Bản giao hưởng Gió mùa
43 bài thơ trong thi tập “Tôi cùng Gió mùa” của thi sĩ Nguyễn
Xuân Thiệp là một bản Giao Hưởng Thơ lộng gió, đẹp nao lòng nhan sắc mùa màng.
Gió Mùa - Gió, của sử lịch u trầm rạng rỡ tháng năm, Mùa, của đời-người bão
giông chớp tắt u hoài thân phận. 43 bài thơ, 43 tấu khúc, trôi và chảy, chảy và
trôi, êm đềm và dữ dội, sâu lắng và tuôn trào. Gió Mùa - Thi sĩ đã thọ mệnh và
mang theo trong suốt hành trình thơ với một tâm thế khiêm hạ, tĩnh tại và bi mẫn
ngay từ buổi thiếu thời:
Sáng nay tôi lắng bước mùa xưa
chim nhỏ năm nao đậu khóm dừa
sông chớm đôi bờ thu quạnh quẽ
đường dài, son đỏ quán lau thưa
nhà ai phơi áo ngoài hiên nắng
nắng tắt trưa qua lạnh bến chờ
cây ố sắc tường vương phủ ấy
trẻ nghèo nhặt lá ngói rơi hư
nghìn mùa sương khói dậy âm vang
lộp bộp hiên sau trái rụng vàng
bóng sậu kêu qua bờ mía dại
xa nhau mùa thu mưa trong trăng
em đi nhịp bước dạo đôi mùa
áo biếc chìm trong dáng núi xa
trống lẻ trường bên hờ hững điểm
hoàng thành vừa chợp giấc mơ trưa
thời đại xây trên lòng quá khứ
tiếng mùa hốt gió rắc ly tan
này em nhìn lại nương cày cũ
mặt đất khô se bặt tiếng đàn
(Nhịp Bước Mùa Thu 1954. Tr. 5-6)
Tấu khúc mở đầu, khoan thai trầm lắng, nhìn và nghe theo nhịp bước mùa thu, tâm tình hoài niệm nhẹ nhàng sâu lắng, “… nghìn mùa sương khói dậy âm vang/ lộp bộp hiên sau trái rụng vàng…” Kín đáo mà tha thiết, để rồi buông một tiếng thở dài, “thời đại xây trên lòng quá khứ/ tiếng mùa hốt gió rắc ly tan/ này em nhìn lại nương cày cũ/ mặt đất. khô se bặt tiếng đàn”. Bặt tiếng đàn Nghĩa là không còn nghe được nữa, nhưng tiếng đàn vẫn còn ngân vang rất sâu rất xa trong tâm thức. Có chút dư vang gì đấy của thi ca Tiền Chiến? Không hề gì, “xa nhau. mùa thu. mưa trong trăng,” câu thơ lung linh sáng, đẹp và lạ. Tôi ước chừng, bài thơ đã được thi sĩ viết ở độ tuổi anh niên (15 - 17 tuổi?. Nếu căn cứ vào thời điểm sáng tác, 1954.) Tinh hoa đã sớm phát tiết. Độ chín của ngôn từ, ý tứ, thi pháp đã sớm hiển lộ. Theo suy nghiệm của người xưa, Mệnh - Nghiệp của người thơ Nguyễn Xuân Thiệp đã được (hay bị) buộc vào rồi! Một giọng thơ rất riêng. Một phẩm cách thi sĩ rất riêng.
Hai năm sau (1956) vẫn giọng thơ khoan thai trầm lắng, nhưng đã nhuốm màu ưu tư, khắc khoải hơn:
“… Em bảo mùa xuân lạnh
dù hoa sơn khê nhiều
dù ven rừng cô quạnh
đã vang tiếng chim kêu
nhưng bên kia đất nước
một mùa xuân tiêu điều
cúc e dè ngại nở
bếp nghèo lửa biếng reo…”
(Trong Quán Nhìn Ra Hoa Nở Trắng. 1956. Tr. 8.)
Ngôn ngữ thơ dung dị, âm vang sắc màu vẫn còn nét đẹp cổ điển, nhưng chất suy tưởng nhạy cảm của một tâm hồn nhân hậu đã chạm tới trái tim người đọc. Tố chất ấy, sáu năm sau (1962,) khoan thai trầm lắng hơn, nhưng mạnh dạn phá cách, buông bắt ý tứ mới lạ:
“… Tôi nhãn chín nhớ chim mùa cũ
tôi đường dài nhớ những hạt mưa thưa
tôi bông sứ nhớ nắng hương vàng lụa
tôi trưa hè ai tiếng võng đưa”
(Nhãn Chín Nhớ Chim Mùa Cũ. Tr. 12)
Thi sĩ đã cùng Gió Mùa đi qua năm tháng, đi qua sử lịch theo thể điệu “phong hành, lôi động” (gió đi, sấm động - kinh Dịch) theo “nhịp hải hà” (chữ của Nguyễn Xuân Sanh) của thuở anh niên không còn nữa (Tôi bước lên đường kêu gọi mãi/ Nhớ người bạn cũ thuở anh niên - Xuân Diệu) Những dự cảm của buổi đầu đời “tiếng mùa hốt gió rắc ly tan” đã hiện tiền mười năm sau đó (1972) khi cuộc chiến huynh đệ tương tàn đã đến đỉnh điểm của tang thương khốc liệt trên quê hương, cho dẫu “trong vườn tôi hoa phù dung đã nở/ ngày rất hồng và chim hót rất xanh”, (…,) “vườn quên lãng đã phục hồi trí nhớ” (Trong Vườn Tôi Hoa Phù Dung Đã Nở, 1972, tr. 13,) chỉ là những giây phút yên bình rất ngắn ngủi, mong manh, để rồi, thi sĩ phải thốt lên lời cảm thán:
“… Hỡi anh em. bạn bè
mắt chúng ta. đục ngầu cát bụi
kìa trái đời đã chín trên cây
rồi rụng
thế giới chúng ta bây giờ
của diều và quạ
bay trên những xác người
anh tìm gì trong bóng tối
anh tìm gì trên những giòng cổ ngữ
trên bia đá nghìn thu
hiền giả đã quyên sinh…”
(Tôi Muốn Yêu Tôi Muốn Tin Cuộc Đời. 1973. Tr.21.)
Tháng 3/1973, hợp âm ưu uất, cất lên trong “cơn sốt của trái chín và cánh đồng”, trong trận gió hung, trong bóng quạ,trong tiếng thét hư không… Cuộc chiến khốc liệt đã cướp mất những giấc mơ và hoài vọng của tuổi trẻ, để chỉ còn:
“… Tháng ba rực trời nắng gió
bụi bay hợp âm qua hàng thông
em đốt đời em trên sắc lá
lãng quên ngọn lửa dưới chân tường
tháng ba chân trời chớp tía
những chuyến xe lên đường cơn mưa chợt đến
rào qua mái nhà bàng hoàng mưa ngưng bật
đêm. những căn nhà gỗ sáng đèn
tháng ba trên đồi vông nở
anh trở về thị trấn tháng ba
những sợi dây trời cắt đau trí nhớ
cườm tay em rỏ máu hè xưa
(…)
Tháng ba em những căn nhà gỗ
ánh đèn khuya vệt máu hè xưa
đừng tiếc chiếc khăn tay ngày ấy
sẽ bay trong lửa hoàng hôn
tháng ba cơn giông rền mặt đất”
(Pleiku Tháng 3/1974. Tr. 30-32)
Những hợp âm của nắng gió, bụi bay, ngọn lửa, những chuyến xe, những cơn mưa, những căn nhà gỗ sáng đèn, đồi vông, thị trấn, những sợi dây trời, những vệt máu hè xưa… Những hợp âm của nỗi niềm chua xót, ngậm ngùi… “cườm tay em rỏ máu hè xưa” (…) “tháng ba cơn giông rền mặt đất” - “tháng ba cọp chạy người xa người/ em mang hồn hoa sứ/ ngủ ngàn năm đất xưa” (Nha Trang. Tháng 3/1975. Tr.34) Những hợp âm cũng là những linh cảm của Thơ, ngân dài, rung lên những hợp âm khác trong bài thơ tự do “Tôi Cùng Gió Mùa” (1974,) với nhịp chảy trôi gập ghềnh, khắc khoải, như dự báo những hiểm nguy, bất hạnh phía trước:
“… Hỡi gió mùa
đã cùng ta gặp lại
nhớ không
lần đầu tiên chia tay cùng người
mà lịch sử đã có dư nghìn tuổi
mà hôm nay ta lại gặp ta
người lại gặp người
trong nỗi bàng hoàng
trong cơn sốt vỡ da
hỡi gió mùa
đã thổi từ cội nguồn xa tới cửa hiện thời
thổi qua những rặng núi những dòng sông
những xóm làng thành phố
quê hương tôi
đã đến đây chiều nay gặp lại
trong ký ức âm u của đời tôi
đã có những cơn gió mùa chợt dậy
đã có cơn gió mùa thổi qua thành quách cũ
thấp thoáng bóng ngọn cờ
đã có cơn gió mùa thổi qua hàng hàng bia mộ
những mặt người thiên thu…”
(Tôi Cùng Gió Mùa. Tr. 39-40.)
“Ánh Trăng” (tr. 88-106) bài thơ viết năm 1980, trong thời điểm thi sĩ là “người tù cải tạo”, đã cho tôi một cảm xúc dâng trào, thán phục và ngưỡng mộ. Ban đầu, khi đọc lướt qua bài thơ, trong trí tôi hiện lên một bản sonate, theo kiểu Sonate Ánh Trăng (Moonlight Sonate) của Ludwig van Beethoven, nhưng thông thường thì một bản sonate chỉ có 3 phần chính, phần nhiều viết cho piano.“Ánh Trăng” của thi sĩ có 6 tiểu khúc, dài trên 260 câu (dài nhất trong thi tập,) sử dụng cấu trúc 7 chữ theo kiểu những bài hành thường thấy trong thơ Việt. Có thể gọi, đây là một tiểu trường ca.
“Ánh Trăng” bàng bạc chất lãng mạn và bi tráng, những nhịp hành ca thấm đẫm phong vị Đông phương: Hành ca của người thọ nhận điêu linh khổ nạn, hòa quyện với sắc màu huyền ảo của ánh trăng trải rộng như muốn ôm hết dâu bể muôn trùng, tạo nên những tiết tấu, cung bậc khắc khoải u hoài của sử lịch và thời đại, của quê hương và dân tộc.
Tiểu khúc dạo đầu của “Ánh Trăng,” người đọc bị cuốn hút ngay bằng những nhịp điệu phiêu bồng, gợi cảm:
“Chiều xanh rơi một câu thơ cổ
màu ráng trời thoảng nét hoàng hoa
bông sậy lao xao lời trẻ dại
gọi ai còn lãng đãng bờ xa…”
Và rồi, tha thiết mời gọi:
“… Những ai trót sẩy đàn tan nghé
hãy đứng trông trăng sáng lại đời
những kẻ mù sâu đôi mắt tối
những hồn mê sảng lạc đôi nơi
trông trăng thấy bóng đèn hoa nở
soi áng gương xưa mặt rạng ngời
bằng hữu đem thân vùi cát bụi
tiếng tù và động giấc bi ai
này nghe nếp áo sông thu vỗ
hồn ơi hồn nhập khúc trăng trôi…”
Ánh trăng huyền hoặc, vi diệu, cảm thông, cảm ứng với kiếp người, phận người, “trông trăng thấy bóng đèn hoa nở/ soi áng gương xưa mặt rạng ngời”. Phải chăng, cái đẹp của ánh trăng đã giúp cho thi sĩ nhẹ lòng, thanh thản trong chốn lao tù, tự tại lắng nghe mình, lắng nghe đời giữa thời buổi điêu linh thống khổ? Nhẹ lòng, nhưng Thơ vẫn vang lên tiếng nấc kêu thương, “này nghe nếp áo sông thu vỗ/ hồn ơi hồn nhập khúc trăng trôi…” Đây không phải là niềm đau cho riêng mình, mà là niềm đau cho tang thương ngẫu lục của sử lịch. Tiểu khúc 2, hồi tưởng về ánh trăng quá khứ, gắn với đời mình “vầng trăng đứng cuối đường ray gió/ những toa tàu qua khuất lau thưa/ thức trong cây. trái tim sầu úa/ như trăng người của thuở không nhà”. Để từ đó, suy nghiệm về cơn cuộc bể dâu. Những câu hỏi trong Thơ, hờ hững lời đáp. Câu hỏi cũng là lời đáp không thành tiếng. Người đọc hẵn sẽ tự hiểu và cảm thông:
“… Giữa cuộc bạo hành cơn sốt dữ
nỗi đau này cháy vỡ thịt da
thử ngẩng nhìn trăng đêm phán xét
ai công ai tội dưới trời khuya
ai xô trăm họ vào gai gốc
ai hái dâng đời một đóa hoa
hãy xét trong cơn đau lịch sử
nỗi đau nào đau của riêng ta
áo quan chưa đóng thời chưa chết
có kẻ cùng ta thức đợi chờ…”
Tiểu khúc 3, từ thực đến mộng, “Ta nghe nước khỏa bờ lau dại/ có một vầng trăng đi trong mưa/ có một vầng trăng hư mọc muộn/ tóc ai còn vướng cánh đồng mua…” Cơn cuộc mộng mị lại quay về thực tại đau xót đến nao lòng:
“… Đêm tù bạn đọc thơ đầu núi
tưởng chim rừng động ánh trăng xưa
gió mùa thổi lộng trên miền bắc
trăng rét căm căm vệt sáng mờ
ta thấy vầng trăng quầng khóe mắt
chiêm khê mùa thối cánh đồng thưa
trăng nghiêng xuống xóm làng dịch tể
qua gò trâu giọng gió ru hờ
vầng trăng nào đứng trên đầu dốc
dậy tiếng tù đóng ván giữa khuya…”
Tiểu khúc 4, lại quay về hồi tưởng để thấu tỏ hơn những cơn đau của sử lịch, của thời đại, của dân tộc. Thấu tỏ cơn đau để mong tự mình làm dịu cơn đau bản thân trong chốn lao tù?:
“… Ta nghe cuộc chuyển dời im lặng
những thời phủ rêu trong sử thi
bỗng dậy bàng hoàng cơn sốt biếc
ta nghe gió rỉ siết qua mùa
ta nghe sấm dậy rền trong đất
những cuộc tương tranh máu lệ nhòa
thấy động ngựa xe tầng khói phủ
những đoàn quân hạ trại trong mưa…”
Tiểu khúc 5, réo rắc những âm, màu đẹp, trải dài nỗi niềm tin yêu cõi người và cõi đời. Tuy mang dấu ấn cổ điển trong cấu trúc, ngôn từ, nhưng vẫn toát lên nhịp đập của thời đại một cách khoáng đạt. Đây là khổ thơ sâu lắng, cô đọng nhất trong bản tiểu trường ca. Thi ảnh lấp lánh ánh trăng, biển trời, lệ, tóc, sương, khói, lửa, thép, tro, than… quyện với nụ hôn nồng nàn trong giấc mơ một ngày sum họp, đoàn viên… Nhạc trong Thơ như tiếng dương cầm réo rắt trong ánh trăng bảng lảng, bàng bạc, mênh mông, đẹp một cách bi thiết, nồng nàn. Dù có thể ảnh hưởng đến độ dài của bài viết, nhưng tôi vẫn trân trọng giới thiệu để bạn đọc thưởng lãm nguyên văn tiểu khúc nầy:
“Trăng cẩm thạch biển trời chợt hiện
mây lìa đàn bay đi mây trôi
hạo ca biển rạng ngời tan hợp
trăng bỏ neo thôi hải phận người
ta thấy giữa triều mây xao động
lệ ngân hà tóc rũ sô gai
chia ly màu xám sương và khói
lửa thép tro than những tiếng còi
ta thấy tàu đi những đóm tía
chiếc hôn nồng và lệ đọng môi
ngày vui sum họp như hoa nến
chia cách dài hơn gió chiến thời
cái chết im như niềm vắng mặt
trước sân con trẻ vẫn đùa chơi
ngày reo trong khóm tường vi nở
nghe thoảng đêm về cánh nhẹ rơi
ta thấy ôi mây trời ảo biến
dưới trăng lấp lánh bãi hằng sa
đất ơi nỗi lầm than muôn kiếp
nhân loại đi như những bóng mờ
nhân loại yêu đời trong cõi chết
vượt biên thùy sa mù và mưa
từng nơi đi dưới triền hoe nắng
gùi nặng mang theo cả lợn gà
riêng lão già điên còn ở lại
đêm đêm ra nhìn dòng sông. ca” Hình ảnh của 2 câu thơ cuối, “riêng lão già điên còn ở lại/ đêm đêm ra nhìn dòng sông ca”, tôi đọc chậm lại và lạnh buốt tâm hồn. Phía sau 2 câu thơ là điều gì đây? Hỡi thi sĩ?!
Tiểu khúc 6, tiết tấu trầm lắng, chậm rãi buông xuống ánh sáng dịu nhẹ của đêm trăng, “trăng khuya vằng vặc soi tâm thức/ đêm tịnh trời trong gió lắng sâu/ mây từng cụm nhỏ trôi trôi khuất/ lũ vịt trời ô trăm ánh sao…” Ánh trăng vẫn còn đó, cảm thông, cảm ứng với người. Người tri ân ánh trăng vì “trăng nguyệt cầm ơi. ngọc mới đông”, “trong khuya. nghe một bông quỳnh nở/ phiến lá ngời vàng óng búp trăng”, “dưới trăng những mảnh đời han rỉ/ sáng lại ô hoa đã rộ cành”. Hai khổ thơ cuối cùng, ánh trăng, hồn người cùng sáng lên niềm hỷ lạc, bi mẫn, độ lượng của từ tâm:
“Mai sau ôi những mùa đang tới
khép mi trong một chút hương trà
lòng ta một ánh trăng trong suốt
trên những nẻo đường nhân loại qua
bên bữa ăn xanh người đạo sĩ
những buồn vui của khắp mọi nhà
trăng khuất nhưng mùa sau lại mọc
loài người ơi nghe tiếng võng đưa
lên cao thấy một vừng trăng ngọc
xuống thấp còn trong giấc ngủ mơ
soi bóng thời gian hồ nước tịnh
đông phương này đêm ủ mật hoa.”
Với tôi, đây là một trường ca rất hay, rất đẹp, rất bi tráng, rạng ngời chất nhân văn. Tôi khâm phục và ngưỡng mộ về cái tâm thế nhân hậu, trầm tĩnh đến lạ thường của thi sĩ khi viết lên những giòng thơ nầy, giữa lúc bản thân đang phải chịu cảnh lao tù, thọ nhận bi kịch điêu linh nhất của phận người. Với tôi, làm thơ cũng chính là tu thơ, cam go thử thách bội phần, nhất là trong hoàn cảnh thi sĩ phải chịu cảnh đọa đày cả về thân xác lẫn tâm hồn. Tâm thế của người làm thơ như thế nào thì Thơ cũng như thế ấy! Thơ ngắn, thơ dài, thể loại, trường phái, cấu trúc, ngôn ngữ trong thơ kiểu gì thì kiểu, cách gì thì cách, đều đòi hỏi người làm thơ phải biết hàm dưỡng nội lực, khí chất, tâm thế, trí tuệ. Chính Thơ đã giúp cho thi sĩ có đủ sức mạnh tâm linh, cộng với lòng nhân hậu vốn có, vượt lên nghịch cảnh, vượt lên những trớ trêu, khắc nghiệt trong cảnh lao tù. Dẫu đôi lần thi sĩ có cất lên lời oán thán (“Trà Oán” viết năm 1980. Tr. 108-11, “Bài Oán Thi. Đêm Phương Nam,” viết năm 1982. Tr. 124-127) nhưng tuyệt không nuôi thù, chuốt hận. Tâm hồn thi sĩ đã bật lên những dòng thơ rất Thơ, giúp cho thi sĩ sáng thêm bản tâm vô úy, vô ngại. Một tâm hồn thơ Đông phương hiếm hoi, rất đáng trân trọng. Vì vậy, tôi nghĩ, “Ánh Trăng” là một trong những trường ca có vị trí rất xứng đáng trong thi ca Việt Nam thời cận đại.
“Như Một Lời Chia Tay,” bài thơ viết vào tháng 5/1995, từ biệt quê nhà, đành lòng rời xa đất mẹ dấu yêu, “tôi gửi lại/ con hẻm mùa đông/ gầy yếu/ tiếng rao hàng vào giấc ngủ khuya/ những khuôn mặt bạn bè với nhiều nét gãy/ cuộc đời sướng khổ nhọc nhằn” (tr. 152) ngậm ngùi nhưng chẳng biết nói gì hơn, chỉ biết mang theo những hồi ức và kỷ niệm của một quãng đời đầy thơ mộng, trắc ẩn và bi thương nơi xứ lạ quê người.
“Con Chim Màu Đỏ,” bài thơ viết vào những ngày đầu tiên trên xứ sở Hoa Kỳ, Del City, 1995, đầy sức biểu cảm, lắng đọng nhưng da diết nỗi nhớ quê nhà, “kìa mùa hè/ và chim/ ôi màu đỏ/ đâu đâu miền đất xa nơi gió mùa và mây trắng/ cơn bão thổi xơ xác mái tranh nghèo/ nơi tôi từ đó ra đi/ trốn chạy một tai ương/ tìm trời nắng rộng (…) “gió trời/ đã thổi/ chim hãy bay đi/ và mang về cho ta từ miền đất khổ một cọng rơm màu vàng/ để ta thấy lại mùa gặt nơi quê nhà/ mùi đất/ và cỏ/ ngọn lửa giờ này đang cháy âm u trong thôn lau lách…” (tr. 155-156) Những trận Gió Mùa vẫn tiếp tục thổi trong thơ Nguyễn Xuân Thiệp nơi đất lạ. Giữa buổi trưa vàng nắng, nhớ bạn nơi quê nhà, hình như những trận Gió Mùa vẫn mang theo niềm hiu hắt, se lạnh, “ở đây trưa vàng nắng/ hồn mơ một tiếng gà/ tưởng tới màu hoa cúc/ đỗ phủ còn lệ sa/ nghỉ những điều không được/ núi mờ kinh nam hoa/ quạ kêu khung trời vắng/ ôi mùa xuân đã xa” (Trưa Nắng Vàng Làm Thơ Nhớ Bạn San Diego, 1996 Tr. 158.) Ngắm khung cảnh xứ người, mà vẫn đau đáu niềm hoài hương, “này những thị trấn thơ/ những mái nhà góc phố/ chiều nay/ ta mang tặng người hồn viễn xứ/ nắng Việt Nam từ bờ xa/ ta đi/ mang theo màu nắng quê nhà/ để không quên/ một góc bến tàu vỉa hè xưa/ mùa này rụng đầy những bông sứ máu/ và hồn ta. ôi hồn ta/ đã gửi hương lưu vàng phố. đi qua…” (Đi Trong Sương Mù Cựu Kim Sơn, 1996, tr. 160) Giữa những buổi chiều một mình hồi ức, hồi tưởng, vẫn chưa phai những ký ức chiều nơi chốn xa, ray rức, bồi hồi, “những chiều nào chiến tranh Việt Nam xa/ tôi đi trên đường biên giới/ thấy trước mặt mình chập chùng rào cản/ mờ mờ những ngọn cờ ma/ bên kia một khu rừng bên kia một cánh đồng/ những ngọn cờ chia lòng người ra từng cõi/ và che khuất những chân trời…” (Những Buổi Chiều Qua Trong Đời Tôi. 1996. Tr. 65-66.) Ngay cả khi mùa thu đến nơi đất lạ, hốt lá trong vườn nhà, nỗi ám ảnh của mùa thu xa vẫn réo rắt âm vang, “khi ta đi mùa thu chưa lại/ phượng tàn đèn thắp phố mưa/ ngói âm dương rợn cười khuya khoắt/ tường vi ơi thuở đợi ai về/ cây rộ kêu một ngày nắng chết/ lá rơi lá rơi bàn tay phủ đầy/ thời gian rã phù dung hương tóc/ phố xưa xa lòng mây trắng bay” (Thu Sang Hốt Lá Trong Vườn 1996 Tr. 170) Và tháng Tư oan khốc, oan khiên, bi thống, bi thương, bi kịch của sử lịch, của quê hương một thời, “khi nước mất. nhà tan. bạn bè xiêu tán/ thập loại chúng sinh. mờ đồng rừng/ hãy diệt. hãy quên. và bắt đầu lại/ này cây redbud/ này chim tháng tư/ tôi phục sinh. từ một thân cây mục” (Cây Redbud Và Chim Tháng Tư 1997. Tr. 172.) Đó cũng là lời cảm tạ của thi sĩ với đất lạ, và chắc chắn, tôi nghĩ, với Thơ nữa! “hãy nói với quê nhà/ hoa quỳ đã bắt đầu nở lại. trên vùng tuyết tan” (Trên Vùng Tuyết Tan 1997. Tr. 175.)
Cuối thi tập, “Hoa Bluebonnet Và Nắng Thơ Tôi” (tr. 182-183,) với 2 bài thơ, “Bài Đinh Cường,” viết cho người bạn thân của thi sĩ, vào đông 1997 và “Bài Mai Thảo,” viết để tưởng niệm một nhà văn đã từ trần (10.01.1998,) dậy lên trong tôi một niềm rung cảm sâu xa về tình bạn, đúng hơn là tri âm tri kỷ trong cõi văn chương nghệ thuật, “bạn đến tôi rót rượu lên trời/ có nắng vàng màu nắng thơ tôi” (Bài Đinh Cường) - về mối cảm hoài đối với “mệnh” của những người đồng điệu trong cõi văn chương nghệ thuật, “ca sĩ sao người dứt tiếng ca/ bãi cát sông hằng. cơn sóng tuyệt/ hoàng hôn hoàng hôn áo nghĩa thư/ hốt nhiên đốm lửa từ sinh diệt/ cháy tàn đông mùa tuyết sắp qua/ thì cho cụm hoa bluebonnet/ nở lại trong màu nắng của thơ/ sao không cũng là trang tuyệt bút/ một nghìn trang có lẻ một tờ” (Bài Mai Thảo) Nhà văn Mai Thảo, tác giả của “Đêm Giã Từ Hà Nội” và rất nhiều đoản thiên, truyện dài khác; cũng là tác giả thi tập “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền” (Văn Khoa, California, 1989,) thi tập duy nhất của nhà văn, nhưng với tôi, đây là thi tập lừng lững chói chang thi tính của Mai Thảo thi sĩ. Thi tập “Tôi Cùng Gió Mùa,” một chặng đường khá dài của đời thơ Nguyễn Xuân Thiệp. Khi tôi ngồi gõ phím những dòng chữ nầy, bài thơ “Nhịp Bước Mùa Thu” của thi sĩ đã vừa tròn 60 năm tuổi, nhưng bài thơ dường như vừa mới ráo mực ngày hôm qua, vẫn tươi rói âm vang và sắc màu, vẫn dội vào tâm thức tôi niềm rung động khôn tả. 43 bài thơ, trải dài trên 44 năm nước chảy qua cầu (tính từ bài thơ đầu tiên, viết năm 1954 đến bài thơ cuối cùng viết năm 1998, trong thi tập,) cho thấy, thi tập, với số lượng thơ rất chắt lọc, cẩn trọng, nhưng vẫn cho người đọc cảm nhận được một nội lực thơ có sức hàm dưỡng sung mãn, thâm hậu. Bản giao hưởng thơ “Tôi Cùng Gió Mùa” chắc chắn sẽ còn vang vọng sâu xa trong tâm hồn người đọc, trong dặm dài năm tháng mai sau. Giờ đây, thi sĩ đã bước qua quá nửa của tuổi thất thập, nhưng vẫn còn đang tiếp tục miệt mài với thơ và những dòng tạp bút một cách bền bỉ, tràn đầy cảm hứng sáng tạo. Tôi hình dung, thi sĩ vẫn ngồi đó, một mình một bóng tâm tình với đêm tận, với hồn chữ, hồn người và hồn dâu bể thiên thu. Và tôi, sau 16 năm thi tập ra đời, nay mới có duyên để được lắng lòng thưởng thức. Có chăng, một niềm đồng thanh tương ứng từ phương trời xa của cố hương, nơi chúng ta cùng hoài niệm? Và tôi tin, rất tin, rằng Thơ, đã, đang và sẽ mãi cứu chuộc chúng ta! Phải không thi sĩ?!.
Sáng nay tôi lắng bước mùa xưa
chim nhỏ năm nao đậu khóm dừa
sông chớm đôi bờ thu quạnh quẽ
đường dài, son đỏ quán lau thưa
nhà ai phơi áo ngoài hiên nắng
nắng tắt trưa qua lạnh bến chờ
cây ố sắc tường vương phủ ấy
trẻ nghèo nhặt lá ngói rơi hư
nghìn mùa sương khói dậy âm vang
lộp bộp hiên sau trái rụng vàng
bóng sậu kêu qua bờ mía dại
xa nhau mùa thu mưa trong trăng
em đi nhịp bước dạo đôi mùa
áo biếc chìm trong dáng núi xa
trống lẻ trường bên hờ hững điểm
hoàng thành vừa chợp giấc mơ trưa
thời đại xây trên lòng quá khứ
tiếng mùa hốt gió rắc ly tan
này em nhìn lại nương cày cũ
mặt đất khô se bặt tiếng đàn
(Nhịp Bước Mùa Thu 1954. Tr. 5-6)
Tấu khúc mở đầu, khoan thai trầm lắng, nhìn và nghe theo nhịp bước mùa thu, tâm tình hoài niệm nhẹ nhàng sâu lắng, “… nghìn mùa sương khói dậy âm vang/ lộp bộp hiên sau trái rụng vàng…” Kín đáo mà tha thiết, để rồi buông một tiếng thở dài, “thời đại xây trên lòng quá khứ/ tiếng mùa hốt gió rắc ly tan/ này em nhìn lại nương cày cũ/ mặt đất. khô se bặt tiếng đàn”. Bặt tiếng đàn Nghĩa là không còn nghe được nữa, nhưng tiếng đàn vẫn còn ngân vang rất sâu rất xa trong tâm thức. Có chút dư vang gì đấy của thi ca Tiền Chiến? Không hề gì, “xa nhau. mùa thu. mưa trong trăng,” câu thơ lung linh sáng, đẹp và lạ. Tôi ước chừng, bài thơ đã được thi sĩ viết ở độ tuổi anh niên (15 - 17 tuổi?. Nếu căn cứ vào thời điểm sáng tác, 1954.) Tinh hoa đã sớm phát tiết. Độ chín của ngôn từ, ý tứ, thi pháp đã sớm hiển lộ. Theo suy nghiệm của người xưa, Mệnh - Nghiệp của người thơ Nguyễn Xuân Thiệp đã được (hay bị) buộc vào rồi! Một giọng thơ rất riêng. Một phẩm cách thi sĩ rất riêng.
Hai năm sau (1956) vẫn giọng thơ khoan thai trầm lắng, nhưng đã nhuốm màu ưu tư, khắc khoải hơn:
“… Em bảo mùa xuân lạnh
dù hoa sơn khê nhiều
dù ven rừng cô quạnh
đã vang tiếng chim kêu
nhưng bên kia đất nước
một mùa xuân tiêu điều
cúc e dè ngại nở
bếp nghèo lửa biếng reo…”
(Trong Quán Nhìn Ra Hoa Nở Trắng. 1956. Tr. 8.)
Ngôn ngữ thơ dung dị, âm vang sắc màu vẫn còn nét đẹp cổ điển, nhưng chất suy tưởng nhạy cảm của một tâm hồn nhân hậu đã chạm tới trái tim người đọc. Tố chất ấy, sáu năm sau (1962,) khoan thai trầm lắng hơn, nhưng mạnh dạn phá cách, buông bắt ý tứ mới lạ:
“… Tôi nhãn chín nhớ chim mùa cũ
tôi đường dài nhớ những hạt mưa thưa
tôi bông sứ nhớ nắng hương vàng lụa
tôi trưa hè ai tiếng võng đưa”
(Nhãn Chín Nhớ Chim Mùa Cũ. Tr. 12)
Thi sĩ đã cùng Gió Mùa đi qua năm tháng, đi qua sử lịch theo thể điệu “phong hành, lôi động” (gió đi, sấm động - kinh Dịch) theo “nhịp hải hà” (chữ của Nguyễn Xuân Sanh) của thuở anh niên không còn nữa (Tôi bước lên đường kêu gọi mãi/ Nhớ người bạn cũ thuở anh niên - Xuân Diệu) Những dự cảm của buổi đầu đời “tiếng mùa hốt gió rắc ly tan” đã hiện tiền mười năm sau đó (1972) khi cuộc chiến huynh đệ tương tàn đã đến đỉnh điểm của tang thương khốc liệt trên quê hương, cho dẫu “trong vườn tôi hoa phù dung đã nở/ ngày rất hồng và chim hót rất xanh”, (…,) “vườn quên lãng đã phục hồi trí nhớ” (Trong Vườn Tôi Hoa Phù Dung Đã Nở, 1972, tr. 13,) chỉ là những giây phút yên bình rất ngắn ngủi, mong manh, để rồi, thi sĩ phải thốt lên lời cảm thán:
“… Hỡi anh em. bạn bè
mắt chúng ta. đục ngầu cát bụi
kìa trái đời đã chín trên cây
rồi rụng
thế giới chúng ta bây giờ
của diều và quạ
bay trên những xác người
anh tìm gì trong bóng tối
anh tìm gì trên những giòng cổ ngữ
trên bia đá nghìn thu
hiền giả đã quyên sinh…”
(Tôi Muốn Yêu Tôi Muốn Tin Cuộc Đời. 1973. Tr.21.)
Tháng 3/1973, hợp âm ưu uất, cất lên trong “cơn sốt của trái chín và cánh đồng”, trong trận gió hung, trong bóng quạ,trong tiếng thét hư không… Cuộc chiến khốc liệt đã cướp mất những giấc mơ và hoài vọng của tuổi trẻ, để chỉ còn:
“… Tháng ba rực trời nắng gió
bụi bay hợp âm qua hàng thông
em đốt đời em trên sắc lá
lãng quên ngọn lửa dưới chân tường
tháng ba chân trời chớp tía
những chuyến xe lên đường cơn mưa chợt đến
rào qua mái nhà bàng hoàng mưa ngưng bật
đêm. những căn nhà gỗ sáng đèn
tháng ba trên đồi vông nở
anh trở về thị trấn tháng ba
những sợi dây trời cắt đau trí nhớ
cườm tay em rỏ máu hè xưa
(…)
Tháng ba em những căn nhà gỗ
ánh đèn khuya vệt máu hè xưa
đừng tiếc chiếc khăn tay ngày ấy
sẽ bay trong lửa hoàng hôn
tháng ba cơn giông rền mặt đất”
(Pleiku Tháng 3/1974. Tr. 30-32)
Những hợp âm của nắng gió, bụi bay, ngọn lửa, những chuyến xe, những cơn mưa, những căn nhà gỗ sáng đèn, đồi vông, thị trấn, những sợi dây trời, những vệt máu hè xưa… Những hợp âm của nỗi niềm chua xót, ngậm ngùi… “cườm tay em rỏ máu hè xưa” (…) “tháng ba cơn giông rền mặt đất” - “tháng ba cọp chạy người xa người/ em mang hồn hoa sứ/ ngủ ngàn năm đất xưa” (Nha Trang. Tháng 3/1975. Tr.34) Những hợp âm cũng là những linh cảm của Thơ, ngân dài, rung lên những hợp âm khác trong bài thơ tự do “Tôi Cùng Gió Mùa” (1974,) với nhịp chảy trôi gập ghềnh, khắc khoải, như dự báo những hiểm nguy, bất hạnh phía trước:
“… Hỡi gió mùa
đã cùng ta gặp lại
nhớ không
lần đầu tiên chia tay cùng người
mà lịch sử đã có dư nghìn tuổi
mà hôm nay ta lại gặp ta
người lại gặp người
trong nỗi bàng hoàng
trong cơn sốt vỡ da
hỡi gió mùa
đã thổi từ cội nguồn xa tới cửa hiện thời
thổi qua những rặng núi những dòng sông
những xóm làng thành phố
quê hương tôi
đã đến đây chiều nay gặp lại
trong ký ức âm u của đời tôi
đã có những cơn gió mùa chợt dậy
đã có cơn gió mùa thổi qua thành quách cũ
thấp thoáng bóng ngọn cờ
đã có cơn gió mùa thổi qua hàng hàng bia mộ
những mặt người thiên thu…”
(Tôi Cùng Gió Mùa. Tr. 39-40.)
“Ánh Trăng” (tr. 88-106) bài thơ viết năm 1980, trong thời điểm thi sĩ là “người tù cải tạo”, đã cho tôi một cảm xúc dâng trào, thán phục và ngưỡng mộ. Ban đầu, khi đọc lướt qua bài thơ, trong trí tôi hiện lên một bản sonate, theo kiểu Sonate Ánh Trăng (Moonlight Sonate) của Ludwig van Beethoven, nhưng thông thường thì một bản sonate chỉ có 3 phần chính, phần nhiều viết cho piano.“Ánh Trăng” của thi sĩ có 6 tiểu khúc, dài trên 260 câu (dài nhất trong thi tập,) sử dụng cấu trúc 7 chữ theo kiểu những bài hành thường thấy trong thơ Việt. Có thể gọi, đây là một tiểu trường ca.
“Ánh Trăng” bàng bạc chất lãng mạn và bi tráng, những nhịp hành ca thấm đẫm phong vị Đông phương: Hành ca của người thọ nhận điêu linh khổ nạn, hòa quyện với sắc màu huyền ảo của ánh trăng trải rộng như muốn ôm hết dâu bể muôn trùng, tạo nên những tiết tấu, cung bậc khắc khoải u hoài của sử lịch và thời đại, của quê hương và dân tộc.
Tiểu khúc dạo đầu của “Ánh Trăng,” người đọc bị cuốn hút ngay bằng những nhịp điệu phiêu bồng, gợi cảm:
“Chiều xanh rơi một câu thơ cổ
màu ráng trời thoảng nét hoàng hoa
bông sậy lao xao lời trẻ dại
gọi ai còn lãng đãng bờ xa…”
Và rồi, tha thiết mời gọi:
“… Những ai trót sẩy đàn tan nghé
hãy đứng trông trăng sáng lại đời
những kẻ mù sâu đôi mắt tối
những hồn mê sảng lạc đôi nơi
trông trăng thấy bóng đèn hoa nở
soi áng gương xưa mặt rạng ngời
bằng hữu đem thân vùi cát bụi
tiếng tù và động giấc bi ai
này nghe nếp áo sông thu vỗ
hồn ơi hồn nhập khúc trăng trôi…”
Ánh trăng huyền hoặc, vi diệu, cảm thông, cảm ứng với kiếp người, phận người, “trông trăng thấy bóng đèn hoa nở/ soi áng gương xưa mặt rạng ngời”. Phải chăng, cái đẹp của ánh trăng đã giúp cho thi sĩ nhẹ lòng, thanh thản trong chốn lao tù, tự tại lắng nghe mình, lắng nghe đời giữa thời buổi điêu linh thống khổ? Nhẹ lòng, nhưng Thơ vẫn vang lên tiếng nấc kêu thương, “này nghe nếp áo sông thu vỗ/ hồn ơi hồn nhập khúc trăng trôi…” Đây không phải là niềm đau cho riêng mình, mà là niềm đau cho tang thương ngẫu lục của sử lịch. Tiểu khúc 2, hồi tưởng về ánh trăng quá khứ, gắn với đời mình “vầng trăng đứng cuối đường ray gió/ những toa tàu qua khuất lau thưa/ thức trong cây. trái tim sầu úa/ như trăng người của thuở không nhà”. Để từ đó, suy nghiệm về cơn cuộc bể dâu. Những câu hỏi trong Thơ, hờ hững lời đáp. Câu hỏi cũng là lời đáp không thành tiếng. Người đọc hẵn sẽ tự hiểu và cảm thông:
“… Giữa cuộc bạo hành cơn sốt dữ
nỗi đau này cháy vỡ thịt da
thử ngẩng nhìn trăng đêm phán xét
ai công ai tội dưới trời khuya
ai xô trăm họ vào gai gốc
ai hái dâng đời một đóa hoa
hãy xét trong cơn đau lịch sử
nỗi đau nào đau của riêng ta
áo quan chưa đóng thời chưa chết
có kẻ cùng ta thức đợi chờ…”
Tiểu khúc 3, từ thực đến mộng, “Ta nghe nước khỏa bờ lau dại/ có một vầng trăng đi trong mưa/ có một vầng trăng hư mọc muộn/ tóc ai còn vướng cánh đồng mua…” Cơn cuộc mộng mị lại quay về thực tại đau xót đến nao lòng:
“… Đêm tù bạn đọc thơ đầu núi
tưởng chim rừng động ánh trăng xưa
gió mùa thổi lộng trên miền bắc
trăng rét căm căm vệt sáng mờ
ta thấy vầng trăng quầng khóe mắt
chiêm khê mùa thối cánh đồng thưa
trăng nghiêng xuống xóm làng dịch tể
qua gò trâu giọng gió ru hờ
vầng trăng nào đứng trên đầu dốc
dậy tiếng tù đóng ván giữa khuya…”
Tiểu khúc 4, lại quay về hồi tưởng để thấu tỏ hơn những cơn đau của sử lịch, của thời đại, của dân tộc. Thấu tỏ cơn đau để mong tự mình làm dịu cơn đau bản thân trong chốn lao tù?:
“… Ta nghe cuộc chuyển dời im lặng
những thời phủ rêu trong sử thi
bỗng dậy bàng hoàng cơn sốt biếc
ta nghe gió rỉ siết qua mùa
ta nghe sấm dậy rền trong đất
những cuộc tương tranh máu lệ nhòa
thấy động ngựa xe tầng khói phủ
những đoàn quân hạ trại trong mưa…”
Tiểu khúc 5, réo rắc những âm, màu đẹp, trải dài nỗi niềm tin yêu cõi người và cõi đời. Tuy mang dấu ấn cổ điển trong cấu trúc, ngôn từ, nhưng vẫn toát lên nhịp đập của thời đại một cách khoáng đạt. Đây là khổ thơ sâu lắng, cô đọng nhất trong bản tiểu trường ca. Thi ảnh lấp lánh ánh trăng, biển trời, lệ, tóc, sương, khói, lửa, thép, tro, than… quyện với nụ hôn nồng nàn trong giấc mơ một ngày sum họp, đoàn viên… Nhạc trong Thơ như tiếng dương cầm réo rắt trong ánh trăng bảng lảng, bàng bạc, mênh mông, đẹp một cách bi thiết, nồng nàn. Dù có thể ảnh hưởng đến độ dài của bài viết, nhưng tôi vẫn trân trọng giới thiệu để bạn đọc thưởng lãm nguyên văn tiểu khúc nầy:
“Trăng cẩm thạch biển trời chợt hiện
mây lìa đàn bay đi mây trôi
hạo ca biển rạng ngời tan hợp
trăng bỏ neo thôi hải phận người
ta thấy giữa triều mây xao động
lệ ngân hà tóc rũ sô gai
chia ly màu xám sương và khói
lửa thép tro than những tiếng còi
ta thấy tàu đi những đóm tía
chiếc hôn nồng và lệ đọng môi
ngày vui sum họp như hoa nến
chia cách dài hơn gió chiến thời
cái chết im như niềm vắng mặt
trước sân con trẻ vẫn đùa chơi
ngày reo trong khóm tường vi nở
nghe thoảng đêm về cánh nhẹ rơi
ta thấy ôi mây trời ảo biến
dưới trăng lấp lánh bãi hằng sa
đất ơi nỗi lầm than muôn kiếp
nhân loại đi như những bóng mờ
nhân loại yêu đời trong cõi chết
vượt biên thùy sa mù và mưa
từng nơi đi dưới triền hoe nắng
gùi nặng mang theo cả lợn gà
riêng lão già điên còn ở lại
đêm đêm ra nhìn dòng sông. ca” Hình ảnh của 2 câu thơ cuối, “riêng lão già điên còn ở lại/ đêm đêm ra nhìn dòng sông ca”, tôi đọc chậm lại và lạnh buốt tâm hồn. Phía sau 2 câu thơ là điều gì đây? Hỡi thi sĩ?!
Tiểu khúc 6, tiết tấu trầm lắng, chậm rãi buông xuống ánh sáng dịu nhẹ của đêm trăng, “trăng khuya vằng vặc soi tâm thức/ đêm tịnh trời trong gió lắng sâu/ mây từng cụm nhỏ trôi trôi khuất/ lũ vịt trời ô trăm ánh sao…” Ánh trăng vẫn còn đó, cảm thông, cảm ứng với người. Người tri ân ánh trăng vì “trăng nguyệt cầm ơi. ngọc mới đông”, “trong khuya. nghe một bông quỳnh nở/ phiến lá ngời vàng óng búp trăng”, “dưới trăng những mảnh đời han rỉ/ sáng lại ô hoa đã rộ cành”. Hai khổ thơ cuối cùng, ánh trăng, hồn người cùng sáng lên niềm hỷ lạc, bi mẫn, độ lượng của từ tâm:
“Mai sau ôi những mùa đang tới
khép mi trong một chút hương trà
lòng ta một ánh trăng trong suốt
trên những nẻo đường nhân loại qua
bên bữa ăn xanh người đạo sĩ
những buồn vui của khắp mọi nhà
trăng khuất nhưng mùa sau lại mọc
loài người ơi nghe tiếng võng đưa
lên cao thấy một vừng trăng ngọc
xuống thấp còn trong giấc ngủ mơ
soi bóng thời gian hồ nước tịnh
đông phương này đêm ủ mật hoa.”
Với tôi, đây là một trường ca rất hay, rất đẹp, rất bi tráng, rạng ngời chất nhân văn. Tôi khâm phục và ngưỡng mộ về cái tâm thế nhân hậu, trầm tĩnh đến lạ thường của thi sĩ khi viết lên những giòng thơ nầy, giữa lúc bản thân đang phải chịu cảnh lao tù, thọ nhận bi kịch điêu linh nhất của phận người. Với tôi, làm thơ cũng chính là tu thơ, cam go thử thách bội phần, nhất là trong hoàn cảnh thi sĩ phải chịu cảnh đọa đày cả về thân xác lẫn tâm hồn. Tâm thế của người làm thơ như thế nào thì Thơ cũng như thế ấy! Thơ ngắn, thơ dài, thể loại, trường phái, cấu trúc, ngôn ngữ trong thơ kiểu gì thì kiểu, cách gì thì cách, đều đòi hỏi người làm thơ phải biết hàm dưỡng nội lực, khí chất, tâm thế, trí tuệ. Chính Thơ đã giúp cho thi sĩ có đủ sức mạnh tâm linh, cộng với lòng nhân hậu vốn có, vượt lên nghịch cảnh, vượt lên những trớ trêu, khắc nghiệt trong cảnh lao tù. Dẫu đôi lần thi sĩ có cất lên lời oán thán (“Trà Oán” viết năm 1980. Tr. 108-11, “Bài Oán Thi. Đêm Phương Nam,” viết năm 1982. Tr. 124-127) nhưng tuyệt không nuôi thù, chuốt hận. Tâm hồn thi sĩ đã bật lên những dòng thơ rất Thơ, giúp cho thi sĩ sáng thêm bản tâm vô úy, vô ngại. Một tâm hồn thơ Đông phương hiếm hoi, rất đáng trân trọng. Vì vậy, tôi nghĩ, “Ánh Trăng” là một trong những trường ca có vị trí rất xứng đáng trong thi ca Việt Nam thời cận đại.
“Như Một Lời Chia Tay,” bài thơ viết vào tháng 5/1995, từ biệt quê nhà, đành lòng rời xa đất mẹ dấu yêu, “tôi gửi lại/ con hẻm mùa đông/ gầy yếu/ tiếng rao hàng vào giấc ngủ khuya/ những khuôn mặt bạn bè với nhiều nét gãy/ cuộc đời sướng khổ nhọc nhằn” (tr. 152) ngậm ngùi nhưng chẳng biết nói gì hơn, chỉ biết mang theo những hồi ức và kỷ niệm của một quãng đời đầy thơ mộng, trắc ẩn và bi thương nơi xứ lạ quê người.
“Con Chim Màu Đỏ,” bài thơ viết vào những ngày đầu tiên trên xứ sở Hoa Kỳ, Del City, 1995, đầy sức biểu cảm, lắng đọng nhưng da diết nỗi nhớ quê nhà, “kìa mùa hè/ và chim/ ôi màu đỏ/ đâu đâu miền đất xa nơi gió mùa và mây trắng/ cơn bão thổi xơ xác mái tranh nghèo/ nơi tôi từ đó ra đi/ trốn chạy một tai ương/ tìm trời nắng rộng (…) “gió trời/ đã thổi/ chim hãy bay đi/ và mang về cho ta từ miền đất khổ một cọng rơm màu vàng/ để ta thấy lại mùa gặt nơi quê nhà/ mùi đất/ và cỏ/ ngọn lửa giờ này đang cháy âm u trong thôn lau lách…” (tr. 155-156) Những trận Gió Mùa vẫn tiếp tục thổi trong thơ Nguyễn Xuân Thiệp nơi đất lạ. Giữa buổi trưa vàng nắng, nhớ bạn nơi quê nhà, hình như những trận Gió Mùa vẫn mang theo niềm hiu hắt, se lạnh, “ở đây trưa vàng nắng/ hồn mơ một tiếng gà/ tưởng tới màu hoa cúc/ đỗ phủ còn lệ sa/ nghỉ những điều không được/ núi mờ kinh nam hoa/ quạ kêu khung trời vắng/ ôi mùa xuân đã xa” (Trưa Nắng Vàng Làm Thơ Nhớ Bạn San Diego, 1996 Tr. 158.) Ngắm khung cảnh xứ người, mà vẫn đau đáu niềm hoài hương, “này những thị trấn thơ/ những mái nhà góc phố/ chiều nay/ ta mang tặng người hồn viễn xứ/ nắng Việt Nam từ bờ xa/ ta đi/ mang theo màu nắng quê nhà/ để không quên/ một góc bến tàu vỉa hè xưa/ mùa này rụng đầy những bông sứ máu/ và hồn ta. ôi hồn ta/ đã gửi hương lưu vàng phố. đi qua…” (Đi Trong Sương Mù Cựu Kim Sơn, 1996, tr. 160) Giữa những buổi chiều một mình hồi ức, hồi tưởng, vẫn chưa phai những ký ức chiều nơi chốn xa, ray rức, bồi hồi, “những chiều nào chiến tranh Việt Nam xa/ tôi đi trên đường biên giới/ thấy trước mặt mình chập chùng rào cản/ mờ mờ những ngọn cờ ma/ bên kia một khu rừng bên kia một cánh đồng/ những ngọn cờ chia lòng người ra từng cõi/ và che khuất những chân trời…” (Những Buổi Chiều Qua Trong Đời Tôi. 1996. Tr. 65-66.) Ngay cả khi mùa thu đến nơi đất lạ, hốt lá trong vườn nhà, nỗi ám ảnh của mùa thu xa vẫn réo rắt âm vang, “khi ta đi mùa thu chưa lại/ phượng tàn đèn thắp phố mưa/ ngói âm dương rợn cười khuya khoắt/ tường vi ơi thuở đợi ai về/ cây rộ kêu một ngày nắng chết/ lá rơi lá rơi bàn tay phủ đầy/ thời gian rã phù dung hương tóc/ phố xưa xa lòng mây trắng bay” (Thu Sang Hốt Lá Trong Vườn 1996 Tr. 170) Và tháng Tư oan khốc, oan khiên, bi thống, bi thương, bi kịch của sử lịch, của quê hương một thời, “khi nước mất. nhà tan. bạn bè xiêu tán/ thập loại chúng sinh. mờ đồng rừng/ hãy diệt. hãy quên. và bắt đầu lại/ này cây redbud/ này chim tháng tư/ tôi phục sinh. từ một thân cây mục” (Cây Redbud Và Chim Tháng Tư 1997. Tr. 172.) Đó cũng là lời cảm tạ của thi sĩ với đất lạ, và chắc chắn, tôi nghĩ, với Thơ nữa! “hãy nói với quê nhà/ hoa quỳ đã bắt đầu nở lại. trên vùng tuyết tan” (Trên Vùng Tuyết Tan 1997. Tr. 175.)
Cuối thi tập, “Hoa Bluebonnet Và Nắng Thơ Tôi” (tr. 182-183,) với 2 bài thơ, “Bài Đinh Cường,” viết cho người bạn thân của thi sĩ, vào đông 1997 và “Bài Mai Thảo,” viết để tưởng niệm một nhà văn đã từ trần (10.01.1998,) dậy lên trong tôi một niềm rung cảm sâu xa về tình bạn, đúng hơn là tri âm tri kỷ trong cõi văn chương nghệ thuật, “bạn đến tôi rót rượu lên trời/ có nắng vàng màu nắng thơ tôi” (Bài Đinh Cường) - về mối cảm hoài đối với “mệnh” của những người đồng điệu trong cõi văn chương nghệ thuật, “ca sĩ sao người dứt tiếng ca/ bãi cát sông hằng. cơn sóng tuyệt/ hoàng hôn hoàng hôn áo nghĩa thư/ hốt nhiên đốm lửa từ sinh diệt/ cháy tàn đông mùa tuyết sắp qua/ thì cho cụm hoa bluebonnet/ nở lại trong màu nắng của thơ/ sao không cũng là trang tuyệt bút/ một nghìn trang có lẻ một tờ” (Bài Mai Thảo) Nhà văn Mai Thảo, tác giả của “Đêm Giã Từ Hà Nội” và rất nhiều đoản thiên, truyện dài khác; cũng là tác giả thi tập “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền” (Văn Khoa, California, 1989,) thi tập duy nhất của nhà văn, nhưng với tôi, đây là thi tập lừng lững chói chang thi tính của Mai Thảo thi sĩ. Thi tập “Tôi Cùng Gió Mùa,” một chặng đường khá dài của đời thơ Nguyễn Xuân Thiệp. Khi tôi ngồi gõ phím những dòng chữ nầy, bài thơ “Nhịp Bước Mùa Thu” của thi sĩ đã vừa tròn 60 năm tuổi, nhưng bài thơ dường như vừa mới ráo mực ngày hôm qua, vẫn tươi rói âm vang và sắc màu, vẫn dội vào tâm thức tôi niềm rung động khôn tả. 43 bài thơ, trải dài trên 44 năm nước chảy qua cầu (tính từ bài thơ đầu tiên, viết năm 1954 đến bài thơ cuối cùng viết năm 1998, trong thi tập,) cho thấy, thi tập, với số lượng thơ rất chắt lọc, cẩn trọng, nhưng vẫn cho người đọc cảm nhận được một nội lực thơ có sức hàm dưỡng sung mãn, thâm hậu. Bản giao hưởng thơ “Tôi Cùng Gió Mùa” chắc chắn sẽ còn vang vọng sâu xa trong tâm hồn người đọc, trong dặm dài năm tháng mai sau. Giờ đây, thi sĩ đã bước qua quá nửa của tuổi thất thập, nhưng vẫn còn đang tiếp tục miệt mài với thơ và những dòng tạp bút một cách bền bỉ, tràn đầy cảm hứng sáng tạo. Tôi hình dung, thi sĩ vẫn ngồi đó, một mình một bóng tâm tình với đêm tận, với hồn chữ, hồn người và hồn dâu bể thiên thu. Và tôi, sau 16 năm thi tập ra đời, nay mới có duyên để được lắng lòng thưởng thức. Có chăng, một niềm đồng thanh tương ứng từ phương trời xa của cố hương, nơi chúng ta cùng hoài niệm? Và tôi tin, rất tin, rằng Thơ, đã, đang và sẽ mãi cứu chuộc chúng ta! Phải không thi sĩ?!.
Ghi chú:
Thi tập “Tôi Cùng Gió Mùa,” thơ Nguyễn Xuân Thiệp - NXB Văn Học- California, ấn hành lần thứ nhất, 1988 - NXB Phố Văn tái bản lần thứ nhất, 2012.
Thi tập “Tôi Cùng Gió Mùa,” thơ Nguyễn Xuân Thiệp - NXB Văn Học- California, ấn hành lần thứ nhất, 1988 - NXB Phố Văn tái bản lần thứ nhất, 2012.
7/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét