Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du, không khó để nhận thấy sự
tồn tại đồng thời của hai thế giới nghệ thuật. Một thế giới thực với
những miêu tả, phản ánh cụ thể và xúc động về cuộc sống xã hội -
con người xung quanh nhà thơ. Một thế giới khác - vô hình - tồn tại
song song, mập mờ lằn ranh và đôi khi hòa lẫn vào thế giới thực. Đó là
thế giới của những giấc mơ, của mong ước, của mộng mị…
Thế nào là thực? “Thực” nghĩa là có thật, có thể nhận biết
trực tiếp bằng các giác quan (1). Cái tồn tại trong thực tế thì gọi là “hiện thực”. Về
mặt lý luận văn học, tác phẩm văn học nào cũng phản ánh hiện thực. Tinh thần hiện
thực trong tác phẩm văn chương được hiểu là toàn bộ sự phản ánh trung thực cuộc
sống. “Vì vậy, khi nói đến tính hiện thực hoặc chủ nghĩa hiện thực trong văn học
cổ, trong sáng tác của Hô-me-rơ, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị… là người ta muốn lưu ý rằng
tác phẩm của nền văn học đó, của tác giả đó gần gũi, gắn bó với cuộc sống và
mang tính chân thực sâu sắc” (2). Ở đó, tác giả không né tránh việc phản
ánh xã hội ở những góc khuất, ở những mặt tiêu cực. Trong văn học Việt Nam, chất
hiện thực thường được nhìn ở khía cạnh hiện thực phê phán, thường gắn với thái
độ tố cáo hiện thực bằng cách phơi bày, lột trần hiện thực xã hội với những ung
nhọt, những tật bệnh xấu xa. Tiếp cận với những hiện thực trong đời sống, nhà
văn, nhà thơ không phải như một người ghi chép thụ động dửng dưng, mà luôn ý thức
chủ động khám phá. “Điều quan trọng nhất đối với văn học hiện thực chủ nghĩa là
sự trung thành, chính xác trong nhận thức tái hiện bản chất cuộc sống và tầm
quan trọng của những tư tưởng mà nhà văn muốn thể hiện” (3). Tính chất hiện
thực trong văn học Việt Nam trung đại thường gắn với một số tác phẩm chứa chan
tinh thần nhân đạo phản ánh những số phận đầy bi kịch, đau khổ do hoàn cảnh
mang lại.
Thế nào là mộng? “Mộng” là hiện tượng thấy người hoặc sự
việc hiện ra như thật trong giấc ngủ (chẳng hạn: giấc mộng, bàng hoàng như người
trong mộng…). “Mộng” còn là điều luôn luôn được hình dung, tưởng tượng tới và
mong muốn trở thành sự thật (chẳng hạn: ôm ấp mộng văn chương, xây mộng, vỡ mộng…) (4).
Mộng trong đời sống thể hiện trong giấc mơ khi ngủ hoặc là những tưởng tượng của
con người khi thức. Ở trường hợp thứ nhất, mộng hình thành trong cõi vô thức,
tiềm thức, vượt ra khỏi ý thức của con người, không do một ý thức nào chi phối
trực tiếp. Do đó, những yếu tố phi lí rất thường thấy trong mỗi giấc mơ. Dù ý
thức không chi phối trực tiếp nhưng các hình ảnh trong giấc mơ xét đến cùng
chính là những hình ảnh gián đoạn của những ý thức nào đó ám ảnh con người lúc
thức. Ở trường hợp thứ hai, mộng được hiểu là những ước mơ, khát vọng của con
người vượt ra ngoài giới hạn thực tại của cuộc sống. Những mong ước này đều có
sự chi phối của ý thức.
Thế giới mộng ảo cũng chính là một khía cạnh của đời sống
tâm linh con người. Mộng đối với những bậc tao nhân mặc khách thời xưa giống
như một quá trình ảo hóa hoặc tự hóa thân, làm cuộc siêu thoát tâm linh để khi
tỉnh dậy tâm hồn rời bỏ sự chấp mê, nhận ra ý nghĩa của cuộc đời. Chẳng hạn
giấc mơ của chàng nho sinh họ Lư, thường gọi là giấc mộng kê
vàng; giấc mơ của Trang Tử: “Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm
vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa. Rồi bỗng tỉnh dậy,
ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng
thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu” (5). Còn theo thuyết
nhà Phật thì có thể ví cuộc đời này là một giấc mộng lớn (đại mộng) với
muôn ngàn giấc mộng nhỏ (tiểu mộng) bên trong nữa. Thế giới mộng ảo cũng
thể hiện niềm tin vào thế giới vô hình, thế giới của những người đã khuất,
của thiên địa, thần linh, ma quỷ…
Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, cả hai phạm trù thực và mộng đều
thể hiện rõ nét.
Nguyễn Du không thể xao lãng với “những điều trông thấy”. Với “Con
mắt trông thấy sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” Nguyễn Du đã đưa vào thơ
chữ Hán mọi vang vọng của cuộc đời, tạo nên một bức tranh hiện thực rộng
lớn và sinh động. Thực trong tác phẩm của Nguyễn Du được hiểu là thế
giới hiện thực được ông phản ánh trong tác phẩm. Một khối lượng không nhỏ các
tác phẩm chữ Hán chứa đựng tinh thần phản ánh hiện thực của Nguyễn Du đã thể hiện
nỗi lòng da diết của thi nhân trước hiện thực mà ông mục kích. Những điều Nguyễn
Du viết ra là những điều “sở kiến” (Sở kiến hành), những điều “nhãn kiến” (Trở
binh hành), “Ngã sạ kiến chi” (Thái Bình mại ca giả), “Mục trung sở xúc” (Tỷ
Can mộ). Thực còn là thái độ của nhà văn hiện lên trong sự phản ánh hiện thực ấy.
Thái độ ấy là gì? Là “Ngã sạ kiến chi, bi thả tân” (Tôi trông thấy mà thương
xót), là “Mục trung sở xúc, năng vô lệ” (Không thể không rơi lệ vì những điều
trông thấy).
Cách quan sát của nhà thơ tinh tế, tình cảm của nhà thơ
chân thành, thế nên bức tranh hiện thực đời sống xã hội, con người của thời đại
hiển hiện sinh động đầy ám ảnh trước mắt độc giả. Trước hết là hiện thực bản
thân nhà thơ. Lý tưởng một thời tuổi trẻ va chạm mạnh mẽ với bão táp thời đại.
Nguyễn Du không tài nào lường hết được những đổi thay ghê gớm của thời cuộc. Từ
cuộc sống quý tộc phong lưu, Nguyễn Du bị đẩy ra giữa “gió bụi cuộc đời” (U cư
II). Trong quãng thời gian ấy, nhà thơ sống nghèo túng, ăn nhờ ở đậu, tình cảnh
chật vật mà Chốn non Hồng không còn nhà, anh em tan tác/ Đầu bạc nhiều giận
nỗi ngày tháng trôi (Quỳnh Hải nguyên tiêu) (6). Chí hướng nhập thế,
tài kinh bang tế thế và lý tưởng một thời tuổi trẻ nung nấu để phục vụ nay
không biết gửi vào đâu. Triều đại trong giấc mộng cống hiến ấy nay đã thành xưa
cũ. Tráng tâm lâm vào cảnh tịch mịch cộng với nỗi buồn của người lữ thứ, xa
quê, Nguyễn Du khẽ buông một tiếng thở dài. Nhưng càng ngày tiếng thở dài ấy
càng não ruột, xót xa: Thân thế trăm năm phó mặc gió bụi/ Ăn nhờ ở bến sông rồi
ăn nhờ nơi bãi biển (Mạn hứng I) .Về ở Hồng Lĩnh, đường sinh kế của ông vẫn
không thể nào xoay sở khá hơn được. Ông vẫn nghèo, vẫn đau ốm liên miên, thậm
chí không có tiền uống thuốc: Nhiều bệnh nhiều sầu thần khí không thư thái/
Mười tuần nằm co trong nhà bên Sông Quế (Ngọa bệnh I). Mang trong mình mặc
cảm bất lực trước thời cuộc Sống chưa làm nên danh, thân đã suy yếu (Tự
thán), thấm thía sâu sắc nỗi buồn của kẻ có tài nhưng vô dụng Tóc bạc rồi,
dù còn có hùng tâm nhưng chỉ còn biết than thở (Khai song), tiếng thơ
Nguyễn Du càng não nuột. Sẽ dễ dàng tìm thấy những từ ngữ mang màu sắc ảm đạm,
buồn thảm trong thơ ông: “suy”, “liêu lạc”, “tiêu điều”… Giữa thời tao loạn, mọi
giá trị của cuộc sống đều bị lật tung lên. Một khi nhận ra “tài vô sở dụng”
(tài không được chấp nhận), Nguyễn Du “đóng cửa” (bế môn) và sống “hướng nội”.
Thái độ ấy “trải đường” cho tiếng thơ buồn thương, nhiều trăn trở của nhà thơ.
Nguyễn Du từ chỗ thấm thía nỗi đau của riêng mình để rồi đồng
cảm và đau đớn với nỗi đau của dân tình mà giải bày lên trang thơ như một hành
động chia sẻ cảm thông với cuộc đời. Bức tranh hiện thực cuộc sống dân
đen làm xúc động lòng người. Đó là hình ảnh của một anh phu xe vất vả làm
việc trong cái nắng gắt của những ngày tháng tám: Anh chàng đẩy xe kia quê
ở đâu nhỉ?/ Nhìn nhau thấy vất vả như nhau (Hà Nam đạo trung khốc thử).
Nguyễn Du xót thương cho người mà cứ như nhà thơ đang xót thương cho chính mình
hay cho anh, cho em, cho những người máu mủ ruột rà với mình vậy. Còn đây là
tình cảnh cuộc sống của người dân thành Tín Dương vất vả và thiếu thốn khôn kể
xiết: Ngựa hí đòi ăn thóc lúa/ Dân ăn chỉ nửa tấm cám (Tín Dương tức
sự). Nhưng phần lưu tâm, thương mến sâu sắc nhất của mình, thi nhân dành cho những
người nhỏ yếu, cực khổ, sa cơ lỡ vận. Đó là cảnh ngộ của ông cháu người hát
rong ở Thái Bình:
Miệng sùi bọt, tay rã rời,
Ngồi yên, cất đàn, ngỏ lời đã đàn hát xong.
Dốc hết tâm lực gần một trống canh,
Mà chỉ được năm sáu đồng tiền
(Thái Bình mại ca giả)
Nhà thơ cảm nhận tiếng đàn của người hát rong không chỉ bằng
tai mà còn bằng tất cả giác quan nên tác giả không khỏi xót xa khi phải chứng
kiến dáng điệu của ông lão khi ông mò mẫm trong bóng tối, “sờ soạng” để tìm chỗ
ngồi, khi “vừa múa vừa hát không ngừng nghỉ”. Rồi lại “hai ba lần giơ tay lên
thi lễ tạ ơn”, lúc ra khỏi thuyền rồi hãy còn “quay đầu lại chúc đa phúc”. Tiếng
đàn và dáng diệu đáng thương của ông lão đã mãi ở lại trong lòng ông chánh sứ đa
cảm đất Việt. Không chỉ đơn giản là mô tả cảnh ngộ đáng thương của ông lão mù đất
Thái Bình, ngòi bút chân tình và nồng thắm của nhà thơ còn khơi sâu được các mặt
mâu thuẫn trong đời sống, và biết làm cho những mâu thuẫn ấy hiện ra nhức nhối.
Những hình ảnh được vẽ nên như tạc kia càng khắc rõ nét khi nhà thơ nhẹ nhàng
đem đặt vào bên cạnh một cảnh sống khác hẳn, cảnh sống xa hoa thừa thải “Cơm thừa
canh cặn đổ rất bừa bãi” của những người trong thuyền. Hoặc là “lệ cung đốn”
của đoàn sứ bộ: Thuyền này thuyền nọ đều đầy gạo thịt/ Người trong đoàn sứ
ăn no còn thừa thì vứt/ Cơm nguội, thức ăn thừa đổ xuống đáy sông… Bấy nhiêu
chi tiết tương phản đã chứa đựng một dấu hỏi đau đớn, thâm trầm, một dụng ý tố
cáo tinh tế mà sâu sắc.
Đặc biệt trong bài Sở kiến hành, ai cũng thấy rõ dù đi sứ
nhưng Nguyễn Du vẫn quan sát cuộc sống nhân dân rất tỉ mỉ. Tác giả đã ghi lại
dáng hình người mẹ hành khất nghèo cùng ba con ngồi nghỉ chân bên đường với quần
áo lam lũ: Quá trưa rồi vẫn chưa được ăn. Không chỉ miêu tả mấy mẹ con người
hành khất với nỗi đau đớn nhục nhã của kiếp người cơm vãi, cơm rơi, với cảnh nằm
cầu gối đất, Nguyễn Du còn nhìn thấy bi kịch, nỗi đau trong lòng người mẹ
nghèo: Trong lòng đau xót lạ lùng/ Mặt trời cũng vì người mà vàng úa! Người
mẹ đáng thương khiếp hãi khi nghĩ đến nắm xương tàn không có chỗ chôn, “máu thịt
nuôi sài lang”. Than trời, trời có thấu? Chẳng phải mặt trời cũng vàng úa đấy
ư? Càng đau lòng thay khi những đứa trẻ thơ ngây vẫn vô tư vui trong khi
lòng người mẹ quặn thắt, chúng “không biết lòng mẹ đau”.
Đề tài dân đói, dân khổ là chuyện không mới, ta vẫn thấy nhan
nhản trong thi ca nước ta cũng như nước người, nhưng nói cho chân tình và thấm
thía như Nguyễn Du thì được mấy ai? Hiện thực cuộc sống nhân dân bi thương ở nước
ta lẫn Trung Hoa thuở ấy đã vén bức màn của xã hội phong kiến cho thấy một hiện
thực lớn nữa: hiện thực vua quan.
Chốn quan trường phức tạp, đầy những bon chen, tranh cạnh.
Quan lại trong triều đình là những người “quen hơi đồng” trước tiên, thường
ganh đua nhau, người này tìm cách chèn ép người kia để có thể tiến nhanh hơn và
cao hơn kẻ khác trên bậc thang danh vị: “Những con oanh đẹp trong vườn thượng
uyển ghen nhau vì sắc đẹp” (Tống nhân). Xung quanh Nguyễn Du toàn là những
“dì gió tính rất chua ngoa” (Ngẫu thư công quán bích II), là những loài “khổng
tước” với vẻ ngoài rực rỡ, tốt đẹp nhưng ẩn chứa chất độc khủng khiếp bên
trong: Mật công chứa chất độc/ Uống lầm không thuốc chữa/ Mã ngoài lộ ra vẻ
đẹp/ Bên trong giấu chất độc giết người (Khổng tước vũ). Nguyễn Du đi từ
thất vọng này đến thất vọng khác khi mắt thấy, tai nghe hầu hết những rối ren,
mục nát bên trong chính quyền phong kiến thời bấy giờ. Tệ tham nhũng, đục khoét
hoành hành khắp nơi. Những chuyện hiềm khích, hãm hại lẫn nhau nhiều không kể
xiết. Đám nha lại bên dưới thì lấn quyền, khinh nhờn phép tắc.
Những bậc vua quan - phụ mẫu của dân - nào có lo lắng gì cho
dân, họ phủi tay trước trách nhiệm. Họ thờ ơ trước cái đói, cái khổ, trước cả vận
mạng của bao sinh linh bé nhỏ, vô tội. Bởi theo lý lẽ của họ thì: Dân chết
vì gặp năm hạn, đâu phải tại ta (Trở binh hành). Quan lại làm sao có thể
yêu dân cho được khi trên họ là sự thống trị không bắt nguồn từ đức Nhân. Nguyễn
Du chỉ trích bản chất tàn ác của vua Minh Thành Tổ, người đã giết hại vô số
sinh linh: Khi cơn giận nổi lên hắn giết hại mười họ người ta: Giết trung thần
bằng cách đánh bằng gậy lớn và nấu trong vạc dầu lớn/ Trong năm năm giết trên
trăm vạn mạng người/ Xương trắng chất thành núi, đất ngập máu…
(Kỳ Lân mộ). Là đấng quân vương mà hành xử không theo đạo Nhân thì sao có thể trị quốc an dân? Đến nỗi con vật thiêng là kỳ lân chừng như cũng “không nỡ nhìn cảnh chém giết” mà thà chết trước khi được đưa đến yết kiến vua. Hiện thực vua quan như đã nói ở trên cho thấy chế độ phong kiến đã đến hồi cáo chung. Những giềng mối phong kiến đã lung lay đến tận gốc và sự sụp đổ của nó là một điều tất yếu.
(Kỳ Lân mộ). Là đấng quân vương mà hành xử không theo đạo Nhân thì sao có thể trị quốc an dân? Đến nỗi con vật thiêng là kỳ lân chừng như cũng “không nỡ nhìn cảnh chém giết” mà thà chết trước khi được đưa đến yết kiến vua. Hiện thực vua quan như đã nói ở trên cho thấy chế độ phong kiến đã đến hồi cáo chung. Những giềng mối phong kiến đã lung lay đến tận gốc và sự sụp đổ của nó là một điều tất yếu.
Thế giới mộng ảo
Song song với bức tranh hiện thực nói trên, Nguyễn Du có cả một
thế giới mộng ảo giàu màu sắc và đa cung bậc. Con người thơ
vốn thâm trầm, kín đáo và nội tâm ấy đã tự tìm cho mình một thế
giới riêng tây. Hoặc thả hồn theo những giấc chiêm bao, hướng mình về quá
khứ với cảm hứng hoài cổ, hoặc đắm mình trong những suy tưởng về cuộc
đời hư ảo… Mộng trong thơ chữ Hán Nguyễn Du theo nghĩa hẹp có thể hiểu là
những giấc mộng, cơn mơ của ông; theo nghĩa rộng là toàn bộ những tưởng tượng
lãng mạn, vượt ra ngoài “đường biên” thực tế của tác giả thể hiện
trong sáng tác. Yếu tố mộng mị, mộng ảo này là một nét lớn trong mạch trữ
tình của thơ chữ Hán Nguyễn Du. Chính nhà thơ cũng tự thấy mình là người hay sống
trong mộng mị như bạn ông từng nhận xét: Bạn bè thân thiết lấy làm lạ rằng
sao ta hay sầu mộng? (Ngẫu đề).
Có đến 26 lần từ “mộng” xuất hiện trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du. Trước hết, mộng được dệt nên bởi muôn vàn những mong ước. Phải nói đến đầu
tiên là mộng công danh. Kỳ vọng nhiều vào tương lai, mong ước lập nghiệp thôi
thúc con người tự tin hành động. Nguyễn Du say sưa nghĩ đến tương lai với “hoàng
các mộng” (giấc mộng gác vàng) (Mạn hứng I), với “vân tiêu mộng” (mộng bay
lên mây xanh) (Ngẫu thư công quán bích III). Thế nhưng, danh không đạt, mộng
không thành bởi thời cuộc nhiều ly loạn, tan vỡ. Mệt mỏi và buồn hận, lòng bảo
lòng trở về chốn quê xưa. Con người thơ khát khao được về với sông Lam, núi Hồng
nhưng điều mong muốn ấy đâu dễ thực hiện được trong thực tại. Đành gửi cả vào
giấc mộng:
Trong giấc mộng tàn canh nằm vẫn còn mơ về quê hương
(Thủy Liên đạo trung tảo hành)
Xa nhà ngoài ngàn dặm, giấc mộng đất khách dài
(Đại tác cửu thú tư qui)
Trong mộng, rừng tùng khóm cúc làm ta nhớ chuyện trở về
(Lạng Sơn đạo trung)
Sao cho quê nhà luôn đi vào trong giấc mộng?
(Tam Giang khẩu đường dạ bạc)
Không thể trở về quê hương, nhà thơ bế tắc và chán nản. Kể từ
đây, thơ Nguyễn Du tràn ngập những mơ ước về một cuộc sống tươi đẹp, bình yên:
Ước gì nhảy thoát ra khỏi vòng trần tục
Dưới bóng cây tùng già, thích biết bao
(Sơn thôn)
Ước gì trước cửa huyền vầng trăng sáng hiện ra,
Ánh sáng rọi xuống phá tan mọi u ám
(Ngoạ bệnh II)
Và Nguyễn Du mộng được đi tu:
Ước sao có thể xuống tóc vào rừng,
Nằm nghe tiếng thông reo lưng chừng mây.
(Tự thán II)
Không chỉ dừng lại ở niềm mong ước, những giấc mộng của thi
nhân cũng hướng đến những điều tươi sáng, ngọt ngào, khao khát hạnh phúc. Giấc
mộng hái sen mới lung linh, huyền ảo làm sao. Nhà thơ mơ thấy mình hẹn đi hái
sen cùng cô láng giềng:
Buộc chặt quần cánh bướm,
Hái sen, chèo thuyền con
Nước hồ sao lai láng
Trong nước có bóng người.
(Mộng đắc thái liên)
Không gian giấc mộng là Hồ Tây với “nước hồ lai láng”, với “chiếc
thuyền con”. Người đi hái sen thì xinh tươi trong quần cánh bướm bay phấp phới.
Khung cảnh thần tiên với mặt nước hồ in bóng người, in sắc trời, sắc sen. Hương
sen ngát thơm. Mọi thứ xuất hiện trong giấc mộng cũng đều lung linh: thuyền mộng,
sen trong mộng, người trong mộng. Có tâm trạng hồi hộp chờ đợi cô gái, có cái
nín thở lắng nghe tiếng cười? Giấc mộng đưa thi nhân đến những bến bờ xa lạ, nó
là hiện thân cho khát vọng vượt ra khỏi những gò ép, bó buộc của cuộc sống tầm
thường, vươn tới thế giới lãng mạn bay bổng. Cũng có lúc nhà thơ ước mơ được
chiếm lĩnh những không gian cao, những miền xa để thả hồn cùng trời đất, đi tìm
những giây phút tự do, đẹp đẽ:
Giữa mùa thu, nếu có được người thả bè vượt sông này
Ta cũng muốn cưỡi theo chiếc bè đó lên trời lần nữa
(Hoàng Hà)
Mơ ước thoát tục và mộng “lên trời” vì không muốn “chết
ngạt” trong thực tại, nhà thơ mơ ước những hành trình vượt thoát miễn là thoát
khỏi cảnh chật chội tù hãm của cuộc sống chung quanh. Cuộc sống tự do không bị
ràng buộc, cuộc sống vô ưu, vô lo luôn là niềm mong mỏi thường trực của thi
nhân:
Thèm chết đi được như người nằm khểnh bên song cửa sổ phía bắc
Thường ngày không có việc gì bận đến tâm tình trong sáng
(Ký hữu)
Thèm được như đàn âu kia theo giòng nước lội đi
(Đồng Lung giang)
Nguyễn Du mong muốn được say mãi, say quên tháng ngày, say
quên nhân thế:
Cuộc đời trăm năm chỉ ước được say suốt ngày
(Đối tửu)
Mệt mỏi, chán chường, Nguyễn Du ước muốn tìm quên trong men
say, như muốn lao vào hưởng lạc với tiệc rượu, với thú đi săn, … (Hành lạc từ).
Trở đi trở lại trong thơ ông là ước mơ về chốn “cửa huyền”, về chuyện “học đạo thần
tiên”… Nguyễn Du có những ý định táo bạo, liều lĩnh như thật, nhưng những ý định
ấy có đi đâu xa ngoài ranh giới của niềm mong ước.
Cõi hư ảo cũng là một phần của thế giới mộng trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du. Đó là cõi của những giấc chiêm bao, của những điều thực mà như
hư, có mà như không, hiện hữu mà không thể nắm bắt, mong manh như mây như khói
mà vấn vít tâm trí người. Những điều ấy chỉ có trong tưởng tượng, đầy huyễn hoặc,
mơ hồ hoặc chỉ có trong thoáng chốc, có rồi đi mất. Ở giấc mộng hái sen (Mộng đắc
thái liên), hình ảnh “cô láng giềng” hiện lên chỉ với vài nét chấm phá ít ỏi,
nhưng những nét chấm phá ấy cũng thật mơ hồ. Không thấy người thật mà chỉ thấy
bóng người, chỉ nghe tiếng người cười. Nhưng điều đáng nói là cái bóng kia lại
in trên một bề mặt vô định là nước hồ. Nước sóng sánh, bóng sẽ tan biến ngay.
Tiếng cười cách khóm hoa kia cũng không biết là xa hay là gần. Cô gái trong giấc
mơ của thi nhân không được miêu tả rõ ràng mà chỉ được hình dung qua ảo ảnh đưa
đến, qua âm thanh vọng lại. Tất cả đều huyền ảo và mơ hồ. Ngỡ như vén khóm hoa
kia là thấy ngay cô gái nhưng cả nhà thơ và ta đều không tìm thấy gì. Thế nên,
nhà thơ hái sen cũng nhẹ nhàng, sợ khuấy động mặt nước bóng người đẹp tan biến.
Tơ sen cũng mỏng mảnh làm sao! Nhà thơ khẽ khàng, nâng niu từng chút một cái
"vũ trụ riêng tư" ấy. Đang ở giữa cõi mộng mà dự cảm về sự mất mát,
tàn phai đã cận kề. Những câu thơ ngắn của thể thơ năm chữ cũng tựa như giấc mơ
kia ngắn ngủi và bất định. Nguyễn Du như muốn nối thêm câu chữ, nối dài giấc mơ
mà nào có được. Mộng tan để lại nỗi vấn vương như tơ sen, mãi không thể dứt được.
Giấc mộng gặp vợ của thi nhân cũng chỉ đến và đi trong thoáng
chốc. Người vợ đã khuất hiện về trong giấc chiêm bao ngắn ngủi: Trong mộng
thấy rõ ràng/ Tìm ta ở bến sông/ Nhan sắc vẫn như xưa/ Áo quần thì lếch thếch/
Thoạt đầu nói khổ vì bệnh hoạn/ Kế đó nói xa nhau lâu (Ký mộng). Người vợ của
thi nhân phải đối mặt với bao hiểm nguy trên đường đi tìm chồng. Trong khoảnh
khắc ngắn ngủi của giấc mộng, người vợ nào đã kịp giãi bày hết nỗi niềm bởi “nghẹn
ngào khóc không nói hết câu”. Câu thơ nén chặt những âu lo, căng thẳng của nhà
thơ. Không gian giấc mơ nằm ngoài ý thức của con người - đó là không gian vô thức.
Giấc mơ cũng ngổn ngang những bất an vô thức. Mộng không đơn thuần diễn ra ở một
vị trí cố định mà có sự lắp ghép giữa các vùng không gian: núi- sông- bến
sông- đường đi… tạo nên cõi mộng rộng lớn, rợn ngợp. Rồi chính bản thân nhà thơ
cũng ở trong trạng thái lưỡng phân, không biết mình đang ở không gian nào Trong
hồn mộng là thực hay hư. Nhà thơ như chập chờn bất định giữa chiêm bao và
sự thực, giữa mộng và thực, giữa âm và dương. Hình bóng người vợ đã ẩn hiện xa
xôi, lại còn bị che phủ bởi màu sương khói của không gian huyền ảo Phảng
phất như cách nhau bức màn.Nó gợi ra ấn tượng nhân ảnh ấy nửa thực nửa mộng mơ,
vừa như đã có và dường như chưa hề có, vừa ở hiện hữu cụ thể vừa như mang mang
tan loãng trong không gian.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du trùng điệp biết bao nhiêu là giấc mộng: mộng
gặp anh, mộng cỏ bờ ao, mộng lấy lá giấu hươu, mộng phồn hoa… Nhắc nhiều đến
mộng, Nguyễn Du bày tỏ một nhân sinh quan đậm màu sắc Lão Trang, xem kiếp sống
như một trò mộng huyễn. “Nhân gian như mộng” là vậy. Từ cõi nhân gian cuộc sống
đời thường đến miền tâm tưởng qua những giấc mơ, qua những mộng ảo, vươn xa đến
cả những nơi xa thẳm như trời cao, cõi huyền ảo và qua những miền không gian ấy,
nỗi ám ảnh về hư vô cuộc đời càng hiện rõ:
Cuộc đời trăm năm thương thay chỉ là chớp mắt
Cuộc vui chơi lúc tuổi già, tiếc chỉ là thoáng chốc
(Mạn hứng)
Sáng và chiều đổi thay theo bóng mây trôi lờ lững
Xưa và nay lênh đênh như hoa sóng cuồn cuộn
Cuộc đời trăm năm trên trần thế chỉ là giấc mộng vừa mở mắt
(La Phù giang thủy các độc tọa)
Trong giấc mộng đời ấy, con người chỉ như một người khách trọ,
thoắt đến, thoắt đi. Thế nên trong thơ, Tố Như luôn nhận mình là "hành
nhân", "chinh nhân", "du tử", "du khách",
"chinh khách", "trệ khách"...
Thiết nghĩ, nếu thơ chữ Hán Nguyễn Du chỉ toàn là những miêu
tả hiện thực hoặc chỉ rặt những mộng mị thì chắc vấn đề sẽ giản đơn hơn nhiều.
Chính sự song tồn, xóa nhòa ranh giới của hai thế giới thực và mộng đã mang đến
nét độc đáo và những giá trị đặc sắc cho thơ chữ Hán Nguyễn Du
Từ thực đến mộng
Thơ Nguyễn Du có hiện thực trần trụi. Nhưng không chỉ có thế,
nhà thơ thường xuyên bước qua ranh giới của hiện thực để đến với thế giới mộng ảo
lung linh. Điều này làm thơ Nguyễn Du kết nối được với lòng người bao thế hệ một
cách diệu kỳ mà đôi khi không giải thích được. Nguyễn Du đã xếp muôn vàn những
điều trở trăn, suy nghĩ, buồn thương trong cuộc đời thật thành những nấc thang
để tìm đến cõi mộng. Hiện thực càng khắc nghiệt, mong ước càng nhiều, mộng mị
càng chồng chất. Nhưng nhân vật trữ tình với tâm sự nhiều buồn hận, nhiều điều
bất đắc chí như Nguyễn Du thì những giấc mộng đẹp có được là mấy. Chính Nguyễn
Du cũng thường nói: Người đã đến bước đường cùng không mộng đẹp (Trệ
khách). Tự nhận mình là người đến bước đường cùng, Nguyễn Du cũng nhận về mình
những giấc mộng đầy ám ảnh. Với thi nhân đó là những giấc mộng lạnh lẽo: Khí
lạnh rặng núi xa thấm vào giấc mộng người du tử (Tạp ngâm III). Không rõ
là mộng mơ điều gì, chỉ biết một cảm giác lạnh lẽo đang xâm chiếm. Giấc chiêm
bao lạnh. Người nằm mộng lạnh. Cái lạnh đến từ rặng núi xa hay cái lạnh cố hữu
từ trong lòng người xa xứ. Cái lạnh ấy đã triền miên, âm ỉ bao lâu nay.
Đã vậy, nó còn dai dẳng, khiến xác thân và tâm hồn con người mệt mỏi, rã rời: Sự
xa cách (quan sơn) dẫn hồn vào giấc mộng dài (Bất mị). Chính khoảng cách địa
lý, chính sự xa xôi cách trở đã nối dài những giấc mơ lạnh lẽo, và hãi hùng.
Mỗi lần mộng đến - đi là mỗi lần con người nhận ra hoàn cảnh cô đơn, đau khổ hiện tại, là mỗi lần khắc sâu thêm nỗi chán chường, tuyệt vọng. Mộng là một nhu cầu tất yếu, một động thái tinh thần không thể thiếu để nhà thơ giải toả nỗi buồn chất ngất. Không thể hoà đồng với thực tại ông chỉ còn biết tìm đến thế giới mộng ảo để mong gặp một sự đồng cảm, an ủi. Nhưng càng mộng nhà thơ càng nhìn sâu vào lòng mình, bắt gặp nỗi buồn của chính mình do đó nỗi buồn hận càng thêm nặng nề, xót xa.
Mỗi lần mộng đến - đi là mỗi lần con người nhận ra hoàn cảnh cô đơn, đau khổ hiện tại, là mỗi lần khắc sâu thêm nỗi chán chường, tuyệt vọng. Mộng là một nhu cầu tất yếu, một động thái tinh thần không thể thiếu để nhà thơ giải toả nỗi buồn chất ngất. Không thể hoà đồng với thực tại ông chỉ còn biết tìm đến thế giới mộng ảo để mong gặp một sự đồng cảm, an ủi. Nhưng càng mộng nhà thơ càng nhìn sâu vào lòng mình, bắt gặp nỗi buồn của chính mình do đó nỗi buồn hận càng thêm nặng nề, xót xa.
Càng đi nhiều, quan sát nhiều, càng nhìn sâu vào hiện thực,
Nguyễn Du càng thất vọng cho cuộc thế. Ông đi vào thế giới mộng với
những ước muốn bay bổng, lãng mạn. Hiện thực chính là điểm xuất phát đưa tác giả
tìm đến mộng và cũng là điểm kết thúc đưa tác giả ra khỏi mộng.
Từ mộng đến thực
Nguyễn Du để cho trí tưởng tượng của mình thoả sức bay bổng với
những mong ước rồi chìm vào mộng ảo, say sưa với mộng hưởng lạc… Nếu như toàn bộ
sáng tác của Nguyễn Du đều là thế giới mộng, và nếu như mộng trong sáng tác
của ông hoàn toàn là những thú vui hưởng lạc nhằm thoát ly cuộc đời thì vấn đề
đã đi theo một hướng khác. Nỗi niềm mơ ước, những mộng mị ấy cho thấy tính chất
bi của một cá nhân có nhiều thất vọng, bất mãn trong cuộc đời. Người nghệ sĩ đa
sầu, đa cảm sớm nhận ra những mất mát, đau thương, sớm nhận ra vết thương lòng
nhức nhối khi cứ mãi kiếm tìm nơi chốn bình yên. Và trong hành trình tìm kiếm ấy,
mặc cảm bất lực luôn đè nặng tâm hồn thi nhân. Chính qua những giấc mộng này
chúng ta hiểu hơn về Nguyễn Du, hiểu sâu hơn và đúng hơn về tấm lòng và thái độ
của ông đối với hiện thực. Thế giới mộng của Nguyễn Du chính là cách nhìn, cách
đánh giá thế giới thực, bộc lộ thái độ bất đồng với hiện thực.
Mộng cũng chính là niềm khao khát một hiện thực tốt đẹp hơn
cho đời, cho người. Một hiện thực mới, cuộc sống mơ ước mà ở đó con người hạnh
phúc, không cần quan tâm đến thời cuộc hay thế sự. Con người sống tự do, không
màng đến lẽ thị thi, hưng phế. Sẽ không có những sóng gió để gieo đau thương, mất
mát.
Trong mộng Nguyễn Du có cuộc “hội ngộ” với những người đã khuất
- các nhân vật trong lịch sử. Điều đáng lưu tâm là ông toàn gặp những người
mang nỗi đau, nỗi oan khuất trong cuộc đời như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Nhạc
Phi... Đây là một cách phản ánh hiện thực của thơ chữ Hán Nguyễn Du. Còn đó những
nỗi oan khiên, những bí mật lịch sử, những kết cục bi thảm dành cho những người
tài hoa, tài tình. Với Nguyễn Du, đây là sự gặp gỡ của những nỗi đau tri âm,
tri kỉ trong dòng chảy khắc nghiệt của hiện thực và lịch sử.
Không thể cứ mãi đắm chìm trong mộng khi mà nhà thơ vẫn nặng
nợ với trần gian. Tỉnh mộng rồi nhưng nỗi đau đời vẫn còn đó nhức nhối, “tiếng
khóc nơi đồng nội” vẫn dội vào tâm trí ông, tình cảnh dân đen đói khổ cùng đường
vẫn làm tim ông rỉ máu. Ngay cả trong giấc mơ thi nhân cũng không chạy trốn được
nỗi sầu lo cho người vợ mình rằng Thân yếu đuối dựa vào đâu? khi mà Núi
Tam Điệp nhiều hổ báo/ Sông Lam nhiều thuồng luồng/ Đường đi hiểm và dữ (Ký
mộng). Cái nghĩa tình chồng vợ mới đằm thắm và chân thực biết bao!
Hình như không có giấc mộng nào là trọn vẹn với Nguyễn
Du. Mộng gác vàng, mộng công danh không thể trở thành hiện thực trước
bão táp thời đại. Những giấc mộng khác cũng vụn vỡ, đứt nối. Mộng gặp anh
mà Hồn phách tìm nhau dầu trong mộng cũng khó (Ức gia huynh). Mộng gặp vợ
mà chưa kịp giãi bày, “nghẹn ngào chưa nói hết câu (Ký mộng) gió đã lạnh
lùng thổi. Mộng hái sen mà cuộc gặp gỡ hình như chưa thật sự xảy ra. Bóng dáng
cô em láng giềng mãi ở đâu khiến nhà thơ loay hoay kiếm tìm…
Nguyễn Du tìm đến mộng song cuối cùng, giấc mộng nào cũng dẫn ông trở về thực tại. Mộng hưởng lạc nhưng càng mơ mộng càng tuyệt vọng, chính những giấc mộng ấy nhắc nhở ông về hiện thực bản thân và cuộc sống của thi nhân. Mộng tan rồi còn trơ lại tấm thân gầy yếu, bệnh tật, đang phải chịu đựng những đổ vỡ, cô đơn. Thi nhân nhận ra mình cùng với sự già nua, bất lực:
Nguyễn Du tìm đến mộng song cuối cùng, giấc mộng nào cũng dẫn ông trở về thực tại. Mộng hưởng lạc nhưng càng mơ mộng càng tuyệt vọng, chính những giấc mộng ấy nhắc nhở ông về hiện thực bản thân và cuộc sống của thi nhân. Mộng tan rồi còn trơ lại tấm thân gầy yếu, bệnh tật, đang phải chịu đựng những đổ vỡ, cô đơn. Thi nhân nhận ra mình cùng với sự già nua, bất lực:
Muốn gán chiếc áo cừu lông chim túc sương đổi lấy một cuộc
say
Nhưng tóc trên đầu đã bạc trắng thì biết làm thế nào?
(Quảng Tế ký thắng)
Muốn tìm thú vui mới nhưng già rồi làm sao được?
(Trên đường đi Từ Châu)
Mộng đánh thức vết thương lòng thi nhân, nhẫn tâm kéo nó ra
giữa ánh sáng của hiện thực, của lý trí. Mộng nhưng không hoàn toàn là mộng, đó
còn là bóng hình của hiện thực. Đó là lý do những giấc mộng ấy mãi tươi nguyên
trên trang viết Nguyễn Du.
Sự tương tác hai chiều thực – mộng
Hành trình từ thực dẫn đến mộng rồi từ mộng trở về thực đã
đem đến một sự tương tác kỳ diệu giữa hai thế giới này trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du. Trong mộng có thực và trong thực có mộng.
Trong nghệ thuật, mộng không chỉ là việc ghi lại những
giấc mơ khi ngủ của nhà văn, mộng còn là mong ước, tưởng tượng của
tác giả trong cuộc sống thực tại. Dù trong trường hợp nào, khi đã là một sáng tạo
hiện hữu trong văn bản ngôn từ nghệ thuật, mộng đều đã đi qua sự khúc
xạ đặc biệt của ý thức nhà văn để diễn tả một quan niệm của nhà văn về cuộc sống,
về thế giới. Mặc dù những giấc mơ đến từ tiềm thức, vô thức nhưng khi nhà văn
viết lại, tái hiện lại những giấc mơ ấy thành mộng trong tác phẩm thì
ý thức của ông đã làm việc, đã in dấu vào giấc mộng trong nghệ thuật kia rồi.
Nhìn vào những mơ ước, mộng mị hư ảo trong thơ Nguyễn Du người ta lại nhận thấy
một “hiện thực”, đó chính là hiện thực tâm hồn thi nhân. Thơ chữ Hán ghi lại những
thăng trầm trong cuộc đời, những điệu buồn thương của tâm hồn thi
nhân.
Nguyễn Du, từ lúc chưa ra làm quan đến khi làm quan cho nhà
Nguyễn rồi đi sứ sang Trung Quốc, nhà thơ luôn mang trong lòng nỗi buồn chất chứa,
u uẩn: đó là nỗi buồn vì thế sự đảo điên, thời cuộc đổi thay, những giá trị tốt
đẹp cũng bị đảo lộn. Có người cho rằng mộng mị là một cách con người trốn chạy
khỏi thực tại, không dám đương đầu với thực tại. Thực ra, mộng mị không phải là
một hành động trốn chạy thực tại. Bởi lẽ nếu không mở rộng lòng mình ra với thực
tại, không đón nhận lấy không khí, hơi thở của thời hiện tại thì làm sao thấy
được thực tại ấy có gì đáng buồn, đáng chán ngán để mà mơ mộng điều tốt đẹp
hơn, tươi sáng hơn? Khoảnh khắc mộng đến tâm hồn thi nhân được sưởi ấm lên đôi
chút. Mộng tan rồi, trả về lại cho thi nhân cái lạnh lẽo rợn ngợp của thực tại.
Nguyễn Du không ngại ngần sống với cả hai thế giới ấy. Thực và mộng - hai thế giới soi chiếu vào nhau, tồn tại trong nhau. Đó là sự tương giao giữa ý
thức và vô thức, giữa tình cảm và lý trí. Tất cả đều mong manh, hư ảo… Thế giới
mộng ở đây có khi là giấc mơ về cuộc sống không có thực của quá khứ, hiện tại,
tương lai. Nó là một thế giới viển vông, là “mộng” là “ảo” nhưng không phải là
giả. Bởi trong thế giới mộng đó có ẩn chứa, lẫn khuất cái thực.
Thế giới thực và thế giới mộng có lúc đối lập nhau, cách xa
nhau nhưng cũng có lúc đan xen ràng rịt trong nhau khó phân biệt. Hai thế giới
này tưởng như tách biệt nhau nhưng từ tầng sâu giữa chúng có sự nối kết. Xét đến
cùng, cái thực và cái mộng vốn nằm sẵn trong bản thân con người, là những chiều
kích khác nhau trong con người. Từ thực tế khổ đau người ta mơ ước, khát khao,
mong mỏi, kiếm tìm một cuộc sống lý tưởng tốt đẹp khác biệt; trong mộng mị và
những mơ tưởng như chỉ là viển vông ấy lại có ý nghĩa tích cực, khích lệ sự cố
gắng phấn đấu của con người vươn tới cuộc sống hiện thực đẹp đẽ như trong mộng
ước. nó chính là niềm hi vọng sống, là nơi bám víu của con người trong cuộc đời
này.
Sự nối kết, tương tác giữa hai cõi thực - mộng thực sự đã làm
nên sức hút kỳ lạ và vẻ đẹp của thơ chữ Hán Nguyễn Du.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(*) Bài viết này chỉ khảo sát trong phạm vi thơ chữ Hán
Nguyễn Du, gồm 3 tập: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp
lục.
(1) Hoàng Phê (2002), Từ điển Tiếng Việt,
Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, tái bản lần thứ 8; tr.
973.
(2) Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
(2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội; tr.
77-78.
(3) Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
(2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội; tr.
77-78.
(4) Hoàng Phê (2002), Từ điển Tiếng Việt,
Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, tái bản lần thứ 8; tr.
642.
(5) Nguyễn Hiến Lê (chú dịch và giới thiệu)
(1994), Trang Tử - Nam Hoa Kinh, Nxb. Văn hóa, TP HCM; tr.175.
Xin xem: Nguyễn Du toàn tập, tập I (Mai Quốc Liên chủ
biên). Nxb. Văn học, H, 1996. Các trích dẫn thơ trong bài đều theo sách này.
Ngô Thị Thanh Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét