Trong nhu cầu tìm tòi đổi mới lối viết để hội nhập
văn chương thế giới, nhiều tác giả tìm gặp được những quan niệm nghệ
thuật thích hợp không chỉ ở một lý thuyết nhất định mà ở nhiều lý
thuyết thuộc nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Có thể là tự giác, các
tác giả sáng tác có chủ đích, có nghiên cứu, khi xử dụng một số
thủ pháp nghệ thuật nào đấy, nhưng cũng có thể là tự phát do ảnh
hưởng gián tiếp qua khí quyển đời sống văn hóa cộng đồng trong thời
kỳ hội nhập các thủ pháp nghệ thuật mới đã thẩm thấu tự
nhiên vào tác phẩm dưới dạng một vài yếu tố.
1- Sự tiếp nhận các chủ thuyết diễn ra một cách thận trọng bởi
những lý do khách quan và cũng có những lý do chủ quan, dẫu vậy các
lý thuyết mới cũng tạo một sự đổi thay về cách viết trong nền văn
học chúng ta mấy chục năm qua, đúng như nhận xét của Paul Hoover “ Cái
mới trong nghệ thuật luôn là cái được nhập từ một nền văn hoá
khác”. Sự đổi thay này khác các thời kỳ trước như 30-45, 45-75, diễn
ra khá rõ ràng, giai đoạn hiện nay văn xuôi ta tuy có những lúc nhộn
nhịp nhưng chưa có nhiều tác phẩm thực sự thành công gây tác động
lớn với độc giả nên rất khó gói trọn vào một vài nhận định tổng
quát với các tiêu chí rõ ràng đầy thuyết phục. Có người tiếp thu,
tạo được vài thành công nhất định, nhưng cũng có tác giả cái mới
chỉ hiện lên thấp thoáng...
Trên văn đàn, công chúng hiển nhiên thấy rất nhiều nhà văn, nhiều tác
phẩm không còn viết như trước. So với các chủ thuyết mà các tác giả
Việt Nam tiếp cận trước đây như Chủ nghĩa hiện thực phê phán,
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì quả thật những vấn đề
mới mẻ được đặt ra thâm nhập vào sáng tạo của các tác giả đương
đại chỉ như một tâm thức văn hoá, nó chưa định hình thành những quy
chuẩn nghệ thuật để có thể từ đó rút ra những định đề khu biệt
với lý thuyết sáng tác thời kỳ trước. Dẫu vậy một số cây bút
phê bình và độc giả có kinh nghiệm vẫn nhận chân được những điều
nổi bật về sự đổi mới ở các tác phẩm cụ thể. Tiểu thuyết, truyện
ngắn đương đại vẫn nằm trong quỹ đạo phản ánh hiện thực nhưng
có đổi mới so với truyền thống. Đó là sự phản ánh từ hiện thực
“cần có” sang hiện thực“ đang có”, từ hiện thực lưỡng cực sang
hiện thực đa cực. Văn chương nước nhà bước đầu hoà vào dòng
chảy văn chương thế giới.
2- Điều nổi bật trước tiên trong các tác phẩm theo khuynh hướng
mới là sự đổi thay đáng kể về cách nhìn thế giới và con
người. Hiện thực có nhiều thay đổi đa dạng và cũng phức tạp
hơn, con mắt nhìn của nhà văn cũng không giữ nguyên nếp cũ, thay bằng
lối cảm nhận biện chứng mới về sự đổi thay của những trật tự, sự đảo lộn
các thang bảng giá trị đời sống, cả sự khủng hoảng niềm tin và tình trạng bất
an của con người trước những thay đổi lớn của thời đại... Một nhân vật
trong tác phẩm của một tác giả trẻ đã thổ lộ: “Vài trăm năm sau, khi
con cháu chúng ta nhìn lại cái thời đại này chẳng biết chúng nó sẽ
cười hay khóc hay cả hai” (Phan An- Quẩn quanh trong tổ).
Các tác giả với tư cách chủ thể sáng tạo, thấu triệt một cách nhìn
thế giới đầy tính khám phá, thế giới không phải nhất thể về bản
chất và hiện tượng, luôn phát triển theo chiều thuận, mà thế giới
chứa nhiều nghịch lý, nhiều mâu thuẫn, xung đột, trong đó con
người không là một hiện hữu “lập trình sẵn”. Con người đương đại
nhận thức thế giới cũng không phải bằng cách sao chụp đơn giản và đồng
nhất. Mỗi người có thể chiêm nghiệm thế giới ở nhiều cấp độ
khác nhau, có thể bị chi phối cùng lúc bởi nhiều hệ quy chiếu khác nhau. Với
từng hệ quy chiếu con người có một bản thể riêng! Hay nói một cách
khác con người đương đại “đa nhân cách” vì bản thể chỉ xác định trong
từng hoàn cảnh liên quan.
Ẩn chứa một quan niệm triết- mỹ như vậy, chúng ta có thể tìm ra
nhiều dẫn chứng về các mẫu nhân vật tương quan ở các
tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo
Ninh, Nguyễn Ngọc Tư, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn
Quang Thân, Trần Thuỳ Mai, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Sương Nguyệt Minh...Cuộc
sống luôn chứa đựng những mầm mống của sự phân hoá, các tác giả
không loại trừ những nhân vật tội lỗi, tha hoá, những “cái ác”, bên
cạnh, những nhân vật chính diện tích cực thời kỳ này cũng không
phải vắng bóng nhưng ít thành công như thời kỳ trước, đa phần thành
công là những nhân vật tuy sống trong một bối cảnh khắc nghiệt, cam
go, những số phận có thể là nạn nhân nhưng không đánh mất bản
ngã. Một nhân vật trong tiểu thuyết Trăng vỡ (Đức Ban) đã
thốt lên: Bom đạn thằng Mỹ nó khủng khiếp nó làm cho con người
thương tật đui què, thấy rõ ràng. Đằng này người ta làm cho anh bị
thương nhưng không thấy người ta đâu...Những vết thương tinh thần không
thấy rõ đối phương, con người trăn trở vật vã để vượt qua, trước hết
để vượt qua mình. Con người không thuần nhất, đầy tâm trạng trong cuộc
vận động mưu sinh để sống chứ không chỉ tồn tại, hoàn cảnh sống
khắc nghiệt, cạm bẫy rình rập, đời sống của họ – một đồ
thị hình sin cách quãng, vấp ngã, chao đảo, phân ly, nhưng ánh sáng
thiên lương vẫn không hề bị dập tắt, dẫu “trầy trật” trên mỗi bước
đi, luôn “ tự vấn” hướng về chân lý và điều thiện! Về phía ngược sáng,
xuất hiện các nhân vật phản diện trong quá khứ, những kẻ ở thế giới đối lập, được
thể hiện trong một cảm quan đầy tính nhân văn: là kẻ địch, kẻ xấu nhưng xấu
trong cái bản thể “người” chứ không hoàn toàn thuộc thế giới “vô nhân tính”, với
cộng đồng không đứt hẳn có thể hoàn lương trong một hoàn cảnh sống mới.
Trên bình diện xã hội, phải chăng đó là kiểu nhân vật sản phẩm cuộc
sống đương đại trong cơ chế thị trường, khác kiểu nhân vật tích cực
một chiều khá phổ biến của văn xuôi thời kỳ trước! Ngay các
tác giả đã “chín” với cách viết cũ trong việc thể hiện các nhân
vật ở các tác phẩm sau này cũng có nhiều thay đổi (Nguyễn Khắc
Trường - Mảnh đất lắm người nhiều ma, Dương Hướng - Bến không
chồng, Nguyễn Xuân Khánh - Hồ Qúy Ly, Ma Văn Kháng - Một mình
một ngựa, Lê Văn Thảo - Lên núi thả mây...). Đâu đây đều có sự băn khoăn đổi thay một lối viết nặng về thế giới
quan mà nhẹ cảm xúc thẩm mỹ, quá chú trọng vào việc thể hiện “bản
chất” xã hội theo lối cũ, trong khi cuộc sống đương đại cái tốt nhiều
nơi bị lu mờ mà cái xấu với mọi hình, mọi dạng tồn tại khá đậm, tác phẩm kiểu
đó thực chât sơ lược hóa cuộc sống, nhạt nhẽo hoá nghệ thuật. Bỏ quên hoặc
nương tay với cái ác , cái xấu bất cứ hình thức nào cũng tạo điều kiện cho nó
phát triển. Nhưng, văn chương thể hiện cái xấu, cái ác không phải là thêm vào
cái đuôi báo chí những sự kiện, những “con người xấu” đang đầy rẫy, mà cần
khái quát thể hiện “cái xấu” của con người , “cái xấu” của cuộc đời trong quá
trình phát triển, tồn tại, tha hóa để cảnh tỉnh mọi người, giúp mọi người tự kỷ
ám thị trước cái xầu, dù anh là ai! Đó là con đường đi của các tác phẩm lớn
từng gây ấn tượng sâu sắc cho độc giả. Cái xấu vượt qua biên giới báo chí, tiểu
thuyết hình sự để đến với tiểu thuyết tâm lý xã hội- một phấn đấu thể hiện tài
năng nhà văn. Điều này tiểu thuyểt, truyện ngắn còn có một khoảng cách với đời
sống!
Tiểu thuyết, truyện ngắn thời đổi mới thể hiện một lối tư duy đa
nghiệm về con người, về số phận cá nhân. Con người trong trạng thái
động, tính cách phong phú, được miêu tả trên nhiều phương diện, nhiều
cung bậc, không phải là một hằng số! Trong quan niệm mới về thể
loại, những số phận, những tâm lý cá nhân được đi sâu khai thác triệt
để cả đến những mảng tâm tư thường lấp kín bao nhiêu năm hoặc bởi
lớp bụi thành kiến hoặc bởi sự hời hợt về thi pháp. Lối viết mới
vượt qua lối trần thuật sự việc đơn giản cốt sao cho thật, cho đúng,
mà đề cao yếu tố cảm nhận, sáng tạo cá nhân tạo dựng những tính
cách đa dạng theo chiều sâu. Một thế hệ nhân vật mới trong tiểu
thuyết và truyện ngắn đương đại tính cách đa dạng hơn trước, bản thể
tâm linh và tính dục được miêu tả đầy đặn không còn rụt rè hoặc khô
cứng. Trong các tác phẩm (Quyên, Đức Phật, nàng Sivitri và
tôi, Thiên thần sám hối, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Cơ hội của
Chúa, Mẫu thượng ngàn, Bóng đè, Con gái nữ thuỷ thần, Trăng soi đáy
giếng, Khói trời lộng lẫy, ... ) các nhân vật có khi sống trong
một không khí huyền hoặc, tâm trạng chìm đắm trong ảo giác, vô
thức. Trong các chiều kích của sự thành công, quá khứ, hiện tại, thực,
mộng trộn lẫn, những triết lý nhân sinh xâu chuổi chiết tỏa trong các
thân phận, kiếp người...Trừ một số ít lạc lõng, đa phần những trang
viết về nhục cảm, về cái “bản năng gốc” dục tính của con người khá
đầy đặn, mềm mại khơi gợi sự đồng cảm thẩm mỹ, không thô thiển
thuần tuý bản năng ( Cõi người rung chuông tận thế, Một
mình một ngựa, Quyên, Dị hương, Cánh đồng bất tận, Lưu lạc thân xác,
Đàn chim sẻ-ri bay qua rừng, I am đàn bà...) Truyện ngắn Đàn
chim sẻ-ri bay qua rừng ( Võ Thị Xuân Hà), hội tụ được khá nhuần nhị các yếu
tố tâm linh, sex và hiện thực thông qua nhân vật mà nhiều người nhắc đến (Diễm).
Chúng tôi muốn lưu ý đến một kiểu nhân vật “khác”, một nhân vật giao thời, Thản đã
sống qua những ngày bom đạn, từng có người thân hy sinh trong chiến tranh, vẫn
có thể vui thú săn, tàn sát từng lũ chim, thản nhiên nhìn những vệt máu đỏ lòm
lom rỏ trên cỏ, ngước lên trời bình thản nói với người tình “vì chúng bạt
ngàn”. Nhân vật như tiên báo một lớp người hãnh tiến, vô cảm, gặt hái những hy
sinh của cha anh rồi sống trơ lỳ bởi những dục vọng cá nhân sau này.
3- Với cách nhìn đổi khác về xã hội, về con người đã kéo theo
những đổi mới về các biện pháp nghệ thuật từ kết cấu, xây dựng
hình tượng, ngôn ngữ...Khảo sát kỹ, chúng ta thấy không ít các tác
giả thể hiện lối viết mới trước hết ở sự tô đậm một số thủ
pháp nghệ thuật quen thuộc đã có từ truyền thống như: chú ý
sự pha tạp đời thường dân dã, tăng cường yếu tố nhục cảm, mở
rộng tính kỳ ảo sang địa hạt tâm linh vô thức, sau nữa biết kết
hợp xử dụng các yếu tố mới ở các hình thái tổng hợp thẩm mỹ
hiện đại xoay quanh một lối tư duy nghệ thuật mới xem cuộc sống
nhà văn miêu tả như đang diễn tiến, chưa hoàn thành: 1- kiểu kết cấu
mở, đa tuyến, phân mảnh hoặc lối lắp ghép điện ảnh, 2- đổi ngôi
trần thuật theo các điểm nhìn không cố định, 3- các mô thức giễu
nhại, 4- giọng điệu đa thanh theo hoàn cảnh hoặc tâm trạng...5- tổ hợp
ngôn ngữ đời thường giàu sắc thái cá nhân v.v...Trong mấy năm gần đây,
một số tác phẩm được giới phê bình lưu ý và nhắc đến (như một sự
thể nghiệm) là những tác phẩm ít nhiều có sự tìm tòi đổi
thay về hình thức phù hợp với lối tư duy tiểu thuyết “hậu hiện đại”: Thiên
thần sám hối - Tạ Duy Anh, Thoạt kỳ thuỷ, Ngồi - Nguyễn
Bình Phương, Phố Tàu - Thuận, Thời cơ của chúa - Nguyễn Việt
Hà, Và khi tro bụi - Đoàn Minh Phượng, Quyên - Nguyễn Văn Thọ ...
Không phải không có tác giả tuy rất nhạy bén với các thủ pháp mới,
làm theo rất nhanh, tuy nhiên đó chỉ là những tùy biến đầu ngọn mang
nhiều màu sắc hình thức. Kỹ thuật tân kỳ ở một vài tác phẩm có
thể nhận được vài lời khen đâu đó nhưng không đậu lại lâu trong lòng
bạn đọc, vì rằng sự đổi mới chân chính mà người đọc chờ đợi là
sự suy tư giàu màu sắc triết học cũng như tinh thần nhân bản trong tư
duy thẩm mỹ mà các tác giả cần trừu xuất ra khi tiếp cận nền văn
học thế giới, tiếp thêm năng lượng để sáng tạo có những tác phẩm
đỉnh cao, chứ không phải thói ham thanh chuộng lạ. Cũng không thể quên
sự ảnh hưởng qua lại giữa các nền văn học, đặc biệt là những chủ thuyết
lớn đã có tác động sâu xa ở nhiều nước là chuyện đương nhiên, nhưng
khi tiếp thu các chủ thuyết nước ngoài, không thể không tính đến
những điều kiện kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng của từng nước, không tính đến
thị hiếu của dân tộc mình.
4- Trên cơ sở nền kinh tế trẻ đang phát triển, một nền văn hoá hiện
đại giàu bản sắc dân tộc, những yếu tố tích cực mới mẻ thích hợp
đời sống văn học dân tộc đương đại đang dần định hình bổ
sung cho lý thuyết cũ đủ sức soi chiếu cho các trào lưu văn chương, thu
hút các tác giả và các sáng tác vào quỹ đạo của nó. Tuy dòng văn
xuôi của ta, đặc biệt là tiểu thuyết, chưa có nhiều tác phẩm “đỉnh”
gây ấn tượng mạnh, nhưng từ đó nhận định rằng ở ta hiện nay chưa có
“sự đổi mới về tư duy tiểu thuyết”, hoặc khẳng định “tư duy tiểu
thuyết, trong nền văn học Việt Nam đương đại là một trò chơi
thông tin, một câu chuyện ảo tưởng và lãng mạn” thì quả chưa
thật khách quan. Ngược lại, nếu chỉ điểm qua bốn năm tác giả với
mươi đầu sách mà sự khen chê của độc giả chưa rõ ràng, rồi cho rằng
CN Hậu hiện đại được khởi điểm và chắc chắn không lâu sẽ trở thành
dòng lớn trong văn học Việt thì e hơi vội!
Chúng tôi, như đã phân tích ở trên, nhằm lưu ý: Sự cách tân cốt yếu
là ở cách nhìn cuộc sống và con người chứ không cốt thể hiện
ở sự thay đổi liên tục các thủ pháp nghệ thuật. Quả thật từng
thời kỳ, văn xuôi chúng ta có những đổi mới phát triển trong một
dòng chảy liên tục. Dẫu khó tính đến đâu cũng nhận thấy là sự tiếp
thu cái mới đã làm cho diện mạo văn xuôi (tiểu thuyết, truyện ngắn)
thời kỳ sau này khác xa các thời kỳ trước. Vấn đề là sự đổi mới
chưa đồng đều thành một trào lưu rộng rãi và chưa có nhiều đỉnh cao
để minh chứng mạnh mẽ.
Chúng
tôi cũng cho rằng, yêu cầu một sự đổi thay mạnh mẽ toàn diện dòng
văn xuôi đương đại như kiểu văn học 30- 45 thay cho văn học trung - cận
đại, hay như văn học sau 1945 thay cho văn học tiền chiến, thì vấn đề
còn quá vội. Vì bên dưới những đổi thay thủ pháp nghệ thuật (hay
rộng hơn là một phương pháp sáng tác) phải có cơ sở một hệ tư
tưởng triết - mỹ tương ứng. Nền nghệ thuật Việt đương đại là sự
tiếp diễn hệ hình triết - mỹ từ sau CM Tháng Tám, một “hệ
thống mở” có đổi mới nhưng không đổi thay về nguyên lý, cho nên
thi pháp có đổi mới cũng chỉ đổi mới các thành tố, các yếu tố,
hữu dụng phục vụ cho nền nghệ thuật hiện thực gắn bó đời sống
cộng đồng, không thể miên man trong trạng thái phi lý của một hệ tư
tưởng triết - mỹ xa lạ mà có nhà lý luận cho rằng “văn học lâm nguy”
(T.Todorov).
Yến Nhi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét