Bấy lâu nói về Nguyễn Du ta quen nhìn ông dưới góc độ một
nhà thơ, một “nhà nho tài tử”, cho rằng ông chuyên chú nhiều cho văn chương,
cuộc đời ông chủ yếu là văn chương, bàng bạc trong văn chương ông là một nỗi
suy tư, nỗi buồn dằng dặc (?!). Thực ra khi hữu thời cũng như khi sa cơ ông
luôn là một “nhà nho hành đạo”, một nho quan ôm chí lớn và văn chương chỉ
là một phương diện an ủi tâm sự thầm kín. Bởi vậy tìm hiểu Nguyễn Du chúng tôi
muốn quay trở lại với lời nhận xét của các cụ về con người toàn vẹn của ông :Tài
thư kiếm vang lừng hai vế (1), cả văn lược lẫn võ công mong thức nhận
phần nào bề dày, độ lớn con người ông. Là một nhà thơ lỗi lạc, ông còn là
một võ quan nhiều mưu đồ đại nghiệp, một vị văn quan rất biết cách “chăn dân”
cũng là một nhà ngoại giao xuất chúng, là một triết gia thâm thúy và cũng là một
nhà nông thực tế hữu dụng
Về văn nghiệp, Nguyễn có một sự nghiệp lẫy lừng. Giải thích
thiên tài của ông chúng ta không loại trừ nhân tố thiên bẩm, nhưng các yếu tố
truyền thống gia đình, cuộc đời riêng đầy sóng gió cũng như bối cảnh một xã hội
nhiễu nhương ảnh hưởng không nhỏ. Trong thiên tài của Nguyễn Du, ông đã thừa hưởng
được cái nếp phong lưu của xứ Kinh Bắc nhờ ảnh hưởng của mẹ, đã hưởng được hào
khí của đất Hồng Lam quê cha, cùng với lòng tiết nghĩa, khiếu văn chương,
do gia phong truyền lại trải bao nhiêu đời. Nhiều năm sống với bác tại Thăng
Long, dấu vết đài các hoa lệ của kinh đô cũng để lại nhiều ấn tượng trong ký ức
Nguyễn. Nhưng bao nhiêu yếu tố đó cũng chưa đủ tạo thành cái tính cách phức tạp
và mâu thuẫn của ông, nếu ta không kể đến những ngày tháng loạn ly ông phải sống
điền dã nơi hang cùng xóm vắng, trong sự thiếu thốn, lạnh rét như những người
loạn dân thời bấy giờ, cũng như những tháng ngày bôn ba xứ người đảm đương trọng
trách đại diện cho một triều đình trên đường tuế cống tiếp cận một nền văn hóa,
phong tục mới lạ…Bên cạnh nghìn lần kinh sách ông từng đọc thì nghìn lần gặp gỡ
cảnh ngộ sinh dân đã tạo một nền móng cho thiên tài văn chương của Nguyễn. Văn
chương ông không chỉ là nỗi buồn mà còn mang một tâm sự khác, một tâm sự
mà câu thơ trong bài Lam giang khi nói về nỗi khổ người dân địa
phương
“Muốn đem Thiên Nhẫn sơn, Lấp bằng Sông Lam lại” đã gửi
gắm. Nhưng ý nguyện là một chuyện, hành động là một chuyện khác và kết quả lại
là một chuyện khác nữa! Tâm sự cũng như hành trạng của Nguyễn còn nhiều
điều phải bàn và đối với chúng ta hôm nay không phải không còn ảnh hưởng.
Về võ công, một
điều mà bấy lâu ta ít nhắc đến. Võ công, hiểu theo nghĩa rộng, như các cụ
nói tài thư kiếm, tài thao lược của Nguyễn không phải không làm cho
người đời nể trọng. Đặc điểm này thể hiện qua hành trạng, trách nhiệm, cùng những
việc làm, đặc biệt qua tâm trạng, qua ý chí lập thân, cũng như qua tính cách
“văn - võ song hành”, tư chất văn sĩ, tráng sĩ luôn được nuôi dưỡng và thể hiện
trong ông ở những thời điểm quan trọng của đời người.Có nhà văn khi găp một người
là cháu xa đời của Nguyễn Du, người cao lớn, ông liên tưởng đến Nguyễn Du cho
là cụ “có lúc mang gươm làm võ tướng” và nghĩ rằng vóc dáng của “Nguyễn
Du cũng không phải là vóc dáng thư sinh mảnh khảnh, yếu đuối”, cũng phần nào thể
hiện cốt cách “con nhà võ” đó.(2)
Quả vậy,
những năm niên thiếu của Nguyễn là những năm đầy biến động. Năm 1783,
Nguyễn Du thi hương đậu Tam Trường, sau đó ông không tiếp tục thi lên nữa mà
sung vào một chức quan võ công cán duới trướng của cha nuôi. Có việc này là vì
lúc bấy giờ Nguyễn Khản anh cả Nguyễn Du thầy dạy chúa Trịnh Tông đang chức Thượng
thư bộ Lại kiêm trấn thủ Hưng Hóa , Thái Nguyên. Khản bố trí các em giữ quyền
trấn thủ các vùng dưới quyền: Nguyễn Điều, Nguyễn Nễ trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn
Trứ, Nguyễn Nghi vùng Hưng Hóa, trong đó Nguyễn Du và cha nuôi nắm giữ đội binh
hùng hậu nhất (Chánh thủ hiệu quân Hùng hậu hiệu) trấn thủ ở Thái Nguyên. Nguyễn
Du, theo tác giả Phạm Trọng Chánh , từng học võ, kết nghĩa với Nguyễn Đại lang
một võ sư người Tàu dưới trướng Nguyễn Khản. Sau này lúc về sống ở Thái Bình
trước khi gặp Gia Long, Nguyễn còn dạy võ và chiêu tập thủ hạ lập đội binh ở
vùng quê vợ ( Phạm Trọng Chánh - Nguyễn Du từ Thái Nguyên sang Vân Nam -Tạp
chí Thơ số 10-2014- tr39)
Ở
Bắc dưới thời các chúa Trịnh Giang, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm giặc giã nổi lên tứ
tung vì tệ tham nhũng, bè phái . Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương
chưa tan, thì Hoàng Công Chất nổi lên từ năm 1739 ở miền Hưng Hoá
và Thanh Hoá, Lê Duy Mật nổi lên từ năm 1738 đóng giữ miền Trấn Ninh. Các
cuộc khởi nghĩa mới tạm yên thì lại diễn ra cuộc đánh Nguyễn ở miền Nam,
dưỡng phụ ông cũng nhiều lần xuất chinh, ông phải trị nhiệm giúp cha. Rồi
nạn Kiêu binh năm 1782, loạn quân giết Hoàng Đình Bảo, phá nhà quan Tham tụng
Nguyễn Khản ( anh cả Nguyễn Du) cùng là giết quan Thủ hiệu Nguyễn Triêm
ngay trước phủ chúa. Bấy giờ cũng như sau này, khi quân Tây Sơn ra Bắc, Nguyễn
Khản và Nguyễn Điều hai anh của Nguyễn Du nhiều lần chạy lên phương bắc để
gọi quân các trấn về trừ kiêu binh hoặc chống Tây Sơn. Những cuộc binh biến này
không thể không ảnh hưởng gì đến Nguyễn Du, và Nguyễn không thể không
cùng hai anh mưu đồ bàn bạc kế sách dẫu có nhiều lý do để việc không thành?
Những năm tập
chức của cha nuôi, làm Chánh thủ hiệu ở Thái Nguyên, cùng hai anh chống
loạn kiêu binh, rồi chống quân Tây Sơn đã chuẩn bị cho ông ít mưu đồ võ
nghiệp, để khi thời thế đổi thay sau này vẫn tiếp tục. Khi về lánh nạn ở quê vợ
làng Hải An huyện Quỳnh Côi xứ Sơn Nam (bây giờ là tỉnh Thái Bình) trong lúc
người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan với Tây Sơn thì ông bí mật tập
hợp hào mục tuyển mộ dân binh mưu đồ khôi phục nhà Lê, nhưng chung quy thất bại
phải về quê nhà ở Tiên Điền. Không yên lòng với đại cuôc , một thời gian lại
toan kiếm đường vào Gia Định giúp chúa Nguyễn Ánh, nhưng việc tiết lộ, ông bị
tướng Tây Sơn là Thận Quận Công bắt giam. Đấy là cái tư cách
võ công “muốn hùng binh mấy vạn rắp phen Trương Tử phục Hàn gia” như
người đời sau nói về ông. Sau khi được tha, ông tự thấy mình không làm được
người nghĩa sĩ đem thân hy sinh cho chúa đành làm kẻ bình dân giữ trọn tiết
trung trinh.
Bên cạnh thể hiện không đậm đặc trong thơ văn, nhưng cũng thoáng ẩn hiện ở nhiều
thi tiết đủ cho người đọc kết nối lại đúc thành một nhân vật song toàn thư kiếm.
Đó là hình ảnh người tráng sĩ với thanh kiếm dài được nhắc đi nhắc
lại chứa chất biết bao tâm trạng . Hình ảnh người tráng sĩ với thanh kiếm dài
khi nói về mình không phải là hình ảnh khoa trương để ám chỉ một kẻ “hào hoa
phong nhã”, mà chính là hình ảnh thực của con người Nguyễn với đầy đủ “hai nghề
văn võ” với bao tâm sự trong nhiều hoàn cảnh. Nguyễn Du mong hành đạo
nhưng không đạt ý nguyện! Đấy là cái tâm tình chua chát của ông
trong những ngày khó khăn Tựa kiếm dài ngạo nghễ ngắm trời xanh, Lăn
lộn trong đám bùn dơ ba mươi năm ( Tằng lăng trường kiếm ỷ
thanh thiên, Triển chuyển nê đồ tam thập niên - Khất thực), cũng như tấm lòng nặng
trĩu âu lo vì thế sự Kiếm dài đeo lưng trước gió thu , Đứng lặng trước
sân nhìn khóm trúc (Yêu gian trường kiếm quải thu phong , Vô ngôn độc
đối đình tiền trúc - Ký hữu).
Và đây là lời bộc bạch chân thành khi ông tự ngắm lại đời
mình :
Hết xuân lại thu đầu bạc thêm, Nghề văn nghề vỏ thảy không
thành..
(Thư kiếm vô thành sinh kế xúc, Xuân thu đại tự bạch đầu tân
-Tự thán)
Bao ngày tháng trôi đi, bao ước muốn trở thành vô vọng vì
sinh kế :
Tráng sĩ bạc đầu than với trời xanh/ Thật khó cho chí lớn với
đời nghèo
Và phải chăng nhờ cái khí chất tráng sĩ cũng như
cái ý đồ “Trương Tử phục Hàn gia” (khôi phục cựu triều) này ở trong tính
cách, trong tâm hồn mà Nguyễn đã viết một cách đồng cảm sâu xa các thành bại ,
được mất nơi sự nghiệp của các anh hùng dũng tướng trong Bắc hành tạp
lục (Sở Bá Vương, Liễu Hạ Huệ, Chu Lang, Nhạc Vũ, Hàn Tín, Liêm Pha, Kinh
Kha…) cũng như Truyện Kiều (Từ Hải) , khiến người đời xúc động.
Phất cờ trăm vạn lính qua sông
Dưới đất Yên giao có giáo đồng
Việc trước hai ngàn năm vắng vẻ
Bên thành một bãi cát mênh mông.
(Nơi Hàn Tín luyện binh - bản dịch Lê Thước )
Qua thơ văn, Nguyễn hiện lên
như một kẻ “thư - kiếm” luôn song hành, trong một vài tình huống có khi cái khí
phách tráng sĩ lại mạnh hơn! Cho đến sau này khi về ở quê nhà trong các cuộc
vui săn bắn trên núi Hồng Lĩnh cáí tư chất “tráng sĩ” dũng mảnh của ông
càng thể hiện rõ mà bình thường ta ít hình dung ra, nó thường bị che lấp
sau những câu văn quá ư trang nhã, uyển chuyển!
Việc
chăn dân (văn trị) : Khi thời thế thay đổi, nhà Tây Sơn thất bại,
Nguyễn Ánh thống nhất được Bắc Nam ,vua Gia Long xuống chiếu triệu tập những
người dòng dõi cựu thần nhà Lê. Sau nhiều lần lữa, phân vân cuối cùng ông quyết
định ra làm quan với nhà Nguyễn. Tháng tám năm đầu hiệu Gia Long (1802), ông được
bổ tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam, tháng 11 được thăng Tri phủ Thường Tín.
Tháng giêng năm sau được thăng hàm Đông Các Học Sĩ và phong tước Du Đức Hầu.
Tháng tư năm Gia Long thứ tám, ông được bổ chức Cai bạ Quảng Bình, rồi
thăng hàm Cần chánh điện Học sĩ . Những năm làm tri huyện Phù Dung trấn Sơn
Nam, tri phủ Thường Tín, rồi cai bạ Quảng Bình, cũng như những năm làm việc tại
kinh ông đã nêu một tấm gương mà trong văn tế các cụ đã tổng kết lại... Khi thủ
hiến Tiên châu, khi Thần kinh lĩnh doãn, đức thanh cần thấm thía đến muôn
dân… Ông đã nêu một gương sáng về đức trị dân của một ông quan
thanh liêm có một tấm lòng “ái dân” cũng như một chủ trương hành sự rất cần mẫn,
hữu dụng. Qua một số thơ văn nói rõ điều đó. Ông rất quan tâm đến đời sông dân
quê Quê hương hạn hán làm hại công việc nhà nông (Cố hương cang hạn cửu
phương nồng – Ngẫu hứng), thấy rõ tầm quan trọng của việc nông tang thời
kỳ sau chiến tranh Trong buổi thanh bình không chinh chiến , Trâu bò
cáy cuốc trọng việc nông (Thanh bình thì tiết vô tranh chiến, Ngưu độc
ưu sừ chính trọng nông - Pháo đài ). Nổi bật là đức thanh liêm, làm quan lớn mà
trong nhà lương thực chỉ đủ ăn:
Hoa vàng, trúc xanh nhìn không nói
Thu hoạch hàng năm cơm gạo đủ
Cháu thơ bồng bế tuổi thêm già…
(Hoàng hoa lục trúc lưỡng vong ngôn
Thiên giả tùng niên cập bão tôn. - Tái thử nguyên vận).
Có khi con cái còn lo đói “thập khẩu đề cơ Hoành lĩnh bắc”.
Tại nhiệm tám năm, nhờ thực hiện các chính sách nghiêm minh, đời sống rất là giản
dị thanh liêm, chúng dân đều yêu mến. Nhờ vậy làm quan địa phương chẳng bao
lâu thì được về Kinh, phong tước cao, chức lớn lại còn được hai lần cử đi
làm sứ thần đại diện triều đinh đi giao thiệp với Trung Hoa. Chúng ta cần hiểu
rằng , những năm Nguyễn Du ra làm quan triều Nguyễn là những năm mà trong triều
nhiều phe phái ghét ghen, kìm hại lẫn nhau, Vũ Trinh anh rể Nguyễn Du bị án“ trảm
giam hậu” cũng nằm trong cái bối cảnh Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc (Những
con oanh đẹp trong vườn thượng uyển hay ghen ghét nhau - Tống nhân). Đó là
chưa kể Nguyễn lại thuộc cái phái cựu thần Nhà Lê luôn bị chèn lấn nghi kỵ. Ấy
thế mà đường công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn hình như chẳng có mấy trở
ngại, ông thăng chức nhanh và giữ chức trọng. Có thể Gia Long trọng tài ông, hoặc
tỏ ý rộng rãi để thu phục nhân tâm kẻ sĩ Bắc Hà , đặc biệt đám cựu thần Nhà Lê,
nhưng cái chính cũng phải dựa vào “đức thanh cần”, năng lực “chăn dân” bao năm
của Nguyễn.
Trên
con đường hoạn lộ đáng kể nhất là những năm được triều Nguyễn trọng dụng, cử
làm Chánh sứ đi tuế cống triều Thanh. Những ngày tháng đua tài với các sứ thần
Hàn, Nhật, tâu trình đối đáp với nhà vua được triều Thanh nể trọng, về sau nhà
Nguyễn khen thưởng, tất cả đó đâu phải ở tài văn thơ của Nguyễn mà cái chính là
ở cái mưu lược, tài ngoại giao, phẩm cách chính trị của ông, cố nhiên
trong lĩnh vực này chắc cái sở học uyên bác của Nguyễn có góp phần không nhỏ.
Cái đáng quí là trong thời gian đi sứ, Nguyễn Du đã được tận mắt chứng kiến nhiều
nỗi oan trái và cuộc sống khổ ải của dân nghèo, sau này đã được tập hợp lại
trong tập thơ mang tên Bắc hành tạp lục. Cũng trong thời gian này Nguyễn
Du đã có dịp tìm hiểu sâu nền văn hoá Trung Quốc và với vốn sống đa dạng và tài
năng kiệt xuất của mình, hấp thụ tinh hoa hai nền văn hóa để sau khi về nước,
ông đã hoàn thành tác phẩm Truyện Kiều, lấy cảm hứng từ tập truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân, viết nên một kiệt tác thơ ca trong lịch sử văn chương Việt
Nam và thế giới.
Trong chuyến công cán lịch sử này, với đầu óc thực tế của một người làm vườn và
một tình yêu thiên nhiên ông cùng người em trai, đã chọn được giống cây hồng
quý đem về trồng ở nhà vườn An Hiên (Huế) và ở miệt vườn quê Hà Tĩnh, hiện vẫn
được người dân nâng niu chăm sóc. Về giống cây hồng mà sứ đoàn Nguyễn Du mang
về, tương truyền giống hồng này được nhiều gia đình ở Nghi Xuân, quê hương Nguyễn,
nhân giống phát triển nhanh, trở thành một giống hồng khá nổi tiếng,
ngày trước là món quà hàng năm tiến kinh dâng vua gọi là “hồng tiến” (Theo “Nghi
Xuân hội nhập và phát triển”- Đặc san Đảng bộ Nghi Xuân lần 19, tr17).
Nguyễn như đã phân tích, là một đại quý tộc, một đại thần qua hai triều đại
cả võ công, văn trị đều thành tựu, ông còn là một nho sĩ - một trí thức chân
chính. Trong ông như có hai con người: Người quí tộc sống qua hai triều đại tận
mắt chứng kiến nhiều hệ lụy phi lý vẫn là người tôn thờ lý tưởng“ trung quân ái
quốc”, vừa là người trí thức nho sĩ trong khuôn khổ “nhà nho hành đạo” thông cảm
nỗi đau nhân quần, thấy nhiều phi lý trong cuộc sống, có lòng tự tôn dân tộc và
trách nhiệm cộng đồng.
Nỗi buồn bã u uất trước những bất công của cuộc đời xen lẫn tinh thần trách nhiệm công dân cũng như nỗi chán ghét quan lại triều đình nhưng không xa lìa lý tưởng trung quân ái quốc là những mặt vừa phân ly vừa thống nhất trong con người Nguyễn đã được thể hiện rất rõ trong thơ văn cũng như trong hành xử thường nhật của ông, tạo nên những điều kỳ khu, những mâu thuẫn không dễ giải thích mà người đời hay nhắc đến và riêng ông còn muốn gửi gắm đến ba trăm năm sau.
Nỗi buồn bã u uất trước những bất công của cuộc đời xen lẫn tinh thần trách nhiệm công dân cũng như nỗi chán ghét quan lại triều đình nhưng không xa lìa lý tưởng trung quân ái quốc là những mặt vừa phân ly vừa thống nhất trong con người Nguyễn đã được thể hiện rất rõ trong thơ văn cũng như trong hành xử thường nhật của ông, tạo nên những điều kỳ khu, những mâu thuẫn không dễ giải thích mà người đời hay nhắc đến và riêng ông còn muốn gửi gắm đến ba trăm năm sau.
Cuộc đời và sự nghiệp của
Nguyễn Du, sự bất tử, tình yêu của mọi người đối với Nguyễn được ghi lại
khá trọn vẹn trong bài Bia sau đây nhân dịp kỷ niệm 120 năm ngày mất
của cụ:
Hồn vẫn đi về, cảo thơm sực nức
Kiếm gác bên đền, gió mưa vẫn sắc
Bút tựa mặt hồ, trăng sao vằng vặc
Cảnh ấy bia này, nghìn thu dằng dặc (3)
Cuộc sống, lý tưởng, hoài vọng, tâm trạng của Nguyễn Du nhiều sắc thái, cung bậc,
ngắm nhìn bức chân dung tinh thần của ông nếu chỉ nhìn một phía chắc khó nhận
ra, chúng tôi nghĩ bức chân dung đó chắc còn nhiều ảnh hưởng, gợi nhiều suy cảm
cho giới văn nhân hôm nay.
Ghi chú:
Ghi chú:
(1) Đào Tử Minh - Văn truy điệu
Nguyễn Du - Hội Tri Tân - ngày 10/8 Giáp thân (1944)
(2) “... Đến Tiên Điền thì đoàn
có gặp được chắt Châu (?) là cháu xa đời cụ Nguyễn Du. Cụ người cao lớn (có thể
suy ra là Nguyễn Du cũng không phải là vóc dáng thư sinh mảnh khảnh, yếu đuối
nên có lúc mang gươm làm võ tướng!) ”
Nguyễn Văn Hoàn - Hồi ức về việc kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (1965). Vĩ thanh (Mai Quốc Liên) - Tc Hồn Việt số 80 - 2014
(3) Phó bảng Ưu Thiên Bùi Kỷ bái thảo - Văn bia -
Ngày rằm tháng hai năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Bảo Đại thứ tư, Hội
Khai trí Tiến Đức cẩn chi .
Yến Nhi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét