Thơ phổ nhạc - “Nguyệt Cầm”
Xuân Diệu và Cung Tiến
Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn thi khúc “Nguyệt Cầm” của thi
sĩ Xuân Diệu và nhạc sĩ Cung Tiến.
Thi sĩ Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, ông
sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916 - mất ngày 18 tháng 12 năm 1985. Ông là một trong
những thi sĩ hàng đầu của Việt Nam. Sự nghiệp viết lách của ông có khoảng 450
bài, phần lớn vẫn còn nguyên bản thảo, đặc biệt là thơ tình, cùng với vài truyện
ngắn, và một số bài phê bình văn học.
Ông sinh tại Gò Bồi, Tùng Giản, quận Tuy Phước, tỉnh Bình Định
(quê ngoại của ông). Thân sinh của ông là cụ Ngô Xuân Thọ, thầy giáo, và bà
Nguyễn Thị Hiệp. Ông học ở Qui Nhơn, Huế, và về sau ở Hà Nội (1938-1940). Ông tốt
nghiệp bằng Kỹ sư Nông nghiệp năm 1943 và làm việc ở Mỹ Tho trước khi trở lại
Hà Nội.
Mặc dù ông được mọi người biết đến là một thi sĩ thơ tình xuất
sắc, nhưng cuộc hôn nhân của ông chỉ tồn tại có 6 tháng trước khi vợ chồng ông
ly dị và ông sống độc thân cho đến cuối đời.
Có nguồn dư luận tin rằng ông là người đồng tình luyến ái
cùng với nhà thơ Huy Cận (người bạn nối khố thời trung học của ông) cũng như đã
được ông thể hiện qua những bài thơ tình đề tặng riêng cho những người đàn ông
khác. Những bài thơ này gồm có: “Tình Trai” - viết về cuộc tình của
hai thi sĩ người Pháp, Arthur Rimbaud & Paul Verlaine, và “Em
Đi” - một bài thơ tình đầy xúc cảm viết tặng riêng cho thi sĩ Hoàng Cát,
người cùng sống chung với ông hai năm, khi ông Hoàng Cát phải vào Nam.
Trong sự nghiệp của ông, Xuân Diệu được biết đến như là một
thi sĩ thượng thặng trong phong trào Thơ Mới, với biệt hiệu “Ông Hoàng Thơ
Tình”. Ông cũng chính là người đã tặng cho nữ sĩ Hồ Xuân Hương biệt danh: “Nữ
Hoàng Thơ Nôm”.
Thi sĩ Xuân Diệu còn là thành viên của nhóm Tự Lực Văn Đoàn,
và là một trong những nhà thơ tiên phong hoạt động đẩy mạnh phong trào Thơ Mới.
Những bài tiêu biểu ông viết trong thời gian này là: “Thơ Thơ”
(1938), “Gửi Hương Cho Gió” (1945), và truyện ngắn “Phấn Thông Vàng”
(1939).
Hai bài “Thơ Thơ” và “Gửi Hương Cho
Gió” được quần chúng công nhận là hai bài thơ lớn trong Văn học Việt Nam
vì trong đó “tình yêu”, “đời sống”, “hạnh phúc”, “yêu cuộc đời”được ông ca
ngợi tôn vinh cùng lúc với “tuổi trẻ”, “mùa xuân”, “thiên nhiên bảo bọc
tình yêu”. Ngoài ra thơ ông còn cho thấy nỗi “buồn thương cho thời gian đã
mất”, tính chất “vô thường của đời sống”, và niềm “khao khát cho một
đời sống vĩnh cửu”.
Nhạc sĩ Cung Tiến.
Nhạc sĩ Cung Tiến (sinh 27 tháng 11 năm 1938) là một nhạc
sĩ nổi tiếng theo dòng nhạc tiền chiến. Ông được xem như nhạc sĩ trẻ nhất có
sáng tác được phổ biến rộng với bài “Hoài Cảm” năm 14 tuổi. Mặc dù NS Cung Tiến
chỉ xem âm nhạc như một thú tiêu khiển nhưng ông đã để lại những nhạc phẩm rất
giá trị trong kho tàng âm nhạc Việt Nam như “Thu Vàng”, “Hương Xưa”, “Hoài Cảm”.
Ông tên thật là Cung Thúc Tiến, sinh tại Hà Nội. Thời kỳ
trung học, NS Cung Tiến học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng NS
Chung Quân và NS Thẩm Oánh. Trong khoảng thời gian 1957 đến 1963, NS Cung Tiến du
học ở Úc ngành kinh tế và ông có theo tham dự các khóa về dương cầm, hòa âm, đối
điểm, và phối cụ tại Âm Nhạc Viện Sydney.
Trong những năm 1970 đến 1973, với một học bổng cao học của Hội
đồng Anh (British Council) để nghiên cứu kinh tế học phát triển tại Cambridge,
Anh, ông đã dự các lớp nhạc sử, nhạc học, và nhạc lý hiện đại tại đó.
Về ca khúc, NS Cung Tiến sáng tác rất ít và phần lớn các tác
phẩm của ông đều sau 1954, trừ bài “Thu Vàng”, “Hoài Cảm” được ông viết năm
1953 khi mới 14-15 tuổi, nhưng chúng thường được xếp vào dòng nhạc tiền chiến bởi
cùng phong cách trữ tình lãng mạn. Tự nhận mình là một người nghiệp dư trong âm
nhạc, viết nhạc như một thú tiêu khiển, NS Cung Tiến không chú ý tác quyền và
lăng xê tên tuổi mình trong lĩnh vực âm nhạc. Các nhạc phẩm “Hoài Cảm”, “Hương
Xưa” của ông được xếp vào những ca khúc bất hủ của Tân Nhạc Việt Nam.
Ra hải ngoại NS Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh Phụ Ngâm
năm 1987, soạn cho 21 nhạc khí, được trình diễn lần đầu vào ngày 27 tháng 3,
1988 tại San Jose, California, Hoa Kỳ, với dàn nhạc thính phòng San Jose, và đã
được giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Quốc Khánh 1988.
Năm 1992, NS Cung Tiến hoàn thành tập Ta Về, thơ Tô Thùy Yên,
cho giọng hát, dẫn đọc, ngâm thơ và một đội nhạc cụ thính phòng. Năm 1993, với
tài trợ của The Saint Paul Companies để nghiên cứu nhạc Quan Họ Bắc Ninh và các
thể loại dân ca Việt Nam khác, ông đã soạn Tổ Khúc Bắc Ninh cho dàn nhạc giao
hưởng. Năm 1997, ca đoàn Dale Warland Singers, đã đặt ông một bản hợp ca nhân dịp
kỷ niệm 25 năm thành lập ca đoàn nổi tiếng quốc tế này. Năm 2003, NS Cung Tiến
đã trình làng một sáng tác nhạc đương đại “Lơ Thơ Tơ liễu Buông Mành” dựa trên
một điệu dân ca Quan Họ. Ông là hội viên của Hội Nhạc Sĩ Sáng Tác ở
Minneapolis, Minnesota, Hoa Kỳ.
Ngoài sáng tác, NS Cung Tiến còn đóng góp nhiều khảo luận và
nhận định về nhạc dân gian Việt Nam cũng như nhạc Hiện đại Tây phương. Trong
lãnh vực văn học, những thập niên 1950 và 1960, với bút hiệu Thạch Chương, NS
Cung Tiến cũng đã từng đóng góp những sáng tác, nhận định và phê bình văn học,
cũng như dịch thuật, cho các tạp chí Sáng Tạo, Quan Điểm, và Văn. Hai trong số
các truyện ngắn ông dịch và xuất bản ở Việt Nam là cuốn Hồi ký viết dưới hầm của
Dostoievsky và cuốn Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovitch của Solzhenitsyn. Sau
khi định cư tại Hoa Kỳ, ông có viết cho một số báo với bút danh Đăng Hoàng.
Thi phẩm “Nguyệt Cầm” (Thi sĩ Xuân Diệu)
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Mây vắng trời trong đêm thủy tinh
Lung linh bóng sáng bỗng run mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
Lung linh bóng sáng bỗng run mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh trời ơi …
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người …
Đàn ghê như nước, lạnh trời ơi …
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người …
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rộn bốn bề …
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
Chiếc đảo hồn tôi rộn bốn bề …
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
Thi khúc “Nguyệt Cầm” (Nhạc sĩ Cung Tiến)
Đêm mùa trăng úa làm vỡ hồn ta…
Ngập ngừng xa…suối thu dồn lá úa trôi qua
Sầu thu, sầu lên vút mịt mù, mà e nhớ hương mùa thu
Trăng Tầm Dương lung linh bóng sáng, từng thoáng lệ ngân, mà hồn phân vân cuồng điên nhớ
Long lanh tiếng Nguyệt Cầm, tiếng đàn trầm
Ai nhớ nương tử một đêm nao trăng thanh trong lời hát… chết theo nước xanh…Chết theo nước xanh…
Ngập ngừng xa…suối thu dồn lá úa trôi qua
Sầu thu, sầu lên vút mịt mù, mà e nhớ hương mùa thu
Trăng Tầm Dương lung linh bóng sáng, từng thoáng lệ ngân, mà hồn phân vân cuồng điên nhớ
Long lanh tiếng Nguyệt Cầm, tiếng đàn trầm
Ai nhớ nương tử một đêm nao trăng thanh trong lời hát… chết theo nước xanh…Chết theo nước xanh…
Ôi đàn trăng cũ làm vỡ hồn anh…
Long lanh long lanh … trăng chiếu một mình,
khơi vơi khơi vơi … nhạc lắng tỏ ngời
Nguyệt cầm ơi từng lệ ngân, … chết từng mùa Xuân…
Đêm ngời men nhớ… Nhạc tê người thuở xưa
Trăng sầu riêng chiếc… Trăng sầu riêng chiếc, sầu cho tới bao giờ?
Hồn ghê bốn bề sao ngập hồn xanh biếc trời cao
Kià thuyền trăng, trăng nhớ Tầm Dương, nhớ nhạc vàng, đêm ấy thuyền neo bến ấy…
khơi vơi khơi vơi … nhạc lắng tỏ ngời
Nguyệt cầm ơi từng lệ ngân, … chết từng mùa Xuân…
Đêm ngời men nhớ… Nhạc tê người thuở xưa
Trăng sầu riêng chiếc… Trăng sầu riêng chiếc, sầu cho tới bao giờ?
Hồn ghê bốn bề sao ngập hồn xanh biếc trời cao
Kià thuyền trăng, trăng nhớ Tầm Dương, nhớ nhạc vàng, đêm ấy thuyền neo bến ấy…
Nguyệt Cầm nghe nấc từng câu…
Có hàng mây trắng về đâu?
Mắt chìm sâu, đêm lắng đời sâu
Nguyệt Cầm khơi mãi tình sầu.
Có hàng mây trắng về đâu?
Mắt chìm sâu, đêm lắng đời sâu
Nguyệt Cầm khơi mãi tình sầu.
Khơi mãi nguồn đêm … Mùa trăng úa làm vỡ hồn ta…
Ngập ngừng xa suối thu dồn lá úa trôi qua.
Sầu Thu sầu lên vút mịt mù, mà e nhớ hương mùa Thu.
Trăng Tầm Dương lung linh bóng sáng từng thoáng lệ ngân, mà hồn phân vân cuồng điên nhớ…
Long lanh tiếng Nguyệt cầm tiếng đàn trầm.
Ai nhớ Nương Tử một đêm nao trăng thanh trong lời hát, chết theo nước xanh chết theo nước xanh…
Ngập ngừng xa suối thu dồn lá úa trôi qua.
Sầu Thu sầu lên vút mịt mù, mà e nhớ hương mùa Thu.
Trăng Tầm Dương lung linh bóng sáng từng thoáng lệ ngân, mà hồn phân vân cuồng điên nhớ…
Long lanh tiếng Nguyệt cầm tiếng đàn trầm.
Ai nhớ Nương Tử một đêm nao trăng thanh trong lời hát, chết theo nước xanh chết theo nước xanh…
Dưới đây mình có các bài:
– Cung Tiến Không Lời
– Nhạc sĩ Cung Tiến - những sáng tác và hoạt động âm nhạc trong những thập niên qua
– Cấu Trúc Thơ - IX. Phân tích bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu
– Đọc “Nguyệt Cầm” của Xuân Diệu
– Nhạc sĩ Cung Tiến - những sáng tác và hoạt động âm nhạc trong những thập niên qua
– Cấu Trúc Thơ - IX. Phân tích bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu
– Đọc “Nguyệt Cầm” của Xuân Diệu
Cùng với 1 clip giới thiệu NS Cung Tiến, 4 clips & 1 link
tổng hợp thi khúc “Nguyệt Cầm” do các ca sĩ xưa và nay diễn xướng để
các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn,
Túy Phượng
Cung Tiến và Quỳnh Giao trong đêm nhạc
Phạm Ðình
Chương. (Hình: Quỳnh Giao cung cấp)
Cung Tiến tặng hoa cho Kiều Chinh, Mai Hương,
Kim Tước
và Quỳnh Giao trong đêm nhạc
Chinh Phụ Ngâm. (Hình: Quỳnh Giao cung cấp)
Cung
Tiến Không Lời
(Quỳnh Giao)
Có những người thuộc phái nam nhi anh hùng đã chau mày phàn
nàn: “Lòng cuồng điên vì nhớ…”, nghe sao yếu quá! Dưới con mắt của các đấng tu
mi đó thì đàn ông không có quyền ủy mị như vậy! Huống hồ tác giả lời ca lại là
người tuổi cọp.
Chẳng biết rằng khi đó, tác giả bài Hoài Cảm có thấy hắt hơi
giật mình không. Nếu có, thì Cung Tiến cũng khó động lòng hơn Ðinh Hùng, tác giả
bài Kỳ Nữ bất hủ. Ở bên kia “chiến tuyến,” các cô lại thấy rằng đấy mới là lời
ngợi ca xứng đáng và rất anh hùng với tình yêu. Phải chi Cung Tiến phổ nhạc bài
thơ này của Ðinh Hùng, chắc là nam ca sĩ trình bày ca khúc sẽ phải gục trên sân
khấu thì mới xứng!.
Có lẽ, Cung Tiến là người viết nhạc sớm nhất của chúng ta.
Ông sáng tác ca khúc đầu tay là Thu Vàng khi mới 15 tuổi, năm 1953. Mùa Thu ấy
là Thu Hà Nội và chỉ Hà Nội mới có lá vàng để ông nhặt, chứ trong Nam không đủ
lạnh để có lá vàng. Và ông đề tặng Hà Nội những ngày ấu thơ. Ca khúc trở thành
Hà Nội tiêu biểu của lớp người di cư nhớ Bắc, rồi mới chinh phục mọi người nghe
qua cách trình bày nhí nhảnh vui tươi của giọng ca Tâm Vấn thời đó.
Sau đấy, ông viết Hoài Cảm, và đề tặng Ðỗ Ðình Tuân. Dường
như Cung Tiến sáng tác cho mình và cho bạn, vì phần lớn các ca khúc ông viết đều
trân trọng ghi tặng từng người. Như Mùa Hoa Nở, Cung Tiến viết năm 1954 đánh dấu
làn song di cư của cả triệu người miền Bắc vào Nam. Ðược viết theo dạng một bài
hợp ca, nên ca khúc ít được trình bày. Thật đáng tiếc.
Sau đó Cung Tiến viết liên tiếp mỗi năm một bài: Hương Xưa
năm 1955 đề tặng Khuất Duy Trác. Cũng chính Duy Trác đã đem Hương Xưa và tên tuổi
Cung Tiến đến thính giả của đài phát thanh và trên sân khấu của các trường
trung học và đại học Việt Nam. Năm kế tiếp 1956, ông viết Nguyệt Cầm trên ý thơ
của Xuân Diệu, và trở thành người sáng tác loại âm hưởng bán cổ điển độc đáo và
ngự trị cùng một cõi nhạc cao sang quý phái của Vũ Thành và Dương Thiệu Tước…
Dòng nhạc mở đầu của Nguyệt Cầm phảng phất tấu khúc Romance
en Fa của Beethoven, nhưng ca khúc kén người hát và người nghe. Nhạc trưởng Vũ
Thành thường trao cho Anh Ngọc vì chỉ danh ca này mới hát câu “trăng sầu riêng
chiếc, trăng sầu riêng chiếc, sầu cho tới bao giờ…” crescendo da diết và dài
hơi hơn mọi người! Năm sau đó 1957, ông viết Lệ Ðá Xanh theo ý thơ Thanh Tâm
Tuyền và đề tặng Phạm Ðình Chương.
Từ đây là thời gian ông đi du học. Khi trở về, Cung Tiến sáng
tác rất nhiều thơ phổ nhạc và họa hoằn mới soạn lời từ, như Mắt Biếc năm 1966
và hoàn chỉnh lại năm 1981. Hoặc bản Bản Tango Cuối, viết năm 1974, hoàn chỉnh
năm 1980.
Những bài thơ ông phổ nhạc giai đoạn này là Thuở Làm Thơ Yêu
Em của Trần Dạ Từ, Ðêm của Thanh Tâm Tuyền, Ði Núi của Xuân Diệu, hay Ðôi Bờ của
Quang Dũng… Chỉ tác giả mới biết vì sao ông thích phổ thơ hơn là viết lời riêng
của mình. Phải chăng là càng hiểu biết nhiều thì cách viết càng bó làm ngôn ngữ
thành khó hiểu?
Sau biến cố 1975, Cung Tiến và gia đình vượt thoát được sang
Hoa Kỳ, định cư tại tiểu bang Minnesota. Từ hải ngoại ông tiếp tục phổ thơ
Quang Dũng là bài Kẻ Ở và Ðường Hoa, thơ Phạm Thiên Thư là Vết Chim Bay, và bản
cảm dịch của Vũ Hoàng Chương bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu… Hoàng Hạc Lâu là
bài trác tuyệt nhất của ông với nét nhạc âm hưởng Á Ðông mang nét Debussy mới
là lạ.
Ðặc biệt nhất có liên khúc Vang Vang Trời Vào Xuân là phổ thơ
Trần Kha, bút hiệu ẩn của bạn ông, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, khi còn ở trại học tập
lén gửi ra ngoài. Liên khúc được tác giả viết cả phần đệm piano. Lời thơ và ý
nhạc quyện nhau thành lời kinh cầu trong sáng, một vầng trăng rực rỡ, một ban
mai thắm tươi và dịu dàng của tâm hồn thanh thản trên những hành hạ khổ đau của
thể xác… Dân ta vốn yêu thơ, trong tù cũng làm thơ và ý thơ vẫn phơi phới cùng
nét nhạc Cung Tiến. Nhưng, như các ca khúc sáng tác sau thời du học bên Úc,
liên khúc 10 bài ngắn này lại không dễ hát nên người yêu thơ và nhạc ít có dịp
thưởng thức.
Năm 1988, Cung Tiến hoàn tất một tác phẩm độc đáo và đồ sộ,
đó là một bản hợp tấu khúc viết cho dàn giao hưởng lấy cảm hứng từ Chinh Phụ
Ngâm Khúc của bà Ðoàn Thị Ðiểm diễn thơ chữ Hán của Ðặng Trần Côn. Hợp tấu khúc
có âm hưởng hoàn toàn Á Ðông với nhạc khí Tây phương. Khi diễn tả áng thơ tuyệt
tác này, Cung Tiến quả là nhạc sĩ tài hoa và sâu sắc.
Có những lúc được nghe nói rằng ông còn muốn soạn nhạc để diễn
tả thơ Ðường hay cả bài Bình Ngô Ðại Cáo của Nguyễn Trãi… Nghe nói thôi chứ
chưa nghe thấy nhạc. Ông còn cảm hứng hay không, chúng ta chưa biết được.
Cung Tiến là nhạc sĩ của những tác phẩm có âm hưởng bán cổ điển
rất trang nhã, cầu kỳ và chuyển dần về nhạc Ðông phương. Nhưng nhớ lại thì hình
như chúng ta có thể rút ra một kết luận rất nhuốm vẻ Thiền.
Ban đầu, ông viết nhạc rất hay trên lời từ óng chuốt của
mình. Sau đó, ông hết soạn lời mà chỉ chú ý đến nhạc, để phổ lời của các thi sĩ
ông quý trọng. Ðến một giai đoạn sau, lời ca cũng tan vào nhạc vì Cung Tiến soạn
nhạc không lời. Dùng nhạc để người nghe cảm ra lời thơ Chinh Phụ Ngâm hay bản
hùng văn đại cáo Bình Ngô là đi tới một đỉnh cao của nhạc. Như nhạc khúc viết
cho dương cầm tên là Pictures at an Exhibition của Mussorgsky viết tả các bức
tranh trong phòng triển lãm.
Nhưng ta cứ yên tâm, không lên tới cõi đó, mình vẫn còn nguyệt
cầm để hoài cảm hương xưa thì cũng đủ vui rồi…
Nhạc sĩ Cung Tiến - Những sáng tác và hoạt động âm nhạc trong
những thập niên qua
(Mặc Lâm)
Nhạc sĩ Cung Tiến tên thật là Cung Thúc Tiến, sinh năm 1938 tại
Hà Nội. Thời kỳ trung học, Cung Tiến học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi
tiếng Chung Quân và Thẩm Oánh. Trong khoảng thời gian 1957 đến 1963, Cung Tiến
du học ở Australia ngành kinh tế và ông có tham dự các khóa về dương cầm, hòa
âm, đối điểm, và phối cụ tại nhạc viện Sydney.
Trong những năm 1970 đến 1973, với một học bổng cao học của Hội
đồng Anh (British Council) để nghiên cứu kinh tế học phát triển tại đại học
Cambridge, Anh, ông đã dự các lớp nhạc sử, nhạc học, và nhạc lý hiện đại tại
đó.
Năm 1987, Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm, soạn
cho 21 nhạc khí tây phương, được trình diễn lần đầu vào năm 1988 tại San Jose với
dàn nhạc thính phòng San Jose, và đã được giải thưởng Văn Học nghệ thuật quốc
khánh 1988.
Vào đầu thập kỷ 1980 Cung Tiến phổ nhạc từ 12 bài thơ trong
tù cải tạo của Thanh Tâm Tuyền mang tên “Vang Vang Trời Vào Xuân”, tập nhạc này
được viết cho giọng hát và Piano và được trình bày lần đầu tiên tại Thủ Đô Hoa
Thịnh Đốn vào năm 1985.
Năm 1992, Cung Tiến soạn tập Ta Về, thơ Tô Thùy Yên, cho giọng
hát, nói, ngâm và một đội nhạc cụ thính phòng. Năm 2003, Ông đã thực hiện một
tác phẩm nhạc đương đại Lơ thơ tơ liễu buông mành dựa trên một điệu dân ca chèo
cổ. Ông cũng là hội viên của diễn đàn nhạc sĩ sáng tác Hoa Kỳ.
Trong lãnh vực văn học, giữa thập niên 50 và 60, với bút hiệu
Thạch Chương, Cung Tiến cũng đã từng đóng góp những sáng tác, nhận định và phê
bình văn học, cũng như dịch thuật, cho các tạp chí Sáng Tạo, Quan Điểm, và Văn.
Nhóm Sáng Tạo là nhóm nổi tiếng nhất xuất phát từ phong trào
di cư. Hoạt động của họ là mở một con đường mới về ngôn ngữ hình ảnh cũng như về
lý tưởng tự do. Tôi hợp tác với họ bằng những bài viết về triết học cũng như những
nhận định âm nhạc lúc đó tôi đã đi du học. Thế hệ trẻ về sau lớp học trò của
Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền chắc chắn là chịu nhiều ảnh hưởng của
Sáng Tạo.
Hai trong số các truyện ngắn ông dịch và xuất bản ở Việt Nam
là cuốn Hồi ký viết dưới hầm của Dostoievsky và cuốn Một ngày trong đời Ivan
Denisovitch của Solzhenitsyn.
Mặc Lâm: Là một người yêu thích âm nhạc và có những nhạc
phẩm nổi tiếng rất sớm như: Hoài Cảm, Thu Vàng, Hương Xưa…lý do nào khiến ông
trở thành một chuyên gia kinh tế học và ông có cho rằng kinh tế và âm nhạc là
hai lĩnh vực khó hòa hợp lẫn nhau hay không?
Nhạc sĩ Cung Tiến: Câu hỏi này nó có hai phần một phần
là tại sao tôi trở thành chuyên gia kinh tế học và một phần là giữa âm nhạc và
kinh tế có hòa hợp với nhau hay không. Tôi được học bỗng kinh tế học vì âm nhạc
không phải là ngành mà ngoại quốc cho chính phủ VNCH hồi đó.
Sự thực thì âm nhạc và kinh tế không phải là khó hòa hợp vì cả
hai đều là nghệ thuật cả. Kinh tế học không phải là một khoa học mà là một nghệ
thuật giữa kẻ mua người bán, giữa người sản xuất và người tiêu dùng, cho nên nếu
không hòa hợp được thì cũng không thể xung khắc lẫn nhau.
Mặc Lâm: Ông đã từng công tác với nhóm Sáng Tạo rất sớm
qua bút hiệu Thạch Chương bằng những bài viết và dịch thuật, ông có nhận xét gì
về hoạt động cũng như ảnh hưởng của nhóm này?
Nhạc sĩ Cung Tiến: Nhóm Sáng Tạo là nhóm nổi tiếng nhất
xuất phát từ phong trào di cư. Hoạt động của họ là mở một con đường mới về ngôn
ngữ hình ảnh cũng như về lý tưởng tự do.
Tôi hợp tác với họ bằng những bài viết về triết học cũng như
những nhận định âm nhạc lúc đó tôi đã đi du học. Thế hệ trẻ về sau lớp học trò
của Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền chắc chắn là chịu nhiều ảnh hưởng
của Sáng Tạo.
Mặc Lâm: Được biết Thanh Tâm Tuyền là bạn thân của ông,
xin ông cho biết một vài kỷ niệm đối với tài thơ này nhân kỷ niệm một năm ngày
mất của thi sĩ.
Nhạc sĩ Cung Tiến: Tôi quen Thanh Tâm Tuyền năm 1956 khi
tôi theo học năm cuối cùng của trung học tại Chu Văn An, lúc ấy Thanh Tâm Tuyền
mới vào nam theo làn sóng di cư của sinh viên.
Hành trang du học của tôi chỉ có mấy quyển sách, trong đó có
hai quyển Tôi Không Còn Cô Độc của Thanh Tâm Tuyền và Tháng Giêng Cỏ Non của
Mai Thảo. Cho tới khi tôi về nước vào năm 1963 tôi mới gặp lại Thanh Tâm Tuyền
và chúng tôi có những quan hệ thân thiết hơn.
Mặc Lâm: Thưa ông có phải văn chương cực kỳ lạ lẫm của
Thanh Tâm Tuyền đã khiến ông phổ nhạc hai bài Đêm và Lệ Đá Xanh hay vì lý do dễ
hiểu hơn vì nhà thơ là bạn thân của ông?
Nhạc sĩ Cung Tiến: Tôi thấy bài thơ rất buồn và rất độc
đáo. Bài thơ này tôi phổ ở Sydney năm 1957 với mục đích gửi tặng Phạm Đình
Chương. Mãi sau này tôi mới phổ bản Đêm của Thanh Tâm Tuyền trong tập thơ Liên,
Đêm Mặt Trời Tìm Thấy.
Mặc Lâm: Bên cạnh Thanh Tâm Tuyền là một nhà thơ khác
trong nhóm Sáng Tạo cũng được ông quan tâm đó là nhà thơ Tô Thùy Yên, Với thi
phẩm Ta Về ông đã sáng tác nhiều loại hình âm nhạc cho tác phẩm này, xin ông
cho biết vài chi tiết về việc này.
Nhạc sĩ Cung Tiến: Tập thơ Ta Về của Tô Thùy Yên lọt ra
khỏi trại cải tạo và Mai Thảo đưa cho tôi xem vài bài trước khi Tô Thùy Yên định
cư tại Mỹ. Tôi đã soạn cho bài thơ này trở thành những giọng ngâm, hát, nói với
những nhạc cụ tây phương phụ đệm.
Mặc Lâm: Thưa ông, từ nhạc phẩm đầu tay là bản Hoài Cảm
được sáng tác năm 1953 cho đến nay đã có bao thăng trầm trong đời sống riêng
cũng như của toàn dân tộc, ông có nhận xét gì về nhạc phẩm này và điều gì vẫn
còn in đậm trong lòng ông cho tới bây giờ sau khi nhạc phẩm này ra đời?
Nhạc sĩ Cung Tiến: Đây là ca khúc đầu tiên của chúng tôi
viết từ năm 1953 lúc đó tôi mới 14 tuổi lúc tôi mới học đệ lục nó là công an
khúc hoàn toàn trữ tình của một học sinh ảnh hưởng thơ mới lãng mạn của Huy Cận,
Xuân Diệu…. Riêng với tôi nó là đứa con đầu lòng vẫn còn được thính giả yêu
thích tôi vẫn thích vì nó giản dị và là một thời học trò của mình.
Cấu Trúc Thơ - IX. Phân tích bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu
(Thụy Khuê)
Nguyệt Cầm
Bài Nguyệt Cầm của Xuân
Diệu, ảnh hưởng Tỳ Bà Hành, hòa hợp với thuyết giao ứng (correspondance)
của Baudelaire, là một bài thơ mới, âm hưởng cổ điển và lãng mạn. Xuân Diệu nghe đàn trên sông Hương, trạnh nhớ hận tình Trương Chi - Mỵ Nương
mà làm nên Nguyệt Cầm. Cảm xúc lời thơ, Cung Tiến sáng tác Nguyệt Cầm,
tình khúc lãng mạn giá trị, mang những cung bậc Tây phương.
Bài thơ Nguyệt Cầm thể
hiện sự giao cảm giữa hương sắc và thanh âm, giữa đất trời và cỏ cây, giữa vũ
trụ và con người, giữa trần gian và âm cảnh. Nói như Baudelaire: Bởi thơ và
qua thơ, bởi nhạc và qua nhạc mà tâm hồn thoảng thấy những ánh hào quang ẩn
sau cõi chết. Người thi sĩ bằng trực giác mẫn cảm nắm bắt giây phút hội ngộ thiêng
liêng giữa thực tại và siêu hình, giữa nội tâm và ngoại giới để đạt tới thăng
hoa trong tác phẩm nghệ thuật.
Chúng ta tìm thấy cấu trúc nội dung trên đây qua sự phân tích cấu trúc hình thức.
Bài Nguyệt Cầm mang những tính
chất cơ bản của thi ca. Nguyên lý song song xuất hiện liên tục dưới nhiều dạng:
– Về mặt hình thức, thơ 7 chữ, 4 câu, 4 khổ. Trong
112 chữ, có 5 trăng, 2 nguyệt, 4 đàn, 3 lạnh, 3 nhạc, 2 nước v.v…. Ðặc biệt,
khổ một (A) có tới 4 trăng, 1 nguyệt, 3 đàn, và trăng là nguyệt, nguyệt là
đàn: cả ba đều có thể chung một nghĩa. Toàn bài gồm ít nhất 9 nhóm từ song
song tương đồng ngữ nghĩa:
– Về mặt nội dung, khổ một (A) song song với khổ ba
(C): bầy ra sự đối diện (hay nội cảnh) giữa trăng và đàn. Khổ hai (B) song
song với khổ bốn (D): dàn phần ngoại cảnh (thiên nhiên, trời đất), và tâm cảnh
người nghe hoặc người ngắm nguyệt cầm.
Trước hết, nguyệt cầm là
gì? Ngay tựa đề đã vô cùng hàm súc. Nguyệt Cầm. Nguyệt và cầm: hai yếu tố
tương đồng ngữ nghĩa, trùng phùng hình ảnh. Từ vừa đơn, vừa ghép, tuy hai mà
có thể trở thành một, hoặc biến hóa đến vô cùng: Trăng là nguyệt, là đàn (đàn
hình tròn như trăng), mà còn có thể là người kỹ nữ, là thi sĩ, là anh, là em,
là tôi, là ta, ….
Trên bình diện phân tích hình vị thì như thế. Nhưng nếu
xét nguyệt cầm trên bình diện cấu trúc thi ca, sự đối xứng và tương đồng ngữ
nghĩa giữa nguyệt và cầm có thể mở ra những giải thích sau đây:
1. Nếu nhìn nguyệt cầm như một cấu trúc tỉnh lược chủ
từ và hư từ, thì Nguyệt cầm là đàn trăng: đàn trăng mở ra ít
nhất ba bối cảnh:
– (đánh) đàn (dưới) trăng
– (nghe) đàn (dưới) trăng – đàn (ngắm) trăng
Nguyệt cầm còn là trăng đàn: trăng đàn mở
ra ba cảnh khác:
– trăng (đánh) đàn
– trăng (nghe) đàn – trăng ( ngắm) đàn
2. Nếu nhìn nguyệt cầm dưới dạng cấu trúc ẩn dụ,
thì Nguyệt có thể là em: Nguyệt cầm = em
đàn. Nguyệt cũng có thể là anh, và đàn là em:
– Anh (nghe) đàn
– Anh (nghe) em (đàn) – Anh (ngắm) đàn – Anh (ngắm) em (đàn)
Tóm lại mười một bối cảnh trên đây có thể hàm ngụ
trong hai chữ nguyệt cầm.
Bước vào bài thơ, câu đầu:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Hai chữ dây cung mập mờ ý nghĩa,
làm môi giới cho tình và ý. Dây vừa là dây đàn mà cũng là dây tơ. Cung vừa là
cung Hằng, vừa là cung tơ. Câu thơ đưa ra nhiều hình ảnh chập trùng: Trăng nhập
vào trăng? Trăng nhập vào dây đàn? Trăng nhập vào cung tơ? Mà trăng là ai? Nếu
trăng là anh: Anh nhập vào cung trăng? Anh nhập vào cung đàn? Hay anh nhập
vào em? Nguyệt còn đồng âm với huyệt. “Trăng - nguyệt” - ẩn dụ cổ điển -
nhờ sự táo bạo và mãnh lực của chữ nhập, vướng mắc vào dây, vương tơ (ngầm).
Trăng đắm trong ẩm ướt của vùng nguyệt lạnh, gợi lên hình ảnh nồng nàn đầy nhục
cảm mà cũng vô cùng dịu dàng, tế nhị, thanh khiết, mà cũng có thể là cõi chết,
nơi hội ngộ của những âm hồn. Chuyển sang câu hai:
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
tính cách đối xứng giữa trăng thương và thương trăng, trăng
nhớ và nhớ trăng, tạo nên sức tương ái nhớ thương – thương nhớ giữa đôi bên.
Sự kết hợp với chữ hỡi – là tiếng gọi xa, gọi mà không chắc người nghe có
nghe tiếng mình không (Trời hỡi! làm sao cho khỏi đói. - Hàn Mạc Tử) - tạo nên
khoảng cách muôn trùng giữa hai đối tượng: trăng và
đàn. Nếu “Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh” mở ra
bối cảnh gần gụi da diết “Trăng nhập đàn” thì “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi
trăng ngần” dẫn đến niềm nhớ thương đòi đoạn, và sự phân chia nghìn trùng xa
cách giữa đôi bên. Vì thế hai câu thơ trên trở thành cặp phạm trù song song đối
đẳng. Tiếp đến: “Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm” và “Mỗi giọt rơi tàn như lệ
ngân” có sự chuyển đề: đàn đang từ vị trí khách thể ở hai câu thơ đầu:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Bỗng chuyển sang vị trí chủ thể ở câu 3, câu 4:
Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân (1)
Nhận xét thứ nhì: Tuy “Ðàn buồn,
đàn lặng, ôi đàn chậm” vẫn giữ nguyên cấu trúc hình thức như “Trăng thương,
trăng nhớ, hỡi trăng ngần”, nhưng ở đây tĩnh từ buồn và lặng đã
thay thế động từ, biến trạng thái tĩnh thành động, khiến cho mệnh đề đàn
buồn trở nên đa nghĩa: tiếng đàn buồn? người đánh đàn buồn? hay đàn đang
gẩy khúc nhạc buồn?… và đàn lặng cũng mang những ngụ ý: tiếng đàn lặng
đi? người kỹ nữ ngưng đàn? hay khúc nhạc bỗng dưng im bặt? … cho thấy cách tạo
hình ở “Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm” khác với cách tạo hình của “Trăng
thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần”. Câu thơ kế tiếp “Mỗi giọt rơi tàn như lệ
ngân” tiếp tục mô tả tiếng đàn và tâm cảm người gẩy đàn. Chữ tàn gieo vào giữa
câu thơ như nỗi trớ trêu của định mệnh. Tàn: Tàn cung? Tàn canh? Tàn phai? mà
cũng có thể là tàn nhẫn, rơi vào chính giữa câu thơ, chia loan, rẽ thúy, tạo
nên những tác dụng:
– Phân chia câu thơ làm hai vế so sánh: Mỗi giọt rơi = như
lệ ngân.
– Chia rẽ chủ ngữ “giọt lệ” ra làm hai nhân cách khác, hai hình ảnh khác: giọt rơi, lệ ngân. – Hai hình ảnh này và dư âm này tác động một lần nữa xuống nỗi đau thương ly cách giữa trăng và đàn. – Tàn còn có nghĩa tàn cung là bặt tiếng đàn, là tàn tạ như tiếng đàn rơi xuống, tan đi, vỡ ra … như khối hận tình mang xuống tuyền đài chưa tan… – Và tàn còn có thể là tàn phai, như nhan sắc người kỹ nữ trong khoảnh khắc tàn canh, rỏ mỗi tiếng đàn như ngân một giọt lệ.
Toàn bộ bốn câu thơ có cấu trúc
song song, đối đẳng, nhà thơ tận dụng sự đối xứng giữa những cặp phạm trù
(trăng - đèn), (gần - xa), (ngoại cảnh - tâm cảnh), dùng những ngụ ý, hàm
ngôn tạo mối tương quan giữa những điều nói và những điều không nói, giữa thực
và hư, giữa tĩnh và động, để mở ra đến vô cùng, sự gần gụi và xa cách giữa
trăng và đàn.
Sang tiết đoạn B, tác giả đổi thay phong cách:
B mang cấu trúc văn
xuôi, với những mệnh đề tiếp cận có tính cách giải thích, bổ nghĩa cho
nhau (vì… đã…). Sự bắc cầu trực tiếp bằng một mệnh đề xé hai (enjambement
avec rejet mà Xuân Diệu (2) mượn trong thơ Pháp) liên kết chặt chẽ câu thơ
trên với câu thơ dưới, kết hợp bốn câu thành một phát ngôn có trình tự nhất định:
“Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh lung linh bóng
sáng bỗng rung mình vì nghe nương tử trong câu hát đã chết đêm rằm theo nước
xanh”
Tuy nhiên, câu trên vẫn là thơ vì
những mệnh đề tuy liên tục và có trình tự trong ý, nhưng thiếu chủ ngữ và vị
ngữ nên không “thành văn”: Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh là ba hình ảnh
độc lập, dị biệt nhưng song song về nghĩa: Mây vắng = trời trong = đêm thủy
tinh.
Nhịp cầu thứ nhất liên kết đêm thủy tinh với lung linh bóng sáng, bật ra hai khả năng diễn nghĩa:
– hoặc là có hai cảnh tượng song song: Ðêm thủy tinh
lung linh và bóng sáng bỗng rung mình.
– hoặc là cả cái “đêm thủy tinh lung linh bóng sáng” đó bỗng rung mình.
Giải thích thứ hai này ngụ ngầm ý
nghĩa: Mây vắng và trời trong cũng rung mình như đêm thủy tinh vì ba yếu tố
trên cùng một chức năng ngữ nghĩa và cấu trúc trong câu.
Tại sao rung mình? Vì tất cả đều nghe nương tử trong câu hát. Ðến đây sự bắc cầu trở nên huyền nhiệm: Ðộng từ “đã chết” bơ vơ, buông lỏng, không có chủ ngữ. Ai đã chết? Nương tử đã chết? Câu hát đã chết? hay là tất cả những nhân vật: mây, trời, đêm thủy tinh, bóng sáng kia, vì nghe nương tử hát mà cùng tự tử trong đêm rằm dưới nước xanh, như huyền thoại Lý Bạch ôm trăng nhẩy xuống dòng Dương Tử? Tiết đoạn B kết hợp hài hòa khái niệm thẩm mỹ giữa Ðông -Tây, trong cấu trúc hình thức và nội dung thi ca. Tiết đoạn C trở lại cuộc tương kiến giữa Ðàn và Trăng:
Âm hưởng và giai điệu trong tiết
đoạn này ngẫu hứng từ tiếng đàn của người kỹ nữ trong Tỳ Bà Hành, nhất là
“Ðàn ghê như nước, lạnh, trời ơi …” và “Long lanh tiếng sỏi vang vang hận”:
Nước tuôn róc rách, chẩy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Uyết tuyền lưu
thủy hạ thán
Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
và chính dư âm tiếng đàn đã làm cho thiên nhiên âm nhạc và
con người tương tư nhau: Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người làm cho hiện tại
luyến lưu dĩ vãng, làm cho sự cách biệt giữa không gian và thời gian, nghệ
thuật và tình người ngắn lại, nhưng cũng lại trải ra biền biệt đến vô cùng,
và mở đường cho bốn câu thơ cuối:
Tiết đoạn D, song song với tiết
đoạn B, trở lại quang cảnh vũ trụ và tâm cảnh người nghe đàn, ngắm
trăng: Câu 1 mở ẩn dụ thành ấn tượng so sánh:
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê,
Thi sĩ giao hòa âm nhạc với ánh
trăng thành một biển sáng có âm thanh pha lê.
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
Lần đầu tiên, nhân xưng tôi xuất hiện
trong thơ. Sự hiện diện của thi sĩ, đơn côi tuyệt đỉnh. Ẩn dụ “chiếc
đảo hồn tôi” và tâm cảm “rợn bốn bề” phù trợ nỗi hoang lạnh cho hai đoản
ngữ “chiếc đảo” và “hồn tôi“, kèm thêm bốn hình vị độc lập chiếc - đảo - hồn - rợn đều mang ẩn nghĩa đơn chiếc, hoang vắng, âm hồn, ghê rợn, …
nói lên sự lạc lõng gây gây của thi nhân trong cõi trần âm u hoang lạnh. Niềm
tâm sự ấy đắm trong khung cảnh:
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Tình huống “Sương bạc làm thinh,
khuya nín thở” trên đây nối tiếp với “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề”, như để
giới thiệu thiên nhiên “Sương bạc” với không và thời gian “khuya”, những nhân
tố mới này cùng “làm thinh” và “nín thở” để:
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
Thi sĩ đã đem nội tâm của con người
hòa cùng âm nhạc, ném vào vũ trụ hành tinh. Còn lại một mình đối diện với cõi
chết, âm u, hoang lạnh. Bềnh bồng ngoài thực tại, trong vị trí giao tiếp giữa
không gian và vũ trụ. Lưỡng lự, nửa thăng thiên về một hành tinh lý tưởng, nửa
hạ huyệt về cõi độc dược, Ác Hoa. Sự đối chất giữa Lý tưởng (Idéal)
và Nỗi sầu(Spleen, Ennui) trong Baudelaire, không chỉ truyền sang Xuân
Diệu, thấm vào Huy Cận, mà còn thông suốt cả một thế hệ thi nhân, biến thành
nỗi sầu nhân thế, tận diệt thế nhân trong cảm giác nghẹt thở, bất lực, hoang
mang, muôn đời buồn bã.
Paris 3/1995
|
Chú thích:
(1) Tỳ Bà Hành:
(2) Theo lời Xuân Diệu kể trong Confession d’un poète,
thì Huy Cận là người đầu tiên sử dụng enjambement avec rejet:
Thức dậy nắng vàng ngang mái nhạt
Buồn gieo theo bóng lá đung đưa Bên thềm - Ai nấn lòng tôi rộng Cho trải mênh mông buồn xế trưa.
Thực ra, trong Kinh Thi, người xưa “tình cờ” cũng đã
“bắc cầu”:
Khiêu hề thoát hề
Tại thành khuyết hề.
Dịch:
Em nhẹ nhàng nhẩy lên
Lầu trên thành.
và Thế Lữ là người đầu tiên sử dụng bắc cầu như một kỹ thuật
du nhập từ phương Tây, trong thơ mới:
Trời cao xanh ngắt - ô kìa!
Hai con hạc trắng bay về bồng lai Như khua động nỗi nhớ nhung thương tiếc Trong lòng người đứng bên hồ.
© 1991-1995 Thụy Khuê
|
Đọc “Nguyệt Cầm” của Xuân Diệu
(Chu Văn Sơn)
Thời gian có thể còn sàng lọc tước bỏ nhưng “Nguyệt Cầm” sẽ vẫn
cứ là cái đỉnh chóp của sự nghiệp thi ca của nhà thơ “mới nhất trong những nhà
Thơ Mới”. Bầu Nguyệt Cầm vào hàng tinh hoa của Thơ Mới và thơ Việt, hẳn không
phải là lá phiếu vội vàng.
Văn bản:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần,
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm,
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần,
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm,
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Mây trắng, trời trong, đêm thủy tinh.
Linh lung bóng sáng bỗng rung mình,
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
Linh lung bóng sáng bỗng rung mình,
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời;
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận.
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận.
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề…
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề…
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
(Rút từ tập “Gửi hương cho gió”, 1945)
1. “Nguyệt Cầm” và mối thâm giao Thơ - Nhạc
Là một người sành thơ vào bậc nhất ở nước Nam này, Xuân Diệu
đã định giá thơ bằng nhiều thước đo. Có lần, vạch một ranh giới dứt khoát giữa
cái Hay và cái Tiêu biểu, ông quyết rằng: nếu chọn bài tiêu biểu nhất của mình,
Xuân Diệu chọn Biển, còn chọn bài hay nhất, thì sẽ chọn Đây mùa thu tới, Thơ
duyên, Lời kỹ nữ và đặc biệt là Nguyệt Cầm. Hay, theo quan niệm của Xuân Diệu
phải là sự hài hòa tuyệt vời giữa nội dung và hình thức.
Việc tự chọn của tác giả đã gặp gỡ với cuộc bình chọn của
đông đảo những người có uy tín về thơ đương đại. Trong danh sách trưng cầu ý kiến
của nhiều chuyên gia gồm cả sáng tác, phê bình, nghiên cứu, giảng dạy, ở phần
Xuân Diệu, Nguyệt Cầm cũng được xếp ngôi đầu bảng1.
Thuộc thế hệ sau, một thi sĩ có nhiều cách tân về hình thức thơ cuối thế kỷ này, anh Thanh Thảo, cũng trầm trồ ngưỡng mộ “Nguyệt Cầm thuộc dạng siêu thơ”… Thi sĩ này đã không ngần ngại cho đó là một kiệt tác. Tôi nghĩ thời gian có thể còn sàng lọc tước bỏ. Sang thế kỷ sau, chưa chắc tác phẩm được tôn vinh bây giờ con giữ nguyên được địa vị. Nhưng có lẽ Nguyệt Cầm sẽ vẫn cứ là cái đỉnh chóp của sự nghiệp thi ca của nhà thơ “mới nhất trong những nhà Thơ Mới” này thôi. Bầu Nguyệt Cầm vào hàng tinh hoa của Thơ Mới và thơ Việt, hẳn không phải là lá phiếu vội vàng.
Thuộc thế hệ sau, một thi sĩ có nhiều cách tân về hình thức thơ cuối thế kỷ này, anh Thanh Thảo, cũng trầm trồ ngưỡng mộ “Nguyệt Cầm thuộc dạng siêu thơ”… Thi sĩ này đã không ngần ngại cho đó là một kiệt tác. Tôi nghĩ thời gian có thể còn sàng lọc tước bỏ. Sang thế kỷ sau, chưa chắc tác phẩm được tôn vinh bây giờ con giữ nguyên được địa vị. Nhưng có lẽ Nguyệt Cầm sẽ vẫn cứ là cái đỉnh chóp của sự nghiệp thi ca của nhà thơ “mới nhất trong những nhà Thơ Mới” này thôi. Bầu Nguyệt Cầm vào hàng tinh hoa của Thơ Mới và thơ Việt, hẳn không phải là lá phiếu vội vàng.
Trước khi phân tích Nguyệt Cầm như một kiến trúc thi ca toàn
bích với một thi pháp tinh xảo (và ở đây chỉ phân tích theo hướng này, còn những
hướng khác đã có nhiều bài phân tích), có lẽ cần xem xét thi phẩm này trong cái
đề tài đã ám ảnh hầu hết các nhà Thơ Mới, đồng thời cũng hiến dâng cho họ rất
nhiều áng thơ hay: ấy là Nhạc. Về cảm hứng, thi ca đã khai thác nhạc ở cả hai
phía: Người chơi nhạc và bản thân nhạc. Ở phía này, là sự ngất ngây trước vẻ đẹp
thần tiên của tiếng nhạc, ở phía kia, là sự đắm say trước tài hoa và xót xa cho
những thân phận ca kỹ, vốn “cùng một lứa bên trời lận đận” với thi nhân.
Thơ coi nhạc vừa là đối tượng mô tả vừa là phương tiện diễn tả.
Tôi muốn nói, thi ca cũng đã dùng đến âm - nhạc - của - ngôn - ngữ làm phương
tiện để diễn tả ngôn - ngữ - của - âm - nhạc. Cố nhiên, với các mức độ khác
nhau! Song phải đến các thi sĩ Tượng trưng thì mối tương giao thơ - nhạc mới được
lý thuyết hoá. Chủ trương nổi tiếng của thi phái này là khai thác triệt để nhạc
tính của ngôn ngữ. Thậm chí họ đã từng định nghĩa: “Thơ là sự giao động bất tuyệt
giữa âm thanh và ý nghĩa” (Pôn Valêry). Từ những hậu thuẫn lý thuyết, tư duy
thơ Tượng trưng đã thoả sức tung hoành trong nhạc như một lãnh địa đặc quyền.
Vì thế, viết về nhạc, nhiều người đã say sưa dùng nhạc của
ngôn từ để mô phỏng nhạc của âm nhạc. Ở những trường hợp thành công, người dọc
có cái khoái thú được đọc một bài - thơ - về - nhạc trong một - bản - nhạc - thơ (chẳng hạn Tỳ bà hay Nhạc của Bích Khê). Nhưng cũng không ít trường hợp mải
chạy theo nhạc của thơ mà đánh rơi mất bản thân thơ. Khi ấy xúc cảm về nhạc của
thi nhân đã bị lấn át, chèn ép và khô héo trước kỹ thuật về nhạc của người thợ
ngôn từ.
Một hồn thơ như Xuân Diệu không thể không viết về nhạc. Cảm hứng
lớn về nhạc của Xuân Diệu là đi mãi vào cái thế giới bên trong nhạc. Thi sĩ đã
cho nó một tên riêng là “thế giới của Du Dương”.
Hãy tự buông cho khúc nhạc hường
Dẫn vào thế giới của Du Dương.
Dẫn vào thế giới của Du Dương.
Thực ra, đó chính là thế giới mà một thi sĩ khác - Hàn Mặc Tử - đã chính thức định danh là Thế giới Huyền diệu. Đắm mình trong nhạc là rời bỏ
thế giới thực tại để đi vào thế giới huyền diệu. Thế giới ấy ở đây chỉ biểu hiện
trong nhạc và bằng nhạc. Dường như mỗi nhạc khí là một cánh cửa, mỗi con đường
vô hình mở vào thế giới nhạc. Nói đúng hơn, mỗi nhạc cụ kia giấu trong nó một
thế giới đầy bí mật, chỉ cần tấu lên là thế giới ấy sẽ mở ra. Không phải thế giới
hoang đường cổ tích; không phải cõi thực, không phải cõi mộng; không phải cõi
âm, không phải cõi dương…
Ấy là thế giới trong tâm linh được âm nhạc đánh thức. Với bài Huyền diệu, hồn thơ Xuân Diệu mới chỉ khởi hành, đẩy cánh cửa vào thám hiểm thế giới ấy. Còn ngay sau đó, thi sĩ đã có cuộc lãng du chính thức vào thế giới du dương của Nhị Hồ. Và giờ đây là phiêu diêu vào thế giới riêng của Nguyệt Cầm2. Tìm kiếm ý nghĩa đích thực của thi phẩm này, xin đừng lạc vào những giá trị quen thuộc như lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, hay tình yêu đôi lứa… Mà tất thảy đều đã hòa tan vào một niềm yêu thương duy nhất, thành mối tương giao kỳ diệu giữa hồn người, hồn nhạc, và hồn tạo vật. Có thể xem thi phẩm là sự thăng hoa của hồn thơ vào thế giới huyền diệu của Nguyệt Cầm.
Ấy là thế giới trong tâm linh được âm nhạc đánh thức. Với bài Huyền diệu, hồn thơ Xuân Diệu mới chỉ khởi hành, đẩy cánh cửa vào thám hiểm thế giới ấy. Còn ngay sau đó, thi sĩ đã có cuộc lãng du chính thức vào thế giới du dương của Nhị Hồ. Và giờ đây là phiêu diêu vào thế giới riêng của Nguyệt Cầm2. Tìm kiếm ý nghĩa đích thực của thi phẩm này, xin đừng lạc vào những giá trị quen thuộc như lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, hay tình yêu đôi lứa… Mà tất thảy đều đã hòa tan vào một niềm yêu thương duy nhất, thành mối tương giao kỳ diệu giữa hồn người, hồn nhạc, và hồn tạo vật. Có thể xem thi phẩm là sự thăng hoa của hồn thơ vào thế giới huyền diệu của Nguyệt Cầm.
2. “Linh lung” - hồn vía của Nguyệt Cầm
Đọc bài thơ này, hẳn ai cũng phải phân vân trước chữ “linh
lung”. Không ít người đã nghĩ là in lộn. Vì thế mà nhiều bản in đã “lật xuôi” lại
thành “lung linh”. Không ngờ, cái việc ngỡ xuôi kia, té ra, là ngược. Phải
chăng Xuân Diệu đã dùng phép lạ hoá để làm xiếc ngôn từ? Xuân Diệu không phù
phiếm thế. Ngôn từ phải vặn mình lạ vậy là do nhu cầu bộc lộ những cảm giác
tinh vi. Lung linh chỉ là sự lay động, nhún nhảy, rung rinh của những làn ánh
sáng. Một cảm giác thuần tuý thị giác. Trong khi đó, những gì mà hồn thơ quá ư
bén nhạy này cảm nhận được trong cùng một khoảnh khắc lại là một phức hợp nhiều
cảm giác tinh vi. Xuân Diệu muốn chữ mình dùng phải làm sống dậy cùng lúc cả
cái luồng run rẩy lẫn cái luồng gai gợn bí ẩn tựa như một thoáng rùng mình ớn lạnh.
Nghĩa là phải gồm chứa các cảm giác thuộc cả thị giác lẫn xúc giác. Linh lung,
vì thế, cứ ánh rợn lên, khơi vơi, tê tái, huyền hoặc ma quái.
Phải, Linh lung chính là Nguyệt Cầm!
Bước vào Nguyệt Cầm là bước vào một thế giới linh lung. Mọi ảnh
hình đều rợn sáng. Cả ánh sáng của âm thanh, cả âm thanh của ánh sáng đều tan
ra trong từng làn sóng âm tê buốt, tưới lên da ta, len lấn vào tâm trí ta. Cả
trăng sao, sóng nước, mây trời, sỏi đá, cả sương bạc, cả canh khuya, cả nàng
Nương Tử, cả bến Tầm Dương, cả hồn ta… tất tật đều vừa hiển hiện vừa tan ra
trong biển nhạc trong suốt của Nguyệt Cầm không bờ không bến. Tất cả đều diễm ảo,
hư huyền, chơi vơi, vô định. Không còn cõi này, không còn cõi khác, không còn
hiện tại, không còn quá khứ, không còn hữu thể, không còn vô thể… chỉ còn có
Nguyệt Cầm. Cả thương, nhớ, hận, sầu đều phổ vào trong ánh nhạc tê ngời. Vĩnh cửu
tan cùng khoảnh khắc, phù du giao ứng vĩnh hằng. Tất cả đều rợn ánh khơi vơi
trong đêm nhạc Nguyệt Cầm. Âm nhạc đến từ trăng lạnh, gieo từng chấm lạnh, từng
dòng giá lạnh trong suốt vào hồn ta, để rồi khi đã dâng tràn, âm nhạc lại cuốn
hồn ta trôi dạt mãi vào vô biên, đến tận bến bờ của của sao Khuê. Từ hư không,
âm nhạc đã cất tiếng và tiếng nhạc lại mang hồn ta phiêu diêu về lại cõi hư
không. Nối cái nhỏ nhoi hữu hạn với cái vô tận vô cùng. Đó chẳng phải là sự
thăng hoa huyền diệu vào bậc nhất của hồn người ư?
Nhờ đâu Nguyệt Cầm có được sự thăng hoa như vậy? Phải chăng
chỉ trông cậy thuần tuý vào phép Tương giao? Nói Xuân Diệu dùng Tương giao để
viết nên Nguyệt Cầm, cố nhiên, đúng. Nhưng điều ấy đúng hầu như với mọi thi phẩm
của nhà Thơ Mới này.
Thế, đâu là thi pháp riêng của Nguyệt Cầm? Đó là lối viết tạm
gọi bằng “Giao thoa - Cộng hưởng”.
Vâng, gọi như thế là muốn mượn câu chữ của ngành nhạc cho dễ
hợp với đối tượng vốn là một nhạc khí thôi. Còn thực chất, đó là lối tổ chức
ngôn từ và tạo thi ảnh sao cho thi phẩm thực sự là một kiến trúc nghệ thuật mà:
a) nghĩa chữ có sự cộng hưởng của nhiều làn nghĩa khác nhau,
b) thi ảnh có dạng: một hình thể gồm nhiều hình ảnh giao thoa nhau,
c) và tất cả được thực hiện dựa trên sự giao thoa cộng hưởng của các kênh cảm giác (chứ không chỉ là sự chuyển đổi cảm giác thông thường).
b) thi ảnh có dạng: một hình thể gồm nhiều hình ảnh giao thoa nhau,
c) và tất cả được thực hiện dựa trên sự giao thoa cộng hưởng của các kênh cảm giác (chứ không chỉ là sự chuyển đổi cảm giác thông thường).
Mà điều thật kinh ngạc là toàn bộ thao tác thi pháp có vẻ phức
tạp ấy đều tan vào lòng một sinh thể sống động với bao cảm giác mong manh nhất,
bao cảm xúc hư thoảng nhất của thi nhân. Tức là, trực giác của Xuân Diệu đã điều
khiển thi pháp một cách thần diệu, khiến cho thi phẩm cứ thăng hoa như một điệu
hồn, linh lung như một kiến trúc ngôn từ kỳ ảo.
Do đâu mà Xuân Diệu đã tìm đến thi pháp này? Có lẽ do sự xui
khiến của bản thân cái tên Nguyệt Cầm. Cây đàn được người xưa gọi là Nguyệt Cầm
có thể chỉ đơn thuần bởi hình tròn của bầu đàn. Nhưng với hồn thơ Tượng trưng
Xuân Diệu thì không chỉ thế. Nguyệt Cầm là cả một cơ duyên, cả một nguồn thi hứng.
Bản thân cái tên nhạc khí đã là cộng hưởng - giao thoa rồi.
Hãy nhìn cái tên ấy từ góc độ tổ chức ngôn từ. Là một tổ hợp
ghép đơn giản, nhưng Nguyệt Cầm cùng lúc phát ra nhiều tín hiệu nghĩa khác
nhau: a) một nhạc khí; b) cuộc giao duyên trăng - đàn; c) một bản đàn (đàn khúc
nguyệt cầm); d) tiếng đàn trong đêm trăng… Các làn nghĩa này có thể nhận được
không mấy khó khăn. Nhưng cái kỳ diệu của hồn thơ là cảm nghe được mối giao
tình của bản thân ngôn ngữ và mối tương giao giữa ngôn ngữ với nhạc. Về từ tố,
đó đơn giản chỉ là sự cộng ghép Nguyệt (trăng - ánh sáng) và Cầm (đàn - âm
thanh). Nhưng bản thân tính dang Nguyệt Cầm đã là cuộc giao duyên về ngữ âm của
ngôn từ. Nguyệt và Cầm đều là những âm gốc Hán, nghiêng về sắc thái trầm đục,
âm u. Cho nên chúng lập tức gắn bó với nhau thành hợp thể để cùng cất giữ sâu
trong ngữ âm của mình một thế giới huyền bí. Đồng thời, chúng còn là mối giao
tình về ngữ nghĩa. Nguyệt và Cầm là khởi nguyên cho một thế giới làm bằng ánh
sáng và âm thanh: gồm cả âm thanh của ánh sáng (nhạc của trăng), cả ánh sáng của
âm thanh (trăng của nhạc).
Chúng ta biết, bất cứ nhạc khí nào cũng diễn tả thế giới này
bằng sự diễn tấu đầy biến hóa của hai phạm trù âm thanh là: Văn và Vũ (tương ứng
với Âm - Dương, Nóng - Lạnh) cả hai hòa giọng mới làm nên tiếng nói của nhạc.
Đàn Nguyệt cũng có dây Văn và dây Vũ của nó. Cảm hứng của Xuân Diệu về Nguyệt Cầm
có lẽ khởi đầu bằng cảm nhận về sự tương phùng nào đó giữa nguyệt - cầm với văn - vũ (phải chăng nguyệt tương ứng với văn, còn cầm tương ứng với vũ?). Hai phạm
trù âm thanh đó của nhạc khi vào Nguyệt Cầm đã được diễn tả tương ứng bằng
Trăng và Đàn với những biến ảo thật tinh vi, được thực hiện bằng tư duy thơ.
Nên thi phẩm không phải dạng thơ vịnh lại hình hài thực của cây đàn nguyệt quen
thấy trong truyền thống, mà tạo ra hình tượng thi ca về thế giới nguyệt cầm
theo lối Tượng trưng.
4. “Giao thoa – cộng hưởng”, nhìn từ vĩ mô đến vi mô
4.1. Chữ “nhập” khởi đầu cho tất cả
Bài thơ gồm bốn khổ, được tổ chức theo đà tăng tiến. Từ khổ 1
đến khổ 4, có thể thấy: Về thời gian: ngày một khuya khoắt; về không gian: càng
lúc càng tràn đầy với mọi bề cao - rộng = sâu theo sự toả lan của nhạc; về cảm
giác: mỗi lúc một ghê lạnh, rợn ngợp; về cảm xúc: càng đêm càng buồn sâu, nhung
nhớ, đơn côi… Tất cả những mạch đó của thi tứ xe quyện với nhau và thống nhất
trong một thể sống động bởi cùng một thi pháp Giao thoa - cộng hưởng.
Tuy nhiên, khổ đầu tiên có một địa vị tối quan trọng. Chỉ cần
tập trung phân tích khổ đầu trong mối liên hệ dọc ngang với ba khổ còn lại,
cũng đủ cho ta hình dung về độ chín của thi pháp Xuân Diệu.
Nhất là câu nhập đề. Những nét độc đáo của thi pháp này (mà về
sau sẽ phát huy trong toàn bộ thi phẩm) dường như đã hiện ra ngay ở câu đầu.
Câu khởi đầu là những suy cảm về sự ra đời huyền hoặc của cây đàn nguyệt và
cách cất tiếng của nó. Có thể ví câu đầu như cái tế bào đầu tiên mang trong nó
“hệ gen” của hình thức toàn thi phẩm. Nói một cách khác, thi pháp gọi bằng Giao
thoa - cộng hưởng ngay ở đây đã ra tay rồi:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Câu thơ dựng lên một ngữ cảnh huyền hoặc, bí ẩn không dễ tường
minh. Ta hãy bắt đầu bằng chữ “nhập”. Vì mọi chuyện cũng khởi sự từ chữ này. Thế
giới nhạc của Nguyệt Cầm bắt đầu từ sự sống động của nhạc khí. Nhưng cây đàn ấy
bắt đầu sống cái sinh mệnh đàn từ bao giờ? Từ lúc trăng nhập vào dây cung vậy!
Đây là động thái huyền nhiệm, diễn tả sự nhập hồn, nhập thần…
Nó xui ta nhớ đến nghi lễ hô thần nhập tượng khi hoàn thành những pho tượng Phật giáo.
Nó xui ta nhớ đến nghi lễ hô thần nhập tượng khi hoàn thành những pho tượng Phật giáo.
Nguyên là: tượng được tạc xong, chưa linh, bởi mới chỉ có phần
thân xác tượng; phải sau khi được thần linh nhập vào, tượng mới là hiện thân của
đức Phật. Cũng như thế, trong hình dung theo lối thi ca của Xuân Diệu, đàn vừa
được làm ra, mới chỉ có thân xác. Phải khi trăng nhập vào dây cung, mới có hồn
đàn. Từ cái khoảnh khắc mầu nhiệm ấy, đàn mới bắt đầu sống cái thân phận Nguyệt
Cầm. Tự bấy giờ, mỗi nốt Nguyệt Cầm tấu lên sẽ là cộng hưởng của âm thanh và
ánh sáng. Mỗi nốt nhạc sẽ sinh thành từ sự giao duyên kỳ bí đó của Nguyệt và Cầm.
Sau chữ “nhập” như thế, Trăng và Đàn đã đồng thể. Nhưng cái
điểm giao tình của chúng là đâu? Ở nơi chữ “cung” vậy. Sự giao thoa ngôn từ
cũng chính thức bắt đầu từ chữ đó. “Cung” vừa thuộc về đàn vừa thuộc về trăng. Ở
đây, vị trí của nó là bắc cầu, ngữ nghĩa của nó là giao thoa.
Nếu ngắt theo nhịp 2-2-3, thì đó là “cung nguyệt lạnh”
(nghiêng về “cung trăng”), mà ngắt theo nhịp 2-3-2 thì sẽ là “dây cung”
(nghiêng về “cung đàn”). Thi vị độc đáo của nó chính là sự giao động bất tuyệt
giữa hai bề ngữ nghĩa ấy. Phải chăng cung nguyệt cầm chính là sự cộng hưởng của
cả cung trăng lẫn cung đàn? Hai hình ảnh nhập vào một hình thể? Nhập thành một
duyên phận?
Hoà điệu với nhịp thơ, còn phải kể đến một yếu tố khác là âm
thanh. Câu thơ là một chuỗi âm thanh gây thành một ấn tượng rõ rệt. Không phải
ngẫu nhiên, cả câu có 3 thanh trắc, thì cả ba đều là thanh nặng: nhập, nguyệt,
lạnh. Nhất là hai dấu “nặng” liền nhau trĩu xuống ở cuối câu, cảm giác lạnh từ
thanh âm của các nốt “nặng” ấy toát ra đã làm lạnh suốt cả chuỗi âm thanh của
câu thơ, mở đầu cho cả gam lạnh rồi đây sẽ trùm lên khắp cả Nguyệt Cầm3.
Như vậy, bằng chữ “nhập” và câu thơ nhập đề kỳ lạ, Xuân Diệu
đã ngầm lý giải (hay khám phá ra) cái tính linh kỳ bí của Nguyệt Cầm. Câu thơ
đã chính thức dẫn dụ người đọc vào cái thế giới huyền diệu của Nguyệt Cầm.
4.2. Cộng hưởng nhạc - thơ, trăng - đàn
Có thể nói, nhờ phát huy cao độ thi pháp của mình, Xuân Diệu
đã tạo sự cộng hưởng lạnh lùng giữa nhạc - thơ, trăng - đàn.
Một khi đã sống như một sinh mệnh, thì Nguyệt Cầm bắt đầu lên
tiếng. Tiếng nói của mọi cây đàn đều là “So vần dây vũ dây văn”.
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần;
Đàn buồn, đàn lặng, ôn đàn chậm
Đàn buồn, đàn lặng, ôn đàn chậm
Có thể xem hai câu đây là thứ tiếng nói rất riêng của cây đàn
này. Cây Nguyệt Cầm đang so vần dây vũ dây văn của nó đó thôi!
Về nội dung, hai câu này tả không - gian - trăng - nhạc 4 bằng
các cung bậc khác nhau của tình đàn. Nhưng về thi pháp: mỗi câu kia, với từng
nhịp ngắt, tựa như một chuỗi âm hình kế tiếp vang lên theo cách tấu đàn. Đó là
điều đáng nói. Ta hãy đi sâu hơn một chút vào cấu trúc ngôn ngữ với ngôn ngữ của
nhạc.
Phép song song của ngôn ngữ thơ, phép đối ngẫu của thơ cổ,
phép tương giao của thơ Tượng trưng cùng với tính đa nghĩa của ngôn từ thơ, qua
bàn tay của Xuân Diệu, đã quyện vào nhau trong thi pháp “Giao thoa - cộng hưởng”.
Theo cái nhìn truyền thống, hai câu thơ vừa dẫn trên đây chỉ là một cặp đối ngẫu
rất quen. Song, xem kỹ, thì lạ. Lạ vì, có lẽ, âm nhạc đã xâm nhập vào thi ca.
Tiết nhịp là nét lạ trước nhất. Câu thơ thất ngôn bị cắt rời thành ba nhịp
thông thường.
Nhưng điều không thông thường là: mỗi nhịp vừa là một tiết của
câu lớn, vừa như một câu bé độc lập. Thủ pháp trùng điệp vào hùa với thủ pháp
ngắt nhịp đã vừa “băm nhỏ” vừa “xâu chuỗi” từng câu. Ba chủ từ câu trên đều là
“trăng”, ba chủ từ câu dưới đều là “đàn”, mỗi chủ từ đều điệp lại ba lần. Còn vị
từ của chúng (thương, nhớ, ngần, buồn, lặng, chậm) đều là các động thái/ cảm
xúc của trăng, của đàn (hay của người): Trăng thương/ trăng nhớ/ hỡi trăng ngần// Đàn buồn/ đàn lặng/ ôi đàn chậm. Tựa như một âm bổng (cao) chồng lên một
âm trầm (thấp) tạo thành một nốt chồng âm chơi theo lối hợp âm giống như trong
âm nhạc vậy. Và tất nhiên, ở đây, dạng hợp âm của nốt chồng âm ấy chỉ có thế là
ánh sáng (trăng) chồng hợp lên âm thanh (đàn). Câu trên và câu dưới cứ song
hành đối ứng như thế, diễn tả những cung bực và sắc thái cảm xúc như thế, có
khác nào sự song tấu giữa dây Vũ và dây Văn trên cây Nguyệt Cầm. Nó khiến ta thấy
ra, ở đây, thi sĩ đã dùng cả ngôn ngữ của âm nhạc để làm giàu thêm cho âm nhạc
của ngôn ngữ. Đồng thời cũng thấy một sự giao duyên thú vị giữa thơ Đường và
thơ Tượng trưng trong ngòi bút Xuân Diệu.
Hình thức giao thoa còn được lặp lại với những biến thức kì
thú của nó ở khổ ba. Ở đây, chủ yếu là sự giao thoa giữa trăng với đàn, âm
thanh với ánh sáng để diễn tả những cộng hưởng tinh vi trong cảm xúc:
Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời;
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận.
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận.
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…
Tôi muốn đề cập đến câu 3 và câu 4 của khổ này. Cả hai đều có
thể ngắt theo nhịp ắ. Hai câu là cặp đối, và mỗi câu cũng ngắt thành hai vế đối.
Hình thức đối ngẫu thường tạo ra hai vế biệt lập theo quan hệ đối xứng. Ở câu 3
này, đối ngẫu chỉ còn tương đối. Sự giao thoa về nghĩa đã làm cho hai vế đối ngẫu
tràn sang nhau. Hãy bắt đầu bằng hai vế lớn: long lanh tiếng sỏi/ vang vang hận.
Ta thấy rõ tính cộng hưởng: vế trước là hình ảnh ánh sáng (thị giác), vế sau là
âm thanh (thính giác). Sự tương xứng rõ nhất là ở hai từ láy Long lanh (ánh
sáng)/ vang vang (âm thanh).
Tuy nhiên, “tiếng sỏi” không chịu đứng yên ở vế bên này,
không chịu yên với các nghĩa đơn là tiếng sỏi long lanh và mối hận vang vang.
Nó đã ngầm giao kết với vế bên kia để phát sinh một nghĩa khác: “tiếng sỏi
(cũng) vang vang hận”. Tức là cả hai làn nghĩa đã sóng sánh giao thoa với nhau.
Ta cảm/ nghe tiếng sỏi va xiết đang long-lanh-sáng, đồng thời, đang vang vang
lên một mối hận nào đó giữa canh khuya. Nhìn sâu vào ngay trong một vế cũng thấy
lạ lùng: tiếng sỏi vốn trầm đục, đâu có trong trẻo mà có thể có một cảm giác
tương ứng của thị giác là “long lanh”. Phải chăng đó là những viên sỏi đọng
trăng trên lối khuya? Những viên sỏi long lanh nơi lòng bến Tầm Dương? Hay là
các nốt đàn cứ từng giọt rơi long lanh, tròn vo như dáng sỏi? Ta không thể nói
quyết được nó nghiêng về nghĩa nào. Trong âm nhạc của Nguyệt Cầm, nó cứ long
lanh một chất thơ như thế, khước từ mọi sự lý giải bằng lý tính của người đọc
thơ. Nhờ cách ấy, nó đã tạo ra cái linh lung kỳ ảo của ngôn từ. Đến câu thơ thứ
tư, tính đối ngẫu còn rõ hơn nữa. Hai vế vừa là sự song tấu: Văn - Vũ, vừa là sự
cộng hưởng: trăng nhớ (ánh sáng) và nhạc nhớ (âm thanh). Ấy là hai phía thị
giác và thính giác hợp nên từng âm giai Nguyệt Cầm. Tất cả cứ làm cho không
gian nhạc tràn ngập những linh lung.
4.3. Cộng hưởng trong thi ảnh
Trên đây, ta vừa lần theo dọc bài thơ để thấy sự chi phối của
thi pháp “Giao thoa - cộng hưởng” với các biến thức của nó trên bình diện tổ chức
vĩ mô của thi phẩm, mà những tín hiệu đầu tiên đã nhấp nháy ngay từ khổ thứ nhất.
Giờ, ta lại trở về khổ thứ nhất, để tìm kiếm điểm xuất phát của
một nét khác, cũng thuộc thi pháp này: cộng hưởng ngay trong một thi ảnh.
Để kết lại khổ đầu tiên, Xuân Diệu đã tái tạo hình ảnh mỗi âm
giai Nguyệt Cầm thực sự là một giọt đàn:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm,
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm,
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Khi dây Văn dây Vũ hòa với nhau, khi Đàn và Trăng hòa tấu
trong cùng một tiếng nói của Nguyệt Cầm, thì mỗi âm giai hiện hình thành một giọt.
Âm thanh vô thể, ánh trăng chỉ là ảo thể. Khi chúng hòa vào nhau, lại sinh ra
hình thể là giọt. Ở đây, giọt là sự kết tinh, sự tượng hình của âm thanh và ánh
sáng. Nói cách khác, giọt này ra đời bởi sự giao tình giữa ánh sáng và âm
thanh. Để có hình thể giọt, Xuân Diệu đã tái tạo bằng cách biến cái vô hình
thành hữu hình. Điều này chưa lạ, bởi chỉ đơn giản là chuyển thính giác qua thị
giác. Giọt vốn là hình thể lỏng, nhưng khi có thể “rơi tàn”, thì nó đã hóa thành giọt ánh sáng. Người ta có thể hình dung như giọt âm thanh cất mình rời
khỏi dây đàn bay liệng trong khoảng không, long lanh ánh sáng, rồi rơi dần, tàn
dần trong không gian. Vậy nên giọt đàn cũng là giọt trăng. Tuy nhiên, thi ảnh
thật sự thăng hoa là ở vế sau bằng một so sánh lạ: như lệ ngân.
Thì ra, hình thể giọt là sự đồng hiện của giọt đàn - giọt
trăng - giọt lệ. Nghĩa là một hình thể mà chứa nhiều hình ảnh. Đây chính là một
vẻ đẹp rất quan trọng của thơ Tượng trưng. Nhưng, sao lại giọt lệ? Mỗi thanh âm
tấu lên là một giọt lệ đàn ư? Không hẳn. Trong mối liên hệ kín đáo của thi tứ,
giọt lệ này đã ứa ra từ mối hận muôn đời của những kiếp cầm ca tài hoa bạc mệnh,
của những nàng Nương tử đã chết đêm rằm theo nước xanh, của mối hận sầu từ những
kiếp Tỳ Bà một thuở Tầm Dương. Lời đàn còn là sự lên tiếng của những mối hận
truyền đời ấy. Mặt khác, mối hận cũng đã ký thác vào hồn đàn, vào dây cung nguyệt
lạnh làm nên cái sinh mệnh, cái tính linh bí ẩn của Nguyệt Cầm. Vậy là tiếng
nói của cây Nguyệt Cầm được hợp thành bởi cả trăng - đàn - mối hận thầm. Trách
chi, tất cả cứ linh lung ma quái.
Đồng thời, trong bài thơ, ở mỗi khổ ta đều thấy hình ảnh nhạc
tuôn trào chan chứa không gian để cuối cùng thành một bể âm thanh, thành biển
pha lê Bốn bề ánh nhạc biển pha lê - Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề. Thì ra cái đại
dương sóng sánh ở cuối bài thơ đã được làm đầy từ muôn vàn giọt kia kế tiếp
tuôn rơi suốt từ đầu nguồn thi phẩm đó.
4.4. Giao thoa về nghĩa chữ
Cuối cùng, tôi muốn nói đến một khía cạnh khác của thi pháp ấy:
giao thoa nghĩa chữ. Đây hẳn là lối giao thoa cộng hưởng ở cấp tinh vi nhất của
kiến trúc thi ca. Hai kênh cảm giác của thi sĩ đã giao thoa ngay trong một từ. Ở
câu đầu, đó là từ “lệ ngân”. Tính đa nghĩa của ngôn từ thơ được dịp thăng hoa.
Chữ “ngân” là sự giao ứng giữa hai làn ngữ nghĩa. Vừa là danh từ với nghĩa là bạc - mỗi giọt đàn đọng trăng như một giọt lệ ánh bạc. Vừa là động từ với nghĩa là
ngân nga- mỗi giọt đàn là tiếng ngân nga của giọt lệ. Vậy, chữ “ngân” là hợp
thể có sự giao thoa của cả hai: ánh sáng và âm thanh.
Người đọc không thể hiểu theo cái lối chọn một trong hai nghĩa và loại bỏ nghĩa còn lại của nó. Mà, nghĩa đích thực của từ, ở ngữ cảnh này phải là sự tích hợp của cả hai bề ngữ nghĩa đó. Nói khác đi, là nó luôn chấp chới giữa hai làn nghĩa. Cũng có thể coi đó là sự giao động ngữ nghĩa trong ngôn từ. Ta sẽ còn thấy lại nét thi pháp này ở những đoạn dưới. Chẳng hạn các từ “linh lung”, “ánh nhạc”, “rợn”… Chúng đều là hợp thể với sự giao thoa của thị giác với thính giác hoặc xúc giác.
Người đọc không thể hiểu theo cái lối chọn một trong hai nghĩa và loại bỏ nghĩa còn lại của nó. Mà, nghĩa đích thực của từ, ở ngữ cảnh này phải là sự tích hợp của cả hai bề ngữ nghĩa đó. Nói khác đi, là nó luôn chấp chới giữa hai làn nghĩa. Cũng có thể coi đó là sự giao động ngữ nghĩa trong ngôn từ. Ta sẽ còn thấy lại nét thi pháp này ở những đoạn dưới. Chẳng hạn các từ “linh lung”, “ánh nhạc”, “rợn”… Chúng đều là hợp thể với sự giao thoa của thị giác với thính giác hoặc xúc giác.
Sự giao thoa này được Xuân Diệu sử dụng như một nét chủ công
trong thi pháp ở đây. Trong toàn bài Nguyệt Cầm ta còn gặp nhiều biến thức của
nó. Có cả giao động giữa chủ thể và đối tượng, cả giao động giữa chủ từ và trạng
từ:
– Linh lung bóng sáng bỗng rung mình
– Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người
– Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
– Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người
– Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Trong những câu trên đây, trước những trạng thái rung mình,
nhớ, làm thinh, nín thở có thể hiểu chủ thể là bóng sáng, là trăng, là nhạc, là
sương bạc, là khuya. Nhưng cũng có thể hiểu tất cả các trạng thái ấy đều thuộc
cùng một chủ thể duy nhất: cái tôi thi nhân. Mà cũng có thể hiểu chính cái tôi
của thi nhân đã tan mình trong nhạc, đã thành cái siêu tôi của thi nhân đã tan
mình trong nhạc, đã thành cái siêu tôi để đồng nhất, đồng thể với những tạo vật
hư hư thực thực đó! Làm sao mà rành mạch được!. Chỉ biết rằng, bằng cách ấy,
hình bóng cái tôi trở nên nhạt nhoà hư ảo, dường có lại dường không!
Rồi những đêm thủy tinh, biển pha lê, sầu âm nhạc… cũng đều
là sự linh lung ngữ nghĩa như vậy. Nói riêng ba chữ sầu âm nhạc, chẳng hạn. Là
sầu từ âm nhạc, hay sầu trong âm nhạc, sầu của âm nhạc, hay sầu bằng âm nhạc…?
Mỗi chữ vừa là sự hội hợp, chồng chất của các nét nghĩa vừa là sự giao thoa bất
tuyệt của các làn nghĩa ấy. Chính dạng thức giao động bất tận của các bề nghĩa,
các làn nghĩa như thế đã góp mình tạo nên cái linh lung đặc biệt của thế giới
Nguyệt Cầm.
Vậy là cái thế giới ánh nhạc kia vẫn không ngừng toả lan,
không ngừng giao ứng. Từng giọt đàn - từng giọt trăng - từng giọt lệ - từng gợn
sóng âm - từng làn sóng thuỷ tinh tê lạnh cứ từ Nguyệt Cầm lan xa mãi, xa mãi.
Và cuối cùng đã biến cả không gian và thời gian thành biển pha lê không bờ
không bến. Mỗi giọt đàn để lại một thoáng rợn mình, một chút giá băng lên toàn
thân ta, thấu vào tận hồn ta. Những cảm nhận hoàn toàn tinh thần của thị giác
và thính giác đã trộn vào nhau thật ma quái để gây thành một tác động xúc giác
rờn rợn nơi làn da. Những mong manh mơ hồ của cõi tinh thần đã biến thành cảm
giác tê ngời, buốt giá khắp toàn thân, toàn trí, toàn hồn ta.
Mỗi tiếng thơ vào đây đều theo lối thăng hoa, mỗi chữ, mỗi lời
cất lên từ tơ lòng thi sĩ đều tựa như mỗi âm giai cất mình khỏi dây tơ đàn linh
lung bay vào thế giới huyền diệu vô biên, vô lượng. Âm giai nào cũng là những
ánh nhạc rợn sáng, rợn mình. Hồn ta tự bao giờ cũng đã hoá thành một hòn cô đảo
run rẩy, trôi dạt trong âm nhạc vô biên cùng với mảnh hồn bé bỏng tan trôi của
thi sĩ: chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề - sương bạc làm thinh khuya nín thở - nghe
sầu âm nhạc tới sao Khuê. Chia tay với Nguyệt Cầm dường như các tế bào khắp
thân thể mình ta vẫn chưa thôi ớn lạnh, chưa hết rên thầm…
Chú thích:
(1) Xem nhiều tác giả - “Nhìn lại một cuộc cách mạng trong
thi ca” - NXB Giáo dục, 1993.
(2) Có thể nói, xét về một mặt nào đó, Nhị Hồ là một tiền đề,
thậm chí là một tiền thân của Nguyệt Cầm. Một chút so sánh sẽ giúp ta khu biệt
rõ hơn những nét riêng của Nguyệt Cầm. Là những bài thơ hay nhất về Nhạc của
Xuân Diệu, nhưng hai thi phẩm này được viết khá xa nhau: Nhị Hồ thuộc phần đầu
tập Thơ thơ (1938), còn Nguyệt Cầm lại mở đầu tập Gửi hương cho gió (1945). Mỗi
bài thơ là một trình độ chiếm lĩnh khác hẳn của tư duy thơ đối với cái cõi vô
hình, huyền hồ, hư thoảng của nhạc. Về độ dài, Nhị Hồ dàn ra tới 7 khổ thơ,
Nguyệt Cầm đúc vào 4 khổ. Về cơ cấu không gian, ở Nhị Hồ 3 khổ đầu dựng lên
không gian ngoài tiếng đàn (khung cảnh đêm nghe đàn), rồi mới dựng lên không
gian trong tiếng đàn ở 4 khổ sau - hai không gian này hoàn toàn tách rời. Trong
khi ở Nguyệt Cầm, không gian trong và ngoài tiếng đàn ngay từ đầu đã hoàn toàn
xâm nhập lẫn nhau, giao ứng với nhau, thực tại đi về cùng huyền diệu. Cái tôi
tác giả ở Nhị Hồ hiện ra thành một nhân vật trữ tình rành rẽ, lần lượt với hai
trạng thái: ban đầu tỉnh trong cõi thực để nghe nhạc (3 khổ đầu) về sau mộng
như một chàng Từ Thức cất mình bay vào “Thế giới của Du Dương” bên trong nhạc
(4 khổ sau), ở Nguyệt Cầm cái tôi ấy dường như đã tan ra trong nhạc, không còn
hình tài hoàn thể của nhân vật trữ tình, mà cuối cùng chỉ thấy một phần tử vi
mô và mong manh nhất của nó dưới dạng ẩn dụ là “Chiếc đảo hồn tôi…” trôi dạt,
phiêu tán trong đại dương âm thanh ánh bạc xô mãi tới vô biên. Như vậy, “Chiếc
đảo hồn tôi” đây như hạt bụi mỏng bơ vơ, lênh đênh trong cõi thiên hà. Tan mình
vào âm nhạc Nguyệt Cầm, cái tôi ấy chỉ còn lại những tiếng rên tê buốt trước những
tác động băng giá rợn người của tiếng đàn (Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!). Về
sắc điệu, lối trữ tình của Nhị Hồ còn dựa rất nhiều vào tự sự, kể lể, ở Nguyệt
Cầm, chất trữ tình ấy thăng hoa từ đầu đến cuối. Về kỹ thuật của vật liệu ngôn
từ, ngay ở những câu được xem là hay của Nhị Hồ, vẫn thấy nhạc tính của ngôn từ
được huy động lộ liễu (Sương nương theo trăng ngừng lưng trời - Tương tư nâng
lòng lên chơi vơi), nhạc tính của Nguyệt Cầm không bị lộ cơ theo lối ấy, trái lại
nó đã được chưng cất trong trực giác và xúc cảm để đạt đến độ tự nhiên nhuần
nhuyễn.
(3) Phan Huy Dũng đã có cảm nhận thú vị về khía cạnh vật liệu
và lối diễn tả lạnh của thi phẩm này. Xem tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số
2-1997.
(4) Chú ý, về sự biến hoá của trăng và không gian trăng, từ
câu mở đến hai câu này, có sự ngược chiều. Câu mở: Trăng nhập vào dây cung nguyệt
lạnh (1), hồn trăng từ trời xa sà xuống, nhập vào thế giới âm u bí mật của đàn;
đến câu này: Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần (2), trăng lại từ lòng
nguyệt cầm, từ dây tơ đàn bay lên, mở ra cái bát ngát của không gian trăng. Câu
1: trăng của trời; câu 2: trăng của nhạc. Câu 1: dần tối sẫm; câu 2: bừng
thoáng sáng. Đó là không gian bên ngoài hay bên trong tiếng đàn? Chúng ta không
chia tách được. Ngay từ đầu nó đã hoà lẫn vào nhau.
(Chu Văn Sơn - Theo Tạp chí thơ)
Cung Tiến - Giọt nước mắt hân hoan
(Giới thiệu NS Cung Tiến)
(Giới thiệu NS Cung Tiến)
Nguyệt Cầm - Danh ca Thái Thanh
Nguyệt Cầm - Ca sĩ Anh Ngọc
Nguyệt Cầm - Ca sĩ Khánh Ly
Nguyệt Cầm - Hòa tấu Saxophone, Clarinet, Guitar
Mời các bạn vào link dưới đây để thưởng thức thi khúc Nguyệt
Cầm do ca sĩ Trần Thái Hòa diễn xướng:
Túy Phượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét