Một số phương tiện và biện pháp tu từ
1. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, ca dao chiếm một vị trí quan trọng. Ca dao là tiếng nói phản ánh đời sống tâm hồn, tình cảm của quần chúng nhân dân, phản ánh lịch sử xã hội, và do vậy, nó là một kho tài liệu phong phú về phong tục, tập quán trong các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. Nội dung trữ tình của ca dao hết sức phong phú. Ta bắt gặp trong ca dao những "tiếng tơ đàn" ngân lên những giai điệu về tình yêu đất nước, tình cảm gia đình, tình yêu lứa đôi, tiếng hát than thân, tiếng cười trào lộng… Xét về hình thức, ca dao là kho kinh nghiệm quý báu trong lĩnh vực nghệ thuật ngôn từ. Không phải ngẫu nhiên, nhiều nhà thơ tài năng ở các thời đại khác nhau đã tìm thấy ở ca dao những bài học sáng tạo đáng giá. Ta mới hiểu vì sao, đối với ngành Ngữ văn lâu nay, việc học tập, tìm hiểu, nghiên cứu ca dao vẫn chưa hề mất tính thời sự. Từ những góc nhìn khác nhau, các nhà nghiên cứu không ngừng cho ra đời các công trình có giá trị về mảng đề tài này. Tuy thế, ca dao Việt Nam, nhất là bộ phận ca dao thuộc các vùng miền vẫn ẩn chứa những vấn đề thú vị, đòi hỏi được tìm hiểu kỹ lưỡng, sâu sắc thêm.
1.2. Trên tấm "bản đồ văn hóa dân gian Việt Nam" miền đất Nam Bộ có nhiều nét đặc thù. Bộ phận ca dao của vùng đất này là một minh chứng sinh động. Với những gì đã sưu tập được, ta có thể thấy tính đa dạng, phong phú và đặc sắc của ca dao Nam Bộ ở cả phương diện nội dung lẫn hình thức biểu hiện.Trong thực tế, việc nghiên cứu ca dao Nam Bộ vẫn chưa được tiến hành đầy đủ, đúng với những gì lẽ ra nó được tìm hiểu. Chọn vấn đề Một số phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ làm đề tài luận văn thạc sĩ, chúng tôi muốn đi sâu vào một trong những biểu hiện đa dạng và đặc sắc nhất của hình thức ca dao vùng này, nhằm khám phá sâu sắc thêm các giá trị tiềm ẩn, cắt nghĩa sức sống lâu bền của nó, đồng thời hiểu được những nét riêng về văn hóa của một vùng đất. Đặt vấn đề này trong bối cảnh nghiên cứu của ngành Ngữ văn hiện nay, chúng tôi cho rằng đây là sự lựa chọn có ý nghĩa.
1.3. Hiện nay, trong chương trình Ngữ văn THPT và nhất là bậc đại học, ca dao được đưa vào giảng dạy và học tập với số lượng tác phẩm đáng kể. Các nhà soạn sách giáo khoa đã có quan điểm đúng khi chú ý đến ca dao của người Kinh và của các tộc người thiểu số, của vùng Bắc cũng như vùng Trung và Nam Bộ. Việc có mặt các tác phẩm ca dao thuộc nhiều vùng miền khác nhau như vậy mới phản ánh được sự đa sắc của nó. Trước tình hình ấy, sự lựa chọn đề tài nghiên cứu của chúng tôi có thêm ý nghĩa thực tiễn. Nếu công trình thực sự có chất lượng, giải quyết tốt nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, chắc chắn sẽ góp phần thiết thực nhất định cho việc tìm hiểu, học tập ca dao ở các bậc học trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề
Việc tìm hiểu tu từ nghệ thuật (nghiên cứu ở phương tiện tu từ ngữ nghĩa) trong ca dao đã và đang được nhiều người quan tâm từ hai góc độ: lý luận và nghiên cứu ứng dụng. Tất nhiên, trong những công trình, bài viết mang tính lý luận vẫn có những ví dụ minh họa như là một phần ứng dụng. Ngược lại, trong những công trình ứng dụng, không thể thiếu những luận điểm lý thuyết.
Cho đến nay, đã có không ít công trình với những tính chất và qui mô khác nhau về ca dao Nam Bộ. Ca dao dân ca Nam Bộ (Bùi Mạnh Nhị chủ biên, Nxb Tp.HCM, 1984) là một cuốn sưu tập, nhưng cũng đã phác họa được đôi nét về đặc điểm nghệ thuật của bộ phận ca dao này. Cuốn Ca dao Đồng Tháp Mười (Đỗ Văn Tân, Sở VH - TT Đồng Tháp, 1984) đã tập hợp trên 900 câu ca dao - một thành công đáng kể trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hoá dân tộc ở vùng Đồng Tháp Mười. Giang Minh Đoán có Kiên Giang qua ca dao (Nxb Tp.HCM, 1997) sưu tầm 272 câu ca dao về thiên nhiên, con người ở vùng đất Kiên Giang, qua đó, tác giả nêu lên một số nét trong phong tục tập quán của vùng sông nước, khu sinh thái U Minh Thượng. Tập thể tác giả của Khoa Ngữ văn Trường đại học Cần Thơ đã sưu tầm các tác phẩm văn xuôi và văn vần dân gian, trong đó có 1020 câu ca dao đề cập đến phong tục tập quán, cách sinh hoạt và những đặc sản vùng miền ở 12 tỉnh thành của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Những nội dung đó được thể hiện qua công trình Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Giáo dục, 1997).
Trong những công trình sưu tập, không thể không nhắc đến cuốn Ca dao - Dân ca Nam kỳ lục tỉnh của Huỳnh Ngọc Trảng, Nxb Đồng Nai, 1998, với 952 câu ca dao dân ca Nam Bộ, dựa trên các tài liệu sưu tập ca dao - dân ca được công bố từ những năm 50, 60 của thế kỷ XX.
Về nghiên cứu, đáng chú ý có bài của tác giả Đặng Văn Lung (1968): Những yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình, Tạp chí Văn học số 10 - 1968, sau này được in trong cuốn Văn học Việt Nam, Văn học dân gian - Những công trình nghiên cứu. Tác giả đề cập đến “những hình ảnh được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong ca dao, mỗi hình ảnh được khai thác ở một số khía cạnh nhất định: hình ảnh con cò, cây tre, trăng, thuyền với bến, cà với muối, cuội với trăng, quán mát với cây đa, bến xưa với đò cũ, mận với đào, lê với lựu… người nghe đã cảm thấy tâm hồn rung động vì đã hiểu được ý người hát, đã bắt đầu đồng cảm. Chính sự lặp đi lặp lại nhiều lần đã làm cho hình ảnh ấy trở nên thân thuộc. Những hình ảnh ấy được vận dụng qua hai cách so sánh trực tiếp và so sánh gián tiếp trong ca dao” [54]. Như vậy, tác giả chỉ đề cập đến phương tiện tu từ ngữ nghĩa (ẩn dụ) và biện pháp tu từ (so sánh) nhằm thể hiện sự tinh luyện về ngôn ngữ hình ảnh, lối nói ví von của nhân dân ta.
Với đề tài Hình ảnh sông nước Nam Bộ qua ca dao dân ca, tác giả Lê Ngọc Trinh (1992) [75] cho rằng sông - nước như một “hằng số” lặp đi lặp lại trong thơ ca dân gian Nam Bộ làm nên một nét văn hóa đặc thù, làm nên một diện mạo riêng biệt không lẫn vào đâu được. Trong bài viết Thiên nhiên trong ca dao - dân ca trữ tình Nam Bộ (1997) [65], Trần Thị Diễm Thúy đã nghiên cứu tính chất phong phú, đa dạng của những hình tượng thiên nhiên liên quan đến: sông nước, miệt vườn, ruộng rẫy, các hiện tượng tự nhiên, vật thể vũ trụ… Đặc biệt, bài viết đề cập rất cụ thể về thế giới nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình Nam Bộ: thiên nhiên và các hiện tượng so sánh, ẩn dụ, biểu tượng… Tác giả xác định: “thiên nhiên thay đổi trong tiến trình khai phá thì văn hóa dân gian cũng in dấu rõ nét”. Đề tài đã góp phần tìm hiểu những đặc điểm riêng của văn hóa vùng đất Nam Bộ. Bùi Thị Tâm - tác giả luận văn thạc sĩ với đề tài Những đặc điểm ngôn ngữ trong ca dao đồng bằng sông Cửu Long (1998) - đã nghiên cứu sự phong phú và đa dạng của lớp từ ngữ mang sắc thái địa phương, đặc điểm câu và câu thơ trong ngôn ngữ ca dao đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt, luận văn cũng đề cập một số công thức mang ý nghĩa biểu trưng như so sánh, ẩn dụ mặc dù công công trình không đi sâu nghiên cứu các phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao [61].
Với bài viết Hình ảnh “thân em” trong ca dao trữ tình đồng bằng sông Cửu Long (2000), tác giả Nguyễn Văn Nở đề cập đến vấn đề so sánh tu từ trong ca dao qua cấu trúc so sánh nổi “Thân em như…” [55]. Nguyễn Thị Ngọc Điệp đã phân loại, miêu tả các biểu tượng nghệ thuật thông qua các hình thức so sánh nổi, ẩn dụ tu từ trong ca dao, đồng thời trình bày cấu tạo và vai trò của chúng đối với thi pháp ca dao người Việt trong luận án tiến sĩ Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt (2002) [17]. Lê Thị Thu Thủy có bài Biểu tượng kênh, rạch, sông trong ca dao dân ca Nam Bộ (2002) [67] đề cập đến những hình ảnh quen thuộc với người dân vùng sông nước nơi đây là chiếc ghe, con đò, dòng sông, chiếc cầu... Trong luận án tiến sĩ Biểu trưng trong ca dao Nam Bộ (2004), Trần Văn Nam đã nghiên cứu về biểu trưng trong ca dao xét trên bình diện thi pháp học, từ đó, tác giả đã nêu bật vai trò của các biểu trưng trong việc thể hiện đặc điểm văn hóa của vùng đất và con người Nam Bộ [46]. Huỳnh Thị Kim Liên với bài Truyền thống và biến đổi trong ca dao dân ca Nam Bộ (2006) đã nghiên cứu sự biến đổi trong ca dao dân ca xét trên bình diện thi pháp học, xét tính biến đổi của ca dao dân ca Nam Bộ về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, từ vựng; có sự so sánh ca dao - dân ca tiêu biểu của người Việt ở cả ba miền Bắc- Trung - Nam [42].
Trên trang web Vannghesongcuulong.org.vn, có bài viết Cảm xúc về sông nước qua ca dao Nam Bộ (2000) của Trần Phỏng Diều. Tác giả cho rằng, trong ca dao dân ca Nam Bộ, tác giả dân gian thường mượn các hình ảnh quen thuộc để ví von nhằm bộc lộ những gì mình muốn nói [13]. Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Na Biểu trưng của hình ảnh sông nước trong ca dao Nam Bộ (2008) tập trung nghiên cứu về sông nước trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của người dân Nam Bộ [43]. Trong luận văn thạc sĩ Từ địa phương trong ca dao - dân ca Nam Bộ (2008), Trần Đức Hùng tìm hiểu các lớp từ địa phương được sử dụng trong ca dao - dân ca. Tác giả còn chỉ ra vai trò nghệ thuật của từ địa phương như: từ địa phương với biểu tượng và cấu trúc sóng đôi; từ địa phương trong vai trò so sánh, ẩn dụ; vai trò nghệ thuật chơi chữ… [27]. Với đề tài Cấu trúc so sánh “Thân em…” trong ca dao Nam Bộ về chủ đề thân phận người phụ nữ (2009), Cao Thị Cẩm Tú tập trung phân tích giá trị của cấu trúc so sánh “Thân em như...” trong ca dao Nam Bộ để làm nổi bật chủ đề thân phận người phụ nữ [70].
Nhìn chung, vấn đề tu từ trong ca dao Nam Bộ được đề cập trong không ít bài viết, công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là những bài viết lẻ, hoặc chỉ là một vài tiểu mục nào đó trong luận văn, luận án, nghĩa là vẫn chưa có công trình nào khảo sát một cách đầy đủ, có hệ thống các phương tiện và biện pháp tu từ nghệ thuật. Điều đó càng kích thích chúng tôi mạnh dạn đi vào đề tài này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc điểm tu từ nghệ thuật trong ca dao Nam Bộ. Tư liệu khảo sát chính về ca dao Nam Bộ là quyển Ca dao dân ca Nam Bộ [18]. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo những quyển như: Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long [33] (tập 3), Ca dao Đồng Tháp Mười [60], Ca dao dân ca Nam kỳ lục tỉnh [74].
4. Mục đích nghiên cứu
- Nhận diện một cách đầy đủ các phương tiện và biện pháp tu từ được sử dụng ở ca dao Nam Bộ, phân tích giá trị biểu đạt; so sánh, đối chiếu để làm nổi bật những nét riêng, đặc sắc của ca dao Nam Bộ so với ca dao các vùng miền khác, từ đó, thấy được những nét riêng trong bản sắc văn hóa của vùng đất này.
- Vận dụng thao tác phân tích ngôn ngữ học vào việc tiếp cận tác phẩm ca dao, rút ra những nguyên tắc cần thiết cho việc đọc hiểu ca dao đang đặt ra trong nhà trường hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng và phối hợp các phương pháp chính sau đây:
- Phương pháp thống kê,
- Phương pháp hệ thống,
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ học,
- Phương pháp so sánh,
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Ca dao và vấn đề nghiên cứu hình thức nghệ thuật của ca dao.
Chương 2: Một số phương tiện tu từ trong ca dao Nam Bộ.
Chương 3: Một số biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ. Sau cùng là Tài liệu tham khảo.
Chương 1: CA DAO VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT CỦA CA DAO
1.1. Ca dao và các hướng nghiên cứu ca dao ở Việt Nam
1.1.1. Khái quát về ca dao Việt Nam
Trong ngành nghiên cứu Ngữ văn nước ta, ca dao là đối tượng được nghiên cứu khá sớm và đạt nhiều thành tựu. Riêng vấn đề thuật ngữ, khái niệm ca dao đã được lý giải ở nhiều công trình. Trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm cho rằng: "Ca dao (ca: hát; dao: bài hát không có chương khúc) là những bài hát ngắn lưu hành trong dân gian, thường tả tính tình, phong tục của người bình dân" [Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm, Trung tâm học liệu Sài Gòn in năm 1968, tr.11].
Từ điển thuật ngữ văn học, (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi chủ biên) định nghĩa: "Ca dao còn gọi phong dao. Thuật ngữ ca dao được dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có khúc điệu. Ca dao là danh từ ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu. Trong trường hợp này ca dao đồng nghĩa với dân ca" [21, tr.31].
Các tác giả công trình Lịch sử văn học Việt Nam, tập 1 viết: "Ca dao là những bài hát có hoặc không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần dân tộc (thường là lục bát) để miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn đạt tình cảm" [73, tr.3].
Theo Vũ Ngọc Phan, “Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các làn điệu dân ca” [56, tr.42].
Các nhà nghiên cứu văn học dân gian Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên cho rằng: “Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán Việt. Theo cách hiểu thông thường thì ca dao là lời của các bài dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy, hoặc ngược lại là những câu thơ có thể bẻ thành những làn điệu dân ca” [31, tr.295-296].
Các định nghĩa về ca dao đã trình bày ở trên mặc dù có khác nhau ít nhiều, nhưng cơ bản vẫn thống nhất trên những điều cơ bản: ca dao là những câu thơ có thể hát lên, ngâm lên thành những làn điệu dân ca.
Ca dao là lời dân ca tách khỏi điệu nhạc, dân ca là lời thơ dân gian đi kèm với điệu nhạc. Tuy nhiên, lời và nhạc gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong văn chương, người ta đề cập tới ca dao dân ca như là thơ dân gian.
Ca dao - dân ca bao gồm: dân ca nghi lễ, dân ca lao động, ca dao - dân ca trữ tình. Ca dao - dân ca trữ tình là tiếng hát "đi từ trái tim lên miệng", phản ánh trực tiếp những cảm xúc tâm trạng của con người, thái độ cảm xúc của con người đối với thực tại xung quanh.
Như vậy, ca dao là những câu thơ có thể hát thành những làn điệu dân ca, hát ru… hoặc ca dao là lời dân ca đã lược bỏ những luyến láy khi hát. Ca dao thực sự là những sáng tạo của nhân dân ở phương diện ngôn ngữ văn học.
Ca dao là một thể loại quan trọng của văn học dân gian. Ca dao Việt Nam là nơi lưu giữ nhiều giá trị tinh thần của nhân dân ta. Có thể nói, muốn biết tình cảm của nhân dân Việt Nam dồi dào, thắm thiết, sâu sắc đến mức độ nào, rung động nhiều về khía cạnh nào của cuộc đời thì không thể không nghiên cứu ca dao. Thật vậy, ca dao diễn tả đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân trong các quan hệ lứa đôi, gia đình, quê hương, đất nước,… Ra đời trong xã hội cũ, ca dao trữ tình là những tiếng hát than thân, phản kháng; những lời ca yêu thương tình nghĩa cất lên từ cuộc đời còn nhiều xót xa, cay đắng nhưng đằm thắm ân tình của người bình dân Việt Nam sau lũy tre xanh, bên giếng nước, gốc đa, sân đình,… Bên cạnh đó, còn có những bài ca dao hài hước thể hiện tinh thần lạc quan của người lao động.
Ngoài việc biểu hiện đời sống vật chất, tinh thần của con người, ca dao còn phản ánh ý thức lao động, sản xuất của nhân dân Việt Nam và tình hình xã hội thời xưa về nhiều mặt kinh tế, chính trị,…
Ca dao không chỉ bộc lộ cảm xúc chân thành mãnh liệt thắm thiết của người bình dân, mà còn cho ta thấy phẩm chất của họ trong quan hệ với thiên nhiên và xã hội.
Ca dao có những đặc điểm nghệ thuật riêng, khác với thơ của văn học viết. Lời ca dao thường ngắn, phần lớn đặt theo thể lục bát hoặc lục bát biến thể, ngôn ngữ gần gũi với lời nói hằng ngày, giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ và đặc biệt là lối diễn đạt bằng một số phương thức mang đậm sắc thái dân gian.
1.1.2. Nghiên cứu ca dao dưới góc độ văn học
Phải khẳng định rằng, cho đến nay, nghiên cứu về ca dao, thành tựu chủ yếu vẫn thuộc về các nhà nghiên cứu văn học.
Từ những năm trước cách mạng tháng Tám năm 1945, một số nhà nghiên cứu đã có ý thức sưu tầm ca dao Việt Nam (lúc bấy giờ người ta còn gọi là phong dao). Một trong những người đi tiên phong là Nguyễn Văn Ngọc với công trình Tục ngữ phong dao, Nxb Vĩnh Hưng Long, 1928. Ngoài ra phải kể đến Phong dao và ca dao mới, Nhà in Phúc Văn, Hà Nội, 1932; Phong dao, ca dao, phương ngôn tục ngữ của Nguyễn Tấn Chiểu, Nhà in Thái Sơn, Hà Nội, 1934; Ca dao ngạn ngữ của Trần Công Hoán, Editions Hương Phong, 1939... Sau cách mạng, việc sưu tầm nghiên cứu văn học dân gian nói chung, ca dao dân ca nói riêng được đẩy mạnh. Về sưu tầm, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Ca dao Việt Nam trước cách mạng của Tổ Văn học dân gian (Viện văn học), Nxb Văn học, 1963; Ca dao sưu tầm ở Thanh Hóa của nhóm Lam Sơn, Nxb Văn học, 1963; Ca dao ngạn ngữ Hà Nội, Hội Văn nghệ Hà Nội xuất bản, 1971; Ca dao Nghệ Tĩnh, Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao biên soạn, Sở Văn hóa Thông tin Nghệ Tĩnh xuất bản, 1984;... Quy mô hơn cả là bộ Kho tàng ca dao người Việt do Nguyễn Xuân Kính chủ trì biên soạn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001. Đây là bộ sách tập hợp đầy đủ nhất ca dao Việt Nam trên cơ sở những tài liệu đã có từ trước.
Bên cạnh sưu tầm, việc tìm hiểu, nghiên cứu ca dao cũng đã được chú ý đúng mức. Ngay từ những năm trước cách mạng, trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu - một bộ sách giáo khoa đồng thời là một bộ lịch sử văn học - Dương Quảng Hàm đã có cách nhìn nhận, đánh giá về ca dao Việt Nam. Sau cách mạng, các bộ Lịch sử văn học Việt Nam của các trường đại học đều có phần viết về văn học dân gian, trong đó có ca dao. Công trình Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam của Cao Huy Đỉnh (1974) đã dành một phần đáng kể viết về thơ ca trữ tình dân gian. Tác giả Hoàng Tiến Tựu là nhà giáo, từng có công sưu tầm ca dao và giảng dạy ca dao ở trường đại học. Bên cạnh phần viết về Văn học dân gian của bộ Lịch sử văn học Việt Nam, ông còn là tác giả của công trình Bình giảng ca dao, Nxb GD, Hà Nội, 1992. Nghiên cứu ca dao từ góc độ thi pháp, Nguyễn Xuân Kính đã có cái nhìn khá toàn diện vấn đề hình thức ca dao, từ ngôn ngữ, thể thơ, kết cấu, thời gian và không gian nghệ thuật, một số biểu tượng hình ảnh... Những nội dung này được trình bày trong cuốn Thi pháp ca dao, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2004.
Như vậy, vấn đề nghiên cứu ca dao Việt Nam từ góc độ văn học đã có một bề dày lịch sử. Công việc sẽ còn được tiếp tục ở các thế hệ sau - những thế hệ có điều kiện tiếp cận với những phương pháp nghiên cứu mới của thế giới về folklore.
1.1.3. Nghiên cứu ca dao dưới góc độ ngôn ngữ học
Bên cạnh hướng nghiên cứu văn học, ca dao còn được tìm hiểu dưới góc độ ngôn ngữ học, và hướng nghiên cứu khá mới mẻ này cũng đã gặt hái được nhiều thành công.
Dưới góc nhìn ngôn ngữ học, ca dao được tìm hiểu khá toàn diện về hình thức. Có thể nói, hầu như mọi cấp độ ngôn ngữ ca dao đều đã được nghiên cứu. Phong phú nhất, có lẽ là các bài viết, công trình tìm hiểu về từ ngữ trong ca dao. Có những bài đi sâu phân tích, thẩm bình nghệ thuật dùng từ ở những bài ca dao cụ thể (các bài bình ca dao của Hoàng Tiến Tựu). Nhiều bài đi sâu khảo sát một phương diện nào đó về từ ngữ trong ca dao. Đó là vấn đề địa danh của các địa phương trong ca dao; vấn đề phương ngữ, thành ngữ, tục ngữ, từ gốc Hán, điển cố gốc Hán trong ca dao; là hiện tượng từ trái nghĩa trong ca dao; so sánh cách dùng từ ngữ trong ca dao và trong thơ bác học; ý nghĩa của những con số thường gặp trong ca dao; cách sử dụng từ xưng hô trong ca dao...
Về tu từ, không ít bài đi vào các phương tiện và biện pháp cụ thể mà ca dao sử dụng. Nguyễn Văn Liên tìm hiểu Một số phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao tình yêu đôi lứa xứ Nghệ (Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Vinh, 1999); Hà Châu bàn về Cách so sánh trong ca dao ngày nay (Tạp chí Văn học, số 9, 1966); Nguyễn Thị Ngọc Điệp nghiên cứu Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt (Luận án tiến sĩ, Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh, 2002); Hoàng Thị Kim Ngọc khảo sát So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình người Việt (Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ, 2004). Chuyên luận Thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân Kính cũng là công trình đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến ngôn ngữ ca dao. Đây là điều tất yếu, bởi thi pháp là khoa học nghiên cứu hình thức trong mối quan hệ hữu cơ với nội dung tác phẩm.
Ngoài ra, có không ít công trình, bài báo đặt nhiệm vụ nghiên cứu một cách toàn diện ngôn ngữ ca dao, từ các thể thơ, cách hiệp vần, đến giá trị biểu trưng của hình ảnh được sử dụng trong ca dao.
Như vậy, việc nghiên cứu ca dao từ góc độ ngôn ngữ học là hướng đi đầy triển vọng. Với phương pháp nghiên cứu đặc thù, nó có thể khám phá những giá trị của ca dao truyền thống mà hướng nghiên cứu khác chưa đạt được.
1.2. Vấn đề nghiên cứu hình thức nghệ thuật của ca dao
Khi nhắc đến các phạm trù hình thức trong ca dao, người ta thường đề cập đến thể thơ và cấu tứ trong ca dao.
Về thể thơ: trong ca dao truyền thống của người Việt có mặt hầu hết các thể thơ được dùng trong các thể loại văn vần khác nhau của dân tộc như: tục ngữ, câu đố, vè… Các thể thơ đơn giản (câu ngắn, ít âm tiết) thường được gọi là các thể nói lối hay các thể vãn (bao gồm vãn hai, vãn ba, vãn bốn, vãn năm, mỗi câu gồm hai, ba, bốn, năm âm tiết). Các thể thơ này đều thấy có trong tục ngữ, câu đố và được dùng phổ biến trong đồng dao và ca dao nghi lễ, phù chú.
Thể vãn hai và vãn bốn thường dễ lẫn với nhau, khó phân biệt rạch ròi. Vì câu thơ bốn âm tiết (vãn bốn) được ngắt theo nhịp 2/2 thì đọc lên nghe cũng tương tự như câu thơ hai âm tiết (vãn hai). Ngược lại, những câu hai âm tiết, nếu đọc nhanh (không ngừng lâu ở âm tiết thứ hai) thì nghe cũng gần như thể vãn bốn. Chẳng hạn, những câu thơ sau đây có thể đọc thành vãn hai hay vãn bốn đều được:
Chi chi chành chành
Cái đanh nổi lửa
Con ngựa chết trương
Ba vương thượng đế
Cấp kế đi tìm Ú tim ù ập…
Ngoài yếu tố nhịp, thể vãn hai hay vãn bốn còn dễ hòa lẫn với nhau do yếu tố vần. Vần trong thể vãn bốn được gieo cả ở tiếng bằng lẫn tiếng trắc, cả ở câu cuối (vần cuối - cược vận) lẫn giữa câu (vần lưng - yêu vận), cho nên khi đọc muốn chuyển thành vãn hai rất dễ dàng, thuận lợi.
Thể vãn ba, tuy ít được dùng nhưng tính độc lập rất cao, khó lẫn với các thể khác:
Xỉa cá mè
Đè cá chép
Chân nào đẹp
Đi buôn men…
Hai thể thơ được dùng nhiều nhất đồng thời cũng tiêu biểu và quan trọng nhất trong ca dao truyền thống là lục bát và song thất lục bát. Thể lục bát (bao gồm cả lục bát chỉnh thể - mỗi câu gồm hai vế, vế trên sáu âm tiết, vế dưới tám âm tiết: “thượng lục hạ bát” và “lục bát biến thể” - số âm tiết trong mỗi vế có thể tăng hoặc giảm) được sử dụng rộng rãi và thường xuyên nhất trong ca dao các địa phương trong cả nước. Đây là thể thơ phù hợp với ngôn ngữ Việt và tâm hồn Việt. Do đó, nó cũng là thể thơ sở trường nhất của các nhà thơ Việt, kể cả văn học dân gian và bác học. Nhiều áng thơ hay trong văn học dân tộc thuộc thể lục bát (Truyện Kiều, thơ lục bát Nguyễn Bính, Huy Cận, Nguyễn Duy..).
Thể song thất lục bát (hay lục bát gián thất) tuy không phổ biến và giàu sức biểu hiện bằng lục bát, nhưng cũng là một thể thơ dân gian, bắt nguồn từ dân ca mang cốt cách dân tộc độc đáo, khác với thể thơ bảy chữ (thất ngôn) của Trung Quốc. Thơ thất ngôn của Trung Quốc gieo vần ở cuối câu (vần chân - cước vận), ngắt nhịp ở tiếng thứ tư (nhịp 4/3), còn thể song thất lục bát của Việt Nam thì hai câu bảy được gieo vần trắc ở câu thứ nhất và tiếng thứ năm câu thứ hai (nghĩa là có cả vần chân và vần lưng), ngắt nhịp ở tiếng thứ ba (nhịp 3/4). Do những đặc điểm đó mà thể thơ này có khả năng thể hiện riêng, khác với thể thất ngôn Trung Quốc và cũng khác với thể lục bát. Nó diễn tả được những trạng thái tình cảm đặc biệt, những nỗi buồn đau uất hận ở mức độ cao, những sự gay cấn, khúc mắc, xung đột gay gắt trong tâm trạng. Khả năng biểu hiện đặc biệt này, phần lớn là do sự gieo vần ở tiếng trắc gây ra.
Ngoài vần trắc (ở cuối câu thứ nhất và tiếng thứ năm câu thứ hai), thể song thất trong ca dao còn có thêm vần bằng ở giữa câu thứ nhất, có khi mở bài và kết thúc bằng thơ lục bát, còn bốn câu bảy nằm ở giữa như cái lõi của bài ca dao.
Về cấu tứ trong ca dao: trong mỗi bài ca dao không chỉ có ý mà còn có tứ. Ý là nội dung tương đối độc lập với hình thức, còn tứ đã được tổ chức, thể hiện dưới một hình thức nghệ thuật nhất định, làm nên cái hay riêng của mỗi bài ca dao. Trong ca dao truyền thống, những câu, những bài giống nhau hoặc gần nhau về ý nhưng có cấu tứ khác nhau khá phổ biến. Khi giảng dạy và học tập ca dao, điều khó nhất là tìm được, nắm được cái tứ riêng của từng bài để hiểu đúng được cái hay riêng của nó. Nếu chỉ sa vào việc tìm ý mà coi nhẹ hoặc bỏ qua việc tìm tòi, phát hiện tứ và cấu tứ của từng bài thì sẽ làm cho công việc giảng dạy và học tập ca dao trở nên nghèo nàn, đơn điệu, khô cứng.
Khi nói đến cấu tứ và nghệ thuật làm ca dao, các nhà nghiên cứu thường nêu lên ba kiểu cấu tứ phổ biến trong ca dao là thể phú, thể tỉ, thể hứng và coi hầu hết ca dao truyền thống đều được làm theo một trong ba thể ấy.
Dựa vào sự phân chia cấu tứ, có thể phân ca dao truyền thống thành hai bộ phận lớn: bộ phận thứ nhất gồm những bài (kể cả những câu độc lập) không có cấu tứ độc đáo (hay nói cách khác là sự cấu tứ còn ở trình độ rất thấp, rất tự nhiên, ngộ nghĩnh nhiều khi có tính chất ngẫu nhiên, tản mạn). Phần lớn những bài đồng dao, những bài ca khấn nguyện, những câu hát bông đùa bâng quơ đều thuộc loại này. Bộ phận thứ hai, gồm những bài có cấu tứ độc đáo rõ rệt. Phần lớn những bài ca dao trữ tình có giá trị, được nhiều người lưu truyền ưa thích đều thuộc bộ phận này. Vì thế, mỗi bài có cấu tứ riêng rất độc đáo và nhiều khi rất tinh tế, không bài nào giống bài nào (dù là về nội dung tức là về ý rất gần nhau hoặc giống nhau).
1.3. Tu từ nghệ thuật trong ca dao
1.3.1. Khái niệm tu từ nghệ thuật
Phong cách học là khoa học nghiên cứu sự vận dụng ngôn ngữ, là khoa học về các quy luật nói và viết có hiệu lực cao, nghĩa là, nói và viết đạt được tính chính xác và tính thẩm mỹ trong mọi phạm vi hoạt động của giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Ngôn ngữ được sử dụng có hiệu quả cao có nghĩa là ngôn ngữ phải giúp con người chuyển tải được một cách đầy đủ nhất những nội dung cần thực hiện trong giao tiếp (kể cả dạng nói và dạng viết). Phong cách học là khoa học hướng tới những nhiệm vụ thiết thực nêu trên của ngôn ngữ.
Theo một cách lý giải, “Phong cách học là một bộ phận của ngôn ngữ học nghiên cứu nguyên tắc, quy luật lựa chọn và hiệu quả lựa chọn, sử dụng toàn bộ các phương tiện ngôn ngữ nhằm biểu hiện một nội dung tư tưởng, tình cảm nhất định trong những phong cách chức năng ngôn ngữ nhất định” [69, tr.29].
Phong cách học có vai trò to lớn trong việc nghiên cứu, xác định cái đẹp của ngôn ngữ; nghiên cứu tác dụng trở lại của hình thức ngôn ngữ đối với nội dung diễn đạt tức là cũng nghiên cứu sự lựa chọn, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ phù hợp nhất với nội dung tư tưởng, tình cảm trong những điều kiện hoàn cảnh giao tiếp nhất định.
Muốn cảm nhận cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ, cần khảo sát, phân loại và miêu tả có hệ thống phương tiện tu từ và biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản. Qua đó, chúng ta sẽ thấy được giá trị nghệ thuật của các phương tiện tu từ và biện pháp tu từ ấy trong việc biểu hiện tư tưởng, tình cảm của tác phẩm văn học. Do đó, phương tiện tu từ là phương tiện ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa sữ vật - lôgic) ra, chúng còn có ý nghĩa bổ sung, còn có màu sắc tu từ; còn biện pháp tu từ là cách phối hợp sử dụng trong hoạt động lời nói các phương tiện ngôn ngữ, không kể trung hòa hay tu từ (còn được gọi là diễn cảm) trong một ngữ cảnh rộng để tạo ra hiệu quả tu từ.
1.3.2. Vấn đề tu từ nghệ thuật trong ca dao
Phương tiện tu từ và biện pháp tu từ là khái niệm cơ sở của phong cách học. Mọi hoạt động ngôn ngữ đều có mục đích, phương tiện (công cụ) biện pháp (cách thức) nhất định. Muốn cảm nhận, chiếm lĩnh giá trị đích thực của tác phẩm văn học cần phải nắm vững và đánh giá được chức năng và vai trò của phương tiện tu từ và biện pháp tu từ - những yếu tố quan trọng tạo nên giá trị thẩm mỹ. Phân loại, phân tích đánh giá được các phép tu từ là nắm chắc chìa khóa để mở cánh cửa đi vào cảm thụ giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm văn chương.
Phương tiện và biện pháp tu từ là những yếu tố quan trọng tạo nên vẻ đẹp của tác phẩm văn học dân gian, nhất là thơ ca trữ tình. Do yêu cầu biểu đạt của nó, ca dao là thể loại mà ở đó, các phương tiện và biện pháp tu từ được sử dụng một cách rộng rãi nhất.
Chỉ cần đọc qua ca dao của bất cứ vùng đất nào, có thể dễ dàng nhận thấy tác giả dân gian thật phóng túng về phương diện tu từ. Về tu từ ngữ âm, cách gieo vần, tạo nhịp, phối ứng thanh điệu, sử dụng từ láy, phép điệp âm... là những biện pháp được dùng với tần suất cao. Về tu từ từ vựng, có thể nhận thấy sự khác biệt của các lớp từ mang dấu ấn phong cách như từ địa phương, từ địa danh, từ nghề nghiệp, từ thi ca, từ sinh hoạt... trong ca dao thuộc mọi chủ để. Về tu từ ngữ nghĩa, so sánh, nhân hóa, thậm xưng, chơi chữ, nói giảm, nói tránh... là những biện pháp rất được ưa dùng trong ca dao. Về tu từ cú pháp, phép song song, phép lặp, câu hỏi tu từ... cũng được sử dụng nhiều. Có thể khẳng định, ca dao là mảnh đất màu mỡ cho việc nghiên cứu các biện pháp và phương tiện tu từ trong văn học. Từ trước đến nay, nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, thi pháp học đã ít nhiều đề cập đến vấn đề tu từ trong ca dao trữ tình Việt Nam như Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật, Hoàng Tiến Tựu, Triều Nguyên… Các tác giả đã đưa ra những kiến giải, kết luận có giá trị về đặc điểm tu từ, màu sắc tu từ trong các tác phẩm văn chương nói chung, trong ca dao nói riêng dưới ánh sáng của phong cách học, thi pháp học. Các tác giả đã đánh giá sắc thái tu từ qua việc lựa chọn, sử dụng các phương tiện, biện pháp tu từ qua các mặt từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp và ngữ âm, từ đó, đưa ra những kết luận khoa học có giá trị.
1.4. Ca dao Nam Bộ và việc sử dụng các hình thức nghệ thuật trong ca dao Nam Bộ
1.4.1. Vài nét về vùng đất và con người Nam Bộ
1.4.1.1. Vài nét vùng đất Nam Bộ
Nam Bộ là một vùng đất cuối cùng phía Nam của Tổ quốc - miền đất vừa rất cổ lại vừa rất mới. Từ lâu đã có những nền văn hóa độc đáo nằm rải trên một địa bàn rộng lớn ở cả vùng trên, vùng dưới lưu vực sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Trước thế kỷ XVI, miền đất này chìm trong hoang sơ của rừng rậm, sình lầy… Từ đầu thế kỷ XVII, cùng với số dân bản địa ít ỏi và thưa thớt (chủ yếu là người Chăm và người Khơ-me), những người Việt lớp trước và lớp sau, bằng nhiều con đường vượt bể, xuyên rừng, băng núi, với mọi nỗ lực phi thường, đã đến miền đất này lật thêm những trang sử vàng chói lọi cho một thời kỳ khai phá mới.
Từ đó tới nay, hơn 300 năm, trên vùng đất mới này của Tổ quốc đã trải qua những biến động lớn. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, cuộc khẩn hoang vĩ đại nhất của dân tộc ta về chiều rộng cũng như chiều sâu. Trận thủy chiến vang lừng của nghĩa quân Tây Sơn đã tiêu diệt năm vạn quân Xiêm xâm lược. Nơi đây, chứng kiến sự nổi dậy và ngã gục của triều đình phong kiến nhà Nguyễn; chứng kiến bước đường xâm lược và sự thất bại nhục nhã của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chính nơi này, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã được giữ gìn và phát huy rực rỡ, phong phú. Thực dân Pháp xâm lược nước ta, thực hiện chính sách “chia để trị”, chia nước Việt Nam thành 3 kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ. Trái với ý đồ của kẻ thù, nhân dân ta với tư tưởng và tình cảm hướng về một cội nguồn, một chỉnh thể thống nhất giữa các miền của Tổ quốc. “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi” (Hồ Chí Minh).
Xét về mặt địa lý tự nhiên, vùng đất Nam Bộ bao gồm 17 tỉnh từ Bình Phước trở xuống phía nam và hai thành phố là thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ. Miền đất Nam Bộ đã hình thành hai khu vực lớn: Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Nối liền hai khu vực đó là thành phố Hồ Chí Minh. Đông Nam Bộ rộng khoảng 26.000 km2 , bao gồm các tỉnh Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh. Vùng đất này cao, phù sa cổ đệm giữa cao nguyên với châu thổ Cửu Long; có những ngọn núi thưa thớt xen giữa các triền đồi đất đỏ hoặc đất xám trùng điệp, lượn sóng nhấp nhô, rừng bạt ngàn, ít sông rạch. Những cư dân người Việt đã cư ngụ đầu tiên ở mảnh đất này trước khi lấn xuống đồng bằng sông Cửu Long. Còn Tây Nam Bộ với diện tích hơn 40.000 km2 , bao gồm các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ. Nhìn chung, vùng Tây Nam Bộ được khai thác muộn hơn Đông Nam Bộ. Nếu như trước đây, cư dân bản địa không thể khai phá rộng rãi và cư ngụ lâu dài ở châu thổ sông Cửu Long, buộc phải thu mình trên những giồng đất, gò đồi, thì sau này, những cư dân Việt đã làm được điều đó. Đồng bằng Tây Nam Bộ hay còn gọi là đồng bằng sông Cửu Long. Là sản phẩm bồi tụ của sông Cửu Long - một trong mười con sông lớn nhất thế giới. Đồng bằng sông Cửu Long tương đối thấp, bằng phẳng, khí hậu mát mẻ, điều hòa quanh năm, là châu thổ phì nhiêu, trung tâm công nghiệp lớn nhất của nước ta. Trên đồng bằng này có nhiều dòng chảy tự nhiên, tạo nên một mạng lưới sông rạch chi chít. Theo thời gian con người đã đan thêm vào hệ thống đường thủy tự nhiên ấy những hệ thống kênh đào dày đặc, phục vụ cho các mục đích kinh tế, văn hóa, quốc phòng. Hiếm có nơi nào mà đời sống con người lại gắn bó mật thiết với sông nước như ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, ở vùng đồng bằng sông Cửu Long còn có những cánh đồng mênh mông, màu mỡ - vựa lúa của nước ta và khu vực Đông Nam Á. Chính điều kiện tự nhiên và con người nơi đây đã góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển nền văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có ca dao Nam Bộ.
Theo lịch sử, trước kia nơi đây vốn là lãnh thổ của nước Phù Nam và Chân Lạp. Thời chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn, vùng đất này là xứ Gia Định, mới được khai khẩn từ thế kỷ 17. Năm 1698, xứ Gia Định được chia thành 3 dinh: PhiênTrấn, Trấn Biên và Long Hồ. Vua Gia Long nhà Nguyễn gọi vùng này là Gia Định Thành, bao gồm 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (tức là Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường và Hà Tiên. Năm 1834, vua Minh Mạng gọi là Nam Kỳ. Năm 1859, Pháp đánh chiếm thành Gia Định, mở đầu cuộc xâm lược đất Việt Nam. Ngày 13 tháng 4 năm 1862, triều đình Huế cắt 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định và Định Tường) nhượng cho Pháp. Năm 1867, Pháp đơn phương tuyên bố toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ là lãnh địa của Pháp. Từ đó, Nam Kỳ được hưởng quy chế thuộc địa, với chính quyền thực dân, đứng đầu là một thống đốc người Pháp. Năm 1887, Nam Kỳ trở thành một vùng lãnh thổ nằm trong Liên bang Đông Dương. Tháng 3 năm 1945, Thống sứ Nhật Nashimura đổi Nam Kỳ thành Nam Bộ. Năm 1945, thời Đế quốc Việt Nam với chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố sáp nhập Nam Kỳ lại thành một bộ phận của nước Việt Nam độc lập. Sau khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ đó ra mắt ngày 25 tháng 8 năm 1945 do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch. Sau cuộc đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đã tuyên bố trao lại quyền độc lập cho Việt Nam do vua Bảo Đại cai trị. Cùng với việc thành lập chính phủ, vua Bảo Đại cũng cho phân vùng lãnh thổ Việt Nam thành 3 khu vực hành chính, trong đó Nam Bộ là khu vực tương ứng với Nam Kì cũ. Thực dân Pháp nổ súng ở Sài Gòn ngày 23 tháng 9 năm 1945 rồi dần dần đánh rộng ra chiếm lại Nam Bộ. Chính phủ Nam Kỳ quốc được thành lập theo sự chỉ đạo của Pháp hòng tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam với tên Nam Kỳ Quốc. Không đánh bại được Việt Minh, Pháp phải dựng "giải pháp Bảo Đại", công nhận nền độc lập và sự thống nhất của Việt Nam. Cuối cùng ngày 22 tháng 5 năm 1949, Quốc hội Pháp chính thức bỏ phiếu thông qua việc trả Nam Bộ cho Việt Nam. Nam Bộ trở thành lãnh thổ nằm trong Quốc gia Việt Nam. Trải qua hơn 300 năm với nhiều tên gọi khác nhau, cuối cùng tên gọi Nam Bộ dùng để chỉ mảnh đất phía Nam của Tổ quốc. Nam Bộ là tên gọi được sử dụng lâu dài nhất cho đến ngày nay.
Văn hóa Nam Bộ được tính mốc là năm 1623 khi vua Chân Lạp cho chúa Nguyễn di dân Việt đến định cư ở Prey Kụr (thành phố Hồ Chí Minh hiện nay). Vùng đất Nam Bộ bấy giờ chỉ là một vùng hoang dại với hệ thống đất đai trũng, úng, sình lầy và sông rạch chằng chịt. Bắt đầu từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Tiểu, Cửa Đại trở vào, dân cư chủ yếu là người Chăm và Khơ- me. Cuối thế kỷ 17, chúa Nguyễn tiếp nhận một đoàn người Hoa đến quy thuận và cho họ đến khai phá và định cư ở Biên Hoà - Đồng Nai. Tiếp đó mộ dân từ Quảng Bình vào và chia đặt doanh, huyện, lập hộ tịch. Như vậy, phải gần một thế kỷ sau Nam Bộ mới bước đầu được định hình một vùng văn hóa. Một nền văn hóa vùng miền hình thành qua thời gian một thế kỷ không phải là dài và khi người Việt đến vùng đất mới mang theo hành trang với vốn văn hóa đúc kết hàng ngàn năm của dân tộc Việt đã góp phần tạo nên nền tảng của hệ giá trị văn hóa Nam Bộ. Những giá trị trải qua quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội trong lịch sử, dần tạo nên những giá trị của nền văn hóa Nam Bộ như hiện nay.
Đất Nam Bộ cũng là một vựa lúa chính, đồng thời là vựa trái cây nổi tiếng với đủ các chủng loại hoa quả miền nhiệt đới. Từ chôm chôm, vú sữa, măng cụt, sầu riêng cho đến mít, chuối, xoài, ổi, nhãn, cam, quít... Mỗi địa phương đều có bảo tồn loại sản vật riêng, đa dạng và phong phú. Với ưu thế sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, bưng biền ngập nước mênh mông là nơi sinh sống lý tưởng của rắn rết, cá sấu, rùa , ba ba, tôm, cá, cua, còng... và cả các loại chim chóc nữa. Nam Bộ tập trung nhiều món ăn ngon, nhiều sản vật lạ từ lâu đó đi vào kho tàng văn học dân gian.
Nam Bộ là vùng đất vừa có bề dày lịch sử văn hóa lại vừa giàu sức trẻ do các tộc người ở đây đang dày công gây dựng nên. Từ vị thế địa lý, văn hóa, Nam Bộ đang trở thành trung tâm của quá trình tiếp biến văn hóa. Điều đó phần nào tạo cho vùng đất này những nét đặc thù, diện mạo mới đối với các vùng văn hóa khác ở Việt Nam. Hệ giá trị văn hóa Nam Bộ là truyền thống văn hóa dân tộc và những giá trị cốt lõi hình thành phong cách văn hóa riêng của vùng. Tính mở của một vùng đất mới đã làm nên tính năng động, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm của người dân Nam Bộ. Tính mở là cơ sở cho việc tiếp nhận và tiếp biến thành công nhiều giá trị văn hóa cao và tiến tới một nền văn minh hiện đại.
Như vậy, vùng đất Nam Bộ hiện lên với vẻ hoang sơ nhưng rất cởi mở thuần hậu và chất phác,… Những nét độc đáo về địa hình sông nước và văn hóa của vùng “đất trẻ” đã tạo nên một Nam Bộ với sức sống riêng: mạnh mẽ, độc đáo và hấp dẫn.
1.4.1.2. Vài nét về con người Nam Bộ
Khi nghiên cứu ca dao Nam Bộ, chúng ta cần tìm hiểu về con người và tính cách đặc trưng của con người nơi đây. Bởi vì, ca dao Nam Bộ đã nêu bật được những nét tính cách, văn hóa, ngôn ngữ một cách rõ nét nhất. Khi nghiên cứu về tính cách người Việt ở Nam Bộ, các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng người Nam Bộ rất năng động sáng tạo, hào hiệp trong cuộc sống, hiếu khách, bình đẳng trong giao tiếp, ít bảo thủ, yêu nước nồng nàn, trọng nhân nghĩa, bộc trực, thẳng thắn.
Thứ nhất là tính năng động sáng tạo của người Nam Bộ. Tính cách này thể hiện rõ ở nhiều khía cạnh khác nhau như khả năng thích nghi với cuộc sống khắc nghiệt trên vùng đất mới, sự cải biến các yếu tố văn hóa vật chất và tinh thần để hòa hợp với điều kiện mới. Chính điều này đã tạo cho người dân Nam Bộ có những nét riêng khá độc đáo so với các vùng miền khác. Vùng đất mới còn hoang sơ vừa khơi dậy tiềm năng khai thác dồi dào vừa là một thách thức nghiệt ngã đối với những con người muốn dấn thân. Nếu như không phát huy được tính cần cù, dũng cảm vốn có của người dân Việt thì khó có thể tồn tại được. Trong buổi đầu khai khẩn vùng đất Nam Bộ, chúng ta thấy có đủ hạng người đến đây quần tụ: phần đông là những người mất phương kế sinh nhai nơi quê cũ vì bị tước đoạt ruộng đất, những người chống đối lại triều đình, trốn lính, hay những kẻ phải mang những bản án tù tội. Tất cả họ đều muốn tìm một cuộc sống mới trên vùng đất mới dù biết trước những khó khăn, khắc nghiệt không dễ vượt qua. Phải nói rằng vùng đất phương Nam từ khi bắt đầu khai phá và phát triển trải qua mấy thế kỷ đến nay vẫn là địa bàn sôi động nhất, dẫn dụ mọi người đến mưu sinh.
Thứ hai là lòng yêu nước nồng nàn. Yêu nước là một truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời của dân tộc ta. Đối với người dân Nam Bộ, tính cách này được thể hiện một cách phóng khoáng, sinh động. Chẳng hạn, Nguyễn Trung Trực không chịu đi nhận một chức vụ cao hơn theo lệnh của triều đình vì nhà Nguyễn muốn dẹp yên phong trào kháng chiến ở Nam Bộ để lấy lòng chính quyền Pháp. Câu nói khẳng khái của ông được lưu truyền trong nhân dân đến tận ngày nay: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Ngoài ra, các nhà thơ yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa... là những con người khí khái được mảnh đất Nam Bộ nuôi lớn, hun đúc cho một ý chí, một tấm lòng để rồi chính tên tuổi họ còn lưu danh mãi khi người ta nói về Nam Bộ.
Thứ ba là tính hào phóng hiếu khách. Đây là một nét tính cách đặc trưng của người Việt ở Nam Bộ. Trong tất cả các mối quan hệ diễn ra trong cuộc sống hàng ngày, tính cách này luôn được bộc lộ một cách rõ ràng, sinh động và đầy tính nhân văn. Trong gia đình, khi có khách đến nhà lúc nhà đang ăn cơm, chủ nhà mời mà khách từ chối thì hay bị hiểu lầm là khinh rẻ chủ nhà, đã ăn no rồi thì cũng nên ngồi vào mâm cùng ăn, cho vừa lòng chủ. Người dân Nam Bộ muốn dành những gì đẹp nhất trong đối nhân xử thế với hàng xóm, bạn bè và người thân của mình. Tiêu xài rộng rãi là một đặc điểm thường được nhắc tới khi nói về tính cách người Nam Bộ. Thiên nhiên hào phóng thì cũng sẽ tạo ra những con người hào phóng, người ta ít lo lắng cho cuộc sống của mình ở ngày mai.
Thứ tư là trọng nhân nghĩa. Con người Nam Bộ từ nhiều vùng đất khác nhau đến nơi đây lập nghiệp nên họ cùng nhau quần tụ lại, lập thành xóm thành làng, cùng nhau khai khẩn, cùng sát cánh với nhau trong cuộc mưu sinh đầy gian khổ, trở thành “bà con một xứ”. Hàng xóm dù không thích nhau, nhưng những khi tối lửa tắt đèn cần sự giúp đỡ thì họ cũng sẵn sàng. Do vậy, người Nam Bộ rất quý trọng, tin cậy bạn bè. Bạn bè sa sút, túng quẫn lại vẫn được chia sẻ, cảm thông. Người Nam Bộ thích làm quen với người nghèo, giúp đỡ kẻ sa cơ thất thế, ghét cay ghét đắng những kẻ thay lòng đổi dạ, xu nịnh quyền tước.
Thứ năm là người Nam Bộ rất bộc trực, thẳng thắn, ít khi nói chuyện văn hoa dài dòng, rào trước đón sau. Khi gặp những chuyện bất bình hoặc không vừa ý thì họ sẽ nói ngay không cần suy nghĩ và cũng chẳng sợ người nghe giận dữ. Nhưng khi câu chuyện được giải thích rõ ràng cặn kẽ, hợp tình hợp lý thì họ sẽ tiếp thu một cách tích cực, vui vẻ, thấy mình sai thì sẵn sàng nhận lỗi. Khi nói chuyện với người Nam Bộ, ta có được cảm giác rất gần gũi, họ không câu nệ chuyện ngôi thứ, lớn nhỏ, giai cấp, bốn bể là nhà, tứ hải giai huynh đệ. Ngôn ngữ của người nông dân Nam Bộ đậm vẻ hài hước, tinh tế thể hiện sự lạc quan, yêu cuộc sống.
Lịch sử Nam Bộ dù có trải qua nhiều bước thăng trầm, con người Nam Bộ vẫn giữ được những tính cách rất riêng đáng quý ấy. 1.4.1.3. Vài nét về ca dao Nam Bộ
Ca dao là nơi thể hiện sinh động tính cách tâm hồn văn hóa truyền thống của dân tộc, của các vùng miền. Cũng như ca dao các vùng miền khác của dân tộc, ca dao Nam Bộ lại mang âm hưởng riêng của mình.
Ca dao Nam Bộ là bộ phận sáng tác dân gian ra đời muộn cùng với sự hình thành của vùng đất mới phía Nam, tuy vậy bản sắc riêng của ca dao vùng này khá đậm nét. Ca dao Nam Bộ nằm trong dòng chảy của ca dao Việt Nam nên về hình thức và nội dung ca dao Nam Bộ cũng như ca dao các miền khác là vừa có cái chung của ca dao dân tộc vừa có cái riêng gắn với hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, tâm lý, tính cách con người ở địa phương Nam Bộ.
Ca dao Nam Bộ là nơi ghi nhận tình cảm của con người miền này. Từ ca dao, chúng ta có thể thấy được cách ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với hoàn cảnh sống. Hình ảnh con người cùng với mọi cung bậc tình cảm được thể hiện sinh động qua ca dao. Những biểu hiện tình cảm đó đã làm nổi bật những tính cách chung, đặc thù Nam Bộ. Điều kiện sinh sống vùng sông nước Nam Bộ buộc con người gắn bó mật thiết vào thiên nhiên. Từ thuở khai hoang lập địa, con người đã quen hình thức săn bắt, hái lượm sản vật tự nhiên hơn việc tổ chức sản xuất độc canh, ngoại trừ cây lúa vốn là đặc điểm nổi bật của cộng đồng cư dân nông nghiệp vùng Đông Nam Á. Với thiên nhiên hùng vĩ, trù phú của vùng Nam Bộ, con người có nhiều cơ hội để hòa vào tự nhiên hơn. Thiên nhiên hoang sơ trở thành đối tượng chính trong công cuộc khẩn đất, khai hoang và khám phá vùng đất mới. Con người và thiên nhiên gắn bó chặt chẽ với nhau trong một tổng thể phức tạp mà cũng thật đơn giản.
Xét về hình thức: hình thức diễn xướng tổng hợp của ca dao Nam Bộ được thể hiện ở các thể loại: hò, hát, lý…, mỗi thể loại có những môi trường và hình thức thể hiện khác nhau.
Về hò, gồm có hò chèo ghe, hò cấy… Hò chèo ghe là biểu hiện tập trung của hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian trên sông nước. Nhân dân đã biến sông nước thành những thủy lộ giao thông và những trung tâm sinh hoạt văn hóa cho mình. Đó là nơi họ bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình qua câu hò. Hò cấy còn được gọi là hò công cấy, được hình thành trên đồng ruộng vào các mùa cấy, giúp cho người lao động tìm được niềm vui và lòng hăng say trong công việc.
Về hát, là những hình thức diễn xướng tổng hợp hay sân khấu như hát ru, hát bội. Hát ru còn được gọi là hát đưa em, hát ru là tiếng hát của bà đưa cháu, của mẹ đưa con, của chị đưa em. Đây là loại bài ca gắn bó chặt chẽ với sinh hoạt gia đình và các mối quan hệ gia đình.
Bên cạnh những điệu hò, câu hát trữ tình, ca dao Nam Bộ còn có những bài lý. Lý là những khúc hát ngắn gọn, vui tươi, dí dỏm với các nhịp điệu phong phú và sinh động. Lý có thể được hát trong nhà, trên đường hay ngoài đồng ruộng, sông rạch, khi lao động hay lúc giải trí.
Nhìn chung, mỗi hình thức diễn xướng trong ca dao Nam Bộ đều thể hiện những khía cạnh khác nhau của tình cảm con người nơi đây. Xét về nội dung: ca dao dân ca Nam Bộ có thể chia thành ba thể loại: thơ ca nghi lễ, dân ca lao động và ca dao dân ca trữ tình.
Thơ ca nghi lễ là một thể loại sáng tác dân gian có nguồn gốc rất cổ, nảy sinh trong quá trình lao động, sinh hoạt, gắn chặt với thế giới quan của người nguyên thủy cũng như ý thức tôn giáo của con người. Nội dung của thể loại này phản ánh kinh nghiệm lao động, biểu thị những khát vọng, mơ ước của nhân dân cũng như tài nghệ sử dụng tiếng mẹ đẻ diễn đạt tinh tế nỗi khát khao mong muốn một cuộc đời yên vui, hạnh phúc, thịnh vượng.
Dân ca lao động là những bài ca được hò hát trong lao động với điều kiện là tiết tấu, nhịp điệu, sắc thái biểu cảm, tốc độ, cường độ và cách thức diễn xướng của nó phải gắn chặt với các quá trình của một công việc cụ thể nào đó của nhân dân. Dân ca lao động chỉ nảy sinh trên cơ sở của những công việc có sự lặp đi lặp lại về nhịp điệu và động tác lao động. Đó là những công việc như chèo ghe, đương đệm, tát nước, phát cỏ, kéo gỗ, giã gạo, xay lúa… Một bộ phận của những bài hát ru cũng được xếp vào loại này.
Tuy nhiên, không phải mọi bài ca được hát trong lao động đều thuộc thể loại dân ca lao động. Trong lao động có rất nhiều câu hát, điệu hò mà nội dung của nó không trực tiếp liên quan đến công việc đang làm, tiết tấu nhịp điệu của nó không bám sát với lao động. Loại bài ca này được xếp vào thể loại ca dao - dân ca trữ tình.
Ca dao - dân ca trữ tình (hay sinh hoạt) là những bài ca mà nội dung và hình thức diễn xướng của nó không nhằm mục đích nghi lễ và không kèm những động tác có tính chất nghi lễ. Những bài ca này vẫn được hát trong lao động, nhưng nội dung cơ bản của nó là nhằm bộc lộ tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình, bộc lộ tình yêu tha thiết của nhân dân đối với quê hương đất nước, tình cảm lứa đôi, tiếng ca tình nghĩa của nhân dân trong quan hệ gia đình và những mối quan hệ xã hội khác. Các bài ca của mỗi thể loại này mang một vẻ đẹp riêng và nó thể hiện thế giới nội tâm vô cùng đa dạng và đậm chất trữ tình.
Cùng với ca dao các vùng, ca dao Nam Bộ cũng có các mảng chủ đề chung mang tính thống nhất làm thành dòng chảy của ca dao dân tộc. Ca dao in đậm trong trí nhớ, khắc sâu trong tâm hồn của mỗi người. Vì thế, ở vùng đất mới Nam Bộ, ta vẫn thấy rõ những bài ca cũ còn giữ nguyên vẹn phần lời, phần nghĩa, chỉ thay đổi về môi trường diễn xướng, điều kiện diễn xướng và ít nhiều về cách diễn xướng. Tính thống nhất của ca dao Nam Bộ thể hiện rõ rệt ở chủ đề của thể loại. Nội dung đó biểu hiện qua các mảng chủ đề sau:
- Tình cảm của người dân Lục tỉnh đối với quê hương, đất nước;
- Quan hệ yêu đương và suy tư của nam nữ thanh niên;
- Tiếng ca tình nghĩa của người lao động trong quan hệ gia đình;
- Những khúc ca vui buồn của nhân dân trong các mối quan hệ xã hội khác.
Các mảng chủ đề này có quan hệ chặt chẽ với nhau, đan cài vào nhau, trong nhiều trường hợp khó xác định một cách dứt khoát bài ca thuộc mảng chủ đề nào.
Ca dao Nam Bộ trước hết là ca dao của người Việt ở Nam Bộ nên nó mang đầy đủ yếu tố của vùng đất Nam Bộ, trong đó có việc sử dụng từ ngữ của con người ở đây. Song toàn bộ ca dao Nam Bộ không nằm ngoài các nội dung chủ yếu nêu trên. Chẳng hạn, cùng chủ đề quan hệ yêu đương và những suy tư của nam nữ thanh niên lao động nhưng ca dao Nam Bộ lại nổi rõ những khía cạnh độc đáo của nó trong sắc thái biểu hiện tình cảm, trong cách sử dụng từ ngữ…
Cùng là bày tỏ tình yêu, cùng quan điểm yêu đương gắn liền với lao động với giai cấp và với hôn nhân, nhưng sắc thái biểu hiện tình cảm ấy ở ca dao Nam Bộ có những điểm không hoàn toàn giống với ca dao ở các miền khác. Nhân vật trữ tình trong ca dao Bắc Bộ bộc lộ tình yêu của mình:
Bây giờ mận mới hỏi đào,
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa,
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào?
Còn đây là tâm trạng của một cô gái mới bước vào yêu đương được nói đến trong ca dao Nam Bộ:
Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy,
Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa.
Em thương anh không dám nói ra,
Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời.
Em với anh cũng muốn kết đôi,
Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan.
Khác với ca dao các miền khác, ca dao Nam Bộ thể hiện niềm thương nỗi nhớ, thể hiện tình yêu một cách bộc trực, tự nhiên hơn. Phải chăng vì người ta ít chịu ràng buộc hơn bởi các kỷ cương?
Khi yêu, không phải chỉ có các chàng trai, mà ngay cả các cô gái cũng quyết liệt, vượt qua những trở lực của lễ giáo phong kiến để bảo vệ hạnh phúc của mình. Khi một chàng trai nào đó còn do dự chuyện mai mối thì đã có những cô gái quả quyết hơn:
Thò tay ngắt đọt trâm bầu,
Thôi, anh có thương em thì thương đại đừng cầu ông mai.
Khi đã yêu thì họ thể hiện tình yêu thật mãnh liệt:
Anh thương em,
Thương lún, thương lụn,
Thương lột da óc,
Thương tróc da đầu,
Ngủ quên thì nhớ,
Thức dậy thì thương,…
Hoặc:
Thương sao thương quá bất nhơn,
Bữa nay gặp mặt thương hơn bữa nào.
Tình cảm ở đây được bộc lộ một cách trực tiếp, nói thẳng, không bóng gió xa xôi, không úp mở, nhằm nói cho được hết cái thương cái nhớ đang cháy bỏng trong lòng mình, tưởng như không cần trau chữ, chuốt lời:
Anh về em nắm vạt áo em la làng,
Phải bỏ chữ thương, chữ nhớ giữa đàng cho em.
Hoặc:
Tui xa mình không chết cũng đau,
Thuốc bạc trăm không mạnh, mặt nhìn nhau mạnh liền.
Những cách biểu hiện tình cảm như vậy đã cho thấy sắc thái độc đáo của ca dao Nam Bộ.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, luận văn đề cập một số vấn đề có tính chất khái quát. Sau khi tổng thuật các cách giới thuyết về khái niệm ca dao, chúng tôi đã trình bày những hướng nghiên cứu ca dao ở nước ta và giới thiệu những thành tựu chính đã đạt được (nghiên cứu từ góc độ văn học, nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ). Về hướng nghiên cứu ngôn ngữ học, luận văn nhấn mạnh yêu cầu của việc khảo sát các phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao người Việt nói chung, ca dao các vùng miền trên đất nước nói riêng. Phần cuối của chương 1, luận văn giới thiệu về mảnh đất, con người và ca dao Nam Bộ, làm tiền đề cho việc đi sâu các nội dung nghiên cứu ở hai chương tiếp theo.
Chương 2: MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN TU TỪ TRONG CA DAO NAM BỘ
2.1. Dẫn nhập
Để rèn luyện kỹ năng lĩnh hội văn bản hay đánh giá được thái độ và chủ định của người nói, người viết qua văn bản, nhất là đánh giá được giá trị thẩm mỹ của văn bản nghệ thuật, nhất thiết phải nhận diện, phân tích được hình thức biểu đạt của nó, trong đó có các phương tiện tu từ. Chính các phương tiện tu từ đó đã làm cho văn bản có được những phẩm chất thẩm mĩ. Cái hay trong văn chương không chỉ ở nội dung mà còn ở hình thức trình bày, lối diễn đạt mới mẻ. Điều đó tạo ra sự khác biệt lớn giữa ngôn ngữ nghệ thuật với ngôn ngữ phi nghệ thuật, ngôn ngữ tự nhiên.
Phương tiện tu từ là phương tiện ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa sự vật - logic), chúng còn có ý nghĩa bổ sung, có màu sắc tu từ.
Cũng như các ngôn ngữ khác trên thế giới, tiếng Việt có nhiều phương tiện tu từ, gắn với các cấp độ ngôn từ trong văn bản như: phương tiện tu từ ngữ âm, phương tiện tu từ từ ngữ, phương tiện tu từ ngữ nghĩa, phương tiện tu từ cú pháp, phương tiện tu từ văn bản [39, tr.160-175]. Nói một cách khái quát, tu từ có mặt ở mọi cấp độ của văn bản.
2.2. Một số phương tiện tu từ trong ca dao Nam Bộ
Trong tiếng Việt, số lượng các phương tiện tu từ tương đối nhiều, phong phú. Với đề tài đã chọn, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát phương tiện tu từ từ ngữ, phương tiện tu từ ngữ nghĩa, trong ca dao Nam Bộ bởi đây là những bình diện rất tiêu biểu cho sự trau chuốt ngôn từ ở bộ phận ca dao này.
2.2.1. Phương tiện tu từ từ ngữ trong ca dao Nam Bộ
Theo Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa, từ ngữ là phương tiện được tiếp nhận hiển nhiên nhất, đơn vị thực hiện đầy đủ các chức năng ngôn ngữ vừa phản ánh hiện thực khách quan, vừa bộc lộ thái độ chủ quan của người dùng. Phương tiện sử dụng từ ngữ trong văn bản nghệ thuật thực hiện đồng thời hai chức năng trên, đó là phương tiện tu từ từ ngữ [39, tr.161].
Nói đến phương tiện tu từ từ ngữ, người ta thường nói đến các lớp từ:
- Lớp từ Hán - Việt so với từ thuần Việt tương đương;
- Lớp từ xưng hô so với đại từ nhân xưng;
- Lớp từ địa phương so với từ ngữ toàn dân;
- Lớp từ thông tục so với từ ngữ sách vở (hay lớp từ thi ca so với lớp từ thông tục);
- Lớp thành ngữ so với lớp từ ngữ tương đương.
Sau đây, chúng tôi lần lượt đi vào tìm hiểu cách sử dụng các lớp từ ngữ trên với tư cách là phương tiện tu từ từ ngữ nhằm tìm hiểu màu sắc tu từ của các phương tiện này trong ca dao Nam Bộ.
2.2.1.1. Từ ngữ thi ca
Từ thi ca là lớp từ chuyên dùng trong thơ ca hoặc văn xuôi nghệ thuật, không dùng trong ngôn ngữ phi nghệ thuật, nếu được dùng cũng chỉ có ý nghĩa tu từ hoặc vì một mục đích nào khác. Đây vốn là lớp từ đắc dụng trong văn thơ xưa, ngày nay nếu dùng để chỉ những con người, sự vật hiện đại thì thấy kệch cỡm, buồn cười [39, tr.13]. Từ thi ca xuất hiện không nhiều trong ca dao Nam Bộ một mặt vì tính chất xưa cũ của nó, mặt khác, cách nói năng, giao tiếp của người Nam Bộ khá thẳng thắn và chân tình, nên nói văn hoa, bóng bẩy lại có vẻ không phù hợp.
Tuy nhiên, ẩn bên trong những con người chất phác, thẳng thắn ấy là những tâm hồn rất đỗi thơ mộng, rất đằm thắm và có một nét duyên rất thi vị.
Chính cái hay, cái thú vị và độc đáo đó đã được bộc lộ rõ qua mảng từ ngữ thi ca trong ca dao Nam Bộ. Theo khảo sát của chúng tôi, trong 2816 câu ca dao, có 53 từ thi ca, với 117 lượt dùng, chiếm 4,15%. Số liệu cụ thể được phản ánh trong bảng thống kê sau đây (khảo sát từ cuốn Ca dao dân ca Nam Bộ, Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị biên soạn, 1984, Nxb Tp. HCM).
Bảng 2.1. Thống kê từ thi ca
trong ca dao Nam Bộ
STT
|
BÀI
CA DAO/TRANG |
TỔNG SỐ TỪ TRONG BÀI
|
SỐ LƯỢT TỪ
THI CA |
TỪ THI CA
|
1
|
Bài 734/ 234
|
32
|
1
|
thục nữ
|
2
|
Bài 742/ 236 | 59 | 2 |
anh hào, thuyền quyên
|
3
|
Bài 840/ 249 | 28 | 1 | nguyệt lão |
4
|
Bài 970/ 267 | 17 | 1 | song thân |
5
|
Bài 1034/ 276 | 39 | 1 | tam tòng |
6
|
Bài 1569/ 344 | 22 | 1 | quần hồng |
7
|
Bài 1599/ 348 | 15 | 1 | giọt châu |
8
|
Bài 1623/ 352 | 17 | 3 | ông tơ, bà nguyệt, phụ mẫu |
9
|
Bài 1766/ 370 | 20 | 3 | dương gian, âm phủ, thác |
10
|
Bài 501/202 | 48 | 1 | chàng |
11
|
Bài 586/ 214 | 14 | 1 | tơ hồng |
12
|
Bài 60/ 137 | 28 | 2 | nam thanh, nữ tú |
13
|
Bài 694/ 228 | 26 | 4 |
kim lang, kim ngọc, chàng, lụy
|
14
|
Bài 539/ 207 | 24 | 3 |
thiếp, nam nhi,tào khương
|
15
|
Bài 217/ 163 | 36 | 2 | phụ mẫu |
16
|
Bài 27/ 131 | 42 | 2 | nàng |
17
|
Bài 1336/ 314 | 18 | 1 | liệt nữ |
18
|
Bài 762/ 239 | 30 | 1 | phu thê |
19
|
Bài 1426/ 326 | 14 | 1 | sầu |
20
|
Bài 1442/ 328 | 28 | 2 | từ mẫu, hiếu trung |
21
|
Bài 1539/341 | 17 | 1 | lụy |
22
|
Bài 802/ 244 | 14 | 1 | thuyền quyên |
23
|
Bài 1499/ 336 | 14 | 2 | bách niên giai ngẫu |
24
|
Bài 1346/ 315 | 14 | 1 | suối vàng |
25
|
Bài 2704/ 491 | 14 | 1 | đệ huynh |
26
|
Bài 2721/ 493 | 28 | 1 | sơn hà |
27
|
Bài 1372/ 319 | 28 | 2 | tài tử giai nhân |
28
|
Bài 1339/ 314 | 14 | 2 | màn loan gối phụng |
29
|
Bài 1995/ 399 | 33 | 1 | phòng đào |
30
|
Bài 1660/ 356 | 15 | 1 | phu quân |
31
|
Bài 1960/ 395 | 17 | 2 | thập tử nhất sanh |
32
|
Bài 1849/ 380 | 14 | 1 | dung nhan |
33
|
Bài 1883/ 384 | 14 | 1 | ưu phiền |
34
|
Bài 1910/ 388 | 28 | 1 | loan phụng |
35
|
Bài 1848/ 380 | 31 | 1 | chương đài |
36
|
Bài 2604/ 478 | 18 | 1 | thủ tiết |
37
|
Bài 1557/ 343 | 44 | 1 | đoạn trường |
38
|
Bài 1366/ 318 | 30 | 2 | hiệp nghĩa, phu thê |
39
|
Bài 1003/ 271 | 56 | 1 | nhân ngãi |
40
|
Bài 1067/ 280 | 28 | 1 | phu phụ |
41
|
Bài 730/ 233 | 21 | 2 | kim tiền, cổ hậu |
42
|
Bài 866/ 252 | 37 | 1 | loan hiệp |
43
|
Bài 1562/ 343 | 26 | 1 | ngôn dung |
44
|
Bài 493/ 201 | 16 | 1 | quân tử |
Qua bảng thống kê, dễ nhận thấy từ thi ca trong ca
dao Nam Bộ gồm những từ dùng để chỉ người, dùng để xưng hô, hoặc nói về tâm lý,
tính cách, tình cảm của con người.
Để chỉ người, lớp từ thi ca có các từ: quân
tử, trang anh hùng, thục nữ, anh hào, thiên kim, chàng, nam nhi, nam thanh nữ
tú...
Thuyền quyên phải sánh anh hào
Kiểng
kia ai để bìm leo
Gái khôn ai gá nghĩa theo người loàn.
Thuyền quyên chỉ những
người con gái đẹp nết, đẹp người; anh hào chỉ những chàng trai tuấn kiệt, văn
võ toàn tài trong xã hội. Đây là những từ xuất hiện khá phổ biến trong thơ xưa,
khi quan hệ giữa trai anh hùng - gái thuyền quyên luôn giữ một vị trí rất quan
trọng và tình yêu đôi lứa luôn là một đề tài muôn thuở trong thơ ca.
Trong thơ
ngày nay, nếu dùng từ nàng, ta cảm thấy có vẻ kiểu cách, không phù hợp, nhưng ở
những câu ca dao sau, từ này xuất hiện hoàn toàn tự nhiên:
- Chợ Ba Tri thiếu
gì cá biển
Anh thương nàng anh nguyện về đây.
- Anh ngó vô nhà nhỏ
Thấy có đôi
liễn đỏ
Có bốn chữ vàng
Gia đường chưa biết, thấy nàng vội thương.
Trong
quan hệ xưng hô, ta gặp các từ thi ca: mẫu thân, song thân, thiếp, phu quân,
huynh đệ...
Phu quân ơi, bỏ bạn sao đành
Dưới sông cá lội, trên nhành chim kêu
Phu quân là chồng theo cách gọi của người phụ nữ thời xưa, ngày nay không ai
còn dùng từ này, trừ khi muốn dùng tạo sắc thái hài hước. Tuy nhiên, trong ca
dao, cách nói này lại rất phù hợp, có thể khơi gợi cảm xúc cho người nghe. Cũng
vậy, những từ nam nhi, thiếp, chàng, tào khương... được dùng rất tự nhiên, có
giá trị biểu đạt cảm xúc chân thành của chủ thể trữ tình:
- Cây chi trên rừng
không lá
Con cá chi dưới biển không xương?
Trai nam nhi đối đặng, thiếp kết
tào khương với chàng.
Trong câu hát giao duyên xưa, không thể thiếu từ thi ca bởi
lớp từ này làm câu hát trở nên duyên dáng, thi vị tạo sự ngân vang lớn, vang vọng
vào tâm trí người nghe.
Trong số 53 từ thi ca thì từ phụ mẫu xuất hiện nhiều nhất:
23 lần, chiếm 0,82 % số câu mà chúng tôi khảo sát.
- Anh tham chi nhiều điều mặn
lạt
Em rút cây lông nhím bạc trao liền
Em về phụ mẫu lo phiền
Lỗi em chịu lỗi,
nói đi cấy ruộng miền mất tiêu.
- Em đành phụ mẫu không đành
Hai đứa mình trải
chiếu ngoài thành lạy vô.
Người dân Nam Bộ thường gọi cha mẹ là tía má nhưng
trong cả hai bài ca dao trên đều sử dụng từ phụ mẫu nhằm thể hiện tình cảm yêu
quí, sự tôn kính và sắc thái trang trọng đối với cha mẹ vì công ơn của mẹ cha đối
với con cái còn cao hơn núi và sâu hơn biển cả, đó là sự hiếu kính của người
con đối với cha mẹ. Dù trong hoàn cảnh nào thì hiếu đễ vẫn được đặt lên hàng đầu.
Ta còn gặp trong ca dao Nam Bộ những từ thi ca chỉ sự giao duyên: màn rồng,
màn loan - gối phụng, chương đài, phòng loan, loan phụng, phòng đào, kết nguyền,
thủ tiết... Người dân Nam Bộ nhìn nhận cuộc đời với một cái nhìn lạc quan, nhân
ái, nên trong từng lời ăn, tiếng nói mộc mạc chân thành vẫn không thiếu chất
thơ. Thi ca đã trở thành một phần xương máu, nó bắt nguồn cho một cái nhìn lãng
mạn hơn, trữ tình hơn về vùng đất “Chín Rồng”. Chúng ta bắt gặp trong ca dao
Nam Bộ nét mạnh mẽ của các chàng trai; sự e ấp, đằm thắm, dịu dàng của các cô
gái trong tình duyên được biểu đạt bằng lối nói văn hoa. Gặp gỡ nhau, muốn thổ
lộ lòng mình để không bị đối phương chê trách thì sử dụng từ thi ca là lựa chọn
khôn ngoan:
Gặp lúc trăng thanh gió mát
Thú nào vui bằng thú hát huê tình
Trời
xui hội ngộ, hai đứa mình kết duyên.
Ở bài ca dao trên, nếu không dùng từ thi
ca, nét duyên sẽ không được thể hiện và tính thơ mộng trong giao kết nên đôi sẽ
mất đi. Cũng như những vùng miền khác, người Nam Bộ khi đến tuổi thành gia lập
thất cũng hay tổ chức các buổi gặp gỡ, hò đối đáp, giao duyên. Hát huê tình là
hát đối giao duyên. Nếu có duyên gặp gỡ trong ngày hội này, được xe chỉ tơ hồng
sẽ kết duyên giai ngẫu - trở thành vợ chồng, cùng chia bùi xẻ ngọt, vĩnh kết đồng
tâm.
Trong lớp từ thi ca giao duyên, phụng, loan cũng là hai từ xuất hiện khá
nhiều.
- Thương em chưa cạn chung trà
Muốn gầy loan phụng, trời đà khiến xa.
-
Trên rừng băm sáu thứ chim
Thiếu gì loan phụng sao anh tìm quạ khoang?
Theo
quan niệm xưa, chim loan phụng biểu tượng cho đôi lứa gắn bó. Loan là chim mái,
phụng là chim trống. Đó là sự gắn bó keo sơn, không thể chia lìa.
Lớp từ thi ca
chỉ tình cảm, tính cách con người cũng xuất hiện khá nhiều. Đó là những từ: lệ,
ưu phiền, lụy nhỏ, lụy ứa, giọt châu, sầu...
Đi xa một chút ngó chừng
Thấy
em lệ nhỏ rưng rưng hai hàng.
Lệ là nước mắt, khi khóc mới chảy ra nước mắt. Đó
là nỗi sầu khổ khi chia xa, nhất là xa cách trong tình yêu. Từ lệ biểu hiện cho
tâm trạng của chủ thể trữ tình: quá sầu muộn, đau khổ nhưng không biết làm sao
nên đành phải để nước mắt tuôn chảy. Bài ca dao gợi nhiều cảm xúc xót xa cho
đôi tình nhân không được ở cạnh bên nhau, phải chia tay trong nước mắt.
2.2.1.2. Từ ngữ Hán Việt
Từ Hán Việt là những từ vay mượn từ tiếng Hán, là những từ Hán được Việt hóa
theo cách đọc, cách hiểu và cách dùng của người Việt.
Ngày nay, trong kho từ ngữ
tiếng Việt vẫn tồn tại hàng loạt cặp từ thuần Việt và Hán Việt có nghĩa tương
đương hay khác nhau về sắc thái ý nghĩa, về màu sắc biểu cảm, cảm xúc, phong
cách. Đa số người Việt không hiểu chính xác tiếng Hán, nhưng vẫn dùng theo thói
quen và có thể cảm nhận được các sắc thái tu từ của từ Hán Việt.
Vậy từ
Hán Việt trong ca dao Nam Bộ xuất hiện với số lượng như thế nào, giá trị tu từ
của bộ phận từ ngữ này ra sao? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã khảo sát, từ
tìm hiểu về lượng, phân tích, đánh giá về định tính.
Về lượng, chúng tôi đã thống
kê lượt từ Hán Việt được sử dụng trong 44 bài ca dao trên tổng số từ có mặt. Tất
cả có 141 từ Hán Việt, xuất hiện 234 lần trên 2816 câu ca dao, chiếm 8,3%. Số
liệu cụ thể ở các bài được thể hiện trong bảng thống kê sau đây:
Bảng 2.2. Thống kê từ Hán Việt trong một số bài ca dao Nam Bộ
STT
|
BÀI
CA DAO/TRANG
|
TỔNG SỐ TỪ TRONG BÀI
|
SỐ LƯỢT TỪ
HÁNVIỆT
|
TỪ HÁN VIỆT
|
1
|
Bài 161/ 155
|
14
|
1
|
quân tử
|
2
|
Bài
173/157
|
52
|
2
|
tào
khang, kim
cải
|
3
|
Bài 316/ 177
|
34
|
2
|
phụ mẫu
|
4
|
Bài 554/209
|
36
|
1
|
nhơn ngãi
|
5
|
Bài 352/ 182
|
17
|
1
|
căn duyên
|
6
|
Bài 749/ 237
|
14
|
1
|
tố hộ
|
7
|
Bài 761/ 239
|
31
|
1
|
huỳnh tuyền
|
8
|
Bài 1024/274
|
31
|
1
|
ái ân
|
9
|
Bài 794/
243
|
14
|
1
|
gia can
|
10
|
Bài 335/ 180
|
15
|
1
|
cang thường
|
11
|
Bài 854/ 251
|
19
|
1
|
tái sanh
|
12
|
Bài 363/ 184
|
14
|
1
|
mẫu từ
|
13
|
Bài 967/ 266
|
28
|
2
|
vãng lai,
ngãi nhân
|
14
|
Bài 969/
267
|
24
|
2
|
nhơn đạo, thịnh trị
|
15
|
Bài 1080/ 282
|
52
|
5
|
nhơn tình, thuyền quyên, thục nữ, nhơn nghĩa
|
16
|
Bài 1035/ 276
|
15
|
1
|
dương trần
|
17
|
Bài 1047/
277
|
30
|
3
|
mẫu thân, vô đệ, vô huynh
|
18
|
Bài 1067/
280
|
28
|
1
|
phu phụ
|
19
|
Bài 1085/283
|
23
|
2
|
hội ngộ, huê tình
|
20
|
Bài 1171/ 293
|
18
|
1
|
ngao du
|
21
|
Bài 1174/ 293
|
30
|
3
|
thiên kim, phấn thổ, nhân ngởi
|
22
|
Bài 1196/ 296
|
28
|
6
|
họa
cốt, họa bì nan họa cốt/ tri nhơn, tri diện, bất tri tâm
|
23
|
Bài 1277/
307
|
42
|
2
|
hữu duyên, vô
duyên
|
24
|
Bài 1288/ 308
|
32
|
1
|
song loan
|
25
|
Bài 1312/ 311
|
25
|
5
|
bất hành, bất đáo, bất đả, bất minh, minh bạch
|
26
|
Bài 1318/ 312
|
16
|
1
|
giao ngôn
|
27
|
Bài 1499/ 336
|
14
|
4
|
bách niên, giai ngẫu, ngọc trầm,
thủy thượng
|
28
|
Bài 1549/ 342
|
17
|
3
|
nhị nhân, đối khẩu, giao hòa
|
29
|
Bài 1200/ 296
|
107
|
3
|
ấu tử, nam nhi
|
30
|
Bài 1886/ 385
|
63
|
6
|
nữ nhi, nam tử, kinh sử, xướng tùy, đăng sơn, nhập hải
|
31
|
Bài 1539/ 340
|
14
|
1
|
náu
nương
|
32
|
Bài 1764/ 370
|
19
|
1
|
thiên đình
|
33
|
Bài 1718/
363
|
20
|
1
|
song
kiều
|
34
|
Bài 1896/ 387
|
14
|
2
|
quân tử nhứt
ngôn
|
35
|
Bài 1600/ 348
|
14
|
1
|
tơ
duyên
|
36
|
Bài 1871/ 383
|
24
|
3
|
thiên, nguyệt, thượng vân
|
37
|
Bài 1879/ 384
|
15
|
3
|
sơn băng, thủy kiệt, nhật nguyệt
|
38
|
Bài 1939/ 392
|
29
|
3
|
lâm
nguy, bất kiến đệ huynh
|
39
|
Bài 1854/ 381
|
14
|
1
|
thanh tân
|
40
|
Bài 2797/ 502
|
24
|
4
|
tửu, nhơn diện, nhơn tâm, thế gian
|
41
|
Bài 2719/ 493
|
14
|
1
|
ngũ
luân
|
42
|
Bài 2721/
493
|
28
|
2
|
sơn hà, trượng phu
|
43
|
Bài 1372/319
|
28
|
3
|
tài tử, minh
quân, giai nhân
|
44
|
Bài 1423/326
|
14
|
1
|
cầu thân
|
Từ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ có thể là
danh từ, tính từ, động từ. Cách sử dụng cũng hết sức linh hoạt trong từng ngữ cảnh.
Danh từ có mặt ở 91 bài/ 234 bài, chiếm 39%; động từ có mặt 80 bài/ 234 bài,
chiếm 34%; tính từ có mặt ở 63 bài/ 234 bài, chiếm 27%.
Xét về trường từ vựng
- ngữ nghĩa, từ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ khá phong phú. Nói về mẫu người lý tưởng thời phong kiến có: anh hùng, thuyền quyên, quân tử, anh hào, trượng phu,
thục nữ, liệt nữ, thiên kim, nam nhi, nữ nhi, quý nhân, kim ngọc, kim lang,
công hầu, nam thanh, nữ tú, minh quân, tài tử, giai nhân… Nói về mối quan hệ
gia đình, nghĩa tình hay quan niệm về tình yêu mang màu sắc Nho giáo có: phu
thê, phụ mẫu, nhơn ngãi, căn duyên, keo sơn, đoạn trường, nhân hậu, gá nghĩa,
tái sanh, tri âm, tri kỷ, nhơn đạo, gia can, can thường, song thân, hồng nhan,
đôn hậu, ái ân, nhân tình, mẫu thân, huynh đệ, keo sơn… Nói về thế giới tự
nhiên có: sơn băng, thủy kiệt, nhật nguyệt, tứ hải, hoạn dương, dã tràng, tùng
lâm, non đoài, sơn hà, cù lao, giang san... Nói về luân lý, đạo đức con người:
tào khang, tam tòng, tứ đức, ông tơ, bà nguyệt, ô thước, chương đài, loan phụng,
ngôn dung, song kiều, thiên lý mã, vạn lý cân, tam cương, ngũ thường, hiếu
trung… Các từ nói về nơi chốn, chỗ ở, đồ dùng, tính cách của người đẹp: quần
thoa, nguyệt hoa, loan phòng, phấn thổ, quần hồng, giọt châu, nhu mì, màn loan,
màn rồng, gối phụng, thủ tiết...
Phần lớn từ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ giữ
nguyên hình thức ngữ âm như khi chúng được dùng trong thơ ca dân gian ở vùng miền
khác hoặc trong văn chương bác học. Tuy nhiên, bên cạnh đó, có một số từ Hán Việt
có hiện tượng biến âm theo hướng phương ngữ hóa, chẳng hạn nhơn đạo, nhơn ngãi,
phú quới, loan phụng...
- Đời phải đời thịnh trị
Cuộc phải cuộc văn minh
Kìa là
gió mát trăng thanh
Biết đâu nhơn đạo bày tình cho vui.
- Anh gặp em đây đứng lại
giữa đàng
Muốn phân nhơn ngãi, em ngỡ ngàng khó phân
- Thương em chưa cạn chung
trà
Muốn gầy loan phụng, trời đà khiến xa.
Trong ca dao Nam Bộ, không ít từ
Hán Việt được sử dụng để chỉ đồ đạc, nơi ở, tính cách của giai nhân. Phải chăng
với dân gian, những gì thuộc về giai nhân đều đẹp, đều sang trọng, cao quý.
Thuyền em đậu bến Châu Giang
Bấy lâu đóng cửa phòng loan đợi chờ.
Xưa nay, tình
yêu đôi lứa luôn là một đề tài muôn thuở, cho nên việc mượn từ Hán Việt nhất là
động từ nhằm thể hiện tâm tư, tình cảm, ý nguyện của người dân luôn được các
tác giả dân gian hướng đến, đó là ước mong xây đắp được một tình yêu đẹp, nên
thơ; là thể hiện sự giao duyên, kết nghĩa chung tình, là thể hiện tình yêu thủy
chung trọn vẹn.
Gặp lúc trăng thanh, gió mát
Thú nào vui bằng thú hát huê
tình
Trời xui hội ngộ, hai đứa mình kết duyên.
Hội ngộ là gặp nhau nhưng nếu
dùng hai chữ gặp nhau của từ thuần Việt lại rất đỗi bình thường, đó có thể là sự
gặp gỡ của bạn bè, của anh chị em, của bà con xóm giềng. Còn hội ngộ lại mang
nhiều tầng nghĩa, phải có duyên mới được gặp nhau. Bài ca dao chính là một lời
tỏ tình ngụ ý, bóng gió xa xôi về chuyện tình duyên đôi lứa. Hội ngộ chứa đựng
nguồn cảm xúc sâu nặng của người nói, dồn nén nhiều tâm tư tình cảm và sự vui mừng
khi gặp được người có thể nên duyên. Vì thế, trong bài ca dao trên, không có từ
thuần Việt cùng nghĩa nào có thể thay thế được hai chữ hội ngộ. Trường hợp bài
ca dao sau đây, từ Hán Việt cũng được dùng đắc địa:
Chị Hạnh Ngươn thủ tiết
Ai
có biết chăng là
Sống nhơ không chịu, chẳng thà chết thơm.
Hạnh Ngươn tức Hạnh
Nguyên - nhân vật trong truyện Nhị Độ Mai. Hạnh Nguyên là con gái Trần Đông Sơ,
đã hứa hôn với Mai Bích - tên tự là Lương Ngọc, con trai của Mai Bá Cao. Vì cha
Hạnh Nguyên có hiềm khích với quan thái sư là Lư Kỷ nên Lư Kỷ trả thù, tâu vua
bắt Hạnh Nguyên đi cống Hồ. Đi nửa đường, Hạnh Nguyên đã gieo mình xuống sông để
thủ tiết, may nhờ có thần cứu trợ, về sau được sum họp cùng Lương Ngọc. Khó có từ
thuần Việt mang nghĩa tương đương nào thay thế cho từ thủ tiết mà vẫn giữ được
ý nghĩa và sắc thái biểu cảm như khi dùng hai từ này được. Thủ tiết là giữ và bảo
vệ tình cảm thủy chung, son sắt đối với người mình yêu thương. Thủ tiết khơi gợi
một tư thế gìn giữ, bảo vệ chắc chắn phẩm tiết với một quyết tâm cao độ, chính
lẽ đó, nó có một âm hưởng vang vọng, tạo sắc thái trang trọng, tao nhã; đặc biệt,
tạo được cảm giác quí trọng ở người nghe.
Trong ca dao Nam Bộ, từ Hán-Việt cũng
thường được dùng để thể hiện tính cách của con người. Đặc biệt, trong sự đối lập
với từ thuần Việt, giá trị biểu đạt của chúng càng thể hiện rõ:
Nên thì lập
kiểng trồng hoa
Chẳng nên đá kiểng trồng cà dái dê.
Chẳng nên thiếp trở lộn về
Dưỡng nuôi từ mẫu trọn bề hiếu trung.
Hai chữ hiếu trung là chỉ sự kính yêu, biết
ơn của con cái đối với hai đấng sinh thành, hiếu trung đồng nghĩa với hiếu thảo
nhưng hiếu thảo là tấm lòng hướng về cha mẹ, có thể không ngày đêm cận kề chăm
sóc, còn hiếu trung là tận tâm, suốt đời ở bên cạnh chăm sóc, lo lắng, báo đáp
cho mẹ cha.
Tình nghĩa phụ tử là ghi lòng tạc dạ; tình nghĩa phu thê là thủy
chung, son sắt. Tục ngữ có câu “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Ở đây, quan
trọng là phải có sự yêu thương, tin tưởng từ hai phía. Vợ chồng phải đồng lòng,
cùng nhau xây dựng và vun đắp hạnh phúc. Khi phu xướng thì phụ phải tùy, cuộc sống
vợ chồng viên mãn, hạnh phúc. Thông kinh sử ấy phần nam tử Giữ nét na là phận nữ
nhi Xử sao vẹn chữ xướng tùy Tiếng ừ thì dễ em lo nghì về sau. Từ Hán Việt có
thể được dùng tương đương nghĩa với từ thuần Việt, hay cũng có những từ Hán Việt
được dùng mà không có từ thuần Việt mang nét nghĩa tương đương. Ngoài ra còn có
sự kết hợp giữa hai thành tố Hán Việt. Chính sự đa dạng trong việc sử dụng các
từ có cấu tạo khác nhau đã mang lại cho lớp từ Hán Việt một giá trị biểu đạt nổi
bật và ấn tượng trong các sáng tác của ca dao Nam Bộ. 2.2.1.3. Từ nghề nghiệp
Theo Đinh Trọng Lạc trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt,
"từ nghề nghiệp là những từ biểu thị công cụ lao động, sản phẩm lao động,
quá trình sản xuất của một nghề nào đó thường chỉ được người trong ngành đó biết
và sử dụng" [37, tr.28].
Chúng tôi đã tiến hành thống kê và nhận thấy có
47 từ nghề nghiệp với 60 lần xuất hiện (2,13%). Khảo sát cụ thể từ nghề nghiệp ở
một số bài ca, chúng tôi có bảng thống kê sau đây:
Bảng 2.3. Thống kê từ nghề nghiệp
trong một số bài ca dao Nam Bộ
STT
|
BÀI
CA DAO/TRANG
|
TỔNG SỐ TỪ
|
SỐ LƯỢT TỪ
NGHỀ NGHIỆP
|
TỪ NGHỀ NGHIỆP
|
1
|
Bài 54/ 135
|
14
|
1
|
đưa đò
|
2
|
Bài 774/240
|
14
|
2
|
bứt choại, bện đăng
|
3
|
Bài 162/ 155 | 55 |
2
|
bán muối
|
4
|
Bài 169/ 156 | 28 | 2 | cuốc đất, trồng cau |
5
|
Bài 177/ 158 | 30 | 1 |
buôn
|
6
|
Bài 453/ 195 | 28 | 1 | làm mướn |
7
|
Bài 847/ 250 | 17 | 1 | trồng |
8
|
Bài 1922/ 390 | 15 | 3 | đắp đập, be bờ, lờ |
9
|
Bài 1923/ 390 | 15 | 3 | gánh gạch xây thành, trồng cây |
10
|
Bài 1926/ 390 | 18 | 1 | xe sợi |
11
|
Bài 1504/ 336 | 29 | 4 | đắp lũy bồi thành, trồng cây, hái trái |
12
|
Bài 1332/ 314 | 17 | 1 | thổi kèn |
13
|
Bài 1334/ 314 | 16 | 1 | thợ bào |
14
|
Bài 1333/ 314 | 17 | 1 | thợ cưa |
15
|
Bài 1338/ 314 | 25 | 2 | hò, hát |
16
|
Bài 1359 / 317 | 16 | 1 | quăng câu |
17
|
Bài 2597/ 478 | 14 | 1 | bán |
18
|
Bài 2600/ 478 | 14 | 1 | chèo ghe |
19
|
Bài 2602/ 478 | 14 | 3 |
chèo ghe, bắt cua, bắt rùa
|
20
|
Bài 2607/ 479 | 14 | 2 | bắt nhái, cắm câu |
21
|
Bài 2608/ 479 | 14 | 1 | bắt kéc |
22
|
Bài 2610/ 479 | 28 | 1 | đi đăng |
23
|
Bài 2611/ 480 | 28 | 1 | đi cày |
24
|
Bài 2612/ 480 | 28 | 1 | bán khoai |
25
|
Bài 2743/ 496 | 30 | 4 |
thông ngôn, thợ bạc,ký lục
|
26
|
Bài 2688/ 489 | 17 | 1 | ghe chài |
27
|
Bài 112/ 145 | 17 | 1 | hát bội |
28
|
Bài 274/ 172 | 23 | 1 | lưới |
29
|
Bài 297/ 175 | 14 | 4 | cắt, may, đột, viền |
30
|
Bài 298/ 175
|
14
|
1
|
vá
|
31
|
Bài 354/ 183
|
15
|
1
|
rẫy
|
32
|
Bài 356/ 183
|
15
|
1
|
lờ
|
33
|
Bài 411/ 190
|
16
|
1
|
nhuộm
|
34
|
Bài 507/ 203
|
14
|
1
|
hái
|
35
|
Bài 510/ 204
|
24
|
2
|
kép, đào
|
36
|
Bài 573/ 212
|
21
|
3
|
chài, lưới
|
37
|
Bài 588/ 214
|
14
|
2
|
chẻ tre, bện sáo
|
38
|
Bài 590/ 214
|
14
|
3
|
chẻ tre, lựa lóng, đan sàng
|
39
|
Bài 233/ 166
|
28
|
3
|
om, lò
|
40
|
Bài 223/ 164
|
28
|
4
|
gánh
|
41
|
Bài 197/ 161
|
14
|
2
|
cấy mướn
|
42
|
Bài 668/ 225
|
14
|
2
|
bán vàm
|
43
|
Bài 680/ 227
|
32
|
2
|
buôn bán, làm mướn
|
44
|
Bài 770/ 240
|
14
|
1
|
chèo đò
|
45
|
Bài 773/ 240
|
14
|
1
|
xay gạo
|
46
|
Bài 959/ 265
|
14
|
2
|
bắt ốc, hái rau
|
47
|
Bài 1210/ 299
|
16
|
1
|
nóp
|
48
|
Bài 1394/ 322
|
14
|
1
|
tát nước
|
49
|
Bài 1498/ 335
|
28
|
1
|
may
|
50
|
Bài 228/ 165
|
86
|
9
|
cần câu
|
Từ nghề nghiệp trong ca dao Nam Bộ là lớp từ được tác
giả dân gian sử dụng nhằm phản ánh, diễn tả cuộc sống lao động, cung cách sinh
hoạt về vật chất và tinh thần của người dân vùng này.
a) Lớp từ nghề nghiệp gắn với các phương tiện giao thông trên sông nước
Nói đến
Nam Bộ, người ta nghĩ ngay tới một vùng sông nước bao la, cuộc sống của người
dân nơi đây chủ yếu gắn liền với sông nước nên ghe, đò, xuồng... đã trở thành
phương tiện di chuyển, là "chân đi" của người dân vùng Nam Bộ. Vì vậy,
dù nghèo khó, người dân Nam Bộ vẫn cố dành dụm sắm cho mình chiếc ghe, chiếc xuồng
làm phương tiện đi lại. Từ những chiếc ghe, xuồng bơi, chèo, chống, luồn lách
trong kênh, rạch nhỏ đến những chiếc ghe, tàu vài chục tấn, vài trăm tấn bằng động
cơ máy nổ được sử dụng đan xen với nhau tạo nên nét đặc trưng riêng của vùng
sông nước phương Nam này.
Thậm chí, ghe, xuồng, thuyền... còn là mái ấm của nhiều
gia đình. Việc ăn, ngủ, nghỉ trên đó đã trở thành nếp sinh hoạt của dân Nam Bộ
và họ đã dùng những phương tiện đó phục vụ cho nhu cầu mưu sinh của mình.
Chẳng
hạn, có những nghề liên quan tới “chân đi” như nghề đưa đò, chèo ghe, ghe chài…
Chừng nào chợ Quán hết vôi
Thủ Thiêm hết gạo, em thôi đưa đò.
Nghề đưa đò là
nghề chèo đò chở khách qua sông. Nam Bộ vốn là một vùng sông nước bao la, cuộc
sống của người dân nơi đây gắn liền với sông nước. Thuở xa xưa, vùng đất này
không có cầu như bây giờ, họa chăng chỉ có mấy cây cầu khỉ bắc qua rạch, mương
còn những con sông lớn phải dùng ghe, đò mới có thể sang bờ bên kia được.
Đừng
ham hốt bạc ghe chài
Cột buồm cao bao lúa nặng, tấm đòn dài khó đi.
Ghe xuồng
không chỉ phục vụ việc đi lại và chuyên chở của con người mà còn là phương tiện
đánh bắt thủy hải sản. Cư dân Nam Bộ có tập quán sống ven sông rạch, có nguồn
cá tôm rất dồi dào nên người ta dùng chiếc ghe, chiếc xuồng của mình để đánh bắt
cá, tôm: câu tôm, câu cá, giăng lưới, cất vó, đặt lọp, xây nò, đóng đáy cọc,
chài lưới, thả câu... Chiếc xuồng, chiếc ghe, con đò còn phục vụ cho việc buôn
bán rồi kết thành điểm chợ buôn bán, trao đổi hàng hóa trên sông, hình thành
nên các khu chợ nổi hội tụ đủ các loại người tứ xứ đến buôn bán, làm ăn. Từ những
người dân bình thường đến những kẻ tứ cố vô thân, rời bỏ quê hương tha phương
kiếm sống, với một chiếc ghe chất đầy hàng hóa, nay họ ở chỗ này, mai chỗ khác,
len lỏi vào tận những con kênh, con rạch, những đường nước hẹp đem hàng hóa phục
vụ đến tận nhà...
Sông nước là một đặc trưng nổi bật của vùng đất Nam Bộ mà gắn
liền với nó là các sự vật, hiện tượng có liên quan và tất cả đã trở nên quen
thuộc với người dân nơi đây. Đây là lớp từ có sự đa dạng về tên gọi, phong phú
và đậm nét, góp phần biểu hiện nét đặc trưng văn hóa rất riêng của Nam Bộ.
b)
Lớp từ nói về nghề đánh bắt thủy sản
Miền tây Nam Bộ có diện tích mặt nước trên
đồng ruộng, diện tích mặt nước trên sông, rạch, ao, hồ, đìa, đầm, vuông, xẻo…
là nơi cung cấp nguồn lợi thủy sản như: cá, tôm, cua,… vùng nước ngọt, nước
lợ. Đây là nguồn thực phẩm tự nhiên, sạch, an toàn và ngon. Do đó, khi đi tìm
hiểu ca dao Nam Bộ, chúng ta bắt gặp nhiều nghề nghiệp gắn liền với sông nước:
giăng câu, cắm câu, bắt cua, bắt rùa, bắt nhái... hay những dụng cụ lao động
quen thuộc phục vụ việc đánh bắt như: thõng, lờ, lưới...
Chèo ghe xuống biển bắt
cua
Bắt cua cua kẹp, bắt rùa rùa bơi.
Cua, rùa là những loại động vật của miền
sông nước nên chúng cũng trở thành thức ăn chính của người dân nơi đây. Việc
đánh bắt những loài rùa, rắn, cá, tôm đã trở thành nghề để mưu sinh khi cuộc sống
còn quá nhiều lo toan, vất vả.
Bấy lâu đến ngọn sông chờ
Muốn tìm cá lớn phải
nhờ trời mưa
Tiếc công đắp đập be bờ
Để ai quảy đó mang lờ đến đơm.
Lờ làm bằng
ruột tre, cọng chuốt nhỏ. Lờ mảnh khảnh hơn lọp và nò nhiều lần vì lờ chỉ để đặt
các loại cá nhỏ như cá sặc, cá chốt mà thôi. Có loại lờ bốn hom và loại lờ hai
hom. Gặp phải lươn rằn chui vào thì sức lờ chịu không nổi.
Ngoài lờ còn có dụng
cụ đánh bắt khác như nơm - vật dụng làm bằng các thanh tre vót nhẵn, đầu nhọn
hướng xuống phần miệng. Trên túm lại cỡ bằng cái tô, dưới miệng lớn bằng miệng
thúng nhỏ. Những vũng nước nhỏ nghi có cá, người ta dùng nơm để bắt. Một dụng cụ
khác là trúm - một ống tre già được thông mắt, mắt cuối cùng được chừa lại. Miệng
trúm có hom, hom được đan bằng các thanh tre vót nhỏ, bện bằng dây lạt cà bắp
(cây lá dừa nước còn non, chưa thành tàu lá), mồi nhử thường là cá, cua chết có
mùi hôi, đặt trúm nơi bưng biền lắm lát, nhiều sậy. Lươn thích ăn thịt cá chết,
tìm đến chui vào trúm và kẹt luôn trong đó.
Người ta cũng có thể đánh cá bằng
hình thức câu. Cần câu cá thường làm bằng trúc, tre. Cần câu có nhiều loại, tùy
theo từng loại cá, mồi và cách cắm cũng khác nhau, chẳng hạn:
Mặt nhìn
trăng, trăng lại còn khuya
Muốn quăng câu sợ cá mê đìa không ăn.
Một số dụng cụ
đánh bắt cá khác được người dân Nam Bộ quen dùng như chài, vó, dớ, đuôi chuột,
lưới, sệp... Cách cấu tạo mỗi loại có khác nhau, nhưng chủ yếu là để bắt cá dưới
sông. Chài được người vãi ra chụp lấy cá, tôm. Lưới thì giăng những nơi cá, rắn
thường qua lại, vó có loại đặt cố định, có loại cất lên, đặt xuống; đuôi chuột
bện bằng lưới, ven đăng rồi đặt suốt ngày đêm; sệp là lưới mắc vào hai thanh
tre gác tréo rồi dùng sức người đẩy.
Người Nam Bộ còn dùng lọp bắt cá. Lọp làm
bằng tre, có hai hom: hom trước và hom sau. Cá, rùa, cua, tôm chui vào không
tìm được đường ra, vì bị hom sau chặn đường, cứ thế, chủ đến “đổ lọp” mang về.
Thủy sản vùng Nam Bộ rất phong phú. Nghề đánh bắt cũng đa dạng. Điều này phản
ánh rõ qua lớp từ chỉ nghề nghiệp trong ca dao vùng đất này.
Nam Bộ là nơi có những miệt vườn tốt tươi và đa dạng với nghề trồng
lúa, trồng cây ăn trái. Trong những bài, câu ca dao Nam Bộ, vùng đất miệt vườn
hiện lên rất đặc trưng với những sản phẩm thiên nhiên mang đậm sắc thái địa
phương.
Đất Kỷ cang anh trồng hàng vạn thọ
Anh đi cưới vợ vườn về đọ với em.
Vạn
thọ là loài hoa tượng trưng cho sự vĩnh hằng, việc chàng trai trồng một hàng vạn
thọ ngụ ý muốn thể hiện tấm lòng sắt son dành cho cô gái. Chàng trai mong muốn
cưới được người vợ cùng nghề nghiệp canh điền như mình, có như thế tình cảm mới
vững bền. Ngoài ra, lớp từ chỉ thiên nhiên, hoa trái miệt vườn cũng đem lại nhiều
màu sắc: chôm chôm, nhãn, quýt, cam, dừa, kiểng, măng cụt, mãng cầu, sầu riêng,
nhãn lồng, mù u, bình bát, bòn bon...
- Cam sành rã rượt bờ ao
Tưởng không
anh hái, có rào thì thôi.
- Bến Tre nước ngọt lắm dừa
Ruộng vườn màu mỡ, biển
thừa cá tôm,
Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn
Nghêu sò Cồn Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày.
Thế nhưng, nghề chính của người dân nơi đây vẫn là nghề lúa, quanh năm suốt
tháng cày cấy. Việc đồng áng đã ăn sâu vào nếp suy nghĩ, nếp ăn ở và cả nếp
sinh hoạt của Nam Bộ.
Chiều chiều ông Ngữ đi đồng
Bắt được cá lóc nhăn răng cười
hoài
Chiều chiều ông Ngữ đi cày
Trâu kéo gãy ách khoanh tay ngồi bờ.
Sự phong
phú của lớp từ nghề nhiệp đã tạo nên dấu ấn rất riêng về vùng đất được thiên
nhiên ưu đãi. Những từ biểu thị các nghề được khảo sát và phân tích trên đây phần
nào minh chứng cho cung cách sinh hoạt của những con người vùng sông nước Cửu
Long dạt dào tình nghĩa, chất phác, thật thà.
2.2.1.4. Từ địa phương
Từ địa
phương là những từ chỉ được dùng trong các phương ngữ, các thổ ngữ [39, tr.30];
là lớp từ chỉ thông dụng trong một địa phương mà không phổ biến ở các địa
phương khác.
Sự xuất hiện của từ địa phương trong ca dao Nam Bộ là điều tất yếu.
Trong cuốn Ca dao Nam Bộ (Bảo Định Giang chủ trì biên soạn), có 705 từ địa
phương với 5009 lần xuất hiện, chiếm 25,04%, trong đó, danh từ có 309 đơn vị,
chiếm 10,9%/ 2816 bài ca dao; động từ có 178 đơn vị, chiếm 6,3%/ 2816 bài ca
dao; tính từ có 160 đơn vị, chiếm 5,7%/ 2816 bài ca dao; đại từ có 16 đơn vị,
chiếm 0,58%/ 2816 bài ca dao; phụ từ có 25 đơn vị, chiếm 0,9%/ 2816 bài ca dao.
Kết quả cụ thể được phản ánh trong bảng thống kê sau:
Bảng 2.4. Thống kê từ địa phương
trong một số bài ca dao Nam Bộ
STT
|
BÀI
CA DAO/TRANG
|
TỔNG SỐ TỪ
|
SỐ LƯỢT TỪ ĐỊA
PHƯƠNG
|
TỪ ĐỊA PHƯƠNG ĐƯỢC
SỬ DỤNG
|
1
|
Bài 113/
146
|
112
|
2
|
cẳng
|
2
|
Bài 58/
136
|
42
|
3
|
trổ
|
3
|
Bài 372/ 185
|
16
|
5
|
bậu, qua
|
4
|
Bài 286/ 174
|
14
|
1
|
má
|
5
|
Bài 342/
181
|
28
|
1
|
đươn
|
6
|
Bài 165/ 157
|
28
|
5
|
qua
|
7
|
Bài 557/
210
|
44
|
1
|
tui
|
8
|
Bài 05/
126
|
14
|
1
|
miệt
|
9
|
Bài 2681/
488
|
14
|
1
|
tèm hem
|
10
|
Bài 1809/
375
|
19
|
1
|
trển
|
11
|
Bài 882/ 255
|
25
|
1
|
thiệt
|
12
|
Bài 2068/ 408
|
15
|
4
|
đẻ, má
|
13
|
Bài 769/ 240
|
14
|
1
|
heo
|
14
|
Bài 1063/ 280
|
28
|
2
|
rày,
đặng
|
15
|
Bài 802/ 244
|
14
|
1
|
phang
|
16
|
Bài 1838/ 379
|
30
|
1
|
xí gạt
|
17
|
Bài 955/ 265
|
28
|
3
|
hun
|
18
|
Bài 1054/ 278
|
47
|
1
|
chỉ
|
19
|
Bài 172/ 157
|
14
|
1
|
giựt
|
20
|
Bài 1071/ 281
|
28
|
1
|
ưng
|
21
|
Bài 2087/ 410
|
14
|
1
|
chun
|
22
|
Bài 1047/ 329
|
30
|
1
|
rầu
|
23
|
Bài 1364/ 318
|
15
|
1
|
mần
|
24
|
Bài 813/ 245
|
18
|
2
|
thơm
|
25
|
Bài 877/ 254
|
26
|
2
|
tỏ, lờ
|
26
|
Bài 952/ 264
|
37
|
2
|
sanh
|
27
|
Bài 860/ 252
|
14
|
1
|
ẳm
|
28
|
Bài 854/251
|
19
|
1
|
đờn
|
29
|
Bài 1081/282
|
14
|
1
|
vắn
|
30
|
Bài 1164/ 292
|
15
|
1
|
trái
|
31
|
Bài 2603/ 478
|
14
|
2
|
thằng
|
32
|
Bài 789/ 242
|
17
|
1
|
bữa
|
33
|
Bài 2612/ 480
|
28
|
1
|
tía
|
34
|
Bài 2647/ 484
|
15
|
1
|
mình ên
|
35
|
Bài 1378/
|
28
|
1
|
thủng thẳng
|
36
|
Bài 1136/ 289
|
14
|
1
|
chửa
|
37
|
Bài 1470/ 332
|
14
|
1
|
bớ
|
38
|
Bài 1434/ 327
|
14
|
1
|
khứa
|
39
|
Bài 1453/ 330
|
14
|
1
|
bển
|
40
|
Bài 2683/ 489
|
14
|
1
|
giò
|
41
|
Bài 2809/ 504
|
28
|
5
|
cậu, mợ, đờn,
hờn
|
42
|
Bài 1824/ 377
|
30
|
1
|
nức
|
43
|
Bài 1847/ 380
|
19
|
2
|
đờn, quờn
|
44
|
Bài 1938/ 391
|
14
|
2
|
nường
|
45
|
Bài 11/ 127
|
14
|
1
|
lượm
|
46
|
Bài 1344/ 315
|
18
|
1
|
coi
|
47
|
Bài 933/ 262
|
17
|
1
|
lột
|
Từ địa phương Nam Bộ trong
ca dao thể hiện những khía cạnh khác nhau của tự nhiên, đời sống xã hội cũng
như những cung bậc khác nhau trong tâm tư, tình cảm của con người Nam Bộ.
- Khăn rằn nhúng nước ướt
mem
Tại anh chậm bước nên em có chồng.
- Áo vá vai vợ ai không biết
Áo vá quàng
chí quyết vợ anh.
Khăn rằn là loại khăn thưa, có sọc ô vuông, có ô đen trắng hoặc
xanh dương trắng, thường được dân Nam Bộ đi đường mang theo quấn ở cổ; áo vá
quàng là áo có vá ở vai qua lưng, chỉ sự nghèo khổ, áo bà ba là loại áo không
có bâu, thân ngắn, tay dài có xẻ hở ở hai bên hông, được mặc thường ngày, khá
phổ biến của phụ nữ Nam Bộ.
Khi nhắc đến Nam Bộ, người ta nghĩ ngay tới một
vùng sông nước bao la, cuộc sống của người dân nơi đây chủ yếu gắn liền với
sông nước nên các danh từ địa phương chỉ các phương tiện di chuyển, là
"chân đi" thậm chí là mái ấm (nơi ăn uống, ngủ nghỉ) của người dân
vùng Nam Bộ: ghe, đò, xuồng... cũng xuất hiện khá nhiều.
Chèo ghe sợ sấu cắn
chưn
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma.
Phổ biến nhất trong các phương tiện đi
lại là ghe. Ghe gắn liền với vùng sông nước bao la, ghe được ghép từ nhiều miếng
ván (có thể từ 13 - 21 miếng), thường có mui che. Đây là một phương tiện phổ biến
nhất, gắn liền trong sinh hoạt đời sống của người Nam Bộ: ghe làm nhà ở, ghe
bán hàng, ghe đưa đò, ghe đi chở thuê, có nhiều tên gọi để phân biệt ghe dựa
vào đặc điểm hình dáng khác nhau của chúng như: ghe bầu, ghe lê.
Còn bưng, nếu
không phải dân Nam Bộ, khó ai hiểu được bưng là gì. Bưng là vùng đất hoang vu,
ít có người đặt chân đến.
Những từ địa phương trên xuất hiện là bắt nguồn từ thực
tế ứng xử của người Nam Bộ với môi trường sông nước, đó là chứng tích của một nền
văn minh sông nước trong ca dao.
Trong ca dao, động từ là lớp từ mang đậm sắc
thái địa phương, chẳng hạn:
Ví dầu nhà dột cột xiêu
Muốn đi nói vợ sợ nhiều miệng
ăn
Nhiều miệng ăn rằng anh không sợ
Sợ duyên nợ không tròn gieo khổ cho nhau.
Động
từ nói trong bài ca dao trên có nghĩa là dạm hỏi, đi hỏi vợ, nghĩa là gia đình
người con trai đến nhà người con gái để xin hỏi cưới người con gái cho con trai
của mình. Nếu trong phương ngữ miền Trung, từ rầy để chỉ sự xấu hổ, mắc cỡ thì
trong phương ngữ Nam Bộ, từ rầy có nghĩa là la, mắng, trách:
Trăng lên con nước
rong đầy
Anh đừng đến nữa, má rầy khổ em.
Từ xài là từ được dùng rất phổ biến
trong giao tiếp của người Nam Bộ bởi tính chất đặc sắc và linh hoạt của nó.
Anh đừng ham chữ phú mà phụ chữ bần
Bạc trăm xài hết, ngãi duyên trần còn đây.
Từ xài có rất nhiều nghĩa: xài1 tiêu sử dụng tiền vào việc mua sắm, ăn chơi;
xài2 dùng, sử dụng mang lại một tiện ích nào đó cho con người; xài3 hay thay đổi
trong quan hệ, hoặc sử dụng người, cách nói có hàm ý phê phán.
Như vậy, từ xài
trong bài ca dao trên đồng nghĩa với tiêu, dùng trong tiếng Việt toàn dân; tuy
nhiên, tiêu, dùng không phải là hai từ đồng nghĩa cho nên từ xài có nghĩa rất rộng
khiến cho chúng ta có nhiều cách hiểu khác nhau và hiểu như thế nào là phụ thuộc
vào ngữ cảnh nhất định.
Trong các sáng tác của ca dao Nam Bộ, tính từ cũng có một
vai trò rất lớn trong việc thể hiện sắc thái địa phương Nam Bộ. Đây là lớp từ
biểu thị tính chất, đặc tính khác nhau của sự vật, hiện tượng. Nhóm tính từ biểu
thị mức độ nhẹ: líu ríu, lờ đờ, rưng rưng, le the, lắt lẻo. Những từ này tồn tại
chủ yếu dưới dạng từ láy làm cho sắc thái có giảm nhẹ nên khi đọc ta có cảm
giác êm ái, dễ nghe.
Gió hiu hiu chín chiều ruột thắt
Nhìn sao bên bắc, nước mắt
chảy bên đông
Ai xui chi những vợ vợ chồng chồng
Không biết đây với đó dây tơ hồng
có xe?
Khi dùng nhóm tính từ này mục đích mà tác giả dân gian muốn hướng đến
là làm giảm tính chất của sự việc, tạo cảm giác dễ chịu, êm ái lẫn dễ nghe.
Nhóm tính từ biểu thị mức độ cao: chua lét, héo don, héo xàu, tèm hem, tối hụ,
non èo, rũ liệt... Những từ này chủ yếu là từ ghép, chúng hàm chứa ý nghĩa tuyệt
đối về đặc trưng tính chất. Trong ca dao Nam Bộ, nhóm từ này làm nổi rõ đặc điểm
của sự vật ở mức độ cao nhất, nó được nhấn mạnh nhằm gây hiệu quả, tác động đến
người nghe.
Chim chuyền nhành ớt líu lo
Lòng thương quân tử ốm o gầy mòn.
Cái phép dụng vần trong ca dao không phải chỉ cốt đọc sao cho trơn tru mà cao
hơn, nó thể hiện chiều sâu của ý, góp phần tạo hình tượng cho thơ: từ ốm o biểu
thị tình trạng của con người, chỉ mức độ gầy gò chỉ còn da bọc xương.
Gió lao
rao tàu cau ngã liệt
Anh xa em rồi rũ riệt chân tay.
Rũ riệt chỉ sự mệt mỏi đến
tột cùng có thể không gượng dậy nổi. Có thể thấy, lớp tính từ biểu thị mức độ của
đặc điểm, tính chất là lớp từ mang tính khẩu ngữ, bình dị và thân quen của người
dân Nam Bộ: vừa gây ấn tượng, vừa gợi hình cụ thể. Đặc biệt nhất là sự xuất hiện
của từ láy trong lớp tính từ hết sức riêng biệt nhưng đầy lý thú về lời ăn, tiếng
nói của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh danh từ, động từ, tính
từ, trong ca dao Nam Bộ, cách dùng đại từ cũng rất đáng chú ý. Theo khảo sát của
chúng tôi, những đại từ có tần số xuất hiện cao nhất trong cuốn Ca dao Nam Bộ:
bậu (198 lần, chiếm 7,03%), qua (85 lần, chiếm 3,01% ), tui (14 lần, chiếm
0,49%).
- Phong Bình đẹp lắm ai ơi
Bậu về bên đó cho tôi về cùng.
- Ai che con mắt
bậu đi
Bậu coi đồng bạc, đồng chì như nhau.
Hai đại từ bậu, qua được dùng trong
quan hệ xưng hô nam - nữ, vợ - chồng hoặc người yêu. Trong phương ngữ Nam Bộ, bậu
nghĩa là bạn, qua nghĩa là tôi, ta và hai từ này ta chưa bao giờ bắt gặp ở
phương ngữ Bắc Bộ. Sự khác biệt trong lối xưng hô này đã tạo nên một sắc thái rất
riêng của vùng đất Nam Bộ.
Mặc dù nhóm đại từ trong sáng tác ca dao của Nam Bộ
có số lượng không nhiều, nhưng cũng đã góp phần thể hiện sắc thái địa phương rất
rõ, ví dụ: bển (bên ấy), ổng (ông ấy), trển (trên ấy), chỉ (chị ấy), ngoải
(ngoài ấy).
- Em thương anh hết sức thương, nhớ hết sức nhớ
Gặp anh vô cớ em
chẳng dám nhìn
Sợ chị lớn ở nhà chỉ sanh tâm biến tánh, hốt hỏa lôi đình
Chỉ
rình ngã ba, chỉ đón ngã bảy, không biết chết mình hay hại em.
- Tay nắm tay
cho chắc, mặt giáp mặt cho tường
Để chiều nay về trển đôi đường cách xa.
Những
từ trên là hiện tượng rút gọn trong cách nói của người Nam Bộ, đây là một hiện
tượng rất độc đáo mà ta không thể tìm thấy trong các sáng tác ca dao của Bắc và
Trung Bộ.
Ngoài ra, trong ca dao Nam Bộ, lớp phụ từ tuy số lượng không nhiều
nhưng cách sử dụng cũng có những nét đặc sắc. Có những phụ từ mang sắc thái địa
phương rõ rệt: mình ên, dữ... Nếu là người địa phương khác, khi đọc những câu
ca dao như vậy, khó có thể hiểu ngay được ý nghĩa của nó.
Từ đặng là một ví dụ
điển hình, so với ngôn ngữ toàn dân, từ đặng có nghĩa tương ứng là được nhưng
theo cách giải thích của Từ điển từ ngữ Nam Bộ của Huỳnh Công Tín [68, tr.48],
từ đặng có bốn nghĩa: đặng1 có khả năng hiểu hoặc chấp nhận một điều gì đó; đặng2
sở hữu, có được một cái gì đó thường là tốt đối với mình; đặng3 đạt tiêu chuẩn,
đạt yêu cầu, làm cho có thể hài lòng hoặc đủ điều kiện để thực hiện; đặng4 thắng
trong một hoạt động nào đó có tranh hơn thua.
- Ở đây chợ Quán thâm sầu
Cơm ăn
chẳng đặng, ăn trầu giải khuây.
- Bao giờ cho đặng sum vầy
Giao hoan đôi mặt dạ
này mới vui.
Tuy nhiên, trong ca dao Nam Bộ, từ đặng tùy từng trượng hợp giao
tiếp cụ thể mà có những sắc thái nghĩa khác nhau:
- Em vái ông tơ vài ve rượu
thiệt
Cầu bà nguyệt năm bảy con gà
Xui cho đôi lứa hiệp hòa
Sao em trả lễ đặng
mà đáp ơn.
- Ngó lên am tự chùa vàng
Tu thời đặng đó bỏ nàng ai nuôi?
Trong
hai bài ca dao trên, đặng ở đây có nghĩa là để, để mà. Với nghĩa này, đặng đã
làm cho bài ca dao vừa có ý nhẹ nhàng vừa đạt được mục đích diễn đạt.
Trong vốn
từ của một dân tộc, từ ngữ địa phương có sắc thái phong cách hết sức rõ rệt.
Không phải ngẫu nhiên, trong các sáng tác dân gian, từ địa phương thường xuất
hiện với tần số cao. Nhờ lớp từ này mà chúng ta có thể hiểu rõ hơn sắc thái văn
hóa trong cách sử dụng từ ngữ của người dân một vùng miền cụ thể. Có thể thấy
rõ điều này trong ca dao Nam Bộ. Việc sử dụng phong phú, đa dạng từ địa phương
là một nét đặc biệt của ngôn ngữ văn hóa Nam Bộ, nhờ đó, đời sống tinh thần của
con người vùng đồng bằng sông Cửu Long mới được biểu hiện đầy đủ đến thế.
2.2.1.5. Từ láy
Từ láy là những từ "được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng
gốc theo những quy tắc nhất định sao cho quan hệ giữa các tiếng trong từ vừa điệp
vừa đối hài hòa với nhau về âm, và có giá trị biểu trưng hóa" [39, tr.33].
Trong thơ ca nói chung, thơ ca dân gian nói riêng, từ láy thường được sử dụng rất
nhiều. Ca dao Nam Bộ cũng không phải là ngoại lệ. Khảo sát 2816 câu trong cuốn
Ca dao Nam Bộ (Bảo Định Giang), chúng tôi thấy có 166 từ được sử dụng, với 281
lượt xuất hiện, chiếm tỷ lệ 10%. Số liệu cụ thể ở một số bài như sau:
Bảng 2.5. Thống kê từ láy trong một số bài ca dao Nam Bộ
STT
|
BÀI
CA DAO/TRANG
|
TỔNG SỐ TỪ
ĐƯỢC SỬ DỤNG
|
SỐ LƯỢT TỪ LÁY
|
TỪ LÁY
|
1
|
Bài 1/ 126
|
14
|
1
|
lai láng
|
2
|
Bài 9/ 127
|
28
|
1
|
lạnh lùng
|
3
|
Bài 18/ 129
|
14
|
1
|
lờ đờ
|
4
|
Bài 20/ 129
|
28
|
1
|
thong dong
|
5
|
Bài 21/ 130
|
29
|
1
|
so đo
|
6
|
Bài 46/ 134
|
14
|
1
|
chiều chiều
|
7
|
Bài 69/ 138
|
14
|
1
|
lấp lánh
|
8
|
Bài 65/ 138
|
27
|
3
|
ròng ròng, hủng hỉnh, lia
thia
|
9
|
Bài 75/ 139
|
28
|
2
|
linh đinh, dật dờ
|
10
|
Bài 103/ 143
|
28
|
2
|
lù mù, lưa thưa
|
11
|
Bài 109/ 145
|
28
|
1
|
thon thon
|
12
|
Bài 110/145
|
14
|
1
|
róc rách
|
13
|
Bài 117/ 146
|
14
|
2
|
mênh mông, óng ánh
|
14
|
Bài 742/ 236
|
2
|
2
|
xinh xinh, nho nhỏ
|
15
|
Bài 139/ 151
|
14
|
1
|
lênh đênh
|
16
|
Bài 191/ 160
|
14
|
1
|
cúm núm
|
17
|
Bài 269/ 171
|
19
|
1
|
lòng thòng
|
18
|
Bài 307/ 176
|
31
|
1
|
lêu lêu
|
19
|
Bài 323/ 178
|
14
|
1
|
vòi vọi
|
20
|
Bài 341/ 181
|
22
|
1
|
rung rinh
|
21
|
Bài 345/ 182
|
14
|
1
|
xao xác
|
22
|
Bài 352/182
|
17
|
2
|
bát ngát, bâng khuâng
|
23
|
Bài 359/ 183
|
16
|
1
|
đỏng đảnh
|
24
|
Bài 415/ 191
|
15
|
2
|
bòng bòng
|
25
|
Bài 422/ 192
|
20
|
1
|
cheo leo
|
26
|
Bài 435/ 193
|
39
|
2
|
khoan khoan, sẵn sàng
|
27
|
Bài 436/ 193
|
22
|
1
|
vật vờ
|
28
|
Bài 439/ 194
|
16
|
2
|
le the, lúp xúp
|
29
|
Bài 444/ 194
|
28
|
1
|
cha chả
|
30
|
Bài 449/ 195
|
14
|
1
|
xa xôi
|
31
|
Bài 478/ 199
|
14
|
1
|
rộn ràng
|
32
|
Bài 516/ 205
|
34
|
1
|
long đong
|
33
|
Bài 537/ 207
|
14
|
1
|
thủng thẳng
|
34
|
Bài 526/ 206
|
17
|
1
|
ngại ngùng
|
35
|
Bài 587/ 214
|
14
|
1
|
lận đận
|
36
|
Bài 609/ 217
|
29
|
1
|
bơ vơ
|
37
|
Bài 644/ 222
|
14
|
1
|
tang tình
|
38
|
Bài 650/ 223
|
14
|
1
|
thỏ thẻ
|
39
|
Bài 658/ 224
|
14
|
1
|
thăm thẳm
|
40
|
Bài 664/ 225
|
29
|
1
|
se sẻ
|
41
|
Bài 1854/ 381
|
14
|
1
|
hân hấn
|
42
|
Bài 922/ 261
|
14
|
2
|
rủ rỉ, rù rì
|
43
|
Bài 677/ 226
|
24
|
1
|
phũ phàng
|
44
|
Bài 690/ 228
|
21
|
2
|
bồn chồn, dè dặt
|
45
|
Bài 712/ 230
|
19
|
1
|
vấn vương
|
46
|
Bài 727/ 233
|
33
|
1
|
trắc trở
|
47
|
Bài 735/ 234
|
33
|
3
|
tăng lăng, tíu líu, lịu địu
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét