Thơ đương đại, các tác giả ít chú ý các biện pháp đơn lẻ mà định
hướng vào hình tượng tổng hợp của toàn bài thơ. Trong việc xây dựng hình tượng
thơ, các tác giả sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật mà trước đây rất dè dặt. Đó
là sự kết hợp các yếu tố thực và ảo, kết hợp ý thức lẫn vô thức, trí tuệ và
tâm linh. Những dạng thức tồn tại của thế giới thể hiện trong thơ có thể chỉ
thuần là sự tưởng tượng của tác giả. Thế giới tâm linh trước đây bị bỏ qua, nay
nhà thơ có thể đi sâu khai phá. Bằng những thủ pháp này bài thơ tạo được những
hiệu ứng thẩm mỹ phong phú đa dạng và mới mẻ ở người đọc! Tiếp nhận cái quan
niệm thẩm mỹ Á Đông ưa sự kín đáo, sự hàm súc, sự khơi gợi, kết
hợp lối biểu hiện giàu cảm giác, ấn tượng của nghệ thuật phương
Tây, các tác giả đương đại thường sử dụng thủ pháp ẩn dụ. Theo cách
hiểu quen thuộc, Ẩn dụ là sự so sánh ngầm, “sự liên tưởng về mối
tương đồng (có tính chất hiện thực hoặc được tưởng tượng ra) giữa hai đối tượng
về mặt nào đó.(TĐBKTT). Thí dụ, Liên tưởng A và B: A cụ thể, B trừu
tương; A và B: A trừu tượng, B cụ thể; A và B: cả hai đều cụ thể
hoặc trừu tượng. Nhìn chung Ẩn dụ là phương tiện diễn đạt có
giá trị hình tượng, có sức mạnh biểu cảm. Thủ pháp này trong tay các tác
giả tài năng, đặc biệt trong thơ ca, có nhiều biến điệu khá sinh
động. Ẩn dụ siêu thực là một trong những thủ pháp mà các
tác giả đương đại hay xử dụng để lạ hóa các hình tượng thơ
nhằm nâng cao hiệu ứng thẩm mỹ cho độc giả. Thủ pháp ẩn
dụ trong thơ ca truyền thống nặng về tính tả thực, trong thơ
ca đương đại có nhiều yếu tố siêu thực.
Bằng thủ pháp ẩn dụ - siêu thực, hiện thực
phô bày bởi cái nhìn hư tưởng bên trong kết hợp với những ảo giác
cảm nhận bên ngoài gợi nhiều liên tưởng táo bạo, mới lạ. Nhà phê bình
văn học, GS, VS Phan Cự Đệ khi nhận xét thơ Hàn Mặc Tử cho
rằng:
”... Trong những bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, người ta
không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và xuất thế gian, cái hữu
hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể và khách thể, thế giới cảm
xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn, mọi lôgic bình thường trong
tư duy và ngôn ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ (YN
nhấn mạnh). Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những đối chiếu kết hợp lạ kỳ,
tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối với người đọc."
... Chủ nghĩa siêu thực cố gắng diễn tả tiềm thức bằng các trình bày
các vật thể và sự việc như được thấy trong những giấc
mơ.
Liên hệ một số tác giả Thơ đương đại Việt, ta càng
thấy rõ những đặc điểm mà các ông nêu lên.
Trần Tuấn ở "Ma thuật ngón" (giải thưởng Bách
Việt 2008), rất có ý thức khi sử dụng những yếu tố siêu thực vào
các hình tượng. Siêu thực được anh sử dụng như là một thủ pháp, như là một
phương tiện. Đây là hình ảnh người bán cà phê sau một đêm lao động căng
thẳng, anh về nhà trong trạng thái nửa mơ, nửa tỉnh, cơn buồn ngủ,
sự mệt mỏi chập chờn anh đi trong trạng thái vô thức, cảnh vật cũng
hư ảo, mộng mị: "lanh canh tiếng ly muỗng đi trên con đường
đêm/ chiếc xe đẩy người bán cà phê đêm về nhà lúc gần sáng/ nhà đâu trong đầu
người đẩy xe mơ ngủ/ nơi ngã tư gần lụi đèn đường/ ụ giao thông ngồi làm nấm mộ/
có dăm giấc mơ dừng lại ngồi bên” (Giấc mơ sống sót), và một cơn bão
tàn phá tung tóe tất cả"cột điện gập lưng/ bò lê/ nôn mửa/ bên hài cốt
nhà" (Lưỡi bão)... Tác giả nhân hoá đồ vật (chiếc xe đẩy) và
vật hóa con người (người bán cà phê) cả hai đổi vị trí cho nhau, ụ
giao thông thành nấm mộ ngồi lẫn những giấc mơ, cột điện bò lê, nôn
mửa như một con người. Với "Ma thuật ngón" Trần Tuấn ảo
hóa cảm xúc từ cảm giác đến linh giác. Đồng thời để biểu đạt nội dung
đa nghĩa, thủ pháp siêu thực cũng lạ hóa cấu trúc ngữ pháp, cũng như ngữ
âm và tạo một tiêu chí mới cho hình tượng thơ. Đó là việc xử
dựng những liên tưởng dựa trên những nghịch lý, bất ngờ, đánh mạnh vào óc
tưởng tượng của người đọc. Đó là cách thể hiện một sự vật hữu hình bằng
những liên tưởng vô hình và ngược lại. Phép tĩnh lược quen thuộc
trong thơ Á Đông (bỏ trống hay chấm phá, đứt quãng) được xử dụng với
tần xuất cao tạo ấn tượng dò tìm, suy tưởng. Đôi khi như là một kết
hợp ngẫu nhiên từ ngữ,thoát ra từ vô thức:
... ý nghĩ neo rốn/ thả/ bào thai/
kiệt nước...
ý nghĩ tinh cầu/ siêu câm/ câm/ tìm một bờ
Người khác...
(Ý nghĩ)
Hình tượng thơ đi về giữa ý thức và tâm
linh, giữa thực và ảo:
chân nhiều khi
không thuộc về con đường
mà dành để tưởng tượng
tưởng tượng đi bằng ngàn đôi chân tưởng tượng
đôi chân trần
xuôi tưởng tượng về đâu
dấu chân là những gương mặt
không thể xóa...
Những yếu tố siêu thực xuất hiện trong tác phẩm tạo một
không khí nghệ thuật đặc biệt, có tính huyền ảo, mộng mị. Nó nằm trong
phương thức “lạ hóa” mà các nhà thơ hậu hiện đại hay dùng.
Thơ Mai Văn Phấn chan chứa cả “trời vô thức”, chất siêu
thực tạo những liên tưởng thơ thoát khỏi thực tại. Những ám thị phi
lý tính che dấu trong một hình thức ngôn ngữ tưởng đơn giản nhưng là
những “mật mã” ở tầng sâu ý tưởng. Tất cả có thực mà không thực.
Thời gian, không gian, đồ vật, con người, được bóp méo nhào nặn trong
một “véctơ” tưởng tượng khác chiều.
... mọi con vật trong nhà
vẫn chế tác từ đồ phế thải:
con mèo tam thể được sinh ra từ mớ giẻ rách?
con cá bơi trong bể được gò hàn từ vỏ lon beer?
chim họa mi hót trong lồng là chiếc ấm vỡ?
con chó giụi đầu vào tay mình là cuộn báo cũ?
đàn kiến đang nhẫn nại tha mồi là đống mạt cưa?
(Không thể tin)
... Hãy thức chờ xem rêu phủ bầu trời/ Mặt nước ăn những vì sao cuối cùng./ Đêm
nay/ Rắn rết, bọ cạp tràn vào thành phố/ Nhưng đừng sợ!
... Cái miệng đang trôi kia chắc của người đã chết/ lúc trên
cao/ lúc chạm vào mặt đất./ Bộ xương của cái miệng giờ tan vào cát bụi? vẫn vàng
ươm? hay đã xỉn đen trong chiếc tiểu sành?
Nhưng cái miệng vẫn mấp máy sống động/ khi mím chặt/ khi nhoẻn
cười độ lượng.
Dẫu vậy siêu thực trong Ma thuật ngón, trong thơ
Mai Văn Phấn vẫn chỉ là những yếu tố tiếp biến của một thứ siêu thực
thể nghiệm, nó có một khoảng cách khá xa với trào lưu siêu thực gốc (phương Tây) nếu xét trên phương diện cơ sở triết - mỹ học, về cách
nhìn thế giới và con người. Đều là sự khải thị về tâm linh,sự suy
tôn vô thức, bạn đồng hành của ảo giác, mộng tưởng, là sự ảo hóa thường xuyên thực tại, nhưng một đằng là phản ứng phủ nhận của một
thế hệ trong thực tại tha hóa sau đại chiến, một đằng là tiếng nói
mới mẻ khẳng định mình của một thế hệ tìm đường thời mở cửa. Nói
một cách khác ẩn dụ siêu thực của các bạn trẻ là sự tiếp biến
đầu ngọn về các thủ pháp chứ không phải là sự tạo tác minh triết
nhân sinh về quan điểm sống, về thế giới nghệ thuật, về giải trình
ngôn ngữ. Thi thoảng mới có vài đột biến trong suy cảm:
- Xác thân nhìn tôi như kẻ quỵt tiền nhà chỉ một phút giây ấy thôi/ rồi cứ thế/ không đầu/ không thân thể/ không màu không mùi vị/ tôi đi với hơi thở nhẹ/ không ngang qua
sự cư trú nào nữa.
(Trần Tuấn - Kẻ trú ngụ)
Hình tượng thơ gợi một ám ảnh hư vô về mối quan hệ
“tôi” với thân xác, “thân thể” tôi chỉ là nơi trú ngụ “rỗng không”của một tinh
thần xa lạ, là “ngôi nhà hoang”mà tư tưởng nhân sinh đã rời bỏ từ lâu. Sự
suy ngẫm về bản chất của tồn tại, gợi một minh triết phương Đông gần gũi.
Bóng chữ, một thông điệp kép mà Lê Đạt muốn dành cho
độc giả, hình tượng thơ cũng đầy chất siêu thực. Nói về tình yêu - tính chất cổ điển, nói về công việc sáng tạo, công việc chữ nghĩa - tính chất siêu thực.
Chia xa rồi anh mới thấy em
Như một thời thơ thiếu nhỏ
Em về trắng đầy cong khung nhớ
Mưa mấy mùa
mây mấy độ thu
Vườn thức một mùi hoa đi vắng
Chiều Âu Lâu
bóng chữ động chân cầu
(LÊ ĐẠT - Bóng chữ)
Đây là một bài thơ hay của Lê Đạt (được lấy làm tên
cho cả tập thơ) thể hiện được tình cảm tinh tế cũng như phong cách
nghệ thuật tài hoa của ông. Nhiều tác giả trích dẫn một số câu ở
bài này để minh chứng cho những luận điểm về thơ, nhưng phân tích
toàn bài thì trước đây chỉ có Thuỵ Khê (Tạp chí Thơ 4-2009) và
gần đây có Phạm Minh Trí (Văn Nghệ - số 15-2010). Hai tác giả
đều có những phân tích xác đàng và tinh tế ý nghĩa thẩm mỹ của
bài thơ, tuy nhiên cũng còn có nhiều điều chưa thật làm độc giả yên
tâm. Đó là vì không nắm được thủ pháp ẩn dụ mang tính siêu thực của
tác giả. Bài Bóng chữ có hai “trường” nghĩa đen và
bóng. Nghĩa cụ thể, nghĩa đen nói về tình yêu, nghĩa bóng
ẩn dụ nói về chữ nghĩa của việc sáng tạo. Chính hai “trường” nghĩa
lẫn vào nhau làm bài thơ có “trạng thái nhập nhoà và cạm bẩy của
con chữ” (Thuỵ Khê - bđd).
Bài thơ này hay một cách ma mị nhờ cấu tứ độc đáo
bằng lối xử dụng “ẩn dụ kép” về Chữ và Em. Chữ có
thể là con chữ nhưng cũng có thể là em, bóng chữ còn
có nghĩa là bóng em. Cái tên bài thơ, và hình ảnh “bóng
chữ lay động chân cầu” cuối bài càng nói rõ điều đó. Em gắn
với kỷ niệm tình yêu tha thiết. Chữ gắn với công việc sáng
tạo kỳ khu. Em thực không có trong bài thơ (em ở đâu) mà chỉ là cái
bóng ma mị (em vẫn đây), nhưng chính bóng em về trong kỷ
niệm làm lay động tác giả và cũng chính cái bóng chữ ở
sau các con chữ mới tạo cảm xúc nơi độc giả! Câu thơ: Em về
trắng đầy cong khung nhớ theo chúng tôi là câu thơ hay nhất
bài. Nó không gợi dục theo kiếu phồn thực Xuân Hương dẫu có các hình
ảnh trắng, đầy, cong, khêu gợi cảm giác và cũng không lãng mạn
kiểu cổ điển “ánh trăng nơi khung cửa sổ”... Câu thơ đánh thức trí
tưởng tượng người đọc bới cái vẻ siêu thực của nó. Hư ảo bên ngoài
trộn lẩn mộng tưởng bên trong. Cái bóng em hiện về theo kỷ niệm: áo
trắng thanh tân với những đường cong đầy đặn thanh xuân đứng
che khung cửa như còn in hình... Em giờ vắng xa nhưng mùi hương vẫn lẩn
quất trong vườn. Câu thơ đầy ắp ấn tượng siêu thực: vẻ đẹp khơi gợi - cái bóng của em cũng chính là nghĩa bóng của chữ, cái nghĩa tạo
sinh của chữ!.
Cái sâu kín, sự gửi gắm quan trọng nhất (nếu liên
hệ tên tập thơ) - bài thơ lấy tình yêu để nói về
chuyện chữ nghiã trong công việc sáng tạo của người nghệ sĩ. Sự xúc
cảm của tác giả trong bài thơ là xúc cảm bởi bóng em, kỷ niệm về
em chứ không phải em trước mặt (chia xa rồi mới thấy em,... em ở
đâu...) Bóng em - kỷ niệm về em làm tác giả dấy lên bao xúc
động, cũng như bóng chữ - cái hồn cốt đằng sau con chữ mới
tạo nên giá trị đích thực câu thơ, tạo được cái bóng đó của chữ là
bản chất, là tinh hoa của nhà thơ. Bởi thế Chiều Âu Lâu/ bóng
chữ động chân cầu. Câu thơ kết lại bằng cái ẩn dụ siêu thực bóng
chữ lay động không gian sáng tạo của tác giả, chứ không
là bóng em và tình yêu thôi vậy.
Nguyễn Việt Chiến khi xây dựng hình tượng Nguyễn Du
trong baì thơ cùng tên cũng đã xử dụng cách sử dựng các chi tiết có
màu sắc siêu thực
… trước mùa trăng sinh nở
Nguyễn Du là người mộng du ân ái cùng trăng
nhưng chưa đến nửa đêm thì Truyện Kiều đã viêt xong
và Nguyễn Du đạp mây trở về sông Tiền Đường.
để lại môt bông trăng thức trong chiếc bình đêm
thức chầm chậm
đến sáng thì nở
nở thành một nàng Kiều trắng trong
giữa vẫn đục cõi người.
khi Nguyễn Du về
bụi giang hồ
trần thế vẫn như xưa
ông lại gặp trăng đêm
nở chầm chậm đến sáng thì tắt/ nở chầm chậm đến sáng rồi chết.
(Nguyễn Việt Chiến - Trăng Nguyễn Du-Tạp Chí Thơ - Xuân 2008)
Mối liên đới Trăng - Thi sĩ thì đã có nhiều nhà thơ viết và có
nhiều thi phẩm bất hủ, song cái “tứ” đầy mộng mị, bất khả giải, vô thức “người
mộng du ân ái cùng trăng”, nhà thơ về để lại “một bông trăng” đến
sáng thì “nở thành một nàng Kiều trắng trong”… Và từ đấy giữa cõi thế
nhà thơ hằng đêm lại gặp một đóa trăng “nở sững sờ, nở chầm chậm đến sáng rồi
chết”, thì quả thật độc nhất vô nhị. Cái hình tượng Thơ đẹp sững sờ đó được phô
diễn cũng bằng một ngôn ngữ, một thể tài rất giản dị, rất tự nhiên, mê hoặc người
đọc một cách liêu trai xứng đáng đại diện cho một bút pháp thơ hiện
đại!
Thơ đương đại có nhiều thay đổi về nội dung cũng như hình thức
xét trên mối quan hệ với đời sống xã hội, nó phải thay đổi cho tiến gần đời sống,
cập nhật đời thường với tâm thức con người bây giờ trên hai bình diện “tự
nhiên và siêu nhiên”. Trong không khí bộn bề của sự tìm tòi đổi mới của thơ ca
nhiều tác giả không còn quá dụng công vào cái việc đi tìm nhãn tự, thần cú mong gây được nhiều ấn tượng sâu sắc với công chúng như cũ
mà họ tập trung vào các thủ pháp xây dựng hình tượng, phép ẩn
dụ siêu thực với các biến điệu sinh động là một đặc trưng nổi trội.
Xin giới thuyết vấn đề: cái mới mà chúng
tôi lưu ý bạn đọc ở đây không nhằm hướng đến những cái gì hoàn toàn
mới mẻ mà trước đây trong thơ ca chưa có, chỉ giới thuyết ở tần số sử dụng chúng trong thi phẩm các tác giả trẻ và hiệu ứng thẩm mỹ
cũng như chỗ đứng khả thủ của nó trong lòng độc giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét