Có một nhà thơ xứ Nghệ
Trong một cuộc hội thảo về cuốn “Thi nhân Việt Nam” khi nhắc
đến Quỳnh Dao, nhà nghiên cứu văn học lão thành Nguyễn Đình Chú có cho rằng
“… sự tiếc nuối tăng lên nhiều lần bởi sự thiếu vắng khuôn mặt thi nhân Quỳnh
Dao bên cạnh ba nhà thơ cùng quê hương Xuân Diệu, Huy Cận, Thái Can
trong công trình rất sáng giá “Thi nhân VIỆT NAM”- một công trình mà có người
đánh giá là cuốn sách của thế kỷ…” (Hội thảo 50 năm xuất bản
“Thi nhân Việt Nam”- Hà Nội 1992).
Tại sao Nguyễn Đình Chú cũng như nhiều người yêu thơ khác khi
nói đên Quỳnh Dao lại có một sự luyến tiếc như vậy?
Nhiều trường phái thơ xuất hiện vào khoảng những năm 30-45
thường được biết đên với các tên tuổi đã thành danh: Trường thơ Loạn Bình Định,
Nhóm Dạ đài, Nhóm Xuân thu nhã tập… và rất nhiều thi sĩ tuy không thành nhóm
nhưng cũng tập hợp một cách không tự giác và thường được nói đến trong một liên
danh như các nhà thơ Xứ Huế, các nhà thơ Lục Tỉnh, các nhà thơ Xứ
Nghệ… Trong “Thi nhân VIỆT NAM”, các ông Hoài
Thanh, Hoài Chân có tuyển chọn và đánh giá cao ba nhà thơ xứ Hồng Lĩnh (Hà
Tĩnh) là Huy Cận, Xuân Diệu, Thái Can. Hai thi sĩ đầu là hai ngôi sao của
làng Thơ Mới, còn người thứ ba không là “sao” nhưng cũng thường được biết đến
như một tài năng hứa hẹn với nhiều bài ngũ ngôn độc đáo về quê kiểng. Thực ra còn một nhà thơ khác nữa mà nhiều thi phẩm cũng khá thành
công gây nhiều ấn tượng cho độc giả đương thời nhưng thiếu vắng
trong công trình của hai ông, đó là Quỳnh Dao, một tài
thơ trẻ độc đáo.
Quỳnh Dao (1918-1947) tên thật là Đinh Nho Diệm
quê ở xã Gôi Mỹ, huyện Hương Sơn, một vùng đất nổi tiếng khoa bảng tỉnh Hà Tỉnh.
Bố là một nhà nho yêu nước mẹ là một cô gái xứ Huế, con một vị đốc học chuyên
trông coi việc giáo dục ở kinh đô. QUỲNH DAO được gia đình nuôi ăn học chu đáo,
hứa hẹn một tương lai viên hạnh. Quá khứ từng cho ta thấy nhiều sự kết hợp huyết
thống đẹp đẽ sản sinh nhiều nhân tài như sự kết hợp dòng tộc quê mẹ
vùng Bắc Ninh trữ tình với quê cha vùng Nghi Xuân kiêu dũng
đã sản sinh một thi hào lớn là Tố Như, gần hơn dòng màu
ông đồ nho cần mẫn xứ Nghệ hòa hợp dòng máu người phụ nữ hiền thục Quy Nhơn cho ta một Xuân Diệu lừng danh. Có thể chăng sự hòa
hợp dòng máu Hương Sơn nghĩa khí, thông minh với xứ Huế mộng mơ sẽ
nuôi dưỡng một hồn thơ thành nổi tiếng nếu số phận không mang ông về thế giới
bên kia quá sớm? Bút danh Quỳnh Dao phần nào nói lên
hoài bão của chàng thi sĩ trẻ.
Nhà thơ mang dòng máu hai miền nhưng sống nhiều ở cố
đô, và mảnh đất xứ Huế nuôi dưỡng trong ông nhiều tình cảm sâu đậm
mà sau này ông mang vào trong các thi phẩm của mình. Chỉ trong khoảng
1938-1941, chàng thi sĩ tuổi vừa đôi mươi đã cho ra mắt bạn đọc các tập thơ
“Tơ trắng”, “Dưới cầu Giang Tô”, và rất nhiều bài thơ lẻ khác đăng trên các báo
rất được bạn trẻ ưa chuộng như Tiếng chuông chiều, Bài thơ Huế, Mối duyên hải hồ,
Cả một buổi chiều, Hơi sương… Ngoài thơ tình ông còn viết một số bài thơ thế sự
khác như Vịnh quan về hưu, Lính Tây mộ, Thăm cụ Phan Sào Nam… và một số truyện
ký. Không phải bổng nhiên mà Lê Tràng Kiều một cây bút khá nổi đương thời,
nguyên chủ bút “Tiểu thuyêt thứ năm”, đã không quên tên
ông khi nhắc đến các thi sĩ tài danh một thời như Anh Thơ, Thanh Tịnh,
Yến Lan Phạm Huy Thông, Lưu trọng Lư…: “Những vần mơ màng của Quỳnh Dao, nhẹ
nhàng của Anh Thơ, những vần trong sáng của Đỗ Huy Nhiệm, những vần diễm ảo của
Thanh Tịnh, những vần thành thực, tha thiết của Lê Anh Xuyên, những
vần đầy mộng ảo và âm nhạc của Yến Lan, và những vần đặc
biệt của TCHYA, Phạm Huy Thông, Lưu Trọng Lư…”
Thế tại sao ông không vào được cặp mắt xanh của các tác giả
“THI NHÂN VIỆT NAM” để rồi sau đó tên tuổi chìm dần theo thời
gian tạo một luyến tiếc cho đời sau? Phải chăng vì khi hai ông Hoài Thanh, Hoài
Chân xuất bản THI NHÂN VIỆT NAM trong tay chưa có nhiều thi phẩm của
Quỳnh Dao, hay nghệ thuật thơ ông không hợp “gu” hai tác giả? Hoặc giả các vị
thấy miệt Hồng Lĩnh có quá nhiều thi nhân trong tập sảch nên không muốn đưa
thêm vào một tên tuổi còn quá mới! Chỉ có thể nghĩ rằng có lẽ so với các tác giả
nổi tiếng đương thời, Quỳnh Dao chưa có các bài “đỉnh” gây ấn tượng mạnh cho các
ông như kiểu Tiếng thu - Lưu Trọng Lư, Bức tranh quê - Anh Thơ, Làng tôi - Tế
Hanh, Ông đồ - Vũ Đình Liên, Hổ nhớ rừng - Thế Lữ…
Một điều an ủi là dẫu không có tên trong THI
NHÂN VIỆT NAM xuất bản năm 1942 nhưng trước đó và mãi sau
này thơ ông vẫn được nhiều người mến mộ trong đó có những tác giả đã
nổi tiếng. Nữ sĩ Anh Thơ trong hồi ký của mình đã viết về Quỳnh
Dao với những dòng cảm phục: “Tôi thật sự kính phục anh về nhân
cách và lòng tận tụy với văn học nghệ thuật, cảm mến anh về thái độ chân thành,
cởi mở và tế nhị với đồng sự và bạn bè”. (Nhiều tác giả - Văn phẩm Quỳnh Dao -
NXB Thanh Niên Hà Nội 1992).
Cũng như các nhà thơ đồng trang lứa lúc bấy giờ, thơ của họ
là tiếng nói của lòng ham sống một cuộc sống trong sạch không chạy theo những
cám dỗ vật chất mà xã hội đương thời đang giăng bẩy, đang muốn lôi
kéo thanh niên đi vào. Đó là tiếng nói của cái tôi cá nhân thấy mình có trí tuệ,
có nhân cách, có quyền vui sống. Với họ vũ trụ, đất trời, thiên nhiên rất
tươi đẹp, đẹp ở sự tươi nguyên mới mẻ, trẻ trung: “Sớm hôm nay lòng
ta như tủ áo, mới tinh khôi là lượt xếp từng đôi”. (Huy Cận). Cuộc đời với bao
hy vọng đang đón chào. Các thi phẩm của Quỳnh Dao tô đậm thêm
cái sự mơ mộng ham sống, dồi dào tình yêu với cái đẹp, những câu
thơ vừa giàu chất tạo hình vừa thấm đẫm những cảm xúc tuơi mát hồn
nhiên, bây giờ đọc lại ta vẫn không khỏi xúc động:
Cả một chiều say trào cát bụi/ Lá vàng bay liệng
mãi trong sân
Trời ơi làn gió vô duyên lạ/ Thiếu nữ hai tay giữ
lấy quần.
(Vài ba con hạc về tiên động/ Lộ cái thân ngà ngược
gió mưa)
Những nét điên cuồng trên áo lụa/ Đương đòi cắt nghĩa ý da tơ.
Nước mưa như luyến mùi son phấn/ Chưa ráo thêm
duyên cặp má hường
Ta tưởng hồn đi trên xứ lạ/ Hàng
ngàn ý nghĩ lạc trong hương.
(Tơ trắng - 1939)
Chàng thanh niên 21 tuổi với những cảm xúc chân thực của
mình khi ngắm những cô nữ sinh trường Đồng Khánh đi học về
gặp mưa ướt như “hạc”... Thơ chân thành dể hiểu, lay động
người đọc vì cải cảm xúc chân thành hồn nhiên hơi nhục thể nhưng vẫn trắng
trong! Cảnh và người xứ Huế hiện lên trong các thi phẩm Quỳnh Dao
quả thật rất thơ, rất mộng, con mắt chàng thi sĩ đa tình đã phát hiện nét đẹp
riêng của các cô gái Huế quý phái, tươi vui mà dân giã lại rất gần gũi với
thiên nhiên sông nước: “Một hàng tôn nữ cười trong nón/ Sông mở
lòng ra đón bóng yêu.”
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ông gần gũi, toả
lan chầm chậm đi vào hồn ta như một tình cảm quen thuộc muôn thuở,
khơi gợi ở ta tình quê hương đất nước mặn nồng.Đó là một thiên nhiên không có
cái sự ồn ào cuồng nhiệt như ở Xuân Diệu, cổ kính như Huy Cận, hoang dã như Thế
Lữ, Lưu Trọng Lư mà tĩnh lặng, mơ màng giống như một bức tranh thủy mạc, rất gần với Anh Thơ:
Sương bay vô số gội lên cành
Mặt lá thêm buồn nhợt nhạt xanh
Ứa lệ hoa tàn run lẩy bẩy
Rồi triềng xuống cỏ cỏ làm thinh
Và cái ngôn ngữ mà tác giả sử dụng thật tươi mát, thật trẻ
trung: “Trời ơi làn gió vô duyên lạ/ Thiếu nữ hai tay giữ lấy quần”. hay “Sương bay vô số gội lên cành… Rồi triềng xuống cỏ cỏ làm
thinh” Nó trẻ trung và hồn nhiên như chính tuổi Xuân của tác giả!. Với một ngôn
ngữ thơ như vậy sẽ có người với thói quen thẩm thơ cũ cho là thô mộc, sống sít,
nhưng với những con mắt khai sáng thấu thị ưa nhìn về tương lai sẽ cảm nhận được
cái gì đó mới mẻ mà thi ca dần đến.
Bên cạnh những bài thơ về tình yêu và tuổi trẻ, Quỳnh
Dao cũng có nhiều vần thơ thông cảm với số phận những người lam
lũ, những mảnh đời cay cực, trong thời buổi tao loạn: Cầu Giang Tô với
Bích dương/ Ngói tan gạch nát con đường rêu xanh (Dưới cầu
Giang Tô). Sau này, với sự nhạy bén với thời cuộc ông đã
có nhiều bài viết kín đáo lên án bọn cai trị, bày tỏ lòng mến mộ những nhà ái
quốc (Lính Tây mộ, Thăm Phan Sào Nam), hướng về một đổi thay xã hội. Nhiều
bài báo in trên tạp chí Đông Tây (1940 -1945) đã bị Sở liêm phóng
theo dõi cho đến khi tòa báo này bị đóng cửa.
Cách mạng thành công ông tham gia hồ hởi vào
các Nhóm công tác tuyên truyền Trung bộ và phụ trách Đoàn kịch quần chúng địa
phương cho đến khi mất 1947 (29 Tuổi).
Quỳnh Dao cũng như nhiều thanh niên trí thức tân học thời bấy
giờ đã đến với Cách mạng từ lòng yêu văn chương, yêu cái đẹp. Cuộc sống ngắn ngủi
nhưng “tiếng thơm” còn mãi với thời gian. Dẫu người đọc có kẻ nhớ, người quên
nhưng chắc rằng trên con đường lưu lạc văn chương sẽ có những người
bạn đồng hành gọi tên anh với một niềm yêu mến!.
Ghi chú:
Các câu thơ trích dẫn lấy ở Thơ Hà Tĩnh thế kỷ XX
- Sở VHTT, Hội VHNT Hà Tỉnh xb 2000.
Yến Nhi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét