Đọc thơ Lê Quốc Hán
Bất biến, tập thơ mới, “trạm dừng chân thứ tư” trên
hành trình thơ của Lê Quốc Hán. Một tập thơ có hình thức độc đáo.
Độc đáo không vì cái khổ vuông 17-17, cái màu bìa tím trầm hắt hiu
mà vì cái thư - tờ rơi ở bên trong của tác giả gửi bạn đọc. Nhà thơ
gợi ý: 36 bài thơ của tập làm thành 9 chùm, mỗi chùm bốn bài, sau
mỗi chùm là một trang để trắng mà tác gỉa gọi là “bài thơ không lời” - khoảng lặng mong độc giả dừng chân suy nghẫm. Đã có những khoảng
lặng trong dòng thơ, bài thơ, nay ta lại gặp những khoảng lặng trong
tập thơ. Mỗi nhà thơ là một cá tính, mỗi tập thơ là một cách cảm
nhận riêng tư trước cuộc đời, đây cũng chỉ là một ước vọng nhỏ khiêm
tốn của tác giả, người đọc rộng tình có thể tìm được vài phút
thú vị nơi cái khoảng lặng đó chăng? Anh đã có ba tập thơ, ba chặng
đường sáng tạo: Lời khấn nguyện (1996), Bến vô cùng (1999), Mạc
khải (2004. Cuộc hành trình về bến thi ca của nhà toán học (anh là PGS Toán học ở ĐHSP Vinh) đã được 15 năm, bằng con số
thời gian lưu lạc của nàng Kiều, có nghĩa là với tập thơ này anh đã
là một thi sĩ khá ổn định về phong cách để thăng bằng hai loại tư
duy toán học và thi ca, lôgic và hình tượng mà theo anh chúng không hề
mâu thuẩn mà hổ trợ cho nhau trong những nhân cách văn hoà lớn thời
hiện đại “Toán học và thi ca có những sự giao thoa sâu sắc rộng lớn
và đã vô tình tạo nên một sợi dây vô hình nối kết chặt chẽ chúng
với nhau [...] Toán học xem trí tuệ là mẫu thân, thi ca tôn
thờ tâm hồn là mẹ hiền.” (tr76)
Tập thơ có một dáng vẻ riêng trong dòng thơ hiện nay,
cái dáng riêng này phát triển từ tập thơ đầu cho đến bây giờ, nó “bất
biến” theo thời gian chỉ ngày càng phong phú thêm. Đó là sự hài hòa trí tuệ và tâm hồn là sắc thái “tĩnh” Phương Đông trong sự trầm
tích văn hoá nói chung và thơ ca nói riêng, mà đương đại nhiều nhà văn
hoá tìm đến. Nói một cách khác, thơ anh say đắm mà trầm tĩnh và
nhiều chiêm nghiệm, trong đó ánh sáng tâm linh đóng vai trò không nhò
như là sườn cốt của tập thơ. Lời đề từ: “những gì chưa rõ hình
hài, thì xin có mặt trong vài câu thơ” phần nào nói lên cái định
tính này, nói rõ cái dạng thức thơ ca của anh.
Anh thiên về những cái chưa rõ hình hài, cái tâm linh. Tập thơ trước có một câu thơ được bạn đọc lưu tâm “Nhắm mát nhìn xuyên bốn cõi, trông ra thế giới mù lòa“. Anh chiêm nghiệm cuộc đời bằng ánh sáng nội tâm. Sự rung cảm nhân sinh gói trọn trong ánh sáng trí tuệ. Phải chăng đó là nét riêng của tập thơ mới này và của thơ anh nói chung. Tình cảm trong thơ anh “đậm hương thơm tư tưởng” hay nói như Bielinski “lạ lùng sao trí nhớ (tuệ) của con tim!“
Anh thiên về những cái chưa rõ hình hài, cái tâm linh. Tập thơ trước có một câu thơ được bạn đọc lưu tâm “Nhắm mát nhìn xuyên bốn cõi, trông ra thế giới mù lòa“. Anh chiêm nghiệm cuộc đời bằng ánh sáng nội tâm. Sự rung cảm nhân sinh gói trọn trong ánh sáng trí tuệ. Phải chăng đó là nét riêng của tập thơ mới này và của thơ anh nói chung. Tình cảm trong thơ anh “đậm hương thơm tư tưởng” hay nói như Bielinski “lạ lùng sao trí nhớ (tuệ) của con tim!“
Trên phương diện đề tài, anh khai thác nhiều các tâm
thế trừu tượng của đời sống. Cứ đọc tên các bài thơ thì
rõ: “ga thời gian”, “chén đời”, “vĩnh hằng”, “tin”, “phận”, “bất biến”, “tồn tại”... Anh có hai bài thơ về
thời gian Ga thời gian và Bài thơ thời gian, trong
đó thời gian phân thân thành nhiều dạng hữu hình và vô hinh,
trong ta và ngoài ta: ga thời gian, con tàu thời gian, cây
thời gian. Thời gian khách quan và thời gian tâm linh, hình tượng thơ xui
ta nghĩ đến cái đồng hồ thời gian nửa phẳng nửa nghiêng trong
tranh Sanvado Dali.
đêm đêm thường mơ/ chuyến tàu thời gian/ giật lùi
phía trước
đêm đêm thương mơ/ cây thời gian đôi bờ/
rể mọc ngược
ga cuối cùng lạnh ngắt/ hoa
thẹn thùng cúi mặt.
(ga thời gian)
Trái đất ơi ngược vòng quay/ cho ta nhặt
lại cái ngày đầu tiên.
(bài thơ thời gian)
Thời gian và cuộc đời trong thơ anh có một liên
kết,một tương quan nghịch lý, thời gian thì trôi xuôi mà anh lai mong
nó chạy ngược, mong nó giật lùi phía trước, mong nó ngược
vòng quay... vì anh sợ nếu thời gian trôi nhanh, hạnh phúc, niềm
vui vụt biến đã đành nhưng anh lại sợ hơn, thời gian trôi đi
cuộc sống càng đầy thêm nhiều nghịch lý nhiều cay đắng, chẳng được “trong trẻo” nguyên vẹn như ngày còn thơ, ngày xưa; đến ga cuối cùng
ấy cuộc đời “lạnh ngắt” và tất cả... đến hoa
cũng thẹn thùng cúi mặt!
Đọc thơ anh dễ mà cũng khó. Khó hiểu muốn qua
nhanh,nhưng dừng lại suy ngẫm hiểu rồi thấy thích. Cấu tứ thơ anh
thường là những nghịch dụ, những so sánh ngầm dựa trên các mâu thuẫn
nhân sinh. Tập thơ có nhiều bài viết về tinh cảm gia đình, về cha mẹ,
về bè bạn, tình yêu như bốn khúc ca về mẹ, gặp em ở bến Ninh
Kiều, bất biến, mây Hàn, Vũng Tàu đêm nay... Thế sự, gia đinh, sự
nghiệp, tình yêu, hiện hữu trong những mâu thuẩn nội tâm, những băn
khoăn, lo âu, vui buồn... nhưng nhà thơ với niềm mong ước nhân
văn khuyên ta trở về “bến thiện” ban đầu. Cái cảm giác chung
là khi ra khỏi các bài thơ người đọc ít nhiều cảm thấy mình vừa
mừng vui, vừa lo âu... Ở Vũng Tàu thi “chưa quen đã lạ”, ở Ninh Kiêu
thì “ngập ngừng chưa kịp cầm tay, ngước lên: Sông Hậu rót đầy
mắt em”. Những giọt nước mắt chia ly!
Một phương diện cảm nhận khác về cuộc đời
trong thơ anh là triết lý nhân quả. Nhà thơ nghĩ rằng cuôc đời không
có gì từ hư không. Tồn tại có cái nhân hợp lý của nó Gốc nào quả
ấy, rễ nào hoa ấy, nhưng cái điều cảm nhân riêng trong tập thơ anh
là nhận thức để cho đời sau tươi đẹp thì đời nay phải
hướng thiện, phải hy sinh, để cho cuộc đời thơm hương con người đôi khi
phải cay đắng nhẫn nhục! Những triết lý nằm trong chữ “nhẫn”
đó phải chăng có đượm màu đạo
giới. Nhìn một đóa mai vàng khoe thắm trong sắc xuân, hẳn
nhiều người liên tưởng đến nhành mai của Mãn Giác thiền sư như là
một tiếp nối cuộc sống vô tận “chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết, đêm
qua sân trước một nhành mai”, LQH lại chiêm nghiệm một điều khác,
chiêm nghiệm tâm linh về thân phận con người:
gốc mai già nua/ lá dần thưa/ sắc rũa
sinh ra phận hoa/ xuân gõ cửa ...
(Phận)
Phận con người là thế, kiếp này già nua, chiụ đựng
tàn phai, để mong có một kiếp sau tươi nở trong màu xuân!
Không có một hạnh phúc nào, tươi tốt nào nảy ra từ hư không! Hay như
loài sen kia: tháng ngày nép mình lặng lẽ/ hồ ao sau nhà/
không lặn lội trong bùn/ làm sao thơm thảo thế/
(nhớ sen)
Thủ pháp nghệ thuật trong Bất biến chủ yếu
là các ẩn dụ tâm linh. Kỷ niệm về tình yêu một thuở - hoa cỏ may
- như những mũi tên mà cánh cung thời gian theo tháng ngày
rải dần lên mái tóc sương tuyết. Kỷ niệm dẫu buồn (vui)
vẫn làm giàu thêm cho tâm hồn tác giả:
đâu rồi hoa cỏ may/ thời gian cong thành nỏ/ hoa chuốt
thành tên bay/ có một chiều già buốt/ hoa rủ hình tên rơi/ gió
tình cờ nhặt được/ đem rải dần tóc tôi.
(hoa cỏ may)
Nhìn chung tập thơ đưa đến cho người đọc một cảm quan
mới về thơ ca. Cái mới chủ yếu là nhịp độ rung cảm, là cách
lập tứ giàu tính biểu tượng, là những liên tưởng qua lại giữa hữu
thức và vô thức, giữa sắc và không, đôi lúc pha màu siêu thực chứ
không dừng lại ở các phép tu từ về ngôn ngữ hay thể loại: không
viết hoa, vắt dòng, leo thang, thơ văn xuôi... Bất biến ghi
đậm thêm một phong cách thơ không nhằm lặp trong nền thơ hôm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét