Những câu chuyện tình yêu
Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, “yêu” (愛 - ái) là sự kết hợp của chữ “tâm” (心) và chữ
“thụ” (受) - nghĩa là nhận lấy, đón lấy. Chữ
“tâm” đứng chính giữa chữ “thụ”, vì vậy mà “yêu” giống như một bàn tay đang
trao tặng trái tim vào một bàn tay khác. Ở đây, yêu được mô tả là tình cảm xuất
phát từ tâm hồn, vô tư, không vị kỷ.
Chữ yêu trong văn hóa Hy Lạp lại có sự phân chia theo từng trạng
thái tình cảm khác nhau. “Agape” cũng là yêu, nhưng thường dùng để nhắc đến thứ
tình cảm trong trẻo và lý tưởng, yêu trong tâm hồn và thăng hoa trong cảm xúc
hơn là những hấp dẫn về mặt thể xác.
Có phải thế chăng mà những câu chuyện tình nổi tiếng nhất
trong lịch sử và nghệ thuật đều ngợi ca nét trong trẻo và thuần khiết của tình
yêu? Đó là tin tưởng, là thủy chung, là sẵn sàng quên đi bản thân để đem lại hạnh
phúc cho người mình yêu thương,… Và dưới đây là một vài trong số những câu chuyện
tình như thế.
Tristan và Iseult (Anh Quốc)
“Tristan và Iseult” là chuyện tình lãng mạn và đẹp nhất thời
Trung cổ, dựa trên một huyền thoại trong văn hóa Celtic ở Châu Âu. Câu chuyện sống
mãi với thời gian bởi nó ca ngợi thứ tình yêu thuần khiết, trong sáng, không
suy tính. Đó là thứ tình cảm thánh khiết, là giấc mơ lý tưởng, là tình yêu đích
thực chỉ có trong thế giới của triết gia Platon. Tình yêu của Tristan và nàng
Iseult đã làm rung động trái tim của biết bao họa sĩ. Có không ít tác phẩm hội
họa mô tả câu chuyện này.
Chàng hiệp sĩ Tristan mang sứ mệnh lên đường tới Ireland để
ngỏ lời cầu hôn công chúa Iseult cho chú của chàng là vua Mark ở Cornwall (ngày
nay là một phần của nước Anh). Trên đường hộ tống công chúa trở về vương quốc,
cả Tristan và Iseult đã uống nhầm một thứ rượu nhiệm màu khiến tình yêu trong họ
chớm nở. Mặc dù vậy, cả hai đều giữ lòng trung tín với đức vua và không dám đi
quá xa trong chuyện tình cảm.
Tristan và Iseult, tranh của họa sĩ
Herbert James Draper (1863-1920)
Khi phát hiện tình cảm của hai người, vua Mark vô cùng tức giận
và muốn trừng phạt họ. Nhưng may mắn thay, đôi bạn trẻ đã kịp chạy trốn vào khu
rừng rậm xứ Morrois. Khi nhà vua vào rừng và nhìn thấy cả hai đang nằm ngủ với
một thanh gươm để giữa hai người, ngài vô cùng cảm kích trước tình yêu lãng mạn
nhưng trong trắng của họ, và quyết định tha thứ tất cả mọi lỗi lầm. Trước lòng
độ lượng của nhà vua, Iseult trở lại triều đình, còn Tristan tình nguyện đến xứ
Bretagne. Tại đây, chàng cưới quận chúa Iseult “bàn tay trắng” bởi tên gọi của
nàng gợi nhớ đến tình yêu trong trái tim chàng. Nhưng tình yêu dành cho nàng
Iseult vẫn không bao giờ nguôi ngoai, chàng không bao giờ gần gũi vợ mình mà chỉ
một lòng thương nhớ đến người yêu dấu.
“Tristan and Iseult” - tranh của họa sĩ
John William Waterhouse năm 1905
Trong một lần đấu kiếm, Tristan bị trọng thương. Chàng ngầm
sai gia nhân đem thuyền rước Iseult đến, bởi chỉ có sự hiện diện của nàng mới
giúp chàng hồi phục. Nhưng quận chúa “bàn tay trắng” đã biết được điều này, và
tìm cách gạt Tristan rằng Iseult không tới. Quá đau buồn, chàng gục xuống và chết…
Nàng Iseult cũng gục chết trên xác chàng. Sau khi hai người được chôn cất, trên
mộ của họ mọc lên hai thân cây đan chặt vào nhau. Nếu chặt chúng đi thì cành mới
sẽ lại mọc lên to hơn, rậm rạp hơn, và còn bện chặt chẽ hơn nữa.
Layla và Majnun (Ả Rập)
Câu chuyện “Layla và Majnun” còn được gọi là “Layla và chàng
điên”, hoặc “Layla và Qays”. Đây là một giai thoại tình yêu nổi tiếng ở vùng
Trung và Cận Đông, trong thế giới Ả Rập và đặc biệt là ở Iran và Azerbaijan.
Giai thoại dựa trên một câu chuyện có thật về nàng Layla và chàng Qays ibn
al-Mulawwah ở phía Bắc của bán đảo Ả Rập, dưới triều đại Umayyad ở thế kỷ thứ
7.
Layla và Majnun - tranh trên thảm của Nezami
Câu chuyện tình bắt đầu từ khi Layla và Majnun cùng học chung
một lớp. Majnun thường bị thầy giáo đánh vì không chú ý nghe giảng, nhưng mỗi lần
như vậy, chỉ có Layla là chảy máu. Khi gia đình biết chuyện, họ đã ngăn cấm hai
người gặp nhau. Tuổi thơ của cả hai là những chuỗi ngày cấm đoán, và mãi đến
khi trưởng thành họ mới gặp lại nhau. Về sau, Layla bị buộc phải lấy người
khác, nhưng lòng cô chỉ hướng đến người bạn thời thơ ấu. Vì quá ghen tuông, chồng
của Layla đã tìm đến Majnun ở sa mạc. Ngay trong khoảnh khắc thanh kiếm của ông
đâm vào tim Majnun, thì Layla ở nhà cũng ngã xuống và chết. Cảm kích trước câu
chuyện tình cảm động của hai người, dân làng đã để hai ngôi mộ gần nhau. Cả gia
đình và chồng của Layla đều cầu nguyện cho họ sớm được đoàn tụ ở thế giới bên
kia và được yêu nhau mãi mãi...
Layla thăm Majnun trong rừng - trích từ
“Khamsah”, 5 bài thơ
(Quintet) của Amir Khusro Dihlavi
Theo truyện kể lại, trong thời gian sống ở sa mạc, Majnun
luôn làm thơ ca ngợi tình yêu với Layla. Tình yêu khắc khoải khiến chàng trở
thành người điên, vì vậy, người đời không gọi chàng bằng tên thật (Qays) mà là
“chàng điên Layla” hay gọi đơn giản là “Majnun”.
Bức tranh Layla trên cuốn sách được xuất bản năm 1836.
Bản thảo đầu tiên được
thực hiện bởi James Atkinson (1780-1852)
Câu chuyện Layla và Majnun đã trở thành bi kịch về một tình
yêu bất tử mà 400 năm sau, nó cũng trở thành nguồn cảm hứng cho William Shakespeare
viết về Romeo và Juliet. Đây cũng là nguồn cảm hứng của nhiều tác phẩm thơ, ca,
nhạc, họa nổi tiếng thế giới.
Theo văn hóa Ả Rập, tình yêu của Layla và Majnun được gọi là
“tình yêu trinh khiết” (hay “virgin love” trong tiếng Anh), nghĩa là một tình cảm
trong ngần và không vướng vào ham muốn thể xác.
Orpheus và Eurydice, tranh của họa sĩ Christian
Gottlieb Kratzenstein
(1783-1816), lưu trữ tại bảo tàng
Ny Carlsberg Glyptotek ở Copenhagen, Đan Mạch
Orpheus được nhắc đến trong cả thần thoại Hy Lạp, trong truyền
thuyết, và cả trong các câu chuyện lịch sử. Là một trong 9 thi sĩ lừng danh của
Hy Lạp cổ đại, Orpheus còn đặc biệt nổi tiếng với giọng ca và tiếng đàn lia
(lyre). Tương truyền, những bài hát của Orpheus có thể làm xiêu lòng vạn vật,
khiến cho cả đất trời và thần linh phải rơi lệ. Thậm chí, cả hoa lá, cỏ cây, và
đất đá cũng say mê trước giai điệu của chàng.
Orpheus dắt Eurydice qua âm gian - tranh của
họa sĩ Jean-Baptiste Camille Corot
(1796-1875)
Tình yêu của Orpheus dành cho người vợ Eurydice đã viết nên
câu chuyện tình bất hủ. Chuyện kể rằng, trong một lần dạo chơi trong rừng,
Eurydice đã bị Aristaeus rượt đuổi. Nàng chạy cố chạy trốn vào rừng nhưng lại
không may rơi vào hang rắn và bị cắn chết. Đau lòng trước cái chết của nàng,
Orpheus cất lên tiếng ca đau thương khiến cả thần tiên cũng động lòng. Chàng đã
tìm đường xuống địa ngục, vượt qua những bóng ma và âm hồn, và đến cầu xin trước
mặt âm vương Pluto và hoàng hậu Persephone. Tiếng đàn của Orpheus đã làm âm
gian cảm động, Pluto và Persephone sau đó đồng ý cho phép Eurydice trở lại
dương gian, nhưng với một điều kiện: Trước khi cả hai lên đến dương thế,
Orpheus phải tuyệt đối giữ tim lặng và không được ngoái lại nhìn vợ đang đi
phía sau. Hành trình trở lại dương gian dài đằng đẵng, nhưng sau một thời gian
lâu, Orpheus không nghe thấy tiếng bước chân và hơi thở của Eurydice nữa, chàng
lo lắng quay đầu nhìn lại. Chàng chỉ còn thấy hình ảnh nàng Eurydice lùi nhanh
về phía địa phủ rồi biến mất. Orpheus vội quay lại nhưng người lái đò âm gian
không cho phép chàng đi tiếp, dù chàng phải quỳ ở đó suốt 7 ngày 7 đêm. Trở lại
dương gian, tình yêu dành cho vợ vẫn chưa thể nguôi ngoai. Cho đến lúc chết,
cây đàn lyre của chàng vẫn vang lên tiếng hát tha thiết, yêu thương.
Odysseus và Penelope (Hy Lạp)
Penelope là công chúa xứ Spart và là vợ của Odysseus, vua xứ
Ithaca. Nàng không những xinh đẹp mà còn là người phụ nữ thông minh. Đặc biệt,
nàng là người vợ thủy chung chờ đợi chồng suốt 20 năm ròng rã.
Nàng Penelope khước từ mọi lời cầu hôn - bức tranh “Penelope
and the suitors” của
họa sĩ John William Waterhouse năm 1912
Khi Penelope vừa mới sinh hạ con trai đầu lòng Telemachus,
thì Odysseus (Ô-đi-xê) phải tham gia vào cuộc chiến thành Troja. Chiến tranh đã
kết thúc nhưng Odysseus vẫn bặt vô âm tín, ai cũng nghĩ rằng chàng đã bỏ mạng
nơi chiến trường. Nhưng Penelope vẫn không nguôi hy vọng một ngày chàng trở về.
Và trong suốt 20 năm mòn mỏi đợi chờ, nàng đã tìm mọi cách để khước từ 108 người
cầu hôn nàng. Những người đến cầu hôn vô cùng ngang ngược và làm đủ mọi điều
ngông cuồng khiến nàng buộc phải hứa sẽ chọn một trong số đó làm chồng. Để trì
hoãn, Penelope vờ may tấm áo tang cho vua cha Laertes và nói rằng nàng chỉ nhận
lời cầu hôn khi may xong. Ngày nào cũng vậy, cứ sáng sớm là nàng lại ngồi dệt vải
trước mặt đám đông, nhưng khi đêm đến, nàng lại tháo tấm vải mình vừa dệt ra.
Nàng Penelope và anh hùng thành Troy Odysseus - tranh
của họa sĩ Johann Heinrich
Wilhelm Tischbein (1751-1829)
20 năm đợi chờ và kiên định niềm tin đã giúp nàng Penelope trở
thành biểu tượng của tấm lòng thủy chung sắt đá. Tấm lòng kiên trinh của nàng
đã làm rung động những người yêu truyền thuyết thành Troy và thần thoại Hy Lạp.
Romeo và Juliet (Italy)
Là câu chuyện có thật xảy ra từ thời Trung Cổ, “Romeo và
Juliet” kể về tình yêu lãng mạn nhưng cũng đầy bi kịch giữa Romeo Montague- một
chàng trai lương thiện, tốt bụng - và Juliet Capulet - một cô gái xinh đẹp,
thánh thiện và thơ ngây.
Nàng Juliet - tranh của họa sĩ
Philip H. Calderon (1833-1898)
Trong thành Verona của Italy, hai dòng họ Montague và Capulet
vốn có mối hận thù lâu đời. Bi kịch bắt đầu từ khi con trai của dòng họ
Montague là Romeo trà trộn và dạ tiệc hóa trang của nhà Capulet, chàng đã gặp
nàng Juliet và hai người yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Ban công nhà Juliet - tranh của
họa sĩ Frank Dicksee
(1853-1928)
Tuy nhiên, do mối hận thù sâu sắc giữa hai dòng họ, lại thêm
sự cố khiến Romeo giết chết người họ hàng của Juliet là Tybalt, nên hai người
không thể đến được với nhau. Romeo bị trục xuất khỏi thành Verona, còn Juliet
thì bị gia đình ép gả cho bá tước Paris. Nhờ tu sĩ nhà thờ giúp đỡ, nàng đã uống
một liều thuốc ngủ để giả chết trong vòng 24 giờ, vì thế đám cưới giữa Juliet
và Paris lại trở thành đám tang. Xác Juliet được đưa xuống hầm mộ của gia đình.
Nghe tin nàng chết, Romeo đau đớn trốn về Verona. Khi ngắm
nhìn dung nhan người yêu thương đã khuất, chàng uống thuốc độc tự tử theo người
mình yêu. Romeo vừa gục xuống thì cũng là lúc thuốc của Juliet hết hiệu nghiệm.
Nàng tỉnh dậy và nhìn thấy xác Romeo bên cạnh. Quá tuyệt vọng, nàng rút dao tự
vẫn.
Romeo đau buồn trước cái chết của Juliet
tranh của họa sĩ
Francis Sidney Muschamp
Cái chết tang thương của đôi bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ.
Họ đã xóa sạch mối thù truyền kiếp và bắt tay hữu nghị. Nhưng những gì còn lại
vẫn là nỗi xót xa cho một cuộc tình đẹp tựa bài thơ.
Sau cái chết của Romeo và Juliet, hai gia đình Montagues
và Capulets đã xóa sạch
mọi ân oán - tranh
của họa sĩ Frederic Leighton (1830-1896)
Câu chuyện Romeo và Juliet không chỉ ngợi ca tình yêu lãng mạn
và trong sáng, mà nó còn gửi gắm thông điệp đầy tính nhân văn. Quả thật, tình
yêu trong ngần và đẹp tựa pha lê có thể làm tan chảy những gì là ‘thù hận’, là
‘định kiến’, hay là bảo thủ truyền thống.
Sơn Bá - Anh Đài (Trung Quốc)
“Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài” kể về chuyện tình bi thảm của
đôi nam nữ từ thời Đông Tấn (317-420) và thường được ví với câu chuyện tình yêu
của Romeo và Juliet.
Chúc Anh Đài là con út và cũng là thiếu nữ duy nhất nhà họ
Chúc. Từ nhỏ, Anh Đài đã thông minh, hiếu học. Vì muốn theo học tại trường Nghi
Sơn ở Hàng Châu, Anh Đài đã cải trang thành nam nhi để thực hiện ước mơ của
mình. Tại đây, nàng gặp Lương Sơn Bá và hai người cùng kết nghĩa huynh đệ, cùng
nhau học tập, cùng làm thơ, làm câu đối và đàm luận về văn chương kim cổ. Ba
năm gắn bó bên nhau, Anh Đài đã thầm yêu Sơn Bá, nhưng chàng trai họ Lương vẫn
không hề hay biết tình cảm của nàng.
Nghe tin cha đổ bệnh, Anh Đài phải rời trường về nhà. Trước
khi chia tay, nàng đã gửi lời nhắn nhủ tới Sư nương, nhờ bà giúp nàng bày tỏ
tình cảm với Sơn Bá. Khi nghe Sư nương kể lại, Sơn Bá vội vã tìm về quê nàng.
Tuy nhiên, gia đình Anh Đài đã có hôn ước với công tử Văn Tài của nhà họ Mã
giàu có và quyền lực trong vùng. Theo truyền thống Trung Hoa, hôn nhân không chỉ
là sự gắn kết giữa đôi nam nữ, mà còn là hôn phối của cả hai dòng họ. Chúc gia
và Mã gia đã có hôn ước từ trước, vì vậy Anh Đài không thể tùy tiện làm theo ý
thích cá nhân mình. Sơn Bá không thể đến với người mình yêu, quá đau khổ, chàng
sớm ngã bệnh và qua đời.
Tem Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài
do China Post phát hành
Khi kiệu hoa đi qua mộ Sơn Bá, bầu trời đột nhiên nổi trận cuồng
phong. Trong mưa gió bập bùng, Anh Đài khóc trước mộ chàng và bày tỏ ước nguyện
được sum vầy. Dù sự sống hay cái chết cũng không thể chia lìa và ngăn trở tình
yêu giữa hai người…
Đúng lúc ấy, sấm chớp làm rung chuyển đất trời. Phần mộ của
Sơn Bá đột nhiên tách mở và Chúc Anh Đài bước vào bên trong. Từ trong mộ, một
đôi bươm bướm rực rỡ bay ra, quấn quýt bên nhau và cùng nhau bay về trời. Vì thế,
Sơn Bá Anh Đài còn được gọi là “hồ điệp tình nhân” hay “butterfly lovers”.
Tranh vẽ chuyển thể từ bức tượng “Hồ điệp tình nhân”
kể về câu chuyện của Lương
Sơn Bá và Chúc Anh Đài.
Bức tượng đặt tại Verona, Italy (Tranh của Marialla
đăng trên Mariaila Deviant Art website)
Nghe câu chuyện tình yêu cảm động giữa hai người, thừa tướng
nhà Tấn là Tạ An đã tấu biểu cho đề lên mộ ba chữ “nghĩa phụ trủng” (義婦塚), tức là mộ của người vợ có nghĩa.
Câu chuyện của Lương Sơn Bá - một trang nam tử dành trọn trái
tim cho tình yêu thuần khiết và Chúc Anh Đài - một thiếu nữ đã hy sinh thân
mình để dành trọn lời thề chính là thể hiện của đạo đức truyền thống từ xa xưa.
Ngưu Lang - Chức Nữ (Trung Quốc)
“Ngưu Lang - Chức Nữ” là câu chuyện cổ tích có liên quan đến
sao Chức Nữ (Vega) và sao Ngưu Lang (Altair), cùng với dải Ngân Hà và hiện tượng
mưa ngâu vào tháng Bảy âm lịch.
Chức Nữ là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng Đế, có tài dệt vải.
Những cầu vồng bảy sắc và áng mây rực rỡ trên bầu trời đều là từ đôi bàn tay
khéo léo của nàng dệt nên. Còn Ngưu Lang là một chàng chăn trâu nghèo ở vùng
nông thôn Trung Quốc.
Một ngày, khi đang chăn trâu trên đồng cỏ, Ngưu Lang thấy
chín tiên nữ hạ xuống bờ sông. Nấp sau bụi cây, chàng thấy các nàng tiên trút bỏ
xiêm y và vui đùa trên sông. Nghe lời chú trâu, chàng đã lấy trộm váy áo của
nàng tiên út, khiến nàng không thể bay về trời cùng các chị.
Ngưu Lang và Chức Nữ sống hạnh phúc bên nhau. Họ hết mực yêu
thương và chăm sóc lẫn nhau. Hai năm trôi qua, Chức Nữ sinh hạ hai đứa trẻ, một
bé trai và một bé gái.
Khi Ngọc Hoàng biết chuyện, ngài nổi trận lôi đình và ra lệnh
Vương Mẫu dẫn theo thiên binh đưa Chức Nữ trở về thiên cung.
Tem Ngưu Lang, Chức Nữ do
Macau phát hành vào 8/ 2012
Khi vợ phải hồi cung, Ngưu Lang vội vàng cho mỗi con vào một
cái thúng và gánh hai vai chạy theo đội thiên binh. Ngưu Lang cùng bay theo
thiên binh lên trời, khi chàng gần chạm tay vợ, Vương Mẫu ném chiếc trâm bằng
vàng xuống, hóa thành sông Ngân ngăn cách hai người. Ngưu Lang và Chức Nữ chỉ
còn biết đứng hai đầu sông và nhìn nhau ngập tràn nước mắt.
Cảm động trước tình yêu sâu đậm của đôi vợ chồng trẻ, những
con quạ đã nối đuôi nhau, tạo thành cây cầu Ô Thước bắc qua dải Ngân Hà. Vương
Mẫu cũng cho phép họ được đoàn tụ vào buổi tối mùng 7 tháng 7 hàng năm, cũng
chính là ngày kỷ niệm cuộc chia ly giữa hai người. Cũng chính vì vậy, bạn sẽ gặp
rất ít quạ trong đêm ngày mồng 7 tháng 7, bởi chúng đã bay lên trời làm cầu cho
đôi vợ chồng gặp nhau. Câu chuyện này cũng giải thích tại sao tháng Bảy mưa
ngâu, bởi đó là nước mắt tiễn biệt của họ. Bạn cũng sẽ hiểu tại sao Vega và
Altair luôn đứng hai đầu của dải Ngân Hà, và chỉ hội ngộ vào ngày thất tịch
hàng năm.
Bộ tem phát hành năm 2012 của Macau
kể về câu chuyện tình
Ngưu Lang và Chức Nữ
Ngày 7/7 âm lịch vì thế được gọi là “ngày lễ tình nhân của
phương Đông”. Nhiều lễ hội và sự kiện được tổ chức ở các nước Đông phương vào
ngày thất tịch, như lễ hội Qixi ở Trung Quốc, lễ hội Tanabata ở Nhật Bản, lễ hội
Chilseok ở Hàn Quốc, và ngày Thất Tịch ở Việt Nam.
Công chúa Ngọc Anh (Việt Nam)
Chuyện tình của nàng công chúa triều Nguyễn là câu chuyện bi
ai nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Cuộc tình gắn liền với
vị thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt ở ngôi chùa Đại Giác, tổng Trấn Biên (nay là
TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).
Theo ghi chép, nhà sư Thiệt Thành Liễu Đạt có tư chất thông
minh, phẩm hạnh cao quý, và kiến thức Phật học uyên bác nên được vua vời về Huế
để giảng kinh trong nội cung của vua Gia Long. Vốn dung mạo tuấn tú, đức độ, lại
oai nghiêm đĩnh đạc và thuyết giảng Phật pháp rất hay, nên thiền sư được nhiều
phật tử mến mộ. Một trong những Phật tử ở kinh thành là Hoàng nữ đệ tam công
chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh. Trong những ngày theo học Phật pháp, công chúa đã thầm
yêu vị thiền sư.
Tranh minh họa
Tình yêu của công chúa đã mở đầu cho một tấn bi kịch. Vì tấm
lòng kiên định theo con đường tu hành, nhà sư đã tìm mọi cách tránh né. Năm
1821, mượn cớ hòa thượng Phật Ý-Linh Nhạc viên tịch, thiền sư trở về chùa Từ Ân
để chịu tang, rồi ở lại luôn đó. Những tưởng tránh được nghiệp duyên, nhưng nào
ngờ công chúa Ngọc Anh vẫn tìm đến gặp. Thiền sư quyết định lánh mặt nên đã lên
chùa Đại Giác nhập thất hai năm. Công chúa không thể gặp được người nàng thầm
mong nhớ nên tâm bệnh thêm nặng, sức khỏe ngày một sa sút trầm trọng. Trước
tình hình đó, mọi người trong chùa Từ Ân đành tiết lộ nơi thiền sư đang ngụ.
Công chúa cùng với phái đoàn hộ tống lại lên chùa Đại Giác để dâng lễ cúng dường,
và tìm đến tịnh thất của thiền sư.
Ngọc Anh công chúa nhiều lần xin gặp mặt nhưng thiền sư vẫn
im lặng. Không còn cách nào khác, công chúa bèn quỳ trước cửa tịnh thất và thưa
rằng: “Nếu hòa thượng không tiện ra tiếp, xin hãy cho con nhìn thấy bàn tay của
hòa thượng, đệ tử sẽ hân hoan mà ra về”. Im lặng vài phút, thiền sư đưa bàn tay
ra cửa nhỏ nơi đưa thức ăn vào thất. Công chúa vội ôm bàn tay rồi sụp xuống lạy
và khóc.
Đêm hôm ấy vào khoảng canh ba, khi mọi người đang yên giấc, bỗng
tịnh thất của thiền sư bốc cháy. Chỉ còn lại bài thơ của thiền sư trên vách
chánh điện viết rằng: “
THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần
THÀNH không vẩn đục vẫn trong ngần
LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn
ĐẠT đạo mình vui đạo mấy lần.
THÀNH không vẩn đục vẫn trong ngần
LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn
ĐẠT đạo mình vui đạo mấy lần.
Nhục thân hòa tan vào ngọn lửa, nhưng vẫn còn đó tấm lòng
kiên định vào Phật pháp cùng con đường tu hành không vướng bụi trần của thiền
sư.
Tranh minh họa
Sau cái chết của thiền sư, Ngọc Anh công chúa cũng uống độc
dược quyên sinh tại hậu liêu chùa Đại Giác. Câu chuyện tình đơn phương của nàng
công chúa triều Nguyễn khép lại bằng sự ra đi của người trong cuộc và nỗi tiếc
thương vô hạn của những người ở lại.
Hồng Liên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét