Hằng năm, theo lệ thường, vào những mùa holiday tháng 12 Dương lịch, tại Tổ Đình Phước Huệ đều có khai giảng các khóa tu xuất gia ngắn hạn. Tính ra, kể từ khi khai giảng khóa đầu tiên cho đến năm nay 2008, có tất cả là 16 khóa. Khóa tu năm nay là khóa thứ mười sáu. Sở dĩ chùa tổ chức các khóa tu nầy, với mục đích là để cho những Phật tử (không phân biệt phái tính và tuổi tác), đều có thể tham gia tập sự tu tập theo phẩm hạnh của người xuất gia. Dù họ không đủ nhân duyên để trở thành người xuất gia thực thụ, nhưng cũng gây cho họ có nhiều niềm tin nơi Tam bảo và gieo trồng chủng duyên sâu dầy với Phật pháp. Và khi nào hội đủ nhân duyên, thì họ có thể phát tâm xuất gia luôn.
Trong bao nhiêu năm qua, nhờ có những khóa tu mở ra như thế nầy, mà có nhiều vị đã phát tâm xuất gia thực thụ. Và chính những vị nầy, sau một thời gian tu học, nay đã trở thành những Tăng sĩ Phật giáo gương mẫu. Họ đã đảm nhận một vài công việc Phật sự giúp cho Giáo Hội các nơi. Có vị thì hiện đang làm trụ trì ở các tự viện trong hoặc ngoài nước Úc. Đó là thành quả tốt đẹp, tất cả đều nhờ các khóa tu học nầy mà ra.
Được thế, âu đó cũng là nhờ ân đức lớn lao của Hòa Thượng Tông Trưởng Tổ Đình Phước Huệ. Ngài đã bỏ ra rất nhiều công sức để chăm lo cho các khóa tu học. Ngài thường nhắc nhở Ban tổ chức khóa tu phải lo cho chu đáo mọi việc, nhất là nơi ăn chốn ở phải sắp đặt đàng hoàng. Phải tạo cho các tu sinh có được một nếp sống tương đối thoải mái tốt đẹp trong thiền môn. Đặc biệt nhất là Hòa Thượng luôn quan tâm theo dõi hướng dẫn về phần tinh thần tu học cho các tu sinh. Tinh thần có thoải mái an lạc, thì người ta mới ham tu hiếu học. Mỗi lần khóa tu mở ra, Ngài thường nhắc nhở Ban tổ chức phải thành tâm cung thỉnh các vị giảng sư phụ trách. Chính bản thân Ngài trong những năm qua, khi còn khỏe mạnh, Ngài cũng đã có giảng dạy cho các tu sinh. Nội quy và chương trình tu học do Ban tổ chức soạn thảo và rồi trình lên cho Ngài duyệt xét. Sau đó, tất cả đều phải áp dụng chấp hành nghiêm chỉnh. Từ trên xuống dưới, ai nấy đều phải giữ gìn cẩn trọng không một ai dám sai phạm. Nhờ thế, mà mọi người tu học đều có tiến bộ khả quan và rất thích thú.
Riêng phần chúng tôi, kể từ năm 2003 đến nay, năm nào chúng tôi cũng vâng lời Hòa Thượng chỉ dạy về Tổ Đình Phước Huệ để phụ lực cùng với quý vị trong Ban giảng huấn. Nhớ lại, những năm về trước, số người dự tu phần đông là những người trọng tuổi. Còn giới trẻ thì rất ít. Số người dự tu, được chia làm hai thành phần: chánh thức và bán chánh thức. Những người phát nguyện dự tu chánh thức, thì họ được thế phát thọ giới Sa Di và đắp y vàng, gọi là y mạng. Còn những vị bán chánh thức thì cũng được thọ giới nhưng không có thế phát và chỉ đắp y choàng màu nâu. Sau một tháng tu học, thì mọi người xả giới về nhà. Tuy nhiên, ngoại trừ những vị phát nguyện tu luôn, thì có thể ở lại chùa hoặc ở một nơi nào khác tùy ý, nếu xét thấy thuận tiện. Đó là tùy theo hoàn cảnh của mỗi người. Đương sự phải trình bày lý do cặn kẽ và phải được Hòa Thượng bổn sư chấp thuận cho phép.
Lần nầy có khác hơn mọi khi. Sau khi nhận được thơ mời, do Thượng Tọa Thích Phước Tấn gởi đến, nhờ tôi phụ giúp cho 2 tuần lễ cuối. Bởi tuần đầu, tôi mắc bận hướng dẫn khóa tu Kết Kỳ Niệm Phật ở đạo tràng Quang Minh. Do đó, nên Thầy Phước Tấn nhờ tôi giúp cho 2 tuần cuối. Cần nói rõ, khóa tu kỳ nầy, Hòa Thượng chỉ cho khai giảng có 3 tuần thôi, lý do là vì quý thầy bận lo nhiều việc Phật sự khác, nên không có mở một tháng như thường lệ. Khóa tu bắt đầu từ ngày 20/12/2008 đến ngày 11/1/ 2009.
Mãn khóa tu học ở Quang Minh, chúng tôi liền lên Phước Huệ. Tôi đến Phước Huệ vào buổi sáng thứ hai ngày 29 tháng 12 năm 2008. Theo chương trình, tối lại tôi có giờ đứng lớp từ 8 giờ đến 9 giờ 30. Vào lớp, thật tôi vô cùng ngạc nhiên. Vì đối tượng tu học kỳ nầy, đa số là giới trẻ. Trong số các em phần nhiều là trẻ tuổi, chỉ có một chú thanh niên 24 tuổi và một cô thanh nữ 25 tuổi. Còn lại các em tuổi từ 9 tới 16. Bên nam, có 10 chú, 6 chú chánh thức thọ giới Sa di đắp y vàng, còn lại 4 chú thì tùng chúng tu học không có thọ giới đắp y. Bên nữ, thì có 9 cô, đều là bán chánh thức, 4 em bán chánh thức đắp y màu nâu, và 5 em thì theo chúng tu học, không có đắp y nâu, chỉ mặc áo tràng lam thôi.
Nhìn thấy các em, tôi không khỏi ngạc nhiên và thầm thán phục. Ở trang tuổi các em mà chịu khép mình theo nội quy tu học suốt thời gian 3 tuần lễ, đối với cái xứ sở nầy mà nói thì thật là hiếm có. Sống ở cái xứ Úc văn minh tân tiến, vật chất dồi dào, ăn uống phủ phê, đủ thứ máy móc, nhiều trò vui chơi thích thú, rất thu hút hấp dẫn giới trẻ. Với lứa tuổi các em, có em nào mà lại không ham thích vui chơi với bạn bè. Thế mà, không ngờ hôm nay, các em lại từ bỏ tất cả để phải chịu khép mình trong chốn Già lam tu niệm, thì chao ôi! thật là quá hy hữu ngoài sức tưởng tượng của tôi. Nhất là mùa nầy lại là mùa holiday, đối với giới trẻ thì thật là lý tưởng để các em giao du mua vui với bạn bè.
Từ sự cảm phục, tôi lại càng cảm thấy thương mến các em nhiều hơn. Ở vào trang tuổi các em, trình độ tiếng Việt của các em rất là non kém. Vì đa số các em sanh ra và lớn lên ở Úc. Dù rằng, các em đều có học thêm tiếng Việt, nhưng chỉ đủ để nói và nghe chút đỉnh trong gia đình hoặc với bạn bè thôi, chớ làm gì các em có đủ khả năng để nói và nghe hiểu thông thạo hết được. Chính vì thế, nên khi nghe giảng Phật pháp, các em thật khó lãnh hội. Do đó, một số các em nhỏ tuổi thì được quý Thầy quý Sư Cô khá tiếng Anh giúp giảng dạy phần giáo lý căn bản rất dễ hiểu cho các em. Còn một số khác lớn tuổi hơn, tương đối có khả năng nhận hiểu chút ít, thì các em được học chung với người lớn. Vì khóa tu nầy ngoài các em ra, còn có một vài vị trung niên và lão niên. Như thế, nhìn qua ta thấy một lớp học gồm có ba thế hệ rõ rệt. Vì trình độ và tuổi tác quá chênh lệch, nên rất khó khăn cho người hướng dẫn.
Phải thành thật mà nói, tôi thương và chú trọng đến các em nhiều hơn. Thương là vì thấy các em thật ngoan hiền, luôn tham dự đủ các thời khóa lễ. Nhất là thời công phu khuya, các em lớn nhỏ đều có mặt. Đúng 4giờ 30 khuya là kiểng đổ 3 hồi thức chúng, các em đều phải thức dậy. Dù với lứa tuổi ham ăn mê ngủ, nếu ở nhà làm gì các em thức dậy vào giờ nầy. Ngoài việc theo đúng giờ giấc của chương trình tu học ra, các em còn phải ăn chay trường suốt thời gian dự tu. Nội cái việc ăn chay trường không thôi, là đã làm cho tôi cảm phục các em quá rồi, nói chi đến những sự sinh hoạt tu học khác. Dĩ nhiên, đối với các em thì làm sao thích hợp với pháp môn tu của người lớn tuổi. Tuy vậy, nhưng những giờ tụng kinh niệm Phật, tôi thấy các em rất chăm chú theo dõi. Thương nhứt là giờ các em ngồi thiền vào lúc 10 giờ tối ở trên chánh điện. Các em ngồi chung với chư Tăng Ni và những tu sinh lớn tuổi. Chúng tôi hướng dẫn thực tập cho các em cách ngồi cũng như cách thức theo dõi hơi thở. Chúng tôi thực tập cho các em phương pháp tùy tức niệm Phật. Ngoài việc tụng kinh niệm Phật ra, chúng tôi còn chú trọng hướng dẫn cho các em tập thở, tập hát những bài hát đạo. Nhờ thế, mà các em có được một không khí vui tươi đỡ phải buồn chán.
Tôi có hỏi một vài cô chú, các em cảm thấy thế nào khi tham dự khóa tu học nầy. Các em không ngần ngại cho biết là các em rất thích và rất vui khi được ngồi bên nhau tu học. Nhất là các em được sự chú ý chăm sóc của các Thầy Cô và những cô bác đồng tu. Trong số các em nhỏ tuổi, tôi đặc biệt chú ý nhiều nhứt là chú Huệ Ân. Chú Huệ Ân năm nay 9 tuổi, tánh tình của chú rất dễ thương. Nhìn cách ăn nói đi đứng của chú, tôi thấy rất khác thường hơn các em khác. Chú có một người chị ruột 12 tuổi cũng cùng tu chung. Có lẽ chú được sự giáo dục dạy dỗ của gia đình rất kỹ lưỡng. Thấy tánh tình của chú đạo mạo có vẻ nghiêm trang như người lớn, tôi thường hay lân la trêu chọc chuyện trò với chú. Tôi dạy chú hát và chú đã học thuộc lòng các bài hát. Mỗi lần sau thời giảng dạy, tôi thường gọi chú đứng lên hát cho mọi người trong lớp nghe. Chú vâng lời mạnh dạn không một chút e sợ rụt rè và chú hát rất đúng giọng.
Chú là một trong các chú rất siêng năng trong việc tu học. Chú giữ gìn oai nghi rất cẩn thận như một người lớn. Ai trông thấy chú cũng rất thương mến. Ở nhà, chú ăn chay trường, dù ba mẹ của chú bắt ép chú phải ăn thịt cá, nhưng chú quyết cự tuyệt không ăn. Tôi hỏi chú, ăn chay trường như vậy, con có thèm đồ ăn mặn không? Chú trả lời dứt khoát và gọn bân là con không có thèm, vì con không thích ăn thịt. Dù là ăn chay trường, nhưng da thịt của chú rất hồng hào và khỏe mạnh. Các chú khác tuy không có vẻ đạo mạo như chú Huệ Ân, nhưng tất cả cũng đều rất ngoan hiền dễ dạy. Mọi sinh hoạt tu học, các chú đều giữ gìn và thật hành đúng theo.
Nhìn thấy các cô chú mặc vào những chiếc áo màu vàng, màu nâu, màu lam, khi hành lễ ở chánh điện, thỉnh thoảng đi ngang qua, tôi hay để ý ghé mắt nhìn vào. Trông thấy các cô chú tụng niệm, lễ lạy rất thành kính nghiêm trang lòng tôi rất đổi vui mừng. Phải nói, các chú đã được quý Thầy Cô hướng dẫn chỉ dạy rất kỹ. Trong những giờ sinh hoạt tôi cùng với các cô chú cùng nắm lấy tay nhau hát những bài hát đạo. Tôi có viết hai bài hát để riêng tặng cho các cô chú: “Ngày Vui và Hoa Tình Thương”. Đa số các cô chú đều rất thích hát hai bài nầy:
Ngày Vui
Vui là vui quá vui
Quá vui mừng ôi thật là vui
Kìa! chim hót líu lo trên cành
Cây xanh xanh và lá xanh xanh
Cùng nhau hát xoay quanh một vòng
Cùng nhau hát xoay quanh một vòng
Ta vui tươi trong ánh bình minh
Mừng hoa lá đẹp xinh an lành
Trời thanh thanh nước xanh xanh
Về đây hát tuổi xanh vui đùa
Về đây hát tuổi xanh vui đùa
Về đây hát tuổi xanh vui đùa.
Hoa Tình Thương:
Sáng ra em thức dậy
Miệng em nở nụ cười
Người nhìn em tươi mát
Em nhìn người vui tươi
Em là một đóa hoa
Đóa hoa xin tặng người
Tặng cho Ba và Má
Cho những người em thương
Em là một đóa hoa
Đóa hoa nở trong vườn
Mang mùi thơm đạo đức
Ngát tỏa khắp mười phương
Em là một đóa hoa
Lòng em luôn thiết tha
Nhớ ơn người nuôi dưỡng
Công lao Mẹ và Cha.
Vui là vui quá vui
Quá vui mừng ôi thật là vui
Kìa! chim hót líu lo trên cành
Cây xanh xanh và lá xanh xanh
Cùng nhau hát xoay quanh một vòng
Cùng nhau hát xoay quanh một vòng
Ta vui tươi trong ánh bình minh
Mừng hoa lá đẹp xinh an lành
Trời thanh thanh nước xanh xanh
Về đây hát tuổi xanh vui đùa
Về đây hát tuổi xanh vui đùa
Về đây hát tuổi xanh vui đùa.
Hoa Tình Thương:
Sáng ra em thức dậy
Miệng em nở nụ cười
Người nhìn em tươi mát
Em nhìn người vui tươi
Em là một đóa hoa
Đóa hoa xin tặng người
Tặng cho Ba và Má
Cho những người em thương
Em là một đóa hoa
Đóa hoa nở trong vườn
Mang mùi thơm đạo đức
Ngát tỏa khắp mười phương
Em là một đóa hoa
Lòng em luôn thiết tha
Nhớ ơn người nuôi dưỡng
Công lao Mẹ và Cha.
Thầy trò
chúng tôi vui đùa hát ca trong nắng ấm của buổi sáng sau giờ tập thể dục, hoặc
sau giờ thiền hành buổi chiều. Tôi cám ơn các em rất nhiều. Chính nhờ các em mà
tôi mới có dịp sống lại với cái tuổi ngây thơ hồn nhiên trong sáng như thuở nào
mà tôi đã đánh mất. Bây giờ, tôi mới cảm thấy mình thật là trẻ trung trong tinh
thần tuổi thơ hồn nhiên như các em. Chính cái tuổi thơ ngây trong sáng đó, mới
là cái tuổi gần hợp với lẽ đạo nhiều hơn. Nhiều khi mình thích làm người lớn
suy tưởng phân biệt viễn vông lung tung nhiều quá, mà đánh mất cái tuổi thơ
ngây hồn nhiên trong sáng, thì thật là đáng tiếc biết bao! Càng suy tư nghĩ
ngợi nhiều chừng nào chúng ta lại càng cách xa đạo lý nhiều chừng nấy. Bởi chân
lý, (nói rõ hơn là cái thực thể thanh tịnh sáng suốt chơn thật, thường gọi là
chơn tâm) nó rất thực tế lặng lẽ bình dị lúc nào nó cũng hiện hữu với chúng
ta. Nhưng vì chúng ta sống theo vọng trần nên không nhận ra nó. Vì lầm qua
không nhận, nên dù nó có mặt thực sự đó, chúng ta cũng không hay biết. Vì thế,
trong kinh Đức Phật thường quở chúng ta là những kẻ mê muội. Nhưng, nếu chúng
ta càng khởi nghĩ tìm nó, thì nó lại càng xa cách chúng ta diệu vợi. Do đó,
sống lại với cái tuổi ngây thơ hồn nhiên, thì mọi vọng tưởng suy nghĩ sẽ không
còn khả năng dẫn chúng ta đi xa. Bởi thế, tôi rất thích vui đùa hát ca với các
em. Vì các em hồn nhiên ngây thơ thật dễ thương. Bấy giờ tánh người «Lớn» của
tôi đã thực sự biến mất.
Có thể
nói, đây là khóa tu học đặc biệt mà từ trước tới nay chưa từng có. Tôi không
ngờ, các em còn trẻ tuổi mà lại chịu khép mình tu học nghiêm túc như thế nầy.
Ai dám bảo, ở xứ nầy, không có mầm non Phật pháp. Chẳng qua, tại vì chúng ta
chưa biết cách khai thác ươm mầm đúng cách hoặc thiếu môi trường thích hợp để
cho nó được nẩy mầm xanh tươi tốt đó thôi. Nếu chúng ta thật sự quan tâm tạo
môi trường tốt và phương pháp hướng dẫn tốt phù hợp với tuổi trẻ của các em,
thì tôi tin chắc rằng trong tương lai các em sẽ đóng góp làm nhiều điều lợi ích
cho Phật pháp. Bởi có gieo hạt, tất nhiên sớm hay muộn gì thì cũng sẽ có ngày
đơm bông kết trái. Đó là định lý nhân quả tất nhiên. Đó là nói chuyện tương
lai, nhưng trong hiện tại là các em có được những giây phút vui tươi thoải
mái thật là an lạc hạnh phúc. Quả thật các em đã thực sự nếm được hương vị an
lạc hạnh phúc nơi chốn thiền môn.
Nhìn vào
thực trạng xã hội của giới trẻ ngày nay, chúng ta thấy, phần lớn là các em đã
đánh mất định hướng đạo đức. Các em sống buông thả, tha hóa trụy lạc, đã và
đang lún sâu vào con đường tội ác sa đọa. Các em đã gây ra nhiều điều bất an
cho chính mình, gia đình và xã hội. Những tệ nạn buôn bán ma túy, hút chích xì
ke, băng đảng, hãm hiếp dâm ô, trộm cướp v.v… xảy ra nhan nhãn hằng ngày. Đó là
những vấn nạn to lớn khủng khiếp chung của nhơn loại. Một em biết hướng về đạo
đức hành thiện là chính bản thân của em đó, được lợi lạc và từ đó em sẽ gieo
rắc những hạt giống đạo đức thương yêu đem lại sự an vui hạnh phúc cho gia đình
và xã hội.
Hơn bao
giờ hết, tôn giáo đúng nghĩa thực chất của nó, vẫn phải là cái phao nổi để cho
mọi người bám vào, hầu để cho họ nương đó mới có thể tháo gỡ bớt những bức xúc
căng thẳng khó khăn nội tại. Có nhận diện, chuyển hóa được những nguyên nhân
gây ra khổ đau, thì người ta mới có thể vượt qua khổ đau. Có thế, thì nhơn loại
mới có được cuộc sống an lạc hạnh phúc. Bằng ngược lại, thì nhơn loại sẽ tiếp
tục gánh chịu những đau khổ hệ lụy dài dài. Nhứt là đối với thế hệ trẻ rất cần
được sự quan tâm chăm sóc góp sức của các tôn giáo. Tôn giáo có khả năng tiếp
sức hướng dẫn giáo dục cho các em có một nếp sống đạo đức lương thiện cao đẹp
trong hướng tiến xây dựng tình người và tình đạo. Một nền văn hóa cao đẹp, chỉ
có, khi nào mỗi cá nhân biết phục thiện, hành thiện và nhất là phải sống thật
với chính mình. Có thường xuyên chăm sóc nuôi dưỡng đời sống tâm linh, thì nhơn
loại mới có thể lấy lại sự quân bình giữa đời sống vật chất và tinh thần. Đó là
phương cách hay nhất để mang lại nguồn sống vui tươi hạnh phúc cho mình và tha
nhân.
Thời
gian ba tuần lễ trôi qua thật nhanh chóng. Mới đó mà đã sắp mãn khóa rồi. Sau
khi rời khỏi nơi đây, các em sẽ trở về với đời sống bình nhật. Những ngày các
em sống ở nơi đây, ít nhiều gì các em cũng đã tiếp nhận được những niềm vui an
lạc trong khi các em tu tập. Chính những hạt giống tu tập nầy nó sẽ là nguyên
động lực hướng dẫn đời sống các em sau nầy có những nếp nghĩ, lời nói hoặc hành
động theo chiều hướng thánh thiện tốt đẹp hơn. Đã có huân tập những hạt giống
tốt đẹp, thì chắc chắn sẽ hiện hành ra bằng những hành động tốt đẹp. Với tuổi
thơ ngây trong sáng của các em, tâm thức của các em giống như tờ giấy trắng rất
dễ tiêm nhiễm. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, câu nói nầy như là một
nguyên lý trong cách tiếp cận xử thế của con người.
Chúng
tôi viết bài nầy, mục đích là để muốn chia sẻ những niềm vui chung cùng với các
em. Những niềm vui nầy có được, trên hết vẫn là nhờ ân đức lớn lao của Hòa
Thượng Tông Trưởng. Hòa Thượng đã tạo ra những phương tiện và môi trường tốt để
cho mọi người có cơ hội về đây tu học. Kế đến là những vị trong Ban tổ chức
khóa tu và quý vị trong Ban trai soạn. Nhất là quý vị trong Ban trai soạn.
Những vị nầy đã làm những công việc nấu nướng vất vả ở nhà bếp. Họ chịu
khó nhọc phải thức khuya dậy sớm để lo nấu nướng. Nhờ đó mà mọi người mới có
được thức ăn yên tâm tu học. Nếu không có thực, thì làm sao vực được đạo. Cho
nên, chúng ta cần phải mang ơn các vị nầy. Nói rộng ra, là chúng ta phải tri ân
tất cả mọi người. Các tu sinh hôm nay không thể nào quên được ân đức của Đàn na
thí chủ dâng cúng. Xin mọi người hãy nhận nơi đây lòng tri ân sâu xa của tất cả
chúng tôi.
Viết,
trước là để thân tặng cho các em. Thiết nghĩ, đây cũng là một kỷ niệm rất êm
đẹp lần đầu trong cuộc đời hướng về đạo pháp của các em. Sau nầy, khi các em
trưởng thành, nếu có dịp, các em có thể nhìn lại những dòng chữ và những hình
ảnh đầy kỷ niệm thân thương nầy, để thấy rằng đã có một thời, lúc còn trẻ trung
mình cũng đã hướng lòng về Phật pháp tu học cùng với các bạn ở Tổ Đình Phước
Huệ. Đó cũng là điều mang lại cho các em có được một niềm vui rất nhẹ nhàng
thanh thoát.
Những ngày bên Mẹ
Hay tin Mẹ tôi lâm trọng bệnh, tôi liền vội vã đặt vé máy bay về ngay. Lúc mới
nhận được tin cháu tôi cho hay, rằng Mẹ tôi đang trong tình trạng hấp hối, thú
thật, lòng tôi lúc đó cũng có chút thoáng buồn, nhưng sau đó, tôi lấy lại bình
tĩnh ngay không có gì phải ưu tư lo lắng. Vì tôi nghĩ rằng, đời người ai rồi
cũng phải bước qua cái ngưỡng cửa tử thần. Hơn thế nữa, tuổi thọ của Mẹ tôi năm
nay cũng đã khá cao, chỉ còn qua một cái Tết nữa là Bà đã tròn đúng một trăm tuổi
thọ.
Như thế, kể ra bà cũng đã vượt qua cái tuổi “nhơn sanh thất
thập cổ lai hy” quá nhiều rồi. Thật đó cũng là một phước duyên của bà rất lớn. Đời
người ta sống được một trăm tuổi, đi tròn một thế kỹ thật là hiếm có! Thế là,
Bà cũng đã đến cái tuổi cần phải an nghỉ cho khỏe. Người xưa nói: “ Đa thọ đa
nhục”. Sống lâu chừng nào khổ nhiều chừng nấy. Khổ mình đã đành mà còn làm khổ
cho những người thân ruột thịt của mình nữa. Họ vì mình mà phải lo lắng, chăm
sóc ngày đêm đủ thứ. Do nghĩ thế, lòng tôi vẫn bình tĩnh thản nhiên, cứ làm
theo bổn phận của mình mà lo xúc tiến công việc…
Ngồi trên máy bay, suốt 8 tiếng đồng hồ, tôi chỉ biết nhiếp
tâm niệm Phật. Tuyệt nhiên, không phóng tâm nghĩ ngợi đến chuyện bệnh trạng
của Mẹ tôi. Có phải tôi vô tình lắm không? Không. Đối với thế nhân thường tình,
thì người ta cho đó là vô tình, bạc nghĩa. Tại sao Mẹ mình bệnh nặng sắp chết,
mà mình lại an nhiên dửng dưng cho được? Có phải mình thiếu bổn phận trách nhiệm
chăng? Tôi rất cảm thông cho điều họ nghĩ và trách móc đó. Tuy nhiên, cùng một
sự việc, tùy theo trình độ nhận thức của mỗi người mà nó có sai khác.
Đối với tôi, là người có chút ít hiểu biết qua những lời Phật
Tổ chỉ dạy về cái lý vô thường, sanh diệt, nên tôi không có gì phải bận tâm bồn
chồn lo âu bấn loạn. Bởi vì, cái đáng lo nhứt của tôi hiện giờ là chỉ một bề hướng
lòng về Mẹ tôi để tiếp sức cùng bà niệm Phật. Dù cho bà đang trong cơn mê sảng
hay tỉnh táo, tôi cũng dốc hết lòng thành chú tâm niệm Phật để hầu trợ giúp cho
bà phần nào. Tôi nhìn vào bàn tay của tôi để thầm cầu nguyện cho bà. Tôi biết,
Mẹ tôi tuy đang bệnh nặng nằm ở trên giường, nhưng đối với tôi lúc nầy bà vẫn ở
bên tôi. Đó là điều mà tôi thiết nghĩ, vừa hữu ích cho tôi trong lúc nầy và
cũng vừa hữu ích cho Mẹ tôi.
Tôi tin chắc rằng, sự nhiếp tâm niệm Phật của tôi, chắc chắn
là bà sẽ có nhận được, vì đó là thần giao cách cảm hay cảm ứng đạo giao bất khả
tư nghì. Tôi cho rằng, việc làm nầy của tôi là đúng theo lời Phật Tổ chỉ dạy.
Còn hơn, để tâm nghĩ tưởng mông lung, vẽ vời tưởng tượng bao nhiêu thứ chuyện
không đâu, thiếu thực tế, như vậy, thử hỏi cả hai có được lợi ích gì không? Thật
là vô ích. Hơn nữa, đừng quên rằng, hiện mình đang ngồi trên máy bay. Ngay cả bản
thân mình lúc nầy, cũng còn chưa biết ra sao? Không biết còn hay mất, khi máy
bay chưa hạ cánh đáp xuống đất an toàn. Thế thì lo nghĩ vẩn vơ mông lung chỉ
thêm mệt sức và càng hao tổn tinh thần mà thôi.
Tốt hơn hết là cứ bình tâm niệm Phật. Đó là tâm trạng của tôi
khi ngồi trên máy bay. Nói lên điều nầy, tuyệt đối, tôi không dám có ý khoe
khoang hay phô trương cái bản ngã đáng ghét của mình cho mọi người nể phục tán
dương. Tuyệt đối trăm lần không vạn lần không. Sở dĩ tôi nói như thế, là vì thật
tình, tôi muốn chia sẻ cái tâm cảnh của tôi với những ai không may có cùng hoàn
cảnh tâm trạng giống như tôi lúc nầy. Tôi thiết nghĩ, chúng ta chỉ nên làm như
thế là tốt hơn. Đó là điều mà tôi thành thật muốn chia sẻ cùng với quý liên hữu,
bạn đọc.
Sau khi ra khỏi máy bay, làm thủ tục giấy tờ nhập cảnh ở phi
trường Tân Sơn Nhứt xong, tôi được một vài người thân chờ đón sẵn rồi đưa chúng
tôi lên xe chạy thẳng về quê nhà. Từ phi trường về đến quê tôi ở ấp Mỹ
Cẩm, xã Mỹ Hòa, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, xe chạy tốc hành phải mất khoảng
6 tiếng đồng hồ mới tới. Thế là suốt ngày hôm ấy, tôi phải ngồi máy bay và xe
hơi, cộng lại là 14 tiếng đồng hồ. Kể ra, cũng khá thắm mệt. Nhứt là sức khỏe của
tôi cũng không mấy tốt lắm. Tôi tới nhà vào lúc 11 giờ đêm, tối thứ ba ngày
7/8/07.
Vừa bước xuống xe, các cháu tôi có mặt đông đảo, chúng nó đều
mừng rỡ chào đón rước tôi vào nhà. Vì trong đêm tối, ánh đèn điện từ trong sân
nhà dọi ra, không đủ ánh sáng để tôi nhận diện rõ từng đứa cháu một. Tôi chỉ
đưa mắt nhìn qua một lượt và mỉm cười nhẹ trên môi rồi tôi vội vã bước thẳng
vào nhà. Tôi đến bên Mẹ tôi, rồi nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh bà và hỏi bà có
nhận ra tôi không? Mẹ tôi rất mừng hiện rõ trên nét mặt của bà. Mẹ tôi nói: “Có
phải thầy Đại về đó không”? Bà hỏi tôi với vẻ vô cùng xúc động và giọng nói run
run không được khỏe lắm. Tôi biết bà vẫn còn đang mệt, lại thêm vì quá xúc động
mừng tôi về, nên bà nắm lấy tay tôi, rồi liền nằm xuống. Tôi phải kề sát vào
tai bà chỉ hỏi được một câu: “Má cảm thấy có mệt lắm không”? Vì bà lãng tai hơi
nặng, nên tôi phải nói lớn tiếng bà mới nghe. Bà nói: “Má còn mệt lắm”! Thế là
tôi để bà nằm nghỉ cho khỏe. Bấy giờ, tôi quay sang hỏi thăm các đứa cháu
của tôi về bệnh trạng của bà trong mấy ngày qua.
Một trong những đứa cháu của tôi có mặt lúc đó là thầy Lệ Sĩ.
Thầy là người con trai thứ tư của anh hai tôi. Anh hai tôi có cả thảy là 6 người
con, 2 gái 4 trai. Đã chết 2 người con trai, hiện chỉ còn 4 người: 2 gái và 2
trai. Thầy Lệ Sĩ hiện là trụ trì chùa Phước Thanh. Tôi hỏi thầy về diễn tiến
bệnh trạng của bà nội thế nào. Thầy Lệ Sĩ lần lượt trình bày cặn kẽ cho
tôi biết.
Thầy nói: Hôm con điện thoại báo tin cho thầy là bà nội đang
trong cơn hấp hối. Bà nằm mê man bất tỉnh. Đôi chân của bà nội lạnh buốt từ dưới
lên trên. Hơi thở của bà rất yếu ớt, dường như không nghe hơi thở. Chúng con đứng
chung quanh giường niệm Phật trợ niệm cho bà. Con bảo tất cả đều phải giữ im lặng
niệm Phật. Tất cả kẻ lớn người nhỏ đều nghe theo con mà hết lòng niệm Phật. Đèn
cầy thắp sáng 4 gốc giường. Ai cũng nghĩ là bà nội sẽ không qua khỏi. Nhưng sau
đó, thật là mầu nhiệm từ từ bà tỉnh lại.
Đêm qua, bà nội lại mê sảng, la ó lớn tiếng, vùng vẫy cào cấu
lung tung, một hiện tượng thật kỳ lạ, tụi con rất lo sợ. Bà nói lung tung,
không ai hiểu gì cả. Ngừng một lát, thầy lại kể tiếp cho tôi nghe. Đã mấy hôm
qua, bà đi tiểu rất khó khăn. Có rước bác sĩ đến xem. Bác sĩ nói: Bà bị nhiễm
trùng đường tiểu, nên bà bị lên cơn sốt khá nặng.
Qua hôm sau, tôi thấy tình trạng sức khỏe của bà quá yếu, vả
lại bà rên la nhiều hơn, vì đi tiểu bị đau và không tiểu được. Tôi tức tốc kêu
xe đưa bà đi nhà thương điều trị. Tôi đưa bà thẳng lên bệnh viện tỉnh, vì sợ ở
huyện không có đủ phương tiện dụng cụ trị liệu bằng. Sau khi làm thủ tục nhập
viện, bác sĩ làm xông tiểu cho bà. Chỉ vài giờ sau là bà cảm thấy khỏe lại. Bác
sĩ cho biết, bà bị nhiễm trùng đường tiểu khá nặng. Ống dẫn nước tiểu bị sưng
lên. Nếu lên trễ, thì bà có thể tử vong, vì bà sẽ bị bể bàng quang. Thật là may
mắn! phước duyên bà còn, nên tôi về kịp thời để đưa bà đi bệnh viện trị liệu.
Trước đó, không ai khuyên bà đi được.
Sau khi xuất viện, bà về nhà, tôi bảo các cháu gái của tôi phải
chăm sóc cho bà nội thật kỹ lưỡng, cẩn thận chu đáo. Các cháu tôi làm theo lời
dặn của tôi. Vài ngày sau, bà ăn uống tuy không được bình thường như trước kia,
nhưng cũng tạm ăn uống chút ít được. Bà nói, ăn uống không biết ngon lành chi hết,
chỉ ráng nuốt cho nó có trong bụng mà thôi.
Một tuần sau nữa, bà ăn hơi biết ngon. Thế là sức khỏe của bà
từ từ hồi phục lại. Nhìn thấy bà hơi khỏe lại, tôi rất vui mừng. Vì bà đã trải
qua một cơn bạo bệnh như chết đi sống lại. Có thể nói, đây là lần đầu tiên bà bị
bệnh nặng nhứt trong suốt cuộc đời của bà. Từ nhỏ tới già, bà chưa bao giờ nằm
nhà thương tới một ngày. Chỉ có lần nầy, bà phải nằm ở nhà thương 3 ngày để bác
sĩ theo dõi điều trị. Trong suốt thời gian nầy, tôi luôn túc trực bên bà, để
theo dõi bệnh trạng của bà. Có nhiều Phật tử đến thăm. Con cháu cũng thường tới
lui thăm viếng.
Tôi mua vé về 6 tuần. Thời gian trôi qua thật nhanh. Mới đó
đã sắp đến ngày trở về Úc. Gần ngày về, tôi đến bên bà nắm lấy tay bà và nói:
“Còn vài ngày nữa, con trở về Úc rồi, Má ráng ăn uống ngủ nghỉ cho có sức khỏe.
Má mạnh khỏe con cháu đứa nào cũng mừng hết”. Bà nắm lấy xiết chặt tay tôi và
nói: “Tuổi của Má bây giờ cũng đáng mồ mả rồi, Má muốn chết mà nó không chết. Nếu
chết được, thì nó khỏe biết bao nhiêu, khỏi phải hành hạ khổ cực con cháu. Bây
giờ, Má chỉ còn có một mình con thôi. Miễn sao con mạnh khỏe là Má mừng rồi!
Con về Úc rồi, ở đây, Má có chết, thì có thầy Sĩ lo. Con đừng về nữa tốn hao tiền
bạc lắm! Tu rồi làm gì ra tiền!
Đó là những lời rất chân tình xuất phát từ tấm lòng thương
yêu của một người Mẹ già đối với đứa con ở phương xa. Nghe qua, lòng tôi cảm thấy
thật chua xót se thắt chạnh lòng! Hơn lúc nào hết, lúc nầy, tôi mới cảm nhận được
tình Mẹ thương con thật là thiêng liêng cao cả. Bao giờ cũng sợ con mình khổ cực
và tốn kém. Quả tình, tình Mẹ thương con bao la không bờ bến. Dù còn một hơi thở
tàn, cũng vẫn nghĩ thương tưởng đến con và lo lắng cho con. Tôi ngồi yên lặng nắm
lấy xiết chặt tay bà. Tôi biết giờ phút nầy, bà rất buồn khi biết tôi sắp sửa rời
khỏi nơi đây. Dù bà có thừa can đảm chịu đựng, nhưng trước giờ phút chia tay giữa
tình Mẹ con trong lúc nầy, không thể nào bà không xúc động. Tôi biết Mẹ tôi
đang nén dằn lòng xúc động không muốn để lộ ra cho tôi biết.
Dù đã gần trăm tuổi đời, nhưng tâm trí của bà vẫn còn minh mẫn
sáng suốt chưa bao giờ nói năng lẫn lộn. Đó là một diễm phúc lớn lao cho bà
cũng như cho con cháu. Một đứa cháu gái tôi có ý hỏi chọc bà. Nè nội, thầy đi rồi,
nội có buồn không? Một câu hỏi tuy có ý trêu chọc bà cho vui, nhưng vô tình đó
lại là một câu hỏi xoáy mạnh vào tâm khảm đau thương buồn tủi của bà. Bà
nói với giọng rất nhẹ nhàng: “Mầy còn phải hỏi”! Chỉ vỏn vẹn có ba chữ thôi:
“còn phải hỏi” mà nó đã gói trọn tâm tư sâu kín của một người Mẹ già khi
nghĩ đến xa con. Có bà Mẹ nào không đau lòng xót dạ khi từ biệt con mình trong
giờ phút chia ly? Kẻ ra đi không buồn bằng người ở lại. Vì người ra đi bao giờ
cũng có cảnh mới. Còn người ở lại nhìn cảnh cũ càng thêm chua xót quặn thắt đau
lòng!.
Ái biệt ly khổ, đó là một trong 8 nỗi thống khổ lớn của con
người. Sự đời, dù biết vậy, nhưng không ai tránh khỏi. Song có điều, tôi cảm thấy
không buồn lắm, vì 6 tuần qua, tôi đã có dịp gần gũi cận kề bên cạnh Mẹ tôi.
Tôi có dịp nhìn bà thật kỹ và lo cho bà từng miếng ăn thức uống. Thỉnh thoảng,
tôi nằm bên cạnh bà. Đươc nằm bên cạnh bà tôi cảm thấy thật là sung sướng vô
cùng. Tôi có cảm giác như sống lại cái thời thơ ấu của tôi. Những lúc bà khỏe,
bà kể chuyện xưa về những thân nhân kẻ còn người mất trong dòng họ bên nội bên
ngoại của tôi. Tôi nằm nhắm nghiền đôi mắt lại lắng nghe bà kể. Do đó, tôi cảm
thấy, những ngày sống bên Mẹ tôi là những ngày hạnh phúc lớn nhứt trong đời
tôi. Lòng tôi cảm thấy thật vô cùng ấm áp. Tôi từ biệt bà, lòng tôi cảm thấy nhẹ
nhàng như hưởng được một niềm vui lớn mà chính Mẹ tôi đã ban tặng cho tôi.
Những niềm vui khi tụng Kinh Vu lan
Chủ đề mới nhìn qua như là một nghịch lý, trái với lẽ thường
tình. Thông thường ai tụng Kinh Vu Lan cũng cảm thấy rất đau buồn rơi lệ. Một
niềm đau cảm xúc trào dâng từ đáy lòng sâu kín biểu hiện một cách rất tự nhiên.
Vì nội dung Kinh Vu Lan nói lên tính chất của tình thương. Sự thiết lập quan hệ
của loại tình thương nầy được dựng lên từ bản chất đặc thù của lòng từ bi vô lượng.
Nguyên nhân có ra là do Tôn giả Mục Kiền Liên bạch Phật, với mục đích là để tìm
phương cách cứu thoát mẹ Ngài. Bà Mục liên thanh đề, vì động lực vô minh thúc đẩy
gây tạo nghiệp ác, nên sau khi chết, bà bị đọa vào ngục hình thọ khổ. Tôn Giả Mục
Kiền Liên là một người con chí hiếu, sau khi dùng huệ nhãn kiếm tầm, biết rõ mẹ
mình thác sanh vào loài ngạ quỷ, nên Ngài vội tìm mọi phương cách để cứu thoát
mẹ…
Đó là Tôn giả đã sử dụng tính chất hay cảm tính của tình
thương. Một cảm tính được biểu hiện trong quan hệ thâm tình mẫu tử. Nói
cách khác, đó là lực dụng của tình thương chớ chưa phải là bản chất của tình
thương. Lực dụng của tình thương đó được biểu hiện xuất phát từ cội nguồn bản
chất của tình thương. Chất liệu của tình thương đó khi xúc tác một đối tượng
ân sâu nghĩa nặng, liến đánh động khơi dậy được tính hiếu thảo hướng sinh thăng
hoa cao đẹp của con người.
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm
Bản chất của tình thương là cội nguồn của đạo đức. Ở đây, ta
thấy sự thể hiện tình thương bằng tất cả đạo đức của con người. Đó là cội gốc
nhân bản. Là con người không ai lại không có cội gốc đạo đức nầy. Cho nên, khi
thể hiện tình thương đem đến nguồn vui cho một đối tượng nào đó, không phân biệt
thân sơ, hay chủng loại, thì đó là một niềm vui lớn chớ sao lại buồn? Tôn giả Mục
Kiền Liên đem hết tấm lòng hiếu thảo của một người con để cứu thoát mẹ
mình hết khổ, và khi người mẹ không còn bị đọa đày ở trong cảnh ngục tù khổ
đau nữa, thì quả đó là một niềm vui lớn. Trường hợp ta có một người thân như
cha hay mẹ, đang bị bệnh nặng, ta chạy tìm thầy thuốc giỏi để chữa trị cho người
thoát khỏi cơn bệnh hiểm nghèo và người đã được mạnh khỏe an bình trở lại, như
thế, thì thử hỏi ta vui hay buồn? Hẳn nhiên, là ta sẽ vui mừng không thể nào
nói hết.
Muốn cứu thoát một người tội nghiệp sâu nặng như bà Mục liên
thanh đề, tất nhiên, là phải vận dụng đến thần lực chú nguyện của nhiều người.
Ngay cả thần lực của đức Phật cũng không thể cứu thoát nghiệp nặng của bà được.
Điều nầy, cho ta thấy luật nhân quả rất công bằng: ai ăn nấy no, ai gây tội người
đó phải gánh chịu, không ai có thể ăn thế hay thay thế tội lỗi cho ai được cả.
Và cũng không có một bàn tay thần lực nào có thể trực tiếp cứu thoát được bà. Nếu
được, thì Tôn giả Mục kiền liên đã cứu thoát mẹ ngài rồi. Đâu cần gì phải trở về
bạch Phật, để rồi Phật phải chỉ bày cách thức cúng dường trai tăng để cứu mẹ
Ngài. Do đó, cho chúng ta thấy, thần thông không thể thắng được nghiệp lực.
Phật và các hàng Thánh chúng hiệp lực chú nguyện, đó chỉ là
phần trợ duyên cực hảo mà thôi. Điều quan yếu là đương sự phải hết lòng ăn năn
cải hối những tội lỗi mà mình đã gây ra. Nhờ trợ duyên tốt đó mới đánh động được
tâm thức của bà Thanh đề, nên bà đã hết lòng ăn năn hối cải và sau đó bà được
thác sanh về cảnh giới an lành. Một người thoát khỏi ngục tù đau khổ, sanh về cảnh
giới an vui, thử hỏi ta vui hay buồn? Hẳn nhiên là ta rất vui rồi.
Một niềm vui nữa, là Phật đã chỉ dạy cho chúng ta một diệu
pháp thần kỳ về phương cách báo hiếu cho ông bà cha mẹ chúng ta. Không những
ông bà cha mẹ trong hiện đời mà còn trải qua bảy đời nữa. Khi chúng ta thiết lễ
trai nghi thành tâm cúng dường trai tăng với tất cả tấm lòng thành kính, tất
nhiên, nhờ phước đức cúng dường đó, mà ông bà cha mẹ của chúng ta không những
trong hiện tại được nhiều phước báo, mà còn những ông bà cha mẹ quá vãng trong
bảy đời cũng được siêu thăng thoát hóa.
Chư Đại đức mười phương thọ thực
Trong bảy đời sẽ được siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hìện tiền
Được nhờ phước lực tiêu khiên ách nàn…
Một niềm vui nữa, là chúng ta được cái duyên phúc nhiều đời
trong quá khứ, nên nay mới gặp được Tam bảo. Mà hình ảnh của chư Tôn đức Tăng
Ni, sau ba tháng an cư kiết hạ hội tụ trong ngày lễ Tự Tứ, để chúng ta có dịp
gieo tạo phước điền. Công đức cúng dường nầy không những chúng ta có phước lớn
mà còn ảnh hưởng đến tất cả nhơn thiên trong mười phương cũng đều được gội nhuần
ân đức và sẽ được nhiều lợi lạc, do sức chú nguyện của chư Tăng. Đó là niềm vui
do chính ta đã có được cơ duyên cúng dường gieo trồng cội phước và đồng chú
nguyện cho muôn loài cộng hưởng.
Một niềm vui sau cùng, sau khi chư Tăng chú nguyện viên dung
rồi, thì tất cả hàng Phật tử nam nữ chúng ta cùng nhau thọ trai trong khung cảnh
đầm ấm tràn đầy yêu thương trong thâm tình đạo vị cùng với chư Tăng Ni. Đó là một
ngày hội lớn để mọi người có cơ hội mừng cho ông bà cha mẹ của mình kẻ còn người
mất đều được ân triêm lợi lạc. Ngày Tự tứ của chư Tăng cũng còn gọi là ngày Phật
hoan hỷ, chúng Tăng hiện tiền hoan hỷ. Như vậy, ngày Đại lễ Vu Lan không phải
là ngày buồn mà là một ngày vui mừng lớn, vì tất cả đều được gội nhuần tắm mình
trong ánh hào quang của chư Phật.
Cho nên, khi tụng đến những câu cuối của Kinh Vu Lan, ta
thấy Phật dạy rất rõ ràng là tất cả đều vui chớ không có khóc than bi lụy buồn
rầu chi cả. Mọi người đều hân hoan trong niềm vui chung là âm siêu dương thới
và khắc ghi nhớ mãi trong lòng gìn giữ ngày Đại Lễ truyền thống cao đẹp nầy:
Đệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử thiền môn
Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan…
Tóm lại, lướt sơ đại khái qua bản Kinh Vu Lan Phật dạy về
phương pháp báo hiếu cho ông bà cha mẹ của người Phật tử xuất gia và tại gia, với
cái nhìn của tôi, thì nội dung Kinh Vu Lan, không có điều gì mà ta cảm thấy bi
lụy khóc than buồn tủi cả. Sự buồn tủi đó chẳng qua là do sự cảm xúc tự nhiên của
chúng ta mà thôi. Vì bản chất của đạo Phật là giác ngộ và giải thoát, mà Kinh
Vu lan là một trong các Kinh điển Đại thừa, có mục đích cao thượng là đức Phật hướng
con người trở về cội nguồn. Cội nguồn của đời sống tâm linh. Cội nguồn đó chính
là bản chất của tình thương. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn là Phật dạy mỗi người
hãy trở về với nguồn tâm thanh tịnh sáng suốt của chính mình. Đó là nội dung yếu
chỉ của Kinh Vu lan nhắm tới. Tuy nhiên, ở cấp độ thấp hơn, là Phật dạy người
Phật tử dù xuất gia hay tại gia đều phải trải rộng tấm lòng yêu thương đối với
tất cả muôn loài. Dĩ nhiên, trong đó có tất cả thân bằng quyến thuộc của chúng
ta.
Nếu tụng Kinh mà ta sanh tâm buồn tủi, thì e không đúng với
tinh thần giác ngộ Phật dạy. Bất luận bộ Kinh nào, dù thuộc hệ thống Phật giáo
Nguyên Thủy hay Phật giáo Phát Triển, tất cả đều hướng con người đến chỗ an lạc
giải thoát. Bởi buồn khổ là hiện tướng của phiền não. Vượt khỏi những phạm trù
ràng buộc đối đãi sai khiến của phiền não, thì ta mới có được an lạc hạnh phúc
thực sự. Vì thế, khi ta tụng Kinh đọc lại những lời Phật dạy, mỗi lời Kinh đều
chứa đựng một hương vị an vui giải thoát. Nếu chúng ta không khế nhận thẩm thấu
được điều căn bản nầy, thì việc tụng niệm của chúng ta sẽ không có được lợi ích
nhiều lắm.
Thế nên, khi tụng Kinh ta cần phải để tâm quán chiếu sâu vào
tự thể để thấy được bản chất của tình thương hơn là nằm trên mặt hiện tượng cảm
tính của tình thương. Nếu thế, thì chúng ta sẽ không bao giờ có được định tâm
an lạc. Hãy nương theo những lời Kinh Phật dạy để hội nhập vào thể tánh chơn
như. Đó là chúng ta khéo biết tìm lại lẽ sống chân thật của chính mình.
Qua những điều trình bày khái quát trên, nếu quý vị nào đồng
cảm với chúng tôi, thì khi tụng Kinh Vu Lan Báo Hiếu chúng ta nên biểu lộ niềm
vui chớ không nên buồn. Vì khi chúng ta vui, thì ông bà cha mẹ chúng ta mới vui
theo chúng ta. Còn nếu chúng ta khóc than bi lụy thì chỉ làm tổn thương tinh thần
của ông bà cha mẹ chúng ta mà thôi. Vì thân xác của chúng ta là kết quả của
dòng huyết thống do ông bà cha mẹ của chúng ta truyền đạt lại. Do đó, mỗi dòng
máu luân lưu trong mỗi tế bào của chúng ta, đều có mặt ông bà cha mẹ của chúng
ta cả. Vì vậy, nếu chúng ta muốn cho ông bà cha mẹ của chúng ta an vui, thì ta
phải nên an vui. Đó là một sự thật, không ai có thể chối cải phủ nhận được.
Kính chúc toàn thể Phật tử có được niềm vui lớn trong mùa báo
hiếu Vu Lan nầy.
Tân xuân Tùy Bút
Cứ mỗi độ xuân về lòng người như hân hoan rộng mở, nô nức háo
hức chào đón xuân sang. Vì mùa xuân là mùa tươi đẹp gợi cảm, gây cho lòng người
với biết bao niềm ước mơ hy vọng tràn ngập ở tương lai. Bất cứ ước mơ nào,
người ta cũng nhằm hướng đến tô dệt nên nhiều mộng đẹp. Trong khi mơ ước, người
ta lại quên đi cuộc sống hiện tại. Có người nghĩ rằng, vì cuộc sống hiện tại có
quá nhiều đau khổ, nên khiến người ta phải nghĩ đến nuôi dưỡng nhiều mộng tưởng
hy vọng tươi đẹp sáng lạn ở tương lai. Nuôi dưỡng niềm hy vọng để cho cõi lòng
dịu bớt những căng thẳng bức xúc đau khổ trong hiện tại. Đó chính là phương
cách trốn chạy không dám nhìn thẳng vào sự thật.
Niềm ước mơ hy vọng nầy, nếu nhìn ở một gốc độ nào đó, thì
cũng không hẳn là hoàn toàn vô lý. Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng, bất cứ một
ước mơ nào, nó cũng chỉ là ảo tưởng biến hiện của dòng tâm thức mà thôi. Trong
khi mơ ước, người ta lại không quan tâm gì đến những việc xảy ra trong hiện tại.
Nhưng người ta đâu có ngờ rằng, chính hiện tại mới là cái chất liệu quan yếu để
định hướng xây dựng sự nghiệp ở tương lai. Chối bỏ hiện tại là ta đã đánh mất
cuộc sống. Một cuộc sống thật sự có mặt quý giá mầu nhiệm. Một khi đã đánh mất
cuộc sống “Chân, Thiện, Mỹ” hiện tại, thì chúng ta đừng mong có được một cuộc sống
tươi sáng rạng rỡ ở tương lai.
Từ ý niệm đó, cho chúng ta thấy rằng, đời sống có hạnh phúc
hay khổ đau, đều hoàn toàn do chính chúng ta định đoạt lấy. Cứ nhìn vào kinh
nghiệm bản thân, cho ta thấy rõ điều đó. Nếu bạn là một học sinh, bạn có quyền
mơ ước đến cuộc sống tương lai của bạn. Bạn có thể vẽ ra với nhiều mộng đẹp. Điều
đó, không ai có quyền ngăn cấm bạn. Nhưng thưa bạn, khi mơ ước điều gì, xin bạn
chớ quên rằng, muốn đạt được lý tưởng ước vọng đó, thì bạn phải ý thức đến việc
làm hiện tại của bạn. Nghĩa là bạn phải cố gắng hết sức mình trong việc học tập.
Như thế, thì hiện tại chính là yếu tố quan trọng, nó có đủ thẩm quyền quyết định
cho chiếc thuyền đời tương lai của bạn. Ngược lại, nếu chỉ là một ước mơ suông,
thì bạn sẽ không bao giờ tựu thành mộng ước. Nếu như bạn không cắm rễ sâu vào
hiện tại, thì chắc chắn cây tương lai của đời bạn sẽ khô héo tàn tạ và như thế
thì không bao giờ có nở hoa và trái hạnh phúc được.
Nếu bạn là người tu hành đang tu tập theo pháp môn Tịnh độ chẳng
hạn, bạn luôn thao thức mong mỏi là sau khi bỏ báo thân nầy, được sanh về thế
giới Cực lạc. Điều nguyện ước đó, quả là một lý tưởng rất cao đẹp tuyệt vời.
Tuy nhiên, nếu đó chỉ là một ước nguyện suông, thì bạn đừng hòng có được như thế.
Mà đó chỉ là một ảo tưởng mơ hồ, thiếu thực tế. Nếu bạn muốn biến giấc mơ đó
thành sự thật, thì hằng ngày bạn phải thành tâm tha thiết niệm Phật và tu tạo
thêm nhiều điều phước thiện khác. Đó là bạn khéo biết, biến nhận thức thành
hành động cụ thể. Có thế, thì điều bạn mong muốn, chắc chắn nó sẽ trở thành sự
thật. Như vậy, có phải hiện tại là yếu tố chính nhằm quyết định cho hướng tương
lai của đời bạn không? Xin bạn nhớ rằng, bất cứ một tương lai nào cũng phải bắt
nguồn từ hiện tại mà ra.
Xin nêu ra đây một thí dụ cụ thể cho dễ hiểu. Như bạn muốn
xây dựng một căn nhà, thì việc cần yếu trước tiên là bạn phải có tiền. Tiền và
những điều kiện vật liệu khác, tất cả đều phải được chuẩn bị đầy đủ trong hiện
tại. Khi đã chuẩn bị chu đáo rồi, thì căn nhà tương lai của bạn đã thực sự có mặt
ngay trong hiện tại rồi. Vì cái quả nó đã hình thành có mặt ngay trong cái
nhân. Như một hành động giết người, thì cái quả ngồi tù nó cũng đã có mặt ngay
trong hành động sát nhơn đó. Ngược lại, nếu như, hiện tại bạn không có chuẩn bị
thứ gì cả, thì việc ước muốn xây dựng căn nhà tương lai của bạn, chỉ là một mộng
ước không tưởng mà thôi. Hiểu thế, cho chúng ta một kết luận về yếu lý của sự sống
rất là cụ thể. Tất cả mọi việc đắc thất, thành bại, nên hư, đều bắt nguồn
từ nơi hiện tại mà ra.
Những điều trình bày trên đây, là chúng tôi muốn trao đổi
chia sẻ cùng bạn qua cái nhìn thực tiễn trong thế gian pháp hay tục đế. Nghĩa
là với cái nhìn trong ước định thời gian tương đối. Nếu luận sâu hơn, mang tính
chất thiền vị của chơn đế, thì thưa bạn, đời sống hạnh phúc hay đau khổ của bạn,
nó nằm trong từng ý niệm của bạn. Bạn không cần phải tìm kiếm ở đâu xa. Bạn cứ
sống thiết thiệt trong mỗi phút giây hành động của bạn. Một hành động hay lời
nói của bạn phải luôn có mặt trời ý thức soi sáng. Được vậy, thì chính ngay
giây phút đó là bạn đã có tràn đầy hạnh phúc. Bạn không cần phải mong cầu điều
gì khác. Bạn cứ vui sống hít thở trong không khí chánh niệm. Bạn đừng để dòng
tâm thức của bạn phiêu lưu trong ảo tưởng. Càng phiêu lưu chừng nào, thì bạn
càng đánh mất bạn trong hiện tại và lẽ tất nhiên, bạn sẽ chuốc lấy nhiều khổ lụy
đắng cay nhiều chừng nấy.
Một cuộc sống thật đơn giản, không lo âu, sợ hãi, và cũng
không cần tính toán đến ngày mai. Vì ngày mai đối với bạn chỉ là thời gian
trong hiện tại. Nếu không có hiện tại, thì làm gì có ngày mai? Tất cả chẳng qua
chỉ là những danh từ giả lập và thời gian cũng chỉ là giả lập hình thành bắt
nguồn từ vọng thức giả định của con người mà ra. Nói một cách nghiêm khắc cụ thể
hơn, tất cả đều từ tâm bạn mà ra cả. Trong kinh Phật thường gọi là: “Nhứt thiết
duy tâm, vạn pháp duy thức”.
Hẳn bạn còn nhớ bài kệ trong Kinh Hoa Nghiêm nói:
Nhược nhơn dục liễu tri
Tam thế nhứt thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhứt thiết duy tâm tạo.
Nghĩa là:
Nếu người nào muốn biết rõ
Tất cả chư Phật trong ba đời
Nên quán sát kỹ tánh pháp giới
Tất cả đều do tâm tạo.
Mọi sự vật ở đời, không có thứ gì ngoài tâm bạn. Tất cả đều
biến hiện từ vọng thức của con người mà ra. Trở về dựng lại mùa xuân an lạc
trong tâm thức của bạn, đó mới thực sự là mùa xuân miên viễn vĩnh cửu. Một mùa
xuân, vượt ngoài phạm trù lý giải nhị nguyên thường tình. Mùa xuân đó, không
còn có sự kỳ thị, tranh chấp, hận thù, hơn thua, đắc thất, thành bại, chiếm đoạt,
thương ghét, hay thủ xả v.v…Chính đó mới đích thực là mùa “Xuân” mà lâu nay
chúng ta đã không tìm thấy. Sống được như thế, không giây phút nào là bạn không
có mùa xuân. Đó là xuân lòng ngát tỏa hương thơm rộng khắp đất trời vượt qua mọi
thời gian và nơi chốn. Như thế là bạn sẽ bắt gặp mùa xuân chơn thường của Thiền
Sư Mãn Giác đời Lý.
Xuân đáo bách hoa khai
Xuân khứ bách hoa lạc
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Tạm dịch:
Xuân đến trăm hoa nở
Xuân đi trăm hoa rụng
Việc đời qua trước mắt
Trên đầu già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.
Thiền Sư đã khơi dậy cho chúng ta nhận rõ mùa xuân miên viễn ở
nơi chính mình. Xuân ngoại tại tự nó đã là mang yếu tính vô thường sanh diệt,
vì đó là mùa xuân vận hành theo thời tiết bốn mùa của đất trời. Đó là mùa xuân
theo ước định của thời gian giả lập. Khi xuân đến thì trăm hoa thi nhau đua nở.
Nhưng khi xuân qua rồi, thì trăm hoa rụng hết không còn. Vạn vật đều có chung
trong một quy trình: sinh, trụ, dị, diệt hay thành, trụ, hoại, không. Không có
một hiện tượng nào thoát ngoài quy luật vô thường sanh diệt đó.
Tuy nhiên, nếu việc đời chỉ có ngần ấy, thì cuộc sống của con
người sẽ mất hết ý nghĩa. Vì mọi vật chỉ xuôi theo dòng nước vô thường chảy
trôi qua trước mắt. Sống theo một chu kỳ lặp đi lặp lại của những việc: ăn, mặc
ở, ngủ nghỉ, làm việc v.v… rồi lão hóa và chờ chết. Thế là hết cuộc đời. Chấm dứt
một đời người của kiếp nầy để rồi tiếp nối đi lang thang thọ báo qua đời khác.
Cứ thế mà xuôi theo dòng nghiệp thức thọ báo khổ vui trong vòng luân hồi bất tận.
Sống như thế, thì thật là vô vị nhạt nhẽo và khổ lụy biết bao nhiêu!
Nhưng ở đây, Thiền Sư đã hé mở cho chúng ta thấy rõ cánh cửa
giải thoát. Không phải hoa mai rụng hết là không còn gì nữa. Nếu thế, thì chúng
ta tu theo đạo Phật, cuối cùng, lại trở thành phái “Đoạn Diệt” hết sao? Không.
Hoa mai tuy có rụng hết, nhưng cành mai nào có mất đi đâu. Cành mai vẫn còn có
mặt sờ sờ đó. Có mặt sờ sờ, nhưng tại vì chúng ta bị mê vọng lầm qua không nhận
ra đó thôi. Cũng thế, vọng tâm sanh diệt tuy không còn, nhưng chơn tâm vẫn hằng
hiện hữu nào có mất đi đâu. Lâu nay, chúng ta quen nhìn đời bằng cặp kính màu vọng
thức, nên nhìn đâu cũng thấy là chân thật. Đó là cái nhìn chủ quan chấp thủ vào
hiện tượng, chỉ thấy sóng nổi lô nhô trên mặt biển mà chúng ta không nhận ra được
sự yên lặng hằng hữu của mặt biển. Do nhìn theo lối biến kế sở chấp như thế,
nên chúng ta mãi bị trầm luân đau khổ.
Thiền sư đã đánh thức cho ta cần phải thay đổi lối nhìn. Đó
là cánh cửa đã mở tung ra cho chúng ta thấy trong cái vô thường sanh diệt, còn
có cái chơn thường bất sanh bất diệt ẩn tàng trong đó. Đừng đi tìm cái chơn thường
ngoài cái vô thường. Trong ngôi nhà năm uẩn lại có sẵn ông Phật vàng hay viên
ngọc quý ẩn tàng trong đó. Nhận rõ điều đó, thì cuộc sống của con người mới thực
sự có ý nghĩa và đáng sống. Sống để làm lợi ích cho tha nhân. Mượn con người giả
tạm nầy để hành hoạt đem lại nguồn sống lợi lạc thiết thật cho mình và người. Hằng
sống trong khung trời an vui giải thoát. Đó là chúng ta khéo biết dựng lại
mùa xuân lý tưởng. Một mùa xuân chỉ có hoa và trái hạnh phúc. Đó cũng là một lộ
trình rộng mở thênh thang tràn đầy xuân hoa tươi đẹp mà các vị Bồ tát đã đi
qua.
Đối với người Phật tử xuân cảnh hay xuân tâm, đều không có gì
là quan trọng. Điều quan trọng là phải luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm. Sống
có chánh niệm là sự sống tràn đầy ý nghĩa. Một sự sống không còn vướng bận chi
phối, bởi bất cứ một ý niệm thị phi buồn vui nào. Một sự sống bao dung rộng mở
tràn ngập khắp cả đất trời. Đó là chúng ta khéo biết hội nhập hòa mình trong
nguồn sống của vũ trụ bao la. Nơi đó, không còn ý niệm tương tranh phân chia
nhân ngã, bỉ thử. Triệt tiêu mọi vọng chấp đối đãi nhị nguyên. Đó mới chính là
người Phật tử nhận lại mùa xuân thực tại miên viễn ở nơi chính mình.
Trong ý hướng tu tập, thiết nghĩ, là người tu học Phật, chúng
ta cũng nên noi theo tấm gương trong sáng hạnh giải tương ưng của các Ngài mà
chúng ta cất bước hành trình theo. Có thế, thì chúng ta mới thật sự vui xuân và
thưởng thức hương vị của một mùa xuân miên viễn trong tận cõi lòng của người Phật
tử. Cầu mong mọi người luôn tắm mình trong ánh sáng xuân quang và luôn bình an
trong nếp sống.
Thử tìm lại giá trị của tình thương
Theo các nhà sử học cho biết, loài người xuất hiện trên hành
tinh này rất sớm, cách nay hằng mấy tỷ năm. Cùng với loài người, dĩ nhiên, còn
có các loài sinh vật khác. Thế nhưng, loài người sở dĩ hơn các loài động vật
khác, ngoài khối óc tinh khôn sắc xảo ra, nó còn có một trái tim biết yêu
thương và tương kính lẫn nhau. Nếu không có trái tim rộng mở bao dung cao đẹp
này, thì than ôi! Làm sao loài người có thể tự hào hơn các loài động vật khác
được? Tình thương là bản chất thiêng liêng mầu nhiệm quý giá của con người. Con
người sống không có tình thương là đời sống vô vị, khô cằn và mất hết ý nghĩa.
Tuy nhiên, tình thương cũng có nhiều đẳng cấp cao thấp rộng hẹp khác nhau.
Đối với các bậc Thánh nhân, thì tình thương của các ngài
không có biên giới. Đó là loại tình thương phát xuất từ lòng từ bi, bình đẳng,
vị tha vô lượng bao trùm khắp cả muôn loài. Ngược lại, ở một mức độ thấp hơn,
thì được giới hạn trong tình thương đồng loại. Vì đồng loại có chung một dòng
máu nóng cùng đỏ và nước mắt cùng mặn. Nói cách khác, là vì loài người có một đời
sống tâm, sinh lý giống nhau. Nếu nói hẹp hơn nữa, thì tình thương được thể hiện
trong mối tương quan trong dòng huyết thống thân tộc gia đình. Gần nhứt là tình
yêu thương của cha mẹ đối với con cái. Đó cũng là một thứ tình yêu thương bao
la cao đẹp bất vụ lợi. Hẹp hơn nữa là tình yêu thương giữa nam nữ.
Trong tất cả các thứ tình yêu thương nói trên, thì ngoài thứ
tình yêu thương mang tính từ bi bình đẳng rộng rãi bao la ra, còn lại, đều là
những thứ tình yêu thương thuộc trong phạm vi ái kiến. Như tình thương giữa cha
mẹ với con cái trong gia đình thân tộc chẳng hạn. Ta cần nên biện biệt rõ điều
đó. Tuy nhiên, dù tình thương yêu có cao thấp rộng hẹp khác nhau, nhưng tất cả
cũng đều phát xuất từ trái tim tin yêu nồng thắm cả.
Riêng về tình yêu thương của cha mẹ, thật là một thứ tình yêu
thương mà từ xưa tới nay, không gì có thể so sánh được. Cao như núi, rộng như
biển cũng khó sánh bằng. Thật vậy, sự hy sinh giáo dưỡng cao cả của cha mẹ đối
với con cái thật không có bút mực nào tả xiết. Cha mẹ lúc nào cũng thương yêu
và nghĩ đến lo lắng chăm sóc cho con đủ mọi thứ trên đời. Từ cái ăn, cái mặc,
chỗ ở, cho đến việc học hành, sự nghiệp v.v…Tất cả cũng chỉ vì con, dù phải hy
sinh cả tánh mạng cha mẹ cũng không màn.
Vì con cha mẹ cam đành
Chẳng màng tội lỗi bị giam bị cầm
(Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân)
Nhìn vào thế giới loài vật, chúng ta thấy, đời sống của chúng
cũng không khác mấy với thế giới loài người. Nghĩa là, loài người cũng có kẻ dữ
người hiền, cũng có kẻ hiền lương, biết phân biệt phải trái, sống theo luân thường
đạo lý, nhận định rõ cội nguồn, biết tôn ty trật tự, kính trên nhường dưới
v.v…Tuy nhiên, cũng có kẻ rất hung bạo, sống buông thả không có chút đạo đức
tình người, tán tận lương tâm, hành động gian ác trái với nhân luân đạo
nghĩa. Loài vật cũng thế. Có những con vật trông chúng rất hung bạo dữ dằn
như chó sói, cọp, beo, sư tử… Ngược lại, cũng có những con vật trông chúng
rất hiền từ dễ thương, dễ mến, như các loài chim cò, bò, ngựa, gà, thỏ, chó,
mèo v.v… Các loài vật hiền từ này, tuy chúng không có khối óc tinh khôn sắc xảo
và tình yêu thương cao đẹp rộng lớn như loài người, nhưng chúng cũng biết yêu
thương và luôn sẵn sàng bảo vệ mạng sống cho đàn con của chúng, dù phải hy sinh
cả tánh mạng. Như vậy, đức hy sinh và hiếu sinh của chúng cũng không khác mấy
loài người.
Dù hung hăng dữ tợn, như cọp, beo, sư tử, nhưng chúng chưa
bao giờ tàn nhẫn sát hại ăn thịt con của chúng. Dù rằng sự hiểu biết của chúng
thua rất xa loài người. Chẳng những không sát hại, mà chúng còn hết lòng ra sức
bảo vệ đùm bộc. Như các loài khỉ, vượn hay gà v.v… Những loài vật này, chúng
lúc nào cũng tỏ ra thương yêu rất mực đối với các con của chúng.
Chắc bạn cũng đã từng chứng kiến một con gà mái ra sức bảo vệ
đàn con, khi đàn con của chúng bị diều hâu định hãm hại. Đôi cánh yếu mềm của
gà mẹ kia, lại là thứ vũ khí rất an toàn luôn sẵn sàng để bảo vệ đàn con. Khi
nhìn thấy chú diều hâu sà xuống định quắp lấy gà con, thì gà mẹ kịp thời nhanh
nhẹn vươn đôi cánh yếu mềm ra để che chở cho đàn con ẩn núp. Nhờ thế mà đàn con
thoát chết dưới tay ác độc của chú diều hâu. Đó là sự che chở bảo vệ an toàn một
cách tuyệt vời của gà mẹ.
Những lúc gà mẹ dẫn đàn con đi kiếm ăn, nếu như gà mẹ bươi kiếm
được miếng mồi ngon, thì liền kêu đàn con đến cùng nhau thụ hưởng. Thay vì hưởng
dụng một mình, nhưng vì thương con mà gà mẹ đành phải chịu nhịn đói dành hết phần
ăn lại cho con. Ôi ! loài vật mà còn có tình yêu thương hy sinh cho con như thế,
thử hỏi loài người chúng ta thì sao ?!!! Hẳn phải có tình thương gấp trăm ngàn
lần mới phải?
Có lần, người viết đã chứng kiến một con mèo mẹ tha mèo con
đi tìm nơi an toàn trú ẩn. Vì sau khi sanh ra, một đứa bé thấy vậy hay chọc các
chú mèo con, và rồi bắt mèo con đem đi nơi khác. Biết không an toàn, nên mèo mẹ
nghĩ cách thừa dịp trong lúc vắng người, liền dùng miệng cắn tha mèo con đi nơi
khác để tìm nơi trú ẩn an toàn.
Hẳn bạn cũng đã chứng kiến những con chim mẹ tha mồi về tổ để
đút cho chim con ăn. Còn vượn mẹ thì bồng ẵm vượn con tìm đường tẩu thoát, khi
thấy loài người săn đuổi tìm bắt và sát hại bọn chúng. Còn và còn rất nhiều những
con vật khác nữa, lúc nào chúng cũng quyết cố sức để bảo vệ nuôi dưỡng và che
chở cho đàn con thoát chết trong sự sát hại của đồng loại và dưới bàn tay ác độc
của loài người.
Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu ra đơn cử một vài con vật tiêu
biểu thế thôi, để từ đó, chúng ta có một cái nhìn sâu sắc và quán chiếu lại
tình thương của loài người chúng ta. Loài người được mệnh danh là loài thượng đẳng
cao cấp, tất nhiên, chúng ta phải vượt trội hơn loài vật đủ mọi phương diện. Nhất
là ở hai lãnh vực «trí tuệ và tình thương». Nhưng nếu chỉ xét riêng ở lãnh vực
tình thương không thôi, thì thiết nghĩ, mỗi người chúng ta cũng cần nên suy
nghiệm lại thật kỹ trong tư tưởng và hành động. Phải thật lòng mà nói, hiện
chúng ta đã đánh mất tình thương yêu cao đẹp trong gia đình quá nhiều rồi. Chưa
dám nói đến tình thương yêu đồng loại. Hiện trạng cảnh tượng bạo hành trong gia
đình sát hại lẫn nhau đã và đang xảy ra hằng ngày. Việc xung đột giữa cha mẹ và
con cái trong gia đình, gây ra cảnh tang thương chém giết lẫn nhau, thật quá
hãi hùng khiếp đảm!
Nhân mùa Vu lan, tôi muốn bạn và tôi, chúng ta hãy thực sự
quán chiếu sâu vào về tình thương yêu đối với cha mẹ của chúng ta. Đã lâu rồi,
chúng ta hay có cái thói quen nhìn hời hợt bề ngoài. Chúng ta sống theo bản
năng tình dục thỏa mãn cho bản ngã vị kỷ nhiều hơn. Ít khi nào chúng ta chịu
khó quán chiếu sâu vào tình yêu thương cao đẹp thiêng liêng của cha mẹ. Chúng
ta chỉ thấy hình hài và cách đối xử của cha mẹ bề ngoài, mà không nhìn thẩm thấu
chiều sâu bên trong. Nếu nhìn kỹ, ta sẽ thấy giữa ta và cha mẹ luôn có mặt và
không bao giờ có sự ngăn cách. Vì mỗi tế bào trong ta là những tế bào mà cha mẹ
đã ban tặng cho ta. Làm sao ta có thể tách rời ra được?
Thế thì, ta hờn giận trách móc cha mẹ là chính ta đã hờn giận
trách móc chính ta. Nếu ta thương yêu cha mẹ cũng là ta biết thương yêu nơi ta.
Vì không có cha mẹ, thì không có ta. Vậy, ta là sự tiếp nối của cha mẹ. Đó là
lý do chính yếu mà ta phải hết lòng thương yêu cha mẹ. Vì cha mẹ có quá nhiều sự
hy sinh lo lắng giáo dưỡng cho ta. Do đó, nếu ta có những hành động hoặc lời
nói xúc phạm đến cha mẹ, thì ta là kẻ đã mang tội bất hiếu rất lớn với cha mẹ.
Đã thế, vậy mà có lắm người con chẳng những không biết mang ơn sanh thành giáo
dưỡng của cha mẹ, mà trái lại, họ còn nhẫn tâm ra tay sát hại cha mẹ ruột của
mình một cách thật tàn bạo dã man!
Cha mẹ là người thân thương nhứt trên cuộc đời này, mà ta còn
nhẫn tâm giết hại, thì nói chi đến đồng loại. Thưa bạn, trên đời này bất cứ cái
gì, có khó khăn cách mấy, bạn cũng có thể tìm cách tạo ra được cả, nhưng đối
với cha mẹ thì làm sao bạn có thể tìm kiếm được đây?! Hành động sát hại hay
làm khổ cha mẹ, chỉ có những kẻ điên cuồng mất hết nhơn tính mới hành động như
thế ! Việc hành hạ sát hại cha mẹ, đó là một trọng tội rất lớn. Một trọng tội,
mà theo kinh Phật nói, thì đó là phạm một trong ngũ nghịch tội. Phạm tội này, tất
nhiên phải bị đọa vào địa ngục vô gián (tức bị hành phạt chịu nhiều đau khổ
không gián đoạn xen hở).
Ngũ nghịch tội gồm có: 1. Giết cha. 2. Giết mẹ, 3. Giết A la
hán (bậc tu hành dứt hết phiền não). 4. Phá hòa hợp tăng (phá sự hòa hợp làm
ly gián của một đoàn thể tu hành) 5. Xúc phạm gây ra làm thân Phật ra máu (nói theo ngày nay là phá hoại hay thiêu hủy hình tượng Phật). Như thế, khác
nào là ta đã tự giết chết cuộc đời ta rồi. Giết chết không những hiện đời này,
mà còn nhiều đời sau nữa. Thật là đáng thương xót lắm thay!
Ngược lại, bổn phận làm cha mẹ cũng không nên lấy quyền làm
cha mẹ nghĩ mình có công lao sanh thành giáo dưỡng mà hành hạ đánh đập chửi mắng
con cái quá đáng. Hành hạ con cái cũng chính là tự ta hành hạ lấy chính ta. Vì
con ta là kết quả của những dòng máu, tế bào của ta. Vì vậy, ta không nên tạo
ra cảnh xung đột bất hòa làm cho cốt nhục tương tàn và gia đình ly tán mất hết
hạnh phúc tình thân. Người xưa nói: “Tay cắt tay sao nỡ, ruột cắt ruột sao
đành!”
Chuyện xung đột giết hại lẫn nhau trong gia đình đã và đang xảy
ra khắp nơi. Báo chí đã đăng tải vấn đề này rất nhiều. Xin nêu ra đơn cử một
vài trường hợp để chứng minh. “Một cậu con trai 16 tuổi, chỉ vì một cơn tức giận,
dùng dao đâm chết người cha và người mẹ bị trọng thương. Một cô con gái 17 tuổi,
chỉ vì cha mẹ không chiều theo ý muốn của mình, bằng cách bỏ đạo Hồi theo đạo
Thiên Chúa mà nhẫn tâm đâm chết cha mẹ ruột của mình, không một chút gớm tay. Một
người chồng vô lương tâm, vì một cơn giận tức, giết chết vợ mình và chặt làm ba
khúc. Một ông già 69 tuổi vác rìu chém vợ và 2 đứa cháu ngoại ruột, cả ba đều
chết một cách thảm thương tại chỗ…”
Còn và còn rất nhiều không thể nào kể ra hết được. Như thế,
thì thử hỏi tình thương nhân luân đạo nghĩa của con người còn ở chỗ nào ? Ngược
lại, cũng có những bậc làm cha mẹ, vì hoàn cảnh bức xúc khổ đau tràn ngập nào
đó, hết phương chịu đựng, nên họ đã đánh mất chức năng làm cha, làm mẹ, nhẫn
tâm sát hại con mình, không một chút xót thương! Dù cho hoàn cảnh có khó khăn
cực khổ bức xúc đến thế nào đi chăng nữa, nhưng đối với lương tâm đạo đức của
con người cũng như đối với luật pháp thế gian, thì hành động sát hại con mình,
thật không thể nào chấp nhận được. Đó là phạm trọng tội sát nhân, mà kẻ bị sát
hại lại là núm ruột, là sản phẩm quý giá thương yêu mang nặng đẻ đau của mình.
Hùm beo tuy là loài thú dữ, nhưng chúng chưa bao giờ ăn thịt con của chúng. Thật
còn nỗi đau đớn tủi nhục nào hơn! Hành động đó chắc chắn là họ sẽ phải bị quả
báo hiện đời cũng như quả báo oán thù vay trả đời sau vậy.
Trước thảm cảnh đau thương ngút ngàn đó, không biết các
bậc lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo, các bậc phụ huynh, các nhà có trách
nhiệm giáo dục, các nhà tâm lý học, các nhà xã hội học, các vị lãnh đạo quốc
gia, quý ngài sẽ làm gì? và dùng biện pháp cụ thể nào để ngăn chặn sự bạo hành
lan rộng khủng khiếp này? Đây là một thảm nạn rất lớn làm đảo lộn cuộc sống
trong gia đình. Nếu không có biện pháp chạy chữa thích nghi kịp thời, thì tình
trạng này ngày càng dẫn đến những hậu quả tang thương khốc hại ác liệt cho gia
đình và xã hội không thể nào lường trước được!
Việc nhỏ, thì bạo động sát hại giữa cá nhân với cá nhân, và
giữa những người thân thuộc trong gia đình, lớn hơn là gây ra cảnh sát hại chém
giết lẫn nhau làm rối loạn đảo điên cho xã hội. Hiện trạng khủng bố, giới trẻ nổi
loạn giết người vô tội bừa bãi, băng đảng thanh toán nhau, chiến tranh sát hại
sinh linh v.v… gây nên bao thảm cảnh tang thương bi đát đã và đang xảy ra hằng
ngày. Tất cả những thảm cảnh đó, là do con người thiếu sự thực tập chánh niệm,
thiền quán, để quán chiếu sâu vào khía cạnh của lòng từ bi yêu thương đồng loại.
Từ đó, đời sống con người như mất hết lương tâm và phẩm giá đạo đức làm người.
Đó là căn bệnh cộng nghiệp của thời đại mà hiện nhơn loại đã và đang hứng chịu.
Theo Phật giáo, muốn chữa trị căn bệnh phải tìm rõ nguyên
nhân. Nguyên nhân nào gây nên sự tác hại nổi loạn này ? Dĩ nhiên, có rất nhiều
nguyên nhân ngoại tại. Nhưng, theo nhà Phật, thì nguyên nhân chính, đó là phát
xuất từ trong tâm thức của mỗi người. Vì tâm loạn nên thế giới loạn. Tâm bình
thì thế giới bình. Mọi hiện tượng khổ vui, lành dữ, tất cả đều do tâm ta tạo lấy.
Câu nói: “nhứt thiết duy tâm tạo, vạn pháp duy thức biến”, chính là ý này vậy.
Tâm con người giống như người họa sĩ. Nó có khả năng vẽ ra
thiên hình vạn trạng lành, dữ, khổ, vui. Nó muốn vẽ thế nào cũng được. Vẽ ra
thiên đường hay địa ngục cũng do nó chủ động. Đó là tâm vọng tưởng sinh diệt tạo
nghiệp. Biết thế, thì chúng ta nên chạy chữa từ căn nguyên xuất phát của nó. Chạy
chữa bằng cách nào? Bằng cách là giáo dục từ căn nguyên, có nghĩa là chuyển hóa
những hạt giống xấu ác trở thành những hạt giống lương thiện. Vì trong tâm thức
của mỗi người đều sẵn có hai thứ hạt giống thiện và bất thiện này. Tuy nhiên, hạt
giống bất thiện chiếm ưu thế nhiều hơn. Muốn được an ổn, mỗi người phải tự quán
chiếu sâu vào tâm thức. Có nhìn kỹ lại mình mới mong nhận diện chuyển hóa những
hạt giống xấu ác được. Đó là cách chạy chữa căn bệnh tận gốc rễ. Ngoài cách này
ra, những cách chạy chữa khác đều là ngọn ngành mà thôi. Mặc dù phương cách đó
có khó khăn đối với chúng ta, nhưng có như thế, thì mới mong tận diệt được cội
gốc của khổ đau.
Phương cách chạy chữa ngọn ngành trước mắt, là chúng ta cần
phải nâng cao giáo dục đạo đức, xây dựng tình người ở mỗi cá nhân, từ trong học
đường, gia đình và xã hội. Đối với người Phật tử tại gia, thì chúng ta nên áp dụng
năm nguyên tắc đạo đức căn bản, tức năm giới luật mà Đức Phật đã ngăn cấm. Có
thường xuyên thực tập, quán chiếu hành trì như thế, thì đời sống của mỗi cá
nhân, gia đình và xã hội mới thực sự có được hạnh phúc an bình. Chỉ có những giải
pháp đó mới thực sự phục hồi lại giá trị căn bản đạo đức của con người.
Chúng ta nên nhớ rằng, luật pháp chỉ trừng trị, khi nào chúng
ta có những hành động phạm pháp biểu lộ chứng cớ cụ thể. Còn khi niệm ác dấy
khởi trong tâm thức muốn hại người, hại vật, thì luật pháp làm sao biết đâu mà
trừng trị ? Đó là vấn đề trách nhiệm lớn lao của các nhà giáo dục, nhất là đối
với các nhà lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo. Nếu như chương trình giáo dục ở
nhà trường, mà không đặt nặng trên nền tảng xây dựng đạo đức nhân bản, thì đừng
mong thế giới loài người có được đời sống an bình.
Muốn xây dựng hạnh phúc trong gia đình, điều tiên quyết, là mỗi
người phải chịu khó tìm hiểu và lắng nghe. «Ái ngữ và lắng nghe» là hai
nguyên tắc cơ bản để xây dựng tình thương. Nhờ lắng nghe sâu sắc bằng tất cả sự
có mặt của mình, từ đó, chúng ta mới có hiểu và cảm thông, thương yêu nhau nhiều
hơn. Nếu thiếu đi hai nguyên tắc căn bản này, thì chúng ta không thể nào tháo gỡ
những nội kết, những bức xúc của những nỗi khổ niềm đau cho nhau. Hãy cùng nhau
thực tập học hạnh lắng nghe và lòng từ bi cứu khổ của Bồ tát Quán Thế Âm. Hãy
chịu khó lắng nghe thật kỹ lại chính lòng mình và lắng nghe nỗi khổ niềm đau của
tha nhân. Có lắng nghe thiết thiệt như thế, thì ta mới có thể tự hóa giải cho
mình và người. Đây là phương pháp thật hành giải khổ cấp thiết mà thiết nghĩ, mỗi
cá nhân nên áp dụng vào đời sống hằng ngày.
Hạnh phúc là mục đích nhắm tới của con người. Con người, dù ở
giai tầng đẳng cấp nào, không ai lại không muốn có hạnh phúc. Song có điều đừng
vì mưu cầu hạnh phúc của mình mà nhẫn tâm chà đạp lên hạnh phúc của kẻ khác. Đó
là không công bằng và chính đó là mầm mống gây nên bao sự bất công, bạo động,
chiến tranh làm khổ đau cho nhau. Sống trong một thế giới cộng nghiệp mà con
người không hướng tới sự bảo vệ hạnh phúc cho nhau, thì đó là một tai họa bạo động
rối loạn sát hại với nhau không sao tránh khỏi.
Nếu cha mẹ con cái trong gia đình thiếu sự thiết lập truyền
thông tìm hiểu, lắng nghe và cảm thông nhau, tất nhiên, chúng ta không thể nào
có sự sống hài hòa thương yêu lẫn nhau. Do đó, sự thiết lập truyền thông để tìm
hiểu tận gốc rễ của mọi vấn đề mâu thuẫn xung đột, thật hết sức quan trọng.
Chúng ta phải thật tâm tìm hiểu và hóa giải trong sự thương yêu hòa kính, thì mọi
người mới có thể giải quyết những gút mắc «nội kết» khó khăn cho nhau. Đó là
yếu tố rất thiết yếu đem lại nguồn vui sống hạnh phúc trong mỗi gia đình. Thiếu
yếu tố này, thì dễ dàng gây ra sự đổ vỡ tan nát trong gia đình. Vì mỗi người
luôn sống khép kín trong ốc đảo của bản ngã tự cao, của lòng hận thù, ganh tỵ.
Từ đó sẽ dẫn đến một hệ quả gây nên cảnh tượng bạo hành tàn sát lẫn nhau trong
gia đình. Đó là vì không giải tỏa được sự ẩn ức thù hận mà nguyên nhân nội tại,
là chỉ vì mỗi người chúng ta luôn nuôi dưỡng những tri giác sai lầm. Từ nhận thức
sai lầm, không được bàn giải thấu đáo, cảm thông, nên mới gây ra cảnh nồi da
xáo thịt tàn hại lẫn nhau.
Con người, nếu chỉ biết sống theo nhu cầu vật chất không
thôi, thì chưa đủ đảm bảo trong việc mưu cầu hạnh phúc. Sống không có hạnh phúc
là cuộc sống mất hết ý nghĩa của đời người. Thế nên, ngoài việc giải quyết những
nhu cầu vật chất cho đời sống thể chất ra, con người còn phải nghĩ đến việc
nuôi dưỡng đạo đức tinh thần. Cần có một đời sống tâm linh phong phú hơn. Một đời
sống có ý nghĩa là phải được quân bình giữa vật chất và tinh thần. Nhưng tinh
thần vẫn là cột trụ, là điểm tựa, có một giá trị vô song, tối cao để chỉ đạo
cho sự đặt định tình thương đúng hướng chân lý.
Có thế, thì mới đảm bảo được đời sống hạnh phúc cá nhân và
gia đình. Đó là điều, thiết nghĩ, mỗi người chúng ta nhân mùa báo hiếu, cần phải
quán chiếu sâu vào đời sống, để tìm lại giá trị đích thực của tình thương trong
ý hướng thánh thiện làm đẹp cho mình và cuộc đời. Nhưng trước hết vẫn là sự hạnh
phúc cho mỗi cá nhân và gia đình. Nếu mỗi cá nhân và gia đình có hạnh phúc, thì
xã hội mới có được an bình hạnh phúc. Được thế, thì thế giới loài người mới thực
sự có đời sống vui tươi, đúng với ý nghĩa bản chất cao đẹp của con người. Và
như thế, mới có thể hãnh diện tự hào là hơn tất cả các loài động vật khác. Bằng
ngược lại, thì thật là đáng thương và tủi hổ cho kiếp sống làm người!
Trà Vinh quê hương tôi
Tôi vốn sanh trưởng tại làng Mỹ Hòa quận Cầu Ngang, tỉnh Trà
Vinh. Trà Vinh là tên gọi của một địa danh đã có từ lâu. Thuở nhỏ, tôi hay
thích nghe các bậc bô lão trong làng kể chuyện đời xưa, nhứt là những chuyện ma
quỷ. Những chuyện nầy, ai nghe cũng thích, nhưng sau khi nghe rồi, có người mắc
tiểu ban đêm không dám đi. Mỗi lần đi phải đánh thức người nhà cùng đi. Thậm
chí, có người không dám ngủ trong nhà một mình, phải khuyến dụ bạn bè hàng xóm
đến ngủ.
Ma cỏ thì không thấy, nhưng nghe ai nói tới ma thì sợ.
Còn tôi nghe qua, cũng không dám đi chơi ban đêm. Nhớ có lần, Mẹ tôi sai tôi đi
qua nhà người anh lấy món đồ, lúc đó trời đã chạng dạng tối, Mẹ sai thì không
dám cãi, nhưng đi thì rất sợ ma. Tôi cấm đầu cấm cổ chạy một mạch, nhưng vừa chạy
vừa la lớn: “sụ sụ chó roi dâu”. Tôi nghe các cụ nói, ma nó sợ chó và roi dâu.
Bây giờ nghĩ lại thật tức cười thầm. Thường vào những lúc có tiệc tùng, đám
sám, các cụ già thường hay được mời đến tụ họp để chung vui. Trước khi nhập tiệc,
hoặc sau những lúc trà dư tửu hậu, các cụ thường hay kể chuyện đời xưa cho con
cháu nghe.
Có lần, tôi nghe một bác cao niên trong làng kể về lai lịch của
hai chữ Trà Vinh. Vì thuở ấy, tôi còn quá nhỏ, đâu có đủ trình độ để nghe các vị
đó kể chuyện, nhứt là những câu chuyện có liên quan đến địa danh lịch sử của
quê hương. Bây giờ tôi còn nhớ man mán, cụ đó nói: Trà Vinh là tiếng của người
Khmer. Tỉnh Trà Vinh có nhiều địa danh mà đứng đầu đều có chữ Trà. Như Trà Cú,
Trà Cuôn, Trà Kha, Trà Nóc v.v…
Tôi chỉ nghe loáng thoáng cụ đó nói như thế. Nhưng thú thật,
khi lớn lên và có chút cơ duyên học hỏi nghiên cứu tìm hiểu chút ít về lịch sử
của nước nhà, tôi cố tra cứu tìm nguồn gốc của hai chữ nầy, mà tuyệt nhiên
không thấy sách sử nào đề cập đến. Có lẽ, sự tra cứu tìm hiểu của tôi còn hạn hẹp,
nên chưa tìm ra đó thôi. Mãi cho đến bây giờ, tôi cũng vẫn chưa rõ.
Hồi tưởng lại, không biết cụ đó nói như thế mà có đúng như vậy
không? Song có điều, theo thiển nghĩ của tôi, có thể là như thế. Bởi vì, theo sử
ghi lại, đất Trà Vinh xưa kia là gốc của người Chân Lạp. Cho nên, hiện nay dân
tộc Khmer còn sinh sống rải rác khắp các nơi quận thành, cho đến tận hang cùng
ngỏ hẻm. Nhứt là ở các vùng như Trà Kha, Trà Cú v.v… nơi nào cũng có mặt họ. Họ
sống quần tụ với nhau, người mình gọi xóm họ ở là sóc. Phải nói dân số của họ
cũng khá đông. Vì nơi đây là gốc gác xứ sở của họ trước kia, nên việc họ đặt
tên cho một địa danh như thế, đó cũng là chuyện thường tình mà thôi. Thôi
thì chuyện đó, xin được gác lại để nhường cho các nhà chuyên nghiên cứu về sử học
giúp thế cho chúng ta.
Hôm nay, tôi muốn đề cập đến một vài đặc điểm mang tính chất
văn hóa lịch sử đã có lâu đời nơi vùng đất trù phú mà tôi sanh ra và lớn lên.
Tên Trà Vinh, đã có một thời dường như bị lãng quên, người ta ít khi gọi đến.
Đó là vào thời kỳ 9 năm chấp chánh cai trị của chánh phủ Ngô Đình Diệm. Dạo đó,
đổi tên Trà Vinh lại là Vĩnh Bình. Bấy giờ tên Trà Vinh như đã bị khai tử, ít
nghe người ta nhắc đến. Sau năm 1975, tôi không còn nhớ rõ năm nào, chánh quyền
cộng sản lại sát nhập hai tỉnh Vĩnh Bình và Vĩnh Long lại, gọi chung là tỉnh Cửu
Long, tức lấy hai con sông Tiền Giang và Hậu Giang nhập lại gọi tắt là Cửu
Long. Sau nầy họ lại tách ra làm 2 tỉnh trở lại, nên cái tên Trà Vinh được đội
mồ sống dậy mãi cho đến hôm nay.
Trà Vinh gồm có các huyện: Cầu Ngang, Càng Long, Cầu Kè, Châu
Thành, Trà Cú, Duyên Hải. Về vị trí, Trà Vinh nằm ở hạ lưu sông Mê Kông, được
bao bọc bởi hai con sông: sông Tiền và sông Hậu. Trà Vinh nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, do đó nên khí hậu nóng ẩm quanh năm và chỉ có
hai mùa mưa nắng.
Vì là vùng đất phù sa trù phú, nên Trà Vinh có nhiều vườn tược
cây cối xanh tươi mát mẻ và nhiều kênh rạch dọc ngang, và cũng có nhiều vườn
cây ăn trái trông rất đẹp mắt.
Trà Vinh có nhiều lễ hội. Lễ hội được người ta chú ý nhiều nhứt
đó là lễ hội cúng biển ở xã Mỹ Long, mà người địa phương hay gọi là Bến Đáy. Vì
nơi đây, dân làng chuyên sống về nghề đóng đáy giăng lưới bắt cá. Lễ hội nầy,
được người dân bản xứ tổ chức rất trang trọng linh đình. Lễ cúng biển còn gọi
là lễ hội nghinh Ông. Vì dân chúng hành nghề đóng đáy, nên họ rất tin tưởng cá
Ông. Lễ hội nầy được tổ chức trọng thể hằng năm thời gian là 3 ngày. Bắt đầu từ
ngày 10 cho đến ngày 12 tháng 5 âm lịch, địa điểm hành lễ là tại miếu Bà Chúa Xứ.
Trong ba ngày nầy có nhiều nghi lễ diễn ra rất trang trọng, đẹp
mắt. Như lễ nghinh ông Nam Hải (trên thuyền là các vị thần hóa trang Quan
Công, Châu Xương, Quan Bình). Lễ rước Bà Chúa Xứ, rước Cậu, lễ Nghinh Ông (rước
cá ông để tỏ lòng biết ơn cá ông khi đi biển gặp nạn) lễ tế thần Nông, chánh tế
là lễ nghinh ngũ phương đi bộ vòng quanh thị trấn.
Dân chúng ở nhiều nơi kể cả ở thành phố Sài Gòn, người ta
cũng tấp nập đổ xô về xem lễ. Đây là một lễ hội có truyền thống lâu đời. Có nhiều
trò chơi dân gian cũng được đem ra thi thố để cho dân chúng xem. Như trò chơi
nhảy bao, kéo co, đua mông bắt cá kèo, cá bống v.v…Thật là một lễ hội vui chơi
tưng bừng náo nhiệt. Lễ hội kết thúc với việc đưa tàu ra biển.
Thuở nhỏ, tôi rất thích đi xem lễ hội nầy. Suốt thời gian 3
ngày tôi luôn có mặt ở Bến Đáy. Tôi có hai người dì, tức em ruột của Mẹ tôi
sinh sống lập nghiệp ở đó. Ngày đêm, tôi thường hay rũ mấy đứa bạn cùng trang
tuổi đi rong chơi, xem hết trò nầy đến trò khác. Có khi đến khuya tôi mới về
nhà. Dì tôi thường hay la rầy, nhưng dượng tôi thì không. Ông ta rất thông cảm
tuổi trẻ ham vui chơi như tôi. Ngày nay, vì sống xa xứ sở quê hương, nên tôi
chưa có dịp lần nào về đúng vào thời điểm cúng biển để xem lại lễ hội vui
nhộn kỳ thú nầy.
Đó là lễ hội của người Việt (kinh). Ngoài ra, cũng còn có
các lễ hội của người Khmer (Miên) Như các lễ hội: Lễ Tết năm mới của họ được
tổ chức vào tháng 4 dương lịch. Lễ cúng ông bà, người Khmer gọi là lễ Dôlta đây
cũng là lễ lớn của họ. Lễ cúng trăng, lễ nầy họ tổ chức vào ngày 15 tháng 10 âm
lịch. Lễ Dâng Bông, đây là lễ họ giúp đỡ cho nhau như xây chùa, hay xây cất trường
học v.v… Tập tục nầy, họ biểu lộ tinh thần tương trợ cho nhau rất hay.
Trong các lễ hội nầy, tôi thích nhứt là lễ hội Dâng Bông.
Trên mỗi cây bông họ làm bằng giấy rất đẹp, cứ mỗi đóa hoa giấy là họ cột bao
tiền trên đó. Sau khi làm lễ cúng xong thì họ mới mở ra. Tất cả số tiền nầy họ
đều cúng vào chùa để chùa trọn quyền sử dụng vào công việc xây cất. Ngoài ra, họ
còn rải bạc cắc cho các trẻ em trong làng xúm nhau tha hồ mà giành giựt lượm lấy.
Tôi là một trong các đứa trẻ lượm được nhiều nhứt. Bởi tôi nhờ lanh tay lẹ mắt
lại có thân hình hơi to con hơn tụi nó một chút, nên tôi lấn mấy đứa khác té
nhào hết. Có lúc nhìn lại thấy chân trầy da chảy máu. Đó là một kỹ niệm thời
thơ ấu của tôi thật khó quên.
Ngoài những lễ hội ra, Trà Vinh còn có rất nhiều danh lam thắng
tích. Những danh lam (chùa) nổi tiếng, như các ngôi chùa Khmer gồm có: Chùa
Hang, đây là một ngôi chùa có nhiều cây cổ thụ là nơi hội tụ của các loài chim
cò… về trú ẩn. Chùa Angkorette (chùa Âng), đây là ngôi chùa xưa nhất của người
Khmer. Chùa Nodol, còn gọi là chùa Cò, chùa nầy tọa lạc thuộc quận Trà Cú, rất
nổi tiếng.
Đại khái, chúng tôi chỉ nêu ra tiêu biểu những ngôi đại Già
Lam của người Khmer, và còn rất nhiều những ngôi chùa khác mà lối kiến trúc của
họ rất cổ kính lâu đời tuyệt mỹ. Thường những ngôi chùa nầy có diện tích rất rộng
và không một chùa nào mà không có những cây cổ thụ to lớn. Nhìn thấy, chùa nào
cũng như là một đại tòng lâm. Và mỗi ngôi chùa đều có những vị Tăng
sĩ trú ngụ tu học rất đông.
Về những ngôi chùa của người Việt, cũng có nhiều ngôi
chùa rất nổi tiếng và có lịch sử lâu đời. Tiêu biểu như chùa Lưỡng Xuyên, đây
là ngôi Tổ Đình. Xưa kia, trong thời kỳ chấn hưng Phật giáo, nơi đây là cái nôi
sản xuất các bậc tăng già Thiền Đức tài ba lỗi lạc. Như các bậc tôn túc: Cố Hòa
Thượng Thiện Hoa, Hòa Thượng Thiện Hòa v.v… Đây là những bậc Tôn Đức đã hơn một
thời lãnh đạo Giáo hội Phật Giáo ở miền Nam. Tiếng tăm của các Ngài vẫn
còn vang dội mãi cho đến hôm nay và mai sau.
Ngôi Tổ Đình nầy đã được Tăng Ni và Phật tử khắp nơi cùng
nhau phát tâm đóng góp công sức và tiền bạc để trùng tu. Theo chỗ chúng tôi được
biết, người khởi xướng và đứng ra chủ trì cho việc trùng tu nầy là Hòa Thượng
Thích Thanh Từ. Hiện tại, nơi đây là trường Phật Học Sơ Cấp, cũng là cơ sở
nối dài cho việc đào tạo Tăng tài.
Ngoài ra, còn có các ngôi đại già lam khác, phần lớn đã được
trùng tu rất khang trang đẹp mắt. Như ngôi cổ tự Phước Thanh ở xã Mỹ Cẩm thuộc
huyện Cầu Ngang. Ngôi chùa nầy cũng đã lâu đời, trải qua trùng tu đôi lần. Hiện
nay, ngôi chùa rất khang trang rộng lớn. Chùa gồm có 2 ngôi đại Hùng Bảo Điện
và ngôi Hậu Tổ, cả ba ngôi đều rộng lớn và nối liền nhau. Chung quanh chùa cây
cảnh rất nên thơ ngoạn mục. Chùa quanh năm mát mẻ vì có nhiều cây cối che
mát. Có những cây như 2 cây me to lớn song song nhau, bên cạnh hông chùa rất
lâu đời có trên trăm năm. Trước sân chùa có tôn tượng Phật Thích Ca với vị thế
ngồi rất cao lớn nghiêm trang. Bước vào cổng chùa phía bên tay trái là thờ tôn
tượng Bồ tát Quán Thế Âm. Tôn tượng nầy với tư thế đứng tay mặt bắt ấn cam lồ
và tay trái cầm tịnh bình, trông thấy thật là tướng hảo quang minh. Trước sân
chùa là một vườn cây kiểng trông rất tao nhã thanh lịch xinh đẹp. Bước vào đây,
du khách ngắm nhìn những cây kiểng không bao giờ biết chán, vì là những cây kiểng
rất có giá trị. Chùa nầy hiện nay có rất nhiều du khách thập phương ở các nơi
xa xôi thường đến chiêm bái tham quan ngắm cảnh.
Ngoài những ngôi chùa có tầm vóc to lớn lịch sử ra, Trà Vinh
còn có những thắng tích phong cảnh rất nên thơ hữu tình khác. Đến Trà Vinh, người
ta không thể nào quên được di tích lịch sử Ao Bà Om, người địa phương hay gọi
là ao vuông. Đây là một thắng cảnh nổi tiếng của Trà Vinh. Ao có kích thước chiều
dài khoảng 500m, rộng 300m, nằm dọc theo quốc lộ 53, cách trung tâm thị xã Trà
Vinh khoảng 7km về hướng tây nam. Mặt nước ao trong và phẳng lặng, xung quanh
ao vuông là gò cát cao có nhiều cổ thụ tàn lá che mát, không khí thật trong
lành mát mẻ.
Ao nầy có chuyện tích kỳ bí. Theo người làng kể lại, thì ở
vùng nầy có hai cái ao. Gần đó có một cái ao Ông. Thú thật, tôi chưa đến và chưa
biết rõ ao Ông nầy. Tôi chỉ nghe kể lại mà thôi. Sở dĩ có cái tên ao Ông, ao
Bà, vì lẽ, theo truyền thuyết, thì xưa kia, người ta chia ra làm hai nhóm: một
nhóm toàn là phụ nữ và nhóm kia là nam giới. Họ tranh nhau đào vét đất làm
thành ao. Nếu như bên nào hoàn tất trước, thì sẽ được hương chức trong làng ban
thưởng. Bên mấy ông, vì ỷ lại sức mạnh, nên chỉ uống rượu ngâm thơ tán dóc,
không ai đào vét chi cả. Ngược lại, bên quý bà, thì ai nấy đều cấm đầu cặm cụi
lo đào vét. Khi đào vét xong, trời gần sáng, quý bà thả lồng đèn lên, tất cả đều
reo hò mừng la vang dội! Trong khi đó, cái ao của mấy ông thì còn dang dở không
đâu vào đâu, vì cái tội ăn chơi ỷ lại khinh thường khi dễ mấy bà. Từ đó, mới có
cái tên gọi ngộ nghĩnh là “Ao Bà Om”.
Ngoài ao danh tiếng nầy ra, Trà Vinh còn có một thắng cảnh nữa,
đó là bãi biển Ba Động. Biển nầy thuộc địa phận xã Trường Long Hòa, huyện Duyên
Hải, cách trung tâm thị xã Trà Vinh khoảng 55km. Bãi biển dài hàng chục cây số,
cát trắng nước trong, đặc biệt không khí ở đây rất trong lành tươi mát.
Vì thế trong dân gian mới có hai câu ca dao truyền tụng:
Biển Ba Động nước xanh cát trắng
Ao Bà Om thắng cảnh miền tây
Chuyến về quê năm rồi, tôi có đến bãi biển nầy. Hiện nay, lượng
du khách đến đây ngắm cảnh cũng khá đông. Nơi đây đã trở thành khu du lịch đông
đảo du khách, không thua gì Ao Bà Om.
Người ta thường nói, người già khi uống trà độc ẩm thường hay
nhớ ôn lại chuyện xưa, tích cũ. Có lẽ tôi là một trong số những người già đó.
Nhưng xin thưa, tôi chưa thật già lắm, chỉ mới bước qua cái tuổi lục tuần. Khi
nhớ lại chuyện xưa, nhứt là chuyện quê hương nơi chôn nhao cắt rốn của mình, đã
hơn một thời mình sanh ra và lớn lên. Như thế, hẳn ít nhiều gì mình cũng có gắn
bó với bao kỷ niệm vui buồn. Từ những lũy tre xanh, ngôi trường làng, ngôi chùa
cổ, đình miếu, bờ ao, dậu trúc, đường làng, cổ thụ, ao hồ, đồng ruộng, cho đến
những dòng sông kênh rạch v.v… tất cả đều là những hình ảnh thiết thân quen thuộc
với tôi.
Tôi được những thứ đó đã hun đúc bảo bọc tạo cho tôi và những
người dân nơi đây có một nếp sống chơn chất hiền hòa. Sống trong nếp sống tình
tự hài hòa của một người dân quê lam lũ. Có những buổi sáng, mặt trời lên khỏi
rặng cây xanh, ánh nắng chan hòa trải khắp tươi mát dịu hiền thật dễ chịu, tôi
ra đồng hít thở không khí và hưởng những ngọn gió đồng trong mát, ngồi nghe gió
thổi rì rào qua những cánh đồng lúa chín. Quê hương tôi đã cho tôi nhiều kỷ niệm
thân thương, nên thơ, thật hữu tình duyên dáng, nhứt là vào những đêm trăng
trong gió mát, ngồi nhìn những tàng dừa rợp bóng, những khóm trúc gió thổi vi
vu, những ngôi nhà lá xiêu vẹo lụp xụp…Đó là những hình ảnh tuyệt đẹp đối với
tôi.
Chiều về, nhìn những áng mây hồng chói chang vàng rực óng ánh
ở tận phía chân trời, mà tôi thường nói với mấy đứa bạn là trời đang nấu cơm
chiều. Rồi tôi đưa mắt nhìn về phía xa xa sau những rạng cây xanh, có những cụm
khói lam chiều bốc lên cao, bay tỏa nghi ngút lan xa trên những nóc nhà mái lá.
Thỉnh thoảng có những đàn cò trắng vỗ cánh nhịp nhàng bay ngang qua cánh đồng
lúa chín, như chúng đang tìm về nơi tổ ấm. Bên cạnh những cánh đồng bát ngát
thơm mùi lúa chín đó, có những chú mục đồng ngồi trên lưng trâu, miệng hát
nghêu ngao vài ba câu vọng cổ điệu hò của thời xa xưa nào đó, nhại lại giọng
hát tuyệt vời của người nghệ sĩ tài ba Út Trà Ôn…
Đó là những bức tranh tuyệt tác êm đềm thơ mộng của tuổi thơ
mà hơn một thời tôi đã chứng kiến trải qua. Ôi! Còn gì thấm đượm tình tự quê
hương cho bằng! Quả đúng như câu người ta nói: “quê hương là chùm khế ngọt”! Là
tất cả những gì thân thương mà chúng ta hiện có bây giờ và ở đây. Hồi tưởng, viết
lại để tự sưởi ấm cõi lòng với bao nhiêu tâm tư gởi về quê hương muôn thuở và
kính dâng lên cho Ba Mẹ, người đã cho tôi hình hài vóc huyễn, với biết bao công
lao ân tình giáo dưỡng chan chứa sâu đậm. Tôi hoài vọng với tất cả tấm lòng
thương nhớ về quê hương của một thời vàng son dĩ vãng của một đứa con xa xứ hiện
đang sinh sống ở quê người.
Vài nét về ý nghĩa Tắm Phật
Nhớ lại, ngày xưa khi còn là một chú bé ngây thơ, hằng năm,
tôi thường theo mẹ tôi đến chùa dự lễ Phật Đản vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch.
Hồi đó, ở quê các chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc Tông đều cử hành đại lễ Phật
Đản vào ngày mùng tám, chớ không phải ngày rằm như hiện nay. Ngày nay, sở dĩ
các chùa cử hành Đại Lễ Phật Đản thống nhứt vào ngày rằm tháng tư âm lịch, là
do sự quyết định chung của Hội Nghị Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới, tổ chức lần đầu
tiên tại thủ đô Colombo Tích Lan, từ ngày 26 tháng 5 năm 1950 đến ngày 7 tháng
6 năm 1950. Từ đó trở đi, tất cả các chùa Phật giáo Bắc Tông đều tổ chức đại lễ
Phật Đản vào ngày rằm tháng tư âm lịch hằng năm. Tuy nhiên, hiện nay có một số
chùa ở thôn quê vẫn còn giữ lệ cúng tắm Phật vào ngày mùng 8 nầy.
Người Phật tử ở thôn quê họ chơn chất thật thà lắm. Họ đi
chùa phần nhiều là theo tục lệ truyền thống ông bà nhiều hơn. Kỳ thật, ít có ai
thâm hiểu giáo lý sâu xa. Thậm chí, việc tụng niệm hay mặc áo tràng đối với họ
cũng thật là xa lạ và bỡ ngỡ. Song có điều họ rất thương yêu và giúp đỡ lẫn
nhau. Trong xóm làng gia đình nào có hữu sự, thì những gia đình khác họ đều
quan tâm và cùng nhau chung lo. Quả đúng với câu nói của người xưa: “Nhất gia hữu
sự bá gia ưu”.Nghĩa là một nhà có việc, thì trăm nhà cùng lo. Đó là một tập tục
rất hay, rất đẹp và rất cao quý của người dân quê.
Đến công việc chùa cũng thế. Khi chùa có việc, thì họ kéo
nhau đến phụ giúp, gọi là làm công quả. Dù cho có bận rộn việc nhà đến đâu, họ
cũng cố gắng thu xếp để đến lo công việc chùa. Vì họ quan niệm, chùa là ngôi
nhà chung của họ, mà mọi người đều phải có trách nhiệm chung lo. Khi giúp chùa,
họ không bao giờ có ý tính toán nạnh hẹ so đo. Tùy theo khả năng sức khỏe mà họ
làm. Nhất là quý bà quý cô, trước lễ chánh thức một ngày, họ kéo nhau về chùa rồi
xúm xít nhau làm, kẻ việc nầy, người việc nọ để chuẩn bị đãi đằng cho ngày đại
lễ. Họ cật lực làm việc trong tinh thần hài hòa cởi mở và tận tình giúp đỡ cho
nhau. Họ nói chuyện vui cười với nhau một cách rất là tự nhiên thoải mái. Có
sao nói vậy, họ không thích sống bề ngoài. Họ rất sợ tội lỗi và lúc nào họ cũng
muốn chắt mót bòn thêm phước đức. Đó là nét đặc thù chơn chất mộc mạc thật là dễ
thương quý mến và rất quý kính của người dân quê.
Thông thường, trước thời khóa lễ chánh thức, thì có lễ tắm Phật.
Người ta chuẩn bị rất chu đáo và rất trang nghiêm cho buổi lễ tắm Phật nầy. Một
tượng Phật sơ sanh được đặt vào chính giữa thau nước. Nước mưa, họ lọc rất kỹ.
Dĩ nhiên, trước đó người ta đã lau chùi tượng Phật rất kỹ lưỡng sạch sẻ. Một
thau nước lớn để trên một cái bàn nhỏ. Cái bàn cũng được thiết trí rất xinh xắn
trang hoàng. Người ta rải nhiều thứ bông trong thau nước. Những bông hoa đủ màu
xanh, vàng, đỏ, trắng, nổi lều phều trên mặt nước. Những tràng hoa được kết
thành đủ loại màu sắc tuyệt đẹp. Những tràng hoa nầy, người ta choàng lên thân
hình tượng Phật sơ sanh, trông rất xinh lịch đẹp mắt. Đồng thời, bên cạnh thau
nước lớn, người ta còn để hai cái gáo tròn nhỏ xinh đẹp để cho mọi người múc nước
tắm Phật.
Đến giờ hành lễ, vị thầy trụ trì và một vài ông đạo (ở quê
người ta thường gọi những vị mới vào chùa tu bằng ông đạo) lên chánh điện để
làm lễ. Bổn đạo thì lên trước kẻ đứng, người ngồi. Bên nam thì đứng, bên nữ thì
ngồi. Còn bọn trẻ như chúng tôi, thì ngồi đứng không yên, muốn đứng thì đứng,
muốn ngồi thì ngồi, không ai thèm để ý đến. Chúng tôi còn chọc ghẹo khều móc với
nhau, giống như những con khỉ nhảy nhót. Tuổi trẻ vì ham vui mà đi chùa, chớ
nào có biết lễ lạy, tụng kinh bái sám gì đâu! Nhiều khi thấy mấy ông đạo cạo trọc
đầu láng o, bọn tôi còn trêu chọc cười đùa ngạo nghễ cho vui nữa. Thật nào có
biết tội phước là gì! Tuổi trẻ thơ ngây cứ lấy sự vui đùa làm sở thích. Nghe
nói đi chùa có nhiều chè xôi bánh trái, lại thêm có các cô thiếu nữ trẻ đẹp.
Nghe thế, bọn chúng tôi rất vui thích đến chùa để được ăn chè xôi bánh trái và
lại thêm có cơ hội trêu chọc mấy ả cho vui. Tâm trạng đi chùa của bọn trẻ chúng
tôi hồi đó chỉ biết có ngần ấy, thế thôi…
Điều mà tôi hơi lấy làm lạ, nhiều bà đi chùa lại có mang theo
chay không để đựng nước. Kể cả mẹ tôi cũng thế. Có lần, tôi hỏi mẹ tôi, mẹ đi
chùa mà mẹ đem theo chay không để làm gì? Mẹ tôi nói: Mẹ đem theo để lấy nước tắm
Phật về cho mọi người trong nhà uống để được mạnh khỏe. Uống nước nầy có chư Phật,
Bồ Tát gia hộ, nên suốt năm không ai có bệnh hoạn và có nhiều việc may mắn đến
với mình nữa. Nghe mẹ nói, thì tôi chỉ biết vậy thôi. Chớ tôi đâu có biết nghĩ
ngợi suy luận gì hơn. Mà giả như, tôi có lý luận về lý nhân quả báo ứng đi nữa,
thì chắc gì bà nghe. Chẳng những không nghe thôi mà trái lại, bà còn la rầy tôi
nữa.
Khi lớn lên, nhờ có chút duyên lành học hỏi Phật pháp, nhất
là giáo lý Đại thừa, thì tôi mới thấy điều nầy quả thật là quá mê tín dị đoan.
Nhưng đối với những người đó cũng như mẹ tôi thì họ rất là tin tưởng. Đó là một
niềm tin rất đơn thuần chất phác và không được điều hướng bởi lý trí. Người dân
quê, nhất là phái nữ đại đa số đều có niềm tin như thế. Làm sao họ có thể hiểu
và tin sâu vào lý nhân quả! Cho nên, ta cũng không lấy gì ngạc nhiên mà trách họ
được. Thậm chí, như hiện nay, vẫn còn có một số Phật tử nữ sau khi làm lễ tắm
Phật xong, họ vẫn lấy nước tắm Phật về nhà uống. Đó cũng là một niềm tin theo
thói quen. Nếu uống nước đó mà hết bệnh, thì mỗi ngày ta mỗi tắm Phật để lấy nước
uống. Thế là khỏi phải đi bác sĩ và khỏi phải tốn hao tiền mua thuốc.
Nếu bảo uống nước đó thì được may mắn, vì có Phật, Bồ Tát gia
hộ như mẹ tôi nói, thì khi uống xong, tôi vào sòng bài đánh bài thua sạch túi,
vậy sao Phật Bồ Tát không gia hộ cho tôi hốt tiền của thiên hạ. Hoặc tôi ra đường
giựt đồ người ta, lúc đó bị cảnh sát bắt, sao Phật, Bồ Tát không gia hộ cho tôi
khỏi bị cảnh sát bắt? Như vậy, uống thì uống mà nếu tôi làm việc bậy bạ phi
pháp, thì tôi vẫn bị luật pháp trừng trị đích đáng. Còn nếu tôi không uống nước
đó, mà tôi làm việc đàng hoàng, chánh đáng, không vi phạm luật pháp, thì thử hỏi
có ai dám bắt bớ hành phạt tôi không? Điều buồn cười hơn nữa, là khi mẹ tôi đem
nước tắm Phật về uống, thì cách mấy ngày sau, anh tôi bị bệnh. Như vậy, thì Phật
và Bồ Tát không có linh thiêng gia hộ cho anh tôi rồi. Nói lên điều nầy, thì
hơi khó nghe đối với những người mê tín, nhưng rất đúng với lý nhân quả Phật dạy.
Thiết nghĩ, người Phật tử khi tin tưởng một điều gì, ta cần phải có sự sát nghiệm
của lý trí. Không nên tin tưởng một cách mù quáng.
Như đã nói, nhờ có chút kiến thức học hỏi về Phật pháp, nên
nay khi đọc tụng lại bài kệ tắm Phật, tôi mới thấy nghĩa lý của bài kệ thật quá
thậm thâm vi diệu. Ngày xưa, tôi cũng đã từng tụng thuộc lòng như ăn cháo,
nhưng thú thật, tụng thì tụng mà không hiểu mô tê chi cả. Bài kệ tắm Phật chỉ vỏn
vẹn có 12 câu bằng chữ Hán Việt. Có lẽ, một phần vì chữ Hán Việt, nên khi tụng
đọc ít có người hiểu được. Phần khác, vì nghĩa lý rất uyên thâm huyền diệu nên
cũng thật khó hiểu. Nội dung bài kệ nêu ra hai phần: Bổn môn và Tích môn hay
còn gọi là Chơn đế và Tục đế.
Về phần Bổn môn, là nêu rõ lý pháp thân. Nói cách khác là chỉ
rõ mỗi người đều sẵn có tánh Phật. Bổn là gốc, là cái sẵn có không do tạo tác
mà có. Đó là chỉ cho chơn như. Một thực thể không nằm trong phạm trù duyên sinh
nhân quả. Vì nó vượt ngoài đối đãi nhị nguyên. Một thực thể không hình, không
tướng, mà trong Tâm Kinh Bát Nhã gọi là “Thật Tướng”. Nghĩa là tướng “Không” của
vạn pháp. Cho nên thực thể nầy không sinh không diệt. Phần nầy, chúng ta thấy rất
rõ trong 8 câu đầu của bài kệ:
“Ngã kim quán mộc chư Như Lai
Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ
Ngũ trược chúng sanh linh ly cấu
Đồng chứng Như Lai tịnh pháp thân
Già Da thành lý bất tằng sanh
Ta la thọ gian bất tằng diệt
Bất sanh bất diệt lão Cù Đàm
Viễn ly huyễn tướng vô ngôn thuyết”
Cần nói rõ, sở dĩ có buổi lễ tắm Phật nầy, là vì người ta dựa
theo truyền thuyết cho rằng, khi đức Phật ra đời, cung trời Phạm Thiên có mưa
thơm tắm Phật. Do noi theo truyền thuyết đó, mà hằng năm trong ngày đại lễ Phật
Đản, có cử hành nghi thức tắm Phật. Và nghi thức nầy đã trở thành một tục lệ
truyền thống.
Đọc qua 8 câu trên, ta thấy hoàn toàn không có đề cập gì đến
tắm ông Phật ra đời ở Ấn Độ cả. Mà tượng Phật sơ sanh chỉ là một biểu trưng nhằm
thức nhắc người Phật tử chúng ta hãy xoay về nội tâm để mỗi người tự quán chiếu
và dùng nước thanh tịnh để tắm cho ông Phật pháp thân của chính mình. Đã là Phật
pháp thân thì làm gì có hình tướng để chúng ta tắm rửa? Bởi Phật pháp thân vốn
thanh tịnh sáng suốt, có cấu bợn gì đâu mà phải tắm? Đây quả là mang một ý
nghĩa biểu trưng, tức nương “Sự” để hiển “Lý” hay ngay nơi “Tướng” mà nhận lại “Tánh”.
Nương ngón tay để thấy mặt trăng.
Đó chẳng qua là chư Tổ khéo dùng phương tiện mượn hình ảnh tắm
Phật để nói lên ý nghĩa siêu thoát. Vì mỗi người cần nên gột rửa những phiền
não ô trược ở nơi tự tâm, hầu phát huy bản thể sáng suốt ở nơi tâm mình. Hai chữ
“Như Lai” ở câu đầu của bài kệ, là chỉ cho thể tánh hay pháp thân bất sanh bất
diệt. Chớ không phải là hình ảnh đức Phật ở bên ngoài. Nếu chỉ một bề hiểu tắm
Phật ở bên ngoài, thì chúng ta bị dính kẹt ở nơi “Sự” mà không hiển được “Lý”.
Đó là chúng ta mắc vào cái lỗi thiên kiến. Phật dạy “Sự và Lý” phải viên dung
vô ngại.
Có xa lìa ngũ trược tức năm thứ ruỗng mục suy tàn, thì chúng
ta mới nhận được thể tánh, tức đồng chứng pháp thân. Nói một cách dễ hiểu hơn,
khi nào phiền não không còn, thì chừng đó Phật tánh sẽ hiện bày. Mây tan thì
trăng sáng, sóng dừng thì nước lặng. Điều quan trọng là làm cho mây tan và sóng
dừng. Còn trăng và nước vốn sẵn có, không cần phải tìm cầu. Mây và sóng là những
hiện tượng phù hư giả dối không thật. Vì chúng không thật nên tan biến bất thường.
Vô minh phiền não cũng thế. Vì phiền não không có thật tánh, nên ta mới chuyển
hóa chúng được. Trong Chứng Đạo Ca Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác có nói:
Vô minh thực tánh tức Phật tánh
Ảo hóa không thân tức pháp thân.
Đó là cái thấy bằng tuệ giác của người chứng đạo. Không phải
cái thấy tầm thường như chúng ta. Cái thấy của chúng ta là cái thấy bằng nghiệp
thức. Do đó, nên lúc nào chúng ta cũng bị kẹt mắc trên hữu tướng. Vì dính mắc
trên hữu tướng, nên không thấu suốt được vô tướng. Chỉ thấy vô minh mà không thấy
được Phật tánh. Thực tế, thì vô minh và Phật tánh không hai. Nhưng bảo rằng một
cũng không đúng. Đó là lý Bất Nhị Pháp Môn trong Kinh Duy Ma Cật. Nói một là
sai mà nói hai thì không đúng. Rời cái thân ảo hóa ngũ uẩn nầy, mà tìm cái pháp
thân, thì làm sao có được. Ngay nơi cái thân ảo hóa nầy mà nhận ra cái không
thân hay pháp thân. Lý nầy thật không phải dễ hiểu. Như toàn nước chính là
sóng. Nhưng thực tế, thì sóng không phải là nước. Nhưng nếu rời nước thì làm gì
có sóng? Khi sóng đang nổi lên, thì nước cũng không rời sóng. Cho nên mới nói
toàn sóng chính là nước. Câu nói phiền não tức Bồ đề hay sanh tử tức Niết bàn
là thế. Nói cách khác, phiền não dụ như bóng tối, bóng tối vốn không có thực thể,
nên khi có ánh sáng thì bóng tối không còn. Vô minh hết thì tánh giác hiện bày.
Bốn câu kế là nói lên cái lý bất sanh bất diệt. Sanh mà không
thật sanh, diệt mà không thật diệt. Sanh diệt, diệt sanh như vẽ đường trò chơi.
Khác nào như hoa đốm giữa hư không. Hoa đốm vốn không có trong hư không, nhưng
vì bị bệnh nhặm mắt mà thấy in tuồng như có hoa đốm. Cũng thế, pháp thân vốn
không sanh, không diệt, tại vì mê lầm nên chúng ta mới thấy có sanh, có diệt. Đến
chỗ cứu cánh tuyệt đối, thì không thể dùng ngôn ngữ để luận bàn. Có luận bàn
ngôn thuyết thì đó chỉ là làm cái chuyện trò đùa hư huyễn mà thôi. Đó là hết 8
câu nói vể Bổn môn hay Chơn đế.
Bốn câu kệ tiếp, nói về Tích môn:
Kim triêu tứ nguyệt thập ngũ nhựt
Tịnh Phạn vương cung sanh Tất Đạt
Cửu long phúng thủy thiên ngoại lai
Cử bộ liên hoa tùng địa phát.
Tích môn là nói về những hiện tượng xảy ra theo thế tục đế.
Nghĩa là, đức Phật sanh ra nhằm ngày trăng tròn tháng tư ở trong cung vua Tịnh
Phạn tên của Ngài là Tất Đạt Đa. Trong khi Phật ra đời có chín con rồng phun nước
và chư thiên hiện đến tung hoa chào mừng. Khi đó, đức Phật đi bảy bước và mỗi
bước đều có hoa sen từ đất hiện ra nở dưới chân Ngài. Đó là diễn tả những hiện
tượng khi Phật ra đời. Tuy nhiên, trong phần tích môn nầy, ta lưu ý là hiện tượng
Phật bước trên hoa sen. Tuy rằng đây là một truyền thuyết, nhưng nó mang một ý
nghĩa tiêu biểu rất siêu thoát. Hoa sen có nhiều đặc tính, nhưng đặc tính tiêu
biểu nhất, đó là mang yếu tính thanh tịnh. “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn”. Đó là nói lên cái ý nghĩa cư trần bất nhiễm trần vậy.
Tóm lại, khi múc nước tắm Phật, ta nên giữ chánh niệm và quán
chiếu thật sâu vào nội tâm. Để nhận diện từng tâm niệm dấy khởi của mình và mỗi
một muỗng nước thanh tịnh từ trên vai Phật tưới xuống, ta coi như trút bỏ những
thứ phiền não cáu bợn rối rắm trong lòng, theo dòng nước thanh tịnh mà trôi chảy
đi hết. Đó là những thứ phiền não tham lam, sân hận, tật đố, si mê, ngã mạn
v.v… tất cả đều được chuyển hóa thành những dòng nước suối nguồn thanh tịnh, từ
bi, trí huệ, vị tha, bình đẳng…
Những dòng nước thanh tịnh nầy luân lưu theo dòng thời gian
chảy xuyên suốt từ Phật truyền đạt đến chư Tổ và tới tất cả chúng ta. Đó là những
dòng nước thanh tịnh để rửa sạch những ô nhiễm ngũ dục lục trần. Tâm Phật và
tâm ta cùng hòa quang trong cùng một nhịp điệu phá tan những mê lầm từ vô lượng
kiếp. Hãy nhìn vào tượng Phật sơ sanh đang hiện diện trước mắt ta, như thầm nhắc
nhở ta phải luôn luôn sống trong tỉnh thức. Có hằng sống trong tỉnh thức thì đời
ta mới có an lạc và giải thoát. Đó là ta khéo biết trở về nhận lại cái kho tàng
quý báo (bảo sở) vô giá của ta. Mà lâu nay, vì si mê tăm tối, ta mãi đắm nhiễm
theo duyên trần, rồi tạo ra bao nhiêu thứ nghiệp ác, để rồi phải chịu trầm luân
mãi trong vòng sanh tử khổ đau.
Nay đây, một duyên lành rất lớn là ta được múc nước thanh
tịnh để tắm Phật. Phật bên ngoài cũng như ông Phật trong tâm ta. Mỗi muỗng nước
ta tưới là ta quyết tẩy sạch trôi đi những não phiền cáu bợn, hầu để cho ông Phật
pháp thân của ta hiện bày. Đó là ý nghĩa Phật xuất thế. Cứ mỗi một niệm mê lầm
là có một niệm giác chiếu soi. Vô minh ở đâu thì có Phật xuất thế ở đó. Hãy để
cho ông Phật tự tâm ta ra đời trong mọi thời gian và nơi chốn. Có thế, thì đời
ta mới thực sự chấm dứt khổ đau. Và ta hãy cương quyết phát đại thệ nguyện:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Cùng Một Hướng Đi
Đại giới đàn kỳ 6, đã được tổ chức long trọng tại Phước Huệ
Công Đức Tòng Lâm từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 7 năm 2007. Khác hơn
những lần trước, lần nầy, ngoài việc chư Tôn Đức Giới Sư truyền trao giới pháp
cho các giới tử ra, nó còn mang một ý nghĩa chuyển hướng đặc biệt; nó mở ra,
đánh dấu một trang sử mới trong sự chuyển mình tiếp nối sứ mệnh thừa kế hoằng
truyền của một tông phái từ ngàn xưa, đó là Thiên Thai tông hay còn gọi là Pháp
Hoa tông.
Về tông phái nầy, trong quá khứ cũng như hiện tại đã có rất
nhiều người nghiên cứu và cũng đã có rất nhiều quyển sách nói về tông phái nầy.
Ở đây, tôi không dám có cái cao vọng luận giải bàn thêm, vì có nói cũng bằng thừa.
Vả lại, xét mình không có đủ trình độ luận giải sâu xa hơn những gì mà các bậc
thức giả đã viết. Thôi thì, đành gác bút lại để gia tâm học hỏi tìm hiểu chiêm
nghiệm thêm về cái tông phái nầy mà lâu nay, tôi luôn để tâm học hỏi hành trì.
Tuy nhiên, để cho sự trình bày có đầu đuôi gốc ngọn một chút, người viết cũng
xin được có đôi dòng khái quát về nguồn gốc trước sau của tông phái nầy.
Nói đến Tông Thiên Thai Giáo Quán, đại đa số người Phật tử Việt
Nam đều biết đến, tuy nó không được rộng truyền như Thiền tông hay Tịnh độ tông
ở Việt Nam. Nhưng đối với Phật giáo Trung Quốc, thì nó là một trong những tông
phái lớn. Tông nầy lấy kinh Pháp Hoa làm kinh điển y cứ để thành lập. Vì
Thiên Thai Trí Giả Đại Sư lãnh ngộ yếu chỉ từ kinh Pháp Hoa. Do đó mà Ngài khởi
xướng sáng lập ra tông nầy. Vì thế, tông nầy còn gọi là Pháp Hoa tông. Ngài Trí
Khải thờ Ngài Nam Nhạc Huệ Tư làm Thầy. Ngài Huệ Tư sống vào khoảng đầu thế kỹ
thứ 6 (515- 577), và chuyên hành trì pháp tu Chỉ Quán. Lấy Đại Trí Độ Luận
làm nền tảng cho việc nghiên cứu tu học về “Nhất tâm tam quán”. Từ đó về sau sự
truyền thừa của tông nầy rất thạnh hành nổi tiếng.
Thiên Thai là tên núi, đây là một địa danh rất nổi tiếng từ
xưa tới nay. Vì “hình thể của núi nầy giống như đóa sen úp gồm 8 cánh, có
8 nhánh 8 khe; Thượng thai, Trung thai, Hạ thai giống như chòm sao Thai có 3
sao, nên gọi là Thiên Thai. Núi nầy gồm 8 ngọn hợp thành, trong đó ngọn hoa Đảnh
cao nhất với 1136m”. (Từ Điển Phật Học Huệ Quang tập 9 trang 8224)
Cũng như Thiền Tông, tông thiên Thai phát xuất từ Trung Hoa,
rồi sau đó được truyền sang qua Việt Nam. Và cũng từ đó ở Việt Nam đã
được chư Tổ Sư truyền thừa luân lưu bất tuyệt mãi cho đến ngày nay. Theo hệ
phái truyền thừa tông chỉ mãi đến Hòa Thượng thượng Phước hạ Huệ tính theo hệ
phái là Ngài thuộc dòng đời thứ 47.
Đại khái, đó là chúng tôi xin lược qua đôi nét về duyên do xuất
xứ của tông nầy, để chúng ta biết qua đôi nét ngọn nguồn.
Trong Đại Giới Đàn kỳ nầy, có 3 điểm chính yếu mà chúng tôi
thấy rất quan trọng cần được nêu ra. Đó là:
Lễ tuyên pháp thừa tự.
Lễ tuyên xưng Phước Huệ Tổ Đình.
Lễ truyền pháp quán đảnh.
Ngoài ra, còn có lễ tấn phong pháp vị Thượng Tọa cho Đại Đức
Thích Phước Tấn.
Trước hết, nói về lễ “Tuyên pháp thừa tự”. Thế nào gọi
là tuyên pháp thừa tự? Có vị đã hỏi chúng tôi như thế. Bốn chữ đó hoàn toàn thuộc
về Hán Việt. Để có một định nghĩa rõ ràng hơn, sau đây, chúng tôi xin được y cứ
vào hai quyển Tự Điển của cụ Thiều Chửu và của cụ Đào Duy Anh để giải thích.
Chữ “Tuyên” theo quyển Hán Việt Từ Điển của Đào Duy
Anh giải thích, thì nó gồm có 3 nghĩa: 1. bày tỏ ra cho mọi người biết. 2. Khơi
cho thông hết. 3. Đọc to lên. Thường chữ tuyên theo sau nó là chữ bố. Bố có
nghĩa là rộng khắp, là bày tỏ xa cho mọi người đều biết. Như vậy, chữ tuyên nói
đủ là tuyên bố, ghép hai chữ lại nó có nghĩa là tuyên bố công khai rõ ra
khắp hết cho mọi người đều biết.
Chữ “Pháp” theo nhà Phật, nghĩa của nó rất rộng, nó
có nghĩa sâu cạn khác nhau. Theo Duy Thức định nghĩa: “Nhậm trì tự tánh quỹ
sanh vật giải”. Nghĩa là phàm cái gì mà nó giữ nguyên đặc tính và khuôn mẫu
của nó, mà người ta nhìn vào là biết rõ không lầm lẫn giữa vật nầy với vật
khác, đều gọi là một pháp. Như lửa, tính chất của nó là nóng. Hoặc như cái
bình, khi người ta nhìn vào biết nó là cái bình chớ không phải là cái tách, hay
vật gì khác, đó là một pháp v.v… Ngoài ra, nó còn có nghĩa là phép tắc,
quy củ. Nói rộng ra, mọi hiện tượng trên thế gian nầy, cái gì có hình tướng đều
gọi chung là pháp. Đó là pháp hữu vi. Ngay cả cái không hình tướng như tâm thể
của mỗi loài cũng gọi là pháp. Đó là pháp vô vi.
Qua định nghĩa trên, ta thấy chữ pháp được dùng trong cụm từ
4 chữ nầy, nó mang hai ý nghĩa đặc biệt:
Thứ hai, pháp là phép tắc khuôn mẩu của một sự vật, gồm
chung các loại vật thể có hình tướng, tiêu biểu như chùa, tháp v.v… cần phải được
duy trì và phát triển… đây thuộc về pháp “Hữu Vi”có sanh có diệt.
Chữ “Thừa” theo quyển Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu
ở trang 227, có giải thích như sau: Thừa có 6 nghĩa: 1. vâng, như nói bẩm thừa
là vâng theo. 2. Chịu, như nói thừa vận, là chịu vận trời. Thừa ân là chịu ân
v.v… người trên ban cho, kẻ dưới nhận lấy gọi là thừa. 3. Đương lấy, như nói thừa
phạp là thay quyền giúp hộ. 4. Phần kém. 5. Nối giõi, như thừa diêu, nối dõi giữ
việc cúng tế. 6. Tiếp theo.
Qua những nghĩa nêu trên, chữ thừa trong đây gồm
các nghĩa là: thừa ân, nhận lãnh, vâng giữ, làm theo nối dõi không cho đoạn
tuyệt.
Chữ “Tự” cũng theo quyển Hán Việt Tự Điển Thiểu Chửu
ở trang 97, ông giải thích có 2 nghĩa: 1. Nối, như tự tử là con nối. 2. Con
cháu, như hậu tự là con cháu sau.
Ghép hai chữ “Thừa Tự” lại, theo Hán Việt Từ Điển của
Đào Duy Anh ở trang 457, thì có nghĩa là: Nối sự nghiệp của cha ông.
Như vậy, qua sự phân tích chiết tự giải thích trên, cụm từ
Tuyên pháp thừa tự nầy có nghĩa là: “tuyên bố rộng khắp cho mọi người biết về pháp
phái của tông môn, nói rõ là giáo pháp của Tông Thiên Thai cũng như những cơ sở
chùa tháp hiện hữu do Hòa Thượng Thích Phước Huệ đã tạo dựng hầu để truyền
đạt lại cho người thừa kế tiếp nối sứ mệnh mà nỗ lực duy trì và phát triển, làm
rạng rở sơn môn học phái”
Nhưng ai là người thừa kế, nắm giữ giềng mối của tông môn? Từ
xưa, việc truyền đạt cho người thừa kế là một quy củ căn bản trong thiền môn.
Chữ “truyền” mang 2 ý nghĩa đặc thù: vừa nói lên tiếp nối làm hưng thạnh dòng
pháp của tông môn, cũng vừa nói lên phần hình thức sư tướng: quản trị, duy
trì và phát triển các cơ sở mà do vị Thầy bổn sư khai sáng lập thành. Vì Bổn Sư
xét thấy tuổi già sức yếu, không còn đủ sức khỏe để gánh vác những trách vụ nặng
nề, nên cần phải chọn người thừa kế. Tuy trong hàng đệ tử đông, nhưng vị Bổn Sư
cần phải chọn người có khả năng đủ tài đức để giao phó trách nhiệm. Khi đã được
Thầy giao phó trách nhiệm, thì vị đệ tử đó phải phụng chỉ tuân hành, không có
quyền từ chối. Vì trước khi giao, người Thầy đã nhiều năm để ý theo
dõi cung cách hành xử của người đệ tử đó thật kỹ càng. Giờ đây, khi được
giáo phó, tất nhiên người đệ tử đó không được từ khước mà phải đãi lao gánh vác
trách nhiệm thay cho Thầy. Đó là người đệ tử có dịp báo ân cho Thầy mình vậy.
Trong bao nhiêu năm qua, Hòa Thượng thượng Phước hạ Huệ Pháp
Chủ Công Đức Tòng Lâm, một mặt, vừa tận lực lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhứt tại Úc và Tân Tây Lan, mặt khác, lại lưu tâm dốc hết tâm lực để
tạo dựng nên những cơ sở cho các Phật tử và chư Tăng Ni có nơi hành lễ tu
học. Ngoài cơ sở Phước Huệ ra, ngài còn quan tâm xây dựng một vài cơ sở khác
như Quang Minh, ở thành phố Melbourne thuộc tiểu bang Victoria, và Đại
Tòng Lâm, Sydney. Riêng cơ sở Đại Tòng Lâm, đây là cả một hoài bảo
tâm huyết của ngài, bao nhiêu kỳ vọng, ngài đều đặt hết quyết tâm xây dựng nơi
đây mong sớm được hình thành cơ sở nầy.
Trong bao nhiêu năm qua, dù tuổi già sức yếu, nhưng ngài bất
chấp gian lao mệt mỏi, ngài đã âm thầm miệt mài xúc tiến công việc xây dựng
hình thành từng bước. Ngài đã thiết tha vận động trong hàng Tăng Ni Phật tử, những
ai có cái nhìn rộng rãi về tiền đồ Phật giáo ở những thế hệ mai sau trên xứ sở
đất nước nầy, nên phát tâm ủng hộ tài vật cũng như công sức để cho ngài sớm được
hoàn thành sở nguyện. Phàm đã có cơ sở dù nhỏ hay lớn, tất nhiên, cần phải có
người có trách nhiệm quản lý trông coi duy trì và phát triển. Mục đích là nhằm
vào lợi ích chung cho mọi người. Vì thế, nên ngài cần phải giao phó trách nhiệm
cho người thừa kế.
Buổi lễ diễn ra hôm đó, Hòa Thượng đã bày tỏ tâm tư nguyện vọng
của ngài trước mọi người. Nhất là đối với những đệ tử trong tông môn. Hòa Thượng
như trút cạn nỗi lòng giao hết sự nghiệp lại cho hàng đệ tử trong tông môn gánh
vác. Đã đến lúc, ngài cần phải nghỉ ngơi tịnh dưỡng. Đó là ý nghĩa nội dung
chính yếu của buổi lễ Tuyên Pháp Thừa Tự.
Ba vị mà HT đã nhắm tới giao phó trọng trách cho những
vị đó gánh vác: Vị thứ nhứt là HT Thích Phước Bổn. Có thể nói, HT Phước Bổn là
bậc đàn anh trong tông môn thừa đương trọng trách điều hành mọi công việc và
các cơ sở hiện có thay cho Hòa Thượng. Vị thứ hai là Thượng Tọa Thích Phước Tấn,
đảm đang gánh vác trọng trách tiếp tục lo công việc xây dựng cơ sở Quang Minh.
Vị thứ ba, là Đại Đức Thích Phước Nhơn, tiếp tục thay Hòa Thượng trông coi cơ sở
Đại Tòng Lâm. Đó là ba vị đã được Hòa Thượng ân cần giao phó trọng trách. Cả ba
vị đều đối trước Hòa Thượng và mọi người mà đảnh lễ phát nguyện y giáo phụng
chỉ.
Tiếp theo là lễ Tuyên xưng Phước Huệ Tổ Đình. Từ ngữ
Phước Huệ nó có một ý nghĩa tối ư quan trọng thiết yếu trong giáo lý Phật giáo.
Dù là hệ thống giáo lý Nguyên Thủy hay Phát Triển, cũng đều lấy đó làm căn bản
cho việc tu hành để tiến tới Phật quả. Câu nói: “Phước Huệ lưỡng toàn phương
tác Phật”, cho thấy, quả nó thật quan trọng đến ngần nào trong giới tu học
Phật. Ngoài tính chất mang ý nghĩa đặc thù đó, nó còn là một danh xưng được đặt
tên cho một cơ sở. Danh xưng nầy tự nó cũng đã nói lên cái tôn chỉ cao thượng của
người tu dù xuất gia hay tại gia, tất cả đều phải nhắm tới, vì đó là mục đích tối
hậu của người tu.
Suốt thời gian qua, cơ sở nầy kể từ khi thành lập cho đến
nay, nó là cơ sở chính yếu là trung tâm sinh hoạt của Giáo Hội. Dù trải qua bao
gian lao thử thách, lắm khi phải đối đầu trực diện với những chướng ngại khó
khăn từ ngoại tại hay nội tại, nhưng Phước Huệ vẫn trụ hình đứng vững không
bao giờ khuất phục, lay động chùn bước. Nó vẫn kiên nhẫn khiêm tốn để gắng sức
vươn mình thẳng bước đi tới. Vì có như thế mới thật sự đúng theo danh xưng của
nó là Phước Huệ. Vì bản chất của nó là quang minh chánh đại nên không ai có thể
phủ mờ hay làm biến chất nó được.
Chính cơ sở nầy, đã hun đúc tạo thành những người con trung
kiên hết lòng phụng sự cho đạo pháp. (Chỉ trừ một vài vị thiếu duyên nên không
thể hòa mình tu học hành hoạt theo quy chế của tông môn. Ngoài ra, tất cả đều
tuân hành phụng giáo theo quy chế của tông môn). Và chính nó cũng đã hơn một thời
làm vẻ vang cho Phật Giáo Việt Nam tại xứ Úc Châu và Tân tây Lan nầy. Nói
thế, không có nghĩa là đến thời điểm nầy nó không còn tiếp tục đóng góp xây dựng
và phát triển cho Phật giáo nữa. Không. Trăm lần không vạn lần không. Nó chỉ
chuyển mình trong tư thế thích nghi theo phương thức khế cơ mà thôi. Lập trường
đường hướng hoạt động phụng sự cho Phật giáo trên xứ sở nầy của nó trước sau vẫn
không thay đổi. Tùy khả năng và phương tiện sẵn có mà nó tích cực đóng góp. Chẳng
qua đây là giai đoạn chuyển hướng đặt nặng việc hành trì trong tông môn nhiều
hơn mà thôi.
Đã đến lúc cần phải nhìn lại và lo củng cố nội bộ trong chiều
hướng trau dồi đạo lực, nếp sống đạo đức để tự mỗi người nỗ lực quán chiếu
tâm linh sâu hơn, cho việc tu hành chóng đạt thành kết quả như ý nguyện. Đó là
hướng tiến nội tại thu hẹp để những vị xuất gia trong tông môn có thêm cơ hội
nhìn lại mình rõ hơn. Như vậy, việc đổi danh xưng, không phải là thối bước mà
đó là một sự chuyển mình vươn lên trong nếp sống hướng thượng giải thoát cao đẹp
hơn. Vì không còn phải bị chi phối ở ngoại cảnh nhiều như trước.
Tổ Đình là ngôi nhà Tổ mà tất cả con cháu phải có bổn phận
trông coi duy trì và phát triển. Vì đây là ngôi nhà chung, không riêng của ai.
Tất cả những ai trong tông môn đều phải thấy đó là một trách nhiệm bổn phận của
mình. “Uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây, hoặc ăn cây nào rào cây nấy”, đó
là những câu tục ngữ mà các bậc cổ đức đã khuyến nhắc con người. Đạo làm người
cần phải biết cội nguồn. Một con người có gốc rễ đạo đức sâu, họ luôn nhớ cội
biết nguồn. Đối với người đời còn phải tri ân và báo ân như thế. Còn đối với
người xuất gia đã tòng sư học đạo thì sao? Tất nhiên, là phải hành xử vượt cao
hơn người đời rất nhiều. Người xưa nói: “nhứt tự vi sư, bán tự vi sư”. Nghĩa
là một chữ cũng là Thầy mà nửa chữ cũng là Thầy. Đã thế, thì ta phải hết lòng
tôn sư trọng đạo, phải luôn tâm niệm trong sự tri ân và báo ân. Dù chỉ thọ ân
trong một ngày, cũng không thể nào quên được.
Tổ đình còn là một mái ấm của đại gia đình không phân biệt
phái tính xuất gia hay tại gia. Tuy nhiên, đối với người xuất gia là vai trò
chính trong việc phụng thờ. Vì nơi đây là ngôi nhà thờ chư Tổ của một tông phái
lâu đời, nên người xuất gia thừa kế phải có trách nhiệm bảo vệ quản trị phụng sự
nặng hơn. Đương nhiên, tất cả phải coi đó là một mái ấm thiết thân của
mình. Dù cho trôi nổi phiêu bạt nơi đâu, cuối cùng cũng phải nhớ đến Tổ Tông cội
nguồn của mình. Đã nói là mái ấm, tất nhiên, ngoài thì che ấm, nhưng bên trong
thì mỗi người phải giữ cho thật êm. Đó mới thật là một mái ấm hạnh phúc của đại
gia đình. Vì thế, tất cả đều phải có bổn phận bảo vệ duy trì và phát triển ngôi
nhà chung nầy.
Kế tiếp là buổi lễ truyền pháp. Xưa kia, trong nhà Thiền,
khi thầy truyền cho trò gọi là truyền tâm pháp, hay Tâm ấn. Nên có câu nói
là: “dĩ tâm truyền tâm”. Nghĩa là lấy tâm của người thầy in lên tâm của
người trò. Nhưng chỉ truyền đạt cho một người mà thôi. Tất nhiên, người đó phải
có cái “Thấy” bằng thầy hoặc kém hơn thầy một chút. Sự truyền thừa nầy,
bắt nguồn từ đức Phật truyền cho Ngài Ca Diếp. Từ đó, Tổ Tổ tương truyền, truyền
Tâm Pháp và Y Bát. Cứ thế truyền mãi cho đến đức Lục Tổ Huệ Năng, thì chấm dứt
truyền y bát. Chỉ còn lại là truyền Tâm Ấn mà thôi.
Nói truyền pháp ở đây không phải thế. Người xuất gia khi đã
được 5 hạ lạp trở lên mới được cầu pháp với một vị Bổn Sư của mình hay với một
vị Thầy khác. Vị thầy đó, mình thấy có đầy đủ đức độ xứng đáng cho mình nương tựa
tu học. Sau đó, người cầu pháp phải bạch trình với vị Thầy đó, bày tỏ tâm nguyện
cầu pháp của mình. Khi được vị Thầy đó hoan hỷ hứa khả chấp nhận, làm lễ ấn chứng
cho mình nhập môn, từ đó mình mới chánh thức trở thành vị đệ tử trong tông môn.
Dĩ nhiên, việc làm lễ cho cá nhân, tất nhiên là đơn giản hơn là làm lễ chung
cho tập thể.
Buổi lễ truyền pháp hôm đó, ngoài những vị xuất gia đệ tử của
Hòa Thượng, (thọ giới Tỳ Kheo tăng từ 5 tuổi hạ trở lên ) ra, còn có chư Tôn Đức
Tăng ở Mỹ, như HT Thiện Viên, TT Phước Sung, TT. Duy Tín, TT. Thiện Long cũng
xin cầu pháp với Hòa Thượng.
Buổi lễ cầu pháp diễn ra theo một nghi thức cổ truyền của
Thiên Thai Giáo Quán Tông rất là trang trọng. TT. Thích Phước Tấn thay mặt chư
Tôn Đức Tăng hiện diện, thành kính dâng lên với tất cả lòng thành hướng về Tam
Bảo, về chư liệt vị Tổ Sư bổn phái, và nhứt là Hòa Thượng Bổn Sư thượng Phước hạ
Huệ để bộc bạch đôi lời thỉnh cầu Hòa Thượng chỉ giáo truyền trao pháp phái.
Sau đó, Hòa Thượng đã truyền pháp quán đảnh cho từng vị một. Mỗi người đều chí
thành để nhận những giọt nước pháp nhũ cam lồ từ tay của một bậc Thầy khả kính
đã dày công hành đạo nối dõi Tông thừa để rưới lên truyền đạt cho những đứa con
của mình đang hết lòng quy ngưỡng lãnh thọ pháp ân.
Tiếp theo, Hòa Thượng Thích Phước Bổn, tuyên đọc pháp phái
truyền Phật tâm ấn của chư liệt vị Tổ Sư truyền thừa. Đọc xong, Ngài xướng
tụng đúng theo bài bản nghi thức truyền pháp. Sau đó, Hòa Thượng đã cấp phát
pháp phái cho mỗi vị, và Hòa Thượng bảo mỗi người phải làm một bài kệ 4 câu rồi
trình lên cho Hòa Thượng. Trình kệ là trình bày nói lên cái kiến giải tu học
qua sự lãnh hội Phật pháp của mình. Tất nhiên, cái thấy của mỗi người có sâu cạn
khác nhau. Mục đích là để Hòa Thượng biết trình độ mà hướng dẫn chỉ giáo thêm.
Điểm đặc biệt là chỉ truyền pháp cho chư Tăng mà thôi. Còn bên chư Ni, tất
nhiên là không được truyền thừa. Đó là đúng theo luật Phật chế. Do đó, mà có một
vài Sư Cô cũng hơi buồn. Buồn thì chịu chớ biết nói sao hơn!
Nhìn chung, Đại giới đàn kỳ 6 nầy, đánh dấu một bước ngoặc, mở
ra một trang sử mới khá quan trọng. Trong tinh thần thượng tôn hạ kính, hòa hợp,
đó là nếp sống gương mẫu của tăng già. Cụ thể hôm nay là những hàng đệ tử xuất
gia của Hòa Thượng đã siết chặt tình huynh đệ trong ý hướng thừa kế sự nghiệp
mà chính do Hòa Thượng đã bỏ ra bao nhiêu tâm huyết và công sức tạo
thành. Hướng đi và cơ sở đã có sẵn, chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực
xây dựng, phát triển, những gì mà Hòa Thượng Tôn Sư đã ân cần chỉ giáo,
giao phó. Đó là trách nhiệm chung của những hàng đệ tử trong tông môn.
Những gì giao phó cho những vị có trách nhiệm thừa kế, đã được
Hòa Thượng tận tay trao truyền ấn khả cả hai phương diện: pháp lý và tình người.
Hòa Thượng đã công bố trước mặt mọi người. Đây mới là điểm chính mà Hòa Thượng
đã cưu mang hoài bảo tâm nguyện nầy từ lâu. Đến nay, mới đúng hợp thời cơ để
Hòa Thượng truyền đạt lại, để Ngài lui về nghỉ ngơi tịnh dưỡng. Đó là tâm nguyện
của ngài trong bấy lâu nay, cho đến hôm nay ngài mới được toại nguyện. Công ơn
của ngài thật quá lớn lao, cao rộng như trời biển, làm sao những hàng đệ tử
thừa kế có thể quên được?
Như vậy, Đại gìới đàn kỳ 6 nầy chỉ là thể hiện trên hình thức
lễ nghi truyền giới, mà thực chất nội dung chính yếu của nó phải nói là trao
truyền sự nghiệp lại cho những vị có trách nhiệm thừa đương, gánh vác trọng
trách. Bên cạnh đó, còn có lễ tấn phong pháp vị Thượng Tọa cho Đại Đức Thích
Phước Tấn. Việc nầy cũng nằm trong tâm nguyện của Hòa Thượng mong mỏi từ bấy
lâu nay.
Tóm lại, thật đây là một niềm vui riêng của một bậc Thầy cả đời
đã hiến thân phụng sự phục vụ cho đạo pháp và nhơn sinh. Và đó cũng còn là một
niềm vui chung của mọi người. Bây giờ, ngài mới thực sự yên tâm mà nghỉ ngơi tịnh
dưỡng. Cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho Hòa Thượng thân tâm thường an lạc và cầu
nguyện cho chư Tôn đức Tăng Ni trong tông môn có đầy đủ sức khỏe, nghị lực hầu
vượt qua mọi khó khăn, để hoàn thành sứ mệnh trong phương trời cao rộng: “tác
Như Lai sứ hành Như Lai sự”.
Thành tâm cầu nguyện cho mọi người luôn sống an lành, hạnh
phúc, trong ánh hào quang soi sáng của chư Phật
Truyền thống Đại Giới Đàn
Theo sử liệu Phật giáo cho chúng ta biết, sự truyền thọ giới
pháp đã có từ thời đức Phật còn tại thế. Khi ngài La Hầu La xuất gia, chính đức
Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất truyền trao 10 giới Sa Di cho La Hầu La và Tôn Giả
Mục Kiền Liên làm giáo thọ hướng dẫn, thế phát cho La Hầu La.
Sau khi Phật nhập diệt, tăng đoàn tiếp nối truyền thụ giới
pháp cho nhau dưới mọi hình thức: “tùy thời, tùy cảnh và tùy duyên”. Riêng
Phật giáo Việt Nam, từ xưa đến nay, dòng sinh mệnh của Phật giáo luôn luôn
gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc. Chính vì sự gắn liền đó, nên thời nào
dân tộc hưng thịnh vẻ vang, thì Phật giáo cũng được vẻ vang hưng thịnh. Ngược lại,
thời nào dân tộc bị suy vi đen tối, thì Phật giáo cũng bị đen tối suy vi. Lịch
sử đã chứng minh như thế. Tuy nhiên, dù ở bất cứ thời đại thạnh suy nào, Phật
giáo cũng có tổ chức những giới đàn lớn nhỏ tùy theo mỗi hoàn cảnh khác nhau.
Ngoài tính chất hệ thuộc vào thời thế, nó còn tùy thuộc vào mỗi
Tông Phái cũng như mỗi Giáo Hội qua từng thời đại. Nhưng nhìn chung, mục đích
trì giới và bảo vệ giá trị cao quý của Tăng đoàn vẫn là một. Vì giới luật còn
thì đạo pháp còn. Do đó, bên cạnh những sinh hoạt khác của Phật giáo như: xây dựng
chùa chiền, in kinh ấn tống, phiên dịch kinh điển v.v… thì Đại Giới Đàn là một
trong những pháp sự mà Giáo Hội bao giờ cũng quan tâm đặt lên hàng đầu của Phật
giáo.
Bởi tầm mức quan trọng đó, cho nên Phật giáo ở vào những thời
đại hưng thạnh, tiêu biểu như qua hai thời đại Lý Trần, được đánh giá cao độ
vàng son của Phật giáo. Bởi thế, số lượng tăng sĩ của hai thời đại nầy, nhứt là
thời Trần rất đông đảo. Tam Tổ Thực Lục chép rằng: “ chỉ riêng Ngài Pháp
Loa trong thời gian bấy giờ cũng đã đứng ra đôn đốc tạo dựng lên đến 200 tăng
đường, để có nơi cư trú học tập cho hàng tăng sĩ. Số tăng sĩ được xuất gia từ
năm 1313, tức là năm khởi đầu việc hạn chế tăng sĩ, cho đến năm 1329, tức là
trong 16 năm, đã có 15.000 người xuất gia được công nhận. Đó là số người xuất
gia trong khuôn khổ Giáo Hội Trúc Lâm, và cũng đã được quy định thật rõ rệt.
Như vậy, cứ mỗi kỳ có Đại Giới Đàn, có vào khoảng từ 3000 đến 4000 người thọ giới.
Hiện nay, ta chưa thấy có một tài liệu nào nói rõ rệt về con số tăng sĩ hồi đó,
nhưng ta có thể ước lượng rằng ít nhất cũng có hơn 30.000 vị”.
Điều nầy, cũng không có gì khó hiểu. Bởi lẽ, hễ có người xuất
gia tu hành đông đảo, thì nhu cầu tất yếu truyền giới và thọ giới phải
có. “Trong thời đại nhà Lý, có nhiều Đại Giới Đàn tổ chức ngay trong triều
đình, để cho vương công, hầu tước và quan lại thọ giới xuất gia hay tại gia,
tùy theo hạnh nguyện của mỗi người”. (Kiêm Đạt Đại Giới Đàn Thiện Hòa)
Theo tài liệu của L. Cedière ghi rằng: “Vào đầu năm 1010, khi
lên ngôi, vua Lý Thái Tổ đã cho chọn những người xuất sắc trong lớp trí thức,
sĩ phu đương thời cho xuất gia. Bốn năm sau đó, (1014) Tăng Thống Thẩm Văn
Uyên lập giới đàn tại chùa Vạn Thọ, để tăng tín đồ thọ giới. Vào thượng tuần
tháng 8 năm 1016 có hơn 1000 người ở kinh đô Thăng Long được tuyển chọn để thọ
giới làm tăng sĩ”
Sang thời nhà Trần, như đã nói, Phật giáo rất hưng thạnh,
ngay cả đến các vị vua cũng phát nguyện thọ giới tu học. Vì thế, gây nên một
phong trào rất sâu rộng về việc xuất gia thọ giới tu học từ trong triều đình
cho đến dân gian. Và lẽ dĩ nhiên, trong thời nầy có nhiều Đàn giới tổ chức rất
trọng thể.
Sang nhà Hồ và thời kỳ Minh thuộc, thời nhà Hồ, vì thời gian
quá ngắn ngủi, nên Phật giáo chưa làm được gì, thì kế lại bị nhà Minh sang đô hộ.
Từ đó, cả dân tộc đi vào lầm than khổ sở. Chúng cai trị một cách rất khắc nghiệt
tàn bạo dã man. Phật giáo cũng đồng chung số phận. Thời nầy, Nho giáo (Tống
Nho) đắc thời đắc thế, họ chèn ép Phật giáo đủ điều. Mọi sinh hoạt của Phật
giáo coi như bị bế tắc. Số tăng sĩ có đủ tài đức rất là hiếm hoi. Phần nhiều đều
không thông suốt giáo lý. Đây là thời kỳ đen tối suy đồi của Phật giáo.
Rồi đến nhà Hậu Lê, mọi sinh họạt của Phật giáo cũng chưa phục
hưng lại được. Lý do, vì số tăng sĩ chân tu thực tài thực học không có bao
nhiêu. Vả lại, kinh điển lại bị nhà Minh một phần họ vơ vét mang về Tàu và một
phần họ thiêu hủy. Thời nầy, Nho học độc thịnh chiếm ưu thế, được sự hỗ trợ của
triều đình, nên sĩ phu đổ xô nhau vào con đường quan lộ cử nghiệp. Họ chạy theo
công danh đua nhau thi cử làm quan. Do đó, nên tình trạng Phật giáo không thể
nào vươn mình lên được.
Trong thời kỳ nầy, có các phái Nguyên Thiều và Liễu Quán đã
tích cực nỗ lực hoạt động, nên sinh khí Phật giáo dần dần trở nên khởi sắc. Thời
nầy, có nhiều Đại Giới Đàn lần lượt được tổ chức ở các chùa: Thiên Mụ, Chúc
Thánh, Viên Thông v.v… Mỗi Đàn giới có rất nhiều người xuất gia thọ giới.
Đến thời kỳ Phật giáo chấn hưng, cũng có nhiều Đại Giới Đàn tổ
chức trọng thể ở các chùa miền Nam như: Giác Hải, Tiên Linh (Bến
Tre) Phi Lai (Châu Đốc) Long Hòa (Trà Vinh)… và có rất nhiều người thọ giới.
Riêng ở miền Trung cũng có nhiều Đàn giới tổ chức ở các chùa như: Từ Hiếu, Quốc
Ân, Tây Thiên, Tiến Hưng v.v…
Thời gian trước năm 1975, trong miền Nam cũng có
nhiều nơi tổ chức các Đại Giới Đàn rất quy mô trọng đại. Đặc biệt, Tông Phái
Thiên Thai kể từ thập niên ba mươi đến giữa thập niên năm mươi, mỗi năm vào
ngày Vía Đức Quán Thế Âm Bồ tát 19 tháng 2 âm lịch, Tổ Sư thượng Liễu hạ Thiền
đều có kiến lập giới đàn hoằng giới tiếp dẫn hậu lai. Mỗi giới đàn, giới tử xuất
gia, tại gia cầu thọ tịnh giới trung bình 300 đến 500 người, có giới đàn, giới
tử lên đến gần cả ngàn người.
Sau khi Tổ sư viên tịch chư Tôn Đức trong hàng đệ tử tiếp nối
công nghiệp hoằng giới của Tổ. Hằng năm, đều có khai đàn truyền giới cho hàng tứ
chúng hậu học tại các chùa trong Tông Phái như: Tôn Thạnh, Pháp Quang, Pháp Hội,
Pháp Giới v.v…
Riêng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt kể từ ngày thành
lập, giới đàn đầu tiên được khai diễn tại Việt Nam Quốc Tự vào năm 1964. Và
theo quy định của ngành Tăng Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt, thì mỗi
năm Đại Giới Đàn được tổ chức một lần tại một miền Giáo Hội, từ vĩ tuyến 17 vào
đến Cà Mau gồm có các miền: Vạn Hạnh, Liễu Quán, Khánh Hòa, Quảng Đức, Vĩnh
Nghiêm, Huệ Quang, Khánh Anh v.v…
Sau năm 1975 mãi cho đến hôm nay, từ trong nước đến ngoài nước,
rải rác khắp đó đây, các chùa cũng đều có tổ chức các Đại Giới Đàn, tiêu biểu
như Đại Giới Đàn Thiện Hòa tổ chức vào năm 1983 tại Phật Học Viện Quốc Tế, thuộc
tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Riêng tại Úc Châu, điểm đặc biệt và cũng là niềm vinh hạnh lớn
lao cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan, tại
Tổ Đình Phước Huệ (Phước Huệ Công Đức Tòng Lâm) trụ sở của Giáo Hội Trung
Ương. Hòa Thượng Trưởng lão thượng Phước hạ Huệ Viện trưởng Viện Hoằng Đạo cũng
là Pháp Chủ Tổ Đình Phước Huệ, Ngài đã liên tục khai nhiều đàn giới.
Lễ truyền giới Sa Di đầu tiên vào năm 1982, kế đến là năm
1986 và cho đến năm 1996 thì Đại Gìới Đàn Phước Huệ kiến lập 2 năm một lần, cho
tới năm 2003, là trải qua gồm có 5 Đại Giới Đàn.
Đặc biệt Đàn giới năm 1991 tức Đại Giới Đàn kỳ 1, được tổ chức
lồng trong những ngày đại lễ khánh thành chùa Phước Huệ vào các ngày 21, 22,
23, 24, tháng 12 năm 1991. Phải nói đây là một Đại Lễ khánh thành ngôi chùa Việt
Nam lần đầu tiên lớn nhứt ở Úc.
-.Đại Giới Đàn kỳ 2, được tổ chức rất trọng thể vào các
ngày 3 , 4, 5, tháng 8 năm 1996, nhằm ngày Vía đức Bồ Tát Quán Thế Âm 19, 20,
21, năm Bính Tý.
- Đại Giới Đàn kỳ 3, được tổ chức khai đàn trọng thể kể từ
ngày 6 tháng 8 đến ngày 10 tháng 8 năm 1998.
- Đại Giới Đàn kỳ 4, tổ chức khai đàn trọng thể từ ngày 20
tháng 7 đến ngày 23 tháng 7 năm 2000. Ngoài việc truyền giới, còn có lễ suy tôn
pháp vị Hòa Thượng và tấn phong pháp vị Thượng Tọa.
- Đại Giới Đàn kỳ 5, diễn ra từ ngày 17 tháng 7 đến ngày 20
tháng 7 năm 2003.
- Đại Giới Đàn kỳ 6, tổ chức trọng thể từ ngày 27 tháng 7 đến
ngày 30 tháng 7 năm 2007.
- Đại Giới Đàn kỳ 7, được tổ chức khai đàn trọng thể từ ngày
18 tháng 3 đến ngày 21 tháng 3 năm 2011.
Như vậy, những Đàn giới đã được lần lượt tổ chức tại Tổ Đình
Phước Huệ tính theo thời gian trước sau có tất cả là 7 Đại Giới Đàn. Đàn giới
nào cũng được tổ chức rất trang trọng. Trải qua những Đàn giới đó, kết quả, có
nhiều vị xuất gia thọ giới và sau khi đắc giới, quý vị đó tiếp tục tu học cho đến
ngày nay. Một số Tăng Ni, thuộc tông môn Tổ Đình Phước Huệ, theo nhu cầu Phật sự
cấp thiết, nên một số vị đã được Hòa Thượng bổ nhiệm nhận lãnh trách vụ trụ trì
ở các chùa trong và ngoài nước Úc. Một vài vị đi du học ở nước ngoài. Còn lại một
số thì hiện đang tu học và làm Phật sự tại Tổ Đình. Số nầy khá đông. Hiện
nay, tổng số có trên 30 vị đang tu học tại Tổ Đình, phần lớn đều thọ đại giới,
chỉ có 2 Sa Di một trẻ một già. Hầu hết những vị nầy đều là đệ tử xuất gia của
Hòa Thượng Đàn chủ thượng Phước hạ Huệ.
Lược qua một số Đại Giới Đàn mang tính cách lịch sử của từng
giai đoạn qua các thời đại như thế, cho chúng ta thấy một cách rõ ràng rằng:
đây là một truyền thống, tiếp nối từ nghìn xưa mãi đến nghìn sau. Vì thời nào
cũng vậy, giới luật là linh hồn, là cột trụ của Phật giáo. Do tính quan trọng
đó, nên có câu: “Tỳ ni tạng trụ, Phật pháp diệc trụ. Tỳ ni tạng diệt, Phật
pháp diệc diệt”. Nghĩa là, Tạng Giới Luật còn thì Phật pháp còn. Tạng
Giới Luật mất, thì Phật pháp cũng mất. Vì giới luật là mạng sống chính yếu
của Phật pháp.
Do đó, nếu chúng ta duy trì được truyền thống Đại Giới Đàn, tất
nhiên là chúng ta sẽ duy trì được mạng mạch trường lưu của Phật pháp. Chính vì
ý thức được tầm mức quan trọng trong sự tồn vong đó, nên trong suốt bao năm
qua, Hòa Thượng Pháp Chủ Tổ Đình Phước Huệ đã bất chấp mọi khó khăn, vượt qua mọi
trở ngại, Ngài kiên quyết liên tục tổ chức mở ra các Đại Giới Đàn tại Tổ Đình
Phước Huệ, nhằm mục đích tạo phương tiện cho hàng tứ chúng có đủ cơ duyên để
lãnh thọ giới pháp hầu lấy đó làm phương châm tiến thủ trên bước đường tu học.
Đó là một hoài bảo, một tấm lòng từ bi vị tha của một bậc Thầy đầy khả kính đã
dầy công tạo dựng từng thế hệ, tiếp nối thắp sáng ngọn đuốc chánh pháp trong
khung trời: “Tam Vô Lậu Học” (Giới, Định, Huệ).
Đại Giới Đàn kỳ nầy, một lần nữa, nói lên tính chất duy trì
và phát triển truyền thống, và quyết tâm bảo tồn một kho tàng vô giá mà trước
khi vào Niết bàn, đức Thế Tôn đã cạn lời thổ lộ ân cần khuyến nhắc các thầy Tỳ
kheo rằng: “Nầy các Thầy Tỳ kheo, sau khi ta diệt độ, các Thầy phải tôn trọng,
trân kính Tịnh Giới, như người mù mà được sáng mắt, như kẻ nghèo nàn mà được
vàng ngọc, phải biết Tịnh Giới là đức Thầy cao cả của các Thầy. Nếu ta ở đời
thì cũng không khác gì Tịnh Giới ấy”.
Ôi! Còn lời vàng ngọc quý giá nào hơn! Mong sao âm vang của lời
thức nhắc dặn dò ấy luôn mãi vang dội ngự trị trong lòng của mỗi người con Phật
và nhứt là đối với các giới tử lãnh thọ giới pháp hôm nay.
Từ Kinh Duy Ma Đến Pháp Hoa
Kinh Duy Ma thuộc hệ tư tưởng siêu việt của văn học Phật giáo
Đại Thừa. Cách trình bày kết cấu lập luận của kinh văn rất súc tích và rất có
nghệ thuật. Về mặt yếu lý, người đọc thật cũng không phải là dễ hiểu. Nếu người
đọc không có một trình độ kiến thức Phật học căn bản vững chắc. Nhất là đối với
những nguồn tư tưởng sâu sắc của các kinh điển Phật giáo Đại Thừa. Xét về thời
điểm xuất hiện, giữa kinh Duy Ma và kinh Pháp Hoa, ta thấy kinh Duy Ma chắc chắn
là ra đời trước kinh Pháp Hoa rất lâu. Bởi khi Phật nói kinh Pháp Hoa Ngài ở
trên núi Linh Thứu. Và lúc bấy giờ tuổi của Ngài cũng khá cao. Lý do, là vì
trong pháp hội Pháp Hoa có vua A xà thế. Như vậy, là A xà thế sau khi giết vua
cha là Bình Sa Vương rồi mới lên ngôi vua. Đó là điểm mà ta cần phải lưu ý về
thời điểm xuất hiện giữa hai kinh khác nhau.
Điểm đặc biệt, Kinh Duy Ma không phải do Phật nói, mà Phật chỉ
ấn chứng do các vị đệ tử thuật lại. Theo Hòa Thượng Nhất Hạnh cho rằng, kinh
Pháp Hoa được ghi chép thành văn tự phải ở vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai Dương
Lịch, mới được lưu truyền. Nghĩa là khoảng 700 năm sau khi Phật nhập diệt. “Hòa
Thượng nêu ra bằng chứng của sự xuất hiện ở vào thời điểm nầy là Thầy Long Thọ
sống vào cuối thế kỷ thứ hai, và Thầy đã dẫn kinh Pháp Hoa” (Sen nở trời
phương ngoại trang 1)
Đứng về phương diện lập trường của Kinh Duy Ma, theo nhận xét
của bác sĩ Kimura Taiken, một học giả Nhật Bản chuyên nghiên cứu về sử học Phật
giáo Ấn Độ cho rằng: “Lập trường Kinh Duy Ma, chủ yếu tuy lấy Bát Nhã làm bối cảnh
nhưng lại chỉ khẳng định tất cả về phương diện diệu hữu mà chủ trương “Không” về
mặt tiêu cực của Bát Nhã, đó là đặc chất của Kinh Duy Ma” (Đại Thừa Phật
Giáo Tư Tưởng Luận, Thích Quảng Độ dịch, trang 68).
Như vậy, kinh Duy Ma nhằm mục đích là phá chấp tư tưởng hạn hẹp
của hàng Nhị Thừa và phát huy nâng cao tư tưởng Phật giáo Đại thừa lên đến cực
điểm. Song có điều người ta thấy rằng, sự khiển trách đối với hàng Nhị Thừa của
Kinh Duy Ma, thật quá nặng lời, nếu không muốn nói là quá thiên trọng cực đoan.
Có người còn nghĩ xa hơn và cho rằng, Kinh Duy Ma như có vẻ kỳ thị với hàng Thanh
Văn. Bởi nhân vật chính của Kinh Duy Ma là một vị cư sĩ có gia đình. Dù ông là
một Trưởng Giả có địa vị giàu có lớn trong xã hội. Nhưng, ông lại hìện thân có
bịnh để nhằm quở trách các hàng Nhị thừa. Mà tiêu biểu đứng đầu là Tôn giả Xá lợi
phất. Ai cũng biết, ngài Xá lợi phất là một bậc trí huệ đệ nhất trong hàng
Thanh Văn. Thế mà ở đây, ngài lại bị cư sĩ Duy Ma Cật khiển trách nặng nề. Theo
lời thuật lại của ngài khi Phật sai ngài đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật. Ngài
nói: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? - Nhớ lại
trước kia, con từng ở trong rừng ngồi yên lặng (tọa thiền) dưới gốc cây, khi ấy
ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng: Thưa ngài Xá Lợi Phất! Bất tất ngồi sững đó mới
là ngồi yên lặng, vả chăng ngồi yên lặng là ở trong ba cõi mà không hiện thân
ý, mới là ngồi yên lặng; không khởi diệt tận định mà hiện các oai nghi mới là
ngồi yên lặng; không rời đạo pháp mà hiện các việc phàm phu, mới là ngồi yên lặng;
tâm không trụ trong cũng không ở ngoài mới là ngồi yên lặng; đối với các kiến
chấp không động mà tu ba mươi phẩm trợ đạo mới là ngồi yên lặng. Không đoạn phiền
não mà vào Niết bàn mới là ngồi yên lặng. Nếu ngồi được như thế là cỗ Phật ấn
khả (chứng nhận) vậy.
Bạch Thế Tôn, lúc ấy con nghe nói những lời đó rồi, im lặng
không trả lời đặng, nên con không dám đến thăm bịnh ông” (Kinh Duy Ma Cật,
Dịch Giả Thích Huệ Hưng trang 27 Phẩm Đệ Tử)
Đứng ở một góc độ nào đó, thì ta thấy lập trường của Kinh Duy
Ma rõ ràng là nhằm nâng cao địa vị của người cư sĩ tại gia. Phải chăng đó cũng
là để biểu dương cho tinh thần nhập thế của đạo Phật. Vẫn biết, Trưởng giả Duy
Ma Cật là hiện thân của Bồ Tát nhằm chuyển hóa tư tưởng của hàng Nhị Thừa và
phàm phu. Hầu để cho họ tiến lên Đại Thừa. Điều nầy, thiết nghĩ, không ai có thể
phủ nhận được.
Điểm lý thú giữa Kinh Duy Ma và Kinh Pháp Hoa, khi đối chiếu
ta thấy, kinh Duy Ma càng nặng lời khiển trách hàng Nhị Thừa bao nhiêu, thì đến
kinh Pháp Hoa lại càng nâng cao địa vị của hàng Nhị Thừa lên cao tột bấy nhiêu.
Phải nói, hệ tư tưởng trong Kinh Pháp Hoa là một hệ tư tưởng rộng mở bao dung
khoáng đạt không có kỳ thị như kinh Duy Ma. Điểm nầy ta thấy rất rõ ở Phẩm
Phương Tiện. Chính vì thế, nên nói Kinh Pháp Hoa là vua trong các Kinh. Nói
cách khác, Kinh Pháp Hoa đã đạt đến địa vị cao nhất trong các kinh điển Đại Thừa.
Về điểm nầy, ta thấy ở Phẩm thứ mười, đoạn cuối của phần kệ trùng tụng, Phật dạy
rằng:
Dược Vương, nay bảo ông
Các Kinh của ta nói
Mà ở trong Kinh đó
Pháp Hoa tột thứ nhất.
Có thể nói, Phẩm Phương Tiện của Kinh Pháp Hoa là nêu lên lập
trường căn bản của Kinh nầy. Ở Kinh Duy Ma Cật, ta thấy, địa vị của ngài Xá lợi
phất bị lu mờ, trái lại ở Kinh Pháp Hoa thì địa vị của ngài Xá lợi phất lại
sáng rỡ nổi bật.
Như vậy, Kinh Pháp Hoa quả thật đã mở rộng cánh cửa quy tam
thừa về Phật thừa. Thường gọi là quy tam hiển nhất. Chính đó là điểm siêu việt
đặc thù của Kinh Pháp Hoa. Bởi chính tư tưởng đó mà đã đưa kinh Pháp Hoa lên
ngôi vị độc tôn có khả năng dung nạp tất cả trong vườn hoa kinh điển Đại Thừa.
Như trăm sông đều chảy xuôi dòng về biển cả.
Nếu nhìn ở một góc độ khác, ta thấy Kinh Duy Ma như để uốn nắn
hun đúc tư tưởng cho hàng Nhị Thừa chuyển hướng lên Đại Thừa. Đó không phải là
cái nhìn kỳ thị như có người đã nghĩ. Mà đó chỉ là một sự dọn đường rất kỳ đặc
ngoạn mục của Kinh Duy Ma. Chính nhờ vào sự uốn nắn hun đúc đó mà sau nầy các
hàng Nhị Thừa đã được Phật khai hóa dễ dàng hơn. Như vậy, theo tôi, thì Kinh
Pháp Hoa chỉ là thừa hưởng cái đặc sản quý báo của Kinh Duy Ma và như đã dọn đường
sẵn trước mà thôi. Nói cách khác, Kinh Duy Ma chính như dốc hết công lực cày bừa
dọn đất sẵn, để đến Kinh Pháp Hoa dễ bề canh tác gieo hạt giống Đại Thừa một
cách rất dễ dàng. Do đó, mà ta thấy ở Kinh Pháp Hoa tất cả hàng Thanh Văn đều
được Phật thọ ký hết. Tất cả đều được Phật giáo hóa chuyển hướng lên Đại Thừa.
Đó là điểm đặc thù của Kinh Pháp Hoa mà các kinh điển khác không bao giờ có.
Nói tóm lại, từ Kinh Duy Ma đến Kinh Pháp Hoa, theo cái nhìn
của chúng tôi, thì giữa hai kinh tuy thời gian xuất hiện có khác nhau, nhưng đứng
trên lập trường chuyển hóa khai thông tư tưởng từ hệ tư tưởng hạn hẹp cố chấp của
hàng Nhị Thừa và phàm phu đến hệ tư tưởng rộng mở phóng khoáng bao dung tất cả
mọi căn cơ của Kinh Pháp Hoa về một mối, tức duy nhất chỉ có một Phật Thừa
không hai cũng không ba. Đó cũng còn là một hệ tư tưởng khéo dẫn dụ nhứt quán của
Phật giáo. Tuyệt đối, không có gì là mâu thuẫn chống trái nhau. Tất cả chỉ có một
con đường duy nhất, hướng dẫn mọi căn cơ, chủng tánh dị biệt của hết thảy chúng
sanh để đạt đến thành tựu viên mãn Phật quả mà thôi.
Một Cõi Đi Về - Khánh Ly (Trịnh Công Sơn) - YouTube
Phước Thái
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét