Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2018

Những câu chuyện tình yêu sống mãi với thời gian

Những câu chuyện tình yêu 
sống mãi với thời gian 
Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, “yêu” ( - ái) là sự kết hợp của chữ “tâm” () và chữ “thụ” () - nghĩa là nhận lấy, đón lấy. Chữ “tâm” đứng chính giữa chữ “thụ”, vì vậy mà “yêu” giống như một bàn tay đang trao tặng trái tim vào một bàn tay khác. Ở đây, yêu được mô tả là tình cảm xuất phát từ tâm hồn, vô tư, không vị kỷ.
Chữ yêu trong văn hóa Hy Lạp lại có sự phân chia theo từng trạng thái tình cảm khác nhau. “Agape” cũng là yêu, nhưng thường dùng để nhắc đến thứ tình cảm trong trẻo và lý tưởng, yêu trong tâm hồn và thăng hoa trong cảm xúc hơn là những hấp dẫn về mặt thể xác.
Có phải thế chăng mà những câu chuyện tình nổi tiếng nhất trong lịch sử và nghệ thuật đều ngợi ca nét trong trẻo và thuần khiết của tình yêu? Đó là tin tưởng, là thủy chung, là sẵn sàng quên đi bản thân để đem lại hạnh phúc cho người mình yêu thương,… Và dưới đây là một vài trong số những câu chuyện tình như thế.
Tristan và Iseult (Anh Quốc)
“Tristan và Iseult” là chuyện tình lãng mạn và đẹp nhất thời Trung cổ, dựa trên một huyền thoại trong văn hóa Celtic ở Châu Âu. Câu chuyện sống mãi với thời gian bởi nó ca ngợi thứ tình yêu thuần khiết, trong sáng, không suy tính. Đó là thứ tình cảm thánh khiết, là giấc mơ lý tưởng, là tình yêu đích thực chỉ có trong thế giới của triết gia Platon. Tình yêu của Tristan và nàng Iseult đã làm rung động trái tim của biết bao họa sĩ. Có không ít tác phẩm hội họa mô tả câu chuyện này.
Chàng hiệp sĩ Tristan mang sứ mệnh lên đường tới Ireland để ngỏ lời cầu hôn công chúa Iseult cho chú của chàng là vua Mark ở Cornwall (ngày nay là một phần của nước Anh). Trên đường hộ tống công chúa trở về vương quốc, cả Tristan và Iseult đã uống nhầm một thứ rượu nhiệm màu khiến tình yêu trong họ chớm nở. Mặc dù vậy, cả hai đều giữ lòng trung tín với đức vua và không dám đi quá xa trong chuyện tình cảm.
Tristan và Iseult, tranh của họa sĩ 
Herbert James Draper (1863-1920)
Khi phát hiện tình cảm của hai người, vua Mark vô cùng tức giận và muốn trừng phạt họ. Nhưng may mắn thay, đôi bạn trẻ đã kịp chạy trốn vào khu rừng rậm xứ Morrois. Khi nhà vua vào rừng và nhìn thấy cả hai đang nằm ngủ với một thanh gươm để giữa hai người, ngài vô cùng cảm kích trước tình yêu lãng mạn nhưng trong trắng của họ, và quyết định tha thứ tất cả mọi lỗi lầm. Trước lòng độ lượng của nhà vua, Iseult trở lại triều đình, còn Tristan tình nguyện đến xứ Bretagne. Tại đây, chàng cưới quận chúa Iseult “bàn tay trắng” bởi tên gọi của nàng gợi nhớ đến tình yêu trong trái tim chàng. Nhưng tình yêu dành cho nàng Iseult vẫn không bao giờ nguôi ngoai, chàng không bao giờ gần gũi vợ mình mà chỉ một lòng thương nhớ đến người yêu dấu.
“Tristan and Iseult” - tranh của họa sĩ 
John William Waterhouse năm 1905
Trong một lần đấu kiếm, Tristan bị trọng thương. Chàng ngầm sai gia nhân đem thuyền rước Iseult đến, bởi chỉ có sự hiện diện của nàng mới giúp chàng hồi phục. Nhưng quận chúa “bàn tay trắng” đã biết được điều này, và tìm cách gạt Tristan rằng Iseult không tới. Quá đau buồn, chàng gục xuống và chết… Nàng Iseult cũng gục chết trên xác chàng. Sau khi hai người được chôn cất, trên mộ của họ mọc lên hai thân cây đan chặt vào nhau. Nếu chặt chúng đi thì cành mới sẽ lại mọc lên to hơn, rậm rạp hơn, và còn bện chặt chẽ hơn nữa.
Layla và Majnun (Ả Rập)
Câu chuyện “Layla và Majnun” còn được gọi là “Layla và chàng điên”, hoặc “Layla và Qays”. Đây là một giai thoại tình yêu nổi tiếng ở vùng Trung và Cận Đông, trong thế giới Ả Rập và đặc biệt là ở Iran và Azerbaijan. Giai thoại dựa trên một câu chuyện có thật về nàng Layla và chàng Qays ibn al-Mulawwah ở phía Bắc của bán đảo Ả Rập, dưới triều đại Umayyad ở thế kỷ thứ 7.
Layla và Majnun - tranh trên thảm của Nezami
Câu chuyện tình bắt đầu từ khi Layla và Majnun cùng học chung một lớp. Majnun thường bị thầy giáo đánh vì không chú ý nghe giảng, nhưng mỗi lần như vậy, chỉ có Layla là chảy máu. Khi gia đình biết chuyện, họ đã ngăn cấm hai người gặp nhau. Tuổi thơ của cả hai là những chuỗi ngày cấm đoán, và mãi đến khi trưởng thành họ mới gặp lại nhau. Về sau, Layla bị buộc phải lấy người khác, nhưng lòng cô chỉ hướng đến người bạn thời thơ ấu. Vì quá ghen tuông, chồng của Layla đã tìm đến Majnun ở sa mạc. Ngay trong khoảnh khắc thanh kiếm của ông đâm vào tim Majnun, thì Layla ở nhà cũng ngã xuống và chết. Cảm kích trước câu chuyện tình cảm động của hai người, dân làng đã để hai ngôi mộ gần nhau. Cả gia đình và chồng của Layla đều cầu nguyện cho họ sớm được đoàn tụ ở thế giới bên kia và được yêu nhau mãi mãi...
Layla thăm Majnun trong rừng - trích từ 
“Khamsah”, 5 bài thơ (Quintet) của Amir Khusro Dihlavi
Theo truyện kể lại, trong thời gian sống ở sa mạc, Majnun luôn làm thơ ca ngợi tình yêu với Layla. Tình yêu khắc khoải khiến chàng trở thành người điên, vì vậy, người đời không gọi chàng bằng tên thật (Qays) mà là “chàng điên Layla” hay gọi đơn giản là “Majnun”.
Bức tranh Layla trên cuốn sách được xuất bản năm 1836. 
Bản thảo đầu tiên được thực hiện bởi James Atkinson (1780-1852)
Câu chuyện Layla và Majnun đã trở thành bi kịch về một tình yêu bất tử mà 400 năm sau, nó cũng trở thành nguồn cảm hứng cho William Shakespeare viết về Romeo và Juliet. Đây cũng là nguồn cảm hứng của nhiều tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa nổi tiếng thế giới.
Theo văn hóa Ả Rập, tình yêu của Layla và Majnun được gọi là “tình yêu trinh khiết” (hay “virgin love” trong tiếng Anh), nghĩa là một tình cảm trong ngần và không vướng vào ham muốn thể xác.
Orpheus và Eurydice (Hy Lạp)
Orpheus và Eurydice, tranh của họa sĩ Christian 
Gottlieb Kratzenstein (1783-1816), lưu trữ tại bảo tàng 
Ny Carlsberg Glyptotek ở Copenhagen, Đan Mạch
Orpheus được nhắc đến trong cả thần thoại Hy Lạp, trong truyền thuyết, và cả trong các câu chuyện lịch sử. Là một trong 9 thi sĩ lừng danh của Hy Lạp cổ đại, Orpheus còn đặc biệt nổi tiếng với giọng ca và tiếng đàn lia (lyre). Tương truyền, những bài hát của Orpheus có thể làm xiêu lòng vạn vật, khiến cho cả đất trời và thần linh phải rơi lệ. Thậm chí, cả hoa lá, cỏ cây, và đất đá cũng say mê trước giai điệu của chàng.
Orpheus dắt Eurydice qua âm gian - tranh của 
họa sĩ Jean-Baptiste Camille Corot (1796-1875)
Tình yêu của Orpheus dành cho người vợ Eurydice đã viết nên câu chuyện tình bất hủ. Chuyện kể rằng, trong một lần dạo chơi trong rừng, Eurydice đã bị Aristaeus rượt đuổi. Nàng chạy cố chạy trốn vào rừng nhưng lại không may rơi vào hang rắn và bị cắn chết. Đau lòng trước cái chết của nàng, Orpheus cất lên tiếng ca đau thương khiến cả thần tiên cũng động lòng. Chàng đã tìm đường xuống địa ngục, vượt qua những bóng ma và âm hồn, và đến cầu xin trước mặt âm vương Pluto và hoàng hậu Persephone. Tiếng đàn của Orpheus đã làm âm gian cảm động, Pluto và Persephone sau đó đồng ý cho phép Eurydice trở lại dương gian, nhưng với một điều kiện: Trước khi cả hai lên đến dương thế, Orpheus phải tuyệt đối giữ tim lặng và không được ngoái lại nhìn vợ đang đi phía sau. Hành trình trở lại dương gian dài đằng đẵng, nhưng sau một thời gian lâu, Orpheus không nghe thấy tiếng bước chân và hơi thở của Eurydice nữa, chàng lo lắng quay đầu nhìn lại. Chàng chỉ còn thấy hình ảnh nàng Eurydice lùi nhanh về phía địa phủ rồi biến mất. Orpheus vội quay lại nhưng người lái đò âm gian không cho phép chàng đi tiếp, dù chàng phải quỳ ở đó suốt 7 ngày 7 đêm. Trở lại dương gian, tình yêu dành cho vợ vẫn chưa thể nguôi ngoai. Cho đến lúc chết, cây đàn lyre của chàng vẫn vang lên tiếng hát tha thiết, yêu thương.
Odysseus và Penelope (Hy Lạp)
Penelope là công chúa xứ Spart và là vợ của Odysseus, vua xứ Ithaca. Nàng không những xinh đẹp mà còn là người phụ nữ thông minh. Đặc biệt, nàng là người vợ thủy chung chờ đợi chồng suốt 20 năm ròng rã.
Nàng Penelope khước từ mọi lời cầu hôn - bức tranh “Penelope 
and the suitors” của họa sĩ John William Waterhouse năm 1912
Khi Penelope vừa mới sinh hạ con trai đầu lòng Telemachus, thì Odysseus (Ô-đi-xê) phải tham gia vào cuộc chiến thành Troja. Chiến tranh đã kết thúc nhưng Odysseus vẫn bặt vô âm tín, ai cũng nghĩ rằng chàng đã bỏ mạng nơi chiến trường. Nhưng Penelope vẫn không nguôi hy vọng một ngày chàng trở về. Và trong suốt 20 năm mòn mỏi đợi chờ, nàng đã tìm mọi cách để khước từ 108 người cầu hôn nàng. Những người đến cầu hôn vô cùng ngang ngược và làm đủ mọi điều ngông cuồng khiến nàng buộc phải hứa sẽ chọn một trong số đó làm chồng. Để trì hoãn, Penelope vờ may tấm áo tang cho vua cha Laertes và nói rằng nàng chỉ nhận lời cầu hôn khi may xong. Ngày nào cũng vậy, cứ sáng sớm là nàng lại ngồi dệt vải trước mặt đám đông, nhưng khi đêm đến, nàng lại tháo tấm vải mình vừa dệt ra.
Nàng Penelope và anh hùng thành Troy Odysseus - tranh 
của họa sĩ Johann Heinrich Wilhelm Tischbein (1751-1829)
20 năm đợi chờ và kiên định niềm tin đã giúp nàng Penelope trở thành biểu tượng của tấm lòng thủy chung sắt đá. Tấm lòng kiên trinh của nàng đã làm rung động những người yêu truyền thuyết thành Troy và thần thoại Hy Lạp.
Romeo và Juliet (Italy)
Là câu chuyện có thật xảy ra từ thời Trung Cổ, “Romeo và Juliet” kể về tình yêu lãng mạn nhưng cũng đầy bi kịch giữa Romeo Montague- một chàng trai lương thiện, tốt bụng - và Juliet Capulet - một cô gái xinh đẹp, thánh thiện và thơ ngây.
Nàng Juliet - tranh của họa sĩ 
Philip H. Calderon (1833-1898)
Trong thành Verona của Italy, hai dòng họ Montague và Capulet vốn có mối hận thù lâu đời. Bi kịch bắt đầu từ khi con trai của dòng họ Montague là Romeo trà trộn và dạ tiệc hóa trang của nhà Capulet, chàng đã gặp nàng Juliet và hai người yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Ban công nhà Juliet - tranh của 
họa sĩ Frank Dicksee (1853-1928)
Tuy nhiên, do mối hận thù sâu sắc giữa hai dòng họ, lại thêm sự cố khiến Romeo giết chết người họ hàng của Juliet là Tybalt, nên hai người không thể đến được với nhau. Romeo bị trục xuất khỏi thành Verona, còn Juliet thì bị gia đình ép gả cho bá tước Paris. Nhờ tu sĩ nhà thờ giúp đỡ, nàng đã uống một liều thuốc ngủ để giả chết trong vòng 24 giờ, vì thế đám cưới giữa Juliet và Paris lại trở thành đám tang. Xác Juliet được đưa xuống hầm mộ của gia đình.
Nghe tin nàng chết, Romeo đau đớn trốn về Verona. Khi ngắm nhìn dung nhan người yêu thương đã khuất, chàng uống thuốc độc tự tử theo người mình yêu. Romeo vừa gục xuống thì cũng là lúc thuốc của Juliet hết hiệu nghiệm. Nàng tỉnh dậy và nhìn thấy xác Romeo bên cạnh. Quá tuyệt vọng, nàng rút dao tự vẫn.
Romeo đau buồn trước cái chết của Juliet 
tranh của họa sĩ Francis Sidney Muschamp
Cái chết tang thương của đôi bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ. Họ đã xóa sạch mối thù truyền kiếp và bắt tay hữu nghị. Nhưng những gì còn lại vẫn là nỗi xót xa cho một cuộc tình đẹp tựa bài thơ.
Sau cái chết của Romeo và Juliet, hai gia đình Montagues 
và Capulets đã xóa sạch mọi ân oán - tranh 
của họa sĩ Frederic Leighton (1830-1896)
Câu chuyện Romeo và Juliet không chỉ ngợi ca tình yêu lãng mạn và trong sáng, mà nó còn gửi gắm thông điệp đầy tính nhân văn. Quả thật, tình yêu trong ngần và đẹp tựa pha lê có thể làm tan chảy những gì là ‘thù hận’, là ‘định kiến’, hay là bảo thủ truyền thống.
Sơn Bá - Anh Đài (Trung Quốc)
“Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài” kể về chuyện tình bi thảm của đôi nam nữ từ thời Đông Tấn (317-420) và thường được ví với câu chuyện tình yêu của Romeo và Juliet.
Chúc Anh Đài là con út và cũng là thiếu nữ duy nhất nhà họ Chúc. Từ nhỏ, Anh Đài đã thông minh, hiếu học. Vì muốn theo học tại trường Nghi Sơn ở Hàng Châu, Anh Đài đã cải trang thành nam nhi để thực hiện ước mơ của mình. Tại đây, nàng gặp Lương Sơn Bá và hai người cùng kết nghĩa huynh đệ, cùng nhau học tập, cùng làm thơ, làm câu đối và đàm luận về văn chương kim cổ. Ba năm gắn bó bên nhau, Anh Đài đã thầm yêu Sơn Bá, nhưng chàng trai họ Lương vẫn không hề hay biết tình cảm của nàng.
Nghe tin cha đổ bệnh, Anh Đài phải rời trường về nhà. Trước khi chia tay, nàng đã gửi lời nhắn nhủ tới Sư nương, nhờ bà giúp nàng bày tỏ tình cảm với Sơn Bá. Khi nghe Sư nương kể lại, Sơn Bá vội vã tìm về quê nàng. Tuy nhiên, gia đình Anh Đài đã có hôn ước với công tử Văn Tài của nhà họ Mã giàu có và quyền lực trong vùng. Theo truyền thống Trung Hoa, hôn nhân không chỉ là sự gắn kết giữa đôi nam nữ, mà còn là hôn phối của cả hai dòng họ. Chúc gia và Mã gia đã có hôn ước từ trước, vì vậy Anh Đài không thể tùy tiện làm theo ý thích cá nhân mình. Sơn Bá không thể đến với người mình yêu, quá đau khổ, chàng sớm ngã bệnh và qua đời.
Tem Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài 
do China Post phát hành
Khi kiệu hoa đi qua mộ Sơn Bá, bầu trời đột nhiên nổi trận cuồng phong. Trong mưa gió bập bùng, Anh Đài khóc trước mộ chàng và bày tỏ ước nguyện được sum vầy. Dù sự sống hay cái chết cũng không thể chia lìa và ngăn trở tình yêu giữa hai người…
Đúng lúc ấy, sấm chớp làm rung chuyển đất trời. Phần mộ của Sơn Bá đột nhiên tách mở và Chúc Anh Đài bước vào bên trong. Từ trong mộ, một đôi bươm bướm rực rỡ bay ra, quấn quýt bên nhau và cùng nhau bay về trời. Vì thế, Sơn Bá  Anh Đài còn được gọi là “hồ điệp tình nhân” hay “butterfly lovers”.
Tranh vẽ chuyển thể từ bức tượng “Hồ điệp tình nhân” 
kể về câu chuyện của Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài.
Bức tượng đặt tại Verona, Italy (Tranh của Marialla 
đăng trên Mariaila Deviant Art website)
Nghe câu chuyện tình yêu cảm động giữa hai người, thừa tướng nhà Tấn là Tạ An đã tấu biểu cho đề lên mộ ba chữ “nghĩa phụ trủng” (義婦塚), tức là mộ của người vợ có nghĩa.
Câu chuyện của Lương Sơn Bá - một trang nam tử dành trọn trái tim cho tình yêu thuần khiết và Chúc Anh Đài - một thiếu nữ đã hy sinh thân mình để dành trọn lời thề chính là thể hiện của đạo đức truyền thống từ xa xưa.
Ngưu Lang - Chức Nữ (Trung Quốc)
“Ngưu Lang - Chức Nữ” là câu chuyện cổ tích có liên quan đến sao Chức Nữ (Vega) và sao Ngưu Lang (Altair), cùng với dải Ngân Hà và hiện tượng mưa ngâu vào tháng Bảy âm lịch.
Chức Nữ là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng Đế, có tài dệt vải. Những cầu vồng bảy sắc và áng mây rực rỡ trên bầu trời đều là từ đôi bàn tay khéo léo của nàng dệt nên. Còn Ngưu Lang là một chàng chăn trâu nghèo ở vùng nông thôn Trung Quốc.
Một ngày, khi đang chăn trâu trên đồng cỏ, Ngưu Lang thấy chín tiên nữ hạ xuống bờ sông. Nấp sau bụi cây, chàng thấy các nàng tiên trút bỏ xiêm y và vui đùa trên sông. Nghe lời chú trâu, chàng đã lấy trộm váy áo của nàng tiên út, khiến nàng không thể bay về trời cùng các chị.
Ngưu Lang và Chức Nữ sống hạnh phúc bên nhau. Họ hết mực yêu thương và chăm sóc lẫn nhau. Hai năm trôi qua, Chức Nữ sinh hạ hai đứa trẻ, một bé trai và một bé gái.
Khi Ngọc Hoàng biết chuyện, ngài nổi trận lôi đình và ra lệnh Vương Mẫu dẫn theo thiên binh đưa Chức Nữ trở về thiên cung.
Tem Ngưu Lang, Chức Nữ do 
Macau phát hành vào 8/ 2012
Khi vợ phải hồi cung, Ngưu Lang vội vàng cho mỗi con vào một cái thúng và gánh hai vai chạy theo đội thiên binh. Ngưu Lang cùng bay theo thiên binh lên trời, khi chàng gần chạm tay vợ, Vương Mẫu ném chiếc trâm bằng vàng xuống, hóa thành sông Ngân ngăn cách hai người. Ngưu Lang và Chức Nữ chỉ còn biết đứng hai đầu sông và nhìn nhau ngập tràn nước mắt.
Cảm động trước tình yêu sâu đậm của đôi vợ chồng trẻ, những con quạ đã nối đuôi nhau, tạo thành cây cầu Ô Thước bắc qua dải Ngân Hà. Vương Mẫu cũng cho phép họ được đoàn tụ vào buổi tối mùng 7 tháng 7 hàng năm, cũng chính là ngày kỷ niệm cuộc chia ly giữa hai người. Cũng chính vì vậy, bạn sẽ gặp rất ít quạ trong đêm ngày mồng 7 tháng 7, bởi chúng đã bay lên trời làm cầu cho đôi vợ chồng gặp nhau. Câu chuyện này cũng giải thích tại sao tháng Bảy mưa ngâu, bởi đó là nước mắt tiễn biệt của họ. Bạn cũng sẽ hiểu tại sao Vega và Altair luôn đứng hai đầu của dải Ngân Hà, và chỉ hội ngộ vào ngày thất tịch hàng năm.
Bộ tem phát hành năm 2012 của Macau 
kể về câu chuyện tình Ngưu Lang và Chức Nữ
Ngày 7/7 âm lịch vì thế được gọi là “ngày lễ tình nhân của phương Đông”. Nhiều lễ hội và sự kiện được tổ chức ở các nước Đông phương vào ngày thất tịch, như lễ hội Qixi ở Trung Quốc, lễ hội Tanabata ở Nhật Bản, lễ hội Chilseok ở Hàn Quốc, và ngày Thất Tịch ở Việt Nam.
Công chúa Ngọc Anh (Việt Nam)
Chuyện tình của nàng công chúa triều Nguyễn là câu chuyện bi ai nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Cuộc tình gắn liền với vị thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt ở ngôi chùa Đại Giác, tổng Trấn Biên (nay là TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).
Theo ghi chép, nhà sư Thiệt Thành Liễu Đạt có tư chất thông minh, phẩm hạnh cao quý, và kiến thức Phật học uyên bác nên được vua vời về Huế để giảng kinh trong nội cung của vua Gia Long. Vốn dung mạo tuấn tú, đức độ, lại oai nghiêm đĩnh đạc và thuyết giảng Phật pháp rất hay, nên thiền sư được nhiều phật tử mến mộ. Một trong những Phật tử ở kinh thành là Hoàng nữ đệ tam công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh. Trong những ngày theo học Phật pháp, công chúa đã thầm yêu vị thiền sư.
Tranh minh họa
Tình yêu của công chúa đã mở đầu cho một tấn bi kịch. Vì tấm lòng kiên định theo con đường tu hành, nhà sư đã tìm mọi cách tránh né. Năm 1821, mượn cớ hòa thượng Phật Ý-Linh Nhạc viên tịch, thiền sư trở về chùa Từ Ân để chịu tang, rồi ở lại luôn đó. Những tưởng tránh được nghiệp duyên, nhưng nào ngờ công chúa Ngọc Anh vẫn tìm đến gặp. Thiền sư quyết định lánh mặt nên đã lên chùa Đại Giác nhập thất hai năm. Công chúa không thể gặp được người nàng thầm mong nhớ nên tâm bệnh thêm nặng, sức khỏe ngày một sa sút trầm trọng. Trước tình hình đó, mọi người trong chùa Từ Ân đành tiết lộ nơi thiền sư đang ngụ. Công chúa cùng với phái đoàn hộ tống lại lên chùa Đại Giác để dâng lễ cúng dường, và tìm đến tịnh thất của thiền sư.
Ngọc Anh công chúa nhiều lần xin gặp mặt nhưng thiền sư vẫn im lặng. Không còn cách nào khác, công chúa bèn quỳ trước cửa tịnh thất và thưa rằng: “Nếu hòa thượng không tiện ra tiếp, xin hãy cho con nhìn thấy bàn tay của hòa thượng, đệ tử sẽ hân hoan mà ra về”. Im lặng vài phút, thiền sư đưa bàn tay ra cửa nhỏ nơi đưa thức ăn vào thất. Công chúa vội ôm bàn tay rồi sụp xuống lạy và khóc.
Đêm hôm ấy vào khoảng canh ba, khi mọi người đang yên giấc, bỗng tịnh thất của thiền sư bốc cháy. Chỉ còn lại bài thơ của thiền sư trên vách chánh điện viết rằng: “
THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần
THÀNH không vẩn đục vẫn trong ngần
LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn
ĐẠT đạo mình vui đạo mấy lần.
Nhục thân hòa tan vào ngọn lửa, nhưng vẫn còn đó tấm lòng kiên định vào Phật pháp cùng con đường tu hành không vướng bụi trần của thiền sư.
Tranh minh họa
Sau cái chết của thiền sư, Ngọc Anh công chúa cũng uống độc dược quyên sinh tại hậu liêu chùa Đại Giác. Câu chuyện tình đơn phương của nàng công chúa triều Nguyễn khép lại bằng sự ra đi của người trong cuộc và nỗi tiếc thương vô hạn của những người ở lại.
Hồng Liên
Theo https://mb.dkn.tv/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...