Thứ Ba, 22 tháng 10, 2019

Bùi Giáng - Thi ca tư tưởng 1

Bùi Giáng - Thi ca tư tưởng 1 
Bùi Giáng - Thi ca tư tưởng 
(PHẠM HẦU, HỒ DZẾNH, NGUYỄN DU, NGÂN GIANG) 
Đi vào cõi thơ 
Ghé chơi một trận 
Bằng bước gót phiêu bồng 
Cõi thơ là cõi bồng phiêu 
Hoặc phiêu bồng tâm sự tân toan lệ 
Hoặc phiêu bồng tâm ý du dương tiếu 
Hoặc phiêu bồng tâm mộng trúc loạn ty 
Hoặc sao thì hoặc 
Dù sao thì dù 
Thể thái sao thì thể thái 
Cốt cách nghiễm nhiên rất mực 
Vẫn là bất tuyệt phiêu bồng 
Vậy kẻ nào 
Tự xét mình 
Từ trong tinh thể mà ra 
Chả có chi là phiêu bồng tí chút 
Thì chả nên cưỡng cầu 
Tự ép uổng 
Ghé vào thi ca thâm xứ làm chi 
Cho luống cái công lao trí hải 
Cho phí cái công trình bình sinh tâm nguyện 
Nay kính cẩn đề kê khai vô dữ ngữ 
(Bùi Giáng) 
Ví đem vào Sổ Đoạn Trường 
Thì treo giải Một mà nhường cho hai 
(Thúy Vân và Tam Hợp Đạo Cô) 
Phạm Hầu 
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận 
Chẳng biết xa lòng có những ai 
Đó là hai câu thơ cuối bài “Vọng Hải Đài”. Đó cũng là bầu khí hậu mênh mang sầu cô độc bàng bạc khắp mấy bài thơ của Phạm Hầu còn rơi rớt lại chúng ta ngày nay. 
“Chúng tôi đã cố công sưu tầm nhưng chỉ được đãi ngộ sáu bài thơ. Âu cũng lấy đó là niềm vui vậy.” (Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến) 
Hai ông Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng đã viết một bài hoàn hảo về Phạm Hầu. 
Chẳng biết trong lòng ghi những ai? 
Thềm son từng dội gót vân hài 
Hỡi ơi! Người chỉ là du khách 
Giây phút dừng chân vọng hải đài 
Kể từ ngày gặp Phạm Hầu trong Thi Nhân Việt Nam (của Hoài Thanh Hoài Chân) tới nay đã ngót một phần tư thế kỷ. Thằng học sinh đầu xanh nay tóc đã bạc. Nó xin đọc ôn lại thơ Phạm Hầu. 
Mãi dân trọn hồn vui muôn độ trước 
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi? 
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi 
Gió bốn hướng dằn co trong tử biệt 
Phạm Hầu viết những lời như thế thuở ông hai mươi mấy tuổi đầu. Hai mươi mấy tuổi mà dường như đã có đủ trong hồn một trăm năm đạo hạnh. Ông đi vào thi ca, nghệ thuật, với tâm hồn con người thanh tu đạt đạo. Người thanh niên ấy đã biết khước từ hết mọi thứ “dưỡng chất trần gian” và âm thầm gửi cho trần gian một chút tặng vật nho nhỏ. 
Ngờ đâu tặng vật nho nhỏ kia lại khổng lồ như một Kim Tự Tháp nằm giữa sa mạc mênh mông để ghi lại ngấn tích một nền văn minh huyền ảo nhất thế gian. 
Ông là con nhà thế phiệt trâm anh. Ông được kế thừa “y bát” của phụ thân Phạm Liệu. Y bát chân truyền kia đã đặt toàn khối văn học tư tưởng Trung Hoa tới đứng trước trận gió Tây Phương thổi lại. Thơ Phạm Hầu từ đó là cái vùng kết tinh của hai thể tinh văn minh. Hai văn minh đang gặp gỡ nhau, gùn ghè gắn bó hay tương tranh tiêu diệt nhau chơi? Chẳng rõ. Nhưng cái Tại Thể Thi Nhân của Phạm Hầu đã chịu hiến dâng thân mình ra làm Trường Sở Trụ cho cuộc cơn kia. Ông chấp thuận cuộc hôn phối cũng như cuộc giằng co. Và đem thân mình làm chiếc dương cầm cho ngân lên những cung bậc mênh mang chưa từng thấy trong văn chương kim cổ. 
Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước 
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi? 
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi 
Gió bốn hướng dằng co trong tử biệt 

Trong Thi Ca Tiền Chiến, đã có một Xuân Diệu làm người thanh niên ráo riết, một Huy Cận làm người thanh niên ngậm ngùi, một Hàn Mặc Tử làm người thanh niên đau khổ cực độ, Chế Lan Viên làm người chứng nhân cho điêu tàn, Hồ Dzếnh làm người đề huề giao hảo…lại thêm một Phạm Hầu làm người nghệ sỹ cao vời trang trọng mang một thánh tính u u ẩn ẩn như Nerval. Phạm Hầu mở ra trở lại chân trời bát ngát của Nguyễn Du trong giai đoạn cuối buổi Hoàng Hôn. Ông nói ít hơn Nguyễn Du, ông không đi vào giữa những thiên vạn thể của biển dâu, ông chỉ đơn sơ có mấy lời, nhưng mấy lời đào sâu khôn tả trong mạch giếng tân thanh. “Mãi Dâng Trọn Hồn Vui” là một kỳ tác muốn chìm sâu xuống mạch thẳm sinh tồn. Rồi khi ta cũng chịu ngập mình xuống đáy thẳm kia, thì kỳ tác nọ bỗng hiện thị như một Tòa Cổ Tháp nguy nga. Xin chép hết ra đây bài thơ đấy. Mãi dâng trọn hồn vui 
Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước  
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi? 
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi 
Gió bốn hướng dằng co trong tử biệt 
Tiếng rên siết giờ tàn khi chấm hết 
Cảnh thường xuyên đêm sáng đổi thay màu 
Tim nhói lên nức nở những Ban Đầu 
Những giờ cuối rơi rơi thầm tuyệt vọng 
Hay đời hỏi thịt êm và tủy nóng 
Tôi xin nằm yên ổn cả chân tay 
Nắng có lên không mượn rợp cây bày 
Mưa có xuống thêm băng hàn chút nữa 
Trong đầy ải mình trần tê ngọn lửa 
Tiệc chim bằng rỉa rói một lòng đơn 
Nếu tôi đau mà người nhẹ căm hờn 
Chắc hoa núi vui lay ngàn đóa mộng 
Muôn miệng thắm tươi nụ cười hé rộng 
Muôn chân say lay động khúc quân thiều 
Nếu tôi đau mà người được tin yêu 
Trang sách nhỏ nâng niu hồn xứ lạ 
Trên đêm thúy hoa nô liều áp má 
Đôi bạn đời tay dính nhựa a-giao 
Nếu tôi đau, Trời đẹp! Nếu tôi đau 
Mà muôn đời mưa nắng hiểu lòng nhau. 
Jesus Christ lúc lên Calvaire, ắt Ngài cũng âm thầm nguyện cầu như lời đó. Ngài đã về giữa bụi hồng, rửa chân cho bụi hồng nhân gian, bây giờ Ngài vĩnh biệt nhân gian, bây giờ Ngài vui lòng vĩnh biệt, và lời chúc phúc tối hậu của Ngài hẳn nhiên là: bụi hồng ở lại hãy tiếp tục rửa chân cho nhau. 
Còn Như Lai? Như Lai ỡm ờ niêm hoa vì tiếu: - “Ta có thấy bụi hồng nào đâu? Ta đâu nào thấy đâu có bàn chân chi đâu mà rửa với chẳng rửa? - Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà?...” 
Như Lai có cái tài tình trong phép đánh trống lảng. Đọc mấy bộ kinh Phật, ta xin xóa hết những nhan đề “Kim Cương Kinh, Bát Nhã Kinh, Bà Là Mật Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Pháp Hoa Kinh, Diệu Hoa Kinh, Huyễn Hoa Đệ Nhị Kinh, Ảo Hoặc La Treizième Kinh…” Xóa hết và chép lại là: “Như - Lai - đích - đánh - trống - lảng - tài - tình - tuyệt - kỹ - kinh. 
Hồ Dzếnh 
Ta không muốn nắn cung đàn 
Đêm xưa dạo dưới trăng vàng đợi em 
Bền gì thấp thoáng hương duyên 
Đẹp gì mấy sợi mây huyền gọi mơ 
Thơ dâng ngùn ngụt sắc cờ 
Máu tươi hoen ố những giờ ái ân 
Quên chân là khách dương trần 
Trái tim đau xót bao lần vì yêu
Bình minh về ánh cao siêu 

Lên thay lửa sống tiêu điều ngày xưa 
Ta cười thấy cháy duyên mơ 
Hân hoan khi xé những tờ… rất thơm 
Ý thiêng choán hết linh hồn 
Còn đâu gió nhớ cung buồn mà ca 
Lần đầu trước bóng em xa 
Không nghe run trái tim và… rất vui 
(Hoa Xuân Đất Việt) 
Nguyễn Du 
Sen tàn cúc lại nở hoa 
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân… 
Những câu thơ đẹp thiên hình vạn trạng, Nguyễn Du đã dành riêng cho Thúc Sinh một bồ rất lớn. 
Mày xanh trăng mới in ngần 
Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa… 
Lưu tâm tới những vần riêng biệt Nguyễn Du dành riêng cho Thúc Sinh, ắt ta sẽ nhận ra một ngụ ý sâu thẳm của Nguyễn Du. Người ta sẽ không xô bồ đứng trên quan điểm tâm lý học để bảo rằng Nguyễn Du đã tả được linh động một nhân vật nhu nhược, sợ vợ, hèn nhát, v.v… 
Hình ảnh Thúc Sinh sẽ đứng tại Trung tâm cái vùng tư tưởng thăm thẳm của Liệp Hộ, mà Dịch Kinh sẽ chiếu cố tới bằng những tiếng chả hạn như: “nhứt tịch nhứt hạp vị chi Biến, vãng lai bất cùng vị chi Thông…” 
Hoặc: “phù kiền thiên hạ chi chí kiện dã. Đức hạnh hằng dị trĩ tri hiểm. Phù khôn thiên hạ chi chí thuận dã. Đức hạnh hằng giản dĩ tri trở…” 
Hoặc: “Nguy giả, an kỳ vị giả dã. Vong giả báo kỳ tồn giả dã. Loan giả hữu kỳ trị giả dã. Thị cố quân tử an nhi bất vọng nguy, tồn nhi bất vọng vong, trí nhi bất vọng loạn…” 
Vân vân vân vân. Và mọi thứ vân vân đều có thể lược giảm về một tiếng đơn sơ “vô khả, vô bất khả”. 
Riêng một sự nhầm lẫn dị thường của học giả bấy nay về Thúc Sinh, đủ khiến chúng ta kinh dị hãi hùng, chẳng còn biết ăn nói gì ra gì được cả. Chẳng còn biết phải đặt vấn đề từ đâu ra đâu. 
(Đã như vậy, còn biết rớ vào đâu mà bừa bãi nêu câu hỏi về Shakespeare, Homère, Lý Bạch, vân vân?) 
Cái cuộc Kim Kiều dễ hiểu. Cuộc Từ Hải Kiều, cũng không rắc rối gì lắm. Nhưng cái cuộc Thúc Sinh Kiều, Hoạn Thư Kiều, lại là cái cuộc hàm hỗn gây náo động nhiều nhất trong tác phẩm Nguyễn Du. 
Đừng nói chi xa xôi. Chỉ thử hỏi: - Riêng cái việc Kiều tắm hoa trong một mùa Hè, lúc lửa lựu lập lòe đơm bông ở đầu tường, riêng cái việc cô Thúy tắm thôi, đã có gì như một “biến cố” hãi hùng, đến nỗi Nguyễn Du đã phải để chàng Thúc vịnh vào chỗ đó, bằng một bài Đường Thi - nghĩa là bằng cả lịch sử thi ca Trung Quốc? Đem cả một khối lịch sử kia về mở đối thoại với cái tòa thiên nhiên dày sẵn đúc kia, Nguyễn Du có dụng ý gì? Và từ đó Thiên Nhiên (Phusis) đã thành Tượng? 
Người ta sẽ xô bồ đáp một cách nông nổi rằng: - Nguyễn Du chả có đặc biệt dụng ý gì hết cả. Ông phỏng theo truyện Tàu, trong truyện Tàu có bài thơ vịnh Kiều tắm, thì ông Nguyễn Du cũng nhắc qua loa cái chuyện Thúc Sinh Vịnh Kiều tắm đấy thôi. Hỡi ôi! Nếu xét cho cùng kỳ lý, thì trong truyện Tàu lại còn tỉ mỉ ghi chép bài thơ nảy lửa nọ ra: 
Dạ nguyệt thanh lâu đảo ngọc hồ 
Mỹ nhân thừa túy khiết cù du 
Băng cơ thỏ phách tranh minh mỵ 
Tuyết thái hoa âm bán hữu vô 
Sở khởi đái tu hô bạn thức 
Dạ hành hàm tiếu thiến nhân phò 
Lâm ty khoái nhập phù dung trướng 
Chẩm thượng đê thanh xướng chá cô…. 
Bây giờ chúng ta nghĩ sao? Có phải rằng bấy lâu nay những lời bàn tán của chúng ta về Nguyễn Du, chẳng qua chỉ là tán hươu tán vượn? Nếu có đúng chăng nữa, thì cũng phải nên trả hết những lời ấy về cho truyện Tàu của Thanh Tâm Tài Nhân? 
Nếu câu hỏi não nùng ra như thế, bỗng nhiên chúng ta chạm phải một ẩn ngữ không cách gì trực tiếp giải đáp. 
Trong truyện Tàu, quả thật Thanh Tâm Tài Nhân đã có dành cho cặp Thúc Sinh Thúy Kiều một chỗ nằm ngồi rộng rãi tình tứ miên miên. Há đâu phải đợi tới ông Nguyễn Du mới có! 
Kiều tiễn Thúc Sinh đi, đề mười bài miên man những tán thán “kim tịch thi hà tịch?” những thở than “vấn quân hà nhựt tái quy đầu? Bất tri hà nhựt thị quy kỳ?”, chiêm vọng hương quan hà xứ thị?”…Thúc Sinh đi rồi, Thúy Kiều nằm trong giường mê man hoài niệm ngâm vịnh sáu bài trùng trùng điệp điệp những “tự quân chi xuất hỹ”, những “bất cảm thượng thanh lâu”, những “bất ngôn diệt bất ngữ”, những “vô nhựt bất nam tư”, “tư quân quân bất chí… vân vân… 
Kinh khủng thật. 
Những lời nồng nàn cháy bỏng máu me liên tồn thốt ra như thế, quả thật không còn coi trời đất ra gì. Chúng ta không dám nấn ná ở lại lâu. Ở lại lâu trong bầu khí hậu đó, ắt sẽ loạn mất tâm thần, tiêu ma tinh thể, còn đâu bình tĩnh sáng suốt mà nhận định đâu vào đâu để bàn tới dụng ý ông Nguyễn Du hay là dụng tâm của ông Du Nguyễn. Xếp lại mọi thứ đó, câu hỏi được nêu thành chất vấn như sau: “Cả ông Nguyễn Du, cả ông Thanh Tâm Tài Nhân, cùng có dụng tâm dụng ý gì, mà lại tả cái cuộc Thúy Kiều Thúc Sinh một cách não nùng thiết tha như thế?” 
Phạm Hầu 
Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân 
Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần 
Một cột đèn cao mơ góa bụa 
Đường dài toan nối hận gian truân 
Bốn câu thơ đầu bài “Lý Tưởng” của Phạm Hầu dường như kết tụ cả mối sầu của lớp người ngày trước… Sầu trong Lửa Thiêng, sầu trong những vần tịch mịch nhất của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính… cùng tìm về đây hội họp. Bốn câu quá sức mênh mang trầm tịch. Dường như tất cả những buổi chiều cô tịch Việt Nam đã ngưng đọng lại một lần. Những buổi chiều Thừa Thiên, chiều Hà Tịnh, chiều Quảng Ngãi Nam, chiều Sơn Tây… 
Nhưng mà thật ra trong bài thơ kia Phạm Hầu không có dụng ý tả buổi chiều gì cả. Nhan đề là “Lý Tưởng”. Người thi sĩ đi theo bóng lý tưởng đã bắt gặp màu sắc chiều tàn. Lý tưởng ở đâu? Thiết tha theo đuổi, nhưng chỉ nhìn thấy hoang vu. Chẳng ra lý tưởng là hoang vu hư không? Phải o bế hư không? Hôn phối với hư không, để thành tựu mộng hờ lý tưởng? Lý tưởng là mộng hờ? Biết rõ mộng hờ mơ góa bụa, sao vẫn cứ đeo đai đòi giao hoan với góa bụa? 
Biết rằng vô ích sao tôi vẫn 
Phung phí đời tôi mấy độ tươi 
Cổ kim có một thi nhân, nghệ sĩ, hiền nhân chân chính nào, lại chẳng nhận ra chính mình trong lời thở than đó của Phạm Hầu? 
Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc 
Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ 
Nói theo ngôn ngữ bình dân thì ấy chính là cái cuộc: 
Thả mồi bắt bóng 
Bóng bắt chẳng được 
Mồi kia không còn 
Há chẳng là 
Đáng tiếc lắm ru? 
Vâng. Biết rành rành rằng thế là đáng tiếc, mà sao vẫn cứ lu bù mài miệt trong cuộc đáng tiếc kia? Vì sao như thế? 
Ấy bởi lẽ trầm trọng sau đây: 
Thằng thi sĩ có cái cảm tưởng cắc cớ rằng: nếu từ bỏ cái cuộc cặm cụi loay hoay bắt bóng nọ, đã đành là trách được một cuộc đáng tiếc, nhưng vì lẽ gì, hỡi ôi! Chính cái sự tình tránh được cuộc đáng tiếc, lại chính đó là điều đáng tiếc khôn hàn, gay cấn trong mọi sự đáng tiếc ở đời. 
Do đó, dù biết rằng đuổi đeo là đáng tiếc, là mòn thân mỏi thể, thân tàn ma dại, v.v… vẫn cứ ù lỳ đuổi theo mãi mãi suốt một bình sinh. Thì cũng chẳng khác chi ông già Heidegger suốt một bình sinh cố công nhọc sức chạy đi kiếm tìm hư vô, để nắm lấy cái hư vô mà dắt dìu dẫn nó về cho Tại Thể đem nó ra mà thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học!!! Một hai lận đận nói mãi rằng Tồn Lưu chỉ có thể nhận diện mình là lúc Tồn Lưu chịu soi bóng mình trong tấm gương vô dạng của Hư Vô! 
Một trận hiện diện dị thường trong khiếm diện gây nên một tình tự vừa hoang vắng vừa chan hòa, một khuyết phạp thường hằng lại để mọc ra xum xuê những lá cây viên mãn cứ xô ùa nhau rụng mãi. 
Đó là cái tạm gọi là rappochement des extrêmes: participation totale et solitude. 
Bây giờ chúng ta nên thư thả đọc lại bài “Lý tưởng” kia, suốt từ đầu tới cuối, thử đọc thuộc một trận chơi, để xem mai sau trong chiêm bao, có còn cơ hội điều tra ra manh mối chập chờn kia của “Lý tưởng”. 
Lý tưởng 
Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân 
Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần 
Một cột đèn cao mơ góa bụa 
Đường dài toan nối hận gian truân 
Tôi theo tư tưởng vô cùng tận 
Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu 
Sáng sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng 
Những giờ mới lạ có bao nhiêu? 
Thuở nhỏ đêm mơ nằm thấy bướm 
Giờ không mơ bướm lại mơ thơ 
Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc 
Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ. 
- Ao ước ngày mai sắc nắng thơm 
Chiều mai thôi ráng nhuộm cô đơn 
Chiều qua gió thổi lời tôi nguyện 
Quên thổi giùm tôi hận chập chờn. 
Tôi đợi người đây, Tuyệt Đích ơi!
Dẫu xa, xa cách mấy phương trời 
Biết rằng vô ích sao tôi vẫn 
Phung phí đời tôi mấy độ tươi. 
Nếu bây giờ chúng ta đem cái tiếng “lý tưởng” của Phạm Hầu ra bài xích theo lối thô thiển của những người chuyên môn đẽo gọt từ ngữ theo lối phân tích tủn mủn “hợp thời trang”, thì ắt cái lý tưởng kia không còn đất đứng. Phải xóa sạch nó đi để dọn đường cho khoảnh khắc hiện tại. Người ta quên mất rằng mọi ngôn ngữ thi ca là của riêng thi ca. Chúng không có liên can chi tới cái ngôn ngữ máy móc. Chúng nằm trong cái mạch sinh động tuôn trào như một làn phi tuyền từ lòng đất uyên nguyên. Chúng nói lên cái niềm ngạc nhiên nguyên thủy của con người đối diện với cõi thế lưu ly. Nó quên bẵng mọi thứ nhân tuần cập kè trong xã hội ganh đua. Vì thế nó khai trừ cái “ký ức” lếu láo, cái “kinh nghiệm” bon chen, để phục hồi cái ký ức mênh mông, cái kinh nghiệm bát ngát trong những cuộc Lữ dị thường “trải qua một cuộc biển dâu…” 
Muốn quên, thì phải có nhớ. Muốn nhớ thì phải có quên. Nhưng quên cái gì và nhớ cái gì? Người ta xao lãng sự xác định đó. Người ta hí hửng a dua lao đầu tới ghì chộp viên kẹo “mới” và cứ tưởng mình tân kỳ biết coi thường cái bánh cũ. 
Nếu bây giờ chúng ta thử quên hết mọi giáo lý mà Ki Tô Giáo cũng như Phật Giáo ngày nay nói với ta, thì ắt cái hình ảnh nguyên thủy của Chúa Ki Tô và Như Lai sẽ hiện ra trong một niềm kinh thán bao la. Nếu ta quên đi hết mọi bài giảng giải chuyện Kiều của giáo dục nhà trường và của mọi ông học giả, ắt Nguyễn Du uyên nguyên sẽ hiện trở lại với cái vùng sương bóng của cuộc Lữ mênh mông Liệp Hộ, và của cơn Tịch Nhiên bất động của Thanh Hiên. Từ đó sẽ nảy ra một cuộc Hiện Diện vô ngần trong một cuộc Đối Thoại vô tức vô thanh. Vô tức vô thanh, vì nó không liên can chi tới những âm thanh của học giả. Vô ngần nghĩa là vô ngấn tích. Cuộc hiện diện vô ngấn tích vì nó nằm trong một trận khiếm diện dị thường đối với mọi thứ mưu toan thủ đoạn. 
Bài thơ của Phạm Hầu đi về giải thích cho Gia Long cái thái độ im lìm của Nguyễn Du. Giải thích cho Gia Long? Nhưng có đời nào Gia Long hiểu. Những ông vua Gia Long là những ông Chúa Tể Vạn Vật, Những ông ấy không bao giờ chịu làm Kẻ Láng Giếng thơ mộng của Tồn Lưu. Biết rõ rằng những ông ấy không bao giờ nghe ra gì gì cả, nhưng Khổng Tử xưa cũng cứ mở cuộc Lữ Chu Du tới bên gùn ghè đối thoại. Đó cũng là một cách chịu chơi với Sa Mạc. Cuộc Chu Du của Khổng Tử từ đó mang trọn cái ý nghĩa câu thơ: 
Một cột đèn cao mơ góa bụa 
Đường dài toan nối hận gian truân. 
Ngân Giang nữ sĩ 
Xin tặng bà mấy câu thơ tôi lắp lại thơ bà một buổi chiều lỡ dở: 
Hoa đào ngỏ vắng rụng mong manh 
Tỉnh giấc trà suông liễu rủ mành 
Đất lạnh xóm nghèo hoa chậm nở 
Can tràng ai hẹn với ngày xanh 
Ngày xưa chúng tôi không được đọc thơ bà. Sách Hoài Thanh Hoài Chân đã bỏ sót. Nay gặp bà trong sách của Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng. Thấy ông Bùi Khánh Đản họa thơ bà, tôi cũng xin nối điệu chút ít. Tôi không biết họa thơ. Xin gieo vài lời vịnh lạc lõng: 
Mưa thu buổi sáng ướt thềm 
Tiếng rên rỉ nọ còn thêm nỗi gì. 
Dâng lên từng đợt lỗi nghì 
Mùa xuân đã chết ai về gọi thu 
Tôi đọc kỹ những bài thơ và văn xuôi của bà trong cuốn sách ấy. Tôi biết nói gì bây giờ? Chẳng lẽ lại lảm nhảm nói một điều quá hiển nhiên rằng thơ bà cũng quan trọng như thơ bà Huyện Thanh Quan? Đằm thắm não nùng như linh hồn Đoàn Thị Điểm? Bà hiện giờ ở đâu? Nếu quẩn quanh có mặt ở Sài Gòn? Thì chắc tôi xin rúc ra khỏi gian nhà, đi tìm thăm viếng bà. 
Bài “Xuân Tưởng”, bà có ghi: “Dám mong các bạn thơ trả lời bằng những câu hỏi thơ này”. 
Tôi cũng không thể trả lời bằng thơ. Trả lời bằng văn xuôi cũng không thể. Chỉ có thế viết câu hỏi của bà đã nêu ra: 
Hoa đào múa cánh cuối đông rồi 
Một vẫy tay tiên đủ tám bài 
Ngày muộn trường văn tàn nét bút 
Người làm thơ muộn đấy là ai? 
Là ai? tôi không biết. Nhưng người làm thơ muộn có thể biết. Vậy để nhờ người ấy đáp. 
Cách mấy mươi năm giấy mực già 
Bất ngờ trùng hiện gió xưa hoa 
Người làm thơ muộn nêu câu hỏi 
Kẻ muộn làm thơ họa há là… 
Tạm đáp dở dang như thế. Bây giờ tạm gọi là bình tĩnh yên ổn. Xin chậm rãi chép lại vài bài thơ của bà ra đây. 
1. Ngày xưa 
Ngày xưa có một người thơ 
Vào rừng thông lạnh đợi chờ gió reo 
Chim hôm loáng thoáng qua đèo 
Cảnh chiều buông tiếng chuông chùa ngân nga… 
2. Thế ra 
Thế ra thu đã đến rồi 
Thảo nào mưa gió tơi bời mấy hôm 
Xa xôi ai đấy có buồn? 
Thôn Dương ngành liễu võ vàng tương tư 
3. Đêm mưa 
Gió mưa ướt áo đủ rồi 
Sao còn ngấm lạnh lòng tôi thế này 
Ốm đau đã mấy tuần nay 
Nét cười đã với tháng ngày trôi xa 
Giờ không gạn chút vui thừa 
Tựa song quạnh vắng nhìn mưa rơi buồn 
Nhờ ai chắp hộ mảnh hồn 
Đã vì đau giận rũ tan khắp trời 
Mưa rơi từng giọt mưa rơi 
Lòng ai có lạnh như tôi thế này 
Kính thưa Ngân Giang nữ sĩ! 
Vãn bối nhận thấy rằng thơ và văn xuôi của tiền bối đều đạt tới mức lô hỏa thuần thanh. Tiền bối hồn nhiên đạt tới như thế là vì tâm hồn tiền bối mênh mông? Hay là tiền bối có chịu khó luyện tập nhiều năm nên mới đạt được thập thành công lực? 
Nay mai nếu tôi làm được bài thơ nào, tôi xin đề tặng tiền bối. Và nếu tiền bối cần thỉnh giáo điều gì, tại hạ cũng sẽ sẵn sàng chỉ vẽ cho. Chả hạn? - Chả hạn: tại hạ vốn là thằng thi sĩ đi khắp cõi uyên nguyên, siêu thực, gặp từ con chuồn chuồn nguyên thủy bão giông, tới con hùm thiêng thủy nguyên giông bão, vì lẽ gì tại hạ lại còn chiều chuộng những bài thơ chả có chi bão tố phong ba? - Đáp rằng: tại hạ đã chán ngấy hết mọi thứ phong ba bão tố rồi. Tại hạ thấy nó cũng ù lý le lói ra một thứ nhà ma đó thôi. Ích gì mà triền miên lâu ngày ở trong đó. Nên bế mạc sớm cho xong. Tại hạ tìm tới viếng thăm tiền bối, xin uống một tách nước trà đạm nhiên là đủ. Chỉ cầu mong một điều: trà kia không có pha thêm những bột phấn phồn hoa, và bàn tay pha trà không phải là bàn tay của một kẻ tốt nghiệp chuyên môn nơi một trường cao đẳng Trà Đạo, Trà Lý gì gì hết cả. 
Bùi Giáng - Thi ca tư tưởng 
(VÂN ĐÀI, XUÂN DIỆU, HỒ DZẾNH, ĐINH HÙNG, TRẦN THY NHÃ CA, MARTIN HEIDEGGER, NGUYỄN DU, HOÀI KHANH, DỊCH, NGUYỄN DU VÀ SHAKESPEARE, DỊCH) 
Vân Đài 
Đọc ông Nguyễn Du mãi cũng chán. Rồi từ Đường Thi, nhảy vọt qua Tây Phương, chạy tìm những Tượng Trưng, Siêu Thực, Siêu Thể, Siêu Hình, hơn hai mươi năm, kể cũng đà tới lúc ớn khắp linh hồn. Thơ Nguyễn Công Trứ là một con zéro. Thơ Cao Bá Quát là một con zéro rưỡi. Thơ theo thể Đường Luật của các ông Nho học uyên bác, toàn là rờ rẫm cóp nhặt Tàu, những bộ xương khô quái gỡ. Hàng vạn bài na ná giọng điệu giống nhau. 
Chỉ còn mấy bài của Ngân Giang nữ sĩ và Vân Đài nữ sĩ là có linh hồn. Hai bậc tiền bối này quả có chân thành. Có sống trọn linh hồn. Bài thơ hai bà làm đúng là bài thơ sông núi. Dù có sáo chăng nữa, thì đấy cũng là cái sáo của sông núi phát tiết ra. 
Yêu thương dậy lại đầy trời 
Lòng ơi! Đường cũ núi đồi còn đây 
Đọc câu thơ như thế, quả thật tại hạ muốn làm đứa bé xách giép cho bà, đi sau chân bà, ủng hộ bà trong cuộc ngao du sơn thủy. 
Kể chuyện Nerval! Heidegger cho bà nghe. 
Bà cũng biết uống rượu 
Giốc cạn duyên thơ quá chén rồi 
Men nồng thắm đỏ khắp hồn tôi 
Vui không có bạn sầu không có  
Nằm giữa lòng trăng khóc giữa trời 
Đầu ngã cành xanh vai vũ trụ 
Tay ôm hương sắc những mùa tươi 
Quên nghe thời khắc quên năm tháng 
Say uống hương hoa giữa suốt đời 
Cái thứ rượu bà uống say kia té ra không phải la de hoặc rượu đế. Tại hạ mừng hụt. Phải chi tiền bối uống rượu thật sự, thì mỗi phen nhậu nhẹt, ắt tiền bối gọi tại hạ tới cho nhấm chút ít. 
Dù sao hai câu thơ đồ sộ bát ngát của tiền bối cũng an ủi vãn bối phần nào: 
Vui không có bạn sầu không có 
Nằm giữa lòng trăng khóc giữa trời 
Quả thật bốn ngàn năm văn hiến Việt Nam, chỉ có thể cho nảy hột tinh hoa ra hai câu thơ như thế. Phải chi ông Nguyễn Du, ông Nguyễn Trãi còn sống thì vãn bối đem hai câu thơ ấy đọc cho hai ông nghe. 
Lục bát của bà trong bài “Biệt ly” cũng thật dịu dàng. Ta phải coi Vân Đài nữ sĩ như bà ngoại bà nội chúng ta, thì mới cảm hết cái chỗ mênh mông trong mấy vần này: 
Lòng ta tràn ngập nỗi buồn 
Như người đứng ngã ba đường nhớ ai 
Trái tim hồi hộp thở dài 
Hòa theo với tiếng bốn trời tiễn đưa 
Sáng nay mây trắng bơ phờ 
Gió ngừng mặc rặng lau thưa bên nguồn 
Thuyền đi sông nước ngại ngùng 
Bến xanh xanh vẫn ngóng trông tháng ngày 
Giang lăng cách trở đâu đây 
Nghe đêm vượn hót nghe ngày chim kêu. 
(“Tặng cảnh Cát Bà”) 
Xuân Diệu 
Nếu đọc Vân Đài và Ngân Giang, phải nghĩ rằng đó là lời thơ của bà ngoại bà nội chúng ta, mới cảm thấy hay thấm thía - thì đọc Xuân Diệu, ắt nên nghĩ rằng đó là thơ của một thằng em. Sự tình tứ đó sẽ đổi hẳn tính cách. 
Sau ba mươi năm dài, trải bao trận phiêu du ngoài đời, cũng như lưu ly trong thi ca tư tưởng, ngày nay cầm lại cuốn Thơ Thơ, tại hạ cảm thấy một cái gì không thể tả. Đọc lại thơ Nguyễn Bính, thơ Lưu Trọng Lư, có thể không bồi hồi chi mấy. Nhưng đọc Thơ Thơ, lại khác hẳn. Dường như toàn thể tuổi xuân bỗng sống dậy kêu gào. Xóa đi những lời lếu láo lải nhải, còn lại những lời chân thật riêng biệt chân thành của tuổi trẻ: 
Không có cánh nhưng vẫn thèm bay bổng 
Đi sâu trong sân mà nhớ chuyện trên trời 
Trút thời gian tong một phút chơi vơi 
Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ 
Thơ hồn nhiên rộng rãi như thế đúng là thơ của thiên tài tuổi trẻ. 
Đi trong sân mà nhớ chuyện trên trời 
Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ 
Chúng ta đã ngột ngạt vì thơ đoạn trường của Nguyễn Du, thơ đìu hiu của bà huyện Thanh Quan, thơ ồ ạt lếu láo của Nguyễn Công Trứ, thơ trắng trợn của Trần Tế Xương… thơ già trước tuổi của những thi tài nảy ra trong vòng mười năm nay…
Thì bây giờ cũng đã tới lúc xua ùa đi hết mọi thứ thơ não nùng kia, và đọc lại Xuân Diệu: 
Vì sao giáp mặt buổi đầu tiên 
Tôi đã đày thân giữa xứ phiền 
Không thể vô tình qua trước cửa 
Biết rằng gặp gỡ đã vô duyên 
Kể từ sau 1945, các loại thơ này vốn không mảy may rung động chúng ta được nữa. Chúng ta đứng trước những phong ba, linh hồn chúng ta mang những ưu tư khắc khoải khác. Thơ trữ tình, thơ yêu đương vớ vẩn nhớ nhung kia, chúng ta bỏ trôi mất hút, không một chút bận tâm.
Nhưng rồi phong ba cứ dồn dập, càng ngày càng mang tính cách nhố nhế thêm ra, tủn mủn đầu độc thêm ra, thì ưu tư khắc khoải trở thành chuyện tầm phào, siêu thi, siêu tưởng, siêu triết… trở thành chuyện đĩ điếm. Văn chương văn nghệ trở thành chuyện bán cá ngoài trợ. Nợ tang bồng vay trả trả vay, trở thành chuyện phỉnh phờ con nít. Lưu thủ đan tâm, trở thành chuyện tán gái đâm toang. Chiếu hãn thanh, trở thành chiếu chăn mài cọ lầu xanh meo mốc. 
Ngót hai mươi năm rồi, ngụp trong đó, chúng ta lừa lọc nhau và tự lừa dối mình. Bây giờ đã thấm mệt với cái trò nhảy nhót nhấp nháy kia. Thôi xin từ giã mọi thứ đó. Xin chạy theo sau thằng thanh niên ngây ngô ngày trước chơi một trận. 
Hồ Dzếnh 
Bài “Rằm Tháng Giêng” của Hồ Dzếnh quả thật là một bài thơ hay: Chị tôi vào lễ trong chùa 
Hai chàng trai trẻ khấn đùa hai bên 
Lòng thành lễ vật dâng lên
Cầu cho tiểu được ngoài giêng đắt chồng 
Chị tôi phụng phịu má hồng 
Vùng vằng suýt nữa quên bồng cả tôi 
Tam quang ngoài mát chị ngồi 
Chị nghe đoán quẻ chị cười luôn luôn 
Quỉ thần thóc mách mà khôn 
Số này chồng đắt đẻ con cũng nhiều 
(“Rằm tháng Giêng”) 
Người Việt Nam có thể không đọc Nguyễn Du, nhưng không thể nào không đọc bài thơ kia của Hồ Dzếnh. 
Bài “Lời Về” của ông riêng bốn câu cuối cũng đủ là một tuyệt tác cổ kim: 
Vó ngựa từ ngày vỗ xuống Nam 
Truông mòn đưa lối Hải Vân San 
Áo nâu phai nhạt màu cây cỏ 
Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm 
Một bài tứ tuyệt như thế đúng là một tặng vật của Đường Thi. Nhưng Đường Thi ghé xuống Việt Nam, Đường Thi đã nhảy một bước vô biên. Không còn Lý Bạch, Thôi Hiệu, Tô Đông Pha nào chạy kịp được nữa. 
Vì trong đó có ba sử lịch đang gùn ghè nhau. Sử lịch Trung Hoa, sử lịch Việt Nam, sử lịch Chiêm Thành: 
Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm 
Một câu thơ đơn giản như thế mang toàn khối Như Lai trong mấy trăm bộ kinh Phật. Và thừa dư công lực hư vô để thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học Tây Phương. Ông Heidegger khỏi phải bận tâm hỳ hục lôi cả Hoelderlin, Sophocle, Parménide, vào trong cuộc thiết lập cơ sở mới làm gì. 
Cái cuộc Lữ dị thường của Khổng Tử bỗng nhiên tiếp giáp với Thái Hư Tịch Mịch trong bốn câu thơ kia của Hồ Dzếnh. Đó là điều mà trong tập Điêu Tàn của Chế Lan Viên, ta mỏi mắt tìm không thấy. 
Đinh Hùng 
Nguồn thơ của Đinh Hùng trong Mê Hồn Ca là nguồn thơ lạ nhất trong thi ca Việt Nam. 
Tới Đường Vào Tình Sử, thì nguồn thơ kia bỗng như tắt ngấm. Đinh Hùng trở thành kẻ rờ rờ rẫm rẫm. Tuy nhiên, trong Đường Vào Tình Sử cũng còn mấy bài bát ngát ở lại buồn bã vô song. 
Trần Thy Nhã Ca 
Chợt tiếng buồn xưa động bóng cây 
Người đi chưa lại dấu chân này 
Bàn tay nằm đó không ngày tháng 
Tình ái xin về với cỏ may 
Rồi lá mùa xanh cũng đỏ dần 
Còn đây niềm hối tiếc thanh xuân 
Giấc mơ choàng dậy tan hình bóng 
Và nỗi tàn phai gõ một lần 
Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài 
Khuya chìm trong tiếng khóc tương lai 
Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối 
Tôi mất thời gian lỡ nụ cười 
Đời sống ôi buồn như cỏ khô 
Này anh em cũng tựa sương mù 
Khi về tay nhỏ che trời rét 
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ 
Bài “Thanh Xuân” của Trần Thy Nhã Ca nghe như lời chiếu cố của một vị Quan Âm Bồ Tát. 
Tưởng chừng như nếu các vị Tổng Thống phu nhân ở thế giới tình cờ đọc được, ắt các phu nhân vui lòng cạo đầu sạch sẽ để đi tu. 
Tôi tiếc mình không có tài bàn giải như Kim Thánh Thán Mái Tây, nên tìm không đủ lời tuyệt đối viết ra. Ngày mai ắt tôi sẽ chết không nhắm mắt được. 
Thử nêu câu hỏi: Nếu như những ông Khổng Tử đọc bài thơ đó, ắt sẽ gây ra sự gì? Tất nhiên là các ông sẽ chẳng bận tâm hỳ hục soạn Kinh Thi, Kinh Dịch làm gì nữa. 
Martin Heidegger 
Ông ở lại trên mảnh đất đai Siêu Hình Học Âu Châu, ông cày bừa trên mảnh đất ấy. Suốt hơn một phần ba thế kỷ, ông cặm cụi vạch gai góc và gieo vài hạt giống trên mảnh đất ngổn ngang. 
Những hạt giống đầu tiên gieo vào mảnh đất đầy chướng ngại, phải là những hạt giống thích hợp. 
Thích hợp với cái gì? Với mảnh đất đai kia với những hàng rào vây bọc mảnh đất đai kia, với bầu khí hậu phong tỏa mảnh đất đai kia. Những gai góc đủ loại đã mọc đầy, bầu khí hậu bị vẩn đục, con người Siêu Hình Học Âu Châu không còn có thể nhìn ra tinh thể những “hàng cây sơ thủy” vốn đã mọc trên đó. (Trong tập thơ Lá Hoa Cồn ngày trước, tôi có ý muốn nói tới sự tình đó, trong những bài “Hàng Cây Sơ Thủy”, “Vào Nguyên Thủy Giục”, “Logos”, vân vân). 
Những “hàng cây” nọ cần phải được nhìn ngó trở lại, muốn nhìn ngó trở lại, trước tiên phải tẩy gột những gì làm vướng nhãn quan. 
Nhìn ngó trở lại để làm gì? Để đừng sa vào tình trạng vong bản. Quên mất cội nguồn bát ngát ban sơ, đó là lý do đã khiến những triết gia cận đại Âu Châu không cách gì mở đối thoại với Đông Phương. Heidegger luôn luôn bảo rằng ông chẳng có ý dựng triết thuyết gì cả. Tư tưởng của ông chỉ là một tư tưởng chuẩn bị - nhứt điều chuẩn bị đích tư tưởng. (Xem Sương Bình Nguyên và Trăng Châu Thổ). Chuẩn bị cho cái gì? Đáp: cho một trận đối thoại về sau giữa Tây Phương và Đông Phương. 
Do đó Heidegger lập ngôn trong một Nếp Gấp Nhị Bội, mà các triết gia Âu Châu ít chịu lưu ý tới. Cái điều đối với Heidegger chỉ là điều tạm thời, tạm bợ, người ta cho đó là điều cốt yếu. Cái điều cốt yếu thì Heidegger lại nói thoảng qua trong những mệnh đề phụ - là những hạt giống lơ thơ gieo ra trong một vùng sương bóng vô tức vô thanh tiếp giáp với lục bát thi ca Việt Nam bất tuyệt. 
Waehlens theo dõi tư tưởng Heidegger nhiều ngày, vẫn không nhận ra điều cốt yếu nọ. Mọi triết gia bàn tới Heidegger đều bàn lui bàn tới những thứ ở ngoài mép rìa. Nghĩa là: đăng đường thì có, mà nhập thất thì không. 
Chung quy có lẽ chỉ vì họ mãi mãi ở trong cái tình trạng: thấy sự vụ đương nhiên là thế, mà không rõ đâu là nguyên do sử lịch đã quyết định sự vụ là thế. 
Hoặc nói theo ngôn ngữ người Trung Hoa: 
“Tha môn hiển nhiên thị chỉ tri kỳ đương nhiên, nhi bất tri kỳ sở dĩ nhiên”. 
Khổ thay. Nếy bây giờ chúng ta lò dò chạy hỏi ông Heidegger xem sự tình gay cấn đó có phải có nguyên nhân éo le như thế chăng, thì Heidegger ắt lửng lơ niêm hoa vi tiếu theo lối Khổng Tử ỡm ờ: - Tại hạ quả thật cũng chả rõ đâu vào đâu cho lắm… Kính thưa các hạ ạ! Kỳ trung nguyên nhân, lão hủ nhứt thời giả thuyết bất thanh sở. Phản chính cứ lão hủ sở kiến, tam thành tựu thị giá dạng đích lặc…”
Đó là phong thái của những nhà đại tư tưởng cổ kim. Họ đáp theo lối lửng lơ. Trong khi học giả xô bồ, bao giờ cũng tấp nập nối đuôi nhau tấn công ông già kia một cách ráo riết. 
Cái thái độ ráo riết kia đã bao phen khiến cho mọi cuộc đối thoại chân chính đành phải chịu phần chấm dứt ngay khi mới vừa khởi đầu. 
Nếu bây giờ chúng ta thử bỏ ra khoảng chín mươi chín năm đọc lại Heidegger, ắt là chúng ta sẽ dần dà nhận thấy rằng: cái hạt giống mong manh mà Heidegger đã gieo vào mảnh đất Siêu Hình Học Âu Châu, cái hạt giống bé bỏng đó quả thật đã manh nha mọi thứ cây cối đồ sộ, mà về sau thiên hạ sẽ thi đua nhau về leo trèo hái ngắt mọi thứ hoa quả và có thể tưởng lầm rằng hoa quả ấy là của riêng mình trồng trọt ra, chứ chẳng phải của ông Heidegger hoặc Martin gì ráo! 
Định mệnh của những tư tưởng hoằng viễn xưa nay, vẫn mãi mãi là như thế. Những kẻ gieo giống chả bao giờ thấy cây mọc, chẳng bao giờ thấy đâm hoa kết quả, chẳng bao giờ thu hoạch mùa màng. Họ chỉ phụng bồi cho cuộc gieo hạt, và hơn nữa, phụng bồi cho cuộc soạn sửa gieo hạt mà thôi. 
Il ne servent qu’aux semailles, et même, plutôt à là préparation de celles-ci. Sie diene der Aussaat und eher noch der Vorbereitung dieser. 
(Xem Trăng Châu Thổ, trg 467-468). 
Heidegger là kẻ nhìn thấy rất rõ duyên do cuộc tẩu hỏa nhập ma của những Nietzsche, Hoelderlin, và - nhẹ hơn - của Rilke. Ông muốn tránh cho những nhà tư tưởng, những kẻ sáng tạo mai sau khỏi lâm vào tình trạnh tẩu hỏa nhập ma - đó cũng là một trong những duyên do dã khiến ông lập ngôn một cách dị thường ẩn mật. 
Nếu bây giờ chúng ta suy gẫm về Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, nếu ta nghĩ rằng viết Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du tuyệt nhiên chẳng có ý ký thác tâm sự riêng tây của “di thần triều Lê” gì gì cả, thì sự vụ ắt còn rọi vài tia sáng vào cuộc lập ngôn của Heidegger. Nếu như Nguyễn Du viết Truyện Kiều với cứu cánh trực tiếp mở đối thoại với Gia Long? Gián tiếp mở đối thoại với Trung Hoa? Và rộng rãi hơn: mở đối thoại với sử lịch Đông Phương? Hoặc: mở đối thoại với tứ hải? - Thì từ đó, những nếp gấp khôn hàn nào trong Truyện Kiều sẽ chậm rãi mở ra? Và từ đó chúng ta sẽ “làm thơ” theo thể thái nào để đáp ứng? 
Bây giờ để thử tránh lỗi tư tưởng một chiều. Chúng ta hãy nêu vài câu hỏi liên can tới tới Nietzsche. 
Sự tình “đương nhiên” là Nietzsche có xô bồ công kích Jésus Christ. Nhưng đâu là cái lẽ “sở dĩ nhiên” của cuộc đó? Sau cuộc đó, Nietzsche bị tẩu hỏa nhập ma. Ông thật “bị” tẩu hỏa nhập ma, hay là ông cố tình lao đầu vào chịu trận tẩu hỏa nhập ma? Nếu ông có cố ý, thì đâu là duyên do sự cố ý ấy? Nếu đem sự tình kia ra hỏi Nguyễn Du, thì Nguyễn Du sẽ đáp bằng câu thơ nào trong Truyện Kiều? Khổng Tử sẽ phụ họa vào câu thơ đó bằng cái lời nào của Ngài? Thằng thi sỹ Việt Nam ngày nay có nên nêu mọi sự đó ra bàn luận trực tiếp? Nietzsche có bằng lòng thuận để cho nó nêu ra hay là Nietzsche sẽ bảo rằng: “vấn đề đối với các hạ bây gờ là nên sớm đánh mất tại hạ đi!” Đánh mất bằng cách nào? Sao gọi là đánh mất? Lặng lẽ giũ áo ra đi, hay là lao mình tới công kích? Hay là vừa công kích, vừa bỏ đi, vừa thân tặng ông vài vần thơ lây lất? Hay là chịu chơi gay cấn bảo rằng: - Nhân danh là thi sĩ Việt Nam, tôi xin nguyện làm nô lệ ông suốt đời?
Nguyễn Du 
Từ rằng: ân oán hai bên 
Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh 
Nàng rằng: nhờ cậy uy linh 
Hãy xin báo đáp ân tình cho phu 
Báo ân rồi sẽ trả thù 
Từ rằng: việc ấy để cho mặc nàng 
Hai lần Từ Hải dùng tiếng “mặc nàng”. Để cho mặc nàng. Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh. 
Rồi Từ Hải im lặng suốt buổi. Trong cơn im lặng, Từ Hải đã nhìn thấy Kiều chẳng minh mẫn gì hết. Nhưng không hề gì. Điều trầm trọng là cái tiếng “mặc nàng” Nguyễn Du đã để cho Từ Hải thốt lúc bấy giờ. 
Hai tiếng “mặc nàng” đó ngày sau sẽ quyết định cuộc đầu hàng của Từ Hải. Việc bây giờ để cho mặc nàng, thì mọi việc về sau cũng sẽ để cho mặc nàng quyết định. 
Nghe lời nàng nói mặn mà 
Thế công Từ mới đổi ra thế hàng 
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng 
Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh 
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng. Nguyễn Du dùng tiếng “vội vàng” một cách thật kỳ bí. Càn khôn vũ trụ gì cùng theo nhau điên tam đảo tứ hết cả, trong hai tiếng vội vàng kia. Cái “triều đình riêng một góc trời” của Từ Hải đang lăn lóc quay lông lốc trong hai tiếng vội vàng. 
Từ Hải “chịu chơi” đến cái mức bất khả tư nghị. Tuyệt đỉnh của thiên tài Từ Hải là ở chỗ đó. Trong một nháy, đem xô ùa hết cả cứu cánh đời mình để đáp lại những lời “nhạt như nước ốc” của Kiều. Nhạt như nước ốc, mà chàng thấy mặn mà khôn tả, ấy bởi vì cõi lòng của kẻ anh hùng vốn là: đã chịu chơi, thì bất kể lam hồng tạo bạch. Từ Hải và Tú Bà là hai thái cực. Nhưng đáo cùng, hai thái cực khác nhau ở hai điểm: 
Chơi cho liễu chán hoa chê 
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời 
Từ Hải đã vì Thúy Kiều mà nghênh ngang dựng một cõi biên thùy, theo chàng nói: 
Bao giờ mười vạn tinh binh 
Tiếng loa giậy đất uy linh rợp đường 
Làm cho rõ mặt phi thường 
Bấy giờ ta sẽ rước nường nghi gia 
Nhưng bây giờ Kiều đã bảo “Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào” thì lập thời Từ Hải vội vàng xóa bỏ hết cái cuộc kia. 
Tin lời thành hạ yêu minh 
Cái niềm tin thật sự của chàng đã mất, thì bây giờ chàng trở thành đứa bé thơ ngây, tin mọi thứ tầm phào vậy. 
Tin lời thanh hạ yêu minh 
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng… 
Từ công hờ hẫng biết đâu 
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên 
Những tiếng “hờ hẫng, trễ tràng, ngơ ngác”, Nguyễn Du dùng một cách não nuột quỷ khốc thần sầu. 
Tôi viết vội vã. Tôi không có một ngàn năm ở trước mặt. Nhưng kẻ nào có được trước mặt một ngàn năm, thì hãy thư thả đọc lại Nguyễn Du và sẽ khám phá ra nhiều thứ thiên thu vạn đại khác. Heidegger bảo rằng: “nhà tư tưởng càng hoằng viễn, thì phần vô ngôn trong sách họ càng khôn lường”. Lúc nói câu đó, Heidegger ắt là có nghĩ tới Nguyễn Du vậy. 
Phần vô ngôn khôn lường? Khôn lường đối với mọi người và khôn lường tự mình đối với mình. Người tư tưởng (cũng như thi nhân) không bao giờ lường được hết tư tưởng mình. Đọc tư tưởng, đọc thi ca, từ đó chúng ta chỉ có thể nêu những câu hỏi đại khái kỳ dị như sau: 
1. Vì sao con đường đi trong đó không bằng phẳng? 
2. Đó có phải là một lối cưỡng bức không? 
3. Nguyễn Du đã cưỡng bức đủ điều. Heidegger đi tới đâu cũng cưỡng bức tràn lan tới đó. Cưỡng bức Nietzsche, Rilke. Rồi quay lại tự mình cưỡng bức chính mình. 4. Cổ kim có nhà tư tưởng nào tự mình cưỡng bức mình nhiều như Nietzsche, như Heidegger, như Sade? Sự đó có liên can mật thiết gì tới Khổng Tử, Jésus Christ hay không?... 
Hoài Khanh 
Qua sông là một nhịp cầu 
Qua tôi là một kiếp sầu vô chung 
(“Tự Tình” - Dâng Rừng) 
Thế ra tôi đứng ra để đón lấy kiếp sầu vô chung? Tôi là Tại Thể? Da-sein? Tôi đón lấy sầu kia và thể nghiệm mối tương quan giữa Dasein và Sein? Giữa Tại Thể và Tồn Thể? 
Qua sông là… 
Qua tôi là… 
Thi sĩ hai lần dùng tiếng là. Hai lần dùng tiếng qua. 
Nhịp cầu là cái gì qua sông. Sầu vô chung là cái gì qua tôi. Ông Hedeigger trong cuốn Siêu Hình Học Là Gì, đã từng đem cái sầu, khắc khoải, làm tinh thể của Dasein, trong mối sầu đã “nhảy vọt” một cái, băng qua mọi thể hiện của dung nhật thường lệ, và tiếp giáp với mạch tồn thể uyên nguyên. 
(Đó cũng là mối sầu bàng bạc khắp Truyện Kiều)… 
Nhịp cầu là cái gì giúp qua sông, thì sâu vô chung cũng là cái gì giúp đáo bỉ ngạn. 
Dịch 
Từ trong tinh thể của nó, dịch là tái tạo. Sự ấy dường như quá hiểu nhiên. Ông Nguyễn Du, ông Nguyễn Khắc Hiếu đều tái tạo triệt để trong các bản dịch chuyện Tàu của các ông. 
Nhưng nói gì xa xôi. Thử nói gần gũi hơn. Nếu bây giờ ta đem Truyện Kiều dịch trở lại bằng văn xuôi Việt Ngữ, hoặc bằng thơ thất ngôn, ngũ ngôn, thì ấy cũng là tái tạo. 
Một ca nhi đem một bài ca, ca lên, cũng là tái tạo bài ca. 
Xét cho cùng, mọi hành động và vô vi, cũng là tái tạo. Tái tạo bằng hơi thở riêng biệt một lần. 
Tôi có cảm tưởng rằng lúc thật sự “sáng tạo”, tôi lại cũng đang dịch. Tôi viết vần thơ “độc đáo” nào, cũng là đang dịch. Tôi dịch lại ông Nguyễn Du, ông Hồ Dzếnh. Cũng như ông Nguyễn Du ông Hồ Dzếnh đã từng dịch người trước, và người trước đã từng dịch người xưa, hoặc dịch một cái gì đó ở trong vạn vật đang muốn hiển hiện liên tồn trong âm thanh ngôn ngữ. 
Và những người cho rằng kẻ dịch không có tinh thần sáng tạo, những người ấy cũng đang dịch. 
Vậy bây giờ chúng ta hay thi đua nhau dịch, và thi đua nhau bỏ dở dang cuộc dịch, và đừng thi đua gì hết cả, để cho cuộc dịch tự nó thành tựu thể thân nó. - “Trời có nói gì đâu… bốn mùa vẫn chuyển nhịp tuần hoàn… Trời có nói gì đâu…” (Khổng Tử). 
Kể từ Nguyễn Du và Shakespeare 
Hai ông này giống nhau nhiều nhất ở điểm: nêu sự tình bi đát cùng độ, để thỉnh thoảng cho len lỏi vào những lời thơ phiêu bồng thơ ngây khôn tả. Nghĩa là nói cách khác: nêu ra sự chấn động của toàn khối hiện thể để khiến người ta khơi lại mạch nguồn tồn thể (Đó cũng là dụng ý của Nietzsche). 
Ông Khổng Tử ngày xưa thì lại cố tình che dấu hết mọi cuộc chấn động hỗn độn. Chẳng phải là ông không biết. Ông biết cùng cực nhưng ông không nói - tri hiểu nhi bất ngôn chi. 
Ông Camus Nietzsche cốt cách giống như Khổng Tử, muốn sống và lập ngôn như Khổng Tử, nhưng không thể nào được. Lịch sử đi tới một buổi hoàng hôn riêng biệt. 
Trong nền thi ca Việt hiện đại, Nguyễn Thị Hoàng và Trần Thy Nhã Ca là hai hình ảnh biểu hiện nỗi thống khổ cùng cực của lịch sử nhân loại. Những Thánh Nữ Simone Weil không còn lối bước đành làm miếng mồi mềm mại cho những trận Tẩu Hỏa Nhập Ma. Hình như ngành Y Khoa hiện đại đủ sức trị liệu chứng bệnh đó. 
Dịch 
Từ trong tinh thể nó, Dịch là làm điều cưỡng bức. Dịch văn xuôi là điều cưỡng bức. Dịch thơ lại càng là cưỡng bức triệt để hơn nữa. Đừng nói chi tới sự vụ dịch thơ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Chỉ thử hỏi: Có thể nào đem thơ Việt, dịch ra trở lại làm thơ Việt được không? Có thể nào đem thơ lục bát dịch ra làm thơ thất ngôn, hoặc ngũ ngôn, hoặc song thất lục bát, hay là thơ tám chữ? 
Nói triệt để hơn nữa: Có thể nào đem thơ lục bát dịch trở lại làm thơ lục bát? Chính ông Nguyễn Du, ông có thể nào tự mình đem thơ lục bát của mình dịch trở lại làm thơ lục bát? 
Không. Lời thơ kia chỉ hiện ra một lần trong phong thái riêng biệt của anh hoa phát tiết một lần. Buộc nó phải hiện ra trở lại trong phong thái khác, thì anh hoa tài tử có thể cho phát tiết một lần nữa, nhưng lần sau không còn là lần trước. 
Màu xanh của biển chiều thu năm nay không phải màu xanh của biển chiều thu năm ngoái. Màu xanh biển phút trước, không phải màu xanh biển phút sau. Luôn luôn trong vạn vật cũng như trong sinh hoạt tâm linh, có một trận tái tạo không ngừng. Phải chấp nhận sự đó như là điều hiển nhiên, thì mọi cuộc dịch dy mới có thể còn chút gì chính đáng trong cơn liên tồn cưỡng bức. 
Trái lại, nếu quan niệm hẹp hòi, nếu cho rằng dịch phải thật “sát”, không được cưỡng bức dịch dy, thì mặc nhiên người ta đã cưỡng bức một cách không chính đáng. Vì cuộc cưỡng bức nọ không đưa tới tái tạo tinh hoa, mà dẫn tới nô lệ ngục tù, nghĩa là sát phạt tinh hoa. 
Thử đưa một thí dụ. Truyện Kiều mở ra với bốn câu: 

Trăm năm trong cõi người ta 
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau 
Trải qua một cuộc bể dâu 
Những điều trông thấy mà đau đớn long 
Nếu người dịch là kẻ tài hoa, ắt nhận thấy rằng điều cốt thiết trong mấy câu thơ kia, chẳng phải là cái ý tưởng nó hàm ngụ - ý tưởng “tài mệnh tương xung”, “cõi người ta trăm năm ngắn ngủi”, “cuộc biển dâu thương hải tang điền”… là những ý tưởng sáo. Trái lại, cái chỗ bất tử, cái chỗ huyền diệu của câu thơ kia lại là ở những điệp thanh, điệp âm, đối ngữ… 
Trăm năm - một cuộc - những điều… 
Trong cõi - trải qua - trông thấy… 
Chữ tài - chữ mệnh… 
Khéo là ghét nhau - mà đau đớn lòng… 
Một cuộc tương tranh, một cuộc xô xát, trong một cõi trăm năm, được âm ỷ nêu ra âm thầm triền miên trong những đối ngữ, điệp âm nọ. Đó là cái chỗ thần diệu phát tiết của thơ. Vậy lời dịch làm sao tái lập được cái chất linh diệu đó? 
René Crayssac, ông Trương Cam Vũ, vô tình hoặc hữu ý đã tái tạo được trong hai bản Pháp Ngữ và Hoa Ngữ cái chất thơ âm thầm triền miên trong cốt cách lục bát Việt Nam. Mỗi ông theo mỗi lối, thuận theo tinh hoa ngôn ngữ mình, đã thể hiện trở lại trong bản dịch được chín phần mười tinh hoa ngôn ngữ. 
Hãy xét bốn câu của Trương Cam Vũ trước: 
Nghịch lữ nhân sinh bách tuế trung 
Mệnh tài lưỡng tự xảơ tương xung 
Nhất kinh thương hải tang điền biến 
Mục kích tâm thương kỷ vãng tung 
Có thể nghĩ rằng đó là do ngẫu nhiên mà Việt Ngữ và Hoa Ngữ đã hôn phối chặt chẽ. Cũng có thể nghĩ rằng ấy là do cuộc tương giao hằng bao thế kỷ mà nảy ra kết quả đẹp đẽ kia. Dù sao thì dù, lời thơ dịch đã không bỏ lạc cái cốt yếu trong thơ Nguyễn Du. Xin ghi ra những ngôn ngữ gùn ghè tịch hạp: 
Bách tuế - lưỡng tự - nhất kinh (trăm năm - hai chữ - một trải qua.) Đó là những đối ngữ. Và đây là những điệp thanh: 
Tuế - tài - tự - tương - tang - tâm - tung nhất kinh - mục kích - thương hải - tâm thương… 
Bốn câu dịch bốn câu, Trương Cam Vũ có thể tái lập được chừng đó điểm đặc biệt, lại còn dịch được tiếng “khéo là ghét nhau” ra làm “xảo tương xung” - Thế là người dịch đã thể hội huy hoàng cứu cánh của công việc vậy. Ông vừa thong dong đi sát ý, lại còn thể hiện được viên mãn cái hồn thơ. 
Bây giờ xét tới lời dịch của René Crayssac. Crayssac sử dụng Pháp ngữ, Crayssac không thừa thụ những thuận lợi như Trương Cam Vũ - những thuận lợi do những tương giao lâu ngày giữa Hoa Ngữ và Việt Ngữ đem lại - Crayssac đã phải cưỡng bức như thế nào, theo đường lối nào, trong lời dịch? 
Những đối ngữ đi mật thiết sát gót nhau trong bốn câu nguyên tác, Crayssac không cách gì thể hiện lại được, thì ông thể hiện theo lối khác bằng cách dịch dôi ra và đưa vào những điệp thanh phong phú. Bốn câu của Nguyễn Du, ông phải dịch ra làm mười hai câu cả thảy mới tạm gọi là lột được phần nào tinh hoa nguyên tác: 
Cent ans - le maximum d’une humaine existence! 
S’écoulent rarement sans qu’avect persistance 
Et comme si le Sort jalousait leur bonheur, 
Sur les gens de talent s’abatte le malheur 
Subissant l’âpre loi de la métamorphose, 
On voit naitre et mourir si vite tant de choses! 
Bien peu de temps suffit pour que fatalement 
Surviennent ici-bas d’étranges changement 
Pour que des vert muriers la mer prenne la place 
Tandis que, devant eux, ailleurs, elle s’efface! 
Or, dans un temps si court, ce que l’observateur 
Peut bien voir ne saurait qu’endolorir son coeur. 
Nhận định thấy gì? 
Những tiếng “trăm năm, một cuộc, những điều” của Nguyễn Du không còn có thể đi sát nhau đẻ gùn ghè mật thiết, vì chúng bị loãng mất trong mười hai câu dài dậm duộc. 
Nhưng Crayssac ngược lại đã biết tận dụng những điệp thanh lai láng để thể hiện chất thơ bàng bạc của Nguyễn Du. Xin chép ra đây những âm thanh âm vận láy đi láy lại: 
Cent ans - s’écoulent - sans que - comme si - le sort - sur les - s’abatte - subissant si vite - suffit - surviennent - s’efface - si court - ne saurait - son coeu  
Ngoài ra, những đối ngữ thật sự của Nguyễn Du mà Crayssac không thật sự tái lập được, thì ông cũng đã tái lập đối ngữ theo cách khác: Sans qu’avec - et comme si - Bonheur - malheur 
Nâitre - mourir 
Tant de choses - bien peu de temps 
Prenne la place - elle s’efface 
Trên đây chỉ là một trong muôn ngàn thí dụ khác có thể đưa ra khi bàn tới chuyện dịch. Dù sao, điều cốt yếu, chẳng phải là đạt hay không, có lẽ… Điều cốt yếu, là ý thức về cái chỗ gay cấn kia, lúc khởi sự đọc văn thơ. Thơ Nerval, thơ Apollinaire, Baudelaire, Whitman, Dickinson, Rilke, Nietzsche, Heidegger, vân vân, đã bao phen khiến người dịch đành phải bó tay, bó chân, xin nhảy lùi từng trận. 
Vậy nên kẻ biết dịch là kẻ biết nhảy lùi. Vì dịch là tư tưởng một cách nghiêm mật. Kẻ tư tưởng thâm viễn bao giờ cũng nhảy lùi. Kẻ biết dịch tối cao, là kẻ không bao giờ chịu dịch. Trường hợp buộc phải dịch, thì đành cưỡng bức. Cưỡng bức để đưa tới đề huề. Trường hợp không thể đưa tới đề huề, thì đành tái điệp nhảy lùi, song trùng bỏ cuộc. Bỏ cuộc thì kể cũng đìu hiu. Bèn nhảy vô cuộc trở lại. Rốt cuộc? Rốt cuộc, con người tẩu hỏa nhập ma sa vào giữa một vòng lẩn quẩn kỳ quặc. Trong cái vòng lẩn quẩn kỳ quặc ấy, hốt nhiên lời thơ Nguyễn Du lại thị hiện một cách não nùng: 

Trăm năm trong cõi người ta 
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau 
Trải qua một cuộc bể dâu 
Những điều trông thấy mà đau đớn long 
Thơ Nguyễn Du thị hiện một cách đoạn trường như thế, thì sự cố nào xảy ra cho thằng tài tử? Ấy là sự cố Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn… Mọi bài thơ tôi viết ra, đều là vịnh thơ Nguyễn Du tại chỗ gay cấn âm thầm nhất. Dịch thơ từ đó biến ra làm Vịnh Kiều, trong từng cơn cưỡng bức. Thơ Nguyễn Du cũng là tự mình cưỡng bức mình. Người ta công kích thơ tôi, chẳng qua chỉ vì người ta tưởng rằng tôi làm thơ đưa ra cái gì độc đáo lắm. 
Lại có kẻ cho rằng thơ tôi làm u ẩn, súc tích, hơn thơ Nguyễn Du. Ấy chẳng qua là người ta không chịu đọc thơ Nguyễn Du trong nếp gấp của nguồn thơ ông đấy thôi.  
Bùi Giáng - Thi ca tư tưởng 
Người Tàu dịch Tây 
Có một số ngôn ngữ tôi dùng trong mấy cuốn sách dịch bị độc giả nhận lầm là ngôn ngữ lập dị. Chẳng hạn như: nhị bội, song trùng, tồn lưu, lưu tồn, khiêu dược, phản chạng, tẩu xuất lai, tòng đầu bột khởi, đột nham, sầm lãnh, kiền tình, kiệt tận miên bạc, phục quy, đàn hồi, vô sở thố trí v.v… 
Độc giả tìm trong Tự Điển Hán Việt Đào Duy Anh, có lẽ tìm không thấy. Nhưng trong các Từ Điển Anh Hoa hoặc Đức Hoa lại có đầy đủ. 
Tiện đây xin trích dẫn vài thí dụ rút từ cuốn Deutsches Chinesisches Standard-Handwörterbuch. 
Zweimal: nhị bội, nhị thứ 
Zweifach: nhị bội đích, song trùng đích. 
Zweiachsig: song trục đích, lưỡng trục đích 
Zweiblumig, Zweiblütig: song hoa đích 
Zweideutig: mô lăng lưỡng khả đích 
Zweidoppelt: trùng phục đích; song sinh đích 
Zweieckig: song giác đích 
Zweifächerig: song tế bào đích 
Zweiflüglig: song xí đích; hữu song xí hình đích. 
Zweifrüchtig: song quả đích 
Zweigesang: nhị bội hợp xướng (hoặc hợp tấu) chi ca khúc Zweigestaltig: (đồng chất) nhị hình đích 
Zweihenkelig: song bỉnh đích 
Zweihöckerig: song phong đích 
Zweiseitig: lưỡng diện đích, tương hỗ đích 
Zweisilbig: song âm tiết đích 
Zweistimmig: song âm đích Wieder: tái, phục, trùng tân Wiederanfang: tái hành khai thỉ (thủy), canh thủy, canh tân Wiederholung: thu hồi, thu hoàn, trùng phúc, phục tập Wiederanknüpfen: trùng hành kết hợp, trùng hành liên lạc Wiederanmachen: tái hành hệ phược Wiederanregen: tái hành kích thích, trùng đề 
Wiederanschaffen: trùng hành trù biện 
Wiederauffinden: trùng hoạch, thất nhi phục đắc 
Wiederaufforsten: trùng thực sâm lâm 
Wiederaufgehen: tái khai, trùng khải 
Wiederaufnehmen: tái hành thụ lý, tái hành biện lý 
widerbekehren: tái hành chuyển hoán, trùng hành cải tông wiederberufen: trùng hành chiêu tập 
Wiederbesinnen: tái phản tỉnh, tái hồi tưởng, tái khảo lự Wiederbringen: quy hoàn, đái hoàn, huề hoàn 
Wiedereinbringen: trùng hành bổ nhập 
Wiedererinnern: trùng ức, hồi ức, truy tưởng 
Wiedererzählen: trùng thuật, phục thuật, chuyển thuật Wiedereröffnen: tái khai, trùng khai hành mạc 
Wiedererreichen: tái hành để đạt, tái cập đáo 
Wiedererscheinen: trùng kiến, tái xuất hiện 
Wiedererzeugen: trùng tân sinh sản, tái tạo 
Wiedergewinnen: trùng đắc, trùng hoặch, hoàn nguyên, hồi phục Wiederhervorbringen: sử tái sinh sản, sử tái xuất hiện Wiederhinaufsteigen: trùng hành thượng thăng, tái đăng Wiederhinengehen: trùng hành nhập nội 
Wiederkommen: quy lai, tái lai 
Wiedersagen: trùng thuyết, trùng thuật 
Wiedersammeln: tái tập họp 
Wiederrsuchen: tái tầm mịch 
Wiedervereinigen: tái liên họp, tái đoàn kết, tái hòa hảo Wiederwählen: tái chuyển 
Wiederzulassen: trùng hứa gia nhập, tái hứa nhập nội 
Heraus: hướng ngoại lai, xuất lai
Herausarbeiten: chế tạo xuất lai 
Herausbekommen: miễn lực thủ xuất lai 
Herausbringen: huề đái xuất lai 
Herausfinden: tầm xuất lai, phát hiện xuất lai 
Herausfühlen: cảm giác xuất lai 
Herausgreifen: bạt xuất lai 
Herausgucken: hướng ngoại khuy vọng xuất lai 
Heraushängen: huyền xuất lai, quải xuất lai 
Herausheben: cử xuất lai, đề xuất lai 
Herauslassen: dung hứa xuất lai, thích phóng xuất lai 
Herauslegen: trí ư ngoại biên lai 
Herauslocken: dẫn dụ xuất lai 
Herausmüssen: tất tu xuất lai 
Herausplatzen: bạo liệt xuất lai 

Herauspoltern: hoang trương nhi xuất lai 
Heraussagen: thân thuyết xuất lai, minh ngôn 
Heraussollen: lý ưng xuất lai 
Herausstürzen: phao trịch xuất lai 
Heraustreiben: khu trục xuất lai 
Herauswollen: nguyện ý xuất lai 
Hoài Thanh 
Ngôn ngữ thơ Việt Nam thành tựu bởi Nguyễn Du. Văn xuôi Việt Nam đạt tới cõi thâm viễn với Hoài Thanh. Hoài Thanh bình Kiều, Hoài Thanh viết Thi Nhân Việt Nam, có những lời bất hủ. Thiên tài Hoài Thanh đủ tư cách dựng sừng sững những thiên tài đứng lên chót vót. Và ông mở ra không biết bao nhiêu con đường cho những thi sỹ và phê bình gia đi sau. Dù thỉnh thoảng cũng phải bài bác ông trong phép “cưỡng bức chịu chơi”, nhưng phải nhìn nhận rằng nếu không có Hoài Thanh, thì có lẽ ngày này chúng ta chẳng có thể viết nên một cái gì ra cái gì gì cả? 
Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Trần Đình Đàn… là ba ông thầy cũ của tôi. Ba ông thuộc nòi giáo sư xuất chúng. Rủi thay ngày học với ba ông, tôi đã thuộc Huy Cận, Nguyễn Du, Nerval, nên bài vở nhà trường của các ông chẳng đem lại chút gì đáng kể cho tôi. Nhưng cái phong thái trang nhã thâm viễn của các ông, vô hình trung, lại giúp đỡ tôi rất nhiều. Và vì thế sách vở của các ông, về sau tôi chịu khó đọc chậm rãi. 
Bây giờ các bạn thử tưởng tượng. Nếu không có sách Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim… thì ngày này có quả rằng chúng ta giống như những con gà con mất mẹ. 
Riêng nói về Hoài Thanh, cái tâm hồn thi nhạc nơi ông còn cao xa hơn hầu hết mọi thi sĩ tôi đã gặp. 
Tiện đây tôi xin tặng ông Hoài Thanh một bài thơ. 
Cỗi nguồn quá vắng lặng sao 
Câu kinh trầm thống phương nào dậy tuôn 
Mộng thừa nhị bội bắt buông 
Lừng vang tử trúc điệu buồn như mai 
Đào Duy Anh 
Trong buổi học, Đào Duy Anh trầm giọng buồn buồn bảo học sinh: "Các anh nên nhớ rằng dù tôi có gắng giảng giải cách gì đi nữa, vẫn không thể nào khiến các anh ngờ ra hết những gì huyền diệu trong tác phẩm Nguyễn Du. Ngày sau nếu các anh có thể đi quanh một vòng thi ca thế giới, các anh đón nhận tinh hoa những nguồn thơ lạ thế gian, rồi các anh quay về với Nguyễn Du lúc đầu đã bạc, ngày đó họa chăng các anh mới rõ thiên tài Nguyễn Du cao độ nào." 
Hỏi ông về cuốn sách của Nguyễn Bách Khoa (Nguyễn Du và Truyện Kiều) ông lơ lửng đáp: 
“Nguyễn Bách Khoa có tài, nhưng anh ta mới bước chân vào một vài học thuyết Tây Phương, anh ta say mê quá, tưởng đó là cái gì tân kỳ lắm lắm. Tuổi trẻ có những cái lầm đồ sộ”. 
Tiện đây tôi xin tặng Đào Duy Anh một bài thơ: 
Tiều phu đắn gỗ khô trên núi 
Em bán than gánh củi một vài 
Sau lưng ngày tháng chạy dài 
Trận nhìn tiền diện an bài nắm xương 
Tung bốn vó dặm trường ngựa ruổi 
Mừng sát na theo đuổi máu xuân 
Xương thu tủy hạ luống từng 
Phổi tim quỹ đạo quây quần sang đông 
Khổng Tử 
Chất thơ tiềm ẩn trong ngôn ngữ Đức Khổng quả thực phi phàm. Nhưng muốn nhận ra phải có đủ đầy trăm năm đạo hạnh. Tại hạ chỉ mới có một phần tư rưỡi tuế nguyệt thôi. Nên chẳng thể dám nhận ra. 
Có lẽ một vị bồ tát, một vị linh mục [1] ngày sau sẽ tìm ra cái mạch nguồn âm thầm giao tiếp Dịch Kinh và Evangile, Luận Ngữ và Evangile, Luận Ngữ và Kim Cương Kinh, Dịch Kinh và Holzwege vân vân. 
Ông Lý Bạch 
Nhứt chi nùng diễm lộ ngưng hương 
Vân vũ vu sơn uổng đoạn trường 
Riêng hai câu ấy thôi của ông cũng đủ khiến tại hạ đem Truyện Kiều đề tặng ông chơi một trận. 
Người Trung Hoa đã điên rồ thêu dệt những giai thoại ngơ ngẩn tưởng làm vinh dự cho ông, nhưng thực ra đã bôi nhọ ông một cách cổ kim chưa từng có. Tại hạ đã nhiều phen muốn nêu sự vụ kia ra, những vừa nghĩ tới đã cảm thấy buôn nôn gớm guốc khôn tả. 
Dưới chín suối, ông hãy yên lòng. Bọn thi sĩ ngàn năm sau mãi mãi tự nhiên biết rằng những sự tình kia không hề có thật. Không thể nào thi sĩ như ông lại bắt kẻ khác cởi giày giép cho mình. Còn bài “Phượng Hoàng Đài” ông làm ra không phải vì ganh tài Thôi Hiệu, mà vì tương ứng với Thôi Hiệu. 
Rỡn 
Khổng Tử rỡn dịu dàng bao dong, Shakespeare rỡn toe toét thiên hình vạn trạng, Homère rỡn bát ngát phiêu bồng. Kim Cương Kinh rỡn ôn tồn thân ái, Nguyễn Du rỡn ngậm ngùi, Camus rỡn thống thiết, Malraux rỡn ráo riết chịu chơi.
Xuân Diệu rỡn tào lao, Nerval Huy Cận dường như không thể rỡn, Hồ Xuân Hương rỡm tùm lum, Bà Huyện Thanh Quan không biết rỡn, Nguyễn Thị Hoàng rỡn xót xa, Trang Tử rỡn độc đáo gay cấn, Trần Thy Nhã Ca rỡn như thiên nữ lưu đày, Saint-Exupéry có định rỡn chút ít, nhưng bỗng nhiên dừng lại tê buốt, Gide rỡn ỡm ờ cò ke tỷ mỷ, Sade rỡn điên cuồng. Nietzsche rỡn chết gục, Nguyễn Thị Hoàng rỡn tan hoang, Hồ Xuân Hương rỡn đo rồi đếm, đếm lại đeo, đeo xong thì đắp xéo, Như Lai rỡn từ bi, Jésus Christ rỡn bác ái, Sophocle rỡn trang nhã thâm trầm kỳ tuyệt, Euripide rỡn ẩn ẩn hiện hiện, Ngoạ Long Sinh rỡn u nùng, Kim Dung rỡn bất tuyệt, Hồ Dzếnh rỡn nên thơ chân thiết, Tú Mỡ rỡn như đười ươi, Shakespeare rỡn như phượng hoàng, Nietzsche rỡn tan hoang xương máu, Gide rỡn lúc giật lúc buông lúc chùng lúc thẳng, Tô Man Thu rỡn não nùng, đốt cháy máu tim. Whitman rỡn như thánh hiền thi đua lội bơi với con nít, Apollinaire rỡn như thiên thần yêu dấu gái trần gian, Emily Dickinson rỡn kín đáo thơm tho, Faulkner rỡn cho vừa lòng ma quỷ, Goethe rỡn trung hòa đôn hậu, Heidegger rỡn với phong thái thần thánh đóng vai trịnh trọng giáo sư, Whitman rỡn cho thánh hiền chịu thua con trẻ, Gide rỡn cà gật uyên bác chịu chơi, Apollinare rỡn như dòng suối xuân ghẹo khe mùa thu sầu mộng, Tản Đà rỡn trong từng trận tẩu hỏa nhập ma, Mỹ Nga rỡn thi đua lên thăm chị Nguyệt, Việt Nam ngày xưa biết rỡn, ngày nay hết cơ hội để cùng tứ hải rỡn rồi rồi, Trung Hoa rỡn bất khả tư nghị, ông Kút Xếp rỡn chỉ được một thời gian ngắn, cô Phùng Khánh không thích thiên hạ đùa dai. Vì sao như thế? Vì đùa dai thì cái rỡn ắt biến thành cái rỡmmm… 
Hồ Dzếnh 
Giếng vàng ánh ngọc nghìn xưa 
Giở trang sách cũ hương thừa còn bay 
Mà sao người đó ta đây 
Tình duyên phảng phất như ngày đã xa 
Người về ta mới nhớ ra 
Yêu là thế đấy, mơ là thế thôi 
(“Phong Châu” - Quê Ngoại) 
Lửa thơ bừng cháy giữa đời 
Tình thơ thắm thiết cho người bán mua 
Ý thiêng người thiếu ta thừa 
Nghìn kho ân lộc trăm mùa mạnh Xuân 
Khinh nẻo hẹp, ghét nơi gần 
Mắt xa thẳm hỏi muôn lần dặm băng 
Dẫu tàn trên đỉnh kiêu căng 
Còn hơn muôn thuở cao bằng ngọn cây 
Thơ về nắng sáng lừng lay 
Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra 
Cõi trần vẳng tiếng thiên nga 
Thơ không tuổi ý không già muôn năm 
Gối lên bắc đẩu ta nằm 
Nghe rung chân lạ thơ thần mười phương 
Non cao nên dáng non buồn 
Tuyết sương thắm mãi linh hồn quạnh hiu 
Non tuy run rét bao chiều 
Vẫn đem cao cả tiêu điều gửi mây 
(Hoa Xuân Đất Việt) 
Phạm Thị Lan 
Phạm Thị Lan là em ruột Phạm Quang Bình. Mười lăm tuổi. Làm thơ tuy không vững bằng Phạm Quang Bình, nhưng quả thật cùng nòi thiên tài nhỏ tuổi. Xin chép ra đây hai bài tiêu biểu. 
Chị Hai 
Chị hai xuống chợ tồi tàn 
Ướt hai tấm áo một hàng nước mưa 
Buổi đi sớm, buổi về trưa 
Ướt một tấm áo còn chưa vừa long 
Ở trên tôi tạm nói là “không vững bằng”. Thật ra sao gọi là vững? Sao gọi là không? Chất thơ thiên tài tuổi nhỏ phải là như thế mới được. 
Cô Bạn 
Cô bạn học không thuộc bài 
Nghe mưa nghe nắng thở dài ngoài kia 
Đầu hôm cho đến giữa khuya 
Học bài không thuộc vở bìa giấy khô 
Sợ thầy hay là sợ cô 
Sáng nay không dám bước vô nhà trường 
Đáng lẽ ra, đối với một học sinh còn nhỏ, ta chẳng nên nói với nó rằng nó là thiên tài. Nhưng trường hợp Phạm Thị Lan, thì lại khác. Bảo nó là thiên tài thì nó cười rộ đáp: “Thiên tài hay không, không cần thiết. Cháu chỉ xin bác mua cho cháu một quyển văn phạm thế là đủ”. 
Albert Camus 
Ông nêu vấn đề “cõi phi lý” cốt để nói cái gì khác? Nghĩa là nếu bây giờ ta thật sự muốn mở cuộc đối thoại chân chính với tư tưởng Camus, thì điều trước tiên là phải khai triển phần vô ngôn trong tư tưởng của ông. (Xem mấy quyển Tư Tưởng Hiện Đại). 
“Thoại trung hữu thoại”, lời nói đơn giản đó của người Tàu xưa, dường như tới ngày này vẫn chẳng học giả nào lưu tâm tới. 

Với Camus, với Heidegger vân vân, suốt mấy mươi năm, nói quanh quẩn vẫn không rồi. Heidegger nêu vấn đề Être và étant, vấn đề pensée méditante và pensée calculante, vân vân, ấy là ông muốn nhân đó mà đặt ra vấn đề khác. Nếu chỉ phải phân biệt đơn giản có thế thôi, thì hà tất phải lắm lời - cái “huyền ngoại chi âm” - thì dù tẩu hỏa nhập ma có tự nhận mình rõ biết cái điều Heidegger nói, ta vẫn ù lì nằm vĩnh viễn trong cõi pensée calculante. 
Cái pensée calculante đó đã khiến người ta cứ tiếp tục ngộ giải Camus, Gide, là những nhà tư tưởng tương đối không có quá u uẩn trong phép lập ngôn. Và cho dẫu người ta không ngộ giải một cách quá hồ đồ, dẫu cho người ta thể hội được cái điều Camus Gide muốn nói, người ta cũng chỉ mới thấy cái “đương nhiên” mà chưa nhận ra cái “sở dĩ nhiên” - chỉ tri kỳ đương nhiên, nhi bất tri kỳ sở dĩ nhiên. 
Chung quy vẫn cái pensée calculente cứ ám mãi, ngay trong lúc người ta tuyên bố chống lại nó. 
Bấy giờ nếu chúng ta chịu sực bàng hoàn, chợt hồi tỉnh một chút, thì câu hỏi lù lù hiện ra trong đầu óc máu me, ấy là: - Sao gọi là mệnh đề phụ? 
(Trong mấy tập một vài nhận xét về Truyện Kiều, một vài nhận xét về Lục Vân Tiên - Tân Việt xuất bản 1957 - có vài mệnh đề phụ đồ sộ, mà cho tới ngày nay vẫn chẳng có một ai lưu ý tới). 
Bây giờ nếu thử một phen triệt để dứt khoát với mọi thứ luận lý chi ly của triết học Âu Châu, (chúng cứ ám lấy chúng ta tại chỗ vô hình trung, ngay khi ta nguyền rủa chúng), thật sự thử đọc Camus và những thi sỹ thiên tài Tây Phương hiện đại với những con mắt của những nhà tư tưởng và thi nhân Đông Phương (trong đó có Nguyễn Du), thì mọi nhận định của ta sẽ đổi khác từ ngọn ngành tới cội rễ. Và chúng ta sẽ càng hiểu được nguyên do cuộc lập ngôn tam bành của những ông Nietzsche, và trận cưỡng bức nghiêm mật của những ông Heidegger. 
Người ta không bao giờ thật sự chiêm niệm, nên những điều đơn giản hiển nhiên, đối với người ta cứ như trở thành hồ đồ, không chính xác. Người ta thường chỉ trích tôi tư tưởng võ đoán, không mạch lạc, hoặc sai lệch điểm này, khuyết điểm nhầm lẫn chỗ kia. Không bao giờ người ta giật mình sực tỉnh trong thâm để linh hồn, để thể hội rằng: lúc bo bo công kích theo lối “đam đam khuy tứ” đó, thì chính người ta đã đang chịu làm miếng mồi mềm mại cho cái tinh thần máy móc hỗn độn của chính cái tinh thần duy lý thô thiển mà người ta đang công kích. Cái tư tưởng “calculante” nó luôn luôn còn cò kè xúi giục tủy não người tẩu hỏa nhập ma, bằng một đường lối luẩn quất kỳ dị. Nó cũng có cái tính chất “nhị bội” riêng biệt của nó. Hầu hết những điều Heidegger, Nietzsche, Gide, Camus… đã nói, là nói với Âu Châu Triết học, nơi giữa mảnh đất đai Siêu Hình Học. Thì dù nói cao, dù nói thấp, là chỉ cao thấp đối với Siêu Hình Học Âu Châu, vạch một đường cày trong mảnh đất Âu Châu. Không thể đem ra công kích hoặc tán dương theo lối tư tưởng một chiều, bỏ lạc cái lẽ “sở dĩ nhiên” trong phép lập ngôn của họ. Càng không thể đem ra ca ngợi nhằm chủ đích gián tiếp tàn phá ngôn ngữ bọn tài tử Đông phương. 
Cho đến ngày nay người ta vẫn bảo rằng Nguyễn Du ký thác tâm sự “di thần triều Lê” trong tác phẩm của ông - thì như thế tư tưởng còn bước đi bước đứng như thế nào? Rồi những điều Nguyễn Du nói với ma, thì quỷ lại tưởng là nói với quỷ, lại tưởng là nói với thánh thần. Những ngộ giải chạy tràn lan. Quỷ không hài lòng về Nguyễn Du, thần thánh bực bội vì Nguyễn Du, thánh thần lại hoan hỷ vì Nguyễn Du!!! Thật không còn biết làm sao dò cho ra manh mối. Minotaure tha hồ chạy đú đỡn trong mê cung “hỗn thủy” đó để triệt để “mô ngư, tróc giãi”, từ trong Khung Cửa Hẹp tới mọi lối quanh quẩn của l’Étranger. Trong khi đó, Rilke bó tay, cặm cụi dịch thơ Valéry, dịch văn Gide. Chỉ một mình Rilke biết Gide muốn nói gì trong Khung Cửa Hẹp. Thì Minotaure lại vồ lấy Rilke để nuốt chửng La Porte Étroite. 
Thế thì sao gọi là L’Immoraliste? Gide viết tiếp La Symphonie Pastorale. Camus viết tiếp La Peste. 
Chạy đuổi theo Gide, Camus, Minotaure quay về o bế Walt Whitman. Lợi dụng Lá Cỏ để tàn phá Lá Cồn. Học đòi vài thể điệu Mưa Nguồn để xua đuổi Ngàn Thu Rớt Hột. 
Vậy xin viết vài câu thơ lai rai. 
Hoàng Hậu luống muộn màng Công Chúa 
Nảy hoa xuân cành múa lộn vòng 
Ba thu càng lắc càng đong 
Càn đầy tâm sự cõi lòng càng vơi 
Đỗ Long Vân 
Cuốn sách của ông bàn về Kim Dung nằm trong vùng tư tưởng thâm viễn như cuốn Nho Giáo của Trần Trọng Kim. Chẳng những giúp người Việt Nam hiểu tư tưởng lớn của thiên tài Trung Hoa, mà còn khiến người Trung Hoa, người Đông Phương, Tây Phương nói chung ngày sau sực tỉnh. Tầm quan trọng của cuốn sách kia quả thật rộng rãi không cùng. 

Tôi có thể đưa ra vài nhận định khác của ông ở đôi chi tiết. Nhưng không cần. Điều cốt yếu, ông đã nói xong, và những dư vang vô số sẽ tỏa khắp mọi chốn. Và sẽ còn khiến người ta thể hội cái mạch thẳm trong những tác phẩm của những thiên tài xưa nay, bất luận là Đông Phương hay Tây Phương. 
Sách tôi bị cháy hết, nhưng tôi sẽ tìm riêng cuốn Trương Vô Kỵ Giữa Chúng Ta để đọc lại nhiều lần. Tiện đây tôi xin tặng ông một bài thơ lếu láo: 
Chân hai gót bước đi sè sẹ 
Bác tiều phu có lẽ nào quên 
Lá rừng rậm rạp xuôi nên 
Cây rừng cũng rậm ở trên rú rừng 
Làm học giả nửa chừng biếng nhác 
Vẳng đâu đây câu hát ngày xưa 
Một hai ba bốn khôn người 
Chép lời lá cỏ gọi bừa lá cây. 
Lê Đình Thám 
Ngày xưa ở Huế làm học sinh, tôi có tới chùa Từ Đàm nhìn và nghe ông Lê Đình Thám. 
Về sau lại tình cờ nhìn thấy ông ngồi trên ghe ở một mặt hồ nước vùng núi Vĩnh Trinh. Ông tản cư qua làng tôi một độ. Trông ông như một đạo sỹ ngồi trên ghe tĩnh mịch như Nam Hải Điếu Đồ. 
Tiện đây xin tặng ông một bài thơ: 
Chân người ta gót người ta 
Ma men sờ soạng cá hòa chan chim 
Giây leo giậu đổ bìm bìm 
Chim đêm gọi cá về tìm mưa sa 
Giật mình đếm một hai ba 
Trời xanh Thượng Đế Christ là Jésus 
Trí Hải Ni Cô 
Ngày ông Lê Đình Thám ở chùa Từ Đàm Thừa Thiên, chắc là Trí Hải Ni Cô chưa bao nhiêu tuổi. 
Ngày nay trông ni cô còn đẹp hơn cả mấy người con gái của Ông Lê Đình Thám. Vậy tôi xin tặng ni cô một bài thơ: 
Bạc mệnh diên trường dư nhất nhật 
Tam sinh quyên đảo thất điên tam 
Tiền đường hô hấp hội đàm 
Trùng sinh tâm tự từ đàm tiểu lâm 
Chân bước một tử phần riêng rẽ 
Cánh tung đôi cô lẻ nhạn trời 
Giỏ hoa người hốt nhiên rơi 
Giậy lừng cung bậc ra đời điệu xoang 
Ông Whitman ôi 
Tại hạ làm thở nửa phần giống thơ ông, nửa phần giống thơ ông Dylan Thomas. Nhưng giống theo thể thái bê bối đười ươi chứ không có được cái phong độ thiên tiên cốt cách. Vậy bây giờ tôi cố gắng làm một bài thơ rất mực cốt cách thiên tiên để tặng ông chơi một trận. Tuy nhiên càng hì hục bắt chước thiên tiên càng lộ ra cái nết na đười ươi phong thói. Vậy tôi xin ngậm ngùi dừng bút, chẳng dám ký tên dưới tờ thư cay đắng. 
Nietzsche Hölderlin Rilke 
Rilke may mắn hơn Hölderlin Nietzsche, vì Rilke gặp những bạn bè thiên tài chân thành bắt tay ở Pháp. Trái lại Nietzsche Hölderlin. Hai ông này toàn gặp bạn bè phản phúc. Kẻ chân thành thì tư tưởng lại quá thấp, chẳng hiểu hai ông nói cái gì. Nietzsche rú lên một tiếng. Hölderlin lặng lẽ âm thầm đi vào cõi điên. Trong cõi điên, ắt ông chỉ gặp riêng oan hồn Nerval mà thôi. Chỉ riêng Nerval là kẻ đồng thanh khí, cùng chia với Hölderlin cái thảm kịch dị thường. 
Shakespeare 
Những hài kịch hý hước của ông đã đành là vui đáo để. Nhưng những bi kịch âm u nhất của ông cũng pha cái điệu cười ngầm bất tuyệt. Những nhân vật bê bối nhất cũng chịu chơi trong tấn tuồng quỷ loạn, và có cái vẻ khả ái riêng biệt. 
Cũng vì lẽ đó nên đọc Shakespeare có cái chỗ nguy hại là: sách ông khiến cho người ta mất ngủ trong những trận cười suốt đêm. 
Chỉ riêng một điều: ngôn ngữ Tây Phương không có phép nói lái. Do đó Shakespeare đã tiêu hao tài nghệ trong những trận cưỡng bức dữ dội. Ngôn ngữ không nói lái, mà những Tên Hề của ông, ông buộc chúng phải nói lái bằng bất cứ giá nào. Thì thử hỏi: làm sao thành tựu viên mãn cuộc nói lái cho được? 
Thế mà Shakespeare vẫn cứ thành tựu được cuộc ấy như thường. Có lẽ ông đã tận dụng khả năng Anh ngữ trong cái kho văn chương bình dân bát ngát. Từ đó, những kịch bản của ông vượt hết mọi kịch bản Hy Lạp Eschyle Sophocle Euripide. Bởi vì trong kịch bản của ông có bao hàm mọi thứ dị thường của kịch bản Hy Lạp được đẩy tới tột cùng cuống rốn, mà còn thêm những màu sắc riêng biệt của thiên tài ông, không một thiên tài cổ kim nào bì kịp trong lãnh vực kịch trường. 
Shakespeare có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời - đó là điều mà học giả Tây Phương không thể nào ngờ tới. Mọi sách biên khảo về Shakespeare đều bưng bít trong những nhận định tủn mủn, gò bó trong những nhận xét về tâm lý nhân vật, về nghệ thuật kịch bản - những định kiến bám sâu trong tủy não người học giả Âu châu trải mấy thế kỷ - trong khi anh hoa thiên tài là tái tạo, là tái lập mọi quy chế, là phá vỡ những lề luật vớ vẩn chỉ cần thiết cho bọn tài năng thông thường. 
Những bản dịch Shakespeare ra Pháp ngữ đều chịu đầu hàng vô điều kiện trước phép nói lái của Shakespeare. 
[1] Kim Định chả hạn. 
Nguồn: Bùi Giáng, Thi Ca Tư Tưởng (Sổ đoạn trường - Tức Đi Vào Cõi Thơ cuốn II), Ca Dao xuất bản lần thứ nhất 12/1969, Sài Gòn - Việt Nam. Bản điện tử do talawas thực hiện.
Bùi Giáng
Theo http://vancong.com/ 
                                  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Chùm thơ Phan Thanh Bình: Thơ và thi sĩ Sinh ra không cô đơn, mỗi chúng ta được mười hai bà mụ cầm cho tiếng khóc. Nhưng cuộc đời đẩy ch...