúc, lẽ khác, thơ ca chỉ
là một trong nhiều vỉa tầng sáng tạo của chị. Khánh Phương là cây bút viết lý
luận phê bình khá sắc sảo, có cách nhìn riêng, giàu cá tính. Ngoài ra, chị còn
viết văn xuôi, viết chân dung, phóng sự, làm báo… Ở lĩnh vực nào chị cũng tạo
được dấu ấn riêng. Cũng vậy, với thơ, chị là cây bút biết/ dám khước từ sự quen
nhàm, bằng lặng, để tạo ra những cây “trái tưởng tượng” của riêng
mình. Đường thơ Khánh Phương mới chuyển động những bước đầu tiên, nhưng
tin rằng người đọc sẽ đón nhận những thành quả tiếp theo rất đáng trân trọng của
chị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét