Cách một dòng sông mà đó thương đây nhớ,
Chung một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa
Câu hát dân gian
Chung một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa
Câu hát dân gian
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, nước ta có một sông Gianh làm
ranh giới phân chia Đàng Trong và Đàng Ngoài (1570-1786). Trong thời Trường kỳ
Kháng chiến thay thế cho sông Gianh là sông Bến Hải ở tỉnh Quảng Trị, ranh giới
chia cắt Việt Nam thành hai vùng tập kết quân sự. Phía Bắc là lãnh thổ của Quân
đội Nhân dân Việt Nam. Phía Nam là nơi chiếm cứ Quân đội Liên hiệp Pháp, bao gồm
cả Quân đội Quốc gia Việt Nam. Phía nam vĩ tuyến 17, từ sau khi quân đội Pháp
rút khỏi Đông Dương vào năm 1954 thì chỉ còn chính thức Quân đội Quốc gia Việt
Nam và hoạt động trong bóng tối các lực lượng bán vũ trang, du kích của Việt
Minh, không tập kết ra Bắc vì không chính quy theo quy định Hiệp định Genève.
Năm 1955, Quân lực Việt Nam Cộng hòa kế thừa Quân đội Quốc gia Việt Nam, Quân giải phóng miền Nam được thành lập trên cơ sở các lực lượng bán vũ trang, du kích của Việt Minh trước đây. Sông Bến Hải, còn gọi Rào Thanh, bắt nguồn từ vùng núi Động Chân, chảy theo vĩ truyến 17, thuộc dãy Trường Sơn, từ tây nam sang đông bắc, rồi đổ ra biển ở Cửa Tùng thuộc quận Vĩnh Linh, Quảng Trị. Từ đầu nguồn sông Bến Hải chảy được 80km thì gặp sông Sa Lung từ phía tây bắc đổ vào, hai sông hợp lưu chảy tiếp ra biển, qua làng Minh Lương ở bờ bắc nên có tên là sông Minh Lương. Do phải kiêng húy tên vua Minh Mạng, nên cả tên làng và tên sông đều đổi thành Hiền Lương, cây cầu gần ngã ba sông cũng mang tên là Hiền Lương. Địa danh Bến Hải nguyên là Bến Hói có nghĩa dòng sông nhỏ đọc trạnh ra. Dòng sông dài khoảng 100km, rộng chừng 20m, nơi rộng nhất không quá 200m, được ca tụng trong nhiều bài hát.
Năm 1955, Quân lực Việt Nam Cộng hòa kế thừa Quân đội Quốc gia Việt Nam, Quân giải phóng miền Nam được thành lập trên cơ sở các lực lượng bán vũ trang, du kích của Việt Minh trước đây. Sông Bến Hải, còn gọi Rào Thanh, bắt nguồn từ vùng núi Động Chân, chảy theo vĩ truyến 17, thuộc dãy Trường Sơn, từ tây nam sang đông bắc, rồi đổ ra biển ở Cửa Tùng thuộc quận Vĩnh Linh, Quảng Trị. Từ đầu nguồn sông Bến Hải chảy được 80km thì gặp sông Sa Lung từ phía tây bắc đổ vào, hai sông hợp lưu chảy tiếp ra biển, qua làng Minh Lương ở bờ bắc nên có tên là sông Minh Lương. Do phải kiêng húy tên vua Minh Mạng, nên cả tên làng và tên sông đều đổi thành Hiền Lương, cây cầu gần ngã ba sông cũng mang tên là Hiền Lương. Địa danh Bến Hải nguyên là Bến Hói có nghĩa dòng sông nhỏ đọc trạnh ra. Dòng sông dài khoảng 100km, rộng chừng 20m, nơi rộng nhất không quá 200m, được ca tụng trong nhiều bài hát.
Ngó bên tê Trường Sơn một dải
Nghe bên ni sóng vỗ Cửa Tùng
Vĩnh Linh ơi trăm mến ngàn thương
Quê ta đó đứng đầu sóng gió
Hoàng Vân (Bài ca Vĩnh Linh)
Nghe bên ni sóng vỗ Cửa Tùng
Vĩnh Linh ơi trăm mến ngàn thương
Quê ta đó đứng đầu sóng gió
Hoàng Vân (Bài ca Vĩnh Linh)
Hồi trước chưa có cầu, qua sông phải dùng phà, mãi
đến năm 1928 mới được xây dựng nhờ đóng góp công sức của nhân dân. Qua năm
1943, cầu được nâng cấp để xe cơ giới loại nhỏ có thể qua được. Năm 1950, do
nhu cầu quân sự, Pháp cho xây dựng lại cầu bằng bê tông cốt thép, dài 162m, rộng
3,6m trọng tải 10 tấn. Hai năm sau cầu bị Việt Minh đánh sập, Pháp cho xây lại
dài hơn, hai bên cầu có thành chắn cao 1,2m, trọng tấn 18 tấn. Chiếc cầu nầy tồn
tại được 15 năm thì bị bom Mỹ đánh sập. Sau một thời gian hai năm tạm dùng cầu
phao thay thế, năm 1974 chính quyền Việt Nam cho xây dựng lại cầu, lần nầy dài
186m, rộng 9m, có hành lang 1,2m cho người đi bộ. Sau khi hòa bình lập lại, cầu
cũ xuống cấp nghiêm trong, năm 1996, bộ Giao thông Vận tải cho xây một chiếc mới
dài 230m rộng 11,5m. Đặc biệt phương pháp hiện đại đúc đẩy lần đầu tiên được áp
dụng tại Việt Nam. Năm 2001 một chứng tích lịch sử là chiếc cầu sắt 1952 được
phục chế lại nguyên bản. Khánh thành công trình phục chế được tổ chức ngày
18.05.2003 tại Quảng Trị, cầu bây giờ dài 183m, gồm 7 nhịp, mặt lát gỗ lim. Sau
khi thiết lập ranh giới phi quân sự theo hiệp định Genève, Quân đội Nhân dân Việt
Nam từ miền Nam phải tập kết ra Bắc nhưng lực lượng bán vũ trang và lực lượng
chính trị được tập trung tại chỗ, quân đội Pháp từ miền Bắc phải tập kết vào
Nam. Giữa hai quân đội vùng 5 km từ mỗi bên Sông Bến Hải được sử dụng làm vùng
đệm nhằm tránh sự xung đột có thể xảy ra giữa hai bên. Điều khoản khu phi
quân sự và giới tuyến quân sự này chỉ có giá trị lý thuyết trong vòng hai
năm,1954-1956, vì sau đó sẽ tổ chức cuộc tổng tuyển cử để hoàn toàn thống nhất
đất nước. Nhưng năm 1956, tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Ðình Diệm, lên cầm
quyền sau một cuộc trưng cầu dân ý, từ chối không tham gia cuộc tổng tuyển cử
cho nên sông Bến Hải tiếp tục chia cắt đất nước và làm ly tán nhiều gia đình ở
hai miền Việt Nam. Hiền Lương đã trở thành biểu tượng của sự cách trở, chờ đợi,
ngóng trông, chia ly và nỗi đau mất mát... Đôi bờ Bến Hải đã trở thành nhân
chứng lịch sử, mang trên mình nỗi đau chia cắt đất nước, nơi đã chứng kiến nhiều
cảnh vô cùng tang tóc, đau thương và cũng là nơi chịu hậu quả nặng nề và tàn khốc.
Đây là nơi trục xuất ra Bắc giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ và bác sĩ thú y Phạm Văn
Huyến năm 1965.
Hai bên bờ sông Bến Hải vì có hai chính quyền đối lập giáp
nhau cho nên cầu Hiền Lương trở thành trung khu tranh chấp, không những quân sụ
mà còn về những mặt khác. Ngay chuyện màu sắc là cả một vấn đề. Ở đoạn giữa cầu
có một vạch trắng kẻ ngang, rộng 1cm, được dùng làm ranh giới. Thoạt đầu Việt
Nam Cộng hòa chủ động sơn một nửa cầu phía nam màu xanh, Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa liền sơn tiếp màu xanh một nửa cầu còn lại. Sau Việt Nam Cộng hòa lại chuyển
sang màu nâu thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng sơn lại màu nâu. Cứ như thế, cầu
Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc, hễ Việt Nam Cộng hòa sơn một màu khác đi để tạo
ra hai màu đối lập thì ngay lập tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liền sơn lại cho
giống. Cuối cùng vào năm 1975, cây cầu có chung một màu xanh thống nhất. Một thời
sau 1954 tiếng súng vừa chấm dứt, tiếng loa rầm rộ, căng thẳng thay thế. Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa cho xây dựng một hệ thống loa phóng thanh được phân bố
thành 5 cụm trong chiều dài 1.500m ở bờ Bắc, mỗi cụm gồm 24 loa có công suất
25W. Hệ thống loa phóng thanh này không đủ mạnh để át được các loa do Tây Ðức
và Úc cung cấp phát với âm thanh lớn hơn của chính quyền Việt Nam Cộng hoà.
Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trả đũa bằng cách tăng thêm 8 loa công suất
50W và 1 loa công suất 250W được viện trợ từ Liên Xô. Ngay sau đó, chính quyền
Việt Nam Cộng hòa lại được Mỹ viện trợ cho những loại loa tối tân hơn, vang xa
hàng chục cây số. Vào đầu năm 1960, một giàn loa của Mỹ với công suất mỗi loa
lên tới hàng trăm oát được chuyển đến và đặt tại bờ Nam sông Bến Hải. Không chịu
thua, lúc bấy giờ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lắp đặt chiếc loa có
công suất 500W với đường kính rộng đến 1,7m và bổ sung thêm 20 loa loại 50W, 4
loa loại 250W của Liên Xô tại chiến tuyến Bến Hải. Khi thuận gió, tiếng loa có
thể truyền xa hơn 10km. Ðể có đủ điện cho hệ thống loa có tổng công suất 7.000W
này hoạt động...
Sau tranh chấp màu sắc, cuộc đấu khẩu tiếng loa giữa
hai phía qua hệ thống loa là những lời tuyên truyền chính trị chỉ trích đối
phương, thường là những tin không có lợi hoặc có thể trái ngược với thực trạng.
Mỗi ngày buổi phát thanh kéo dài 14-15 tiếng đồng hồ, có khi phát vào lúc 1 - 2
giờ sáng, mở hết công suất làm người dân cả hai bờ đều nghe thấy. Song song với tranh
chấp màu sắc và cuộc đấu khẩu tiếng loa, còn có cuộc tranh
thủ hào hứng treo cờ thường được gọi chọi cờ giới tuyến. Lúc đầu chính quyền
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho làm một cột cờ bằng cây phi lao cao 12m để treo một
lá cờ có khổ 3,2m x 4,8m. Ở bờ Nam, Pháp cắm cờ tam tài lên nóc lô cốt Xuân Hòa cao 15m. Theo yêu cầu của nhân dân giới tuyến, binh lính chính quyền Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã vào rừng sâu để tìm bằng được một cây gỗ cao 18m, cao hơn cột
cờ của Pháp 3m và treo một lá cờ bằng vải sa tanh rộng 24m. Ngay sau đó, chính
quyền miền Nam đã cho dựng một trụ cờ bằng xi măng cốt thép cao 30m tại bờ Nam,
trên đỉnh treo một lá cờ Việt Nam Cộng hòa lớn, có hệ thống đèn huỳnh quang nhấp
nháy đủ màu. Khi dựng cờ xong, họ cho loa chiến tranh tâm lý hướng sang bờ Bắc
tuyên truyền: Tổng thống Việt Nam Cộng hòa cho dựng cột cờ cao 30m ở Vĩ
tuyến 17 để dân chúng miền Bắc thấy rõ chánh nghĩa Quốc gia. Năm 1957,
chính quyền miền Bắc dựng lên một cột cờ bằng thép ống cao 34,5m mang trên đỉnh
một ngôi sao bằng đồng đường kính 1,2m, 5 gắn thêm một chùm bóng điện loại
500W, lá cờ rộng 108m2. Trước sự kiện này Chính quyền miền Nam xây tiếp cột cờ của
họ lên thành 35m và cất loa: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muốn chọi cờ nhưng
chọi sao nổi với Quốc gia.Năm 1962, một cột cờ cao 38,6m kéo lên lá cờ đại
134m2, nặng 15kg ở miền Nam được xem là cột cờ cao nhất giới tuyến Ngày
8-02-1965, tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ đã lái chiếc máy bay AD6 bắn phá cột
cờ, nhưng pháo cao xạ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắn trả bị thương.Mặc dù Việt
Nam Cộng hòa huy động hàng trăm chiếc máy bay ném bom và hàng vạn đạn pháo cỡ lớn
từ Dốc Miếu, Cồn Tiên bắn ra, từ Hạm đội 7 ngoài biển bắn vào, nhưng vẫn không
thể làm sập được cột cờ ở bờ bắc sông Bến Hải. Ðến ngày 2-8-1967, họ lại tập
trung nhiều tốp máy bay thay nhau đánh phá liên tục suốt ngày làm cho cột cờ của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị gãy và đánh sập cầu Hiền Lương. Tối hôm đó, loa của
Việt Nam Cộng hòa loan rằng: Cột cờ của Bắc Việt trên đầu cầu Hiền Lương
đã bị không lực Hoa Kỳ đánh tan tành tro bụi. Nhưng ngay đêm hôm đó, một cột cờ
mới được dựng lên. Sáng hôm sau, trong lúc loa Việt Nam Cộng hòa đang đọc bản
tin thì lá cờ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục xuất hiện...
Như bao mảnh đất khác ở khắp vùng đất nước, khi hai miền bị
chia cắt trong cuộc chiến thì dòng sông Bến Hải và mảnh đất đôi bờ trở nên nổi
tiếng. Đôi bờ Hiền Lương đã trở thành nhân chứng lịch sử trên 20 năm
mang trên mình nỗi đau chia cắt đất nước: cụm di tích gồm tại đôi bờ Hiền
Lương: cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, cột cờ ở bờ Bắc, nhà Liên hợp, Đồn công an
giới tuyến, giàn loa phóng thanh, cụm tượng đài Khát vọng thống nhất ở bờ Nam,
Nhà Bảo tàng Vĩ tuyến 17. Một dòng sông rộng không quá 100m, một chiếc cầu dài
178m bắc qua mà dân tộc Việt Nam ta phải đi suốt hơn 20 năm ròng, cống hiến
không biết bao xương máu. Có những trận chiến ác liệt với bom đạn, và ở đó cũng
có cả những trận chiến ác liệt nhưng không một tiếng súng. Tại khu di tích, hiện
vật nổi tiếng không chỉ có những chiếc loa mà còn cờ Tổ quốc. Tính từ năm 1956
đến năm 1967, các chiến sĩ công an giới tuyến đã treo hết 267 lá cờ các cỡ. Lá
cờ to áp đảo, cao lớn nhất vĩ tuyến 17 của miền bắc rộng 134m2, nặng 15kg, cao
38,6m. Những năm tháng ấy, cột cờ và lá cờ là biểu tượng của dân tộc đã đứng vững
dưới mưa bom bão đạn, nhằm động viên, cổ vũ nhân dân trong cuộc đấu tranh sinh
tử với đối phương. Chỉ việc bảo vệ cờ, các chiến sĩ Ðồn Công an vũ trang Hiền
Lương đã chiến đấu hàng trăm trận, ba lần bắt sống và truy đuổi đội biệt kích
thám báo vượt sông đặt mìn định phá hoại cột cờ. Có lần đứng bên dòng sông Bến
Hải, một cựu binh giới tuyến của Công an vũ trang Vĩnh Linh năm xưa, được đưa
vào tham quan chiến trường xưa đứng nghiêm trang ngắm lá cờ bay phấp phới trên
cột cờ đầu cầu Hiền Lương, người rưng rưng lệ bồi hồi: Sông Bến Hải, cầu Hiền
Lương là nơi chứng kiến nỗi đau chia cắt của đất nước và cũng là nơi chịu hậu
quả nặng nề và tàn khốc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Và một người
cựu binh tự hào đã có mặt tại đây vào thời điểm những năm tháng khốc liệt nhất
của chiến tran lịch sử đã chọn Quảng Trị làm nơi đối đầu của một cuộc chiến
tranh mang tầm vóc thời đại, một mất một còn giữa chính nghĩa và phi nghĩa.
Ngày 9-12-2013, Phó Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định xếp hạng Di tích lịch
sử Ðôi bờ Hiền Lương - Bến Hải thuộc huyện Vĩnh Linh và Gio Linh, tỉnh Quảng Trị
là Di tích quốc gia đặc biệt đợt 4 cùng với 13 di tích khác trên cả nước. Ngày
nay, ở bờ Nam sông Bến Hải có một tượng đài với tên gọi: Khát vọng thống
nhất non sông. Tượng đài có hình dáng của một thiếu phụ đang đứng ở bờ Nam sông
Bến Hải nhìn về phía Bắc để tưởng nhớ những ngày tháng đau thương khi họ không
thể vượt sông để gặp chồng và người thân.
Ðiển hình là câu chuyện đêm nằm không ngủ của nhạc sĩ Hoàng
Hiệp, tức Lưu Trần Nghiệp, sinh năm 1931 ở Mỹ Hiệp, Chợ Mới, An Giang, mất năm
2013 tại Tp. Hồ Chí Minh. Anh là tác giả bài hát xúc động, mủi lòng Câu hò bên
bờ Hiền Lương (chữ không phải bến, theo ca sĩ Văn Hanh), lời của
Ðằng Giao. Anh đă sáng tác nhiều khúc trên đề tài giải phóng miền Nam, đấu
tranh thống nhất đất nước, tỏ lộ tâm tình của người lính xa nhà; trước giải
phóng: Trường Sơn Ðông - Trường Sơn Tây, Ngọc đèn đứng gác, Mùa chim én,
bay;... sau giải, phóng: Con đường có lá me bay, Mơ về Hà Nội, Trở về dòng
sông tuổi thơ... Trên bờ sông Bến Hải chia đôi đất nước, anh liên tưởng đến những
ngày xuống ghe lên tàu ra Bắc tập kết rồi không được tin ba má và các em sau gần
chín năm xa cách. Những ngày đầu ở phía Bắc bờ Bên Hái, anh sống trong một đồn
biên phòng nằm cách cầu Hiền Lương chừng trăm thước. Ban ngày, anh đội mưa đi dọc
theo bờ sông, đôi mắt đăm đăm nhìn sang bờ Nam. Anh bắt gặp nhiều em, nhiều chị
từ bên ấy, hình như cũng nhìn thấy anh nên giả đò ra song rửa chân tay để được
nhìn lại anh. Chắc họ muốn nhận coi anh có phải là người thân hay người quen
cùng làng đã đi tập kết. Một lần nữa, anh lại bước ra hiên đồn, nhìn về phía cầu
Hiền Lương, chiếc cầu ban chiều anh đã đặt chân lên đó. Tuy nhiên, anh chỉ được
phép đi ở nửa cầu phía Bắc, vì nửa kia là thuộc về miền Nam. Cây cầu lúc này
đang bị màn mưa che phủ, như ẩn như hiện, như thực như hư. Dầu vậy, nó vẫn là vật
biểu hiện cụ thể nhất của sự chia cắt. Anh đâu có hi vọng gặp được người quen ở
chốn này bởi vì quê anh ở tận cùng phía Nam đất nước. Xóm làng, chợ búa ở đây
cũng không giống như ở quê anh. Mặc dầu vậy, anh vẫn cố nhìn, cố nhận dạng những
hình vóc, những gương mặt mà anh cảm thấy rất gần gũi, yêu thương. Và trong
lòng thầm nhủ biết đâu đấy. Ban đêm, anh hỏi chuyện các chiến sĩ biên
phòng. Những người này cũng chỉ cho anh biết những tin tức mà anh đã nghe qua.
Đồn này quá ít người. Họ lại thay phiên nhau đi làm nhiệm vụ luôn. Họ còn là những
người rất ít lời. Hết nằm xuống, anh lại ngồi dậy vì giấc ngủ không chịu đến với
anh.
Nhạc sĩ Hoàng Hiệp (áo trắng giữa) Ca sĩ Văn Hanh
Chuyện cảm động quanh cầu Hiền Lương không ít. Được kể nhiều
là chuyện bà mẹ nghèo Nguyễn thị Diệm ở thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành. Đêm đêm
trong hầm nhà đen tối, dưới ánh ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn đèn dầu leo lút, mẹ
ngồi vá lá cờ Tổ quốc rách nhiều chỗ vì luôn tung bay trong gió. Lá cờ rộng 108
mét vuông, nặng lắm trong tay mẹ đã già, tay run rẩy, mắt mờ nhòa, nhưng mẹ cứ
miệt mài vá đêm này qua đêm khác cho đến khi cờ hết rách. Bà hãnh diện nhìn lá
cờ tung bay trên cột cờ cao 34,5m và chắc chắn bên kia bờ đồng bào sáng sáng ra
sông gành nước cũng cùng nhau nhìn cờ, nghĩ đất nước rất gần gũi, bom đạn không
thể nào làm sờn lòng những con người quyết chí một ngay gần đây thành công sum
họp. Nay mẹ không còn nữa để chia vui với bà con đồng bào. Nhưng cũng có những
chuyện tình êm ấm đi đến một kết cầu dịu đẹp. Đấy là chuyện cặp vợ chồng Trần
Ngọc Châu - Nguyễn Thị Định. Quen nhau từ thuở mới biết yêu, nhưng họ chưa chịu lấy
nhau ngay, hứa hẹn đến khi nào, kháng chiến thành công sẽ cùng nhau xây dựng tổ
ấm, nghĩ chỉ là chuyện vài năm. Nhưng chiến tranh kéo dài, anh lại phải tập kết
ra Bắc, chị ở lại trong Nam, ngày ngày trong ngóng. Thế là mặc dầu nhiều khó
khăn, cản trở, họ không muốn chờ đợi nữa và quyết đinh cưới nhau. Anh vượt dòng
Bến Hải sang bờ Nam nói là để thăm gia đình. Chĩnh quyền miền Nam không chịu
cho làm đám cưới đàng hoàng, không có nạp thái, vấn danh, đính hôn, bỏ trầu,... và
nhất là lễ đón dâu về nhà trai vì phải khai báo với chính quyền. Gia đình giả
đò tổ chúc một buổi kỵ giỗ và mời bà con làng xóm. Cô dâu chú rễ không mặc áo
cưới, lúc sắp đón dâu thì chú rễ phải trèo lên trốn trên sân thượng. Cô dâu một
mình quỳ lạy mà nước mắt đầm đìa, tiếp theo là cả nhà theo khóc như một đám
tang. Ngay tối hôm đó chú rễ lại phải vượt sông về bờ Bắc. Vợ chồng xa nhau ngay
từ hôm cưới. Ngày ngày chị ra bờ sông giặt giũ hay mò cua bắt ốc may được thấy
chồng bên kia bờ sông. Và cứ như thế 13 năm ròng cho đến ngày đất nước thống nhất
mới được đoàn tụ. Chuyện tình thê thảm đánh dấu tình trạng thảm thương mà dòng
sông Bến Hải chia cắt đất nước vô tình gây nên.
1.
Bên ven bờ Hiền Lương chiều nay ra đứng trông về
Mắt đượm tình quê, đôi mắt đượm tình quê
Xa xa đoàn thuyền nan buồm căng theo gió xuôi dòng
Bỗng trong sương mờ không gian trầm lặng nghe câu hò.
Bên ven bờ Hiền Lương chiều nay ra đứng trông về
Mắt đượm tình quê, đôi mắt đượm tình quê
Xa xa đoàn thuyền nan buồm căng theo gió xuôi dòng
Bỗng trong sương mờ không gian trầm lặng nghe câu hò.
[ÐK1:]
Hò ơi, ơi thuyền ơi, thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Nhắn ai gìn giữ câu nguyền trong cơn bão tố
Vững bền lòng son. Ơi câu hò chiều nay sao mang nặng tình ai
Ơi câu hò chiều nay sao mang nặng tình ai
Hay là em bên ấy trong phút giây nhớ nhung trào sôi
Gởi lời tin theo gió qua mấy câu thiết tha hò ơi.
Hò ơi, ơi thuyền ơi, thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Nhắn ai gìn giữ câu nguyền trong cơn bão tố
Vững bền lòng son. Ơi câu hò chiều nay sao mang nặng tình ai
Ơi câu hò chiều nay sao mang nặng tình ai
Hay là em bên ấy trong phút giây nhớ nhung trào sôi
Gởi lời tin theo gió qua mấy câu thiết tha hò ơi.
2.
Trông qua rặng Trường Sơn, miền quê xa khuất chân trời
Mây lặng lờ trôi, mây đen lặng lờ trôi
Xa xa một đàn chim, so mây dang cánh lưng trời
Hỡi chim hãy dừng cho ta gửi đến phương xa vời.
Trông qua rặng Trường Sơn, miền quê xa khuất chân trời
Mây lặng lờ trôi, mây đen lặng lờ trôi
Xa xa một đàn chim, so mây dang cánh lưng trời
Hỡi chim hãy dừng cho ta gửi đến phương xa vời.
[ĐK2:]
Hò ơi, ơi dù cho, dù cho bến cách sông ngăn
Dễ gì chặn được duyên anh với nàng
Rẽ mây cho sáng trăng vàng
Khai sông nối bến cho nàng về anh.
Ơi câu hò chiều nay tôi mang nặng tình ai
Nơi miền quê xa vắng em có nghe thấu cho lòng anh
Tình này ta xây đắp nên thủy chung không bao giờ phai.
Hò ơi, ơi dù cho, dù cho bến cách sông ngăn
Dễ gì chặn được duyên anh với nàng
Rẽ mây cho sáng trăng vàng
Khai sông nối bến cho nàng về anh.
Ơi câu hò chiều nay tôi mang nặng tình ai
Nơi miền quê xa vắng em có nghe thấu cho lòng anh
Tình này ta xây đắp nên thủy chung không bao giờ phai.
Bà mẹ Nguyễn Thị Diệm vá lá cờ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét