Vị trí và đóng góp của Lưu Trọng Lư
trong tiến trình văn học Việt Nam
Lưu Trọng Lư (1911-1991) xuất hiện ở giai
đoạn đầu của phong trào Thơ Mới. Ông sinh ra ở làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch,
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông tham gia văn đàn với nhiều thể loại: thi
ca, kịch bản văn học, phê bình, tiểu luận, truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút,
bút ký,… Những đóng góp trên nhiều địa hạt ấy đã khẳng định vị trí đặc biệt
quan trọng của Lưu Trọng Lư đối với tiến trình phát triển văn học nghệ thuật
của nước nhà.
Lâu nay nhắc tên tuổi ông thông thường hay
nhắc đến Tiếng thu, phải rồi, bởi Tiếng thu như
là khoảng trời riêng biệt, nó làm nên sự nghiệp nghệ thuật. Nhưng quả là không
cân bằng và trọn vẹn, nếu không nhắc tên ông cùng với các loại hình
khác, không kém phần quyết liệt trong cuộc đời sáng tạo kỳ vĩ và lạ lùng ấy. Về
thơ, Lưu Trọng Lư có những thi phẩm: Tiếng
thu (1939), Tỏa
sáng đôi bờ (1959), Người
con gái sông Gianh (1966), Từ đất này (1971). Về văn xuôi, Lưu
Trọng Lư cống hiến cả truyện ngắn, truyện vừa lẫn truyện dài, có thể kể một số
tác phẩm sau: Người sơn
nhân (1933), Những nét đan thanh (1934), Huyền
Không động (1935), Khói
lam chiều (1936), Cô Nguyệt (1937), Con
đười ươi (1938), Huế - một buổi chiều (1938), Một
người đau khổ (1939), Chạy loạn (1939), Cô
gái tân thời (1939), Một tháng với ma (1940), Sơn
nhân (1940), Chiếc
cáng xanh (1941), Cô Nhung (1941), Mẹ
con (1942), Em là gái trong khung cửa (1942), Dòng
họ (1943), Hổ với Mọi (1944), Chiến khu Thừa
Thiên (1952), Truyện cô Nhụy (1962), Mùa thu lớn (1978), Nửa đêm sực tỉnh (1989)…
Về sân khấu có: Nữ diễn
viên miền Nam, Cây thanh trà (kịch bản cải lương), Xuân Vỹ Dạ, Anh Trỗi (kịch
nói), Hồng Gấm (kịch
thơ, 1973), Tuổi hai mươi (kịch
thơ, 1974)… Mỗi lĩnh vực, Lưu Trọng Lư đều để lại những đóng góp to lớn đáng kể.
Như chúng ta biết, phong trào Thơ Mới lãng
mạn Việt Nam ra đời, một mặt đáp ứng được sự thay đổi của thi ca trong hành
trình đi lên của nó, mặt khác lại là mảnh đất để các nhà thơ có thể làm mới
mình, bộc lộ tiếng nói tự do của chính mình. Giai đoạn này, chủ nghĩa tượng
trưng (symbolisme) đã ảnh hưởng sâu sắc đến thi ca Pháp, nhưng đến những năm
1935-1945 nó mới thực sự ảnh hưởng đến các nhà Thơ Mới Việt Nam. Các nhà thơ
như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Huy Cận, Bích Khê… đều ít nhiều chịu
ảnh hưởng phong cách của Baudelaire.
Thơ Lưu Trọng Lư là mảng đóng góp lớn nhất
và gây ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người đọc. Giữ vai trò là nhà thơ tiên
phong trong phong trào Thơ Mới nhưng chất thơ của ông không Tây như
Xuân Diệu, không sầu vạn cổ như Huy Cận, không điên
cuồng như Hàn Mặc Tử… mà có sự đan quyện giữa cổ điển và hiện đại,
phương Đông và phương Tây, hay nói cách khác, thơ ông vừa có vẻ đẹp cổ điển vừa
có luồng gió của thời đại mới. Điều này làm nên cái tôi vừa rạo rực, tràn đầy
cảm xúc vừa u buồn, cô đơn. Đó là thế giới của cõi mộng, cõi chiêm bao. Đó là
tiếng lòng của một “thi sĩ đa tình và mơ mộng” (Vũ Ngọc Phan) “chỉ sống bằng
tưởng tượng” (Trương Tửu), “sống bằng nội tâm nhiều hơn ngoại giới” (Phan Cự
Đệ). Và “mộng, đó mới là quê hương của Lư” (Hoài Thanh, Hoài Chân). Trong các
tập thơ, tập Tiếng thu, tập thơ đầu tay thể hiện rõ nhất về cái tôi
trữ tình và phong cách thơ của Lưu Trọng Lư, đồng thời khẳng định dấu ấn của
ông đối với phong trào Thơ Mới.
Tuy trốn khỏi thế giới thực tại, bay vào
thế giới của vô thức, của giấc mộng mà kiếm tìm cái đẹp, thực hiện khát vọng
của mình nhưng âm hưởng chủ đạo của Thơ Mới vẫn là cái buồn, cái sầu. Có thể
nói, các nhà Thơ Mới đều biết cách tạo dựng cho lâu đài thơ của mình một thế
giới sầu riêng biệt, không ai giống ai. Lưu Trọng Lư đánh dấu con đường thơ đầu
tiên của mình bằng ba thanh âm: mộng, sầu, tình.
Con thuyền trong thơ
Lưu Trọng Lư là con thuyền sắp trẩy bến thần tiên, vượt qua ba
mươi sáu bến bồng bềnh, bơi trong cõi mộng lồng lộng. Người
ngồi trên con thuyền ấy là khách giang hồ, khách du ngoạn, người tráng sĩ… với
khát vọng thoát ly thực tại, giải phóng cái tôi, vươn đến chân trời tự do, kiếm
tìm, tận hưởng cái đẹp của thế giới bên kia. Từ điểm nhìn ấy, thế giới thực trở
nên mờ nhạt, thay vào đó là sự sống động, bồng bềnh, mê hoặc của thế giới nhiệm
màu. Thế giới lệch pha vẽ nên những bức tranh phi lôgic, huyền ảo, đa
nghĩa. Chúng là kết quả của sự xâm nhập “khu vực bí ẩn” (Mallarmé) (Hôm qua,
Giang hồ, Một chút tình, Tình điên, Còn chi nữa, Thuyền mộng, Im lặng, Chiếc
cáng điều, Thú đau thương, Mộng chiều về, Sứ giả…).
Bài thơ “Tiếng thu” làm
nên tên tuổi của Lưu Trọng Lư. Từ nhan đề cho đến các thi ảnh như: trăng
mờ thổn thức, hình ảnh kẻ chinh phu trong lòng người cô phụ, con
nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô đều được đặt trong thế khập
khểnh, kề cạnh nhưng không liên kết; trong sự huyền diệu, mờ nhòe của không
gian và thời gian:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
Sức ám ảnh của các thi ảnh này lại nằm ở sự
mờ ảo ấy. Sự mờ ảo là con đường chiếm lĩnh chiều sâu bản thể của mùa thu. Chỉ
có thể cảm nhận sự huyền hoặc, diệu vợi của mùa thu khi thả hồn trong hiện thực
thứ hai chứ không phải là hiện thực thứ nhất. Một “Tiếng thu”, lạ, đẹp nhưng
buồn, đầy mầu nhiệm, bí ẩn. Người ta đồn rằng, “Tiếng thu” được viết từ trên
quê hương ông. Cái rặng núi sau nhà và hình ảnh con nai vàng ngơ ngác đã làm
day dứt tâm cảm ấp ủ như men tình của ông. Cho nên, “Tiếng thu” cũng chính là
tiếng lòng quê hương của ông vậy. Và cũng là đóng góp lớn lao cho mảnh đất quê
nhà của thi sĩ.
Nửa đời phiêu lãng với con thuyền mơ, ghé bến Ngân - sơn,
bến Trúc - lang, nơi nghìn trùng man mác nhưng thi sĩ vẫn chưa
thỏa mộng giang hồ, máu du tử: thuyền ơi, neo
chưa buồn cắm. Trốn vào cõi mộng nhưng mộng không bền. Vì vậy, nhà thơ
không ít lần nhắc đến tình cảnh: Giật mình ta thấy bồ hôi lạnh/ Mộng
đẹp bên chăn đã biến rồi! (Hôm qua); Lúc mộng nhìn nhau cười
ngặt nghẽo/ Mộng tan, trên gối lệ hoen rơi (Mộng chiều về)… Khi chập
chờn, chông chênh giữa hai tình cảnh thực và mộng ấy, chúng ta nhận ra, bên
cạnh người - thơ không chút vướng bận, tự do say đắm với chốn hư ảo là người -
thơ sẵn sàng lịm người trong thú đau thương, đối chất, bộc bạch nỗi
u sầu của mình. Nỗi sầu bàng bạc, ngấm vào từng thi ảnh, từng giai điệu: mắt
sầu gợn sóng, sầu biêng biếc, ôm mối sầu vô hạn, sầu
tràn khắp cỏ cây, ngày một thêm sầu, mối sầu u,... Tâm
trạng sầu là tâm trạng chung, thường trực của cái tôi lãng mạn trong Thơ Mới
lúc bấy giờ. Nhưng cái sầu của Lưu Trọng Lư không lẫn vào ai được: Đã
héo lắm nụ cười trong mộng/ Đã mờ mờ lắm bóng thân yêu/ Đã lam tím cả cánh
chiều/ Trong hồn lặng đã hiu hiu mộng tàn (Thú đau thương). Mộng tàn.
Đau thương. Nhưng với Lưu Trọng Lư, ông vẫn xem những cảm xúc ấy là thú.
Cách viết này vừa lạ nhưng đồng thời vừa khẳng định bản ngã của nhà thơ. Sẵn
sàng đớn đau, xin để gối nằm yên chỗ cũ thỏa cơn mộng cái
giống giang hồ. Đây chính là cách nhà thơ nới rộng cái sầu và làm nên điệu
thơ sầu, riêng, mới cho thi ca của mình. Mặt khác, nhà thơ sầu nhưng
không hoàn toàn bi quan, chán nản, tuyệt vọng, bế tắc, bởi, ẩn chứa bên trong
cái sầu ấy còn là cái tình chân thành, giàu lòng trắc ẩn, yêu thiên nhiên và
rất đỗi tha thiết với cuộc sống của thi sĩ.
Giây phút tỉnh mộng hé mở cái buồn sầu của
thi sĩ nhưng cũng hé mở một tâm - thơ nhạy cảm, tinh tế, nhân ái: Nỗi nhớ mẹ
khôn nguôi (Nắng mới); Sự chia sẻ, cảm thông trước nỗi niềm của người con gái
khi lấy chồng xa (Chị em); Những trăn trở, day dứt, băn khoăn trước những mảnh
đời bất hạnh (Hoa bên đường); Lòng yêu thiên nhiên (Núi xa); Trân trọng những
giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc (Chiếc cáng điều); Say đắm với tình yêu
(Đôi mắt)…
Men theo mộng, sầu, tình, người
đọc nắm bắt được thế giới tâm hồn của thi sĩ cũng như quan niệm về thi ca của
ông, khác hẳn với quan niệm thi ca của văn học trung đại. Với ông, cái đẹp bắt
nguồn, gắn bó với cuộc sống trần thế, nhưng nhà thơ phải biết tạo cái đẹp, kiếm
tìm cái đẹp để tránh sự nhàm chán, rập khuôn trong sáng tạo. Việc nhà thơ mở
rộng biên độ cái đẹp, đắm chìm với cái đẹp trong cõi mộng, trong vẻ đẹp “vang
bóng một thời” của văn hóa cổ truyền của dân tộc cũng là cách làm mới, cách
tân, thoát khỏi sự mòn chán. Như vậy, văn học nghệ thuật luôn song hành với cái
đẹp. Nhưng theo Lưu Trọng Lư, cái đẹp đâu chỉ ở nội dung mà còn đẹp ở hình thức
thể hiện. Ngôn từ được nhà thơ lạ hóa bằng cách lắp ghép một cách ngẫu hứng,
đầy bất ngờ nhưng vẫn gắn với thiết chế của nội cảm để tạo dựng một trường thi
ảnh mang màu sắc tượng trưng. Ảnh hưởng Verlaine, Lưu Trọng Lư rất chú trọng
đến nhạc điệu trong thơ. Ông quan tâm, hòa phối nhịp dài, nhịp ngắn, vần, cách
ngắt nhịp… với mạch tâm trạng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Điều này đã được
Nguyễn Văn Long khẳng định trong “Từ điển văn học”: “Thơ Lưu Trọng Lư giàu nhạc
điệu tự nhiên và gần gũi với điệu thơ truyền thống” (1; tr.904). Tuy nhiên,
trước năm 1945, thơ Lưu Trọng Lư vẫn là “một thứ nhạc điệu mơ màng và buồn xa
vắng” (2; tr.212). Kiều Thanh Quế khi viết “Thi sĩ Lưu Trọng Lư với ‘Tiếng
thu’” có nhấn mạnh: “Đừng ai cố tìm tư tưởng trong thơ Lưu Trọng Lư. Vì vô ích.
Lưu Trọng Lư bao giờ cũng chỉ biết chú trọng có âm thanh và nhạc điệu” (3;
tr.196).
Nếu trước Cách mạng tháng Tám, thơ Lưu
Trọng Lư có sự tương giao, tương ứng giữa thực - phi thực, quen - lạ, cổ điển -
hiện đại, quá khứ - hiện tại..., từ âm thanh, màu sắc, ngôn từ... cho đến thi
ảnh trong thơ Lưu Trọng Lư đều bị ảnh hưởng bởi sự mờ nhòe, hư hư thực thực thì
sau Cách mạng, thơ ông hướng đến vẻ đẹp khác - vẻ đẹp của những con người thầm
lặng hi sinh cho đất nước ở Trường Sơn, Cự Nẫm, Quảng Trị, Huế,... và chạy dọc
cả miền Trung - nơi quê hương đau khổ và thân thiết... lần lượt đi vào thơ
ông: Thổ Ngọa hay Thuận Bài/ Minh Cầm hay Cảnh Hóa?/ Những người con
gái đẹp của nhân dân/ Đến đây như những vị thiên thần/ Lại ra đi một vết lông
ngan, không gửi lại/ Áo cũ rồi, anh còn mặc đấy/ Miếng vá đây còn nguyên mũi
chỉ đường kim/ Của tuổi thơ mười bảy mười lăm (Người con gái sông
Gianh). Nhà thơ còn ca ngợi vẻ đẹp của bà mẹ anh hùng ở Hàm Rồng: Một
núi bom tan, một mẹ ngồi/ Tay bưng bát nước miệng đưa mời/ Ráng chiều đỏ ối cầu
sông Mã/ Pháo thủ bài ca vút tận trời (Mẫu nhật ký về Hàm Rồng); cảm
thông, chia sẻ với công việc thầm lặng của người nữ y sĩ ở Trường Sơn: Nhưng...
đá Trường Sơn/ Lòng em không quen hát thành lời/ Nhưng... nắng Trường Sơn/
Tiếng em cười không quen ríu rít đôi môi/ Mặt em xanh, lẫn đi trong tàu lá/ Mà
đôi mắt em như sao sáng giữa rừng đêm (Lặng thầm).
Sinh ra và lớn lên ở Quảng Bình, qua những cuộc trở về thăm làng, thăm quê, người đọc có thể cảm nhận những trăn trở của tác giả trước cảnh quê hương bị dày xéo: Bom Mỹ cày xới/ Từ xóm Mít đến xóm phà Gianh/ Từ xóm Côi đến xóm Dưới/ Không một cành, không một bụi/ Nhà tranh, nhà ngói/ Hết thảy san bằng/ Đứng ở đầu làng/ Nhìn đến cuối làng không thấy…/ Hàng thông trên núi cũng cụt hết đầu/ Người không chỗ núp/ Chim không chỗ trú/ Mò hỏ, mò ho/ Mày bay đâu rồi?/ Chèo bà, chèo bẻo/ Mày khuất nơi nao?/ Vành khuyên, chúc mào, cu cườm, cu đất/ Bao giờ về lại những đường bay?/ Làng tôi không chim hót/ Đâu còn làng tôi… (Làng tôi).
Sinh ra và lớn lên ở Quảng Bình, qua những cuộc trở về thăm làng, thăm quê, người đọc có thể cảm nhận những trăn trở của tác giả trước cảnh quê hương bị dày xéo: Bom Mỹ cày xới/ Từ xóm Mít đến xóm phà Gianh/ Từ xóm Côi đến xóm Dưới/ Không một cành, không một bụi/ Nhà tranh, nhà ngói/ Hết thảy san bằng/ Đứng ở đầu làng/ Nhìn đến cuối làng không thấy…/ Hàng thông trên núi cũng cụt hết đầu/ Người không chỗ núp/ Chim không chỗ trú/ Mò hỏ, mò ho/ Mày bay đâu rồi?/ Chèo bà, chèo bẻo/ Mày khuất nơi nao?/ Vành khuyên, chúc mào, cu cườm, cu đất/ Bao giờ về lại những đường bay?/ Làng tôi không chim hót/ Đâu còn làng tôi… (Làng tôi).
Giai đoạn làm nên tên tuổi, khẳng định
những đóng góp về quan niệm cái đẹp trong sáng tạo nghệ thuật, cách tân hình
thức thi ca của ông vẫn là giai đoạn trước năm 1945. Rất nhiều ý kiến đánh giá,
khẳng định về vị trí của Lưu Trọng Lư trong phong trào Thơ Mới: “Lưu Trọng Lư
là người đầu tiên, có công đầu, lại lên tiếng tấn công liên tục, không chỉ bằng
lí luận có tình có lý (bác cái cũ đã lỗi thời, ca ngợi cái mới) mà quan trọng
hơn là bằng cả một thực tế sáng tác phong phú, và từng bước đã có những thành
công vững chắc, có lúc rạng rỡ” (4; tr.171). Ngô Văn Phú còn xem ông là “chiến
tướng trong phong trào Thơ Mới”... Sau Cách mạng, thơ Lưu Trọng Lư gần với hiện
thực cuộc sống hơn, thể hiện rõ ý thức trách nhiệm, lòng nhiệt thành của nhà
thơ trước vận mệnh của nhân dân, của dân tộc, của quê nhà. Tuy có sự khác biệt
giữa hai mảng thơ trước và sau 1945, nhưng có thể nói, ở giai đoạn nào, thơ của
Lưu Trọng Lư vẫn hướng đến cái đẹp. Cái đẹp là nhân tố quan trọng, thiết yếu
của văn học nghệ thuật. Mỗi cách tiếp cận cái đẹp trong thơ Lưu Trọng Lư đều
góp phần nhấn mạnh, khẳng định sức sáng tạo bền bỉ, không hề mệt mỏi của ông.
Không chỉ năng nổ,
nhiệt tình trong thơ ca, Lưu Trọng Lư còn năng nổ trong lĩnh vực văn xuôi. Khối
lượng tác phẩm văn xuôi mà ông để lại khá đồ sộ. Đề tài, ý tưởng, giọng điệu,
kết cấu, nhân vật,… trong các tác phẩm văn xuôi của Lưu Trọng Lư đa phần mang
đậm dấu ấn của một phong cách lãng mạn, mộng mơ nhưng nồng đượm tình cảm. Đặc
biệt, tập truyện Người
sơn nhân (gồm 3 truyện ngắn, một bài thơ mới và một bài tiểu
luận “Một cuộc cải cách về thi ca”) được đánh giá khá cao. Phan Khôi
cũng không ngần ngại khi xem đó là “tác phẩm mở đầu cho cõi tư tưởng của văn
nghệ mới”.
Từng sống, học tập ở Huế, Hà Nội, thiên
nhiên và cuộc sống con người nơi đây đã đi vào tác phẩm một cách tinh tế, tình
cảm (Huế - một buổi chiều; Gió cây trút lá; Em là gái trong khung cửa…). Phong
tục, tập quán, lịch sử, văn hóa của vùng đất “gió lào cát trắng”, khắc nghiệt,
nơi sinh thành của Lưu Trọng Lư, cũng được thể hiện qua một số tác phẩm
như: Cầu sương điếm cỏ, Bến cũ, Chiếc cáng xanh, Cô bé hái dâu, Con voi
già của vua Hàm Nghi… Trong đó, Khói lam chiều là tác phẩm
thể hiện rõ tình cảm, sự cảm thông của tác giả trước thân phận của những người
lao động cơ cực, nghèo đói và những tập tục, quan niệm, lối sống của người miền
Trung. Mối tình không đơm hoa kết trái giữa thằng Đối và con Vịnh, rồi cái chết
của thằng Đối khi nghe tin con Vịnh có mang, bị đưa ra chợ làm nhục chính là hệ
quả của những tập tục cổ hủ, lạc hậu của xã hội lúc bấy giờ. Trong Cầu
sương điếm cỏ, hình ảnh chiếc thuyền nan trôi trên dòng lũ của bác hai
Thìn; hình ảnh cái Bẹ, cu Tỵ bơ vơ, chồng chềnh trên chiếc chõng tre, bắt đầu
những ngày tháng cơ cực, đi ở mướn, lang thang bắt con nhèm giữa những miếng
hàu sắc nhọn để kiếm sống… như tái hiện những khó khăn, vất vả của người miền
Trung sau những trận lũ lớn.
Đánh giá về phong cách văn xuôi trước 1945
của Lưu Trọng Lư, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân nhận định: “Tóm lại, theo tôi,
lãng mạn là nét phong cách khá nổi bật ở văn xuôi tự sự trước 1945 của Lưu
Trọng Lư. Tất nhiên điều này không ngăn cản việc ở phần sáng tác này của ông,
ta còn có thể tìm thấy những minh chứng về sự tố cáo những biểu hiện phi nhân
tính, phản xã hội ở cuộc sống đương thời - tức là những thuộc tính thường vẫn
được gắn cho văn chương “tả thực phê phán”. Lại cũng có thể tìm thấy ở mảng
sáng tác này của ông những trường đoạn, thậm chí gần như nguyên vẹn cả một tác
phẩm cho thấy những tập tục sinh hoạt của cư dân Việt, từ tục phạt vạ gái chửa
hoang (Khói lam chiều)
đến tục chặn đường đám đón dâu để xin “cheo” (Chiếc cáng xanh), hoặc những quan hệ dòng tộc
theo phụ hệ giành ưu thắng trong gia tộc (Dòng
họ),… nhưng cũng không dễ để có thể coi Lưu Trọng Lư như nhà văn
phong tục” (5). Giáo sư Phong Lê lại chỉ ra những cái được và chưa được của
Lưu Trọng Lư: “Nếu những truyện tình và truyện hoang đường của Lưu Trọng Lư
không gây được nhiều sự chú ý, và thật sự là không mới trong so sánh với các
tác giả khác cùng thời như Khái Hưng, Nhất Linh; như Thế Lữ, Thanh Tịnh thì
những truyện viết về một thời quá vãng, dựa trên hồi ức của bản thân, về tuổi
thơ với người thân và nhất là về người mẹ qua đời quá sớm lại có nhiều trang
hay và cảm động như trong Chiếc
cáng xanh (1941)… Tình mẹ, rõ ràng là một nguồn cảm xúc trữ
tình rất lớn cho thơ, đúng như tác giả viết trong Chiếc cáng xanh: “Cái chết
của mẹ là cái chết của tất cả những điều êm ái, ngọt ngào nhất ở trong đời
chúng ta”; nhưng thơ hay về mẹ kể từ thời Thơ Mới cho đến nay theo tôi vẫn là
chưa đủ” (6). Như thế, dù viết về cuộc sống và con người ở vùng đất nào, ở mảng
truyền thuyết, dã sử, thần kì, ma quái,… nào, Lưu Trọng Lư cũng đều gửi gắm cái
tình chân thành, niềm khát khao chiếm lĩnh cái đẹp của ông.
Ở lĩnh vực phê bình, Lưu Trọng Lư tham gia
tranh luận về nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh, đấu tranh
kịch liệt với thơ cũ, cổ vũ thơ mới, bênh vực thơ mới, tranh luận về truyện
Kiều, tranh luận về thơ văn Nguyễn Công Trứ,... Lưu Trọng Lư ủng hộ "một
cuộc cải cách về thi ca" và chỉ ra những nguyên nhân cần phải thay đổi.
Trong một bức thư gửi cho Phan Khôi (Phụ Nữ Tân Văn đăng số 153 đầu tháng 6 năm
1932), ông bày tỏ: "Nếu cứ phải uốn nắn theo khuôn khổ chật hẹp, như hiện
tình thi ca nước nhà, thì họ phải thất vọng biết dường nào! Vậy ta còn ngần ngừ
gì nữa, mà không mở rộng cái "lãnh thổ" kia ra, để mặc sức cho họ đem
những cái thiên tài phú bẩm ra mà đua bơi vùng vẫy. Làm vậy, hoặc giả có kẻ
hoài nghi mà bảo rằng: "Phóng túng buông lung quá rồi thành ra lộn xộn,
mất cả nề thơ". Trong cái lúc quá độ, ắt phải như thế, có buông lung, có
phóng túng mới có thể phát triển hết những cái rất hay, rất quí, rất đẹp trong
mình, tuy có nhiều lộn xộn, nhưng một ngày kia thành thục rồi, sẽ trở vào trong
những cái nguyên tắc lề lối, rộng rãi hơn, tự do hơn". Theo ông, Thơ Mới
ra đời là một quy luật tất yếu, cần thiết. Chỉ có ở Thơ Mới, người nghệ sĩ mới
được tự do bộc lộ những thành thật của cảm xúc, của tâm hồn. Những bài tranh
luận nhiệt huyết, sôi nổi đó của Lưu Trọng Lư được in trong cuốn “Văn chương và
Hành động”, Nxb Phương Đông, 1936 (Nxb Hội Nhà văn in lại năm 1999), (in chung
với Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều) đã thể hiện một cây bút lý luận đầy bản lĩnh,
dũng khí và giàu sức thuyết phục.
Bên cạnh đó, Lưu Trọng Lư còn biết đến với
tư cách là nhà soạn kịch. Đề tài của kịch cũng khá phong phú: về tình cảm gia
đình, về tình yêu, về lịch sử,... Vở Hồng gấm và Tuổi
hai mươi tuy còn có nhiều hạn chế, thiên về “hoạt cảnh thơ hơn là một
vở kịch” (Nguyễn Văn Long) nhưng vẫn gây xúc động với người đọc về hình tượng
người nữ anh hùng miền Nam; đến vở Bình minh Anh vũ, Lưu Trọng
Lư đã thoát ra khỏi nhược điểm ấy. Đấu tranh cho tình yêu, hạnh
phúc, vở Bình minh Anh vũ “được xây dựng khá quy mô với ba
hồi, mười hai cảnh. Chất thơ và tính kịch đã có sự hòa hợp, bổ sung cho nhau.
Hành động kịch được phát triển theo một tuyến khá nhất quán, tâm lí nhân vật ít
nhiều đã được soi rọi, tuy vậy cũng còn một số cảnh hơi dài dòng, dàn trải,
những đối thoại chưa được chọn lọc và còn đăng đối quá” (7; tr.257). Trong hai
mảng kịch nói và kịch thơ, kịch thơ có sức hấp dẫn hơn, phù hợp với giọng điệu
trữ tình lãng mạn của Lưu Trọng Lư, tuy chưa để lại dấu ấn bằng thơ và văn xuôi
cả về số lượng lẫn chất lượng song ít nhiều đã giúp người đọc có cái nhìn bao
quát hơn về sự nghiệp sáng tác và những cống hiến của Lưu Trọng Lư, mà lâu nay
ta thường lãng tránh hoặc vô tình bỏ quên.
Như thế, sự cống hiến phong phú và đa dạng
trong sáng tác của Lưu Trọng Lư chưa được nhìn nhận đúng mức, hợp lý. Hay
nói như nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân: “…Nhưng điều đáng nói hơn lại là sự tắc
trách của nền nghiên cứu và nền xuất bản của ta. Đối với tên tuổi Lưu Trọng Lư,
mọi quan tâm của chúng ta chỉ dừng lại ở sáng tác thơ, thậm chí chỉ dừng lại ở
một bài Tiếng Thu! Chính sự lười nhác, tắc tránh của các giới
nghiên cứu và xuất bản đã khiến nhiều tác phẩm bị rơi vào quên lãng một cách
oan uổng” (8). Sự kiện Lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ, nhà soạn kịch Lưu
Trọng Lư do Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nghệ sỹ sân khấu Việt Nam cùng việc trao
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật mang tên Lưu Trọng Lư lần thứ tư do UBND tỉnh,
Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình và gia đình nhà thơ đồng tổ chức tại Hà Nội
(vào ngày 15/6/2011 và tháng 12/2011); sự ra đời của ba bộ sách “Lưu Trọng Lư -
tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết”, do Lại Nguyên Ân và Hoàng Minh sưu tầm,
biên soạn, Nxb Lao Động và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2011; “Bài ca
tự tình”, Nxb Hội Nhà văn, 2011, tuyển chọn những bài thơ chưa từng công bố của
Lưu Trọng Lư đã “giải oan” và khôi phục những đóng góp của một thi sĩ, một nhà
văn, nhà lý luận đa tài - Lưu Trọng Lư.
Những cảm xúc tinh tế, giàu tính nhân văn
cùng với lòng nhiệt thành đã góp phần khẳng định vai trò kiện tướng không chỉ
trong phong trào Thơ Mới, mà còn khẳng định tiếng nói của một nhà thơ lớn, vị
trí quan trọng của một nhà văn, nhà phê bình sắc sảo, nhạy cảm, khách quan, đối
với sự phát triển văn học nghệ thuật Quảng Bình nói riêng và Việt Nam nói chung.
"Người có tài lao động, thiên tài sáng
tạo" (Robert Schumann). Lưu Trọng Lư là một thiên tài như thế. Bên cạnh
những yếu tố thiên bẩm, dường như cái vị mặn mòi của biển, cái bỏng rát của gió
Lào, cái bất ngờ của cơn đại hồng thủy,... cũng là một trong những nhân tố hun
đúc nên khí chất, tâm hồn của một thi sĩ không ngừng "gom nhặt cái đẹp cho
đời". Vì thế, những gì ông viết không chỉ tôn vinh cuộc sống, con
người, nền văn học nghệ thuật Quảng Bình, chứng minh được tiềm năng, sức sống
của vùng đất “địa linh nhân kiệt”, nơi sinh nở những tài năng lớn như: Dương
Văn An, Thượng Đẳng thần Nguyễn Hữu Cảnh, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Xuân
Sanh... mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của văn học dân tộc. Với những
đóng góp, cống hiến ấy, ông xứng đáng được tôn vinh là danh nhân văn hóa của
dân tộc.
Tài liệu tham khảo:
Tài liệu tham khảo:
1. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá
(chủ biên), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, 2004.
2. Huy Cận - Hà Minh Đức (chủ biên), Nhìn lại một cuộc cách mạng
trong thi ca, Nxb Giáo dục, 1997.
3. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn (sưu tầm, biên soạn), Tạp
chí Tri Tân (1941-1945) - Phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1999.
4. Lê Thị Đức Hạnh, Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999.
5. Lại Nguyên Ân, "Văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư: những
ghi nhận và đánh giá trái ngược", http://www.vanvn.net/news.
6. Phong Lê, "Lưu Trọng Lư - người viết văn
xuôi", vanvn.net/news.
7. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam trong thời đại mới,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.
8. Lại Nguyên Ân, "Đọc lại một thiên truyện Lưu Trọng Lư
về lũ lụt miền Trung", http://vanhoanghean.vn.
9. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học,
2006.
10. Huy Cận - Hà Minh Đức (chủ biên), Nhìn lại một cuộc cách
mạng trong thi ca, Nxb Giáo dục, 1997.
11. Hoàng Vũ Thuật, Hữu Phương, Hoàng Bình Trọng (tuyển chọn),
Nhà văn Việt Nam hiện đại Quảng Bình, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Bình
xuất bản, 2001.
12. Nguyễn Đức Nam (chủ biên), Thơ Việt Nam 1945-1985, Nxb
Giáo dục, 1985.
13. Lại Nguyên Ân (tập hợp và biên tập), Thơ Mới 1932-1945:
tác giả và tác phẩm, Nxb Hội Nhà văn, 2004.
14. Lưu Trọng Lư, Từ đất này, Nxb Văn học, Hà Nội, 1971.
15. Lưu Trọng Lư, Tiếng thu, Nxb Thông tin, 1991.
16. Lưu Trọng Lư, Người con
gái sông Gianh, Nxb Văn học, Hà Nội, 1996.
HOÀNG THỤY ANH
Nguồn: Tạp chí Nhật Lệ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét